THỊ XÃ VÙNG BIÊN
Tiểu thuyết phản gián
Tác giả: MAI NGỮ
NXB QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
1987
PHẦN THỨ NHẤT
1- Trong bản lý lịch cán bộ của tôi hiện cơ quan tổ chức đang giữ có
ghi rõ:
Họ và tên khai sinh: Trương Hồng Đạt.
Họ và tên thường dùng: Trương Đạt.
Ngày sinh: 7-10-1927.
Sinh quán: tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc.
Trú quán: thị xã Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.
Thành phần xuất thân: bần nông.
Thành phần bản thân: cán bộ cách mạng.
Ngày vào Đảng: 15-3-1953.
Ngày chính thức: 25-10-1953
Tôn giáo: không.
Dân tộc: Hoa.
Chức vụ hiện nay: Phó trưởng ty Lâm nghiệp.
…………..…………..
Trong phần tự kể chuyện, về bản thân, tôi viết tóm tắt như sau:
“Tôi sinh ra trong một gia đình bần nông thuộc tỉnh Phúc Kiến (Trung
Quốc). Cha mẹ tôi rất nghèo, lại đông con, tôi là con thứ sáu và dưới tôi còn
ba em nữa nên nhà chẳng bao giờ đủ ăn. Năm tôi lên 10 tuổi, cha mẹ bán tôi cho
một gia đình bác họ tên là Trương Sinh Hoàng có cửa hàng bán thuốc bắc ở ngoài
tỉnh. Tôi sống trong gia đình bác tôi, tuy phải làm ăn vất vả nhưng cũng được
đi học hết bậc tiểu học. Năm 1940, chiến sự nổ ra ác liệt ở nhiều nơi trên đất
Trung Quốc, mùa màng mất, giặc giã nổi lên, việc buôn bán rất khó khăn, gia
đình bác tôi đã cùng nhiều người Trung Quốc khác chạy loạn sang Việt Nam tìm
nơi sinh sống. Được bà con Hoa kiều giúp đỡ, bác tôi mở cửa hàng thuốc bắc ở phố
Phúc Kiến (nay là phố Hàng Gà), Hà Nội. Ở đây, tôi được giao làm những công việc
vặt trong nhà như: đóng, mở cửa hàng, quét dọn nhà cửa và thỉnh thoảng đem thuốc
đến cho các khách quen… Đến năm 1943, sau ba năm sống ở Hà Nội, gia đình bác
tôi lại di chuyển vào Nam, đến định cư tại thị xã Quy Nhơn vì ở đó cũng có nhiều
Hoa kiều cùng quê Phúc Kiến. Những người này rất nhiệt tình giúp đồng hương từ
đồng vốn ban đầu. Nhờ đó, gia đình bác tôi lại có thể tiếp tục mở cửa hàng thuốc
bắc, bác tôi còn đi thăm bệnh, bắt mạch kê đơn bốc thuốc. Năm ấy tôi đã 17 tuổi,
bắt đầu bước vào tuổi thanh niên. Nhưng tôi đã sớm nhận thức được cảnh ngộ của
mình nên rất chí thú vừa làm vừa cố gắng học lên bậc trung học, đòng thời còn học
thêm tiếng Pháp và tiếng Anh. Thời gian này, bác tôi cũng đã tin cậy tôi, giao
cho tôi việc giao dịch tiếp xúc với khách hàng và trông nom sổ sách. Trong số
thanh niên ở thị xã, tôi được tiếng là người đứng đắn, không chơi bời lại chịu
khó làm ăn và học hành. Vì vậy ngay sau khi cách mạng thành công, tôi được bà
con Hoa kiều tín nhiệm bầu làm đại diện trong Mặt trận Liên Việt tỉnh. Khi cuộc
kháng chiến toàn quốc bùng nổ, tôi thoát ly gia đình và theo bộ đội rút khỏi thị
xã. Tôi tham gia trong ban Hoa vận của tỉnh, sau đó chuyển về làm công tác binh
vận (vì tôi biết tiếng Pháp và tiếng Anh) thuộc ban cán sự tỉnh. Cuối năm 1953,
tôi được tập kết ra Bắc, được phân công công tác về tỉnh Hồng Quảng, làm việc
bên Ty Nông Lâm tỉnh. Năm 1957, tôi lập gia đình với cô giáo Nguyễn Kim Liên dạy
học ở Quảng Yên. Sau đó, tôi được đi học trường Bổ túc Công nông, ôn lại chương
trình lớp 10 và thi vào trường đại học Nông Lâm. Tốt nghiệp xong, tôi lại được
điều về tỉnh Quảng Ninh làm trưởng phòng lâm nghiệp huyện Tiên Yên. Đầu năm
1966, tôi chuyển công tác về tỉnh Cao Bằng, làm Phó trưởng ty Lâm nghiệp tỉnh
cho đến ngày nay…
Hiện nay, gia đình tôi ở số nhà… phố… thị xã Cao Bằng. Vợ tôi dạy học
tại trường cấp II thị xã. Chúng tôi có một con gái sinh năm 1957 tên là Trương
Tú Hoa, hiện đang học lớp ba…
………………….
*****
Bản lý lịch này tôi mới viết lại vào năm 1966, khi tôi nhận được quyết
định chuyển công tác về tỉnh Cao Bằng. Tôi viết với sự góp ý của anh. Tôi đã gặp
lại anh sau một thời gian khá dài từ ngày mới tập kết ra Bắc. Tôi nhớ hồi đó,
sau khi từ Hồng Quảng về, tôi được đi học ở trường Bổ túc Công nông, ôn lại
chương trình lớp 10 để chuẩn bị thi vào trường đại học Nông Lâm.
Hôm đó vào buổi chiều thứ bảy, tôi dắt xe đạp ra cổng trường định về
Hà Nội chơi, nhân thể đến thăm vài gia đình bè bạn. Tôi ra đến phòng thường trực
đã thấy có người đứng đợi ở đó. Nhận ra anh, tôi mừng đến ứa nước mắt vì đã năm
năm rồi không gặp anh, tôi toàn sống cô độc, chỉ có anh tôi mới có thể bộc lộ hết
những tâm trạng thật của mình. Hồi ở Khu 5, tổ chức đã quyết định tôi và anh
cùng ở lại miền Nam để hoạt động. Nhưng sau đó lại có quyết định khác và cả hai
chúng tôi đều được đi tập kết. Tôi ra chuyến trước còn anh mãi chuyến tàu cuối
cùng mới ra theo. Hồi đó anh có đến thăm tôi tại Sầm Sơn, hai chúng tôi ngồi
nói chuyện với nhau trên bãi biển.. Rồi anh từ biệt tôi, anh phải về thẳng Hà Nội.
Ít ngày sau tôi cũng rời khỏi khu nghỉ đó và được nhận công tác ở Hồng Quảng,
làm một anh cán bộ lâm nghiệp như trong lý lịch đã ghi rõ… Hơn năm năm rồi, chúng
tôi mới lại gặp nhau. Chừng anh cũng cảm động khi trông thấy tôi, anh phải bỏ cặp
kính cận ra, lấy khăn lau thật kỹ rồi mới đeo lên mắt. Anh nắm lấy tay tôi, giọng
trìu mến thân thiết:
- Mình xin lỗi vì đến tận hôm
nay mới tìm đến cậu…
- Anh làm tôi mong anh gần chết…
Sau ngày ở Sầm Sơn, tôi chỉ nhận được mỗi lá thư của anh rồi bặt tin luôn. Tôi
nghĩ anh quên tôi rồi…
Anh bảo tôi cất xe đạp rồi cùng đi với anh, hai chúng tôi lững thững
trên bờ đê sông Hồng. Tôi hồi hộp đợi anh nói bởi tôi đã chờ đợi lâu quá rồi
còn gì.
- Mình đã định đến gặp cậu mấy lần nhưng bận quá, hết việc này đến việc
khác. Hòa bình rồi, công việc của bọn mình rất bề bộn, có bao nhiêu điều phải
giải quyết… Rồi mình lại được đi học trường Đảng hai năm, vừa học xong… Tuy
mình không gặp cậu nhưng từ ngày ấy đến nay, cậu ở đâu và làm gì, mình đều biết
cả…
- Anh vẫn theo dõi bước đi của tôi?
- Sao lại không? Cậu hỏi gì mà lạ thế? Vừa là trách nhiệm vừa là tình
nghĩa, cậu hiểu chứ? Mình cũng đã góp ý với tổ chức về việc bố trí công tác của
cậu sao cho hợp lý.
- Suốt từ ngày ra đây, tôi toàn nằm rừng thôi. Mấy năm trước, tôi cứ
quẩn quanh ở mạn Hoành Bồ, rồi Tiên Yên, Đầm Hà. Mà tôi có thạo gì về nghề rừng
đâu, các ông ấy lại định cho tôi thi vào trường Nông Lâm?
Anh cười rất thoải mái:
- Cậu đừng lo, cứ yên tâm về sự sắp đặt của tổ chức. Cậu đã qua một thời
gian công tác lâm nghiệp, chắc cậu biết về nghề trồng rừng, nhất là việc trồng
cây lấy gỗ. Không phải chỉ trồng một hai năm mà thành gỗ, các loại gỗ quý như
lim, táu, gụ, sến chẳng hạn thì phải đợi hàng chục, hàng vài chục năm ấy chứ… Cậu
chính là loại gỗ hiếm ấy đấy, chúng mình không thể sắp xếp cậu vào những việc vớ
vẩn được…
Anh im lặng như để cho tôi đủ thời gian hiểu thấu ý tứ câu nói của
anh. Đột nhiên anh hỏi:
- Này, hồi vừa rồi, cậu tiếp xúc với bà con người Hoa ở Hải Ninh, cậu
có nói được tiếng Quảng Đông không?
- Cũng lõm bõm thôi anh ạ… Tôi nói với họ bằng tiếng Quan Hỏa, họ nghe
cũng hiểu…
- Cậu nên chịu khó luyện tiếng Quảng Đông vì đa số bà con người Hoa ở
dọc biên giới nước ta đều là người vùng Lưỡng Quảng chạy sang. Ngay ở dưới Hải
Phòng, tối nào đài truyền thanh thành phố cũng phải có buổi phát thanh riêng bằng
tiếng Quảng Đông…
Dừng một lát, anh thốt lên:
- Tiếng Trung Quốc rắc rối lắm, mỗi vùng nói một phách…
Tôi phì cười. Và tôi nhớ lại hồi còn ở trong Khu 5, một đồng chí cùng
làm trong cơ quan tôi cũng đã thốt ra câu nói tương tự như anh bây giờ. Đồng
chí ấy vón là cán bộ Nam tiến từ ngày đầu nổ súng. Trước kia anh đóng quân ở
vùng Kiến An và ngày ấy đơn vị của anh đóng gần một trại lính Tưởng Giới Thạch
sang giải giáp vũ khí của Nhật. Một hôm anh kể, có tên quan Tàu chẳng biết là cấp
gì, nghe nói là quan mười mấy, từ Hà Nội xuống, cả trại lính phải tập hợp để
nghe hắn nói chuyện. Hắn diễn thuyết bằng thứ tiếng gì đó rất khó nghe, có lẽ
Thiểm Tây hay Hồ Bắc mà phải có tới bốn, năm tên phiên dịch, tên nó dịch truyền
cho tên kia, cuối cùng bọn lính mới nghe ra.
Rồi anh hỏi thăm vợ con tôi hồi này sức khỏe và cuộc sống ra sao? Tôi
đáp hiện nay vợ tôi vẫn dạy học ở Quảng Yên, còn cháu Tú Hoa thì vẫn ngoan,
cháu rất xinh giống vợ tôi lắm.
Nét mặt anh thoáng tư lự, anh nói:
- Vợ cậu đã hiểu gì về cậu?
- Cô ấy vẫn chỉ hiểu tôi như những điều tôi đã nói. Cho đến nay, tôi vẫn
là một anh cán bộ lâm nghiệp… nhưng cô ấy rất tin và rất yêu tôi. Có lần tôi ướm
hỏi: Nếu bây giờ tổ chức điều anh đi công tác xa thì em nghĩ sao? Cô ấy bảo: Nếu
là nhiệm vụ thì anh cứ yên tâm mà đi, đừng lo lắng nhiều đến mẹ con em ở nhà…
Cô ấy cũng chỉ nghĩ được rằng tôi có thể trở lại miền Nam chiến đấu như nhiều
anh em khác đã vào trong đó…
Anh châm thuốc rồi nói:
- Mình biết cô ấy. Đó là một phụ nữ tốt. Hồi cưới cậu mình không về được
nhưng trước đó, khi nhận được báo cáo của cậu đề nghị lập gia đình, bọn mình đã
nghiên cứu cẩn thận. Cô ấy cũng mồ côi cha mẹ và đi theo kháng chiến từ nhỏ.
Thôi được, sẽ có lúc nào đó, cô ấy phải hiểu cậu như bọn mình hiểu cậu…
Chúng tôi quay lại trường, anh căn dặn tôi:
- Bọn mình căn cứ vào những việc đã xảy ra hồi đó, khi còn trong Khu
5, thì chắc chắn vai trò của cậu chưa thể chấm dứt ngay được. Mà chúng ta cũng
chưa nên chấm dứt. Mình tin rằng sẽ có một lúc nào đó, không chóng thì chầy, sẽ
có người tìm đến cậu, nhất định họ sẽ tìm đến cậu. Lối chơi của họ là lối chơi
lâu dài, họ không chịu ăn non đâu, không làm ăn cò con đâu. Đấy xem như cung
cách làm ăn buôn bán của họ thì biết… Vì vậy, chúng mình phải kiên trì, phải biết
chờ đợi, phải kiên trì nhẫn nại chờ đợi…
Khi chia tay với tôi, anh nói từ nay anh không còn phụ trách tôi nữa.
Anh được điều đi làm nhiệm vụ ở hướng khác. Có thể anh sẽ đi xa (cái từ đi xa,
tôi hiểu là anh sẽ quay trở lại chiến trường cũ, ở đấy đang cần cán bộ như
anh). Sẽ có người khác thay anh để cộng tác với tôi, đồng chí ấy mang tên là
anh Tư, còn tôi sẽ có tên là Bảy. Chiều thứ hai tới, anh Tư sẽ lên trường gặp
tôi vào lúc tan giờ học. Hai chúng tôi sẽ làm quen nhau, vì chúng tôi còn cộng
tác với nhau lâu dài. Tôi phải nhớ để đón anh vào chiều thứ hai này. Thế là từ
nay, cuộc đời tôi sẽ hoàn toàn gắn bó với anh, mà không riêng gì bản thân tôi,
cả vợ tôi và con gái tôi nữa… Sẽ chẳng có ai hiểu rõ chúng tôi bằng anh.
Chúng tôi đến Cao Bằng vào giữa năm 1966. Thời gian này, máy bay Mỹ
đang đánh phá dữ đội các trục đường giao thông và các bến phà khắp miền Bắc.
Nhưng suốt rẻo mấy tỉnh giáp Trung Quốc, chúng chỉ bay lượn qua và đánh mấy trọng
điểm trên đường số 4 và dọc đường số 1 từ Lạng Sơn đổ lên. Máy bay Mỹ thỉnh thoảng
bay qua thị xã giống như cái lòng chảo lọt giữa những dãy đồi, để lại trên bầu
trời mùa hạ xanh ngắt những cái đuôi khói bị gió thổi tạt, ngoằn ngèo. Những đụn
khói khác của đạn cao xạ đuổi theo, những tiếng lụp bụp như đập mẹt. Đó là tiếng
súng của các đơn vị phòng không lính Trung Quốc đặt trên các mỏm đồi quanh đấy
dù máy bay Mỹ bay cao hay bay thấp, ở bất cứ cự ly nào, các khẩu cao xạ của
Trung Quốc đều ra sức bắn lên dữ dội, áng chừng để thị uy với người dân Việt
Nam hơn là để bắn rơi máy báy địch. Hồi đầu các khẩu súng bộ binh của tự vệ thị
xã cũng đua nhau bắn theo, nhưng về sau thị đội chỉ thị phải tiết kiệm đạn, chỉ
được nổ súng khi nào bắn chắc ăn.
Những khẩu đội cao xạ của Trung Quốc làm nhiệm vụ bảo vệ cho các đơn vị
làm đường của họ. Lúc này theo hiệp định đã ký giữa hai nước, Trung Quốc sang
làm giúp Việt Nam một số con đường chiến lược dọc biên giới. Ngay sát thị xã
cũng có một đơn vị công binh Trung Quốc đang làm nhiệm vụ ở đó. Những người
lính Trung Quốc làm quần quật suốt ngày, họ không được phép giao dịch hay trò
chuyện với người dân địa phương. Họ làm và ăn ngay trên công trường, khi nghỉ
ngơi thì rút cuốn sách đỏ ra đọc như đọc kinh cầu nguyện
Hồi này ở Trung Quốc, cuộc đại cách mạng văn hóa vô sản do ông Mạo Trạch
Đông đích thân phát động đang ở giai đoạn quyết liệt. Thoạt đầu thì các nhà
lãnh đạo văn hóa bị hạ bệ, rồi đến thành ủy Bắc Kinh lan tới Bộ Chính trị và nhằm
thẳng vào chủ tịch nước là ông Lưu Thiếu Kỳ. Ở các quầy sách báo trong thị xã của
chứng tôi cùng thấy treo la liệt những cuốn họa báo Trung Quốc, in ảnh các tiểu
tướng Hồng vệ binh đang "làm phản có lý", nhưng tấm ảnh đặc sệt những
khuôn mặt non choẹt đằng đằng sát khí, những cái miệng mở to kêu gào và những nắm
đấm giơ cao. Rồi ảnh những vở kinh kịch hiện đại, tác phẩm của bà Giang Thanh,
nào "Cây đèn đỏ", nào "Dùng mưu chiếm Uy Hổ Sơn",vvv... Cuối
cùng là tấm ảnh một người to béo, mặt phị hờ hững giơ tay và sau lưng ông ta có
một người nữa thấp nhỏ, xúng xính bộ quân phục quá mới và quá rộng, đội mũ vải
gắn ngôi sao đỏ, cổ áo đính hai miếng tiết, đôi lòng mày rậm cụp xuông, cái miệng
nhỏn nhỏen, cái cằm nhọn và bàn tay giơ lên cuốn sách đỏ. Đó là Mao Chủ tịch và
người thừa kế vĩ đại của ông ta.
Thị xã của chúng tôi là một thành phố xinh xắn và đẹp đẽ, chỉ cách
biên giới chừng vài chục cây số đường chim bay, Nó nằm lọt giữa những dãy đồi
trồng toàn cây sở mà về mùa xuân, hoa sở nở trắng rơi lả tả trên nền cỏ xanh,
Dòng song hiền hoa như một dải lụa cẩm thạch bao quanh lấy thị xã nổi tiếng về
giống thuốc lá thơm, sợi vàng như mật. Năm ấy đã có lệnh phòng không sơ tán
nhưng chỉ có các trường học rời vào các làng bản quanh đó, các cơ quan thì chia
làm hai nơi : thị xã và nơi sơ tán, nhưng nơi sơ tán chẳng có ma nào chịu đến
ngoài bảo vệ. Còn nhân dân đâu vẫn cứ nguyên đấy, chợ búa vẫn họp đông, cửa
hàng vẫn tấp nập người ra vào. Thị xã vẫn sầm uất, mặc dù nó đang phải chịu hai
sức ép, thứ nhất là bom đạn của Mỹ có thể từ trên máy bay bất thình lình trút
xuống và thứ hai là luồng gió độc của cuộc đại cách mạng văn hóa từ bên kia
biên giới thổi sang. Nhưng chẳng điều gì làm thay đổi cuộc sống của mọi người
dân thường. Gia đình tôi cũng vậy, tôi thì ngày hai buổi đến cơ quan làm việc,
thỉnh thoảng xuống các huyện kiểm tra công tác bảo vệ rừng, vợ tôi đi dạy học
và con gái tôi thì đi học, chỉ có điều cả hai mẹ con đều phải đi xa hơn trước
vì trường sở đã sơ tán cách thị xã vài cây số, ở tít những đồi đất kia.
Hàng ngày con tôi đi cùng với mẹ nó đến trường. Vợ tôi đềo nó ngồi sau
xe đạp. Nhưng khi tan học, thường nó đi về một mình, Nó đi chơi với lũ bạn cùng
lớp, khi thì ra bờ sông thả thuyền giấy, khi thì nhặt những viên sỏi trắng về
chơi đánh ô, đánh chuyền, khi thì hái hoa, nhặt lá chơi bày hàng. Bọn con trai
thì chạy đuổi nhau và đá bóng trên bãi cỏ ven sông. Chúng la hét cho đến khi
nóng rực người lên rồi nhảy ùm xuống sông lặn ngụp thỏa thuê.
Nhiều buổi chiều đám trẻ nhỏ học sinh kéo nhau ra đứng trên cầu xi
măng bắc qua sông Hiến, lối vào thị xã và khi gặp những người lính Trung Quốc,
bọn trẻ láu lỉnh hét to "Oan xuê, oan xuê...". Những người lính Trung
Quốc phần lớn là sĩ quan gật đầu khen: Hảo, hảo.. và móc túi cho chúng hàng vốc
huy hiệu đỏ chói. Những chiếc huy hiệu này được chúng đem về thay cho những đồng
xu cạch để đánh đáo. Về sau, dù cho bọn trẻ có sốt sắng hết to đến đâu, những
người bạn lớn chỉ gườm gườm nhìn chúng và đi thẳng. Ít nhất họ cũng biết rằng
việc làm của họ trước đây chẳng đem lại lợi ích hết mà lại còn quá ư vô duyên.
Có một sĩ quan Trung Quốc thường hay được bọn trẻ nhắc đến và chính
người này cũng hay tìm cách la cà nói chuyện với chúng. Trước hết vì anh ta nói
sõi tiếng Việt, phát âm khá chuẩn mà chẳng có chút gì lơ lớ, sau nữa vì anh ta
hay cho bọn trẻ kẹo hoặc bánh lương khô. Anh ta còn trẻ, trạc ba lăm, ba sáu tuổi,
vẻ mặt thanh mảnh, đeo kính trắng gọng vàng chóe nom rất trí thức. Buổi chiều,
anh ta cũng thường hay dạo chơi trên cầu xi măng và từ xa, bọn trẻ thoáng trông
thấy đã réo gọi:
- Chú Lưu,... chú Lưu.
Anh đứng trên cầu giơ tay vẫy vẫy, vẻ mặt tươi cười:
- Chào các cháu thiếu nhi Việt Nam anh hùng.
Anh ta lên là Lưu Nghị, chính ủy của đơn vị công bình Trung Quốc đang
làm con đường chiến lược gần thị xã của chúng ta.
Tôi được gặp và nói chuyện với Lưu Nghị lần đầu vào ngày lễ Bát Nhất
năm ấy. Để thắt chặt mối quan hệ hữ nghị giữa quân đội hai nước Việt - Trung,
vào dịp lễ kỷ niệm ngày thành lập quân đội Trung Quốc 1 - 8, Ban chỉ huy tỉnh đội
đã mở tiệc chiêu đãi các sĩ quan từ cán bộ trung đội trở lên của đơn vị công
binh mở đường Trung Quốc. Về phía chủ nhà, ngoài các anh bên tỉnh đội còn có
các đồng chí bên tỉnh ủy, ủy ban hành chính tỉnh và các cán bộ đầu ngành của tỉnh.
Buổi chiêu đãi diễn ra tại hội trường lớn của tỉnh. Các vị khách đều
chỉnh tề tỏng bộ quân phục, nhưng họ không đeo quân hàm vì trong cách mạng văn
hóa, quân hàm đã bị xóa bỏ cho nên trên cổ áo người nào cũng chỉ có hai miếng nỉ
đỏ, chẳng biết cấp nào với cấp nào. Tất cả đều giữ thái độ rất nghiêm trang và
kỷ luật, chẳng có ai cười nói hay trò chuyện với chủ nhà, ngoài vị tư lệnh - một
cán bộ chừng năm mươi tuổi. Hai bài diễn văn của khách và chủ đều ra sức ca ngợi
lẫn nhau, ca ngợi mối tính chiến đấu khăn khít vì chủ nghĩa cộng sản của quân đội
hai nước. Ăn tiệc xong, các vị khách ở lại xem văn công quân khu biểu diễn và
nghe các cô văn công hát : "Việt Nam - Trung Hoa, núi liền núi, sông liền
sông,.."
Năm mới lên Cao Bằng, tôi cũng được dự buổi chiêu đãi lớn ấy. Tò mò ngắm
nhìn những người đồng hương của tôi đã từ nhiều nơi trên đất nước Trung Hoa
mênh mông lặn lội sang Việt Nam, giúp đỡ Việt Nam mở đường đánh Mỹ. Tôi hơi
phân vân khi nhận thấy thái độ quá dè dặt của những sĩ quan Trung Quốc, mặc dù
khi chạm chén, đáp lời mới của chủ nhà, họ cũng kêu "Can pây, can pây".
Rồi họ cũng hô to những câu khẩu hiệu cùng với chúng ta, nhưng xem ý cứ gượng gạo
làm sao ấy.
Chỉ một người có thái độ khác hẳn, đó là chỉnh ủy Lưu Nghị. Anh ta rất
xởi lởi, trò chuyện với chúng tôi. Khi được biết tôi họ Trương và phụ trách
công tác lâm nghiệp, anh ta tỏ vẻ rất vui, cứ quấn lấy tôi để nói chuyện, Và
trong câu chuyện, anh ta tỏ ra khá lịch lãm, nói năng thoải mái, không bì gò bó
trong những vấn đề chính trị và tôi thấy chưa lần nào anh ta nói về cuộc cách mạng
văn hóa đang sôi nổi ở Trung Quốc. Còn tôi, tất nhiên tôi không bao giờ hỏi về
chuyện đó....
Và nếu như không có sự việc xảy ra tiếp thoe thì tôi cũng quên đi,
không còn nhớ về người chính ủy Trung Quốc đã từng nói chuyện với tôi trong buổi
chiêu đãi ấy.
Một hôm, con gái tôi, cháu Trương Tú Hoa về học rất muộn. Xẩm tối, tôi
mới thấy nó cắp cặp về nhà. Tôi hỏi:
- Hôm nay con đi chơi những đâu mà đến bây giờ mới về ?
- Bố ạ, chiều nay con gặp chú Lưu.
- Mình con gặp à ?
- Không, tất cả bọn chúng con đang chơi ở bờ sông thì gặp chú ấy cưỡi
ngựa đi tới. Chú ấy xuống ngựa và rủ chúng con ngồi quây quần nói chuyện trên
bãi cỏ.
Lúc ấy, trời đã xế chiều, cuối tháng chín, thời tiết kho ráo và sạch sẽ.
Lưu Nghị buộc ngựa vào gốc cây rồi rủ bọn trẻ ngồi trên bãi cỏ, vây quanh anh
ta. Câu chuyện bắt đầu từ những điều rất vẩn vơ, chẳng nhằm mục đích gì hết.
Trong đám trẻ có một đứa đột nhiên hỏi một câu, không rõ tự nó nghĩ ra hay do
người lớn bày cho:
- Chú Lưu này, chú họ Lưu phải không ?
- Đúng rồi mà, chú họ Lưu tên Nghị.
- Vậy chú có họ với ông Lưu Thiếu Kỳ chứ gì ?
Tức thì Lưu Nghị nghiêm mặt, xua tay:
- Đâu có, đâu có... Lưu Thiếu Kỳ là một tên phản cách mạng, một tên...ờ..
phục hồi chủ nghĩa tử bản... không tốt đâu...
Nói rồi, đôi mắt anh ta nhìn gườm gườm vào mặt chú bé vừa đưa ra câu hỏi
ma mãnh ấy. Cả bọn trẻ cười ầm lên.
Một chú nhóc khác chừng mười hai, mười ba tuổi đứng sau bạn nó, dướn
người, hỏi to:
- Cháu hỏi nhá, chú có họ với ông Lưu Bị không ?
Đột nhiên đội mắt của Lưu Nghị sáng lên như vừa nhìn thấy một điều gì
vui thú, anh ta quay sang chú bé vừa hỏi và trả lời :
- Lưu Bị à ? Lưu Bị tức là Lưu Huyền Đức, cháu biết chứ ?
- Cháu biết, cháu đã đọc hết cả bộ Tam quốc, cháu biết Lưu Bị cả Tào
Tháo với Tôn Quyền nữa....
Lưu Nghị cười hà hà, gật đầu:
- Cháu giỏi quá, cháu đọc hết cả bộ Tam quốc thì giỏi lắm. Tam quốc
nghĩa là ba nước, nước Ngô của Tôn Quyền, Ngụy của Tào Tháo, và Lưu Bị là vua
nhà Hán. Vậy chú hỏi nhé, cháu cơ biết ông Lưu Bị kết nghĩa anh em với những ai
nào ?
Cháu bé được khen rất khoái trí, nó vênh mặt với đám bạn nhỏ và sẵn
sàng trả lời :
- Cháu biết quá đi chứ! Lưu Bị này, Quan Vũ này, Trương Phi này, ba
người kết nghĩa anh em với nhau trong vườn đào, gọi là Đào viên kết nghĩa
Lưu nghĩ vỗ hay tay vào nhau, khen nức nở : "Tốt quả, giỏi
quá". Rồi anh ta móc túi đeo bên mình, lấy một túi kẹo tặng chú bé thuộc
lòng bộ sách Tam quốc chí, Chú bé bóc luôn túi kẹo chia cho cả bọn.
Chờ cho đám trẻ chia kẹo xong, Lưu Nghị lại hỏi:
- Chú hỏi câu này, nếu cháu nào biết thì chú thưởng lương khô, được
không ?
- Được...- Cả đám đồng thanh hưởng ứng và tất cả những bộ mặt hau háu
đón nghe câu hỏi của viên chính ủy Trung Quốc.
- Cháu đã đọc sách Tam quốc, vậy cháu có biết cái đoạn Quan Vũ hộ tống
hai bà vợ của Lưu Bị rồi bị Tào Tháo nó bắt được giam trong doanh trại của quân
Tào không nào ?
Cả đám trẻ nhao nhao giục chú bé ham đọc sách trả lời : "Kìa nói
đi, trả lời chú ấy đi, Hùng "dô"...". Chú bé có cái tên là Hùng
"dô" nhăn cái trán dô suy nghĩ một lát rồi reo to :
- À cháu nhớ rồi nhá. Quan Công bị Tào Tháo bắt nhá bị lão ta giam giữ
trong doanh trại quân Tào những lại được đối xử tử tế nhá. Khi Quan Công trốn
thoát đã chém sáu tướng vượt qua năm cửa ải của Tào Tháo nhá. Đúng không nào ?
Đám trẻ vỗ tay khoái trí vì câu trả lời của bạn, còn Lưu cũng vui
thích ra mặt, cười ầm lên và nói:
- Giỏi lắm, giỏi lắm, thiếu nhi Việt Nam giỏi lắm.
Anh ta lại móc túi dết lấy ra mấy phong lương khô phân phát cho đám trẻ,
Riêng thằng Hùng "dô" được chia nhiều hơn cả. Đang nhai lương khô, chợt
nó nuốt vội và nói:
- Này, chú Lưu này, có cái
tranh ấy đấy…
- Tranh gì ? Lưu Nghị hấp tấp
hỏi – Cháu nói cái tranh gì ?
- Tranh vẽ Quang Công mặt đỏ bị
Tào Tháo bắt giam ấy mà. Tranh đẹp lắm nhá, vẽ Quan Công cầm đuốc đứng canh cho
hai người đàn bà đang ngủ.
- Ở đâu, ở đâu ? – Giọng hỏi của
Lưu Nghị thẳng thốt đến lạc đi...
Bọn trẻ vẫn hồn nhiên, một đưa khác lanh chanh trả lời:
- Đúng rồi, ở nhà thằng Chuýn
có bức tranh ấy, đúng rồi …
- Thằng Chuýn à ?
- Vâng, nó đây này, chú Lưu
này…
Cả bọn hướng về một chú bé trạng mười tuổi, mặt tròn, tóc cắt cao đang
chúi vào lưng những đứa khác vì xấu hổ.
- Nó là Voòng Chuýn, nhà nó mở
hiệu chụp ảnh ở đầu thị xã đấy.
- Nhà nó treo rất nhiều tranh
Tàu nhá… Đẹp cực kỳ...
- Có cả tranh ông tướng cưỡi
ngưa ô, mặc áo giáp,…
- Triệu Tử Long đấy… Mày đếch
biết….
Lưu Nghị ngồi đờ ra mặc cho đám trẻ đua nhau nói để phô trương sự hiểu
biết của chúng. Anh ta đang mải nhìn chú bé có cái tên rất Tàu là Voòng Chuýn.
Cứ cái tên ấy và cứ khuôn mặt kia thì Lưu thừa biết đó là người đồng hương của
mình… Chờ cho đám trẻ bớt nhốn nháo. Lưu hướng vào chú bé Voòng Chuýn và hỏi:
- Nhà cháu chụp ảnh à ?
- Đúng đấy, ở ngay đầu thị xã
đây thôi, thẳng cầu xi măng xuống mà…
Lại vẫn những chú bé khác lanh chanh trả lời thay, còn Voòng Chuýn vẫn
thẹn thò nấp sau lưng bạn.
Lưu Nghị gật gật:
- À ra thế, lâu nay chú vẫn muốn
chụp bức ảnh kỷ niệm để gửi về gia đình.
Đám trẻ lại nhao nhao:
- Phải đấy, chú xuống chụp đi,
chúng cháu đưa chú đến. Bố nọ chụp đẹp lắm, phóng đại tô màu nữa.
- Thôi… để khi khác. Bây giờ
chiều rồi, khi khác chú sẽ xuống. Cháu về nói với bố cháu rồi thế nào chú Lưu
cũng sẽ đến chụp ảnh… Mà cháu tên là Chuýn à ?
Lại một đứa khác mạnh bạo hơn nói :
- Ở nhà thì nó tên là Chuýn,
Voòng Chuýn, còn ở lớp lại có tên là Hoàng Quân… Hay thật…
- Nó là người Hoa mà.
- Đứa này cũng là người Hoa đấy
chú Lưu ạ!
Nó chỉ một em gái trạc tuổi Chuýn bẽn lẽn ngồi sát bên Lưu Nghị:
- Nó tên là Trương Tú Hoa.
- Bố nó là ông Trương Đạt, phó
Ty lâm nghiệp đấy.
- À, à…- Lưu Nghị xoa xoa mái
tóc của Tú Hoa – Chú có biết và đã nói chuyện với bố cháu. Cháu về nói với bố
cháu là có chú Lưu Nghị gửi lời chào bố nhé…
Câu chuyện mà Tú Hoa kể lại khiến tôi không thể không nghĩ ngợi về người
chính ủy Trung Quốc có dáng vẻ rất trí thức này. Anh ta là ai? Và đang tìm hiểu
điều gì trên đất Cao Bằng này? Tôi phải tự kiềm chế mình để gạt bỏ cái ý muốn
được tiếp xúc với anh ta một lần nữa, muốn tìm hiểu thêm về con người này. Tôi
đang phải giấu kín mình và rồi không chóng thì chày, sẽ có ngày anh ta tìm đến
tôi hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp…
Khoảng một tuần sau, vào ngày 1-10, ngày Quốc Khánh Trung Quốc, Ủy ban
hành chính và Tỉnh ủy lại tổ chức buổi chiêu đãi lớn các sĩ quan Trung Quốc
trong các đơn vị công binh và phòng không thuộc địa phận Cao Bằng. Lần ấy tôi vắng
mặt vì tôi đang đi xuống huyện Trà Lĩnh có công tác đột xuất, vả lại hôm tôi
còn ở cơ quan, bên ủy ban có gửi giấy mời sang nhưng giấy lại ghi đích tên đồng
chí trưởng ty, nên tôi cũng biết và tế nhị viện cớ công tác để vắng mặt luôn thể.
Tối 31-9, tỉnh tổ chức chiêu đãi thì mãi trưa 1-10 tôi mới ở dưới huyện về.
Trưa hôm ấy trong thị xã rất đông lính Trung Quốc. Họ được nghỉ và được phép đi
chơi phố nhưng họ đi thành tổ ba người và chỉ loanh quanh ngoài đường, nghiêng
ngó nhìn vào các cửa hàng, chứ không một ai mua bán gì hết. Cả ở chợ cũng vậy.
Từng tốp lính Trung Quốc lượn lờ hết khu này sang khu khác hoặc đứng ngây ra
nhìn những cuốn sách bày trên quầy và khi người bán hàng ra hiệu mời mua thì họ
lắc đầu bỏ đi. Cũng may trưa hôm đó không hề có báo động, máy bay Mỹ cũng không
lần nào quấy rối sự bình yên của cái thị xã vùng biên này.
Cũng trưa hôm đó, Lưu Nghị đã vào hiệu chụp ảnh ở đầu thị xã cùng với
hai người lính Trung Quốc. Hôm đó, Lưu mặc thường phục, nghĩa là anh ta chỉ mặc
có chiếc áo sơ mi trắng mà không đội chiếc
mũ vải gắn ngôi sao đỏ.
- Chào ông chủ!
Từ ngoài cửa, chính ủy Lưu Nghị đã chào rất to. Lão Cắm Sềnh vội chạy
ra, cúi rạp người, lễ phép:
- Kính chào các đồng chí… Xin mời vào, xin mời…
Rồi lão quay người đi trước đưa ba người Trung Quốc vào nhà. Vừa đi
lão vừa nói:
- Hà hà… hôm nay là ngày lễ Quốc Khánh, các đồng chí hạ cố… Thật là
vinh dự lớn. Xin chúc mừng các đồng chí nhân dịp trọng lễ của chúng ta… Xin mời
vào…
Vào trong nhà, Lưu Nghị đưa mắt nhìn quanh và nói:
- Hôm nay chúng tôi đến thăm ông chủ và muốn chụp tấm ảnh kỷ niệm…
Cắm Sềnh lại cúi người:
- Rất vinh dự, rất vinh dự… Xin mời các đồng chí vào phòng ảnh. Tôi
xin chụp mỗi đồng chí vài kiểu ảnh rất đẹp…
Lưu chính ủy miệng nói mà mắt cứ nhìn chằm chằm vào mặt Cắm Sềnh:
- Chỉ có tôi chụp thôi, còn hai đồng chí ở đây xem ảnh…
Cắm Sềnh chợt hiểu nhưng lão vẫn không thay đổi điệu bộ:
- Vậy xin mời đồng chí…
- Chàu Voòng Chuýn có nhà không, ông chủ?
- Dạ có đấy ạ. Cháu đang học tổ ở nhà dưới. Đồng chí cũng biết cháu?
- Tôi đã nói chuyện với nó cách đây một tuần mà. Nó không nói lại với
ông chủ sao?
- Dạ có đấy ạ… Vậy ra là thủ trưởng Lưu. Chà chà… Xin lỗi, tôi không
biết, tôi thật là không có mắt mong thủ trưởng bỏ quá…
Lão Lưu Nghị vào phòng trong. Giả bộ như không hay biết chuyện gì hết,
lão Cắm Sềnh cứ loay hoay dựng lại chiếc máy ảnh có lắp chân cao lênh khênh rồi
sửa lại chiếc ghế dành cho khách chụp ngồi cho ngay ngắn.
Viên chính ủy Trung Quốc lơ đãng, không để ý đến lão. Anh ta đi đi lại
lại ngắm những bức tranh treo la liệt trên tường. Chủ nhân có vẻ là người thích
chơi tranh quốc họa, đủ loại tranh, bức thì cắt từ cuốn họa báo ra, bức thì do
những họa sĩ chép lại từ những tranh cổ, tranh chim cá, hoa cỏ của Tề Bạch Thạch
khá nhiều, treo xen với những bức tranh vẽ các ông tướng Tàu với giáp trụ uy
nghi, ngựa xe, cung kiếm đủ cả…
Lưu Nghị dừng lại trước một bức tranh treo chính giữa nhà, đối diện với
bộ bàn ghế tiếp khách thân tình. Bức tranh khá lớn, vẽ cảnh Quan Vân Trường
đang đứng rất oai phong, một bàn tay nắm thanh long đao, tay kia giơ cao cây đuốc
đang cháy đùng đùng soi tỏ gian phòng có hai người vợ của Lưu Bị đang ngủ. Nội
dung của nó muốn thể hiện tấm lòng trung trinh của Quan Vũ đối với người anh kết
nghĩa và là chúa công của mình. Khác với những bức tranh Tàu cùng treo, bức tranh
như còn đang dở dang, chỉ có hình mà chưa có dòng chữ Hán loằng ngoằng và dấu
triện son đỏ chót. Thành ra nó có vẻ như trống trếnh về mặt bố cục.
Đó chính là bức tranh mà bọn trẻ đã tả lại cho Lưu Nghị nghe chiều hôm
ngồi ở bờ sông…
Thấy khách đứng tần ngần trước bức tranh Quan Vũ, Cắm Sềnh bỏ việc thu
xếp chụp ảnh, đến gần Lưu Nghị hỏi:
- Lưu đồng chí xem bức tranh đó thế nào?
Viên chính ủy rời mắt khỏi bức tranh, quay lại:
- Tranh đẹp lắm, nhiều ý nghĩa lắm… nhưng còn thiếu… ông chủ ạ…
- Đồng chí cứ dạy bảo, tôi xin lĩnh ý…
Lưu Nghị lẳng lặng tháo bức tranh, đặt trên mặt bàn. Anh ta nhìn quanh
chợt thấy cái nghiên mực tàu mài sẵn trên gác chiếc bút lông. Lưu cầm bút, chấm
vào nghiên mực một cách chậm rãi, rồi đến bên bức tranh, miệng hỏi:
- Ông chủ cho phép chứ?
- Xin cứ tự nhiên, xin cứ tự nhiên…
Lưu cúi người, ấn ngọn bút lông mèo viết bốn chữ Hán thành một cột dọc
sát bên hình vẽ Quan Vân Trường, nét chữ của anh ta rất sắc và bay bướm chứng tỏ
anh ta là người cầm bút lâu năm. Cắm Sềnh nghênh đầu khẽ đọc:
- Thân – tại – Tào – doanh… hảo hảo…
Và lão dừng lời chờ đợi Lưu Nghị viết tiếp, nhưng viên chính ủy nhấc
bút, anh ta đứng thẳng người đưa cây bút cho Cắm Sềnh:
- Xin mời…
Ông chủ hiệu chụp ảnh cười hà hà, đỡ cây bút và viết luôn tiếp theo cạnh
bốn chữ của Lưu Nghị; “… Tâm – tại – Hán” Rồi lão đứng thẳng người, đọc cả câu:
- Thân tại Tào doanh, tâm tại Hán. Hà hà, đúng quá rồi… nhưng vẫn còn
thiếu đồng chí à!
- Phải, còn thiếu! – Lưu Nghị gật đầu. Anh ta móc trong túi áo ra một
nửa cái triện khắc bằng gỗ, ghé miệng hà hơi rồi ấn mạnh xuống dưới hàng chữ.
Trên bức tranh xuất hiện một nửa cái triện son đỏ chót. Lưu Nghị thong thả gói
cái triện vào một tờ giấy rồi bỏ vào túi, đưa mắt nhìn Cắm Sềnh.
Lão chủ hiệu ảnh đưa cả bàn tay lên gãi đầu và móc trong ngăn kéo tủ,
lấy ra cái triện gỗ riêng của lão. Lão cũng đưa miệng hà hơi và ấn mạnh sát với
nửa cái dấu son của viên chính ủy. Khi lão nhấc tay lên, hai nửa triện đóng rất
khớp nhau không khe hở, cũng cùng một mầu son đỏ…
Bức tranh trở nên hoàn chỉnh. Lưu Nghị cầm bức tranh giơ lên nheo mắt
ngắm nghía và treo lên tường một cách trân trọng như một người vốn sùng bái
ngành cổ họa. Anh ta quay ra, giơ tay nắm lấy bàn tay của Cắm Sềnh. Hai người gần
như ôm nhau.
- Đồng chí…
- Đồng chí…
Đôi mắt bạc phếch của người chủ hiệu ảnh chớp chớp, cảm động. Lát sau
lão nói:
- Lưu đồng chí, bấy lâu nay, Quan Vũ tôi lưu lạc trên đất Tào, tâm vẫn
hướng về Hán quốc… Nào ngờ hôm nay lại gặp cố nhân. Tôi vẫn hằng mong đợi tin tức
của Lưu Huyền Đức… Chẳng hay đồng chí…
Lưu Nghị vẫn nắm bàn tay xương xẩu của người chủ hiệu ảnh. Anh ta mỉm
cười:
- Tổ quốc ghi công đồng chí mười lăm năm nay một mình hoạt động kiên
trì ngay tại sào huyệt đối phương. Tôi sang đây đã lâu, nhưng đến nay mới chắp
được mối liên hệ với đồng chí, xin đồng chí lượng thứ vì hoàn cảnh khó khăn không
cho phép… Thì giờ cấp bách, tôi xin báo tin vui để đồng chí biết: Lưu Huyền Đức
đã nhập Tào, nhưng đồng chí ấy sang đây bằng con đường hợp pháp, nên đã cử tôi
đến liên lạc với đồng chí. Như vậy, Lưu Bị và Quan Vũ đã có mặt, chỉ còn thiếu
Trương Dực Đức, phải làm sao tìm được tung tích của em Ba…
- Tôi sẽ cố gắng. Nhờ đồng chí chuyển đạt lên anh Cả rằng tôi sẽ cố gắng
tìm cho được chú Ba để đủ hội thề kết nghĩa vườn đào…
Mọi thủ tục để bắt liên lạc với nhau đã xong, tôi được biết sau đó,
Lưu Nghị đã phổ biến cho Cắm Sềnh những điều cần thiết để tiếp tục hoạt động:
ám hiệu để nhận nhau, hộp thư bí mật để chuyển đạt và tiếp nhận những báo cáo
lên cấp trên và chỉ thị của cấp trên gửi xuống…
Điều quan trọng nhất mà tôi nắm được tức là họ đang cố công tìm kiếm một
người mang mật danh là Trương Dực Đức, tức Trương Phi, tức chú Ba (hay em Ba) để
đủ thành một tổ hoạt động tình báo ở vùng biên giới này, tổ ấy lấy mật danh là
“Đào viên kết nghĩa”, rập đúng theo chương đầu của cuốn tiểu thuyết cổ Tam quốc
chí. Họ đã có Lưu Bị và Quan Công nhưng còn thiếu Trương Phi, mà Trương Phi là
ai và ở đâu thì chẳng có một người nào biết ngoài bản thân hắn ta…
Hiệu ảnh của Voòng Cắm Sềnh ở ngay đầu thị xã, nằm thụt sâu vào phía
trong, cách mặt đường đến hai chục mét. Ngoài cửa treo tấm biển to sơn dòng chữ
lớn: “HIỆU ẢNH KIM THÀNH” và mấy hàng chữ nhỏ bên dưới: “Chuyên chụp chân dung
mỹ thuật, chụp chứng minh, thẻ học sinh lấy ngay, chụp đám cưới, đám tang đến tận
nhà”. Đã nhiều lần có việc đi qua, tuy tôi cũng không hay dừng lại, nhưng vẫn
đưa mắt ngắm nghía cái cơ ngơi làm ăn của ông thợ ảnh người Hoa này. Thỉnh thoảng
tôi cũng có gặp Cắm Sềnh đứng ở cửa, thấy tôi ông ta chào rất to:
- Chào ông phó ty…
Tôi cúi đầu chào lại và đạp đi thẳng. Cắm Sềnh người tầm thước, cao chừng
mét sáu nhưng to ngang. Tóc rậm và cứng lại được cắt ngắn nên cứ chổng lên y
như cái bàn chải ngựa. Mặt mũi phương phi, râu tuy đã cạo nhẵn vẫn cứ hiện lên
một màu xanh phớt. Cắm Sềnh có dáng vẻ
là một lão đồ tể hơn một nhà nhiếp ảnh. Sau này nhờ có anh Tư nên tôi mới biết
ngọn ngành nguồn gốc của ông ta. Năm ấy Cắm Sềnh trạc ngoài bốn mươi, hơn tôi
chừng hai ba tuổi gì đó…
Từ sau ngày Quốc khánh Trung Quốc năm ấy, tôi biết Cắm Sềnh có để ý đến
tôi . Việc này lại do cháu Tú Hoa kể lại. Mỗi khi nó đến nhà để học tổ chung với
Voòng Chuýn bao giờ cũng được Cắm Sềnh hỏi han rất thân tình. Ông ta hỏi thăm về
tôi khá tỉ mỉ, dạo này tôi có hay đi công tác không, có khỏe không, có khi nào
về Hà Nội không, v.v…
Và tôi cũng bắt đầu chú ý đến lão thợ ảnh ở đầu thị xã ấy… Tôi cũng muốn
tìm cách làm quen với lão nhưng bằng cách nào đó thật tự nhiên mà không gây
nghi ngờ cho lão. Tôi đang phân vân thì một hôm tôi nhận được tin của anh Tư.
Hôm ấy vào sáng chủ nhật, tôi đang ngồi nhà thì có người đến tìm. Đó
là một thanh niên chừng hăm tám tuổi đen, khỏe và lực lưỡng. Anh ta mặc bộ đồ
xanh công nhân, hai bàn tay dính đầy dầu mỡ. Rõ là một con người lao động, thoạt
trông đã có cảm tình.
Gặp tôi trong lúc nhà vắng người, anh ta nói nhỏ:
- Em ở chỗ anh Tư muốn gặp
anh Bảy…
Tôi mừng quá nắm lấy tay anh:
- Tôi là Bảy đây. Tuần
trước tôi có viết thư cho anh Tư nhưng chưa nhận được thư trả lời…
Anh thanh niên gật đầu:
- Anh Tư cũng có nói với
em. Anh Tư dặn em nói lại với anh như sau: “Nếu anh cần chụp ảnh thì cứ đến thẳng
hiệu mà chụp chẳng cần phải đợi thợ đến nhà”…
Như vậy là anh Tư bảo tôi nên đến thẳng nhà Cắm Sềnh, đừng nấn ná chờ
đợi nữa. Chỉ thị của anh đúng với ý nghĩ của tôi. Tôi gật đầu như để hiểu ý câu
vừa nói. Anh thanh niên đứng lên:
- Thôi em về. Từ nay anh
có cần gửi gì cho anh Tư thì anh cứ ra bến xe tìm em. Em tên là Huy, lái xe
khách đường Hà Nội – Cao Bằng, ngày nào em cũng đi…
- Vâng, cám ơn chú…
Ngay sáng hôm đó, khi con tôi đến nhà Voòng Chuýn để học tổ, tôi bảo
nó:
- Hôm nay bố mẹ phải đi
lao động vắng, nhà khóa cửa, con đến học nhà bạn cứ ở đó khi nào bố đến gọi hãy
về…
- Vâng ạ. – Rồi con tôi
cắp cặp đi học.
Buổi trưa, tôi lững thững đi bộ đến hiệu ảnh Kim Thành. Từ nhà tôi đến
đây chừng năm trăm mét, vì tôi ở giữa phố. Tôi không vào ngay mà đứng ở cửa, gọi
to:
- Tú Hoa ơi… Tú Hoa…
Đã thấy ngay cái mặt to béo của Cắm Sềnh thò ra. Trông thấy tôi lão cười:
- Chào ông phó ty… mời
ông vào nhà đã…
- Chào ông Sềnh, cho tôi
hỏi con bé cháu nhà tôi có trong nhà không ạ?
- Có đấy, có đấy… Các
cháu học bài xong rồi đang chơi tú-lơ-khơ với nhau… Chà cháu Tú Hoa ngoan lắm
à…
- Tôi sang gọi cháu về
ăn cơm.
- Chẳng mấy khi, mời ông
phó ty vào nhà uống nước.
- Thôi để khi khác… - Miệng
nói vậy nhưng tôi vẫn bước theo lão đi vào – Ông Sềnh à, ông đừng kêu tôi là
phó ty, ông cứ gọi tên tôi là Trương Đạt dễ nghe hơn mà…
- Dạ… ông Trương Đạt…
Cắm Sềnh đưa tôi vào phòng trong, nơi lão đã tiếp Lưu Nghị hôm 1-10 vừa
rồi. Bức tranh Quan Công cầm đuốc treo giữa gian phòng đập ngay vào mắt tôi. Và
khi tôi mải ngắm tranh, tôi có cảm giác hình như có một luồng mắt đang chăm chú
theo dõi tôi, nhưng tôi vẫn coi như không hay biết gì hết.
Lão thợ ảnh Cắm Sềnh lẳng lặng để mặc tôi đứng đó, lão ra bàn pha nước
và chờ khi tôi quay lại, lão vội mời:
- Xin mời ông phó ty… à
xin lỗi tôi lại quên, mời ông Trương Đạt xơi nước…
- Cám ơn ông – Tôi đáp
và đi đến ngồi xuống ghế, đỡ chén nước trà nóng từ tay của Cắm Sềnh. Tôi nhấm
nháp và đưa mắt nhìn Cắm Sềnh thong thả nói – Hôm nay tôi mới biết ông là người
yêu mỹ thuật, ông có nhiều bức tranh cổ đẹp quá…
Lão chủ hiệu có vẻ khoái trí, cười hà hà:
- Vâng, thưa ông tôi rất
thích loại tranh này. Tôi đã bỏ nhiều công phu để sưu tầm mới có được một ít.
Những lúc thư nhàn, tôi thường một mình ngồi ngắm tranh cảm thấy trong lòng vô
cùng sảng khoái… Thưa ông Trương Đạt, ông thấy thế nào, bức tranh Quan Công
này?
Cắm Sềnh giơ tay chỉ vào bức tranh treo chính giữa đó. Tôi đã hiểu dụng
ý của lão nhưng tôi lờ đi, vẻ như không hiểu. Tôi gật gù:
- Đẹp lắm và… có ý nghĩa
lắm… Tiếc rằng tôi không thạo chữ Hán. Trước kia cũng có học được ít năm nhưng
đã lâu không dùng đến nên quên gần hết. Dòng chữ viết cũng rất đẹp chứng tỏ người
viết rất có hoa tay.
Chữ này của ông viết phải không ạ?
- Không đâu ạ, đấy là của
một người bạn tôi đã viết. Ông không đọc được à? Tiếc nhỉ!
- Giá ông làm ơn đọc và
dịch cho tôi nghe thì hay quá… - Tôi gợi ý liền.
Cắm Sềnh gật đầu, sốt sắng:
- Được thôi ạ - Lão hắng
giọng và đọc thật chậm – Thân – tại – Tào – doanh, tâm – tại – Hán… nghĩa là
thân thể tuy bị giam giữ trong doanh trại quân Tào, nhưng lòng vẫn hướng về đất
Hán. Thưa ông, chả là lúc này Quan Vân Trường bị Tào Tháo bắt giam nhưng giam
được người chứ có giam đâu được ý chí và tình cảm, có phải vậy không, thưa ông?
Tôi gật gù tán thưởng:
- Ý nghĩa thật, tranh
Trung Quốc mà không có dòng chữ đề này thị thật thiếu quá. Thân tại Tào doanh,
tâm tại Hán… ý nghĩa thật sâu sắc…
- Vâng, sở dĩ tôi treo
nó ở đây vì tôi rất tâm đắc với cảnh ngộ của Quan Vân Trường. Cảnh ngộ của tôi
cũng tương tự, tôi xa quê hương Tổ quốc mà có lúc nào lòng không nghĩ về cố
hương… Thưa ông, tôi trộm nghe ông cũng là người tha hương, xin ông cho biết
ông quê ở vùng nào vậy?
- Tôi sinh ra ở Phúc Kiến,
theo bá phụ sang đây từ năm 13 tuổi…
- Tôi thuộc vùng Lưỡng
Quảng, tha hương đã từ 15 năm rồi cũng cùng một hoàn cảnh như ông. Chúng ta đều
là những đứa con tha hương, cùng chung gốc Hán. Chúng ta đều đã luống tuổi.
Thưa ông Trương Đạt, đã có khi nào ông nghe thấy tiếng gọi thiết tha của Tổ quốc
non sông? Có khi nào chạnh lòng nhớ đến quê hương bản quán?
- Ông Cắm Sềnh à – tôi
nghiêm trang đáp – đối với tôi thì Việt Nam với Trung Quốc là một. Trung Quốc
sinh ra tôi, Việt Nam nuôi tôi lớn khôn. Với lại, Việt Nam và Trung Quốc cùng đứng
trong phe xã hội chủ nghĩa, cùng chiến đấu chống chủ nghĩa đế quốc, chiến đấu
vì chủ nghĩa cộng sản. Mao Chủ Tịch đã dạy: Việt Nam là tiền tuyến anh hùng của
Trung Quốc và Trung Quốc là hậu phương vững chắc của Việt Nam…
Nghe tôi nói, Cắm Sềnh gật đầu lia lịa nhưng nhìn gương mặt rõ ràng
lão đang khó chịu như nuốt phải mật cá.
- Ông nói đúng quá mà…
Mao Chủ Tịch đã dạy, Việt Nam Trung Quốc môi hở răng lạnh, tất cả đều đúng… Xin
để dịp khác tôi sẽ thưa chuyện cùng ông… Vì dù sao bây giờ ông đang là một cán
bộ lãnh đạo của tỉnh, ông đang là một đảng viên Đảng lao động Việt Nam…
Rồi tự dưng lão thở dài đánh thượt. Tôi biết lão nói khích tôi nhưng
tôi không tỏ ra phản ứng gì cả. Tôi thấy không nên lưu lại đây lâu, để dịp khác
như lão đã hẹn. Bây giờ tôi nên ra về vì tôi sang đây chỉ với mục đích gọi con
tôi về ăn cơm.
Tôi đứng lên cáo biệt. Lão Cắm Sềnh nắm tay rung rung ra chiều thân
thiết, đột nhiên lão hỏi tôi:
- Ông Trương Đạt ạ,
chúng tôi (lão nói chúng tôi và nhấn mạnh vào hai tiếng đó) có một người bạn cố
tri vô cùng gắn bó cũng họ Trương như ông mà bấy lâu nay mất tin tức…
Lão liếc mắt nhìn tôi, còn tôi thì tảng lờ:
- Vậy à?...
- Vâng, bạn bè thiếu nhau
thật là buồn…
Lão buông câu nói lửng lơ. Tôi gọi cháu Tú Hoa và hai bố con ra về…
Chiều hôm sau, tôi định ăn cơm xong thì ngồi viết thư cho anh Tư để
sáng mai đem gửi sớm. Tôi vừa ngồi vào bàn ăn thì Huy đến. Tôi đứng lên đưa anh
ra ngoài phòng ngoài. Uống hết chén trà, Huy nói:
- Anh Bảy ạ, chừng thứ
tư này, anh Tư sẽ lên đấy…
- Thật thế à? – Tôi mừng
quá, tôi đang lúng túng chưa biết nên đi nước cờ nào với lão Cắm Sềnh.
- Vâng, có thể chiều thứ
tư cùng lắm là trưa thứ năm anh Tư lên đến đây cùng với hai đồng chí nữa. Các
anh ấy sẽ ở lại trên này vài ba tháng để cộng tác với anh trong vụ này. Bên
ngoài, các anh ấy sẽ ở bên tỉnh ủy với danh nghĩa là tổ phóng viên thường trú của
báo Đảng. Anh Tư lấy tên là Hồng Dương. Anh ấy dặn em nói trước với anh, anh
chuẩn bị sẵn một kế hoạch triển khai công tác rồi trao đổi thêm với anh Tư…
- Được, được… Tôi sẽ làm
ngay đêm nay…
- Còn điều này, trên này
chỉ có mình anh Tư quan hệ với anh thôi. Hai đồng chí kia hoàn toàn không biết
anh và anh cũng không biết họ ngoài danh nghĩa công khai.
- Tôi hiểu, đó là nguyên
tắc…
Đêm ấy, tôi trằn trọc và phác ra trong bản kế hoạch như anh Tư đã dặn.
Kế hoạch không đơn giản bởi vì đối tượng của chúng tôi đang trong thời kỳ giấu
mặt, hơn nữa mối quan hệ công khai giữa chúng ta và họ đang còn hữu hảo khăng
khít. Chúng ta đang tập trung sức lực cao nhất vào cuộc chiến đấu sinh từ với kẻ
thù trực tiếp là bọn Mỹ. Suốt đêm tôi thao thức và trong lòng rộn lên một niềm
phấn khích khó tả. Có thể nó là niềm vui được hoạt động trở lại sau hàng chục
năm nằm im và làm cái công việc không phải là chính của mình. Tôi náo nức như một
người lính sau bao ngày tập luyện nay được trở lại chiến trường…
Bản kế hoạch xong mà tôi phải mất hai đêm thức trắng mới dựng xong, chỉ
nằm trong đầu tôi chứ không được chép ra giấy, đợi nay mai anh Tư lên, tôi sẽ
báo cáo với anh.
Hết ngày thứ năm, tôi hơi nóng ruột vì vẫn chưa thấy tin tức gì về
anh, không hiểu anh đã lên đây chưa. Sáng thứ sáu, tôi có việc phải sang bên ty
Nông nghiệp để trao đổi với họ một số chính sách dành cho nghề sơn tràng. Khi
tôi về thấy anh Tư đang ngồi nói chuyện với đồng chí trưởng ty trong phòng
khách. Tôi mừng quá nhưng vẫn tránh như không biết anh là ai và coi như anh là
khách của trưởng ty nên tôi đi thẳng vào phòng làm việc. Đồng chí trưởng ty gọi
với tôi:
- Anh Đạt, mời anh vào
đây
Tôi quay vào phòng khách. Đồng chí trưởng ty giới thiệu tôi với anh:
- Đây là đồng chí Đạt, kỹ
sư lâm nghiệp và là phó ty của chúng tôi… Còn đây là anh Hồng Dương, phụ trách
tổ phóng viên thường trú của báo Đảng. Các anh làm quen với nhau đi. Xin giới
thiệu với anh Dương, đồng chí Đạt của chúng tôi rất thông thạo với nghề trồng rừng
và cũng rất thông thạo với các huyện, tuy mới về đây chưa được nửa năm mà anh ấy
đã đi khắp các huyện vùng cao rồi.
Chúng tôi bắt tay nhau và ngồi nói chuyện loanh quanh. Anh cho biết tổ
phóng viên của anh có ba người hiện nay ăn ngủ bên nhà khách của tỉnh ủy, các
anh theo dõi tình hình không riêng gì ở Cao Bằng mà cả ở Lạng Sơn và Bắc Cạn.
Tôi nghĩ thầm: ông này khéo thật, ông ấy làm như vậy để cử anh em đi công tác vắng
mặt vài ba ngày không ai nghi ngờ gì hết…
Nhân đồng chí trưởng ty có điện thoại gọi, xin phép đi ra, anh Tư nói
khẽ với tôi: anh hẹn tôi chiều nay anh sẽ gặp tôi bên nhà khách tỉnh ủy. Dặn
xong, anh lại quay sang hỏi tình hình địa phương, coi như anh đang làm việc với
danh nghĩa nhà báo cho đến khí đồng chí trưởng ty tiễn anh ra đến tận cửa cơ quan…
- Vậy từ sau ngày 1-10, chính ủy có còn gặp thợ ảnh lần nào nữa không?
- Không anh ạ, họ chỉ gặp nhau có lần ấy thôi.
- Còn tên kia, hắn có đi đâu xa không?
- Không, hắn cũng loanh quanh đi đâu một lát rồi về ngay…
- Như vậy họ đã đặt được hộp thư chết ở đâu đó và chỉ liên lạc qua hộp
thư đó thôi.
- Tôi cũng nghĩ như vậy…
Anh Tư trầm ngâm một lát rồi nói:
- Bây giờ thế này nhé, cậu phải tìm cho ra cái hộp thư chết ấy nhưng
phải thật khôn khéo. Còn việc quan hệ với Cắm Sềnh, cậu nên tích cực và chủ động
hơn nhưng chớ để lộ mình là ai. Cậu cứ lấp lửng chờ cho họ phải lộ mặt… Tóm lại
là bước đầu, cậu có thể tham gia tổ chức nhưng ở mức độ nhất định, làm sao tạo
cho họ mối nghi ngờ rất căng thẳng khiến họ sốt ruột mà chọc thẳng vào cậu. Bọn
mình sẽ đi vắng vài ngày để lên “thăm” đồng chí bạn mới “sang ta lánh nạn cách
mạng văn hóa”. Vị này khá đặc biệt đấy, quen biết các đồng chí của ta khá nhiều…
- Vâng, anh cứ đi, khi nào anh về tôi sẽ có nhiều điều để báo cáo với
anh…
Tổ phóng viên thường trú của anh Tư rời khỏi thị xã được hai ngày thì
máy bay Mỹ thường xuyên quấy đảo trên bầu trời. Các cỡ súng phòng không của bộ
đội Trung Quốc được dịp bắn lên không tiếc đạn. Máy bay Mỹ cũng phụt tên lửa xuống
mấy trận địa pháo. Lính Trung Quốc chết khá nhiều, nhiều đến mức ngạc nhiên, đến
những người dân thường không hề biết việc quân sự cũng không khỏi bàn tán. Những
người lính chết được tổ chức mai táng rất linh đình, có lễ truy điệu, có các
đoàn thể quần chúng trong thị xã đem vòng hoa đến viếng rồi mọi người đua nhau
đọc điếu văn, ca ngợi tinh thần chiến đấu hy sinh dũng cảm, vì chủ nghĩa quốc tế
vô sản vô cùng trong sáng của các chiến sĩ Quân giải phóng Trung Quốc. Những
chiếc áo quan phủ đầy vòng hoa được những người lính Trung Quốc chuyển lên xe
và đưa ra nghĩa trang riêng xây dựng trong các cánh rừng gần đó, hoặc trên các
sườn đồi…
Một hôm tôi thay mặt cơ quan đi dự đám tang của hai người lính Trung
Quốc. Những người này chết không phải do chiến đấu với máy bay Mỹ mà chết vì bệnh
tật. Chẳng hiểu ngành quân y của họ làm ăn ra sao mà luôn để xảy ra những việc
chết người, khi thì vì bệnh đường ruột, khi vì bệnh hô hấp, có lúc lại do tai nạn
lao động, đá lở hoặc đất sụt. Thật tội nghiệp cho những người lính vì nhiệm vụ
quốc tế phải bỏ xác nơi quê người. Tôi đứng trong nghĩa trang rộng bát ngát,
nhìn những dãy mộ chạy dài thành từng hàng nối tiếp nhau, những vòng hoa đã héo
khô hoặc vàng úa nằm rải rác bên mồ. Cảnh tượng thật làm não lòng người…
Mọi người đi dự tang lễ đã về hết mà tôi vẫn còn bần thần đứng trong
nghĩa trang. Ngoài tôi ra cũng còn một người nữa chưa về. Từ chỗ này tôi cũng
thoáng thấy đôi kính trắng lấp lánh của anh ta phía ngoài cổng. Tôi chợt nghĩ,
có lẽ anh ta đợi tôi cùng về chăng?
Tôi đi ra khỏi khu vực nghĩa trang đã thấy anh ta đang đứng dưới sườn
đồi . Tôi bước thẳng tới chỗ anh và chào:
- Chào đồng chí Lưu, đồng chí chưa về sao?
Lưu Nghị bắt tay tôi bảo:
- Tôi thấy đồng chí chưa về nên đứng chờ mà…
Hai chúng tôi bước song song đi xuống chân đồi. Lưu Nghị liếc nhìn tôi
và nói:
- Các chiến sĩ của chúng ta hy sinh vì Việt Nam nhiều quá… (Anh ta hơi
nhấn mạnh hai từ chúng ta và đưa mắt dò xét sự phản ứng của tôi, nhưng tôi vẫn
im lặng)… Vì Việt Nam, Trung Quốc không tiếc xương máu. Vậy mà vẫn có điều
không ổn, đồng chí Trương ạ…
Tôi hỏi:
- Có điều gì vậy, đồng chí Lưu?
Lưu Nghị thở dài:
- Vậy mà vẫn có người đã vội quên công ơn của Trung Quốc đấy.
- Anh nói sao, tôi không hiểu? – Tôi làm vẻ ngạc nhiên.
- Tôi nghĩ rằng đồng chí phải hiểu điều đó mới phải. Hiện nay có người
đang muốn chống lại Trung Quốc, họ muốn ve vãn bọn đế quốc xã hội Liên Xô, bọn
xét lại chủ nghĩa bẩn thỉu… Bọn vong ân bội nghĩa… Họ muốn chống lại Trung Quốc,
họ muốn đội đá vá trời…
Nghe giọng nói và nhìn bộ mặt của gã chính ủy Trung Quốc, tôi đã thấy
anh ta bộc lộ không cần giấu giếm cái tư tưởng nước lớn của bọn phong kiến
phương Bắc trước kia. Tôi không thể làm thinh trước giọng điệu xấc xược của anh
ta. Tôi nói thong thả nhưng rõ ràng:
- Đồng chí Lưu này, trên đời này không thể tránh khỏi có kẻ vong ân bội
nghĩa, có kẻ lợi dụng tình bè bạn để làm điều ngu xuẩn. Trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam, không riêng gì Trung Quốc đồng tình ủng
hộ mà cả thế giới tiến bộ đứng về phía chúng tôi (tôi nhấn mạnh hai tiếng chúng
tôi). Dân tộc Việt Nam chiến đấu không đơn độc trước kia, bây giờ cũng như sau
này, chúng tôi không quên sự giúp đỡ chí tình của anh em bè bạn, của Liên Xô,
Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em…
Có lẽ Lưu Nghị cảm thấy bối rối trước sự phản kích lại của tôi và anh
ta cũng thấy hớ khi nói ra những điều không nên nói ấy. Anh ta vội nắm tay tôi:
- Không… đồng chí Trương, đồng chí hiểu lầm ý kiến của tôi rồi… Việt
Nam, Trung Quốc trước sau vẫn là anh em mà…
Tôi hơi cười và nói thêm:
- Có thể là tôi hiểu lầm câu nói của đồng chí. Nhưng thôi, để rút kinh
nghiệm đồng chí nên giữ gìn lời nói. Nó có thể tổn hại đến tình cảm lớn của hai
dân tộc chúng ta và xúc phạm đến hương hồn những đồng chí nằm trong nghĩa trang
kia…
Lưu Nghị hơi tái mặt, tôi biết anh ta căm lắm nhưng anh ta vẫn tươi cười:
- Đúng, đúng… Tôi xin học tập đồng chí.. Đúng, đúng…
Anh ta xem giờ và kêu lên:
- Xin lỗi, đã đến giờ tôi phải về đơn vị. Tạm biệt đồng chí Trương, rất
mong có dịp tái kiến…
Chúng tôi bắt tay tạm biệt nhau. Lưu Nghị rẽ sang con đường về phái
núi, còn tôi đi thẳng. Đi được khoảng hai trăm mét, tôi vội quay trở lại. Tôi
không theo con đường ven đồi mà chạy ngược lên sườn đồi. Từ trên cao, tôi
thoáng trông thấy cái bóng màu xanh rêu của viên chính ủy Trung Quốc. Đang đi,
bỗng anh ta dừng lại, lơ láo nhìn quanh. Tôi vội nằm ẹp xuống cỏ. Khi tôi nhổm
lên không thấy anh ta đâu nữa. Tôi đứng hẳn dậy, nhìn rõ Lưu Nghị rẽ sang một
con đường mòn rồi đứng bên một gốc cây lớn, cây đa cổ thụ, rễ lòa xòa buôn xuống
như những cánh tay bám víu lấy mặt đất. Dưới gốc đã có mấy tảng đá nằm trở chỏng.
Lưu Nghị chui vào trong đám rễ đa, lát sau anh ta chui ra rồi theo đường mòn trở
lại con đường cũ và đi thẳng. Một ý nghĩ vụt đến trong óc tôi: hộp thư chết. Hộp
thư chết của họ đặt ở đó, ở trong đám rễ đa này…
“Gửi Huynh trưởng. Tiểu đệ đã thực hiện đầy đủ chỉ thị của Huynh trưởng.
Kết quả như thế nào sẽ báo cáo sau. Còn việc tìm kiếm Tam đệ hiện chưa có manh
mối. Ở nơi đệ đang sống, có một người họ Trương quê ở Phúc Kiến. Hành vi và
thái độ của hắn có nhiều điều kỳ quặc. Đệ nghi đó là Tam đệ nhưng không dám khẳng
định. Nhờ Huynh trưởng viết thư về nhà kiểm tra xem xét. Đệ mong phúc đáp của
Huynh trưởng. Em Hai”.
“Gửi Nhị đệ. Tổ quốc đã trả lời
đúng là có gia đình họ Trương đã lưu lạc sang Việt Nam từ lâu và đúng là chú Ba
cũng từ đó ra đi rồi vào miền Nam từ năm 1952. Có nhiều khả năng cái tên họ
Trương đó là chú Ba. Nhưng dù sao Nhị đệ cũng chưa được chắp nối. Việc này sẽ
do ta đảm nhiệm. Và dù cho tên họ Trương đó không phải là chú Ba đi nữa, thì Nhị
đệ vẫn cứ tiếp tục giác ngộ và đưa vào tổ chức, coi như những đồng bào khác của
ta. Anh Cả”.
“Gửi Huynh trưởng. Tiểu đệ đã
bước đầu nói chuyện với gã họ Trương. Lần này gã tỏ ra phục thiện hơn nhưng gã
bộc lộ khó khăn vì gã đang là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam nếu tham gia tổ
chức khác, sợ có thể bị khai trừ khỏi Đảng… Em Hai”.
“Gửi Nhị đệ. Việc tổ chức đưa gã họ Trương vào cuộc vận động cách mạng
văn hóa vô sản cần thận trọng và hết sức giữ bí mật cho hắn. Không nên để hắn
tham gia sinh hoạt chung với các nhóm khác, mà chỉ nên riêng với đồng chí. Đưa
hắn vào tổ chức của ta có thuận lợi vì hắn có hoàn cảnh đi sâu vào các vùng dân
tộc thiểu số, hắn am hiểu tình hình địa phương lại có uy tín với nhân dân trong
vùng. Lúc này ta cần mạnh dạn phát triển tổ chức, vì đối phương đang bị sa lầy
vào cuộc chiến tranh với Mỹ nên họ không dám ra mặt chống ta. Đối với gã họ
Trương, nên có những thử thách mới để tìm hiểu kỹ hơn về hắn. Anh Cả”.
“Gửi Nhị đệ. Việc tổ chức các tổ
cách mạng văn hóa vô sản nên nhằm vào các đối tượng là thanh niên học sinh kích
động họ bằng sách báo của chúng ta, bằng gương sáng của các tiểu tướng Hồng vệ
binh, nếu các khẩu hiệu như: đánh đổ bọn đương quyền, làm phản có lý để họ suy
nghĩ và hành động. Tránh bộc lộ lực lượng nhưng không rụt rè, chú ý cả số thanh
niên địa phương. Riêng những tổ CMVHVS ở các vùng dân tộc thiểu số sẽ có nội
dung thích hợp. Hết sức tránh việc khiêu khích với cán bộ lãnh đạo địa phương.
Ngoài mặt phải làm ra vẻ hết sức ủng hộ cuộc chiến tranh chống Mỹ của họ nhưng
bên trong cố gắng làm giảm sút ý chí, nhất là trong các đơn vị vũ trang. Anh Cả”.
“Gửi Nhị đệ. Gần đây quần chúng
có nhiều thắc mắc về lý do tại sao các chiến sĩ của ta lại hy sinh nhiều đến thế?
Cần thận trọng, bởi mỗi chiến sĩ phải hy sinh đều đem lại lợi ích lâu dài cho Tổ
quốc. Giải thích cho quần chúng rõ ràng chính vì Việt Nam mà người Trung Quốc
đã không tiếc thân mình. Nếu không có người Trung Quốc thì tình thế chiến cuộc ở
Việt Nam sẽ hoàn toàn đổi khác, bất lợi cho Việt Nam. Nói rõ, chẳng những Trung
Quốc viện trợ vũ khí lương thực cho Việt Nam mà cả xương máu nữa. Phê phán có mức
độ tư tưởng vong ân bội nghĩa. Cần so sánh cho quần chúng thấy rõ sự viện trợ
khổng lồ của Trung Quốc với lối viện trợ nhỏ giọt và vụ lợi của bọn đế quốc xã
hội… Anh Cả”.
…………
Những lá thư này tôi móc từ trong cái hộp thư chết. Chúng được viết bằng
chữ Hán và bằng lối chữ thảo loằng ngoằng rất khó đọc. Tôi sao lại và sau khi
sao xong tôi lại để bản gốc vào chỗ cũ, tôi dịch ra và đưa cho anh Tư xem.
Anh Tư xem xong và hỏi:
- Như vậy là cậu đã vào tổ chức của họ?
- Tôi mới chỉ nhận lời chứ chưa sinh hoạt lần nào. Mà họ cũng dè dặt lắm
đối với tôi. Vả lại thái độ của tôi vẫn tỏ ra chưa tin tưởng vào họ. Họ bảo tôi
làm tổ trưởng cách mạng văn hóa vô sản ở đây nhưng tôi không nhận. Tôi từ chối
khéo, chỉ xin tham gia chứ không làm phụ trách, vì điều đó sẽ dẫn đến việc tôi
bị khai trừ Đảng và như vậy thì hoàn toàn bất lợi cho cả tôi và cả họ. Họ đồng
ý. Nhưng lại bảo tôi về Hà Nội, liên lạc với báo Tân Việt Hoa để xin chỉ thị…
Tôi cũng từ chối… Tôi đợi đến khi cái người tên là “anh Cả” phải đến tìm tôi…
- Mình đồng ý với cách xử sự của cậu. Cần phải giữ giá, đừng vồ ngay lấy
họ mà họ sẽ nghi ngờ. Việc về Hà Nội chỉ là một thử thách thôi chứ ở đây sát
biên giới, việc gì họ phải cần đến sự chỉ đạo của Hà Nội. Họ có liên lạc với thằng
Bắc Kinh kia mà… Cậu không đi là phải, dù sao thì cậu cũng có cương vị nhất định…
- Tôi xem ý lão Sềnh và cả tay chính ủy đều không ưa gì tôi lắm…
- Thì trong thư gửi cấp trên, họ đã bộc lộ rõ. Nhưng họ không thể rời
cậu ra được. Giống như trong tình yêu ấy, mình càng lảng ra thì đối tượng càng
lao vào, nhất là khi mình lại có nhiều mặt trội hơn họ. Có điều phải thận trọng
và đánh giá đối tượng cho chính xác…
Rồi anh Tư kể cho tôi nghe kết quả công việc của nhóm các anh vừa làm.
Các anh đã tới “thăm” ông bạn vừa từ bên kia biên giới sang, với tư cách chạy
loạn cách mạng văn hóa vô sản. Họ tự nhận là những người cách mạng chân chính,
muốn nhờ đất ta để xây dựng lực lượng… Anh Tư bảo: đây là một trường hợp khá phức
tạp bởi nó liên quan đến nhiều vấn đề quan hệ quốc tế của ta, đồng thời cũng
liên quan đến nội bộ ta nữa., Chuyện này chưa thể kết luận ngay được và cũng
không thể giải quyết sớm được. Nó gần giống như công việc của tôi đang tiến
hành, gần như hai mặt của một vấn đề cùng song song tồn tại và cùng giải quyết
với nhau. Anh Tư bảo tôi, anh phải về Hà Nội dăm ngày để báo cáo và xin chỉ thị
mới. Để hỗ trợ cho tôi, anh đã cử Huy, anh lái xe hành khách sẽ bám sát tôi. Đó
là một đồng chí rất tháo vát, lanh lẹn và đủ tài ứng phó với những công việc đột
biến. Huy đang lái xe khách đường Hà Nội – Cao Bằng, đột nhiên không rõ sao anh
bị kỷ luật, thu bằng lái rồi về nằm khoèo trong khu tập thể của xí nghiệp. Cũng
thật đặc biệt, khu tập thể công nhân ấy lại ở sát ngay nhà tôi và Huy có thể bất
kỳ lúc nào chạy sang chỗ tôi bằng cổng sau…
Bây giờ, công việc chủ yếu của Huy là bám sát cái hộp thư bí mật ở gốc
cây đa cổ thụ có rất nhiều rễ phụ lòa xòa buông xuống. Anh đón sẵn ở đó, mỗi
khi viên chính ủy Trung Quốc hoặc lão thợ ảnh Cắm Sềnh vừa ra khỏi là anh lẻn
vào moi lấy ra những mẩu thư của họ, chụp lại rồi chuyển cho tôi. Có một đồng đội
như Huy, tôi rất yên tâm với nhiệm vụ của mình… Buổi tối, chúng tôi thường gặp
nhau trong nhà tôi và những ngày anh Tư về Hà Nội, tôi và Huy thường bàn bạc
trao đổi với nhau về mọi mặt tình hình… Ý kiến của Huy rất sắc sảo đã giúp tôi
rất nhiều…
Lão thợ ảnh Voòng Cắm Sềnh rất khó chịu mỗi khi phải tiếp xúc với viên
phó ty lâm nghiệp họ Trương. Cũng giống như Lưu Nghị, lão không ưa gì Trương, cứ
hở ra điều gì là y như bị Trương độp lại. Cùng một nguồn gốc Hán mà hắn luôn
luôn lên mặt với lão, làm như hắn chính gốc là người Việt vậy. Hắn là cái thá
gì mà mỗi khi tổ chức (tức là lão) gợi ý công việc là hắn từ chối thẳng thừng,
đưa ra lý lẽ này nọ để khước từ.
Cắm Sềnh rất căm nhưng vì lệnh của “Huynh trưởng” đã ban ra như vậy
nên lão phải nhẫn nhục. Mà tính chất người Trung Quốc thì luôn luôn có tài nhẫn
nhục, lão là người Trung Quốc, lão cũng có cái tài ấy. Lão đã từng nhẫn nhục suốt
mười mấy năm trời nay, lưu vong trên cái đất Việt Nam này, làm một anh người
Hoa lang thang trên mấy tỉnh, hết Lạng Sơn lại Cao Bằng rồi Hà Giang lên Lai
Châu, chỉ vẻn vẹn mấy tỉnh miền núi mà thôi. Địa bàn của lão đã được cấp trên
quy định như vậy, không thể tự ý lọt xuống vùng đồng bằng được…
Cách đây khoảng mười lăm năm, lão mang tên họ khác, là một tình báo
viên trẻ của Cục tình báo Hoa Nam. Thủ trưởng y lúc đó là một người trạc ngoài
ba mươi tuổi, họ Tạ, tương đương cấp dinh trưởng (lúc đó quân đội Trung Quốc
chưa phong quân hàm) trao nhiệm vụ cho y xâm nhập vào Việt Nam, trà trộn vào
đám cần vụ và cấp dưỡng của các đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc. Hồi đó ở Việt
Nam, mỗi cố vấn có đến hàng chục cần vụ và cấp dưỡng, di chuyển đến đâu đều có
người đi theo gánh chăn màn, quần áo, gánh những chậu men và gối nệm, gánh những
bu gà vịt và rau cỏ… Quy định của quân đội cách mạng Trung Quốc ngày đó đã nói
rõ: cấp dinh trưởng có hai gánh và một ngựa, như vậy là phải có hai cần vụ để
gánh và một để coi ngựa. Dinh trưởng mà còn vậy huống chi là các cấp cao hơn…
Trước khi rời khỏi Hoa Nam, người tình báo viên được thủ trưởng Tạ
trao đổi rất kỹ về nhiệm vụ. Ông ta nói:
- Đồng chí Sang Việt Nam và ở đó lâu dài, hoạt động độc lập. Đồng chí
cần tìm một nơi tiện bề liên lạc và cắm sâu vào đó. Đồng chí sẽ mang tên họ
khác… Tôi trao cho đồng chí vật này…
Ông ta đưa cho y mấy lá vàng và dặn:
- Đây là lương khô để sử dụng trong những ngày xa Tổ quốc. Vàng này
bên Việt Nam gọi là vàng Kim Thành, loại vàng tốt nhất. Đồng chí cũng sẽ lấy
tên là Hoàng Kim Thành. Tổ quốc mới giải phóng tuy nghèo, nhưng cũng không tiếc
gì đối với công tác của đồng chí, chỉ mong đồng chí sử dụng nó cho đúng chỗ và
có lợi nhất… Chúng ta hẹn sẽ gặp lại nhau trong một ngày toàn thắng…
Hoàng Kim Thành cảm động, y hứa hẹn với thủ trưởng sẽ làm tròn nhiệm vụ
dù cho phải nhảy vào lửa cũng không từ nan. Đóng vai một giám mã, y gia nhập
đoàn cố vấn quân sự vào Việt Nam. Được một tháng sau, khi đoàn di chuyển từ Việt
Bắc về Khu 3 để chuẩn bị cho chiến dịch Hà Nam Ninh thì Kim Thành (tức Cắm Sềnh
gọi theo tiếng Quảng Đông sau này) rời khỏi đoàn cố vấn. Y lang thang tại mấy
thị xã vừa được giải phóng, ở Thất Khê, Đông Khê rồi Cao Bằng. Và y đóng lại ở
đó, ngay tại cái thị xã xinh đẹp đầu mối của hai con đường, một đi Bắc Cạn –
Thái Nguyên và một xuống Lạng Sơn rồi Bắc Giang về xuôi. Đấy là một hợp điểm lý
tưởng. Năm 1954, sau khi Việt Nam đánh thắng thực dân Pháp, Cắm Sềnh trở lại
Trung Quốc. Y đã gặp lại thủ trưởng Tạ nghe chỉ thị mới rồi y lại trở về Cao Bằng.
Lần này để tỏ quyết tâm sống lâu dài ở Việt Nam, được phép của tổ chức y lấy một
người phụ nữ dân tộc Nùng làm vợ và có với người đó một thằng con trai, lấy tên
là Voòng Chuýn – tức Hoàng Quân. Năm 1962, y lại trở về Trung Quốc. Lần này y
đi hợp pháp, có giấy phép của Bộ Ngoại giao Việt Nam và cả Đại sứ quán Trung Quốc.
Y lại được gặp thủ trưởng Tạ bây giờ đã là đại tá tư lệnh sư đoàn.
Lần về nước thứ hai này hơi cập rập và y không được phép đi về thăm
quê hương, nơi đã sinh ra y. Cấp trên không nói ra nhưng y biết rằng, tình hình
Trung Quốc đang gặp khá nhiều khó khăn về mặt kinh tế và về chính trị thì trong
nội bộ đang căng thẳng giữa các phe phái. Lần trước y về nước được ít lâu và y
chỉ được nghe toàn những chuyện tốt đẹp. Trong những năm cuối cùng của thập kỷ
năm mươi, toàn dân Trung Quốc nô nức làm kinh tế theo hướng “đại nhảy vọt”; ở
nông thôn, nông dân bị dồn vào các loại công xã và đua nhau làm lúa về tinh;
ngoài thành phố thì công nghiệp chạy theo khẩu hiệu: “Đuổi kịp nước Anh trong
15 năm”… Rồi cả nước hò nhau làm gang thép, đâu đâu cũng có lò nấu thép, người
ta bỏ hết cả công việc hàng ngày để đi nấu thép, làm như có thép là có cả thiên
đường…
Tất cả những công việc phiêu lưu và viển vông ấy đã tàn phá nghiêm trọng
cuộc sống bình thường của mọi người dân Trung Quốc. Xã hội Trung Hoa lại trở về
thời kỳ cũ chỉ có đói và rét, kèm theo sự sợ hãi, lúc nào cũng nơm nớp sợ hãi…
Sống ở Trung Quốc chưa đầy ba tuần, Cắm Sềnh vội vã tháo lui, quay lại
Việt Nam, vừa để tỏ ra sốt sắng với nhiệm vụ, vừa để rút chạy khỏi cơn ác mộng
đang bao trùm lên cả lục địa mênh mông hàng sáu, bảy trăm triệu dân này… Y lại
trở về Cao Bằng, dù sao thì cái thị xã nhỏ bé của vùng biên giới Việt Nam này
cũng ổn định hơn rất nhiều. Những năm 60, Việt Nam thắng mấy vụ lúa liền, gạo
thóc hạ, thực phẩm sẵn và hàng hóa vật dụng đều nằm trong tay Nhà nước quản lý.
Đời sống ở nông thôn lẫn thành thị đều rất ổn định… Năm ấy, Cắm Sềnh xin phép
phỏng Văn hóa thị xã mở hiệu chụp ảnh. Mới đầu, y tham gia vào hợp tác xã nhiếp
ảnh của thị xã, dần dà y rút về làm cá thể. Vì chính sách đối với người Hoa nên
chính quyền thị xã phải làm ngơ cho y hành nghề.
Hiệu ảnh của y ở ngay đầu thị xã, phía sau nhà là bãi trống và phía
trước là con đường thông thẳng tới ngoại ô thị xã, chẳng có gì vướng víu, chẳng
có ai có thể dòm ngó nhà y mà không lộ dạng…
Một đêm, Huy sang nhà tôi, đưa cho tôi tấm phim chụp bức thư mà anh vừa
moi từ trong hộp thư chết lúc xẩm tối. Tôi vặn to đèn, lấy kính lúp soi lên, tấm
phim hiện ra những dòng chữ Hán nhỏ ly ty như những cái chấm đen.
“Gửi Nhị đệ. Ngày G + 1, ta sẽ
tới thị xã và sẽ vào thăm gia quyến. Anh Cả”.
Tôi lẩm nhẩm tính toán và khi ngước nhìn lên cuốn lịch treo trên tường,
tôi choáng người. Nếu tôi tính không lầm thì nội trong ngày mai, cái người có
tên là “anh Cả” sẽ tới nơi đây và liên lạc với Cắm Sềnh. Hắn là ai? Hắn đến đây
bằng cách nào? Bí mật hay công khai? Tôi băn khoăn quá vì có rất nhiều khả năng
là hắn sẽ tìm đến tôi. Con người mà tôi đã chờ đợi từ mười mấy năm trời nay, chẳng
lẽ lại xuất hiện đột ngột như vậy? Thật ra cũng chẳng có gì đột ngột, đã đến
lúc hắn đến thì hắn phải đến. Và đã đến lúc tôi phải lộ diện trong vai trò của
tôi. Tôi hồi hộp và thoáng chút lo lắng giống như tâm trạng của người diễn viên
đã đến giờ mở màn…
Anh Tư, chỉ tiếc lúc này anh không có mặt ở đây, anh đang còn bận việc
ở Hà Nội chưa lên. Tôi phải tự mình đề ra phương hướng hoạt động, tự mình quyết
định. Gần mười năm nay, tôi nằm im và chịu mọi sự điều động của cấp trên. Lúc
này mới là lúc một mình tôi hoạt động. Vậy thì có gì phải lo lắng, chẳng lẽ suốt
một thời gian nằm im chờ đợi trong không khí có vẻ bình yên này đã làm tôi nhụt
trí rồi sao?
Hình như cũng cảm thấy sự lo lắng của tôi, Huy nhắc:
- Có chuyện rồi phải không, anh Bảy?
- Ừ, tôi gật đầu, hổ đã xuất chuồng, ngày mai tới đây… Nó sẽ lần đến
mình đấy…
- Anh có cần em về ngay Hà Nội báo cáo với anh Tư?
- Khỏi cần. Suốt cả ngày mai, công việc của chú là bám chặt lấy hiệu ảnh
của thằng Sềnh; không được rời mắt lấy nửa phút, có tin gì, thông báo cho mình
ngay…
- Vâng, chúng em sẽ làm tròn nhiệm vụ…
Huy nói đến hai chữ chúng em, có nghĩa là ngoài anh còn có nhiều đồng
chí khác nữa. Và cũng có nghĩa rằng công việc bám sát Cắm Sềnh ấy sẽ do người của
anh đảm nhiệm, những người mà tôi hoàn toàn không cần biết mặt, biết tên. Còn
anh, anh có nhiệm vụ luôn luôn bên cạnh tôi, bảo vệ tôi…
Đã sắp hết năm 1966 rồi, chỉ còn vài ba ngày nữa là đến tết dương lịch.
Chúng tôi vừa được nghỉ lễ Nô-en. Cuộc chiến tranh chống Mỹ của nhân dân từ Bắc
đến Nam đã qua những năm tháng quyết liệt.
Mỹ đang đổ sức lực để leo lên nấc thang mới trong cuộc đánh phá miền Bắc và kéo
quân vào miền Nam. Cả nước đang tập trung mọi trí tuệ, mọi sức lực để vật lộn với
kẻ thù nguy hiểm. Trong khi ấy, ông bạn láng giềng của chúng ta, kẻ tự xưng là
“hậu phương vững chắc” vẫn chơi trò hai mặt. Họ giúp đỡ ta về lương thực, vũ
khí và ngày đêm đài Bắc Kinh cũng ra rả chửi Mỹ, ca ngợi cuộc chiến đấu của
chúng ta nhưng đồng thời, họ cũng cấy vào cơ thể chúng ta những ổ vi trùng làm
hủy hoại sức lực ta.
Hôm sau trời rét ngọt, bầu trời u ám đầy mây. Gần chiều, mưa phùn rơi
xuống trắng xóa. Gió thổi hun hút. Ăn cơm trưa xong, tôi quyết định ngồi nhà,
không đến cơ quan, lấy cớ bị đau dạ dày. Tôi phải ở lại để ngóng tin tức của
Huy. Khoảng hai giờ chiều, Huy đi lối ngõ sau vào nhà tôi. Anh bỏ áo mưa, ngồi
sà xuống bếp lửa xuýt xoa vì rét. Uống cạn chén trà nóng, Huy bảo tôi:
- Anh Bảy ạ, vừa rồi bên tỉnh tiếp khách. Chẳng biết khách là ai nhưng
việc đón tiếp có vẻ trân trọng lắm…
- Ai thế nhỉ? Ở Hà Nội lên à? Chú mà không mò ra được thì chắc là các
ông ấy giữ kín lắm đấy…
Huy mỉm cười:
- Đúng là bên ấy giữ rất kín nhưng em vẫn biết chứ anh… Anh có đoán ra
là ai không?
Tôi lắc đầu, chịu không thể đoán được.
- Cái vị mà anh Tư mới lên “thăm” ấy mà… Chính là cái vị ấy đấy. Anh
biết chứ?...
Tôi “à” lên một tiếng và đứng nhổm lên. Tôi chợt nhớ lại những điều mà
anh Tư đã nói với tôi sau khi anh đi vắng về. Có lẽ việc đón tiếp vừa rồi phải
giữ kín vì tránh động chạm đến công việc đối ngoại đang rất tế nhị giữa ta và
ông bạn lớn. Hồi nay tôi nghe thiên hạ xì xào đến việc có nhiều người Trung Quốc
muốn chạy sang ta để lánh nạn “cách mạng văn hóa”, ngay trong số sĩ quan chỉ
huy những đơn vị làm đường cũng có người với cấp chức không nhỏ, đã xin ở lại
cư trú chính trị. Tất nhiên chúng ta cũng không thể chấp nhận và số người này
khi trở về Trung Quốc lập tức đã bị hành quyết. Nghe nói mà rùng rợn, mà thương
xót cho thân phận con người! Thế mà nay lại có người đã được đón tiếp tuy rất
bí mật. Nghe anh Tư kể thì người đó rất quen thuộc với nhiều cán bộ cao cấp của
ta đã từng hoạt động cách mạng ở bên ấy… Phải chăng đây là trường hợp ngoại lệ,
hay còn vì lý do gì khác?
Nhưng điều mà tôi băn khoăn hơn cả là tại sao cái vị khách đặc biệt đó
lại xuất hiện vào đúng ngày G + 1 này? Sự kiện đó có liên quan gì với nhau? Chẳng
lẽ lại là một? Chẳng lẽ một người mang danh “cách mạng chân chính” lại là trùm
một tổ chức tình báo sao? Và rồi chính vị đó sẽ tìm đến tôi ư?
Trong khi tôi mải suy nghĩ, phán đoán thì Huy vẫn ngồi bình thản nhấp
nước trà. Ngó gương mặt tươi rói mặc dù có bị nhợt đi vì mưa và gió rét của
Huy, tôi dám chắc anh còn có điều gì chưa nói hết. Nghề nghiệp đã luyện cho anh
tính điềm đạm hết mực, không nôn nóng bộp chộp như những người cùng lứa tuổi.
Tôi thong thả ngồi xuống, không thốt ra lời gì cả, đợi Huy nói hết.
Quả nhiên, Huy đặt chén trà lên khay rồi báo:
- Có người vào nhà Cắm Sềnh rồi đấy, anh Bảy ạ…
- Lúc nào? – Tôi vội hỏi – Mà chú có nắm được khách là ai không?
- Cách đây khoảng một giờ, lúc chưa đến mười ba giờ trưa nay, một người
lạ mặc áo mưa kín người và đội nón cũng che kín mặt, đi giày ủng cao su, chống
gậy vào nhà Cắm Sềnh, chừng vài phút rồi ra ngay…
- Chú không được nhìn rõ mặt à?
- Không thể nhìn rõ được vì hắn che rất kín… Nhưng em có cơ sở để phán
đoán đó là… chính cái vị khách vừa đến tỉnh ta sáng nay.
Lần này thì tôi bật nảy lên:
- A…
Người khách vào hiệu ảnh của Cắm Sềnh vào giữa trưa mưa và rét. Thị xã
lúc này vắng vẻ, chẳng ai có việc gì phải tội thân ra ngoài đường, mỗi bước đi
mỗi bước lội và hứng lấy những giọt mưa buốt như kim châm đâm vào rát mặt. Nhiều
cửa hàng đóng cửa, rét này lấy đâu ra người mua. Chợ búa cũng lèo tèo mấy hàng
rau cỏ, mấy hàng cá khô…
Người khách bước thẳng vào trong nhà, nón áo chẳng buồn bỏ ra, làm những
giọt nước nhỏ xuống ướt sũng trên nền gạch, đế ủng bê bết bùn đất nhão nhoét. Cắm
Sềnh hơi ngạc nhiên, lão lùi lại khi người khách đi vào phòng trong. Và mãi tới
lúc này ông ta mới chịu bỏ cái nón xuống kịp để cho Cắm Sềnh nhận mặt rồi lại
chụp ngay lên đầu.
Lão chủ người Hoa há miệng, khẽ kêu lên:
- Tạ… tư lệnh…
Người lạ suỵt một tiếng, nói nhanh
- Nhị đệ…
- Huynh trưởng đã tới…
- Phải, ta đã đến. Gọi Trương Đạt đến gặp ta…
Cắm Sềnh trợn mắt:
- Gọi bây giờ sao? Nguy hiểm lắm…
- Không, hẹn nó đêm nay tới gặp ta ở hộp thư chết. Đêm nay đúng 12 giờ,
rõ chưa, Nhị đệ?
- Tôi đã rõ, thưa Huynh trưởng…
- Thôi ta đi, tái kiến…
Người lạ quay ngoắt người, bước nhanh ra cửa. Chiếc nón kéo xuống kín
mặt, gã đi lẫn vào trong mưa mù và biến mất.
Lát sau, Cắm Sềnh bước ra, ngó ngược xuôi rồi trùm áo mưa đi vào trong
phố.
Huy vừa ở nhà tôi ra về được một lát thì Cắm Sềnh tới. Lão không vào
nhà mà đứng trước cửa réo to:
- Cháu Tú Hoa à… Cháu Tú Hoa có nhà, ra cho bác hỏi chút việc…
Con gái tôi chạy ra. Cắm Sềnh giũ áo mưa hỏi:
- Vậy chứ thằng Chuýn nhà bác có sang đây học với cháu không?
- Không bác ạ… Bạn Chuýn không đến cháu…
- Khổ quá, nó đi đâu từ sáng, mưa rét thế này mà đi chơi… Bác cứ ngỡ
nó sang học bên nhà cháu…, Khổ quá mà…
Trong nhà, tôi nghe thấy hết. Để cho lão đứng ca cẩm một lát, tôi mới
thong thả bước ra:
- Chào ông Sềnh, mời vào nhà đã, vào uống chén trà nóng…
Thấy tôi, mặt lão tươi hẳn lên.
- Chào ông Trương… Tôi cứ tưởng ông đi làm.
- Chiều nay tôi bị đau nên xin nghỉ ở nhà. Ông vào nhà đi…
- Vâng, vâng…
Lão theo tôi vào hẳn trong nhà. Khi thấy con bé Tú Hoa không còn đấy nữa,
lão thấp giọng bảo tôi:
- Đồng chí Trương, cấp trên cần gặp mặt đồng chí… Mười hai giờ đêm
nay, đồng chí có mặt ở hộp thư chết…
- Chỗ ấy là đâu, tôi chưa được biết?
- Ờ đồng chí không biết thật, tôi sẽ hướng dẫn. Đêm nay, tôi sẽ đón đồng
chí ở đầu nhà tôi, tôi sẽ đưa đồng chí đến gặp cấp trên…
- Rét quá… - Tôi làm ra vẻ lừng khừng.
- Đồng chí nhất thiết phải đến…
- Vâng... Tôi sẽ đến, nhất định thế rồi.
Cắm Sềnh đội mưa đi về. Tôi vẫn đứng sững giữa nhà. Mặc dù đã dự kiến
từ trước rằng thể nào họ cũng tìm đến tôi vậy mà lúc này, khi cái sự thể nó đã
diễn ra đúng như vậy thì tôi lại hơi bàng hoàng. Bởi vì sự phỏng đoán của mình
quá chính xác và cái trò chơi của mình đã đem lại kết quả sớm hơn dự tính…
- Tú Hoa, - tôi gọi to, - con sang tìm chú Huy cho ba nhờ tý chút,
nghe! Con gái của ba đi nhanh lên nghe!
Cái bóng loắt choắt của con bé với chiếc nón to chụp như cái nấm lách
qua cửa sau đi luôn. Và cũng chỉ một thoáng sau đã thấy nó đẩy cửa trở vào.
- Ba ơi, chú Huy không có nhà…
- Vậy lát nữa con sang tìm lại hộ ba nghe!
- Khi nào chú Huy về, chú ấy sẽ sang ngay mà. Con không phải đi nữa
đâu.
- Con dặn lại ai ở bên đó?
- Con không dặn ai cả nhưng con đã có ám hiệu cho chú ấy rồi…
“Ám hiệu?”. Tôi ngạc nhiên, tại
sao con tôi mới mười tuổi mà đã biết dùng cái từ lạ tai ấy?
Tú Hoa thản nhiên trước sự ngạc nhiên của cha nó:
- Vâng, ám hiệu thật mà. Con và chú Huy đã thống nhất với nhau rồi. Ba
xem kia kìa (Nó chỉ ra vườn rau nhà tôi, nơi ngăn cách với khu vực của nhà tập
thể xe khách. Ngay trên cánh cổng sau của chúng tôi có một cành lá rấp bên
ngoài). Đó… đó, khi nào có việc cần thì con cứ để cành lá ngoài cổng là thế nào
chú Huy cũng sang ngay, chú ấy dặn con như vậy mà…
Tôi chưa kịp phản ứng ra sao thì cánh cổng sau bị đẩy vào, và đã thấy
gương mặt tươi tắn của Huy hiện ra. Con bé Tú Hoa chỉ tay, reo lên:
- Chú Huy… Đấy, ba thấy chưa? Ba xem con nói có đúng không?
- Giỏi lắm, con gái ba giỏi lắm… Thôi con vào học bài đi rồi sửa soạn
nấu cơm cho mẹ…
Huy giũ mảnh vải nhựa từ ngoài hiên, anh vứt nó lên tấm phản và bước
vào, hỏi luôn:
- Có việc gì đấy anh?
Tôi hỏi lại Huy:
- Có tin gì mới không?
- Tin không mới nhưng khá quan trọng. Tôi có thể khẳng định với anh
cái người vừa đến nhà Cắm Sềnh đúng là vị khách đặc biệt của tỉnh đấy… Anh Bảy
này, vậy ra họ lợi dụng tấm lòng nhân ái bao dung của chúng ta mà làm cái trò tệ
hại này à?
- Một mũi tên nhằm được hai đích, chú Huy ạ. Nếu chúng ta mất cảnh
giác thì họ lợi dụng lòng tin cậy ấy để làm hại mình. Ngược lại nếu ta biết thì
tất cả những người cách mạng chân chính khác sẽ bị ngờ vực tất cả, không còn
con đường sống nào khác nữa. Thế đấy!
Im lặng một lát, tôi nói:
- Đêm nay họ cần gặp tôi…
- Ngay đêm nay? Ở đâu, anh?
- Mười hai giờ đêm nay tại hộp thư chết. Tôi vờ như không biết chỗ ấy
là đâu nên lão Sềnh sẽ dẫn tôi đi…
Tối hôm ấy tôi đi nằm rất sớm nhưng không sao chợp mắt được. Tôi cố
ghi nhớ lại mọi điều cần thiết để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ kỳ thú đêm nay. Chuyện
xảy ra đã mười mấy năm rồi, khi tôi còn công tác ở Khu 5.
Hồi ấy, sau khi giải phóng lục địa không lâu, ở Trung Quốc người ta đã
nghĩ đến chuyện phát triển ảnh hưởng của họ xuống các nước phía Nam và Đông Nam
Á. Người ta đã tính đến một lực lượng đặc biệt khá hùng hậu của họ đang nằm rải
rác ở các nước lân cận, đó là những Hoa kiều đang làm ăn sinh sống ở Việt Nam,
Lào, Thái Lan, In-đô-nê-xi-a, v.v… Họ muốn biến những kẻ tha phương đó thành đội
quân thứ năm, hoạt động trong lòng đối phương, trước hết là nắm các nguồn kinh
tế chủ yếu rồi nắm các xu hướng chính trị, cột chặt các bè bạn láng giềng vào
chính sách chung của họ…
Một loạt các tình báo viên được cử đi để làm nhiệm vụ “nắm” đội quân
thứ năm đó. Trong số vào Việt Nam lúc ấy có một anh tình báo trẻ tuổi. Tại sao
lại trẻ tuổi? Chính là vì những người đó sẽ phải cắm lâu dài, có khi cả đời người
để chuyên tâm hoạt động. Muốn trồng một loại cây mới trên mảnh đất khác, không
ai đem trồng cái cây đã quá lứa, người ta phải trồng cây non. Có vậy mới sống
lâu và rễ cắm mới sâu, cành lá mới tỏa ra kín đất…
Người tình báo trẻ tuổi kia đã vào Việt Nam bằng con đường hợp pháp,
anh ta theo đường biển lọt được vào cảng Hải Phòng, đóng vai con trai một
thương gia lớn ở Hồng Công. Hồi ấy, Hải Phòng cũng như các thành phố khác ở Việt
Nam đều còn nằm trong vùng tạm chiếm của quân đội viễn chinh Pháp. Một người
Trung Hoa dân quốc đến Hải Phòng không làm cho chính quyền chiếm đóng nghi ngờ
gì hết, vì số người Hoa ở đây làm ăn buôn bán khá đông, lại luôn có liên hệ với
Hồng Công và Đài Bắc…
Người tình báo viên này ở Hải Phòng không lâu vì nhiệm vụ của anh ta
không phải ở đó. Anh ta lên Hà Nội và tung tiền ra cho lãnh sự quán Tưởng Giới
Thạch kiếm giấy căn cước và hộ chiếu để vào miền Nam Việt Nam. Giữa năm 1952,
người tình báo viên lọt được vào thành phố Sài Gòn, anh ta luồn sang Chợ Lớn,
“thủ đô” của giới Hoa thương. Lúc đó, chi bộ cộng sản Trung Quốc toàn những người
Hoa lao động nghèo khổ. Cuộc cách mạng Trung Quốc vừa thắng lợi, hình ảnh nước
Trung Hoa đỏ đang làm ghê sợ chẳng những các nước phương Tây mà ngay cả những
tiểu tư sản hay tư sản người Hoa đều hoảng hốt. Rồi tin tức về những cuộc Tam
phản, Ngũ phản, về cuộc cải tạo công tư hợp doanh từ lục địa Trung Quốc lan đi
càng làm cho những thương gia Hoa kiều nghi kỵ và căm ghét ngay chính tổ quốc của
họ…
Người tình báo viên trẻ chỉ có thể dựa vào những người Hoa nghèo hèn nên
anh không thể nào với lên được cái tầng lớp thương nhân cỡ lớn đang nắm nhiều
nguồn kinh tế và tài chính, lớp người mà anh cần phải tranh thủ và tổ chức
thành nòng cốt của đội quân thứ năm, đúng theo như chỉ thị của Bắc Kinh. Anh hoạt
động khá vất vả, phải khéo léo thuyết phục lắm mới lôi kéo được một số người
tha thiết với tương lai và sự hùng mạnh của đất nước Trung Quốc. Mục tiêu của
anh rộng lớn hơn, anh ta muốn từ đất Sài Gòn – Chợ Lớn này gây dựng cơ sở để
làm bàn đạp đánh thông sang tận Cam-pu-chia và Thái Lan.
Nhưng đến giữa năm 1953, tức là sau khi anh xâm nhập được tròn một năm
thì, mọi tổ chức của anh đều bị bọn Phòng nhì Pháp đánh hơi thấy và phá tan
tành. Thì ra đã từ lâu, trong số người mà anh ta tổ chức đó, nhiều kẻ đã bán
mình cho các cơ quan gián điệp phương Tây, kẻ theo Phòng nhì, kẻ bị CIA mua chuộc
và có kẻ còn ngoắc tay với bọn tình báo Anh… Những kẻ ấy vờ theo anh rồi bán tất
cả tổ chức của anh cho kẻ thù. Với tuổi đời còn quá trẻ, lại thiếu kinh nghiệm
tiếp xúc với giới thương gia, anh không hiểu nổi mọi uẩn khúc của nghề kinh
doanh nên không đánh giá hết bản chất thật của họ. Và tất nhiên là anh phải
gánh lấy mọi thất bại. Bọn Phòng nhì Pháp chăng lưới để vây bắt anh. May nhờ được
một người Hoa yêu nước và tốt bụng báo tin nên anh đã thoát khỏi. Anh chỉ kịp
thông báo về trung tâm rồi vù thẳng ra miền Trung. Đó là phương án cuối cùng mà
anh đã thỏa thuận với thượng cấp. Tại một thị xã ở miền Trung Việt, anh có mấy
gia đình họ hàng, đồng hương, anh có thể đến đấy, nhận họ hàng rồi chờ thời cơ
móc nối nhiệm vụ tiếp.
Kẻ địch vẫn theo dõi anh rất chặt. Trên đường từ miền Nam ra, anh đã bị
chúng săn đuổi và bị bắn trọng thương. Nhưng anh vẫn đủ sức lết tới một gia
đình lao động ở thị xã Phan Thiết. Gia đình đó lại là cơ sở của lực lượng kháng
chiến Việt Nam. Họ đã cứu anh như cứu giúp một chiến sĩ cách mạng và báo tin
cho các tổ chức hoạt động bí mật trong thị xã. Các chiến sĩ biệt động đã đưa
anh lúc đó bị thương khá nặng về căn cứ kháng chiến của Khu 5.
Khi tôi được lệnh đến gặp anh thì anh – người tình báo viên Trung Quốc,
đang trong tình trạng sống dở chết dở. Anh bị thương trúng ngay cột sống, không
có cách gì cứu chữa. Trong một chiếc lán riêng biệt ở rừng, trên chiếc giường
cá nhân có phủ nệm cỏ, anh nằm bất động. Nửa người dưới đã bị liệt hoàn toàn.
Nhìn người thanh niên cùng tuổi với mình, đang chết dần vì trúng đạn kẻ thù,
lòng tôi vô cùng thương cảm. Lúc đó chúng tôi thực sự coi anh như một người đồng
chí cùng lý tưởng. Chúng tôi quyết tâm cứu chữa anh bằng mọi biện pháp có thể
được. Anh lắc đầu, anh biết anh không có hy vọng gì sống nổi và nếu có sống
cũng chỉ là cuộc sống thoi thóp và tàn phế. Anh không còn hy vọng được đi lại
như mọi người bình thường, không còn tiếp tục hoạt động được nữa và không bao
giờ có thể trở về được Trung Quốc, trở về với tỉnh Phúc Kiến quê hương anh… Lúc
này đây, ở bên ấy, những người cùng tuổi như anh đang tưng bừng xây dựng lại đất
nước, tuổi trẻ của anh không được may mắn như họ. Anh phải đi xa tổ quốc để làm
một công việc mà chính anh cũng chưa hiểu hết tại sao phải làm. Đất nước của
anh rộng mênh mông, suốt từ dãy Hi Mã Lạp Sơn đến giáp bờ Đông Hải, suốt từ Tân
Cương đến biên giới Việt Nam. Dân tộc anh lại rất đông, quá đông là đằng khác,
lúc đó đã chiếm hơn nửa tỷ người, lại đói, lại rét, biết bao người đang không
có nhà ở, không có quần áo mặc, không có miếng cơm ăn và đang có biết bao nhiêu
công việc cần phải làm… Vậy mà tại sao người ta lại cử anh đi ra ngoài nước để
làm những nhiệm vụ kỳ quặc, chẳng có lợi ích gì cho những người dân bình thường?
Người ta muốn mở rộng ảnh hưởng đến những nước xa lạ, buộc những nước này phải
chịu lệ thuộc vào Trung Quốc giống như những người da trắng đã đối xử với dân tộc
anh khi xưa? Nước anh đã là một nước xã hội chủ nghĩa, chẳng nhẽ một nước xã hội
chủ nghĩa lại còn đi rình mò kiềm chế sự tự do phát triển của các dân tộc láng
giềng? Tất cả sự thật dường như trái với mọi điều, mọi nguyên lý mà anh được học
tập tại trường Đảng và được đọc trên các cuốn sách do chính các đồng chí lãnh tụ
của anh đã viết ra. Công việc mà anh vừa tiến hành ở Việt Nam suốt một năm trời
nay có giúp ích gì cho cuộc kháng chiến chính nghĩa chống thực dân Pháp của
nhân dân Việt Nam? Vậy mà khi anh bị bọn thực dân đuổi bắt, rồi bị bắn trọng
thương, thì lại chính những người Việt Nam kháng chiến đã cứu anh…
Trong những ngày cuối cùng của đời mình, người tình báo viên Trung Quốc
đã suy nghĩ rất nhiều, đã tỉnh lại, đã chua chát nhận thấy do sự phản trắc của
những người lãnh đạo trực tiếp, những Hoa kiều giàu có nên anh đã bị đẩy vào
tình thế tuyệt vọng này. Những người mà anh có nhiều kỳ vọng nhất, chẳng riêng
anh mà cả các cấp trên của anh cũng vậy, những thương gia cỡ lớn ở Sài Gòn đã
bán đứng số phận của anh cho kẻ thù…
Giữa lúc đó, tôi được lệnh đến gặp anh. Anh muốn thổ lộ tất cả với
chúng ta, muốn cho chúng ta biết mọi sự thật về anh để đáp lại tấm lòng cưu
mang giúp đỡ của nhân dân ta đối với anh. Vả lại anh cũng muốn được thanh thản
trước khi từ giã cõi đời này….
Trong cái lán giữa rừng, cách những lán thương binh khác một con suối,
chỉ có tôi và anh với một vài bác sĩ, y tá ngày ngày đến thay băng và tiêm thuốc
cho anh. Gương mặt người thanh niên Trung Quốc lúc đó thật dễ thương, nước da
trắng nhợt vì mất máu, mái tóc đen nhánh và đôi lông mày lưỡi mác, đôi mắt đen
và dài.
Khi tôi tự giới thiệu anh cười, nụ cười nhợt nhạt và nắm lấy bàn tay
tôi rất lâu:
- Đồng chí, xin cảm ơn đồng chí…
Anh nói nhỏ bằng tiếng Việt Nam khá thạo, chứng tỏ anh đã được chuẩn bị
khá chu đáo trước khi rời Trung Quốc.
Tôi kéo chiếc ghế gỗ ngồi bên giường anh và nói với anh rằng: Theo yêu
cầu của đồng chí, tôi được cấp trên cử xuống trước hết là thăm sức khỏe của đồng
chí, sau nữa xin nghe đồng chí nói. Có điều, tôi xin lưu ý đồng chí rằng: việc
này hoàn toàn do tự nguyện của đồng chí. Điều gì đồng chí thấy cần nói cho
chúng tôi biết thì đồng chí nói, còn điều gì mà đồng chí cảm thấy không nên nói
thì đồng chí không nói. Tôi sẽ không hỏi gì hết. Hai nữa, đồng chí nên nói bằng
tiếng Trung Quốc, như vậy vừa đảm bảo được bí mật và đồng chí đỡ mất sức khỏe
hơn…
- Cám ơn đồng chí… Những điều tôi muốn nói và sẽ nói với đồng chí, tôi
đều đã suy nghĩ kỹ và nếu đồng chí biết tiếng Trung Quốc thì tốt quá. Bởi vì,
tuy tôi biết tiếng Việt Nam nhưng nếu nói ít thì được, nói nhiều tôi chưa quen
và cũng phải suy nghĩ rất mệt… Cám ơn sự chu đáo của các đồng chí…
Lúc mới tới, tôi chỉ nghĩ tôi sẽ ở đây chừng hai, ba ngày là nhiều. Về
sau, khi đã đi sâu vào vấn đề của anh, tôi đề nghị và cấp trên cũng chấp thuận,
tôi đã sống bên anh suốt hai tuần liền. Tôi ngủ ngay trong lán của anh, trên một
chiếc giường của viện điều trị. Tôi ăn cùng với anh em trong viện, người ta đã
coi tôi như một bệnh nhân.
Chúng tôi sống bên nhau suốt cả quãng thời gian ấy, hàng ngày trò chuyện
với nhau và dần dà, tôi đã hiểu hết về anh. Anh cũng không giấu tôi điều gì, tất
cả mọi bí mất nghề nghiệp anh đều nói lại. Cả quê hương anh, cả cuộc sống hồi
thơ ấu của anh, cuộc sống nghèo khổ của cha mẹ anh và anh đã phải bán cho gia
đình người bác, hầu hạ họ như kẻ tôi tớ trong nhà cho đến khi người bác ấy bỏ
sang Việt Nam, nghe đâu về một thị trấn của miền Trung này, nơi mà vừa rồi anh
định tới làm nơi ẩn náu. Anh còn cho tôi cả “cây gia hệ” của anh, nhờ “cây gia
hệ” ấy, anh có thể tìm đến những gia đình họ mạc thân thuộc mặc dù họ ở khắp
nơi trong nước hoặc ngoài nước… Bây giờ, tôi có thể hình dung được hết mọi hoạt
động của anh và chẳng sót điều gì về anh mà tôi không thuộc, cứ như tôi là anh
vậy.
Sau khi tôi từ biệt anh được gần một tháng, tôi được tin anh đã tới
giây phút hiểm nghèo. Anh đã lâm vào tình trạng hôn mê, luôn luôn hôn mê. Mọi
thứ thuốc điều trị mà chúng ta kiếm được trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, không thể
làm bệnh tình anh thuyên giảm được. Vết thương mỗi lúc một trầm trọng, tàn phá
cơ thể anh rất dữ dội. Người ta chỉ còn trông cậy vào sức lực và nghị lực của
chính bản thân anh. Nhưng sức người cũng có hạn. Một tuần sau, anh từ trần. Khi
tôi được tin, cuốc bộ hơn hai mươi cây số đường rừng để đến với anh thì anh
không còn nữa… Anh đã được mai táng như một chiến sĩ cách mạng. Một vòng hoa rừng
đặt trên nấm mồ anh, nầm mồ vì điều kiện bí mật không đặt mộ chí, không khắc
tên tuổi và nghề nghiệp cũng như năm sinh và ngày mất. Mồ của một chiến sĩ vô
danh.
Chỉ ít ngày sau, tôi đã là anh, từ khu căn cứ, tôi đi vào vùng địch tạm
chiếm rồi vào thẳng thị xã Quy Nhơn. Ở đấy có gia đình người bác họ của tôi mở
tiệm bán thuốc bắc. Ông bác tôi đã mất từ năm 1950, chỉ còn bà vợ và hai người
con gái. Nhờ “cây gia hệ” có sẵn, tôi được đón tiếp như một người thân trong
gia đình từ quê hương vừa sang. Tôi sống yên ổn trong gia đình họ Trương và chờ
đợi sẽ có người đến tìm tôi. Tôi được phép liên hệ chặt chẽ với lực lượng kháng
chiến bí mật của thị xã, chuẩn bị sẵn vai trò của mình… Đó là thời kỳ nhàn nhã
thứ nhất trong quãng đời hoạt động của tôi…
Năm tháng cứ trôi đi. Sang đầu năm 1954, tình hình chiến sự ở Đông
Dương đang diễn ra chiều hướng hoàn toàn bất lợi cho Pháp. Tập đoàn cứ điểm Điện
Biên Phủ, tác phẩm nổi tiếng của tướng Na-va đã hình thành ở Tây Bắc. Một binh
đoàn cơ động của Pháp vừa được đưa từ Nam Triều Tiên sang đã bị đánh tan tác
trong địa bàn của Liên khu 5, đó là binh đoàn 100. Chiến tranh du kích được
phát triển khắp vùng sau lưng địch, vùng tự do của Khu 5 được mở rộng, các hoạt
động nội thành của chúng tôi cũng ra sức tiêu hao lực lượng địch và tàn phá ý
chí xâm lược của chúng. Và một sự kiện lớn đã xuất hiện: Hội nghị Giơ-ne-vơ được
triệu tập để bàn về việc lập lại hòa bình ở Đông Dương. Trung Quốc lần đầu tiên
từ sau ngày lập nước Cộng hòa nhân dân, tham dự hội nghị với tư cách là thành
viên chính thức, ngang hàng với Mỹ, Anh, Pháp và Liên Xô…
Có người đã tìm đến tôi. Hôm ấy vào đầu tháng ba, tôi đang tính toán sổ
sách ở quầy hàng thì thấy một người đàn bà ăn mặc sang trọng, mùi nước hoa và
mùi son phấn sực nức. Bà ta trạc ngoài ba mươi tuổi, nhưng rất rực rỡ như một
quý phu nhân từ Đài Bắc mới sang. Bà ta vào cửa hàng, tung ra mọi ám hiệu rất
đúng quy định. Tôi giật mình, vội trả lời cũng bằng những mật hiệu của mình. Bà
ta cúi đầu chào rồi đến trước mặt tôi, lấy từ trong chiếc vì đầm cầm tay một mảnh
giấy giống như cái đơn thuốc có những dòng chữ Hán loằng ngoằng, đặt lên quầy.
Tôi cúi đọc, đó là địa điểm và ngày giờ hẹn gặp. Bà ta cất lời, giọng thanh và
nhẹ bằng tiếng Bắc Kinh rất chuẩn:
- Ông xem đơn và bốc trước cho tôi một thang uống thử. Nếu bệnh thuyên
giảm tôi sẽ lấy tiếp.
- Thưa, vâng… - Tôi cầm cái bàn tính đè lên tờ giấy, mở ô bốc thuốc,
gói cho bà ta một thang toàn đại bổ. Tôi trả lại tờ giấy cho bà ta. Người đàn
bà nhận thang thuốc, trả tiền rồi cúi chào đi ra…
Buổi tối, tôi đến nơi hẹn. Đó là một cửa hàng, vừa là nơi ăn uống giải
khát vừa là vũ trường, nơi duy nhất ăn chơi nổi tiếng của cái thị xã miền Trung
bị tạm chiếm này.
Người đàn bà đã ngồi sẵn đợi tôi. Buổi tối, bà ta mặc chiếc áo dài kiểu
Thượng Hải màu cánh chả, dưới ánh đèn nê-ông cứ óng ánh đến rực rỡ. Bà ta trang
điểm mới ghê, phấn son ngồn ngộn, nước hoa hảo hạng sực nức, cổ tay đeo chiếc
vòng màu huyền đỏ và giữa ngực thõng xuống chuỗi hạt trai trong suốt như kim
cương…
Tôi bước đến bên bàn, lễ phép và lịch sự cúi đầu rất thấp như một
chàng hiệp sĩ của các bà phu nhân thời trung cổ. Bà ta nhìn lại tôi hơi cười và
kéo ghế mời tôi ngồi đối diện. Hai chúng tôi như một cặp tình nhân quý phái mặc
dù bà ta hơn tuổi mà chẳng già hơn tôi chút nào cả.
Chúng tôi ngồi nói chuyện trong tiếng nhạc dìu dặt của một dàn nhạc sống
chơi trong góc nhà. Bà ta hỏi tôi trước hết về tình hình hoạt động của tôi
trong thời gian qua. Tôi tự coi mình là cấp dưới được báo cáo với thượng cấp tất
cả quá trình công tác của tôi, nhất là khi tôi bị bọn phòng nhì Pháp vây lùng ở
Sài Gon do bọn thương gia người Hoa phản bội. Tôi đã phải rút về đây theo
phương án cuối cùng, đã được trung tâm chấp thuận. Hiện nay tôi chỉ mong đợi được
liên lạc với trung tâm để nhận chỉ thị mới.
Người đàn bà chống khuỷu tay trắng nõn lên mặt bàn, lim dim mắt nhìn
xuống ly rượu màu, lơ đãng nghe tôi nói. Đôi mắt của bà ta ngước lên với đôi
hàng mi cong vút. Bà ta rút bao thuốc lá thơm nhãn hiệu Camel, lấy một điếu
châm hút rồi trao cho tôi hút tiếp. Tôi ngậm điếu thuốc thấy ngay vị son còn
dính ở môi mình. Bà ta uể oải nhìn ra phía dàn nhạc, miệng nói đủ nghe:
- Từ ngày đó đến nay, anh làm những gì?
Tôi nhún vai:
- Tôi chờ đợi chỉ thị của trung tâm và trong khi chờ đợi, tôi liên lạc
với những người kháng chiến Việt Nam và giúp họ chút ít…
Người đàn bà thay đổi hẳn thái độ, lanh lẹn và hoạt bát, bà ta hỏi:
- Anh tự liên lạc với họ hay họ tìm đến anh?
- Họ tìm đến tôi trước và sau đó tôi cũng muốn liên lạc với họ…
- Tổ chức nào của Việt Nam?
- Ban Hoa vận của tỉnh…
- Anh liên hệ với họ với tư cách gì?
- Với tư cách cá nhân… Tôi là một thanh niên Hoa kiều tiến bộ mà.
- À… Anh đã làm được những việc gì cho họ?
- Tôi tuyên truyền và tổ chức được một số Hoa kiều ủng hộ kháng chiến,
bán được hơn vạn đồng Đông Dương tiền công trái kháng chiến…
- Anh vẫn liên lạc thường xuyên với họ chứ?
- Vẫn… Họ định tổ chức cho tôi ra khu để nghiên cứu một số tài liệu về
công tác Hoa vận… Ý đồng chí thế nào, xin cho chỉ thị?
Người đàn bà lắc đầu:
- Hiện nay tôi chưa có ý kiến gì về việc này. Tôi đề nghị anh bố trí
cho tôi được gặp người của họ, của ban Hoa vận đó… Anh có thể làm được việc này
chứ?
- Việc này không khó, nhưng gặp ngay thì chưa được. Vì tôi còn phải
liên lạc với họ, rồi họ lại thỉnh thị lên trên, cấp trên của họ có cho phép họ
mới gặp mình.
- Phải mất bao nhiêu thời gian cho cuộc gặp gỡ này?
- Một tuần, tôi sợ đồng chí không chờ được…
- Tôi chờ được. Đồng chí đề nghị họ cho tôi được gặp. Còn tôi là ai, tại
sao cần gặp thì đồng chí tự nghĩ ra, sao cho hợp lý. Việc này đồng chí ở đây lâu,
đồng chí thạo hơn tôi. Ngày giờ và địa điểm gặp do đồng chí quyết định…
- Tôi sẽ gặp đồng chí ở đâu để thông báo lại?
- Ba ngày nữa tôi sẽ đến tìm đồng chí… Thôi tôi đi trước… Mười lăm
phút nữa, đồng chí hãy đi…
Cấp trên của tôi ngoéo tay gọi bồi đến tính tiền. Bà ta mở ví, ném ra
một xấp bạc Đông Dương rồi mỉm cười chào tôi, rời khỏi tiệm ăn. Lát sau tôi
cũng ra về…
Việc bố trí cho bà ta gặp một đồng chí cán bộ của kháng chiến chẳng có
gì là khó khăn. Nhưng điều mà chúng tôi phải suy nghĩ là bà ta cần gặp cán bộ
kháng chiến để đạt mục đích gì? Băn khoăn và suy nghĩ, cuối cùng thì tôi vẫn phải
bố trí cuộc gặp gỡ này. Dịp ấy trùng vào ngày mồng ba tháng ba âm lịch, ngày Tết
thanh minh. Tôi cùng đi với cấp trên của tôi, bà ta ăn mặc hoàn toàn là một phụ
nữ nền nã và mộ đạo, đem vàng hương đến chùa lễ Phật. Chúng tôi tới một ngôi
chùa cách thị xã non cây số. Một đồng chí của ta đã đợi chúng tôi trong căn
phòng nhỏ phía sau nhà đổ. Đồng chí ấy đã có tuổi, dáng vẻ đường hoàng, ăn nói
chậm rãi nhưng rành mạch về mọi đường lối chính sách của kháng chiến, nên đã
nhanh chóng thuyết phục được bà ta. Và bà ta đã tin ở tôi. Cuối cùng là như vậy.
Đây là một cuộc thẩm tra cá nhân tôi mà thôi.
Lần gặp gỡ cuối cùng với người đàn bà đó, tôi tỏ ý băn khoăn vì chưa
nhận được chỉ thị cụ thể của trung tâm, tôi không có phương hướng hoạt động rõ
rệt. Người thiếu phụ xinh đẹp đã an ủi tôi và bảo:
- Đồng chí hãy yên tâm. Tôi đã nhận được chỉ thị của trung tâm về công
tác của đồng chí. Trung tâm gửi lời khen ngợi đồng chí đã linh hoạt trong việc
liên hệ với tổ chức kháng chiến Việt Nam, nhận nhiệm vụ của họ. Trung tâm chỉ
thị rằng đồng chí cứ tiếp tục giữ mối liên hệ đó, cố gắng gây được lòng tin của
họ, đi sâu vào hàng ngũ họ, tạo một thế đứng vững chắc. Hãy trở thành một cán bộ
tin cậy của họ, phấn đấu để trở thành một đảng viên Đảng Lao động Việt Nam càng
tốt…
Tôi hỏi lại:
- Nhưng còn nhiệm vụ trước đây của tôi?
- Sẽ có người khác đảm nhiệm. Đồng chí sẽ chuyển sang hướng khác, hướng
Việt Nam… Đây là công việc lâu dài, đồng chí sẽ thành người Việt Nam, lấy vợ Việt
Nam. Việt Nam sẽ là quê hương của đồng chí… Công việc cụ thể sau này sẽ có chỉ
thị mới của trung tâm…
- Đồng chí có thể giải thích thêm được không?
- Tôi chỉ là người truyền đạt lại chỉ thị của trung tâm. Ở đó, cấp
trên nhìn xa trông rộng, thấy trước được tình hình của những thập kỷ sau này…
Tôi rất tiếc không thể nói thêm điều gì nữa… Đồng chí đã đọc hết bộ Tam Quốc
chưa?
Tôi hơi ngạc nhiên về câu hỏi lạc lõng này nhưng vẫn trả lời:
- Tôi đã đọc từ lâu…
Người đàn bà cười:
- Chắc đồng chí còn nhớ chương mở đầu của pho sách, ba anh em Lưu –
Quan – Trương kết nghĩa tại vườn đào chứ?
- Dạ nhớ…
- Vậy đó, đồng chí mang họ Trương, rồi ra đồng chí sẽ sắm một vai
trong số ba anh em kết nghĩa đó…
Bà ta lại hỏi:
- Chắc đồng chí có nhớ đến đoạn Quan Vân Trường bị Tào Tháo bắt giữ
cùng với vợ của Lưu Bị?
- Dạ nhớ…
- Đồng chí sẽ giống như tâm trạng của Quan Công lúc đó… Thân tại Tào
doanh, tâm tại Hán… Bao giờ cũng phải “tâm tại Hán”… Tất cả những điều hôm nay
tôi nói với đồng chí, yêu cầu đồng chí hay ghi lòng tạc dạ. Sẽ có lúc phải dùng
đến… Sau lần này có thể còn lâu mới có người tìm đến đồng chí. Đồng chí sẽ đơn
độc hoạt động, tự quyết định tất cả. Đi đâu và làm gì, đồng chí cần thông báo về
trung tâm, vẫn theo hộp thư cũ. Đồng chí đã biết rằng hiện nay tình hình Việt
Nam đã xoay sang một chiều hướng khác. Cuộc kháng chiến của Việt Nam đã làm thất
bại chính sách của Pháp và như vậy nó sẽ nâng cao vai trò và uy tín của Việt
Nam, kích động các dân tộc bị áp bức khác trên thế giới, nhất là ở khu vực Á –
Phi… Chúng ta không muốn có một nước Việt Nam như thế ở ngay sát nách chúng ta.
Phải hạn chế nó ở mức độ nhất định để bảo đảm cho sự ổn định lâu dài của chúng
ta… Đây là một chính sách lớn của Đảng ta và Mao Chủ tịch và đây cũng là vấn đề
rất tế nhị và bí mật trong mối bang giao của hai nước. Ta là nước lớn, họ là nước
nhỏ. Trước đã như thế, sau này cũng như thế…
Tôi ngồi lặng đi trước những lời lẽ của người đại diện cho trung tâm.
Thì ra… thì ra… đây là lòng dạ thật của họ? Giá như một người nào đó nói với
tôi những điều ấy thì không bao giờ tôi có thể tin được. Nhưng đây lại là tự miệng
họ nói ra. Tất cả những điều tưởng như nghịch lý ấy lại rất hợp lý, lại là quốc
sách của họ đối với các nước lân bang…
Người đàn bà trao cho tôi tất cả mật hiệu cũng như mật ngữ để bắt liên
lạc sau này. Tôi phải ghi nhớ và cất thật kỹ ở một ngách nào đó trong bộ não của
mình. Đây là lá bùa hộ mệnh và là tấm giấy chứng chỉ bảo đảm nhất cho vai trò
mà tôi đang sắm bây giờ cũng như sau này…
Thoắt cái đã mười hai, mười ba năm rồi…
Tôi trỗi dậy, đồng hồ chỉ mười một giờ năm nhăm phút. Vợ con tôi đã ngủ
yên trong chăn ấm. Tôi mặc chiếc áo bông thật dày, ngoài khoác thêm chiếc áo
mưa vải bạt, đi giày vải và đội mũ cối. Tôi bỏ hết mọi giấy tờ tùy thân và
không mang theo thứ vũ khí nào, hoàn toàn với hai bàn tay không lồng trong đôi
găng da Trung Quốc mà tôi mua từ ngày ở Quảng Ninh.
Tôi lách cửa sau ra vườn. Trời rét kinh khủng, nhiệt độ có lẽ phải tụt
xuống đến năm độ. Lại mưa phùn và gió bấc thổi như cắt thịt da. Đêm cuối tháng
mười một âm lịch, bầu trời đen ngòm, giơ bàn tay không nhìn rõ ngón. Ra khỏi cổng
vườn, tôi thoáng thấy hoặc cảm thấy một bóng người đứng gần cổng, tôi nghe rõ cả
hơi thở của hắn. Nhưng tôi đi thẳng, không nhìn lại. Tôi biết đó là Huy, lúc
nào anh cũng theo sát tôi…
Tôi kéo quai mũ xuống và bước nhanh lên đường cái. Cả thị xã chìm
trong mưa rét và đêm tối. Không một chút đèn lửa hay ánh sáng. Không một tiếng
động, ngoài tiếng gió thổi hun hút. Bước chân của tôi cũng bị chìm đi trong đêm
mưa…
Tôi đi về phía nhà Cắm Sềnh, chắc lúc này lão đang co ro đứng đợi tôi.
Lúc này mà bò lên tận cây đa “hộp thư” thì rét bằng thích…
Tôi đi nép vào dưới các mái hiên nhà dọc phố và kéo hai vạt áo mưa
trùm lên nhau cho đỡ gió. Chút nữa thì tôi vấp phải cây cột điện, hồi này điện
đóm tắt luôn, những đêm như đêm nay chẳng bao giờ có điện. Tôi tránh một ngôi
nhà xây nhô quá mặt đường, đôi giày vải ngấm nước, ngấm cả vào bít tất làm mười
ngón chân tôi tê giá… Mỗi bước đi mỗi khó…
Chợt có tiếng nói ngay sát tai tôi: “Đứng lại!”. Tôi vừa đứng sững thì
ánh đèn pin sáng lóe chiếu thẳng vào mặt tôi làm tôi tối tăm mặt mũi. Ánh đèn vụt
tắt trong tức khắc.
Khi tôi mở mắt ra, tất cả đen ngòm, phải định thần mãi tôi mới thấy một
bóng người đứng trước tôi chưa đầy hai bước chân, cái bóng cao lớn trùm kín áo
mưa từ đầu đến gót chân. Rồi tiếng người nói rành rọt, không to lắm, đủ cho tôi
nghe rõ, bằng tiếng Trung Quốc:
- Sơn ca, sơn ca... Đêm đã lụi tàn, ngày đã rạng sáng, sao chưa thức
giấc, đón chào bình minh?
Người đứng trước mặt tôi phát ra thứ tiếng nói trầm đục, đều đều, từng
lời từng lời như đọc bản tuyên thệ. Tự dưng hình ảnh người đàn bà Trung Quốc mà
tôi đã gặp cách đây mười hai năm lại chợt hiện ra, bà ta cũng từng đọc cho tôi
nghe như vậy, buộc tôi phải nhớ như nhớ câu thần chú bí mật. Trong cái ngách của
bộ não tôi lập tức có phản xạ rất nhanh, tôi đáp liền cũng bằng cái giọng chẳng
có chút tình ý gì hết, cái giọng thật giá lạnh như băng:
- Đêm tuy tàn, ngày tuy rạng, mà mùa xuân chưa tới, hoa đào chưa nở, lấy
ai là kẻ kết nghĩa tâm giao…
Người kia lại nói:
- Vườn đào đã nở, hội thề đã sẵn sàng, hai anh đã chờ đợi, chỉ còn thiếu
em Ba…
- Em Ba đã tới quá muộn, xin cáo lỗi cùng hai anh.
- Lỗi ở khắp thiên hạ, lỗi đâu phải của em Ba…
Y như thí sinh, tôi đã vượt qua được cuộc sát hạch hiểm hóc. Bóng người
bước thêm hai bước, dang rộng cánh tay, ôm chầm lấy tôi. Tôi cảm thấy một mùi
chua khét, ẩm mục và giá lạnh toát ra từ người hắn. Nhưng tôi cũng tỏ vẻ hoan hỷ
ghì chặt lấy hắn.
Bóng người rời tôi ngay tức khắc. Hắn quay đi và nói:
- Đồng chí theo tôi.
Tôi đi theo hắn. Trời vẫn tối như bịt chặt hai mắt. Tôi chỉ nghe tiếng
bước lép nhép của hắn đang đi trước tôi. Tôi cố bám theo cho khỏi bị thụt lại.
Đã lâu, tôi không phải đi đêm rét mướt mà trong lòng lại hồi hộp như đêm nay,
nên bước chân của tôi cứ thấp thỏm không vững.
Tới đầu phố, trời có sáng hơn, tôi nhận ra căn nhà của Cắm Sềnh. Người
phía trước đi qua căn nhà chụp ảnh rồi vòng ra phía sau, trèo lên một bãi cỏ
ven đồi. Quanh quẩn một lát, tôi lại thấy hắn vòng trở lại, dường như hắn cố ý
kéo dài cuộc hành trình để xem có bị theo dõi không. Tôi lại trượt xuống dốc,
men theo một mảnh vườn và lách mình qua một cánh cổng, vào một ngách nhỏ rồi
chui hẳn vào trong nhà., Thoạt đầu, tôi bị mất phương hướng, chẳng hiểu đi những
đầu và vào nhà nào. Tới khi vào hẳn, nhờ có ngọn đèn dầu lù mù đặt trên bàn,
tôi nhận ra đó là căn phòng chụp ảnh của lão Sềnh, trên tường treo la liệt những
bức tranh Tàu. Và chính cái người đi trước dẫn đường tôi lòng vòng chán chê rồi
mới chui lối cổng sau vào nhà, lại chính là lão chủ hiệu ảnh Kim Thành. Người
lão ướt sũng tựa lưng vào tường đứng nhìn tôi co ro giữa nhà. Thì ra, người đã
tung ra những mật ngữ đi trước tôi tới trước cửa hiệu ảnh thì dừng lại và lão Sềnh
tiếp tục dẫn tôi đi vòng qua lối cổng sau…
Người đó vào sau cùng, vóc người cao lớn, hắn phải cúi đầu chui qua cửa
buồng. Vào lọt bên trong, hắn trút chiếc áo mưa, bỏ mũ, bên trong hắn đội cái
mũ vải bông biên phòng bịt kín hai tai và hai má. Khi hắn đến bên ngọn đèn để
châm điếu thuốc lá, tôi nhận ra một khuôn mặt nhăn nheo của người có tuổi, hai
mắt hum húp…
Cắm Sềnh đã nhanh nhẹn đem ra một chai rượu và ba cái bát. Lão rót rượu
và cả ba người đứng quây chung quanh. Người có tuổi cầm bát rượu giơ lên:
- Nào, xin chúc mừng cuộc hội ngộ của chúng ta, các đồng chí…
Hắn dốc cạn, cả tôi và Cắm Sềnh cũng dốc cạn bát rượu. Hơi men làm cơ
thể tôi bị đốt nóng bừng lên. Cắm Sềnh lại rót tiếp…
Anh Tư hỏi:
- Cuối cùng thì nó phân công thế nào?
Tôi đáp:
- Cắm Sềnh phụ trách các kho vũ khí của bọn làm đường để lại. Còn tôi
phụ trách tổ chức các tổ cách mạng văn hóa ở các nơi… Bề ngoại gọi là “tổ cách
mạng văn hóa” nhưng bên trong là các đội vũ trang bí mật… Nó cho rằng tôi có điều
kiện đi lại hợp pháp khắp tỉnh nên làm việc này thuận tiện hơn…
- Như vậy, hắn là tư lệnh, chỉ huy chung, cậu là tham mưu trưởng, còn
lão Sềnh phụ trách hậu cần. Thực chất nhóm ba người này đã là một “bộ tư lệnh”
quân phán loạn đấy…
- Tôi cũng nghĩ thế.
Anh Tư trầm ngâm một lát rồi nói:
- Đây là một âm mưu khá nguy hiểm. Âm mưu này được thực hiện nó sẽ khống
chế toàn bộ vùng biên giới của chúng ta. Họ gài người ở khắp nơi, trong vùng
người Hoa và người các dân tộc khác. Họ còn nham hiểm ở chỗ những đơn vị công
binh làm đường sau khi rút khỏi, đều để lại vũ khí đã được chôn giấu… Làm sao
biết được những kho vũ khí ấy đặt ở đâu?
- Nhất định họ phải có sơ đồ và có thể lão Sềnh nắm bản sơ đồ đó…
- Phải làm sao tìm ra bản sơ đồ chôn giấu vũ khí. Việc này ngoài cậu
ra, không ai có thể làm được.
- Tôi hiểu, tôi sẽ cố gắng…
- Nhưng không được hấp tấp, đây là vấn đề lâu dài. Chủ trương của họ
là trường kỳ mai phục, giai đoạn này chủ yếu là tổ chức lực lượng. Cậu phải hết
sức khéo léo tránh lộ diện mà mất chỗ đứng. Lộ ra để họ đề phòng mất toi mười mấy
năm mai phục của cậu. Thôi được, bọn mình sẽ giúp đỡ cậu trong việc xây dựng và
tổ chức các “tổ cách mạng văn hóa” ở các nơi… nhưng cũng nên tiến hành thật chậm.
Cậu rõ chứ?
- Rõ… À, hắn có hỏi tôi trong thời gian lên đây đã tổ cách được cơ sở
nào chưa? Tôi bảo tôi đã có ít nhất là ba, bốn người trung kiên. Hắn muốn thẩm
tra việc này. Tôi định đưa cậu Huy ra đấy, anh nghĩ thế nào?
- Hơi nguy hiểm nhưng đã trót thì phải trét. Tôi đồng ý cậu Huy nhưng
không nên đưa thêm nữa. Mình dễ dãi quá thì hắn sẽ ngờ… Cậu bàn với Huy rồi cho
mình biết kế hoạch.
- Tôi định sử dụng cậu Huy làm liên lạc giữa tôi, Cắm Sềnh và với hắn
ta vì hắn ta không thể mỗi lúc mà đến đây được.
- Cậu nên bàn với lão Sềnh và nên để chính lão ta đề xuất việc sử dụng
cậu Huy thì hơn…
- Vâng…
Như vậy là ý định của tôi đã được anh Tư chấp thuận. Tôi đề nghị anh
liên hệ với tổ chức, bố trí cho Huy nhận một công tác gì đó thích hợp như lái
xe vận chuyển gỗ hoặc lâm sản để cậu ấy có điều kiện đi lại nhiều vùng trong tỉnh,
đặc biệt là mấy huyện sát biên, địa bàn hoạt động và ẩn náu của vị “Huynh trưởng”
chúng tôi…
Hiện giờ Huy đang mang tiếng là một gã tài xế bướng bỉnh và vô kỷ luật,
bị đình chỉ công tác. Thật tội nghiệp cho Huy, ở đây chẳng có ai biết rõ anh
ngoài tôi ra, biết anh là một chiến sĩ tình báo gan dạ, mưu trí và trung kiên.
Cũng giống như tôi, vì lợi ích cao cả của cách mạng, của Tổ quốc, Huy phải sắm
vai một con người không tốt đẹp, một thanh niên chậm tiến, trong khi cả dân tộc
đang lao vào cuộc chiến đấu ác liệt chống Mỹ cứu nước, trong khi cả thế hệ
thanh niên như Huy (kể cả những người vào lứa tuổi tôi) tình nguyện ra mặt trận,
ngày đêm hy sinh mồ hôi và xương máu vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất
Tổ quốc. Chúng tôi đang ở đây, tại cái thị xã vùng biên nhỏ bé này rất xa với mặt
trận. Nhưng chúng tôi cũng có mặt trận của chúng tôi, một mặt trận thầm lặng và
quyết liệt. Kẻ thù của chúng tôi, kẻ thù tương lai của nhân dân ta, hiện nay
còn chưa lộ diện, đang còn là bè bạn, là đồng chí, là hậu phương lớn, là… vân
vân…
HẾT PHẦN 1
PHẦN THỨ HAI
Hơn mười năm sau…
Thời gian trôi đi rất nhanh khiến nhiều khi bản thân tôi phải giật
mình khi liếc mắt nhìn trong gương thấy mái tóc mình đã trụi hói, trơ ra mảnh
trán nhẵn hằn những nếp nhăn, khi thấy con gái tôi đứng cạnh mẹ nó, hai mẹ con
đã cao ngang nhau, không Tú Hoa của tôi còn cao hơn mẹ nó, thân hình nó phổng
phao, hai má đỏ căng tràn đầy sinh lực. Còn mẹ nó, cô giáo của trường cấp II Quảng
Yên năm nào, người vợ thân thương của tôi cũng đã luống tuổi, lưng đã hơi còng
xuống và những nếp chân chim mờ mờ hiện ra ở hai đuôi mắt.
Mười năm qua, ít người tính đến thời gian, bởi nó đi quá nhanh chăng?
Không, bởi tất cả chúng ta trong khoảng cách thời gian ấy đều đắm mình trong cuộc
chiến tranh ác liệt chống lại cuộc xâm lược và nô dịch của nửa triệu lính Mỹ và
non nửa triệu lính chư hầu, lính ngụy. Và chúng ta đã thắng, mùa xuân năm 1975
là cái mốc lớn trong lịch sử Việt Nam, cuốn hút mọi suy tưởng của tất cả mấy chục
triệu con người. Và sau đó lại dồn dập bao nhiêu là công việc, là niềm vui của
những cuộc gặp gỡ, và cả nỗi buồn của những buổi chia ly…
Ở cái thị xã vùng biên bé nhỏ và thơ mộng của tôi, cuộc sống mười năm
qua cũng sôi động trong sự sôi động chung của cả nước. Còn bản thân tôi thì sự
sôi động phải nhân lên gấp ba, bởi vì tôi đang phải sống với ba con người. Nói
cho chính xác hơn, tôi phải có ba bộ mặt khác nhau trong cuộc sống. Thứ nhất, bộ
mặt hợp pháp nhất của tôi, bộ mặt phải phơi ra hàng ngày để tiếp xúc, nói năng,
trò chuyện với xã hội. Tôi là một cán bộ lâm nghiệp, một đảng viên Cộng sản Việt
Nam, đồng thời tôi là một người Việt gốc Hoa. Điều này ai ai cũng biết – từ đứa
trẻ nhỏ đến bà con thị xã. Đã lâu, tôi không còn làm việc bên Ty lâm nghiệp tỉnh
nữa. Trước kia tôi đã giữ trọng trách phó ty, làm mãi rồi cũng đến lúc được
thăng lên trưởng ty. Nhưng ở cương vị lãnh đạo một cơ quan của tỉnh, tôi rất
khó làm việc – nhất là công việc ấy không phải là nhiệm vụ chủ yếu của tôi. Hơn
nữa tôi lại là “người Việt gốc Hoa”. Những năm sau này, từ khi Nich-xơn sang
thăm Bắc Kinh, bắt tay với các lãnh tụ vĩ đại của Trung Quốc, những người Hoa sống
trên mảnh đất rực lửa vì bom đạn của Mỹ luôn luôn có mặc cảm mình là kẻ phản trắc.
Qua sự đạo diễn của anh Tư, tôi được chuyển về làm chuyên viên ở Ủy
ban Khoa học của tỉnh, được phân công nghiên cứu một số đề tài về rừng. Tôi rất
mừng vì từ nay tôi có nhiều thời gian hơn để làm nhiệm vụ của mình. Tôi có nhiều
dịp đi lên các huyện vùng biên để sưu tầm tư liệu giúp cho việc nghiên cứu và
cũng là dịp để tiếp xúc với “các đồng chí” của tôi trong các “tổ cách mạng văn
hóa”.
Bộ mặt thứ hai của tôi là gì? Là một trong ba anh em “Kết nghĩa vườn
đào”, là người chiến sĩ trung kiên của Mao Chủ tịch. Điều này rất bí mật bởi nó
bất hợp pháp, chỉ có mấy người trong bọn họ biết và Huy, lẽ tất nhiên là cả anh
Tư, đồng chí phụ trách của tôi. “Huynh trưởng” rất hài lòng về kết quả công việc
của tôi. Những tổ và tiểu tổ “cách mạng văn hóa” được xây dựng rải rác ở nhiều
huyện trong tỉnh. Có đủ loại người nằm trong đó, thanh niên các dân tộc, cả phụ
nữ và người già. Tôi đã đưa “Tạ tư lệnh” trực tiếp xuống kiểm tra một số tổ sát
biên và ông ta có vẻ rất khoái về những lời phát biểu hăng hái và cuồng nhiệt của
các tổ viên, tưởng những tất cả tấm lòng của dân tộc Việt Nam đã từng bị các
quan phương Bắc cai trị hàng nghìn năm, bây giờ vẫn một lòng một dạ hướng về “mặt
trời đỏ”, tất cả đều bừng bừng khí thế như một lò thuốc súng, chỉ cần có mồi lửa
nhỏ là bắt nổ kinh khủng. Như vậy là tôi đã làm tròn nhiệm vụ tổ chức và gây dựng
lực lượng trong “bộ tư lệnh” phản loạn này. Nhưng còn nhiệm vụ chính yếu của tôi
thì vẫn dang dở. Tôi vẫn chưa nắm được bản sơ đồ ghi những điểm cất giấu vũ khí
hiện còn nằm trong tay lão chủ hiệu ảnh. Chưa có cách gì moi được ở nó, mặc dù
tôi là một đồng chí tin cẩn của nhóm “Lưu – Quang – Trương”. Có thể lão tuy tin
tôi, thật sự tin tôi nhưng vì nguyên tắc bí mật “ai biết việc người ấy” của
nhóm mà lão không thể hở ra cho tôi biết. Phải đợi đến giờ G nào đó, giờ khởi sự,
tôi mới nắm được các kho vũ khí để điều quân tới lấy và trang bị cho họ. Khi
tôi tỏ vẻ nôn nóng và sốt ruột, “Tạ tư lệnh” lại trấn an tôi ngay:
- Đồng chí phải tuyệt đối tin tưởng vào tổ chức. Vũ khí sẽ được trao
cho đồng chí trước khi cần nổ súng không quá một khắc.
Và cũng có thể Cắm Sềnh chưa thật tin tôi. Suốt từng ấy năm, thái độ của
lão đối với tôi rất dè dặt. Đúng là mối quan hệ công khai của tôi với lão chả
có gì đáng gọi là thân thiết bởi vì cương vị của tôi khác với cương vị của lão
trong cái thị xã vài ngàn dân này. Tôi là một cán bộ lâu năm, là một tri thức;
còn lão, một chủ hiệu ảnh. Chúng tôi không thể đi lại giao du thân thiết với
nhau được. Chỉ trừ có hai đứa con chúng tôi, thằng Voòng Chuýn con trai lão và
cháu Tú Hoa nhà tôi, hai đứa là bạn học cùng lớp cùng trường… Thế nhưng bên
trong tôi với Cắm Sềnh là đồng chí của nhau, cùng chiến đấu trên trận tuyến thầm
lặng này, vậy mà trong các lần gặp gỡ bí mật với tôi hoặc với cả “Tạ tư lệnh”,
Cắm Sềnh vẫn rất dè dặt. Lão chỉ báo cáo vắn tắt công việc đã làm, đang làm, rất
chung chung dường như mọi chi tiết cụ thể khác, lão đã nói riêng với “anh Cả”.
Tôi cũng buộc phải làm theo lão, không nói gì ngoài những số liệu và tư tưởng của
những người mà tôi phụ trách. Tất nhiên, những cuộc gặp gỡ tay ba như vậy rất
hiếm vì “anh Cả” không muốn cả ba chúng tôi ngồi chung một nơi. Ông ta tỏ ra rất
cảnh giác và rất sắc sảo trong công tác bí mật. Mọi công việc đều được truyền đạt
qua Huy…
Huy mang mật danh K8, còn tôi là K7, nhưng đó là mật danh mà anh Tư đặt
cho chúng tôi. Trong nhóm này, Huy được gọi là Triệu Vân tức Triệu Tử Long.
“Anh Cả” đã căn cứ vào tính cách của Huy mà đặt cái tên bí mật ấy; đồng thời
cũng hợp với các nhân vật của bộ Tam Quốc mà tất cả bọn tôi đang sắm vai.
Triệu Tử Long có nghĩa là một trang hảo hán, có bầu máu nóng sôi sục lại
có cả bản lĩnh võ nghệ phi thương, một mình một ngựa, một mũi thương xông vào địch
quân như mãnh hổ tung hoành trong bầy cừu dê. Vẻ hợp pháp của Huy là một anh
chàng xốc nổi, ngổ ngáo và chịu chơi, tính nết ngang ngạnh, coi trời bằng vung.
Đã bao lần, Huy cố gây chuyện để cãi nhau với đội trưởng, và cũng nhiều phen bị
anh em đem ra “cạo gọt” trong các cuộc họp kiểm điểm công tác.
Nhưng bên trong đối với tôi – mỗi khi chỉ có hai anh em – cái vỏ ngoại
hình của Huy biến hết, anh là một trợ thủ rất đắc lực của tôi trong vụ này. Trước
mắt tôi là một con người điềm tĩnh, chín chắn và nhiều mưu trí. Anh đã thực hiện
rất xuất sắc vai trò của mình trước “Tạ tư lệnh” và khi gặp tôi, ông ta đã nhận
định rất tốt về Huy.
Nhưng Huy cũng giống như tôi, không thể moi được ở Cắm Sềnh bản sơ đồ
các điểm giấu vũ khí của lão. Tôi có cảm giác như tấm sơ đồ ấy là cái bản mệnh
của lão, trừ lão ra – ngay cả với “anh Cả” – lão cũng không thể để lộ cho người
thứ hai. Dường như cuộc đời mấy chục năm nằm im trong cái vỏ bọc của lão ở Việt
Nam, lão chỉ làm có mỗi việc đó. Hoặc như cái người đã giao bản sơ đồ cho lão,
buộc lão phải thề nguyền rất độc rằng lão sẽ bảo vệ nó đến cùng. Ôi, cái bản sơ
đồ quái quỷ ấy đã khiến hai anh em chúng tôi phải mất nhiều đêm đau đầu. Dù sao
thì trước sau nó cũng phải vào tay chúng tôi bởi vì chủ nhân của nó, cả Cắm Sềnh
lẫn ông “anh Cả”, hiện đang nằm trong tay chúng tôi. Tuy vậy nó không phải là tất
cả trong vụ này, cái lớn hơn là một âm mưu, một hiểm họa đang được hình thành
và đe dọa dân tộc Việt Nam ta, mà nhiệm vụ của chúng tôi là phanh phui ra, phải
trừ diệt nó…
Giống như tôi, Huy cũng phải phân thân thành ba loại người. Hai loại
trên thì như mọi người đã rõ. Còn mặt thứ ba – con người thật của chúng tôi, những
chiến sĩ tình báo đấu tranh trên trận tuyến thầm lặng. Điều rất khổ tâm là
không phải chúng tôi hoạt động trên đất địch mà lại ở ngay trong lòng Tổ quốc,
bên cạnh đồng bào, đồng chí của mình. Vậy mà chúng tôi cứ phải giấu kín con người
thật của mình, nhiều khi cả với người thân, với vợ và con. Tôi thì còn đỡ chứ
Huy lại khổ tâm hơn, vì anh còn bị mọi người chê trách, thậm chí khinh rẻ về những
tính các xấu mà anh cố tình tạo nên. Nhưng vẫn phải cắn răng chịu đựng. Bởi
cũng như tôi, Huy biết rằng các đối thủ của ta tinh ranh như cầy cáo, hiểm độc
và quỷ quyệt. Và mạng lưới cộng tác viên của chúng rất rộng khắp. Có lần, ông
“anh Cả” đã nói cho Huy nghe về cái huyện lỵ, nơi sinh trưởng của anh ở tỉnh
Thái Bình. Ông ta tả rất tỉ mỉ, chi tiết tưởng chừng như ông ta đã sống ở đó rất
nhiều năm. Điều đó chứng tỏ đã có cuộc kiểm tra rất kỹ lưỡng về anh, về cả nơi
xuất xứ và gia đình anh và đã có báo cáo rất đầy đủ về anh với nhóm trưởng “Lưu
– Quang – Trương” này.
Cho nên ngay từ đầu, mọi công việc chuẩn bị rất cẩn thận của anh Tư đều
không vô ích. Các mắt xích đều được khép kín, đối với cơ quan tổ chức của ta và
đối với họ, lý lịch của chúng tôi, xuất xứ của chúng tôi và quá trình công tác
của chúng tôi đều rất rõ ràng, rất logic. Không thể có một kẽ hở nào lọt ra,
khiến họ phải hoài nghi thắc mắc. “Anh Cả” của chúng tôi không phải là một điệp
viên tẹp nhẹp. Ông ta đã từng làm đến chức tư lệnh sư đoàn với cấp đại tá, lại
tham gia đảng Cộng sản của Mao Trạch Đông mấy chục năm nay, đã từng đánh đông dẹp
bắc, nhiều lần đọ sức với bọn tướng lĩnh Tưởng Giới Thạch. Phải công nhận đó là
một cán bộ tình báo có cỡ, đầy đủ bản lĩnh và có như thế bên kia họ mới đưa
sang đất ta, đi công khai với danh nghĩa rất hợp lý “lánh nạn cách mạng văn
hóa”, với tư cách là một người cộng sản chân chính phải lưu vong. Trên thế giới
hiện tại, có không ít những người cộng sản phải sống lưu vong vì sự đàn áp, khủng
bố và phản bội của giới cầm quyền. Tạ là một người am hiểu về Việt Nam và còn
có quan hệ bạn bè mật thiết từ lâu với nhiều cán bộ cao cấp Việt Nam. Điều này
đã tạo cho hắn một chỗ đứng khá tốt…
Từ đầu, tôi đã biết tôi đang phải đối đầu với ai, và người đó tất
nhiên không hoạt động đơn độc, có trong tay một mạng lưới điệp viên vô hình bao
quanh tôi, xem xét và rình mò, thử thách tôi. Nhưng tôi rất tự tin, dấu tích của
tôi đã được gói bọc rất kỹ; chỉ có một người biết tôi mà người đó đã chết từ
lâu, bây giờ ngay cả hài cốt có lẽ cũng đã bị mục nát trong cánh rừng miền
Trung, Hơn nữa tôi đang hoạt động ngay trong lòng đất nước của mình, có sự chỉ
đạo trực tiếp của anh Tư và sự trợ thủ của Huy. Ngoài ra, tôi còn bao nhiêu đồng
đội khác mà tôi không được phép biết mặt, biết tên. Vậy thì không phải chúng
tôi bị bao vây trong mạng lưới của họ mà ngược lại, chung quanh họ có biết bao
con mắt giám sát chặt chẽ của chúng ta.
Đối thủ của tôi rất sắc sảo, đầy đủ bản lĩnh nhưng lại nhiều tham vọng,
quá nhiều tham vọng, những tham vọng được nuôi dưỡng từ bên nước họ và quá tự
mãn. Chính điều đó đã bịt mắt, bưng tai hắn…
Những năm 70 trôi đi rất mau với biết bao nhiêu sự kiện phải ghi bằng
những nét đậm trong lịch sử. Vào giữa năm 1972, trong khi chúng tôi đang háo hức
đón nghe những tin tức từ mặt trận Quảng Trị dội về, cùng những lời đe dọa láo
xược của gã tổng thống diều hâu Ri-sớt Nich-xơn, tôi nhận được chỉ thị của “anh
Cả”: Phải thăm dò dư luận về việc bắt tay của Bắc Kinh và Hoa Thịnh Đốn. Đồng
thời, mặt khác anh Tư cũng nhắn tôi phải moi trong đầu gã tư lệnh họ Tạ kia những
điều còn bí ẩn trong vụ phản trắc bẩn thỉu ấy.
Tôi viết thư đưa cho Huy chuyển đến “anh Cả” nói rằng tôi cần gặp y.
Vài ngày sau, tôi nhảy lên chiếc xe tải của Huy và tối hôm ấy, tôi gặp Tạ trong
một căn nhà sàn nhỏ nằm ngay cửa rừng. Chủ nhân ngôi nhà là một tổ viên trung
kiên của một tổ “cách mạng văn hóa” do Huy xây dựng.
Bên bếp lửa, Tạ ngồi khoác trên vai chiếc chăn dạ cũ, co ro như một
ông già người Mán. Ông nhìn tôi và nói:
- Chú Ba, tôi biết những điều chú đang suy nghĩ và muốn hỏi tôi? Vậy
chú nói đi!
Tôi mở miệng định nói thì Tạ xua tay:
- Khoan đã! Tôi muốn hỏi chú, chú suy nghĩ gì về việc vợ chồng thằng
Nich-xơn đến Bắc Kinh?
Tôi lập lờ:
- Vâng, đúng là mấy hôm nay tôi suy nghĩ nhiều về sự kiện này. Ở cơ
quan làm việc của tôi, họ cũng xôn xao bàn tán nhiều, họ cho là như vậy chúng
ta đã bỏ rơi Việt Nam. Tôi không nghĩ nhiều về khía cạnh ấy, tôi chỉ băn khoăn
chẳng lẽ chúng ta bỏ rơi bảy triệu đồng bào ta trên đảo Đài Loan? Chẳng lẽ
chúng ta không còn ý định thống nhất Tổ quốc Trung Hoa vĩ đại nữa sao? Tôi thật
sự đau lòng khi có ý nghĩ ấy. Mong đồng chí hiểu cho, tôi thiết tha yêu Tổ quốc,
tôi là một đảng viên cộng sản… Tôi không thể hiểu nổi… Mong đồng chí khai thông
tư tưởng cho tôi…
Tôi làm vẻ đau khổ thật sự và bình thản nhìn thẳng vào đôi mắt già nua
nhưng sắc sảo ẩn dưới đôi mày rậm của Tạ. Tôi biết ông ta đang cố soi mói để
tìm hiểu những ý từ đằng sau câu nói của tôi. Và Tạ nhếch miệng cười, hàng râu
lởm chởm lốm đốm bạc lay động trong bóng sáng vàng vọt của bếp lửa sắp tàn. Tạ
nghiêng đầu ném thêm củi vào bếp, khơi cho lửa cháy to hơn. Rồi ông ta quay
nhìn tôi, giọng nói nhỏ đủ nghe và chậm rãi:
- Tôi rất thông cảm nỗi lòng của đồng chí. Mấy chục năm qua, đồng chí ở
xa Tổ quốc, không thể hiểu nổi hiện tình của đất nước chúng ta. Trung Quốc đất
rộng nhất thế giới và dân đông nhất thế giới, nhưng về mọi mặt hiện nay, Trung
Quốc quá nghèo nàn và lạc hậu, nằm trong số những nước kém phát triển nhất thế
giới. Nạn đói và nạn lụt đe dọa từng năm. Phải làm gì để vượt ra khỏi tình trạng
này? Đó là câu hỏi mà Trung ương Đảng và Mao Chủ tịch đã nhiều năm suy tính và
tìm kiếm câu trả lời. Câu trả lời đã được lãnh tụ vĩ đại tìm ra từ lâu, từ ngày
còn ở Diên An nhưng để thực hiện được câu trả lời đó phải đợi đến ngày hôm nay…
Đồng chí Ba hiểu chứ, chính trị là những ngôn từ đẹp đẽ, giản dị và những hành
động lắt léo, phức tạp và mở ảo…
Giọng nói của Tạ đều đều bình thản, không hề có âm sắc gì khác tưởng
như những ngôn từ ấy đã xếp sẵn trong miệng cứ thứ tự chui ra, chẳng có tình ý
gì hết. Nét mặt của Tạ đầy vẻ tự tin như một đấu thủ đã nắm vững mọi thế cờ
trong tay và đang điều khiển nó tiến thoái chắc chắn.
Khác hẳn với lần gặp tôi sau này, cách đây ba năm, khi cuộc chiến
tranh chống Mỹ kết thúc với đại thắng mùa xuân năm 1975. Lần này chính là Tạ
kêu tôi đến gặp ông ta. Mới chỉ sau ba năm, con người này già đi rất nhanh. Mái
tóc bạc trắng, da mặt nhăn nheo như trái tào khô chỉ có đôi mắt trợn tròn và
sáng như hai đốm lửa rực lên dưới đôi mày dài kéo rũ xuống từng sợi.
Tạ cứ nhảy lên bằng hai cẳng chân rất gầy guộc, chồm chồm trên sàn nứa
làm bật lên những tiếng kêu cót két. Trông ông ta hệt như diễn viên sắm vai Tôn
Hành Giả nhảy nhót cạnh Đường Tăng. Ông ta nói mà nước bọt sùi cả ra hai mép. Ông
ta thật sự cay cú như một con bạc đã cược cả cuộc đời của mình vào canh bạc lớn
này và bị thua trắng tay. Ông ta luôn miệng chửi Mỹ, chửi bọn ngụy quyền Nguyễn
Văn Thiệu đã thua chạy và làm sụp đổ tan nát cả cái cơ đồ xây dựng suốt hơn hai
chục năm trời. Ông ta lại chửi cả bộ đội và nhân dân Việt Nam chẳng hiểu có động
lực gì thúc đẩy mà đánh nhanh thế, tiến nhanh thế và thắng nhanh như thế, trong
khi trên thế này này thiếu gì nước vẫn đang bị chia cắt lâu dài như Đức, như
Triều Tiên chẳng biết bao giờ mới thống nhất được tổ quốc của mình?
Tôi ngồi im nghe Tạ gầm gừm, chửi rủa: thú thật lúc đó tôi không hề
căm ghét Tạ mà chỉ thấy khoái lỗ tai. Tôi có cảm giác như không phải trước tôi
là gã tình báo Trung Quốc họ Tạ, mà là một con thú khổng lồ, dữ tợn vừa bị chọc
đúng ác huyệt. Qua lời nói và thái độ của Tạ, tôi hiểu rằng ở bên kia biên giới,
có những người không thể hòa trong niềm vui lớn lao của dân tộc chúng ta: trái
lại người ta lại bực bõ, cáu giận. Rõ ràng họ chẳng thú vị gì khi có một nước
làng giềng nhỏ bé đang trở thành một điểm sáng trên thế giới, một nước láng giềng
thực sự ổn định sau cuộc chiến tranh liên miên suốt ba mươi năm và đã thắng
trong cuộc chiến tranh ấy. Thế lực của họ, ảnh hưởng của họ, sẽ bị một bức tường
đá ngăn lại không tràn xuống các khu vực thuộc miền đông nam châu Á này được…
Tôi lấy cớ về xin tài liệu ở Bộ Lâm nghiệp để gặp anh Tư. Lúc này đã
vào mùa hè năm 1976, niềm vui vẫn còn tràn trề trong các khuôn mặt mọi người
trên đường phố Hà Nội. Cuộc bầu cử Quốc hội thống nhất đầu tiên đang được diễn
ra khắp đất nước, từ Nam chí Bắc, Hà Nội đỏ rực cờ, băng khẩu hiệu và những
chùm hoa phượng sà xuống mặt hồ.
Tôi đi bộ cùng anh Tư dạo bước trên đường Thanh Niên. Trời xẩm tối, Hà
Nội đã bắt đầu lên đèn. Tiếng xe điện nghiến bánh sắt trên đường phía chùa Quán
Thánh.
Anh Tư phe phẩy cành lá mà anh vừa nhặt được bảo tôi:
- Sự rạn nứt trong mối quan hệ giữa ta và Trung Quốc bắt đầu từ năm
1972 ngày càng rõ rệt. Bây giờ thì đến một cháu học sinh cấp I ở đây cũng biết
là ông bạn láng giềng ấy chẳng khoái lắm khi chúng ta giải phóng Sài Gòn… Tình
hình rồi ra sẽ vô cùng phức tạp, vì vậy nhiệm vụ của cậu trong thời gian trước
mắt cũng sẽ gay go quyết liệt đấy. Thái độ của họ như thế này: nếu là hữu hảo
thì họ sẵn sàng bê nước cho ta rửa chân, còn nếu ngược lại thì họ sẵn sàng giật
lại điếu thuốc lá họ vừa mời hút mà ta đang ngậm trên môi… Thế đấy. Cứ xem họ đối
xử với Liên Xô thì biết…
- Gần đây, Tạ có chỉ thị cho tôi phải đẩy mạnh việc tuyên truyền trong
quần chúng. Đối với người Hoa thì kích động tư tưởng Đại Hán, đối với tầng lớp
khác phải nói rõ công ơn của Trung Quốc đối với cuộc chống Mỹ cứu nước của ta.
Sở dĩ Việt Nam đánh thắng được Mỹ chủ yếu là do sự giúp đỡ chi viện của Trung
Quốc, là do đường lối cách mạng đúng đắn của Mao Chủ tịch. Trung Quốc đã viện
trợ sức người, sức của, lương thực, vũ khí đạn dược suốt hai chục năm nay và nhờ
đó thì Việt Nam mới thắng nổi Mỹ. Và Mỹ chịu bỏ Việt Nam vì Mỹ sợ đụng độ với
Trung Quốc, vân… vân.. Còn Việt Nam hiện nay đang có tư tưởng vong ơn đối với
Trung Quốc, mặt khác Việt Nam cũng ôm ấp mưu đồ bành trướng ở Đông Nam Á, muốn
sáp nhập Lào, Campuchia thành Liên bang Đông Dương, nhưng các đồng chí
Campuchia không chịu làm nô lệ cho Việt Nam. Vì thế mới có cuộc xung đột ở biên
giới Việt Nam – Campuchia… Nghĩa là toàn một luận điệu xằng bậy như vậy. Có điều
là khi nói ra những điều này, Tạ tỏ vẻ rất nghiêm túc, dường như chính lão ta
cũng tin là như thế…
- Nó nói láo đấy… Bọn nó không nghĩ như vậy đâu… Toàn một giọng điệu
nham hiểm… Về tổ chức thì sao?
- Tôi phải phát triển thêm, phải mở rộng tổ chức và phải huấn luyện
quân sự cho họ.
- Vũ khí thế nào?
- Tạm thời với vũ khí thô sơ… Nhưng sẽ có súng đạn hẳn hoi theo như Tạ
hứa. Lão tin chắc vào các kho vũ khí mà Cắm Sềnh quản lý. Cái thằng này vẫn kín
như bưng. Cách đây hai tuần, nó có mò đi đâu đó mấy ngày, chắc là để kiểm tra lại
các điểm cất giấu. Tôi có báo cáo K8, cậu ấy đã theo dõi và được biết nó chỉ đi
loanh quanh mấy xã gần đấy. Chắc chắn là quanh thị xã có những kho tàng mà bọn
công binh làm đường đã gài lại. Tôi bàn với cậu Huy một kế hoạch kiểm tra nhà Cắm
Sềnh để tìm kiếm bản sơ đồ của nó; còn chờ ý kiến của anh…
Anh Tư gật đầu:
- K8 đã báo cáo với tôi. Nhưng khoan đã, để tính xem cách làm ăn như
thế nào khỏi đánh động đến nó. Nó chẳng cất giấu ở nhà đâu, nó giắt ở người, đi
đâu cũng mang theo.
- Huy đã bàn với tôi, phục rượu cho nó uống say rồi lần trong người
nó…
- Đừng, đừng làm thế, không được! – Anh Tư vội xua tay – Làm vậy hỏng
việc lớn, nó đâu phải là loại tẹp nhẹp, cỡ nó thì các cậu có mời nó uống hàng
lít, nó cũng chẳng ngã… Tìm cách khác… Trước sau thì mình cũng tìm ra được…
Khi quay trở về, anh Tư đột nhiên hỏi tôi:
- Cậu có ý định về thăm nhà không? Hồi này anh em tập kết đều xin đi
phép, cậu có định đi không?
Tôi lặng đi trước câu hỏi của anh. Đúng là từ sau ngày giải phóng hoàn
toàn, anh em miền Nam tập kết ra Bắc đều lần lượt về thăm gia đình quê hương.
Có người trở về hẳn, xin chuyển công tác vào trong đó. Tình quê hương đã làm
trăn trở bao nhiêu con người từ hai mươi năm nay. Tôi sinh trưởng ở Phú Yên
nhưng gia đình tôi có còn ai thân thích. Bố mẹ tôi chết sớm, khi tôi còn nhỏ và
tôi đã là một đứa trẻ mồ côi. Sống vất vưởng trong cái thị xã miền Trung. Lớn
lên một chút, năm mười ba tuổi, tôi đi theo mấy bà buôn chuyến vào Sài Gòn rồi
tham gia cách mạng ở trong đó. Quê hương tôi, nơi chôn rau cắt rốn của tôi bây
giờ chỉ còn hiện lên trong ký ức những hình ảnh lờ mờ không rõ nét, lăn lộn
trong rất nhiều kỷ niệm khác. Trong công tác tình báo này, tôi đã hóa thân
thành một con người khác với một tiểu sử khác mà tôi luôn luôn ghi nhớ và tưởng
tượng thêm nhiều khiến chúng biến thành những hình ảnh có thật, sinh động, ăn
sâu vào tiềm thức tôi. Tôi không thể hình dung ra quê tôi bằng cái nơi mà tôi
đã đội danh người khác và sinh sống ở đó từ những năm 50, trước ngày tập kết ra
Bắc. Những đường phố, những cửa tiệm, những con người – bà bác tôi và các anh
chị họ tôi, những Hoa kiều từ Phúc Kiến lưu lạc sang, cửa tiệm thuốc bắc với những
tủ, những ô thuốc, những lưỡi dao cầu, những cối đá, những người làm công, mùi
thuốc bắc thơm phức lúc nào cũng bao quanh mình, rồi ngôn ngữ, cách sống, các
món ăn Phúc Kiến v.v. Với trí nhớ được rèn luyện, tôi có thể nhắm mắt mà kể lại
quang cảnh ấy, từ những đồ vật đến con người, mọi đặc điểm, nhận dạng…
- Cậu nghĩ ngợi gì vậy? – Anh Tư dừng lại châm thuốc và gặng hỏi – Thế
nào, cậu có định về thăm nhà không? Tranh thủ lúc này mà đi, mình sợ rồi ra cậu
sẽ ngập đầu vào công việc, không rời đi đâu được… - Hai chúng tôi vừa đi vừa
trò chuyện như hai anh cán bộ bình thường, chẳng có gì khác lạ. Giá có kẻ nghe
trộm cũng không đoán ra được.
Tôi nhìn anh, khẽ nói:
- Anh bảo tôi về đâu bây giờ? Gia đình tôi có còn ai nữa mà về, giá
như tôi có về bây giờ cũng chẳng ai còn nhớ đến tôi. Còn cái “vỏ bọc” của tôi,
liệu có nên quay trở lại đó không? Có lẽ họ cũng cho rằng tôi đã chết từ lâu
qua hai cuộc chiến tranh vừa qua…
- Ở Quy Nhơn cũng không còn ai hết! Sau ngày giải phóng, mình qua đó
và có kiểm tra. Họ đã bỏ vào Sài Gòn từ sau tết Mậu Thân, nay cũng chạy sang
Đài Bắc cả rồi… Nhưng dù sao cậu cứ nên đi. Tranh thủ về Quy Nhơn rồi lướt qua
Phú Yên. Dù sao cũng nên xử sự như mọi người và đã đến lúc phải nói rõ cho chị ấy
và cháu biết được gốc gác của mình. Không thể cứ giấu vợ, giấu con mãi. Chị ấy
thì khỏi phải nói, còn Tú Hoa nó đã lớn rồi, là đoàn viên Cộng Sản. À, nó học
hành hồi này ra sao?
- Cháu học hết phổ thông và vào trường mười cộng ba của tỉnh. Nó cũng
làm cô giáo như mẹ nó.
Anh Tư gật đầu:
- Thôi được, cậu cứ suy nghĩ xem. Bọn này không dám ép, về cái chuyện
đi phép ấy mà…
Tôi trở về biên giới và cũng không nghĩ gì đến việc đi phép. Cuối năm ấy,
tôi nhận được chỉ thị của anh Tư là phải tạo cớ đi phép để vào Nam ngay. Tôi
tìm Huy và bảo cậu ấy báo cáo với “anh Cả” rằng tuần tới tôi sẽ đưa vợ con vào
thăm bà con ở Quy Nhơn (tôi làm như không nắm được tình hình biến động của
gia đình họ Trương ở đó). Huy trở lại nói cho tôi biết Tạ đồng ý đề nghị của
tôi và ông ta báo cho tôi biết rằng ở Quy Nhơn tôi không còn ai thân thích. Chỉ
có hiện nay, một người con trai của “bác tôi” đang còn sống tại thành phố Hồ
Chí Minh. Người này vẫn kế tục sự nghiệp của cha, mở tiệm thuốc bắc ở đường Triệu
Quang Phục, quận 5. Như vậy họ nắm vững tình hình còn hơn cả mình.
Tôi nhắc lại ý nghĩ ấy với anh Tư khi tôi gặp anh ở Hà Nội vài ngày
sau, trước khi tôi lên đường cùng vợ con vào thành phố Hồ Chí Minh.
Tối hôm đó, tôi để vợ và con gái nghỉ ở nhà một bà có họ đằng vợ, tôi
đạp xe đi tìm anh Tư. Qua trạm liên lạc, tôi gặp anh trong một căn phòng nhỏ,
kín đáo ở phố Quan Thánh.
Tôi vào, anh Tư đang ngồi bên bàn làm việc với một tập hồ sơ trước mặt.
Anh bắt tay tôi và bảo:
- Chờ mình chút nhé, mình đang bận. Cậu nằm trên giường kia mà nghỉ, uống
nước, hút thuốc đi. Chị ấy và cháu Hoa đi đường khỏe chứ?
- Cám ơn anh, cũng bình thường ạ…
Tôi ra ngồi trên chiếc giường cá nhân của anh, vớ tờ báo mới đọc. Đọc
hết, tôi lại nhìn vơ vẩn và đợi. Tôi nhớ trước ngày lên đường về Hà Nội, tôi có
hỏi Huy:
- Lão ấy có dặn mình gì nữa không? Có trao nhiệm vụ gì trong những
ngày ở Sài Gòn không?
Huy lắc đầu:
- Ngoài điều mà tôi vừa nói với anh, lão không nói gì hơn.
Lại nhỉ? Tại sao trong chuyến đi xa này của tôi, Tạ không trao nhiệm vụ
gì cả. Coi như tôi hoàn toàn tự do để giải quyết công việc gia đình, đúng là
tôi được nghỉ phép, không bị ràng buộc vào công việc chung. Sau này tôi nghĩ ra
rằng Tạ không có trách nhiệm gì về phía Nam. Ở đó thuộc về người khác. Lão chỉ
nhắc tôi rằng vào đó nên chú ý quan hệ với người Hoa ở Chợ Lớn. Đừng có dính
mũi vào việc của họ, dẫn đến sự nghi ngờ và theo dõi của an ninh Việt Nam. Rất
nguy hiểm cho tổ chức. Hiện nay cuộc đấu tranh giai cấp đang diễn ra quyết liệt
giữa cách mạng và bọn tư sản mại bản, những kẻ từ lâu đã và đang khống chế nền
kinh tế của miền Nam. Công cuộc cải tạo tư bản tư nhân thật sự bước vào giai đoạn
gay go nhất. Nhiều cán bộ của ta đã bị ngã trước tiền, vàng và gái. Lần trước
anh Tư còn cho tôi biết ở trong đó còn có những hang ổ của bọn phản cách mạng,
những cơ sở tình báo gián điệp Trung Quốc. Qua cuộc đấu tranh cải tạo này, chúng
ta đã phá vỡ khá nhiều nên sự phản ứng của địch cũng khá ghê gớm. Ông bạn láng
giềng bên kia biên giới cũng bắt đầu gây khó khăn với ta, làm sức ép đỡ đòn cho
chúng. Tình hình chiến sự ở Tây Nam ngày càng phức tạp, quân lính của Pôn Pốt
luôn luôn quấy phá biên giới, thọc sâu cả vào lãnh thổ của ta, đốt phá và giết
chóc. Có tin chúng còn có cả kế hoạch tiến công thẳng vào thành phố Hồ Chí
Minh, phối hợp với những tàn quân của bọn ngụy quân, ngụy quyền cũ đang âm mưu
phản loạn… Tình hình vô cùng phức tạp mà tôi lại cùng vợ con đi phép… Thật trái
khoáy!
Chợt anh Tư xô ghế đứng lên. Anh đóng tập hồ sơ rồi quay sang tôi:
- Mình xin lỗi, có chút việc gấp phải giải quyết ngay để còn báo cáo
lên trên… Thôi xong rồi, bây giờ bọn mình nói chuyện…
Anh kéo tôi ra ngồi bên bàn và hỏi:
- Nào, cậu hãy cho mình biết lần này vào trong đó nó có giao việc chi
không?
Tôi lắc đầu kể lại những ý kiến của Tạ thông qua sự truyền đạt của
Huy. Anh Tư lẳng lặng ngồi nghe, anh kéo ngăn bàn lấy ra hai tấm ảnh đưa cho
tôi:
- Đồng chí có nhận ra ai đây không?
Hai tấm ảnh, một tấm màu khổ 9 x 12 chụp một gia đình hai vợ chồng ngồi
còn ba người con thì đứng phía sau. Một gia đình có vẻ khá giả qua nét mặt và
quần áo của họ. Tấm ảnh thứ hai đen trắng, chụp lại và phóng to người đàn bà đứng
tuổi. Tôi nhìn kỹ cả hai tấm ảnh. Người trong ảnh có những nét khá quen thuộc,
người đàn bà khoảng sáu chục tuổi, tóc đã điểm bạc nhưng khuôn mặt còn đầy đặn,
mỡ màng, có lẽ hồi trẻ đây cũng là một hoa khôi sắc nước hương trời…
Ai đấy nhỉ? Tôi lục lọi trong trí nhớ của mình và tôi chợt nhận ra đó
chính là người đàn bà đã đến liên lạc với tôi tại quầy thuốc bắc họ Trương cách
đây hơn ba mươi năm, vào đầu năm 1954. Đó là thượng cấp của tôi, người đã truyền
đạt cho tôi chỉ thị của trung tâm và mọi điều giao ước để bắt liên lạc sau này…
Tôi ngẩng lên nói với anh Tư:
- Tôi nhớ ra rồi anh Tư ạ! Chính mụ ta đấy!
Phải rồi, ngày ấy tôi còn trẻ và bà ta cũng chỉ nhỉnh hơn tôi vài tuổi.
Anh Tư cầm lấy tấm ảnh màu và bảo:
- Đấy là bà chủ của một công ty xuất nhập khẩu cỡ lớn ở thành phố Hồ
Chí Minh. Cậu vào đó có thể gặp bà ta…
- Tôi có phải gặp không?
- Không… Việc ấy không dính dáng đến nhiệm vụ của cậu, trừ phi họ giao
cho cậu. Nếu tình cờ gặp, bà ta cũng chẳng nhận cậu… Nguyên tắc hoạt động như
thế mà. Tôi chỉ muốn lần này cậu có dịp vào đó thì giúp các đồng chí trong đó
xác minh lại cho chính xác… Cậu nên thông qua người anh họ Trương của cậu mà
tìm hiểu về bà ta. Một con mồi cỡ bự đấy…
Anh Tư chìa lại tấm ảnh cho tôi:
- Tên và địa chỉ của họ đây, cậu đọc phía sau ảnh và ghi nhớ lấy.
Tôi lật tấm ảnh màu, dọc những dòng chữ ghi phía sau. Tên, tuổi của chồng,
vợ và cả ba người con. Theo chú thích thì người chồng đã mất tích (hay đã di tản)
sau 30 tháng 4 – 1975. Phía dưới cùng là tên cái công ty buôn bán ấy, cùng địa
chỉ của nó tại thành phố Hồ Chí Minh. Tiễn tôi ra về, anh Tư nắm tay tôi và
nói:
- Mình đã xin chỉ thị cấp trên và các đồng chí lãnh đạo đã đồng ý.
Mình sẽ giải phóng cho cậu cái vỏ bọc hiện nay với chị ấy và cháu. Cả ngày mai
cậu được tự do để đưa chị ấy và cháu đi thăm Hà Nội. Chiều mai, năm giờ, mình
cho xe đến đón cả nhà về cơ quan. Đêm mai gia đình cậu nghỉ lại ở đấy rồi sáng
sớm ngày kia ra sân bay. Tối mai bọn mình tổ chức liên hoan, nhân đó mình giải
thích cho chị ấy và cháu biết về cậu… Được không nào?
- Cám ơn anh Tư! – Tôi cảm động đến run giọng. Đúng là anh đã giải
thoát cho tôi khỏi cái vỏ lốt này trước vợ, con tôi. Từ nay, vợ tôi và con gái
tôi sẽ hiểu tôi là con người như thế nào… Ngày mai tôi sẽ không nói gì cả, tôi
muốn dành cho vợ con một sự bất ngờ, thật bất ngờ… Tối mai sẽ là một ngày vui lớn
nhất trong gia đình tôi, anh Tư ạ!
Suốt cả ngày hôm sau, người tôi cứ bần thần như kẻ mất hồn. Tôi dẫn
hai mẹ con cháu Hoa đi quanh hồ Gươm, rồi vào cửa hàng Bách hóa tổng hợp. Sau
đó chúng tôi nhảy xe điện lên chợ Đồng Xuân. Nhưng chúng tôi chẳng mua bán gì hết,
cứ ngắm nhìn đến thỏa mãn những thứ hàng bày bán ở các quầy mậu dịch. Gần trưa,
chúng tôi vào tiệm ăn ở phố Tràng Tiền. Đã lâu lắm tôi mới có dịp nhàn tản như
vậy, tôi làm mọi việc mà đầu óc cứ bồn chồn mong cho thời gian trôi nhanh.
Ngó sắc mặt tôi, vợ tôi cũng đoán chắc tôi có điều gì băn khoăn, nhưng
cô ấy không dám hỏi. Chỉ có Tú Hoa là vô tư, nó cười nói, đi lại thoải mái và
cũng luôn luôn ngỡ ngàng đúng như một cô bé nông thôn ra tỉnh. Khi tôi báo cho
biết rằng sáng mai cả nhà sẽ đáp máy bay vào thành phố Hồ Chí Minh thì nó reo
lên, thích thú đến ngạc nhiên. Có bao giờ nó dám mơ ước đến việc được bước lên
khoang máy bay và được bay lượn trên bầu trời cao thăm thẳm kia… Tôi tự nghĩ:
“Mới có thế mà con mình đã vui sướng như vậy. Nếu như tối nay nó được biết sự
thật về mình thì nó còn ngạc nhiên và sung sướng đến đâu?”.
Buổi chiều, đúng năm giờ, một chiếc xe con đến đón chúng tôi. Chúng
tôi chào từ biệt bà cô, rồi xách hành lý gồm ba cái túi du lịch lên xe, con gái
tôi tỏ vẻ rất ngạc nhiên về chiếc xe, từ nhỏ đến giờ có bao giờ nó được đặt
chân lên chiếc xe ô tô con. Còn vợ tôi chỉ im lặng, chờ đợi. Xe chạy trên mấy
đường phố lớn, vòng vèo, loanh quanh như cố ý kéo dài niềm thích thú và ngạc
nhiên của Tú Hoa. Xe rẽ vào một phố vắng và dừng bánh trước một ngôi nhà nhỏ
nhưng riêng biệt. Cánh cổng sắt mở rộng, xe chui hẳn vào sân. Đồng chí lái xe
đưa chúng tôi vào một căn phòng rộng, kê hai chiếc giường lớn và bảo:
- Anh chị và cháu đêm nay nghỉ ở đây. Sáng sớm mai em sẽ đưa anh chị
ra sân bay. Giờ xin anh chị cất hành lý và sang phòng khách uống nước…
Ngó gương mặt đầy vẻ lo âu, phấp phỏng của vợ tôi khi bước vào phòng
khách, tôi rất thương. Hơn hai mươi năm trời, từ ngày lấy chồng cho tới khi con
gái đã thành một cô giáo cao đẳng sư phạm, vợ tôi vẫn đinh ninh chồng mình là một
anh kỹ sư nông học, quê hương gốc gác từ một vùng xa xôi nào đó tít tận bên kia
biên giới. Những năm gần đây, vợ tôi đã phải chịu đựng nhiều điều xì xào, bàn
luận của mọi người và nhất là phải chịu đựng trước những đôi mắt hoài nghi, dè
dặt của họ. Chỉ có Tú Hoa là vẫn thản nhiên, nó coi mọi chuyện như lẽ tất
nhiên, rằng đây là cơ quan của tôi – một cơ quan chuyên môn nào đó của ngành
lâm nghiệp. Mãi tới khi anh Tư đẩy cửa, tươi cười bước vào, nó mới tỏ vẻ ngạc
nhiên vì bộ điệu và y phục của anh.
Anh Tư tiếp chúng tôi với bộ quân phục là rất phẳng phiu, đeo quân hàm
trung tá. Tôi giới thiệu anh với vợ và con tôi, anh là “thủ trưởng” của tôi, cả
vợ và con gái tôi mở tròn mắt nhìn anh. Làm sao một cán bộ quân sự lại là thủ
trưởng của tôi – một chuyên viên về rừng?
Anh Tư cười to:
- Thôi, thôi… xin lỗi chị và cháu Tú Hoa nhé! Anh ấy và tôi đã làm hai
mẹ con ngạc nhiên lắm phải không? Bây giờ thay mặt cơ quan, tôi xin chính thức
giới thiệu với chị và cháu, đây là đồng chí Phúc, Lê Chí Phúc tức Trương Đạt,
thiếu tá tình báo, người bạn chiến đấu rất tin cậy của chúng tôi. Vì nhiệm vụ đặc
biệt của cách mạng, từ lâu, mấy chục năm nay, đồng chí Phúc thân yêu của chúng
tôi phải sắm vai một người khác, một cán bộ lâm nghiệp, người Việt gốc Hoa. Chị
và cháu thông cảm, tôi không thể nói rõ hơn được nữa, kể cả lý do tại sao cho đến
giờ phút này, chúng tôi mới được phép nói rõ điều đó với chị và cháu. Chị là một
cán bộ giáo dục, một đảng viên cộng sản; cháu Tú Hoa cũng là cán bộ giáo dục và
là một đoàn viên thanh niên cộng sản, chúng tôi rất tôn trọng tình cảm gia đình
và nhận thấy không thể giấu mãi được…
Tôi có cảm giác như chút nữa là vợ tôi và Tú Hoa òa lên khóc và cả hai
cố kìm lại. Nhưng nước mắt đã đầm đìa trên hai gương mặt; đây là những giọt nước
mắt sung sướng và tự hào, cả hai đều không giấu giếm trước mặt người lạ.
Anh Tư nhìn tôi rồi nhìn hai mẹ con:
- Chúng tôi rất thông cảm với chị và cháu. Chắc bây giờ thì hai mẹ con
đã hiểu sự hy sinh chịu đựng của anh em tôi, của các chiến sĩ chiến đấu trong
trận tuyến thầm lặng như thế nào rồi… Chị cũng nên hiểu đây là nguyên tắc và kỷ
luật của chúng tôi, cho nên dù ngay cả với vợ con cũng không thể nói rõ tất cả
mọi điều…
Chợt Tú Hoa kêu: “Ba” rồi nhào sang chỗ tôi. Cháu ôm lấy tôi và gục đầu
vào ngực tôi. Vợ tôi vội đứng lên dìu con trở lại chỗ ngồi. Dường như nỗi xúc động
cũng lây cả anh Tư. Anh châm thuốc lá hút chờ cho không khí bình thường trở lại.
Anh rót thêm nước vào chén rồi đưa cho Tú Hoa. Đợi cháu uống cạn chén nước, anh
Tư nói:
- Bây giờ chị và cháu Tú Hoa đã biết rõ anh ấy là ai và làm công tác
gì rồi, vậy thì nhiệm vụ của hai người là phải hết sức bảo vệ anh ấy. Cách bảo
vệ tốt nhất và có hiệu quả nhất là hai mẹ con từ lúc này trở đi vẫn sống bình
thường, coi như không có cuộc nói chuyện tối nay, coi như đây vẫn là đồng chí
Trương Đạt, cán bộ lâm nghiệp và người gốc Hoa. Từ sau cuộc nói chuyện này, tuyệt
đối cả nhà không bao giờ được nhắc lại, dù chỉ cho nhau nghe thôi – một chi tiết
nhỏ về cuộc đời thật của anh ấy. Dù cho sau này mọi người có xì xào bàn tán, hoặc
mỉa mai chê trách về gốc tích của anh ấy, chị và cháu tuyệt đối không được phản
ứng lại, không được thanh minh… Tóm lại là trước kia, hiện nay và sau này, đây
vẫn là đồng chí Trương Đạt, kỹ sư lâm nghiệp, người Hoa. CHúng ta chỉ sơ hở một
chút là lọt vào tai kẻ thù… tôi biết là hai mẹ con rất muốn biết, muốn hỏi nhiều
điều nhưng hôm nay hãy tạm như vậy. Khi nào có dịp, anh Bảy đây sẽ nói thêm… Được
không nào? Thôi bây giờ xịn mời cả nhà sang ăn cơm. Tối nay, thay mặt cơ quan,
tôi mời anh chị và cháu ăn một bữa liên hoan nhỏ để ghi nhớ mãi mãi cuộc nói
chuyện này… Nào, xin mời…
Anh Tư đứng lên mời gia đình tôi sang bên phòng ăn.
Đêm ấy, tôi đi nằm trong một tâm trạng vô cùng phấn hứng. Vợ tôi và Tú
Hoa lục đục mãi chưa chịu ngủ. Tú Hoa cứ luôn miệng hỏi tôi về những ngày thơ ấu
của tôi, mặc dù mẹ nó nhớ lời dặn của anh Tư, gạt đi. Tôi chiều con, vả lại những
mẩu chuyện xa xưa ấy không vi phạm đến nguyên tắc, nên tôi sẵn lòng kể lại cho
cháu nghe…
Chúng tôi hạ cánh xuống sân bay Tân Sơn Nhất vào khoảng xế trưa. Ngoài
Bắc trời đã lạnh giá nhưng trong Nam thì nắng và nóng. Chúng tôi phải cởi bớt
áo khoác ngoài. Tôi để vợ con ngồi ở phòng chờ và tôi ra gọi điện thoại theo lời
dặn của anh Tư. Đầu dây có người trả lời ngay:
- Tôi là Bảy, tôi ở chỗ anh Tư mới vào. Tôi muốn hỏi anh Năm Sáng.
- Chào anh Bảy, tôi là Năm Sáng đây. Tối qua anh Tư có gọi điện từ
ngoài vô đây. Anh chờ chút xíu nghe, anh Bảy. Khoảng hai chục phút tôi sẽ đưa
xe ra sân bay đón anh… À nè, anh Bảy, anh mặc bộ đồ chi đó? Anh nói tôi nghe để
tôi dễ nhận anh…
- Tôi mặc chiếc áo len màu nâu, nhưng trong này trời nóng quá, tôi cởi
ra vắt ở tay. Trong tôi mặc áo sơ mi trắng…
- Vậy hả? Lát nữa tôi gặp anh nghe!
Ngồi ở phòng chờ, đúng hai mươi phút sau, tôi thấy một người xuất hiện
và đi thẳng đến chỗ tôi. Người đó đã đứng tuổi, tóc điểm bạc nhưng da mặt hồng
hào, mang kính trắng và bộ quần áo gọn gàng nịt lấy thân hình vạm vỡ. Anh ấy gật
đầu với tôi và nói:
- Xin lỗi, anh là anh Bảy?
- Dạ… Tôi đưa tay ra bắt – Anh là Năm Sáng?
- Dạ… Người đó mỉm cười – Anh chờ tôi lâu lắm hả?
- Không lâu đâu. Đúng hai mươi phút như anh hẹn…
Tôi giới thiệu vợ và con gái tôi với anh. Anh nồng nhiệt bắt tay từng
người rồi nói:
- Nào mời anh chị và cháu ra xe…
Chúng tôi xách hành lý theo anh. Một chiếc xe du lịch màu sữa trắng đậu gần đó. Tôi ngồi ghế
trên với anh, xe lướt khỏi sân bay rồi bon trên đường phố thênh thang của Sài
Gòn. Quang cảnh mới lạ ấy cuốn hút mọi sự chú ý của vợ và con gái tôi.
Anh Năm ghé đầu nói với tôi:
- Giờ thế này, anh Bảy nghe! Tôi sẽ đưa anh chị và cháu tới nhận phòng
ở khách sạn. Sau đó ta đi ăn. Tối nay, anh với tôi, ta làm việc, bàn kế hoạch
công tác trong những ngày anh ở đây. Được chứ anh Bảy?
- Dạ, được!
Tối hôm ấy, tôi để vợ tôi và con gái ở khách sạn, theo anh Năm đến nơi
làm việc. Cũng chỉ có anh và tôi trong một căn phòng nhỏ. Anh Năm bảo tôi:
- Tôi đã nhận được chỉ thị của anh Tư và chúng tôi đã tìm hiểu sơ bộ về
người anh họ Trương của anh. Qua hồ sơ mà chúng tôi nắm được, tôi có thể báo
cáo với anh Bảy như vầy: Ông ta tên Trương Phúc Hòa, năm nhăm tuổi, có vợ và bốn
con. Hai người con trai thì về Hồng Công năm bảy tư, ở lại đây còn hai cô con
gái nhỏ chưa chồng. Họ mở tiệm buôn bán thuốc bắc ở đường Triệu Quang Phục, quận
5 từ năm 1970, xem mạch, kê đơn bốc thuốc. Không có nghi vấn về chính trị. Tóm
lại, đây là một Hoa thương bình thường, tài sản không nhiều, ít có quan hệ mật
thiết với chính quyền ngụy quyền trước kia hoặc các tổ chức chính trị phản động…
Trong đợt cải tạo này, gia đình ấy không thuộc diện đối tượng đấu tranh. Tôi
nghĩ rằng anh có thể quan hệ bình thường với họ trên danh nghĩa họ hàng. Tuy
nhiên cũng nên chú ý về những người thường đến giao dịch bởi chúng ta cũng chưa
nắm hết được… Anh định bao giờ thì tới thăm ông ta?
- Ngày mai, sáng tôi đi xe buýt tới trước, sau đó sẽ đưa vợ con tôi tới
chào ông anh họ… Lâu lắm, hơn ba mươi năm tôi không gặp ông ta. Hồi còn ở Quy
Nhơn, tôi nhớ ông này là người hiền lành nhất trong mấy người con ông bác tôi.
Anh Năm nói:
- Chiều mai, tôi sẽ cho xe đưa anh chị và các cháu đi…
- Thôi đừng anh Năm ạ! Chúng tôi đi xe buýt hoặc xe lam tiện hơn.
- Anh Bảy đừng ngại. Xe hơi trong này không có chi ghê gớm như ngoài
Hà Nội đâu. Vả lại, trong này chưa thay biển đăng ký xe hơi nên không có kẻ nào
theo dõi được. Dù sao anh cũng là cán bộ có cỡ ở Bắc vô, anh cứ đi xe hơi cho
đàng hoàng… Bọn tôi có trách nhiệm bảo vệ anh nữa mà…
Rồi anh rút trong cặp ra tấm ảnh người quen cũ của tôi mà anh Tư đã
cho tôi xem hôm còn ngoài Hà Nội. Anh Năm nói:
- Anh Tư bảo anh có biết bà này?
- Dạ, tôi có gặp bà ta cách đây hơn ba chục năm, nếu đúng là bà ấy…
- Bà này tên thiệt là Hàn Huệ Nương, năm nay tròn sáu mươi tuổi. Chồng
là Mã Tài, giám đốc một công ty xuất nhập khẩu cỡ bự ở thành phố này. Họ nhập
khẩu đủ loại kể từ vật liệu xây dựng đến máy móc nông cụ, rồi đồ điện tử, thường
là nhập của Tây Đức, Nhật và Hồng Công. Còn xuất chủ yếu là lúa gạo… Tuy Mã Tài
danh nghĩa là giám đốc nhưng thực quyền do vợ nắm, vì vậy giới kinh doanh trong
này gọi bà ta là Hàn Đại Nương…
- Người chồng chết hay mất tích? – Tôi hỏi.
- Đâu có! Ông ta đi Đài Bắc hồi đầu năm 1975, rồi bị kẹt, miền Nam giải
phóng nên không trở về được. Hai người con lớn cùng gia đình cũng đi theo bố,
hiện ở nhà chỉ có cô con gái út chừng ngoài hai chục tuổi sống với mẹ…
- Từ hồi giải phóng, họ có liên hệ gì với nhau không?
Anh Năm lắc đầu:
- Không có liên hệ chi hết! Bọn tôi đã kiểm tra qua đường bưu điện. Loại
trừ họ bí mật thì ta chưa nắm được…
- Vậy các anh trong này có yêu cầu tôi phải làm gì?
- Chỉ cần anh xác minh xem có đúng là người quen cũ của anh không? Và
nếu như anh tiếp xúc được và bà ta lại bộc lộ với anh điều gì đó thì rất có lợi
cho chúng tôi..
- Anh để tôi nghĩ cách xem làm sao tiếp cận được với bà ta… Anh kiếm
cho tôi các giấy giới thiệu của Sở Nông nghiệp thành phố để tôi tìm đến công ty
của bà ta. Theo anh nói thì họ có nhiều máy móc nông nghiệp…
- Được, cái đó dễ ợt, tôi sẽ kiếm cho anh Bảy…
Nhưng anh Tư không cho phép tôi đến gặp Hàn Huệ Nương. Đó không phải
là nhiệm vụ của tôi và hành động ấy có thể gây sự nghi ngờ cho người đàn bà
này. Tuy vậy do sự tình cờ, tôi vẫn gặp được nữ cố nhân diễm lệ ấy.
Để mừng hội ngộ của tôi với gia đình họ Trương sau hơn ba mươi năm
cách biệt, người anh họ của tôi Trương Phúc Hòa đã tổ chức tại khách sạn một bữa
tiệc lớn mời bè bạn và giới kinh doanh Chợ Lớn. Chưa bao giờ, trong cuộc đời
mình, tôi được dự và làm chủ tọa một bữa tiệc sang trọng như vậy với những món
ăn, đồ uống mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy với những vị khách cũng sang trọng
không kém. Cũng may, hôm đó, anh Năm đã kiếm cho tôi một bộ âu phục rất chững
chạc và hôm trước anh đã dặn dò tôi đủ mọi điều về cách tiếp xúc và đối xử với
họ. Vậy mà tôi cứ luôn luôn cảm thấy lúng túng, ngượng nghịu và cái vẻ ấy rất
phù hợp với vai trò của tôi – một anh cán bộ cách mạng từ một tỉnh tít tắp tận
biên giới phía Bắc mới vào.
Trong bữa tiệc, người ta chúc tụng tôi, chào mừng tôi và tôi cũng lễ
phép, hòa nhã đáp lời. Chúng tôi nói với nhau toàn bằng tiếng Bắc Kinh pha giọng
Quảng Đông, tôi thì phát âm lơ lớ giọng Phúc Kiến.
Hàn Huệ Nương đến hơi trễ. Và khi bà ta vào, cả bàn tiệc phải ngừng lại:
Ông anh họ tôi vội chạy ra đón bà ta từ cửa phòng và lễ phép đưa vào. Vẫn là
người đàn bà khi xưa, vẫn cốt cách đường bệ và đài các, bà ta duyên dáng trong
bộ âu phục bằng len mỏng nhạt màu, mái tóc búi cao và mang cặp kính màu hồng nhạt.
Người đàn bà cúi đầu chào tất cả, rồi đỡ lấy ly rượu từ tay Trương
Phúc Hòa. Bà ta đi thẳng đến chỗ tôi, nheo nheo mắt nhìn tôi và nhoẻn cười. Một
luồng nước hoa và son phấn phả tới quanh tôi. Bà ta nâng ly rượu và nói bằng tiếng
Việt rất nhẹ:
- Tôi xin chúc mừng sự hội ngộ của ông, thưa ông Trương Đạt…
Tôi cúi đầu và nâng ly rượu, chạm ly với bà ta. Tôi cũng nói tiếng Việt:
- Xin chúc sức khỏe bà. Rất hân hạnh được gặp bà…
Trương Phúc Hòa từ sau tiến lên, giới thiệu:
- Xin giới thiệu với chú Trương, đây là Mã phu nhân, một nhà đại kinh
doanh của giới Hoa thương chúng ta…
Hàn Huệ Nương cười:
- Xin lỗi ông, ông Trương Phúc Hòa. Vậy ông quên rằng ông Trương Đạt
đây là cán bộ cách mạng từ ngoài Bắc vô. Ông giới thiệu tôi là nhà đại kinh
doanh thì khác nào ông đã đặt tôi vào hàng ngũ đối địch với ông em họ của ông
sao?
Trương Phúc Hòa vội thanh minh:
- Xin bà đừng hiểu lầm… ở đây không có chuyện đấu tranh cách mạng chi
hết. Ở đây chỉ có tình anh em gia đình, tình đồng hương…
Tôi cũng tiếp lời:
- Vả lại thưa bà, tôi tuy đi theo cách mạng, nhưng tôi là một kỹ sư
lâm nghiệp, tôi chỉ làm công việc chuyên môn của tôi…
Hàn Huệ Nương cười và sau khi chạm ly với tôi lần nữa, bà ta đi đến chỗ
những người khác. Suốt từ đó, bà ta không tiếp xúc với tôi nữa. Nhưng tôi có cảm
giác, bà ta lúc nào cũng quan sát tôi bằng đôi mắt rất sắc…
Khoảng nửa tiếng sau, tôi đã đứng nói chuyện với mấy người khách sát
ngay cửa sổ trông xuống sân trước của khách sạn. Mấy người khách tỏ vẻ dè dặt
khi tiếp xúc với tôi, họ hỏi thăm tôi về tình hình kinh tế của miền Bắc, về
tình hình sản xuất của nơi tôi đang ở ngoài ấy. Rồi họ chuyển sang hỏi thăm gia
cảnh tôi, sức khỏe của vợ và con gái tôi. Họ rất tiếc rằng tôi nay vợ tôi và
con gái tôi không có mặt trong bữa tiệc mừng này. Tôi đáp rằng tôi cũng rất lấy
làm tiếc, ngặt vì vợ tôi và con gái tôi đi Vũng Tàu sáng nay nên không về kịp…
Giữa lúc ấy, tôi thoáng thấy một người bồi của khách sạn đi vào và tới
chỗ Hàn Huệ Nương. Người đó cúi đầu nói điều gì đó và bà ta vội đặt ly rượu lên
bàn rồi đi theo. Tôi lùi lại, sát bên cửa sổ, chú ý nhìn xuống mảnh sân của
khách sạn và tôi nhận ra một người đàn ông mặc âu phục trắng đứng bên cạnh chiếc
xe Vespa có vẻ chờ đợi ai đó. Lát sau thì Hàn Huệ Nương đi ra. Người đàn ông tiến
lại và hai người nói chuyện với nhau. Bà ta chốc chốc vẫn ngẩng lên nhìn về
phía tôi, làm cho gã đàn ông kia cũng phải nhìn theo.
Ánh đèn trong sân rất sáng và tôi chợt nhận ra gương mặt khá quen thuộc
của người đàn ông kia. Gã cầm chiếc mũ vải ở tay, đeo cặp kính trắng. Gã chính
là Lưu Nghị, chính ủy của lữ đoàn công binh làm đường năm xưa. Chính là gã, tôi
trông không thể lầm mặc dù thời gian đã hơn mười năm trôi qua. Lưu Nghị, làm
sao gã lại xuất hiện ở đây? Và có điều gì khiến gã vội vàng tìm gặp Hàn Huệ
Nương? Chắc hẳn trong cuộc trò chuyện này, Hàn Huệ Nương báo tin cho Lưu Nghị
biết sự xuất hiện của tôi và họ thừa biết tôi nằm trong nhóm “Lưu – Quan –
Trương”. Liệu họ có dám liên lạc với tôi không? Hoặc họ có cần thiết đến tôi
không? Tất cả đều phải đợi lệnh của cấp trên của họ. Và tôi, nếu như anh Tư cho
phép, tôi cũng có cách tiếp cận với họ. Nhưng tôi biết chẳng khi nào tôi được
làm việc ấy, trừ phi họ tự động tìm đến tôi. Nhiệm vụ của tôi, trận đánh của
tôi ở nơi khác, tại các thị xã vùng biên bé nhỏ của tôi, nơi địa đầu Tổ quốc…
Lúc này tôi chưa biết và cũng không thể nghĩ được chỉ vài năm nữa nơi ấy sẽ là
tiền tuyến, là mảnh đất nóng bỏng cả nước phải hướng về…
Tôi thông báo lại tất cả với anh Năm Sáng. Anh rất mừng và bảo:
- Đúng là mấy bữa nay, bọn tôi được tin có một vị khách lạ mới xuất hiện,
hình dạng đúng như anh vừa kể. Bọn tôi đã tung anh em đi bám sát nhưng thằng
này bản lĩnh lắm, ẩn hiện bất chợt, và con đường xâm nhập của gã cũng chưa được
xác định…
Rồi anh kiếm cho tôi xem mấy tấm ảnh do trinh sát chụp được. Mặc dù chụp
từ xa và người trong ảnh rất nhỏ nhưng cũng đủ để tôi nhận ngay được Lưu Nghị.
Sự phát hiện này của tôi khiến anh Năm Sáng xác định được mục tiêu của anh và
anh càng mừng… Như vậy coi như trách nhiệm của tôi đối với anh em trong này đã
gần như hoàn thành tốt đẹp…
Hai ngày sau, người anh họ của tôi phóng xe máy đến khách sạn tìm tôi.
Trương Phúc Hòa lôi từ trong chiếc cặp ra ba gói nhỏ và ông ta bảo đây là quà
biếu của Hàn Huệ Nương tặng cho gia đình tôi. Ông ta tấm tắc khen lối cư xử đẹp
đẽ và hào phóng của Mã phu nhân, đồng thời ông ta cũng lại ca ngợi tôi chỉ mới
một lần gặp gỡ mà đã thu phục được cảm tình của một người nổi danh trong giới
doanh thương Chợ Lớn. Tôi hồi hộp mở cả ba gói. Gói thứ nhất tặng con gái tôi
có hai cái hộp nhung, bên trong đựng một chuỗi hạt trai rất đẹp và một chiếc đồng
hồ nữ kiểu Citizen Nhật. Gói thứ hai tặng vợ tôi cũng có hai cái hộp nhung đỏ,
bên trong là chiếc vòng hổ phách và chiếc nhẫn kim cương, hạt kim cương sáng
lóng lánh to bằng hạt đỗ xanh. Còn cái gói của tôi cũng có hai cái hộp đựng chiếc
bút máy Parker Mỹ và một chiếc đồng hồ đeo tay Thụy Sĩ Movado vỏ vàng. Tất cả đều
mới tinh và là những vật phẩm rất có giá. Ngoài ra còn một tấm danh thiếp của
Mã Tài, mặt bên là mấy dòng chữ Hán mà Huệ Nướng đã viết: “Từ Tạ cố nhân – Kính
chúc Trương quân bình an, thắng lợi – Mã”. Chữ viết rất bay bướm và cái nghĩa
thật của nó cũng là những lời chúc tụng thông thường, nhưng tôi còn hiểu cái ẩn
ý của người viết. Bà ta vẫn nhớ tôi, nhớ cuộc gặp gỡ năm xưa và chắc hẳn bà ta
cũng đã được thông báo rằng tôi đã có liên lạc và đang bí mật hoạt động…
Cẩn thận hơn, tôi đã chuyển cho anh Năm Sáng những tặng vật ấy, nhờ
anh kiểm tra lại. Anh Năm cho biết chúng không có gì khác lạ, chỉ là món quá biếu
bình thường. Ở trong này, đối với giới doanh thương lớn, những vật phẩm ấy cũng
không có gì là ghê gớm lắm…
Tôi nán ở lại thành phố Hồ Chí Minh thêm một tuần nữa, cốt để chờ xem
Hàn Nương có thái độ gì hơn nữa không? Nhưng không có gì hết. Cả gã chính ủy của
lữ đoàn công binh cũng biến mất, anh Năm bảo bọn anh cũng đang tìm kiếm gã
nhưng không thấy gã xuất hiện…
Năm 1978 là một năm cực kỳ sôi động. Cuộc chiến tranh biên giới Tây
Nam ngày càng trở nên ác liệt. Pôn Pốt đã xua hàng sư đoàn lính tràn qua biên
giới đánh sâu vào lãnh thổ Việt Nam. Chúng nó gọi Việt Nam là “kẻ thù truyền kiếp”
và thách thức, đe dọa rằng chúng sẽ đánh nhau với Việt Nam hàng trăm năm nữa,
trong khi ngay trên đất Campuchia, Pôn Pốt đập chết hàng triệu người dân vô tội.
Năm ấy, ở thủ đô Hà Nội, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã họp báo công bố bản
tuyên bố của Chính phủ về cuộc chiến tranh do bè lũ Pôn Pốt gây ra ở biên giới
Tây Nam. Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần đề nghị với chính phủ Campuchia dân chủ
họp bàn để tìm giải pháp cho cuộc tranh chấp biên giới, nhưng phía Pôn Pốt đã
bác bỏ. Chúng cậy thế Trung Quốc cứ lấn tới. Trong cuộc họp báo ấy, hình như có
ông nhà báo Tàu đã nêu lên những câu hỏi châm chọc và xỏ lá, nhưng đã được những
câu trả lời đích đáng…
Tiếp đó là vụ “nạn kiều” nổ ra trong tất cả những vùng có người Hoa
sinh sống, từ các thành phố, thị xã, thị trấn và khắp nẻo biên cương. Hàng vạn
người Hoa lam lũ và hiền lành bỗng nhiên bị một sức mạnh huyền bí nào đó thúc
ép, bức bách ùn ùn kéo nhau về nước. Già trẻ lớn bé, vợ chồng, cha con, mặt mũi
xám ngoét và ngơ ngác như có ma đuổi sau lưng, gồng gánh, đeo đội, ngày cũng
như đêm dắt díu nhau dồn ra các cửa khẩu biên giới. Bên kia, người Trung Quốc
đóng chặt các cửa ải, người Hoa ở Việt Nam đổ từ các nơi tới đó không có lối
thoát cứ tắc nghẽn lại, dồn cục hàng nghìn, hàng vạn con người, căn lều, dựng
quán, ăn đấy ngủ đấy, ỉa đấy, màn trời chiếu đất, trẻ con kêu khóc, người già
rên rầm, đám thanh niên thì hung hăng hò hét, giơ gậy, giơ nắm tay đòi “tả lớ,
tả lớ” nhặng xị…
Người Việt Nam chia nhau đi đến từng gia đình, khuyên giải và thuyết
phục người Hoa ở lại, sinh sống, làm ăn bình thường trên mảnh đất mà từ bao năm
nay đã nuôi dưỡng họ. Trong khi ấy, các loa phát thanh bên kia biên giới gào
thét, chửi rủa người Việt Nam đang xua đuổi và đày ải người Hoa…
Rồi đến mức chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra tuyên bố cắt mọi
viện trợ cho Việt Nam, xóa bỏ mọi hiệp định kinh tế đã ký với Việt Nam và gọi hết
chuyên gia Trung Quốc ở Việt Nam về nước, lấy cớ rằng để lấy tiền giúp đỡ các
“nạn kiều” bị Việt Nam xua đuổi.
*
Thị xã vùng biên của tôi cũng nằm trong khung cảnh biến động dữ đội ấy.
Đám người Hoa bỏ hết công việc làm ăn, từ khắp nơi trong tỉnh đổ về thị xã, túm
năm tụm ba, thì thào bàn tán dọa dẫm và đe nẹt lẫn nhau, rồi đùng đùng bán nhà,
bán cửa để ra đi. Mối quan hệ giữa họ với người dân địa phương đột nhiên căng
thẳng, mới hôm qua còn là bạn bè, là hàng xóm láng giềng tắt lửa tối đèn có
nhau, vậy mà hôm nay nhìn nhau như kẻ thù. Người ở lại nhìn kẻ ra đi bằng con mắt
nghi kỵ, hằn học. Chẳng hiểu duyên cớ từ đâu?
Tôi bị lọt vào kẻ đứng giữa. Người Hoa cho tôi là đứa mất gốc, vong ân.
Còn người Việt thì dè dặt khi tiếp xúc với tôi, ngay cả anh em cùng cơ quan.
Người ta chỉ còn chờ ngày tôi và vợ con cuốn xéo lên đường giống như mọi kẻ
khác. Mà nếu tôi có ra đi, chắc cũng chẳng có ai ngạc nhiên. Nhưng tôi vẫn im lặng
và bình tĩnh nén chịu. Vợ tôi và cháu Tú Hoa cũng lâm vào cảnh ấy và cũng phải
im lặng, nén chịu. Chỉ có tối khuya, hai mẹ con lại tấm tức khóc với tôi. Tôi lấy
lời dặn của anh Tư để khuyên giải. Tú Hoa kể rằng nó đã gặp và nói chuyện với
con trai lão Cắm Sềnh.
Đó là một buổi chiều, Voòng Chuýn đứng đón ở ngay gần trường Cao đẳng
Sư phạm tỉnh và khi Tú Hoa về nhà thì gã giữ lại. Gương mặt chàng thanh niên rầu
rĩ, gã nói: Tú Hoa, tôi có câu chuyện quan trọng muốn nói với bạn…
Nhớ lời bố căn dặn, Tú Hoa xuống xe và đi bộ với gã.
- Chuyện gì vậy? Bạn nói đi!
- Tháng này, người Hoa ở thị xã đi nhiều quá…
- Vậy bạn cũng đi chứ!
- Tôi sẽ đi…
- Cả hai bác cũng về Trung Quốc với bạn chứ?
Voòng Chuýn lắc đầu:
- Không, ba tôi ở lại vì mẹ tôi hiện đang ốm… Mà tôi cũng không về
Trung Quốc. Về đấy khác gì ở lại đây, rồi họ tống vào lao động trong các công
xã. Thà ở lại đây còn hơn…
- Sao bạn nói là bạn sẽ đi?
- Đúng, tôi sẽ đi nhưng tôi sẽ đi sang Hồng Công rồi sang Úc hoặc
Canada. Bọn bạn tôi có đứa đã sang bên ấy, bên ấy sống sung sướng hơn, tự do
hơn vì họ là nước tư bản… Tôi muốn Tú Hoa cùng đi với tôi…
- Tôi đi ư?
- Phải, chúng ta cùng đi. Tôi có vàng đủ để bảo đảm cho đời sống của bạn…
Tôi yêu Tú Hoa, yêu từ lâu… Tôi muốn Tú Hoa cùng đi với tôi. Đây là thời cơ rất
may mắn…
- Nhưng còn ba mẹ tôi, tôi bỏ để đi sao được?
- Rồi cả ba và mẹ cũng phải đi. Tình thế này không thể ở lại đây được
nữa rồi. Gia đình của Tú Hoa là gia đình trí thức, ba bạn là kỹ sư còn mẹ bạn
là giáo viên. Sang Canada, trí thức rất dễ kiếm việc làm, lại lương cao, tha hồ
sung sướng.
- Vậy bạn quyết định đi một mình, bỏ lại hai bác ở đây?
- Làm thế nào được. Ba tôi rất lẩm cẩm, cứ nói đến chuyện đi là gắt mắng.
Còn mẹ tôi thì chỉ than vãn, khóc lóc. Tôi không thể ở lại đây được. Tôi phải
đi, Tú Hoa hãy nghe tôi, hãy cùng đi với tôi…
- Một mình tôi làm sao quyết định được. Tôi phải về bàn với ba tôi, với
mẹ tôi… Tôi sẽ trả lời bạn sau…
- Tôi tin rằng ba bạn, mẹ bạn sẽ đi. Tuần sau, Tú Hoa trả lời tôi nhé.
Hiện nay mọi việc đã chuẩn bị xong cả rồi. Nếu đi, mình sẽ đi Hải Phòng rồi
sang Hồng Công…
- Được, tuần sau tôi sẽ trả lời bạn…
Gã con trai lão Cắm Sềnh đã không thực hiện được ý nguyện của gã là vọt
sang Úc hay Canada. Bởi vì tình hình ngày càng biến động, số phận của từng con
người không còn tùy thuộc vào bản thân họ nữa. Mọi âm mưu, mọi kế hoạch của kẻ
thù đã được triển khai rất khẩn trương và chi phối cuộc đời của hàng triệu con
người.
Tôi phải làm việc khá căng thẳng. Anh Tư đã từ Hà Nội lên để trực tiếp
chỉ đạo công tác của tôi và Huy. Huy còn vất vả hơn tôi, anh như con thoi nối
liền giữa tôi và “Tạ tư lệnh”, truyền đạt chỉ thị, kiểm tra tình hình. Tôi đã
được lệnh của “anh Cả” phải khẩn trương chuẩn bị vũ trang chiến đấu và sẵn sàng
hiệp đồng với đại quân khi thời cơ đến. Lão bảo hiện nay rất nhiều sư đoàn cả
chủ lực lẫn quân địa phương của các đại quân khu phía nam đã áp sát biên giới,
có lệnh là nổ súng tràn sang, nếu như Việt Nam không biết kiềm chế với Khơ-me đỏ.
Lãnh tụ Trung Quốc là Đặng Tiểu Bình hiện đang công du tận Hoa Kỳ, lão ta vận
quần áo cao bồi, đội mũ cao bồi và lớn tiếng đòi “dạy cho Việt Nam một bài học”.
Kể vẫn xưa nay không tiếc lời chửi rủa Mỹ, chửi rủa về mọi phương diện bây giờ
lại ca ngợi và học đòi bắt chước Mỹ về mọi phương diện, kể cả trang phục và
ngôn từ…
Tôi báo cáo anh Tư rằng: mọi tổ chức bí mật của nhóm đang được gấp rút
triển khai, nòng cốt của chúng là một lực lượng bán vũ trang, bao gồm những tên
phản bội và người Hoa bất mãn mang tên là “đơn vị Sơn Cước”. Nội dung công tác
tuyên truyền của chúng là “phải cho Việt Nam một bài học vì Việt Nam là tiểu
bá, Liên Xô là đại bá. Việt Nam làm tay sai cho Liên Xô, nhờ Trung Quốc mà đánh
thắng được Mỹ, nay lại theo Liên Xô phản bội lại Trung Quốc. Việt Nam là tiểu
bá ở Đông Nam Á, v.v.” nhằm kích động quần chúng chống lại cách mạng, chống lại
Tổ quốc…
Nhiệm vụ của tôi là phải nắm được tất cả các tổ chức bí mật ấy. Ngoài
những tổ chức do tôi và Huy xây dựng, chúng tôi phải biết rõ những ổ mai phục
do Tạ và đồng bọn của y nhen nhóm từ hơn mười năm nay suốt dọc biên giới. Huy
đã giúp tôi rất nhiều vì đã có thời gian anh là đặc phái viên của Tạ. Nhưng tôi
vẫn chưa thể biết hết được. Phải đợi khi chúng nổi dậy và tập họp ở những điểm
chôn giấu vũ khí. Và tôi tập trung toàn bộ sức lực của mình để moi bằng được bản
sơ đồ hiện nằm trong tay lão Cắm Sềnh, ông anh thứ hai của tôi.
Tôi bàn với anh Tư rồi trao đổi kế hoạch với Huy. Chúng tôi phải tiến
hành một cuộc khám xét bí mật hiệu ảnh của Cắm Sềnh…
*
Một kẻ lạ mặt đã đến nhà của Cắm Sềnh trước chúng tôi. Hôm đó vào buổi
chiều cuối năm. Trời nắng hanh khô khốc và bụi. Thị xã, sau những đợt biến động,
xơ xác và vắng vẻ. Những cửa hiệu của người Hoa và những nhà ở của họ đều đóng
kín mọi cánh cửa. Họ đã bỏ đi hết, người nào còn ở lại cũng ru rú nằm nhà.
Duy có hiệu ảnh của Cắm Sềnh vẫn mở rộng cửa. Hai khung kính cỡ lớn lồng
rất nhiều ảnh các kiểu, đứng ngồi, bán thân, cả người, cô gái nghiêng đầu cười,
chàng trai ngước mắt mơ màng, lại cả ảnh tô màu và ảnh màu, treo hai bên lối đi
như chào mời mọi người. Nhưng trong nhà không khí lại đang căng thẳng. Hai bố
con Cắm Sềnh đang cãi nhau. Cắm Sềnh mặt hầm hầm ngồi trên cái ghế bành, còn
Voòng Chuýn đứng tựa lưng vào tường, mặt tỉnh bơ.
- Vậy là mày nhất định đi hả? Mày bỏ tao, bỏ mẹ mày để đi sướng cái
thân mày hả?
- Thì tôi bảo cả ba, mẹ cùng đi nhưng ba mẹ không chịu đi, tôi làm sao
được.
- Mày tưởng về Trung Quốc là sung sướng lắm à? Tao đã từ đấy ra đi,
tao còn lạ gì. Lại không chết mục xương trong các công xã…
- Tôi không về Trung Quốc. Tôi sang Hồng Công…
- Trời, mày đi bằng đường biển? Chết mất con ơi, không chết về sóng
gió thì cũng chết về cướp biển.
- Làm sao mà chết được. Bao nhiêu người đi, có ai chết đâu..
- Thế còn vàng của tao, mày lấy của tao mấy lạng vàng mày đem ăn uống
chơi bời hết, bây giờ mày còn đòi gì nữa… Tao lấy đâu ra vàng cho mày bây giờ?
- Tùy ba, không cho thì thôi… không có vàng, tôi cũng đi.
Gã con trai vùng vằng bước ra phòng ngoài. Và gã chạm phải một người
đang đứng ngó nghiêng hai cái khung kính treo đầy ảnh. Đó là một lão già râu
ria lởm chởm, mắt đeo cặp kính đen, mặc bộ quần áo chàm xanh đã bạc. Một tay
lão cầm chiếc nón tre đan, một tay chống gậy. Voòng Chuýn né người định bước đi
thì lão già nắm lấy vai gã giữ lại, nói lơ lớ tiếng Việt hệt như một ông cụ người
Nùng:
- Chào cậu, ông chủ có nhà không? Ông Cắm Sềnh mà.
- Ba tôi ở trong nhà…
- Vậy cậu là con trai ông Sềnh à? Lớn quá rồi!
Voòng Chuýn lặng lẽ gạt tay lão và bước ra đường. Vừa lúc đó Cắm Sềnh
từ trong buồng đi ra. Lão hơi ngạc nhiên nhìn người vừa vào:
- Ông cụ hỏi gì vậy? Muốn chụp ảnh à?
Khách lạ không trả lời, từ tốn đặt chiếc nón vào sát tường, bỏ chiếc gậy
cầm tay rồi quay lại:
- Chào cố nhân…
Giọng nói của lão già đổi khác và lão nói bằng tiếng Trung Quốc. Cắm Sềnh
trố mắt không hiểu đó là ai, mãi khi người đó bỏ cặp kính ra khỏi mắt, lão mới
khẽ kêu:
- Úi chao… Lưu thủ trưởng.
Khách chính là Lưu Nghị. Y cười trong khi chủ nhân vẫn còn tái mặt vì
ngạc nhiên và sợ hãi.
- Phải, phải… Tôi đây, đồng chí Sềnh, Lưu Nghị đây, cố nhân đây…
Cắm Sềnh hốt hoảng lắp bắp nói:
- Thủ trưởng, mời vào trong nhà. Đứng đây không tiện…
Cắm Sềnh đóng cửa hàng và đưa Lưu Nghị vào nhà trong. Lão mời khách ngồi
nghỉ ngơi rồi pha nước nhưng Lưu Nghị cứ dềnh dàng nhìn ngó quanh quẩn. Y dừng
lại trước bức tranh “Quan Công phò nhị tẩu” treo chính giữa phòng. Y ngắm nghía
rất lâu, có lẽ y đang nhớ lại câu chuyện hơn mười năm về trước, y đã từng hạ bức
tranh kia xuống, viết vào đó dòng chữ Hán để bắt đầu liên lạc với tên điệp viên
nằm vùng này. Y lắc đầu, chép miệng nói lầm bầm:
- Vẫn như thế, chẳng có gì thay đổi hết… Tất cả vẫn nguyên như cũ…
Khi khách đã an tọa, Cắm Sềnh một lần nữa quan sát con người kỳ lạ này
mà mỗi lần y xuất hiện đều rất đột ngột. Hơn mười năm về trước, y còn là một
chính ủy lữ đoàn, quân phục chững chạc và cặp kính trắng lúc nào cũng đeo trên
sống mũi, y trẻ trung và trí thức như một học giả. Vậy mà bây giờ y sọm xuống
như một lão già, đôi mắt cận thị không mang kính thô lố như mắt lợn luộc, đầu
tóc bù xù, quần áo nhàu nát bám đầy bụi vàng khè. Có lẽ y vừa trải qua một chặng
đường dài hoặc phải chui lủi trong hang hốc nào đó. Cũng có thể y cố tình làm
thế thành một ông già Nùng để che mắt mọi người. Tất cả đều có thể. Lưu Nghị đã
trở lại đây tức là có chuyện lớn rồi…
Lão rụt rè hỏi:
- Thủ trưởng…
Khách xua tay, mệt mỏi:
- Đừng gọi tôi là thủ trưởng. Chúng ta đều là đồng chí…
- Dạ, thưa Lưu đồng chí, chẳng hay suốt từng ấy năm, đồng chí đi những
đâu mãi bây giờ mới quay trở lại?
Lưu Nghị không trả lời, lẳng lặng bưng chén trà nóng uống từng ngụm nhỏ.
Y cũng ngắm kỹ dung nhan lão thợ ảnh. Không phải tất cả “vẫn nguyên như cũ”. Cảnh
vật tuy không thay đổi là mấy, nhưng con người thì già đi rất nhiều, như lão Cắm
Sềnh này mười năm về trước, lão to khỏe như một tay đô vật, dáng vẻ lanh lợi,
thoắt chỗ này, thoắt chỗ khác, ẩn hiện như ma quỷ. Vậy mà bây giờ lão sụp đi rất
nhanh. Cả thân hình như một trái bóng cao su xì hơi, mặt mũi khô khốc và nhăn
nheo, đầu tóc trụi lủi kéo dài cái trán bóng nhẫy với hai hốc mắt xệ xuống.
Lưu Nghị nhìn vào phía trong, chẳng hiểu vợ lão Cắm Sềnh đi vắng hay
lúi húi dưới bếp? Như đọc được ý nghĩ trong đầu Lưu Nghị, lão Cắm Sềnh lắc đầu:
- Nhà không có ai hết ngoài tôi ra. Vợ tôi đi kiếm thuốc bệnh, nó ốm
quá. Còn thằng con tôi vừa ra khỏi nhà đó…
- Voòng Chuýn bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?
- Hai mươi ba, có lớn và chẳng có khôn…
- Trông nó có tướng làm chỉ huy, không dinh trưởng cũng phải ban trưởng
chỉ huy một đại đội mới xứng…
Cắm Sềnh nén chịu những câu hỏi vẩn vơ của Lưu Nghị. Lão cố lái trở về
câu hỏi cũ:
- Suốt mười năm qua, Lưu đồng chí chắc là đi nhiều nơi… Hay là… công
tác bên Tổ quốc?
Lưu Nghị lắc đầu:
- Hầy dà… Đảng điều đi đâu thì tôi đến đó… Mười năm qua, bước chân Lưu
Nghị này đã đi hàng vạn cây số… Năm ấy tôi quay về Tổ quốc được cấp trên cho đi
học trường Đảng ba năm rồi đi suốt. Bắc Lào, Hạ Lào rồi sang Campuchia giúp các
đồng chí Khơ-me đỏ đánh nhau với bè lũ Lon Non. Cách mạng Campuchia thắng lợi,
tôi ở lại Phnôm Pênh làm cố vấn xây dựng lực lượng vũ trang cho bạn… Hồi đó
nghĩ cũng tiếc!
- Sao kia! Sao mà tiếc?
- Hầy dà… Tháng tư năm bảy lăm đó, cách mạng Campuchia nhờ sự chi viện
của ta đã giành được đại thắng lợi, tiêu diệt hoàn toàn bè lũ Lon Non, thành lập
nước Campuchia dân chủ… Hồi ấy nếu như ở Việt Nam, Mỹ không bỏ cuộc, Nguyễn Văn
Thiệu giữ được chính quyền thì Việt Nam đâu có được như bây giờ. Bọn tiểu bá Việt
Nam sẽ lâm vào thế cô lập, phía nam là Mỹ, phía tây nam là Campuchia dân chủ và
phía bắc là chúng ta. Chúng nó có đến vạn kiếp cũng chẳng thể đặt chân lên
thành phố Sài Gòn. Hầy dà… Tình thế lúc này bất lợi cho chúng ta, đồng chí à!
Việt Nam áp sát Campuchia nên các đồng chí ta bên đó buộc phải tấn công để
phòng ngự. Và chúng ta, chúng ta phải chia sẻ gánh nặng đó với các đồng chí ấy.
Chúng ta phải hành động gấp… Đó chính là nhiệm vụ của tôi khi tôi từ Tổ quốc
sang đây…
Lưu Nghị đứng dậy, đi đi lại lại trong phòng. Mỗi lần qua bức tranh
Quan Công, y dừng lại ngước nhìn lên rồi đi thẳng. Cắm Sềnh theo dõi những bước
đi của y, chờ đợi. Và lão hỏi:
- Lưu đồng chí, đồng chí đã hội kiến với “anh Cả” chưa?
Lưu dừng lại, ngồi lên bộ ghế, gật đầu:
- Tôi đã gặp đồng chí Tạ, đã làm việc với đồng chí ấy. Đây là chỉ thị
của đồng chí Tạ gửi các đồng chí.
Y móc túi lấy ra một mảnh giấy nhỏ trao cho Cắm Sềnh. Mảnh giấy giống
như cai đơn thuốc viết bằng chữ Hán loằng ngoằng. Cắm Sềnh giương kính và đọc:
“Chú Hai và chú Ba. Lưu đồng chí hiện là đặc phái viên của thượng cấp có nhiệm
vụ đi kiểm tra công tác của chúng ta. Các chú hãy thay mặt tôi báo cáo lại toàn
bộ công việc với Lưu đồng chí và giúp đỡ Lưu đồng chí hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Phải chấp hành mọi chỉ thị của Lưu đồng chí. Anh Cả”.
Chờ cho lão đọc hết, Lưu Nghị khẽ khàng nói:
- Lúc này là thời cơ, Tổ quốc đã quyết định trừng phát bè lũ “tiểu bá
Việt Nam”. Đại quân ta đã chuẩn bị sẵn sàng nổ súng. Tôi được phái đi chuẩn bị
chiến trường và tổ chức lực lượng phối hợp. Tôi có hai điều cần hỏi đồng chí…
Cắm Sềnh lấy lại tư thế nghiêm chỉnh:
- Xin đồng chí ra chỉ thị.
- Điều thứ nhất, tôi hỏi: cái kho báu vật mà đồng chí phụ trách, hiện
tình ra sao?
Lão thợ ảnh hiểu ngay y muốn hỏi về các kho vũ khí mà bộ đội công binh
chôn lại trước khi về nước. Lão nhanh nhảu đáp:
- Báo cáo đồng chí, tất cả đều vẫn y nguyên. Từ ngày đồng chí trao lại,
tất cả đều không hề suy suyển. Tôi luôn luôn kiểm tra, không có kẻ nào phát hiện
được dấu vết khả nghi, mặc dù chúng nó ra sức sục sạo, đào bới và tìm kiếm. Những
nầm mồ liệt sĩ của chúng ta vẫn được chăm sóc chu đáo…
Lưu Nghị gật gật:
- Tốt lắm…! Đồng chí đã có công lớn… Tuy nhiên, thời gian tới đồng chí
phải tiến hành thị sát khắp lượt, phải kiểm tra cẩn thận. Chúng ta sắp phải sử
dụng đến vũ khí rồi.
- Xin y lệnh… Tôi sẽ đi ngay.
- Còn bản sơ đồ thì sao?
- Đấy là bản mệnh của tôi như lời đồng chí căn dặn trước ngày về nước.
Đồng chí cần xem, tôi xin đưa ra…
Lưu Nghị xua tay:
- Tôi… tôi tin cậy đồng chí… nhưng đồng chí giấu nó ở trong mình chứ?
- Không, không bao giờ tôi giắt vào người. Bởi tôi biết chúng nó có thể
ám hại tôi hoặc bắt giữ tôi để khám xét… Tôi đã cất giấu vào một nơi không có kẻ
nào ngờ tới…
Lưu Nghị cười ma mãnh:
- Vậy mà tôi biết nơi cất giấu bản sơ đồ đó…
Cắm Sềnh trố mắt:
- Làm sao đồng chí biết được? Đồng chí vừa tới đây mà… Ngay cả “Tạ tư
lệnh” cũng không thể nào biết được…
- Vậy mà tôi biết… Tôi nói nhé… Ờ ờ - Lưu Nghị quay đầu nhìn về bức
tranh Quan Công treo sau lưng y – Cái trục tranh, hồi tôi đến đây để bắt liên lạc
với đồng chí, nó chưa có. Cái trục treo tranh kia mà… Trục dưới, cái ống tre ấy…
Cắm Sềnh vồ cả hai bàn tay lên đùi Lưu Nghị:
- Giỏi, giỏi… Xin bái phục đồng chí… Quả xứng đáng là đặc phái viên
thượng cấp… Cắm Sềnh này xin bái phục…
Lưu Nghị cười ha hả, rất khoái trí. Y nhấp giọng bằng nước trà rồi
nói:
- Đó là điều thứ nhất, tôi muốn hỏi. Còn điều thứ hai…
Gã ngừng lại vẻ thăm dò thái độ của lão thợ ảnh. Cắm Sềnh ngồi ngay ngắn,
chờ đợi. Hai vành tai của lão vểnh lên, rung rung rất nhẹ.
- Tôi muốn hỏi, tất cả người Hoa đã ra đi, tại sao con trai của đồng
chí còn ở lại? Nó là trợ thủ của đồng chí phải không?
- Đâu có, công việc của tôi từ mấy chục năm nay, vợ tôi, con tôi không
hề biết gì hết…
- Vậy thì tại sao nó còn ở lại Việt Nam?
- Nó vẫn đòi đi đấy nhưng tôi chưa đồng ý mà.
- Sao vậy?
- Bởi nó cứ đòi vọt sang Hồng Công rồi đi Úc, đi Ca-na-da… Toàn mơ tưởng
các nước tư bản, tư tưởng nó hỏng quá, đồng chí à…
- Mơ tưởng nhưng là hoàn toàn thức thời. Nó là thanh niên, nó thức thời
hơn chúng ta… Những nước tư bản như Anh, Pháp, Mỹ, Ca-na-da, Nhật Bản là những
nước kinh tế phát triển, có đời sống rất cao… Chúng ta phải hướng về họ, học tập
họ… Đảng ta, Tổ quốc ta cũng đang hướng về phương Tây để tự giải thoát khỏi
tình trạng nghèo nàn lạc hậu hiện nay… Nó không hư hỏng đâu, đồng chí à…
Cắm Sềnh lắng nghe rồi tự đấm vào cái đầu lão:
- Đồng chí nói phải… Ui chao, cái đầu tôi tăm tối quá đi. Tôi không được
học tập giáo dục nhiều nên bị lạc hậu…
- Vậy thì đồng chí phải cho Voòng Chuýn ra đi…
- Đúng thế, đúng thế… Tôi sẽ…
- Nó sẽ đi ngay đêm nay…
Cắm Sềnh lặng người đi, ú ớ không thành lời.
- Nó cùng đi với tôi… Đồng chí đồng ý chứ?
- Tôi ư… tôi… xin y lệnh…
Đêm ấy, chúng tôi đã vồ hụt tên biệt kích nguy hiểm này. Huy đã mật
báo tin về nó hơi chậm, anh cũng chỉ biết qua Tạ. Mãi tới khuya, lực lượng bao
vậy của chúng ta mới được triển khai, nên Lưu Nghị đã đi thoát khỏi nhà Cắm Sềnh.
Nó đưa theo cả Voòng Chuýn. Gã con trai lão thợ ảnh tưởng sẽ thực hiện được mơ
ước của mình là sang Hồng Công rồi đi Úc, đi Ca-na-da nên đã dẫn đường Lưu Nghị
lẻn trốn khỏi thị xã vào ngay lúc chập tối, khi mọi người đang túm tụm quanh
mâm cơm… Ban ngày trời hanh và rét, tắt nắng là sương mù tỏa xuống như tấm màn
che kín tầm mắt. Chúng nó đã lợi dụng màn sương và vọt vào rừng…
Lưu Nghị cũng chẳng tìm đến tôi mặc dù trong thư của “anh Cả” có nhắc
đến “chú Ba”. Có thể hắn đã thông qua “Tạ tư lệnh” mà nắm mọi tổ chức nằm vùng
này. Hắn phải mò gặp Cắm Sềnh chủ yếu vì các kho vũ khí đang được chông giấu.
Tôi và Huy phán đoán nhiệm vụ của hán là “chuẩn bị chiến trường” – đúng như hắn
đã nói với Cắm Sềnh, hắn sẽ là chỉ huy trưởng các đơn vị Sơn Cước, khi nổ súng
đánh thọc vào sau lưng chúng ta. Ngoài ra, hắn còn đi thu nhặt bọn thanh niên
phản động đưa về nước huấn luyện ngắn ngày và sử dụng bọn chúng làm những tên
xung kích dẫn đường, và chỉ điểm những cơ sở địa phương và gia đình cán bộ của
ta. Như vậy, số phận của Voòng Chuýn hoàn toàn do hắn định đoạt, gã con trai
này khó mà thoát ra khỏi bàn tay hắn để sang Úc, Ca-na-da?
*
Cắm Sềnh đặt ám hiệu ở cửa, muốn gặp tôi. Buổi trưa ở cơ quan về, qua
cửa nhà lão, tôi đã thấy một đống rác thu rất gọn và trên đặt chiếc chổi tre.
Ám hiệu đã quy định như vậy. Tôi chờ tôi một lúc lâu mới đến. Lão chủ hiệu ảnh
dẫn tôi vào phòng trong. Và lão nói:
- Đồng chí Trương, đồng chí kiếm cho tôi một giấy công tác đi về mấy
huyện vùng cao…
Tôi không trả lời ngay mà hỏi lại:
- Voòng Chuýn đi rồi phải không? Trưa nay tôi thấy ngoài chợ họ nói vậy?
Mặt lão dài ra nom thật thiểu não:
- Nó đi đêm qua…
- Đồng chí cử nó đi à?
- Không… Nó theo người ta. Nó sang Hồng Công rồi sang Úc… Nó đi rồi.
- Vậy à! Nó còn hẹn hò với con bé Tú Hoa nhà tôi, hẹn cùng đi mà…
Cắm Sềnh giấu biệt, không nói gì thêm với tôi về sự xuất hiện và ra đi
của Lưu Nghị. Tôi cũng lơ đi, coi như không biết. Lão già lại nhắc:
- Đồng chí kiếm ngay giấy tờ đi đường cho tôi. Ngày mai tôi phải đi, rất
cần mà…
- Được, tôi sẽ kiếm. Giấy của Ủy ban tỉnh được không?
- Vậy thì tốt quá!... Đi gần thì mình đi lẻn được, nhưng đi xa dài
ngày phải có giấy tờ cẩn thận…
- Đồng chí đi huyện nào để tôi ghi vào giấy…
- Cứ ghi là xuống các huyện trong tỉnh, kiểm tra công tác thu mua lâm
sản chi đó mà…
- Sớm nhất cũng phải trưa mai. Nhưng đồng chí phải hết sức cảnh giác.
Họ theo dõi mình chặt lắm.
- Đúng, phải cảnh giác chứ.
Đêm ấy tôi về chỗ anh Tư. Anh Tư hẹn sáng mai sẽ lấy giấy đi đường cho
tôi để tôi chuyển cho Cắm Sềnh. Anh sẽ cho người bám theo lão. Còn tôi, việc của
tôi là nhân lúc Cắm Sềnh vắng nhà, tôi sẽ lục soát nhà lão để tìm cho ra bản sơ
đồ ghi các điểm cất giấu vũ khí.
Trưa hôm sau tôi tìm cách chuyển giấy đi đường có đóng dấu của Ủy ban
tỉnh cho Cắm Sềnh. Chiều tối hôm ấy, tôi được tin lão đã ra khỏi thị xã, nhưng
tôi chưa thể đột nhập vào ngay được vì còn vợ lão ở nhà.
Phải chờ đến sáng hôm sau nữa, buổi sáng như thường lệ người vợ của Cắm
Sềnh lọm khọm từ nhà ra chợ. Trên dọc đường đi, bỗng dưng bà ta đụng phải một
thanh niên phóng xe máy. Đụng nhẹ thôi nhưng người đàn bà vốn đã ốm yếu, ngã quỵ
xuống. Mọi người xúm lại, một đồng chí cảnh sát chạy tới phân giải. Anh mời người
lái xe về đồn, còn nạn nhân đã có hai chị vực vào một trạm xá gần đó. Mặc dù bà
ta không bị xây sát gì hết và đã hoàn hồn nhưng người ta vãn giữ nằm lại trạm
xá để theo dõi…
Lúc đó, tôi vọt vào nhà Cắm Sềnh bằng lối cửa sau, lối qua vườn rau
phía sườn đồi. Tôi cạy cửa vào trong nhà, im lặng đi từ buồng này sang buồng
khác, từ nhà trên qua sân xuống bếp rồi lại đi trở lên. Tôi ngắm nghía rất lâu
và không đụng vào một vật gì cả. Cần phải quan sát kỹ lưỡng và tìm ra những dấu
vết khả nghi, tránh mọi sự lục soát lung tung vô trật tự.
Tôi nhìn đồng hồ, đã gần một giờ đồng hồ. Lúc này có lẽ bà vợ Cắm Sềnh
đang nằm ngoài trạm xá. Anh Tư chỉ hạn cho tôi nhiều lắm là hai giờ. Không thể
giữ bà ta nằm ở trạm xá mãi được…
Tôi vào phòng trong, căn phòng mà chủ nhân thường tiếp tôi, ngồi thừ
trên ghế xa lông, đưa mắt nhìn khắp mọi vật. Tôi chia không gian thành từng ô
nhỏ một và lần lượt quan sát để không một vật gì có thể lọt qua mắt được. Thời
gian cứ trôi qua. Vẫn chẳng phát hiện được dấu vết gì khác biệt. Tôi đi dọc những
bức tường, và lật từng tờ tranh treo nhìn vào bên trong. Từ giữa nhà, tôi đứng
sững lại. Hình như thiếu một cái gì đó, một vật gì rất quen mắt mà tôi thường
nhìn thấy mỗi lần bước vào đây.
Phải rồi, tôi lại ngồi xuống ghế, ngước nhìn lên. Mọi khi ngồi ở đây
nhìn lên, luồng mắt của tôi thường chạm ngay vào bức tranh “Quan Công phò nhị tẩu”, bức tranh có vẽ hình Quan Vân Trường đứng sững
giơ cao cây đuốc cháy đùng đùng và xa hơn nữa là hai người đàn bà đang nằm
trong màn. Bức tranh có dòng chữ Hán bằng mực nho đen nhánh “Thân tại Tào
doanh, tâm tại Hán” với triện son đỏ sẫm. Không thấy có bức tranh ấy nữa, khoảng
tường mốc meo và trơ trọi tấm lịch của năm 1978 đã bóc gần hết. Tấm lịch có lẽ
từ chỗ khác được di chuyển tới đây không lâu, trông rất lẻ loi, trống trếnh…
Tôi nhớ ra rồi, mới hôm kia, buổi tối khi tôi đến gặp Cắm Sềnh theo ám hiệu của
lão, mặc dù dưới ánh sáng lù mù của cây đèn dầu, tôi vẫn nhận ra bức tranh còn
treo ở đó. Bây giờ không còn nữa, tức là chú nhân đã gỡ ra khỏi tường mang theo
đi hoặc giấu vào một chỗ kín đáo nào đó. Lúc này trí nhớ của tôi được tập trung
và trở nên sáng suốt. Tôi nhớ hồi cuối năm sáu sáu, sau khi có chỉ thị của anh
Tư, lần đầu tiên bước chân vào đây, tôi đã thấy bức tranh treo chính giữa và nó
được lồng khung gỗ hẳn hoi. Tất cả đều cũ kỹ chỉ trừ có dòng chữ Hán và dấu triện
son là mới, rất mới, tươi rói. Rồi ít lâu sau, khi tôi đã trở thành “em Ba” của
“nhóm Đào viên”, mỗi lần đến đây, tôi đều trông thấy nó, chỉ khác là bức tranh
được bỏ khung, được bồi lại và gắn hai đầu trên dưới vào hai ống trúc, treo như
câu đối. Đúng là hai ống trúc, ống trên nhỏ hơn ống dưới, cả hai đều được chuốt
kỹ đến nhẵn bóng: Mặt trong hai ống trúc rỗng lòng ấy, chính là cái hộp để cất
giấu bản sơ đồ bí mật mà tôi đã tìm kiếm hơn mười năm nay.
Cắm Sềnh ra đi đã mang theo nó hay còn cất giấu quanh quẩn trong nhà
này? Liệu tôi không lầm lẫn trong sự phán đoán này chứ? Tôi nghĩ là tôi không
thể lầm được nhưng để chắc chắn, tôi đợi Cắm Sềnh về, tôi sẽ quay lại đây với một
cái cớ gì đó. Nếu như bức tranh tái hiện ở chính chỗ ấy thì điều phán đoán của
tôi không còn gì phải nghi ngờ nữa…
Tôi nhìn đồng hồ. Đã đến lúc phải rút rồi. Có thể lúc này người ta đã
để bà vợ Cắm Sềnh ra khỏi trạm xá về nhà…
Anh Tư báo cho tôi biết: Phương án của tôi đã được trên chấp nhận và
quyết định cho triển khai. Đó là phương án phá tan tổ chức tình báo gián điệp
mang cái tên rất Tàu “Đào viên kết nghĩa” của Tạ cùng các ổ phản loạn, những hạt
giống thối tha và độc hại mà chúng gieo rắc trên mấy huyện vùng cao suốt chừng ấy
năm.
Đúng giờ G của ngày N + 3, chúng tôi được phép hành động, phát súng đầu
tiên phát lệnh chiến dịch mang mật danh M x 1 sẽ nhằm vào Voòng Cắm Sềnh. Tôi
đã xác định được nơi cất giấu cái bản mệnh của lão.
Tình thế không cho phép kéo dài trò chơi ú tim này. Lúc đó đã vào giữa
tháng Giêng của năm 1979. Phía Tây nam Tổ quốc, hàng triệu người dân Campuchia
còn sống sót qua nạn diệt chủng của Pôn Pốt đã đứng lên, được sự hỗ trợ của bộ
đội Việt Nam, đánh tan các lực lượng Khơ-me đỏ phản bội và truy đuổi bọn Pôn Pốt
– Iêng Xa-ry cùng với các loại ăng-ka lớn nhỏ của chúng đến tận biên giới Thái
Lan. Đất nước Campuchia hoàn toàn được giải phóng và bắt đầu cuộc hồi sinh. Ở Bắc
Kinh, người ta đau đầu hơn cả.
Việc truy quét toàn bộ các tổ chức phản loạn nằm vùng được giao cho
các lực lượng công an vũ trang, các chiến sĩ an ninh và dân quân địa phương.
Anh Tư đích thân làm cuộc “đến thăm” “ông bạn” họ Tạ mà lúc nào cũng có Huy kèm
cặp bên cạnh y. Điều làm cho anh Tư hơi lo lắng là đã không có liên lạc được với
Huy. Liệu có chuyện gì xảy ra với cậu ấy?
Tôi nói với anh Tư hãy cho tôi vọt thẳng lên hang ổ của Tạ. Đấy là trạm
đầu tiên trên con đường “chạy trốn” của tôi. Anh Tư suy nghĩ và đồng ý. Thế là
tôi phải “bỏ trốn” sớm hơn dự định…
*
Số phận của Voòng Cắm Sềnh đã được định đoạt vào ngày N + 3. Hôm ấy
vào lúc bốn giờ sáng, sương mù còn dày đặc; cả thị xã chìm trong rét mướt và vắng
lạnh. Cắm Sềnh đang nằm co ro trong chiếc chăn bông thì bị đánh thức vì những
tiếng đập cửa.
Biết bị động, con cáo già tung chăn chồm dậy. Lão vơ chiếc áo bông Tàu
khoác vào người, đội thêm cái mũ bông biên phòng lẻn ra sân để lách cửa sau chui
ra ngoài. Đã có hai mũi súng đón lão ở đó. Bị mũi súng thúc vào bụng, lão vội
giật lùi và nghe có tiếng nói dõng dạc:
- Ông Cắm Sềnh, định trốn à? Hãy quay vào nhà!
Lão lủi thủi lộn lại, qua mảnh sân đã thấy có nhiều ánh đèn pin loang
loáng trong nhà. Mấy bóng người lố nhố chờ lão. Ngọn đèn tọa đăng được thắp
sáng, người vợ đau ốm của Cắm Sềnh ngồi sợ hãi trên giường. Cắm Sềnh được mời
ngồi xuống.
Một người cao lớn rút giấy ra đọc:
- Ông Hoàng Kim Thành tức Voòng Cắm Sềnh, tôi xin đọc lệnh của Viện Kiểm
sát bắt giữ ông và khám nhà ông về tội hoạt động tình báo chống phá nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam…
Cắm Sềnh rũ người trên chiếc ghế xa lông gỗ, tai lão ù lên chỉ nghe
loáng thoáng lời nói của người cán bộ công an. Lát sau lão chợt như tỉnh lại; ngơ
ngác như người mất hơi, lắp bắp:
- Dạ thưa… xin các ông xét cho… Tôi vô tội… Tôi đâu có dám làm điều
gì… chỉ làm ăn lương thiện từ mấy chục năm nay…
Sau này tôi nghe đoạn băng ghi âm cuộc hỏi cung tại chỗ ngay đêm ấy:
- Ông Sềnh, đây có phải là tập ảnh nhét trong phong bì này chúng tôi vừa
thu được trong túi áo của ông?
- Thưa đúng ạ…
- Ông hãy giải thích về những tấm ảnh này: những tấm chụp nhiều nơi
trong rừng rồi cả ven đồi, ven đường… Lại có mấy tấm chụp những ngôi mộ trong
nghĩa trang. Có phải đấy là những ngôi mộ của lính Trung Quốc chết hồi sang làm
đường ở Việt Nam không?
- Thưa… đúng ạ!
- Ông hãy giải thích rõ nội dung những tấm ảnh đó… Đây nữa, ông nhìn
rõ chứ, trong mỗi tấm ảnh đều có chỗ được đánh dấu chữ thập bằng bút mực. Ảnh
nghĩa trang còn có dấu khoanh tròn mấy nấm mộ với nhau… Ông giải thích đi!
- Thưa ông… Những tấm ảnh này quả thật là chính tôi cũng không rõ nữa…
Đó là do thằng con trai tôi nó chụp… Chắc là hồi nó mới tập chụp ảnh nên chụp
lung tung đấy thôi ạ…
- Còn những ký hiệu ghi trong ảnh cũng do con trai ông?
- Thưa vâng… Tôi không biết nó ghi để làm gì?
- Con trai ông hiện nay ở đâu?
- Thưa ông… Nó bị người ta dụ dỗ đã bỏ trốn về Trung Quốc. Hiện nay
tôi cũng không biết nó ở đâu, còn sống hay đã chết… (Đến đây tôi nghe rõ tiếng thở
dài nặng nề của lão).
- Ảnh của con ông chụp, vậy tại sao ông luôn luôn mang trong người? Để
làm gì vậy?
- Thưa… Tôi biết nói với ông như thế nào bây giờ… Tôi chỉ có một đứa
con trai vậy mà nó đã bỏ tôi ra đi… Những gì của nó để lại… tôi… không muốn bị
mất đi… (Lão sụt sùi như muốn khóc).
- Một người bố đáng thương… Đứa con duy nhất ra đi bỏ lại ông bố già
cô độc… Và ông bố nâng niu giữ gìn những di vật của nó để lại… Tội nghiệp thật
đấy, ai nghe cũng phải mủi lòng… Ông Voòng Cắm Sềnh ạ, ông diễn trò bi lụy này
chưa đạt lắm đâu, bởi vì mọi chứng cớ đều chống lại ông. Chúng ta nên nói thật
với nhau, miễn phải đóng kịch nữa. Những tấm ảnh này đều do chính tay ông chụp và chụp trong mấy ngày
gần đây ông vừa đi công cán ở mấy huyện vùng biên về… Nội dung của nó là những
nơi các ông đã chôn giấu vũ khí, những ký hiệu ghi trong ảnh là các kho vũ khí
được chôn dưới đất, kể cả những ngôi mộ giả nằm trong các nghĩa trang… Hơn mười
năm trước, các ông bịa ra những người lính chết và thay vào xác chết là những
áo quan chứa toàn súng đạn. Thế nào, ông Cắm Sềnh, ông không chối cãi những trò
chơi ma giáo đấy chứ?
- Thưa ông… tôi chỉ là kẻ đáng thương…
- Không đâu, ông không phải là kẻ đáng thương, ông là một tên điệp
viên xảo quyệt và nham hiểm… Bản sơ đồ của ông giấu ở đâu, ông hãy nộp cho
chúng tôi.
- Dạ thưa… đâu có… Tôi đâu có bản sơ đồ nào…
- Bản sơ đồ ghi lại các điểm chôn giấu vũ khí của bộ đội Trung Quốc để
lại ở Việt Nam, khi rút về nước họ đã trao cho ông cất giữ. Ông giấu ở đâu?
- Thưa ông… quả thật oan cho tôi quá… Tôi làm gì có ạ…
- Thôi được… ông vẫn là kẻ ngoan cố đến cùng. Ông hãy đứng dậy tháo bức
tranh kia xuống – Đó, bức tranh Quan Công ấy.
- Thôi thôi… Tôi không dám giấu các ông nữa. Bản sơ đồ tôi đã giấu ở
trong đó. Tôi xin tự nguyện nộp cho các ông, mong các ông tha tội chết… Đây
đây, nó đây… Tôi xin tự giác khai báo, không dám giấu diếm. Nó đây ạ… Chính Lưu
Nghị giao lại cho tôi… Nó bảo đây là cái bản mệnh của tôi… Tôi xin nộp ạ.
- Ông tự nguyện tự giác hơi muộn đấy… Xem trong sơ đồ mới biết các ông
đã chôn giấu ở đất Việt Nam khá nhiều kho vũ khí. Các ông đã chuẩn bị sẵn chiến
trường từ mười mấy năm nay… Các ông đã lợi dụng tình bè bạn, tình đồng chí để xỉa
mũi dao vào lưng người Việt Nam… Ác độc thật, thâm hiểm thật… Bây giờ tôi hỏi
anh: “anh Cả” của các ông hiện nay nằm ở đâu?
- Thưa ông… Điều này thì hoàn toàn tôi không biết ạ? Ông ấy nay ở chỗ
này, mai ở chỗ khác và không bao giờ cho chúng tôi đên gặp trực tiếp, nên tôi
không tài nào biết được…
- Trương Đạt trốn ở đâu?
- Thưa ông… có lẽ nó chạy về Trung Quốc…
- Tại sao ông lại nghĩ nó về Trung Quốc?
- Là vì theo chỉ thị của Tạ, nếu bị lộ bọn chúng tôi sẽ vượt biên tháo
chạy về Trung Quốc. Tạ đã dặn mọi mật hiệu, ám hiệu để bên kia đón tiếp…
- Vậy là ông thú nhận ông là một tình báo nước ngoài nằm ở Việt Nam để
chống phá cách mạng Việt Nam?
- Thưa ông… Tôi là kẻ có tội…
Vào khoảng nửa đêm, một chiếc xe com-măng-ca đợi tôi ở bên kia cầu xi
măng, gần cây đa “hộp thư chết” trước kia. Tôi khoác tấm vải nhựa trùm kín cả đầu,
lóp ngóp đi trong mưa. Mưa phùn rơi rả rích và tê buốt. Tôi cảm thấy cái rét
chui qua áo quần vào hẳn ruột gan khiến hàm răng tôi không ngớt va nhau mặc dù
tôi cố nghiến thật chặt. Đột nhiên tôi bỗng nhớ lại một đêm mưa rét giống như
đêm nay, cách đây mười hai năm, tôi cũng lóp ngóp đi một mình trong tối tăm để
đóng vai một kẻ khác, bắt liên lạc với đồng bọn. Bây giờ, vẫn vai trò ấy, tôi
là một “tên điệp viên” bị lộ đang chạy trốn về nước. Ngày mai, ngày kia rồi tuần
sau, tháng sau, năm sau, tình hình sẽ ra sao, số phận của tôi sẽ ra sao, tất cả
hoàn toàn lệ thuộc vào bản lĩnh, mưu trí và tinh thần chiến đấu của tôi. Suốt
bao nhiêu năm, tôi nhập vai một kẻ khác, nhưng tôi vẫn sống ngay trên Tổ quốc
mình, sống trong vòng tay bảo vệ của các đồng chí mình. Mười hai năm trước,
trong đêm mưa rét, tôi lặn lội một mình đi tìm Tạ Quán Thiên – ông “anh Cả” trưởng
nhóm của tôi, tôi vẫn nhận thấy bên cạnh tôi là đồng đội, bóng dáng và hơi thở
của Huy vẫn phảng phất quanh tôi. Từ đêm nay trở đi, tôi hoàn toàn bị cô lập, độc
lập tác chiến, tự mình chỉ huy mình, tự mình ra lệnh cho mình thi hành. Thành
hay bại đều trực tiếp chi phối số phận của mình, tôi có thể đàng hoàng sống
trong hang sói, có thể bưng tai bịt mắt được họ, khiến họ hoàn toàn tin cậy vào
mình nhưng – điều này không dám nói trước, chỉ vì một sở hở rất nhỏ cũng có thể
tôi bị lộ, bị bắt, thậm chí bị giết chết. Đối phương chẳng bao giờ chịu nương
nhẹ tôi, nếu như họ biết được tung tích của tôi… Ai sẽ là người báo tin cho anh
Tư, cho tổ chức? Ai sẽ là người báo tin cho vợ con tôi? Có thể tôi sẽ chết âm
thầm, ngã gục ở một nơi nào đó trên mảnh đất mênh mông rộng lớn kia… Trận đánh
sẽ thất bại bởi người chiến sĩ duy nhất là tôi đã không còn nữa…
Thật ra, kế hoạch “chạy trốn” của tôi là do tôi tự đề xuất nằm trong
phương án chung. Anh Tư cũng như cấp trên chưa bao giờ một lần gợi ý với tôi. Tự
tôi nghĩ ra và bản thân tôi rất tâm đắc về kế hoạch ấy. Tôi đã suy nghĩ trong
nhiều đêm thao thức khi anh Tư giao trách nhiệm lập phương án tối ưu. Tất nhiên
là cái tổ chức gián điệp cùng với đám dây mơ rễ má của nó phải bị tiêu diệt. Đó
là mục tiêu trước mắt của chúng ta, nhưng về lâu về dài, phải làm sao ngăn chặng
được những cái vòi độc của con bạch tuộc khổng lồ kia không được với sang ta.
Voòng Cắm Sềnh bị bắt, rồi “anh Cả” của lão cũng phải bị bắt, đến cả
Trương Đạt cũng bị bắt nốt thì vai trò của tôi coi như kết thúc, kết thúc cả
bao nhiêu năm chúng tôi mai phục nằm chờ. Tôi sẽ được ra công khai, sẽ được sống
thoải mái đầy đủ hạnh phúc bên vợ , con, bè bạn và nhân dân. Từ bao năm, tôi chỉ
mong được sống như thế, và vợ tôi, con gái tôi cũng mong được niềm hạnh phúc rất
bình dị đến như thế… Nhưng còn lợi ích lâu dài của Tổ quốc? Chính vì lợi ích
thiêng liêng, vì sự nghiệp cao cả của Tổ quốc mà hàng triệu người con đã hy
sinh trong suốt ba mươi năm chiến tranh và tương lai sẽ còn nhiều người nữa
cũng phải hy sinh. Dân tộc ta, đang sống bên một vị láng giềng khó tính, tham
lam, thiển cận và đầy hiểm độc. Cây muốn lặng nhưng gió chẳng dừng…
Tôi suy nghĩ, tính toán và tự tôi vạch ra kế hoạch “chạy trốn” cho tôi.
Anh Tư nghe tôi trình bày, sắc mặt anh tư lự không nói năng gì cả. Mãi
sau anh mới hỏi:
- Cậu đã suy tính hết nhẽ chưa?
- Tôi đã suy nghĩ nhiều lắm rồi. Từ lâu chúng ta muốn cài người sang
đó mà chưa có cách … Tại sao bây giờ lại không thực hiện… Chúng ta đang có thời
cơ… Bỏ qua thì phí quá, anh Tư.
Anh Tư cúi nhìn xuống trang giấy như muốn tìm kiếm vật gì đó ẩn náu giữa
những dòng chữ của tôi. Rồi anh ngẩng lên, chớp chớp mắt sau sau gọng kính trắng:
- Còn chị ấy và cháu? Cậu sẽ phải xa cách lâu dài, thời gian chưa biết
bao giờ mới gặp nhau… Bọn mình có trách nhiệm chẳng những với cá nhân cậu mà cả
với chị ấy và cháu Túa Hoa… Mình không thể quyết định vấn đề này được, mình phải
hỏi ý kiến các anh ấy.
Tôi nhìn lại anh rồi nói tiếp:
- Tôi đâu có phải gỗ đá, anh Tư. Tôi cũng là con người, yêu vợ thương
con, muốn sống bên gia đình vợ con. Tuổi tôi cũng không còn trẻ trung gì nữa,
trên năm mươi rồi… Nhưng vì lợi ích của cách mạng và tôi thấy cần phải đặt lợi
ích cách mạng lên trên… Với lại, anh Tư ạ, hồi đánh Mỹ, biết bao đồng chí ở
ngoài Bắc này vào chiến trường miền Nam. Có mấy ai nghĩ trước được ngày trở về…
Mà thôi, mọi việc nếu cứ tính mãi cũng chẳng giải quyết thêm được gì. Chẳng có
cái gì trọn vẹn cả anh Tư ạ, cái được và
cái mất, biết thế nào mà suy đi tính lại…
Anh Tư không nói thêm điều gì. Anh về Hà Nội hai ngày. Khi quay lên gặp
tôi, tôi thấy anh có vẻ bứt rứt thế nào ấy, vẻ như có lỗi với tôi… Tôi chủ động
nói trước với anh:
- Tôi đã nói hết với nhà tôi và cháu rồi, Anh Tư ạ!
- Cậu nói chuyện gì? – Anh Tư hỏi, giọng hơi thảng thốt.
- Tôi nói về kế hoạch “chạy trốn” của tôi ấy mà… Tôi đã giải thích ,
đã động viên và an ủi cả hai mẹ con…
- Chị ấy và cháu thế nào?
- Tất nhiên là buồn lắm, nhưng đều bình tĩnh và an tâm. Dù sao thì từ
ngày hiểu rõ công việc của tôi; vợ tôi và cháu đều tỏ ra cứng cáp hơn trước rất
nhiều. Và, tin rằng, nếu tôi đi xa thì ở nhà vẫn có các anh giúp đỡ….
Anh Tư lẳng lặng nhìn tôi và nói:
- Phương án của chúng mình đã được cấp trên chấp nhận không thay đổi một
chi tiết gì cả, chỉ có quy định ngày giờ nổ súng mà thôi… Đây, cậu ngồi mà đọc
lại phương án đi…
Anh rút cặp lấy ra một tập giấy mỏng đưa cho tôi. Đó là toàn bộ phương
án được đánh máy rất sạch sẽ. Ở bìa
ngoài có dòng chữ lớn: “Phương án M x 1” với cái dấu “Tối mật” đỏ chói. Bên dưới
có mấy dòng tiếp theo: “Tác giả phương án: Trung tá Lê Chí Phúc (K7). Người
thuyết trình: Đại tá Trần Hữu Quân (Tư). Người duyệt cuối cùng: Thiếu tướng…”
Anh Tư đi sang phòng bên để lại tôi một mình với tác phẩm của tôi. Tôi
lặng lẽ đọc lại từng dòng. Đây là tất cả công sức không riêng của cá nhân tôi
mà của chung trong nhóm: tôi, anh Tư và Huy. Tất cả mọi ý nghĩ được hiện ra
minh bạch rõ ràng trên trang giấy, bằng những dòng chữ đánh máy đều tăm tắp giống
như những hình người xếp hàng tuần tự và lặng lẽ lướt đi dưới mắt tôi. Chưa bao
giờ ý nghĩa của những con chữ lại nổi lên sinh động như vậy và nhờ đó, tôi biết
rằng mọi chi tiết đều rất ăn khớp với nhau, giống như những bánh xe răng của một
cỗ máy, không có một chi tiết nào bị kênh lên hoặc bị thừa…
Vậy thì việc tôi “chạy trốn” còn gì phải băn khoăn suy tính nữa.
Vừa nãy tôi thuật lại với anh Tư cuộc nói chuyện của tôi với vợ và con
gái tôi vẻ như rất đơn giản. Thật ra không đơn giản chút nào, ngay bản thân tôi
khi ngồi trước vợ và con, tôi thấy lúng túng mãi mới nói ra mọi suy nghĩ của
mình. Đúng là đêm ấy, chúng tôi nói bằng lời rất ít. Nhưng nhìn vào thái độ từng
người, tôi biết ngay cả tôi nữa cũng đều tự kiềm chế mình, tránh không bộc lộ
tình cảm thật và nghĩ thật của mình trước sự biến động lớn lao này. Người nó muốn
nâng đỡ tình cảm cho người kia. Người ở lại làm vẻ thật bình tĩnh và yên tâm để
yên lòng người ra đi. Và người ra đi cố làm nhẹ những khó khăn nguy hiểm đang
chờ mình ở phía trước, để giảm bớt mối lo âu cho người ở lại. Và chúng tôi đều
đạt được mục đích, chúng tôi đều mang niềm tự hào về mình, về người thân của
mình, xác định được – tuy bằng lý trí – trách nhiệm của mình và gắng làm tròn
trách nhiệm đó…
Đêm ấy, tôi ôm hôn vợ tôi, ôm hôn con gái tôi, tôi lặng lẽ lên đường. Tôi
không dám nói một lời nào hết, bởi vì một lời nói lúc này đều không đủ mà hàng
nghìn câu nói cũng không thể đủ được… Tôi lặng lẽ ra đi trong đêm mưa, đi mà
không quay đầu nhìn lại. Ấn tượng suốt những năm tháng tiếp theo của tôi là
hình ảnh vợ tôi và con tôi, những khuôn mặt điềm tĩnh, những nụ cười buồn, những
đôi mắt có ngấn nước, hai bóng phụ nữ trong căn phòng vô cùng quen thuộc lờ mờ
trong ánh đèn dầu… Tất cả sẽ theo tôi mãi mãi…
Chiếc xe đậu im lìm trong màn mưa phũ phàng. Tôi lép nhép tiến lại cái
khối bất động đen sì ấy và tôi nghe có tiếng người hỏi:
- Bảy phải không?
- Tôi đây! Tôi nghe giọng anh Tư và bước mau hơn.
Cánh cửa xe mở ra, tôi vội tháo mảnh vải mưa cuộn tròn lại. Một bàn
tay thò ra nắm lấy tay tôi, kéo tôi vào xe. Tôi ngồi cạnh anh Tư. Ghế trên có một
người nữa ngồi bên lái xe. Mới đầu trời tối quá, tôi không nhìn rõ. Mãi sau,
khi đèn pha ô tô bật sáng, tôi mới chú ý đến anh ta . Đó là một thanh niên trẻ,
ăn mặc kiểu quần áo dân tộc… Xe rồ máy, từ từ lăn bánh. Tôi ngoái lại, cố nhìn
một lần cuối cùng cái thị xã vùng biên của tôi, nơi mà tôi đã sống cùng gia
đình và hoạt động trên mười hai năm… Trời vẫn kéo dài những sợi mưa nhỏ li ti,
màn đêm trùm kín. Thị xã nằm phía sau, qua chiếc cầu xi măng này, tôi không
nhìn thấy gì hết ngoài một đốm lửa leo lét như một vì sao. Không biết đó có phải
ánh đèn dầu hắt ra ở nhà tôi và lúc này cả hai mẹ con vẫn còn đứng sững trước cửa
với ngọn đèn trên tay cố ý soi đường cho tôi…?
Trời đêm mù mịt, mưa không dừng lại phút nào, đường trơn và lầy lội. Chiếc
xe com-măng-ca nghiêng ngả chạy trên con đường ngược lên biên giới.
Anh Tư vẫn in lặng ngồi bên tôi, xe lắc lư, hai chúng tôi đập vai vào
nhau. Bàn tay của anh Tư vẫn nắm lấy bàn tay tôi. Anh chẳng nói gì cả, tôi cũng
nín thinh. Tôi biết anh Tư đang lo nghĩ nhiều về tôi, còn tôi lại suy nghĩ đến
người bạn trẻ là Huy.
Tôi hỏi:
- Có tin tức gì của Huy chưa, anh Tư?
Anh lắc đầu; ngồi thừ ra. Tôi nói tiếp để anh yên tâm: - Nhưng tôi
nghĩ rằng không có chuyện gì xảy ra đâu, anh Tư ạ! Cậu huy bản lĩnh lắm, chẳng
thế mà chúng nó đặt tên cho cậu ấy là Triệu Tử Long…
Lâu lâu anh Tư mới lên tiếng:
- Mình cũng nghĩ vậy… Dù sao cũng rất sốt ruột… Lần này mình đã cử một
đồng chí đi cùng. Nếu không gặp được Huy thì đồng chí ấy sẽ đi cùng với các cậu
biên giới… Đồng chí ấy ngồi ghế trên đó, người dân tộc Tày rất quen thuộc vùng
này – Nông Viết Sơn, tên là Sơn. Lát nữa hai đồng chí làm quen với nhau…
Như vậy, chuyến vượt biên này của tôi đã được cấp trên rất quan tâm.
Anh Tư thật sự lo lắng cho tôi, nên anh đã cử thêm người giúp đỡ tôi… Tôi ngồi
im, bồi hồi…
Xe chạy hết đêm mới tới đồn biên phòng. Lúc ấy hãy còn quá sớm, mưa vẫn
dăng trắng xóa. Các chiến sĩ vừa ngủ dậy đang tập thể dục trong hiên nhà cho
nóng người. Chiếc xe của chúng tôi ậm ạch bò lên đồi, bốn bánh xe bê bết những
bùn đất nhão nhoét. Đồng chí đại úy đồn trưởng đích thân chạy ra mở cổng và đưa
chúng tôi vào phòng riêng. Anh chạy đi chạy lại đem nước rửa mặt và nước sôi
pha trà.
Anh Tư vẻ nôn nóng giữ anh lại và hỏi thăm về Huy. Đồng chí đại úy vội
lấy trong xà cột một mảnh giấy đưa anh Tư. Thư của Huy để lại: “K8 gửi K4. Con
gấu bị lạnh đã ra khỏi hang. Nó đi theo đường đã định trước – Đường này K7 đã
biết. Tôi vẫn bám theo để bảo vệ nó và tìm cách kìm chân nó – Các anh nên lấy
lão thợ ảnh dẫn đường để theo tôi”.
Đồn trưởng biên phòng chờ cho anh Tư đọc xong, nói:
- Thư này tôi mới nhận được tối hôm qua. Tôi định điện về tỉnh nhưng
nghe tin thủ trưởng đang trên đường lên đây nên tôi lại thôi…
Anh Tư hỏi:
- Tình hình biên giới thế nào?
- Báo cáo thủ trưởng, chúng tôi đã được lệnh khóa chặt biên giới từ tuần
trước, đến nay tình hình vẫn ổn định. Đồn chúng tôi và đồn 17 đã phối hợp tuần
tra, canh gác ở các trọng điểm hăm bốn trên hăm bốn. Các cửa khẩu, các cột mốc
và các khe suối mọi đường đi lối lại, chúng tôi đều bố trí các tổ chốt, bảo đảm
không một kẻ nào lọt qua được…
Anh Tư gật đầu:
- Tốt lắm… Bây giờ đồng chí cho bọn tôi ăn tạm chút gì đó. Rồi kiếm
cho ba con ngựa tốt cho ba chúng tôi. Ăn xong, chúng tôi đi ngay. Bây giờ là
năm giờ mười lăm, muộn nhất là sau giờ phải lên đường đuổi theo…
- Báo cáo, thủ trưởng có cần đến sự chi viện của chúng tôi?
- Cho thêm một tổ phối hợp cùng đi…
- Tôi sẽ đi cùng với hai chiến sĩ nữa, được chứ ạ?
- Tùy đồng chí thu xếp… Không cần nhiều người, ít nhưng phải một chọi
mười.
Sáu giờ, mưa đã ngớt nhưng mù còn rải trắng xóa và gió rét không ngừng
từ bên kia biên giới thổi về. Sáu con ngựa gõ móng vượt ra khỏi đồn. Tôi dẫn đầu
cả đoàn, đi theo con đường mà Tạ đã vạch sẵn. Trước khi lên đường tôi đã nghiên
cứu tỉ mỉ trên tấm bản đồ của đồng chí đồn trưởng biên phòng. Con đường bí mật
do Tạ chuẩn bị từ lâu, con đường sinh tử của y, thật hiểm hóc mà chỉ những người
thật thông thuộc và am hiểu núi rừng mới dám đi. Nó đã được Tạ chia ra làm nhiều
chặng nghỉ, như những trạm của ta, men dọc theo đường biên để tới một quãng
vươt. Huy đã bám theo Tạ đi trước chúng tôi gần một ngày và một đêm, khoảng hai
mươi tiếng đồng hồ. Nhưng họ đi bộ và mưa rét đã cản bước chân của họ. Còn
chúng tôi đi ngựa, tốc độ có thể nhanh gấp ba, gấp bốn họ; ấy là ngựa đi luồn rừng
và leo dốc, không được thả sức phóng nước đại như những nơi bằng phẳng. Trong
thư để lại, Huy không nghĩ là tôi đang dẫn anh em bám theo anh, Huy không biết
mãi đêm qua tôi mới thực hiện kế hoạch “chạy trốn”, nên anh đã viện tới sự có mặt
của Voòng Cắm Sềnh.
Anh Tư luôn luôn thúc ngựa theo sát tôi. Tôi biết tuy không nói ra
nhưng anh đang sốt ruột, phần thì lo cho Huy, phần thì sợ lão Tạ chạy thoát. Kế
sau anh là Nông Viết Sơn, người bạn đồng hành mới của tôi mà chúng tôi vừa làm
quen với nhau.
Mặc dù đi ngựa nhưng con đường chưa có dấu chân người, chúng tôi đi
theo la bàn, rừng núi chỗ thì hiểm trở, nơi thì lầy lội, đất ướt nhão như thoa
mỡ trên những phiến đá, móng sắt ở chân ngựa đặt vào cứ bị trôi tuột, tốc độ của
chúng tôi bị giảm sút khá nhiều. Tôi nhìn đồng hồ, ước lượng kiểu này chỉ có thể
đi một giờ được khoảng mười cây số không hơn.
Cũng may gần trưa, trời hửng nắng. Chúng tôi đi xuyên qua một thung
lũng cỏ gianh bạt ngàn. Anh Tư hạ lệnh người nào đói thì cứ ngồi nguyên trên
lưng ngựa, bóc lương khô mà ăn, nước đã sẵn trong bi đông. Chúng tôi tiếp tục
đi không nghỉ hy vọng sẽ gặp Huy ở chặng nghỉ thứ hai. Từ chặng nghỉ thứ nhất
cách sào huyệt của Tạ - nơi hắn đã trú chân hơn mười năm nay và hắn vừa ra đi –
Chừng hai mươi lăm cây số đường rừng. Như vậy, thì ngày hôm qua, hắn đã tới đó,
sớm muộn cũng tới được, không hiểu hắn có dám đi tiếp hay nghỉ đêm lại đó.
Không hiểu hắn đi ngựa hay đi bộ, bởi khi qua một bãi đất ven suối. Chúng tôi
phát hiện có dấu chân ngựa, nhưng chỉ có một con. Có thể Tạ đi ngựa, còn thủ hạ
của hắn thì cuốc bộ.
Đi sâu vào một cánh rừng già nguyên thủy, chúng tôi tới chặng nghỉ thứ
nhất theo quy định của Tạ. Tôi biết đó là một cái nhà rất sơ sài và rất nhỏ chỉ
đủ vài ba người nằm, chênh vênh trên ngọn cây cổ thụ, cheo leo giống như một tổ
chim khổng lồ.
Mọi người đã dừng lại gần cửa rừng, chỉ một mình tôi thúc ngựa đi sâu
vào trong. Tới gần, tôi đã nhìn thấy một chiếc khăn mặt lấm lem, bẩn thỉu và ướt
sũng vắt trên cành cây con sát đất. Tôi cầm lên, nhận ngay được chiếc khăn của
Huy. Chiếc khăn này do vợ tôi đưa cho Huy dùng, khi anh ở trên này về thị xã hồi
trong tết.
Tôi xuống ngựa và leo lên nhà bằng những cái đinh to đóng sẵn vào thân
cây thay cho bậc thang. Trong nhà không có ai, đó đây trên mặt sàn còn vương lại
những hạt cơm và những sợi thuốc lá vụn. Góc sàn có bày mấy viên đá sỏi, hình
như có bàn tay ai đó đã xếp chúng rất thứ tự, một viên đá lớn bằng bao diêm đặt
trước, kế đến ba viên sỏi như cái trứng chim. Đấy là ám hiệu của Huy để lại giống
như chiếc khăn của anh vứt dưới gốc cây. Chiếc khăn báo tin anh đã tới nơi đây
và đã ra đi, còn bốn viên đá sỏi là tất cả đội ngũ của địch. Viên lớn là lão Tạ
cùng con ngựa của lão, ba viên sỏi là thủ hạ đi theo trong đó có Huy.
Tôi còn tìm được mẩu nến vụn đốt cháy dính trên mảnh đĩa vỡ. Nghĩa là
đêm qua bọn chúng đã nằm lại đây, trời mưa và rét như thế này, chúng nó không
dám liều lĩnh dấn thân trong rừng sâu tối tăm mù mịt. Và, như vậy còn có nghĩa
là tuy đánh hơi thấy bị động, Tạ cuốn theo cả đồng bọn ra đi nhưng hắn vẫn còn
có vẻ ung dung, tự tin về con đường bí mật này, hắn chưa đến nỗi hoảng hốt chạy
trốn, hắn chưa hề nghĩ rằng bọn chúng tôi đang đuổi theo sát nút, hắn chưa có
chút ngờ vực vai trò của Huy. Hắn còn tin cậy vào Huy, tất nhiên là hắn vẫn tin
vào tôi – chú Ba em út của nhóm. Hắn cũng chưa biết Voòng Cắm Sềnh đã bị bắt
cùng với bản sơ đồ của lão… Mọi luồng tin từ trước đến nay vẫn đến với hắn đã bị
phong tỏa rất kín và bị chặn đứng…
Có điều còn phân vân là tại sao Tạ lại chuyển chỗ ở lên sát đường biên
này? Mà lệnh khởi sự của hắn chưa được phát ra. Cả tôi, cả Cắm Sềnh chưa nhận
được chỉ thị ngày giờ cụ thể cho cuộc phản loạn. Chẳng nhẽ Tạ phải rời bản
doanh lên tít vùng cao này rồi mới cho lệnh? Hay hắn còn chờ phối hợp hành động
với đại quân đang áp sát bên kia biên giới?
Anh Tư và tôi ngồi riêng ra một nơi bàn bạc và trao đổi. Trước hết,
anh Tư cũng đồng ý với nhận định của tôi về sự ra đi của Tạ; do đó việc tôi bám
sát và tạt đến chỗ Tạ là việc hợp lý, nên làm. Anh cũng nhất trí cho rằng Tạ rời
hang ở cũ lên sát đường biên này để dễ dàng phối hợp với đại quân. Hình như mọi
công việc chỉ huy của cái ổ phản loạn, chỉ huy trực tiếp các đội sơn cước đã được
giao cho một nhân vật nào đó. Người ấy có thể phán đoán được, đó là Lưu Nghị -
Rõ ràng tên này vẫn lẩn quất đâu đây, hoặc như một con thú thậm thụt qua lại đường
biên.
Cũng có thể lệnh khóa chặt đường biên đã làm cho Tạ hốt hoảng lo sợ,
nên đã giống như một con cá nghẹt thở phải ngoi lên mặt nước.
Anh Tư hỏi tôi về khoảng cách của chặng nghỉ thứ hai. Theo bản đồ thì
còn phải đi tiếp chừng ba giờ trên ngựa mới tới. Cũng trên bản đồ, đó là một
dãy núi đá cao ngất, tôi không hiểu cái trạm ấy được Tạ bố trí ở đâu?
Anh Tư gọi Nông Viết Sơn đến ngồi trước tấm bản đồ vùng với đại úy đồn
trưởng đồn biên phòng. Anh thanh niên người Tày chăm chú lắng nghe anh Tư nói
và nhìn theo ngón tay anh đang lần lần những vệt xanh mờ in trên bản đồ.
Sơn gật đầu:
- Vùng này tôi biết. Thuở bé tôi đã nhiều lần theo bố đi săn thú có
qua lại đấy. Ở dãy núi đá ấy, có một cái hang rất sâu nằm tít trên cao. Leo lên
mệt lắm đấy, trời mưa lại càng khó… Nhưng tôi biết, tôi với bố tôi đã ngủ đêm ở
đó. Lạnh lắm, phải đốt lửa để sưởi. Dơi núi bay ra từng đàn…
Anh Tư hỏi:
- Từ chỗ ta ngồi đến đó có đường phóng ngựa không?
- Có, nhưng xa… Ngựa thồ còn đi được. Ngày trước cửa hàng mậu dịch vẫn
thồ hàng lên đấy… Đi ngựa nhanh lắm, chỉ hai giờ là đến nơi, ngựa chạy được mà…
- Thế này nhé, các đồng chí ạ… - Anh Tư nhìn đồng hồ và quyết định. –
Bây giờ đồng chí Sơn đi cùng với anh em công an vũ trang phóng theo đường ấy. Đồng
chí Sơn dẫn đường. Cố gắng đi nhanh, càng nhanh càng tốt… Nhưng chú ý một điều:
Các đồng chí không được tự ý hành động. Nếu gặp địch giữa đường mà không tránh
được, thì các đồng chí coi như đang làm nhiệm vụ tuần tra biên giới. Điều nay
ta đề phòng khả năng địch bỏ trốn, vượt biên giới sang bên kia. Nếu chúng nó
vào hang thì các đồng chí nhanh chóng hình thành thế bao vây ngay. Tôi với đồng
chí Bảy bám theo con đường rừng này, tức là khóa chặt đuôi chúng nó lại… Đội hình
của chúng ta như vậy là chia làm hai mũi để tiếp cận địch. Mọi phương án hành động
như đã bàn ở nhà, không có gì thay đổi…
Anh Tư cởi chiếc áo biên phòng đổi cho Nông Viết Sơn lấy chiếc áo bông
chàm. Sau nửa ngày chui rúc trong rừng, quần áo mũ và mặt mũi chúng tôi đều ngấm
nước. Trông anh Tư lúc này giống hệt như hình dạng của tôi, rõ là hai ông lão
người Nùng, mặt mũi hốc hác, nhợt nhạt vì giá rét và râu ria lởm chởm…
Chỉ còn lại hai anh em, chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình săn đuổi. Lại
lom khom trên mình ngựa, len lỏi trong rừng rậm. Con ngựa bước xiêu vẹo và những
cành cây luôn luôn quệt vào mặt vào vai tôi, người tôi nghiêng ngả, hai cẳng
chân kẹp chặt lấy mình ngựa cho khỏi ngã. Anh Tư theo sau tôi, đầu ngật ngưỡng
và đôi mắt cúi xuống như đang ngủ, phó mặc cho con ngựa bước tập tễnh…
Tôi vừa leo vừa thở hổn hển, mệt muốn đứt hơi. Lối lên hang vướng đầy
bụi cây, rễ nhằng nhịt và trơn như bôi mỡ. Dốc thẳng đứng, đầu tôi chỉ muốn chạm
phải gót chân của tên đi trước. Hắn leo thoăn thoắt, chốc chốc lại cúi nhìn xuống.
Khuôn mặt hắn già cấc, gồ ghề như khuôn mặt gỗ được đẽo bằng những nhát rìu. Khẩu
AK lủng lẳng trên lưng gã với băng đạn buộc chéo qua vai. Dưới tôi là anh Tư,
anh cũng mệt chẳng kém tôi, nhưng mỗi lần ngó xuống thấy đôi môi anh mím chặt,
quai hàm bạch ra. Anh đang cố hết sức mình. Dưới cùng là một tên nữa thủ hạ của
Tạ, hắn cũng giống y như tên đi đầu khuôn mặt bì bì đầy râu. Chẳng rõ hắn già
hay trẻ.
Vừa nãy khi vượt qua dãy yên ngựa để tiến đến chân dãy núi đá, đôi mắt
rất tỉnh của anh Tư đã phát hiện có người. Người đó mặc quần áo chàm đứng bên một
tảng đá lớn, đang chăm chú theo dõi chúng tôi. Anh Tư níu tôi và nói:
- Cậu tung ám hiệu ra đi! Chúng nó kia rồi!
Tôi rút chiếc gậy tre vẫn gài cạnh yên ngựa, tháo nón ra chống lên đầu
gậy rồi giương cao chiếc gậy như người giương cờ. Cái nón tre rộng vành của tôi
chung chiêng, lắc lư theo bước chân ngựa. Chờ một lát cho kẻ đứng trên tảng đá
lưng chừng núi tìm thấy, tôi khum bàn tay còn lại trước miệng và hú ba tiếng,
hai tiếng đầu gần dính nhau, tiếng hú thứ ba kéo thật dài. Tôi hú thật lực, tiếng
vang từ vách núi dội lại nghe càng to. Tôi cũng không ngờ sức lực tôi còn được
như vậy. Phổi tôi còn khỏe, vậy mà lúc leo núi, tôi thở như con cá mắc cạn. Từ
sườn núi, tiếng hú đáp lại cũng một nhịp điệu giống tôi.
Tôi hú lại, trên kia hắn đáp… Chúng tôi đối thoại với nhau bằng những
tiếng hú, lúc nhịp ba, lúc nhịm năm y như hai người hóa rồ đang thi thố hơi sức
của nhau. Cuối cùng thì hắn im lặng, giơ cao cánh tay huơ tròn trên đầu. Hắn đã
chấp nhận chúng tôi.
Tôi quay bảo anh Tư và cả hai đều xuống ngựa, dắt bộ. Chúng tôi lững
thững đi gần tới chân núi, một bóng áo chàm khác vẫn núp trong bụi cây nhảy xồ
ra chặn ngang đường, khẩu AK nhăm nhăm chĩa vào ngực tôi và hắn hỏi bằng tiếng
Quan Hỏa:
- Đi đâu?
- Em Ba đến hội kiến với Huynh trưởng.
- Còn người kia? – Hắn hất mũi súng về anh Tư.
Tôi đáp:
- Người của anh Hai…
- Có đem theo vũ khí không?
- Có súng ngắn…
- Bỏ hết ra đây!
Cả tôi, cả anh Tư đều tháo súng ngắn giắt trong người trao cho hắn.
Nhưng chúng tôi còn mỗi người một khẩu nữa nhét kín ở cạnh sườn, gần nách. Tên
áo chàm nhét cả hai khẩu súng ngắn vào cạp quần và hắn hất đầu nói:
- Theo tôi…
Hắn nói vậy nhưng lại giục chúng tôi đi trước, hắn kẹp AK đi sau. Tới
sát chân núi, hắn bảo chúng tôi buộc ngựa vào bụi cây, rồi lần theo những bậc
đá lẫn trong đám lá để lên núi. Tên đứng sát trên sườn núi im lặng quan sát
chúng tôi. Và chờ cho cả ba người ậm ạch lên tới chỗ hắn, hắn quay người đi trước…
Gần nửa giờ sau, chúng tôi mới leo tới cửa hang. Ở dưới nhìn lên, miệng
hang rất nhỏ và bị cây cối che lấp gần hết. Tới nơi, cái miệng đá ngoác ra đến
dễ sợ. Ngoài cửa, trên một đám bằng phẳng có mấy tảng đá lớn nằm ngếch đầu lên
nhau. Tôi ngồi phịch xuống và kéo anh Tư ngồi theo vẻ như quá mệt, mặc cho tên
đi đầu lom khom chui tọt vào hang. Mà chúng tôi cũng mệt thật, hơi thở tranh
nhau ra bằng miệng, bẳng mũi. Tôi ngồi lại đây để chuẩn bị và cũng để anh Tư có
thời gian chuẩn bị cuộc gặp gỡ với Tạ. Mặc dù ở nhà, chúng tôi đã bàn tính rất
kỹ, rà soát mọi chi tiết để không có một sơ hở nào, nhưng biết đâu chẳng có sự
bất ngờ xảy ra, biết đâu lão “Huynh trưởng” này chẳng nhận được mặt anh Tư, biết
đâu trí nhớ của lão còn tốt và lão còn nhớ lại cuộc gặp mặt tuy rất ngắn ngủi của
lão với anh Tư cách đây mười hai năm, khi lão mới sang đây “lánh nạn cách mạng
văn hóa”. Hồi đó, anh Tư chỉ đóng một vai trò rất phụ, một cán bộ thấp nhất làm
cần vụ cho một đồng chí cao cấp và anh chỉ xuất hiện có một thoáng. Thời gian
đã qua đi từng ấy năm, anh Tư hiện nay tóc đã điểm bạc và mặt mũi hốc hác như
người đói ăn, liệu lão có nhận được không?
Tôi thoáng nghe anh Tư nói nhỏ:
- Cứ bình tĩnh, hắn không nhận ra mình đâu…
Tôi ngạc nhiên, không hiểu tại sao anh lại đoán được cả ý nghĩ của
tôi. Tên vừa chui vào hang chỉ một thoáng đã lại chui ra. Hắn bảo:
- Các đồng chí vào đi, thủ trưởng đang đợi…
Hai chúng tôi đứng lên và đi sâu vào trong hang. Cái hang khá rộng,
vòm càng vào sâu càng cao. Đi ngoắt ngoéo một đoạn, tôi thấy nó sáng dần ra,
hình như ánh sáng từ trên cao rọi xuống. Và trên một tảng đá lớn như một chiếc
giường đôi, có một người đang nằm. Người ấy là “Huynh trưởng” của tôi – Lão nằm
trên một tấm nệm dã chiến bằng cao su bơm hơi có phủ chiếc chăn dạ, nửa người
dưới của lão cũng đắp chiếc chăn dạ… Lão nằm im lặng, mắt nhắm, một cánh tay duỗi
thẳng chui vào trong chăn, cánh tay kia vắt lên trán.
Tôi tới sát bên Tạ, khẽ gọi:
- Thủ trưởng…
Tạ mở mắt nhìn tôi, gật đầu như chào. Tôi nói:
- Kính chào thủ trưởng; chúng tôi đã tới…
- Tốt lắm… chú Ba… Trương đồng chí tốt lắm…
Luồng mắt rất sáng của lão lướt nhìn anh Tư đang đứng khúm núm sau
tôi. Lão ngồi lên rất nhanh:
- Ai đi với chú vậy?
- Báo cáo thủ trưởng, đó là đồng chí Xây, người của anh Hai phái đi gặp
thủ trưởng…
- Voòng Cắm Sềnh đâu?
- Báo cáo thủ trưởng, Voòng đồng chí bị đau, không đi được.
- Ta chưa gặp người này bao giờ…
Anh Tư cúi đầu nói:
- Thưa thủ trưởng, tôi được đồng chí Voòng tổ chức đã lâu nay mới có
may mắn được trình diện thủ trưởng… Voòng đồng chí có thư gửi trình thủ trưởng…
Anh móc túi áo trong lấy ra một phong thư và đưa ra. Tôi đỡ lấy thư
chuyển cho Tạ. Tạ luồn tay xuống nệm lấy bao kính rút ra đeo lên mắt rồi đọc…
Chẳng biết trong thư Cắm Sềnh viết những gì, điều này chỉ có anh Tư biết, vì
chính anh đã đọc cho lão viết trong trại giam… Tôi theo dõi diễn biến trên nét
mặt của Tạ, đồng thời cũng quan sát chung quanh. Hai tên thủ hạ của Tạ, tên đi
sau thì dừng lại ngoài cửa hang, còn tên đưa chúng tôi vào hang đá lặng lẽ lướt
qua rồi đi sâu vào phía trong và mất hút sau mấy tảng đá nằm chềnh ềnh. Tôi
không rõ hang sâu đến mức nào và nghe có tiếng bước chân tới gần. Lát sau Huy
xuất hiện. Anh cũng ăn mặc giống như hai tên kia. Trông thấy tôi, Huy gật đầu
chào tôi:
- Chào đồng chí Trương!
Xong anh tiến sát tới sau lưng Tạ. Lão đã đọc xong bức thư của Voòng Cắm
Sềnh, nét mặt lão căng thẳng và thốt nhiên nở giãn ra… Tạ cười to:
- Khá lắm, khá lắm… Voòng Cắm Sềnh khá lắm… Đồng chí ấy đau ra sao?
- Báo cáo thủ trưởng, - anh Tư đáp, - đồng chí Voòng bị thấp khớp, hai
đầu gối sưng tấy không đi lại được…
- Hắn có đưa lại bản sơ đồ cho… chứ?
- Thưa có đây ạ!
Anh Tư móc túi lấy ra bản sơ đồ, khúm núm đưa lại cho Tạ. Lẽ ra lão cầm
lấy mảnh giấy, nhưng lão lùi lại rút súng chĩa vào hai chúng tôi:
- Giơ tay lên, ông bạn quý… ông tưởng, ông đánh lừa được lão Tạ này hẳn!
Ha ha quý ông lầm rồi. Bức thư này ông đã bắt buộc Cắm Sềnh phải viết nhưng
trong thư, Cắm Sềnh đã ghi những ký hiệu báo động. Còn anh Trương Đạt – lão
chĩa súng vào tôi – Anh là một tên phản bội, anh đã đưa đường cho chúng nó bắt
ta, anh đã phá hoại tổ chức của ta. Chúng mày hết đời rồi, thay mặt cho Tổ quốc
vĩ đại, ta thẳng tay trừng phạt chúng bay…
Lão tiến lên một bước và trước mặt lão là tôi và anh Tư, hai kẻ thù của
lão. Lão quên mất người đứng sau lưng lão. Huy nhảy lên một bước đồng thời chặt
mạnh bàn tay xuống cánh tay xương xẩu đang cầm súng của Tạ. Khẩu súng văng trên
nền hang nghe cạch một tiếng khô khốc. Cùng lúc ấy, tôi nghe tiếng nổ rồi đạn
rít qua tai. Huy ôm chặt lấy bả vai, khuỵu xuống.
Tôi rút súng bắn không cần nhắm. Tên thủ hạ của Tạ ngã quật xuống ngay
trước cửa hang. Tạ nhanh như sóc, lão tung mình nhảy vọt qua người Huy và chạy
lao vào trong hang. Tôi vội quỳ xuống đỡ lấy Huy và kêu:
- Anh Tư!
Anh Tư vẫn thản nhiên như không nhìn thấy lão già đang chạy tót vào
sâu. Chỉ một thoáng, bóng của lão lại xuất hiện khỏi chỗ ngoặt, lão đi giật
lùi. Trước mặt lão là hai chiến sĩ biên phòng với hai khẩu tiểu liên, trong đó
có Nông Viết Sơn.
- Còn tên nữa đâu? – Anh Tư hỏi.
- Chúng tôi đã bắt trói ở trong kia…
Trước lúc lên đường, tôi nói với anh Tư rằng số phận của tôi vẫn còn bị
ràng buộc với số phận của Tạ. Nếu như lão trốn thoát thì ở bên kia tôi sẽ bị đi
tong. Anh Tư nắm tay tôi:
- Đó là trách nhiệm của bọn mình. Cậu không phải lo…
Thật ra kế hoạch trước kia của tôi là cho đến phút cuối cùng, tôi
không dằn mặt với Tạ. Và như thế, dù còn sống hay chết, dù bị bắt hay chạy
thoát, lão vẫn không có cơ sở gì để ngờ vực tôi. Bây giờ thì khác rồi… khác ở
chỗ lão không còn chút hi vọng gì để trở về nữa…
Anh Tư nhắc lại với tôi một lần nữa, người mà tôi sẽ bắt liên lạc hoặc
sẽ tìm đến bắt liên lạc với tôi sau này. Người ấy hình dạng ra sao, chính anh
cũng chưa thể biết được. Tất cả chỉ có những quy định về ám hiệu, mật hiệu để
tìm đến nhau mà thôi. Và tôi lại phải chờ như tôi đã từng chờ đợi người của tôi
ở bên kia cử sang. Thời gian chờ đợi nào có ngắn ngủi lắm đâu, phải tính hàng
năm, hàng chục năm… Nhưng xưa kia tôi còn trẻ, tóc tôi còn xanh; còn bây giờ đã
trên năm chục tuổi rồi và mái tóc đã hói, đã điểm bạc… Lần này chắc chắn sự chờ
đợi của tôi sẽ ngắn hơn: chúng ta chẳng hề có âm mưu xâm chiếm tiến công hay lật
đổ gì đối với họ, chúng ta chỉ muốn biết những âm mưu ấy để mà giữ thân. Chúng
ta chẳng có gì để “trường kỳ mai phục” cả…
Tuy nhiên, bước đầu tiên là tôi phải nán lại hai ngày. Trước hết để
cho vết thương ở bả vai của Huy đỡ nhức nhối. Cũng may lúc ở trong hang, anh đứng
chênh chếch bên cạnh Tạ, nên tên vệ sĩ của lão không dám bắn thẳng và viên đạn
mới lướt vào vai Huy. Dứt khoát Huy đòi đưa tôi qua biên giới, đó là sự gắn bó
suốt mười mấy năm giữa hai chúng tôi. Suốt mười hai năm ấy, ở đây chỉ có hai
chúng tôi biết nhau, thông cảm với nhau và an ủi động viên nhau. Vậy thì việc
anh đòi đưa tôi đi không ai từ chối được. Nhưng việc nán lại của tôi còn một lý
do khác nữa: phải đợi việc hủy lệnh phong tỏa biên giới có hiệu lực, các đội tuần
tra và các tổ chốt dọc đường biên rút về, việc kiểm soát các cửa khẩu, các đường
đi ngang tắt lơ là lỏng lẻo. Và như thế sự vượt biên của tôi mới tỏ ra hợp lý…
Cuối cùng thì cũng đã đến giờ phải lên đường. Chỉ có anh Tư đứng tiễn
chúng tôi. Tôi ôm chặt lấy anh như ôm chặt tất cả mọi người thân yêu nhất của
tôi, vợ con gia đình bạn bè đồng chí và cả nhân dân, cả Tổ quốc mến thương… Cuộc
ra đi bí mật nên ngoài anh Tư chẳng còn ai khác nữa. Lúc đó đã xế chiều… Từ đây
đến chặng nghỉ cuối cùng của lão Tạ không còn bao xa nữa…
Tôi và Huy mỗi người một ngựa lóc cóc ra đi. Trời vẫn mưa phùn và gió
bấc. Mưa rét tuy có làm khổ cho thân xác tôi, nhưng cũng rất thuận tiện cho việc
ra đi này…
Không hiểu tại sao, hai ngày nay tôi luôn bị ám ảnh bởi cái nhìn của Tạ.
Đôi mắt lão nhìn tôi trước lúc bị dẫn đi, đôi mắt già nua và lút sâu trong
tròng mắt bỗn quắc lên đầy vẻ căm giận và tức tối. Lão thù hận tôi giống như một
tên tướng cướp bị sa cơ thù hận người đã bắt hắn.
*
Đêm ấy, tôi và Huy ngủ trong một ngôi nhà sàn đầu bản. Chủ nhà này
cũng là thành viên trong những tổ quỷ do Tạ đích thân tổ chức. Những tổ quỷ ấy
vừa qua đã bị lực lượng an ninh biên phòng hót sạch. Ngôi nhà lúc này do một
người của Huy đến ở để đón lõng các vị khách từ bên kia tạt sang. Chủ nhà dọn
cơm cho chúng tôi ăn và dọn chỗ cho chúng tôi nằm. Ông ta cũng chỉ biết Huy chứ
không biết tôi nhưng không hỏi han, nói năng gì hết. Chúng tôi đi nằm sớm và
trò chuyện bình thường, không một ai trong chúng tôi đả động đến việc ra đi của
tôi. Mà cũng chẳng có gì để nói, mọi chuyện đã được bàn tính, đã trao đổi tới tất
cả các chi tiết nhỏ nhất. Còn về tình cảm ư? Lại càng không nên đả động tới,
không nên nói ra miệng những tình cảm trong sạch và thiêng liêng, hãy để chúng
nằm ở trong trái tim mình và hãy truyền cho nhau qua nụ cười, ánh mắt. Và suốt
buổi tối, nằm bên tôi, Huy cứ nắm lấy bàn tay tôi y như sợ tôi biến mất.
Tôi đã luống tuổi mà Huy cũng không còn trẻ nữa, gần bốn mươi rồi.
Chúng tôi đều biết tự kiềm chế tình cảm của mình. Huy thì đơn giản hơn, anh chỉ
có mến thương tôi, nuối tiếc tôi. Chứ tôi thì có bao nhiêu điều day dứt. Lúc
này tôi không hề nhớ đến một con người cụ thể nào, mặc dù khi nghĩ rằng vào giờ
này vợ tôi và con tôi chắc chưa ngủ, hai mẹ con đang ngồi bên nhau nhắc lại những
kỷ niệm đẹp đẽ nhất về tôi, nhưng tất cả đều không làm cho tôi day dứt, bồn chồn
bằng khi tôi chợt nghĩ rằng, đây là đêm cuối cùng tôi nằm trên mảnh đất thiêng
liêng của Tổ quốc. Bằng giờ này ngày mai, tôi sẽ ở đâu nhỉ? Chắc chắn phải trên
một mảnh đất nào đó không phải Tổ quốc mình, tôi là một con người khác, gốc
tích khác, quê hương Tổ quốc khác…
Có lẽ Huy không hề chợp mắt, anh chỉ nằm im lặng bên tôi. Khoảng ba giờ
sáng, Huy trỗi dậy bấm đèn nhìn đồng hồ rồi chui ra khỏi chăn, lần đến chỗ ông
chủ nhà nằm ngủ. Huy đánh thức ông ta dậy, nói khẽ điều gì đó. Người đàn ông lẳng
lặng khoác thêm tấm áo rồi tụt xuống sàn ra đi… Tôi hiểu ông ta đi trước chúng
tôi để bám đường…
Một giờ sau đến lượt tôi và Huy. Chúng tô mò mẫm đi bộ, hai con ngựa
đã cột chặt dưới gầm sàn. Ánh đèn pin của Huy họa hoằn lắm mới lóe sáng rồi vụt
tắt. Trời không còn mưa nhưng rét, rét kinh khủng. Tôi vốn sinh trưởng ở miền Cực
nam, tuy đã ra Bắc hăm lăm năm rồi, vẫn không thể nào quen được với cái rét dứt
thịt dứt da này, rét buốt, tê cứng cả mặt mũi chân tay.
Từ đây ra tới cột mốc đường biên chừng hơn hai cây số. Đó là quãng vượt
theo quy định của Tạ. Non một giờ nữa tôi sẽ vượt theo quãng ấy, Huy cho biết ở
đó chạy dọc theo một con suối mùa này đã cạn khô. Hết con suối, rẽ lên tay
trái, chừng ba ki-lô-mét đã có nhà dân rồi…
Chúng tôi chui hẳn trong một vùng toàn cỏ gianh bạt ngàn. Lá cỏ sắc lẹm và ướt sũng quệt vào
mặt tôi, xót và buốt như dao cứa. Mặt tôi càng tê cứng.
Chợt Huy dừng lại kéo tôi ngồi xuống. Đó là một mảnh nương mới tỉa của
dân. Có tiếng tặc lưỡi như mối kêu đâu đó. Huy bảo tôi ngồi im và anh lần lần
đi lên phía trước. Lát sau, Huy quay lại:
- Tốt rồi anh Bảy ạ… Tình hình rất êm… Anh cứ đi thẳng hết mảnh nương
này, rẽ tay phải chừng một trăm mét là tới cột mốc… Nhưng thôi, em dẫn anh đi,
bao giờ chạm cột mốc em quay về.
Tôi gạt đi:
- Thôi Huy ạ… Đừng tiễn thêm một đoạn đường nữa làm gì… Cũng không hơn
gì cả, em ạ! Trước sau cũng phải chia tay…
- Thế thì anh ngồi nán đây với em dăm phút nữa rồi hãy đi…
- Ừ…
- Anh có dặn gì nữa không?
- Dặn à?... Dặn cậu năm nay phải lấy vợ đi. Băm sáu tuổi rồi, trẻ
trung gì nữa… khi mình về, chắc chắn mình phải trông thấy cậu có gia đình vợ
con đàng hoàng…
- Em xin hứa sẽ lấy vợ năm nay…
- Đã có ai chưa?
- Chưa… Nhưng sẽ có… Anh Bảy này!
- Gì?
- Anh cứ yên tâm về chị và cháu. Ở nhà em với anh Tư sẽ lo liệu chu
đáo, anh không có gì phải băn khoăn…
- Cám ơn em… Thôi anh đi, cho anh gửi lời chào anh Tư, chào tất cả các
anh… Từ biệt em, chúng ta nhất định sẽ gặp nhau…
Tôi ôm choàng lấy Huy và Huy ghì chặt tôi, gục mặt vào vai tôi y như một
chú bé. Rồi anh rời tôi và đứng lên…
Tôi nắm tay Huy lần cuối cùng. Tôi quay người nhìn lại phía trước, tối
mù mịt và gió cứ thổi thốc vào mặt. Cứ thế tôi bước đi, chân bập bõm trong đám
nương. Khoảng mười lăm phút sau, tôi mới lần ra tới cây cột mốc. Nó đây rồi!
Tôi ngồi hẳn xuống ôm lấy cái cột mốc xi măng chênh vênh trên lưng chừng
đồi. Sau lưng tôi là Tổ quốc, là đất nước thân yêu. Tôi quay đầu nhìn lại một lần
nữa mảnh đất đã sinh ra tôi, chẳng có gì khác ngoài một màu đen của đêm tối.
Bên kia cũng mù mịt như vậy… Bằng mắt thường chẳng làm sao có thể phân biệt được
ranh giới giữa hai nước, đâu là đất nước của mình, đâu là của người. Nhưng chỉ
với linh cảm, và với trái tim, lúc này tôi thấy rõ nơi tôi vừa ra đi trời hửng
sáng và đất ấm chân người.
Khi tôi tụt xuống lòng con suối cạn, hai tay lần lần những tảng đá lổn
nhổn, hai chân mò mẫm tìm đương, tôi có cảm giác như mình đang chui vào một cái
hầm rất sâu và rất dài. Cứ thế mà đi… Tôi đang là một người lính trên đường ra
trận tuyến, con đường suối cạn này rất giống như một chiến hào. Đã là người
lính thì chỉ có xông lên và chiến thắng…
PHẦN KẾT THÚC
(Theo lời kể của Đại úy Vũ Quang Huy – tức K8)
Trung tuần tháng Hai năm 1979, tôi từ Cao Bằng về Hà Nội. Công việc mà
tổ chức giao cho tôi lần này là lo liệu chỗ ở và nơi làm việc lâu dài cho cô
giáo Kim Liên (tức chị Bảy) và cháu Tú Hoa. Đó là trách nhiệm của tôi trước cơ
quan, mà cũng là trách nhiệm của bản thân tôi với anh Bảy. Tôi đã hứa với trong
cái đêm anh vượt biên, tôi phải làm tròn lời hứa trang trọng ấy.
Hai mẹ con chị Bảy đều làm nghề dạy học, nên tôi đã nhanh chóng liên hệ
được với cơ quan giáo dục thành phố, bố trí trường lớp cho cả hai người. Còn
nhà ở, tôi cũng xin được cho chị ấy một căn hộ trong khu nhà mới xây ở phía nam
thành phố, một căn hộ xinh xắn, đủ tiện nghi, lại gần trường học.
Như vậy tôi đã gần như làm tròn trách nhiệm của mình. Đối với loại
công việc này, tôi thực hiện không khó khăn cho lắm. Với lại cũng có sự giúp đỡ
rất tận tình của các cơ quan đặc trách. Bây giờ tôi chỉ còn mỗi việc là quay
lên Cao Bằng đón hai mẹ con chị Bảy dọn về. Một chiếc xe con là thừa đủ…
Lẽ ra việc di chuyển mẹ con chị Bảy đã được tiến hành sớm hơn sau ngày
anh Bảy ra đi. Làm sao có thể sống và làm việc dưới những đôi mắt nghi kỵ thậm
chí khinh miệt của mọi người. Hơn nữa cũng phải tính đến sự trả thù của bọn địch
nếu như chúng biết sự thật về anh. Tôi và anh Tư đã định lo liệu từ sớm nhưng
hai người phụ nữ ấy, mỗi người có mối ràng buộc chưa thể đi ngay được. Chị Bảy
muốn ở lại thị xã cho đến hết năm học, chị đang là chủ nhiệm một lớp chuyên
toán của trường cấp II thị xã, chị không muốn học sinh bị dở dang nửa chừng. Từ
nay đến hết năm học chỉ còn một học kỳ nữa, chị muốn tiếp tục công việc miễn là
ở trường, người ta còn tin cậy chị… Đó cũng là một lý do khiến việc di chuyển
phải chậm lại.
Còn cô gái Tú Hoa là cán bộ giảng dạy của trường cao đẳng sư phạm. Điều
làm cho cô chưa muốn rời khỏi nơi đây là do một người con trai. Người yêu của
cô, một trung úy đại đội trưởng đại đội pháo cao xạ của Quân khu vừa được điều
về bảo vệ thị xã. Đơn vị của anh đóng ngay lưng chừng đồi, cách trường của cô
không đầy một ki-lô-mét. Vậy mà cô lại phải ra đi để không bao giờ quay trở lại
nơi đây nữa, lại ra đi ngay lúc này?...
*
Đúng ngày chuẩn bị lên Cao Bằng, tôi nhận được cái tin dữ dội – quân đội
Trung Quốc đã nhất loạt tiến công sáu tỉnh biên giới phía Bắc. Tôi phóng xe đạp
như điên ra ga Hàng Cỏ, người ta cho biết đoàn tàu Lạng Sơn chỉ lên được ga Đồng
Mỏ. Thôi thì cứ đi, được đến đâu hay đến đấy, đoạn đường còn lại từ Đồng Mỏ đi
tiếp lên Lạng Sơn, rồi từ Lạng Sơn lên Cao Bằng sẽ tính sau…
Tôi quay ngay về cơ quan báo cáo với anh Tư. Anh nói:
- Mình đã điện lên Cao Bằng, trên ấy trả lời cho biết các cơ quan tỉnh
và nhân dân thị xã đều sơ tán về hướng Ngân Sơn, Bắc Cạn. Cậu phải đi lối khác
mới gặp được chị Liên và cháu Tú Hoa. Đi theo đường Một khó gặp nhau đấy…
Tôi nói luôn:
- Thế thì tối nay em đi tàu lên Thái Nguyên, rồi từ Thái Nguyên lại
sang Bắc Cạn đi Ngân Sơn. Nhất định em sẽ tìm được chị ấy và cháu…
- Vậy cậu đi luôn đi… Mọi phương tiện phải tự túc thôi, bám lấy bộ đội
mà đi. Xe cộ của cơ quan bị xung công cho mặt trận hết rồi.
- Anh không lo, em có bao giờ dùng xe cơ quan đâu…
Tôi về chỗ ở, thay quần áo. Tôi mặc bộ quân phục dã chiến nhưng lên
quân hàm quân hiệu hẳn hoi, cả súng ngắn, cả ba lô nhét đầy bánh mì. Đã lâu lắm
tôi mới dùng đến bộ quân phục chính thức của mình. Quá nửa đêm ngày 17, tôi mới
tới thành phố Thái Nguyên. Thành phố công nghiệp như không ngủ trong suốt cả
đêm hôm ấy. Nơi nào cũng thấy rậm rịch của sự di chuyển nặng nề. Và xe vận tải
chở người và súng đạn cứ nhằm phía trước lăn bánh, phía ấy đang là mặt trận…
Tôi xông thẳng đến phòng trực ban của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh. Người
ta báo cho tôi biết, nếu tôi muốn đi Cao Bằng thì phải có mặt ngay tại gần cầu
Gia Bảy. Một tiểu đoàn tự vệ được trang bị đầy đủ sắp sửa hành quân lên chi viện
cho Cao Bằng.
Chỉ mới biết có thế, tôi đã vù đi ngay và nhanh chóng tìm đến tiểu
đoàn tự vệ. Chính trị viên tiểu đoàn là một người đã đứng tuổi dứt khoát không
chịu để cho tôi đi theo đơn vị của anh.
- Ôi chào! Làm sao mà tin vào mấy tờ giấy của anh. Bọn thám báo Trung
Quốc nó có đủ cả quần áo, mũ mão y như bộ đội mình, mà giấy tờ cũng không thiếu
đâu… Thám báo thì như rươi, thời buổi này làm sao mà phân biệt được địch ta…
Cứ qua khẩu khí của ông ta thì có lẽ ông ta đã bị những luồng tin ngỡ
ngẩn nào đó hù dọa, đến nỗi nhìn ai cũng ngỡ là thám báo của địch. Hơn nữa cung
cách ấy không phải là dân lính hoặc đã có thời làm lính chiến. Ông ta có thể là
bí thư chi bộ của một phân xưởng nào đó, nay được phong làm chính trị viên cái
tiểu đoàn tự vệ này… Người như thế làm sao mà đánh giặc được…
Tôi tức đến điên người mà không dám nổi khùng, cố tự kiềm chế và tìm gặp
tiểu đoàn trưởng. Số may không nỡ bỏ rơi tôi. Chẳng phải người xa lạ, tiểu đoàn
trưởng vốn là lính cũ của tôi ngày xưa, nay đã phục viên về làm thợ đúc. Khi
nghe tôi phàn nàn về đồng chí chính trị viên, tiểu đoàn trưởng cười, xin lỗi
tôi:
- Thôi anh đừng trách anh ta làm gì. Anh ta mới xây xong căn nhà ở bên
Lưu Xá đang sợ máy bay Tàu đến ném bom… Cha này chỉ loanh quanh, chẳng có nghề
ngỗng gì hẳn hoi, anh em vẫn gọi lão là Xuân “cung quăng”. Vậy mà xây được nhà
gạch, thế mới thánh chứ?
Rồi anh mời tôi lên ngồi ca-bin xe cùng với anh và dọc đường, tôi được
hút thuốc và bánh kẹo thỏa sức. Thuốc và bánh của nhân dân ủng hộ anh em ra mặt
trận nhiều vô kể.
Khoảng 10 giờ, tôi rời đoàn xe, xuống thị trấn Ngân Sơn. Thị trấn bé
nhỏ và ùn ùn những người từ Cao Bằng sơ tán về. Đi chỗ nào cũng đụng phải cơ
quan tỉnh. Cả những cơ quan của thị xã cùng dồn về đấy vì vậy tôi nhanh chóng
tìm ra nơi tạm trú của cô giáo Kim Liên. Một em học sinh, con gái đồng chí trưởng
phòng giáo dục đã dẫn tôi đến một ngôi nhà nằm sâu trong xóm.
- Cô giáo Liên ở đấy chú ạ!
Chị Bảy cảm động đến rân rấn nước mắt khi trông thấy tôi hoàn toàn đổi
khác trong bộ đồ quân sự với quân hàm đại úy chững chạc. Thật chẳng giống chút
nào với anh chàng Huy lái xe lấc cấc trước kia. Tôi nói với chị Bảy:
- Chị làm em lo gần chết… Em mà không tìm được chị với cháu thì chết với
anh Tư, anh Bảy…
- Chú chỉ lo vớ vẩn, hàng vạn con người làm sao mà chết được…
- Thế cháu đâu, Tú Hoa có đi theo chị không?
Chị Liên lắc đầu:
- Tôi đang sốt ruột sốt gan vì nó, chú ơi! Nó nhất định đòi ở lại chiến
đấu, nó bảo nó là tự vệ, là đoàn viên không thể đi sơ tán… Nó bảo tôi cứ yên
tâm, nó không sao cả… Con bé ương ngạnh lắm, mà nó nói như vậy, chú bảo tôi làm
sao được? Chẳng lẽ lại cứ bắt buộc nó đi theo mẹ…
- Chị đừng lo, chiều nay em đi tìm cháu…
- Sao, chú lên Cao Bằng ngay?
- Vâng, em phải đi tìm Tú Hoa… xem nó sống ra sao? Ở đó chưa có chuyện
gì đâu, chúng nó chưa tiến được vào thị xã…
- Trời ơi, chị cảm ơn em nhiều lắm… Thôi, chú ngồi nghỉ, chị đi nấu
cơm cho mà ăn. Trưa rồi…
Sau này chị kể lại với tôi rằng lúc ấy khi chị ở dưới bếp lên đã thấy
tôi đang ngủ. Anh chàng đại úy cứ ngồi trên ghế mà ngủ rất ngon lành, khiến chị
vừa thương vừa buồn cười…
Quanh quẩn mãi ở Ngân Sơn, mãi đến tối khuya, tôi mới bám theo một đơn
vị đặc công hành quân lên Cao Bằng. Thế là thêm một đêm nữa thức trắng. Suốt buổi
chiều ở Ngân Sơn, tôi đã được nghe nhiều nguồn tin loan truyền về tình hình địch.
Kẻ thì nói rằng quân Trung Quốc đã vào được thị xã Cao Bằng. Người lại bảo cầu
Tài Xìn Hồ đã bị bọn Tàu chiếm rồi, chúng giật mìn phá tung chiếc cầu sắt ấy,
ngăn không cho quân ta tiếp viện lên. Rồi chỗ nào cũng có chuyện bắt thám báo,
thám báo lẻn cả vào tận bếp ăn của bộ đội, chuyện bọn sơn cước gồm toàn người
Hoa dẫn đường cho lính Tàu đi từng nhà chủ tịch, bí thư để đốt phá… Mọi luồng
tin đan chéo, chồng chất lên nhau làm nhiễu loạn cả lên…
Nhưng tôi vẫn cứ quyết tâm về Cao Bằng, ở đó có một người con gái của
đồng chí mình đi xa cần được bảo vệ. Và tôi hành quân cùng với đại đội đặc công
của Quân khu về được tới nơi thì trời hửng sáng. Thị xã vẫn còn nguyên vẹn.
Quân Trung Quốc vẫn còn ở xa, nhưng thị xã hoang vắng tưởng không còn sức sống.
Tôi vẫn quân phục, quân hàm chững chạc đi dọc mấy đường phố chính, say sưa ngắm
từng gốc cây cột điện, từng căn nhà đã gắn bó với tôi từ bao năm nay.
Thị xã nằm lọt giữa thung lũng, gọn ghẽ như một chiếc bánh nằm trong
lòng chảo. Chung quanh là những dãy đồi trồng đầy sở bao bọc. Mùa xuân, hoa nở
trắng xóa như những bông tuyết bám trên cành và lá tả rụng trên thảm cỏ xanh.
Cuối cùng thì tôi cũng tìm ra được người chỉ huy tự vệ của thị xã. Nói
tới Trương Tú Hoa, anh ta gật đầu:
- Có, tôi biết. Tối qua cô ấy còn tập trung ở đây để nhận súng và đạn…
Chính tôi đã quyết định cấp phát vũ khí và lương thực cho cô ấy, mặc dù nhiều
người can ngăn tôi. Họ bảo nó là người Hoa. Tôi bảo đúng nó là người Hoa, nhưng
có phải tất cả người Hoa đều xấu bụng đâu. Cô ấy là người Hoa tốt, phải không đồng
chí đại úy?
- Đúng, đồng chí nghĩ như vậy, xử sự như vậy là rất đúng. Tôi hoàn
toàn nhất trí. Đấy là một cô gái tốt, rất tốt, rất trung thành với Tổ quốc Việt
Nam.
- Phải rồi, bố nó bỏ trốn là tội của bố nó chứ. Ai làm người ấy chịu.
Việc gì mà quá nghi ngờ nó… Tôi nói vậy đấy…
- Hiện nay cố ấy ở đâu?
- À… nó đi cùng tiểu đội lên phối hợp với đơn vị cao xạ băm bảy ở gần
trường sư phạm… Ngay trên sườn đồi phía đông nam kia… Đó, đứng ở đây đồng chí
có thể nhìn thấy trận địa, đồng chí thấy chứ?
Tôi gật đầu, rồi vội vã từ biệt đồng chí chỉ huy tự vệ sáng suốt và
nhanh nhảu ấy, đeo ba lô ra đi. Vừa bước trên đường phố vắng, tôi vừa cố nhớ họ
và tên anh chàng trung úy, người yêu của Tú Hoa. Chắc hản anh ta đang chỉ huy đại
đội cao xạ đóng ngay ở đó… Tên là gì nhỉ? Tú Hoa đã có lần nói chuyện với tôi…
Là gì nhỉ? À… phải rồi, Phong, cậu ta tên là Phong, Nguyễn Xuân Phong… Gió
xuân, hay thật đấy! Mùa này, trời đất đang hây hẩy gió xuân. Mấy ngày nay, thời
tiết ấm dần, tạnh ráo, đỡ khổ cho anh em chiến sĩ và bà con mình nơi sơ tán…
Tôi leo lên được trận địa ca xạ ba bảy ly, đúng lúc anh em bắt đầu ăn
bữa cơm sáng. Mỗi chiến sĩ một chiếc cặp lồng đựng cơm và thức ăn, anh thì ngồi
ngay trên mâm pháo, anh bệt đít trên công sự, có anh vừa ăn vừa đi loăng quăng,
mồm miệng như tép nhảy. Tôi cũng nhận thấy có cả mấy cô cậu tự vệ lẫn trong đám
ấy…
Khi tôi bước tới nơi, một chiến sĩ nhanh nhảu mời:
- Mời thủ trưởng dùng cơm với anh em…
- Cám ơn, các đồng chí cứ ăn đi, mình ăn rồi… À, cậu cho mình hỏi
trung úy Phong có đây không?
- Có đấy ạ, thủ trưởng em đang ăn cơm với cánh tự vệ kia ạ… Đấy thủ
trưởng nhìn xem, cái ông cao to và đẹp trai nhất là thủ trưởng Phong của chúng
em đấy…
- À phải, mình thấy rồi. Trông thì có mã đấy nhưng chỉ huy ra sao?
- Chưa biết thế nào, thủ trưởng ạ. Còn đợi thử lửa đã mới biết nhưng
thường ngày đối với lính tráng chúng em thì tốt đấy, cũng đùa tếu như ai. Chỉ
phải cái, bố ấy nguyên tắc lắm. Sĩ quan mới bóc tem ở trường ra mà, điều lệnh hắc
lắm…
Tôi cười rồi từ biệt chàng lính trẻ lém lỉnh, đi thẳng tới chỗ đám
đông. Trong đám tự vệ quần áo màu xanh đủ kiểu ấy bỗng bật ra tiếng gọi:
- Chú Huy! Chú Huy!
Một cô gái chạy lại. Đúng là Tú Hoa rồi.
- Làm sao chú biết cháu ở đây?
- Biết chứ! Chú cứ tìm đến trận địa ba bảy là thấy cháu mà…
Tú Hoa đỏ mặt, lườm tôi. Rồi cháu dẫn tôi đến giới thiệu với mọi người.
Tôi bắt tay Phong, anh chàng cao lớn khỏe mạnh chỉ huy đại đội pháo cao xạ này.
Phong đứng nghiêm rất đúng lễ tiết và báo cáo rất đúng điều lệnh:
- Báo cáo đồng chí đại úy, tôi trung úy Nguyễn Xuân Phong, đại đội trưởng…
Rõ là một sĩ quan mới bóc tem vừa được ra lò như cậu chiến sĩ nói lúc
nãy. Tuy vậy tôi rất mến cái dáng vẻ quân sự của Phong. Tôi chào lại và nói:
- Tôi đại úy Vũ Quang Huy, sĩ quan Bộ Tổng tham mưu. Xin lỗi đồng chí
Phong nhé. Tôi đến đây có chút việc riêng với cháu tôi là Trương Tú Hoa…
Không hiểu sao sắc mặt của Phong cũng đỏ rực lên. Lát sau chỉ còn lại
tôi và Tú Hoa. Tôi đưa cho cháu bức thư của anh Tư và thư của chị Bảy giục cháu
phải theo ngay tôi về Hà Nội.
Cô gái xịu mặt xuống, lâu lâu mới nói:
- Cháu rất chịu ơn sự săn sóc của chú Tư và chú… Nhưng nếu chú ở vào địa
vị của cháu, thì chú có bỏ nơi này mà đi không, nhất là trong khi bọn Tàu đang
tiến công chúng ta ở các nơi. Chúng nó rục rịch tiến đánh vào thị xã… Chú đừng
nghĩ là cháu muốn ở lại vì có anh Phong…
- Không, chú không nghĩ về cháu như vậy… Mà chú cũng không có quyền để
cháu ở lại đây. Chú lên đây theo lệnh của chú Tư, tìm và đón cháu với mẹ cháu về
Hà Nội…
- Vậy chú cứ coi như không tìm thấy cháu…
- Làm sao có thể “cứ coi” như vậy được…
- Chú nán cho cháu ở lại vài ngày…
- Cũng không thể được…
- Vậy hết ngày hôm nay, được không chú Huy?
Cô gái hạ dần yêu sách xuống. Tôi ngẫm nghĩ và gật đầu.
- Hết ngày hôm nay thì có thể chấp nhận, mà quyền hạn của chú cũng chỉ
có thể chấp nhận được đến thế… Chú giao hẹn nhé, đêm nay hoặc sáng sớm mai, hễ
chú liên hệ được xe thì hai chú cháu cùng đi… Tú Hoa này, dễ cháu nghĩ rằng chú
không muốn ở lại thị xã trong lúc khó khăn này sao? Chú đã lên đây sau ngày ba
mẹ cháu mới lên và cháu còn bé tí, chẳng lẽ chú không có gì gắn bó với thị xã?
Mười hai năm rồi, chú đã quá quen thuộc với tất cả, mọi đường ngang lối tắt, mọi
người dân sinh sống ở đây. Chú là con người chứ có phải gỗ đá? Lúc thị xã bình
yên thì mình ở, lúc có chiến sự mình lại bỏ đi. Chẳng lẽ chú lại quá tồi tệ như
vậy sao? Nhưng chú là một sĩ quan phải đặt nhiệm vũ lên trên hết, phải gác tình
riêng vì nhiệm vụ chung, cháu hiểu chứ?
Thế là chú cháu chúng tôi đã thỏa thuận sẽ ở lại đây hết ngày hôm nay.
Mà biết đâu hôm nay chúng tôi chẳng được đón tiếp các vị khách “thiên triều” đến
thị xã chúng tôi. Đây là một trong những mục tiêu đánh phá chủ yếu của chúng
trong đợt tiến công này. Tôi đã nghe rất nhiều tiếng nổ vang động chung quanh
thị xã. Chúng đã bắn không tiếc đạn đủ các loại pháo lớn nhỏ, kể cả hỏa tiễn
H12. Quân Trung Quốc cậy động người, nhiều của mở cuộc hành binh trừng phạt ở
khắp sáu tỉnh biên giới, hòng cứu nguy cho bọn tay sai của chúng ở Campuc hia.
Chúng muốn kéo chủ lực của ta từ phía tây nam quay về đối phó với cuộc tiến
công của chúng, để cho bọn tàn quân Pôn Pốt có cơ hội ngóc đầu dậy…
Mặc dù đã dự đoán trước thế nào địch cũng tiến đánh vào thị xã, nhưng
chúng tôi không nghĩ rằng chúng nó đánh sớm như vậy, tuy rằng đây mới chỉ là một
mũi thăm dò…
Lúc đó vào mười bốn giờ, tôi đang ngồi nói chuyện với Phong ngay trên
bờ công sự. Anh phàn nàn rằng khó lòng mà đơn vị cao xạ của anh có dịp lập
công. Bọn Tàu lấy đâu ra máy bay chiến đấu để oanh tạc mình, nó đâu phải là thằng
Mỹ. Vậy mà cấp trên vẫn cứ điều đại đội của anh về nằm ở đây. Súng cao xạ, làm
sao có thể đánh nhau với bộ binh được?
Tôi nói đùa với anh ta:
- Thị cậu hãy tìm cách chúc nòng xuống mà bắn vậy? Bắn được không?
Đại đội trưởng cao xạ gật gù:
- Kể ra mình bố trí trên đồi cao cũng có thể chúc nòng xuống mà bắn được
đấy. Nhưng ở trường người ta không hề dạy chúng tôi bắn kiểu cách ấy…
Tôi cũng tưởng nói đùa chơi chơi với nhau thế thôi. Ai ngờ mà không
lâu nữa, những khẩu pháo cao xạ ba bảy ly đã phải nổ súng theo đúng kiểu cách đấy
và đã thu được kết quả tốt… Đó là chuyện về sau. Lúc đó có một người nào đó kêu
lên:
- Xe tăng kìa…
Mấy người nhổm lên thành công sự, che mắt nhìn xuống con đường nhựa chạy
từ cầu xi-măng về thị xã. Có hai vật gì đang di động trên đường cái, hai chiếc
xe tăng, chiếc nọ cách chiếc kia chừng dăm chục mét.
- Xe tăng của ta…
Một người tinh mắt nói to. Trung úy Phong giơ ống nhòm và chính anh
cũng nói:
- Xe tăng của ta anh ạ! Quái nhỉ, sao lại có xe tăng của ta từ phía ấy
chạy về?...
Anh trao ống nhòm cho tôi, tôi nhìn về đường cái. Hai chiếc xe tăng chạy
rầm rầm, nghiến xích trên mặt đường. Sườn xe đều có sơn ngôi sao vàng nền tròn
đỏ và tháp xe, lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới. Trên tháp xe đi đầu, tôi còn
nhìn rõ một người đeo AK ngồi giữ lấy cán cờ…
Một mối ngờ vực gieo vào lòng tôi. Tôi được nghe nhiều chuyện về bọn
Tàu thường đóng giả làm bộ đội ta để tập kích bất thình lình. Tôi bảo Phong:
- Cẩn thận, bọn nó ngụy trang giả là mình đấy. Đồng chí cho anh em về
vị trí sẵn sàng chiến đấu…
- Rõ!
Và Phong lệnh cho mọi người về vị trí. Tôi liếc nhìn tiểu đội tự vệ, mấy
cô mấy cậu đang tỳ súng lên chiến hào căng mắt ngó xuống đường…
Đúng là xe tăng Trung Quốc đóng giả thật. Chạy đến đầu thị xã, cả hai
dừng lại và bắn đại bác vào dãy phố hai bên đường. Tôi nghe có nhiều tiếng súng
con, tiểu liên và cả đại liên từ nhiều phía bắn lại. Nhưng đối với hai khối
thép khổng lồ ấy, các cỡ đạn của bộ binh đều không làm cho chúng bị xây sát.
Hai chiếc xe lại rùng rùng chuyển xích. Tôi hỏi Phong:
- Có B 40 không?
Phong lắc đầu:
- Đại đội tôi đến đại liên cũng chẳng có, lấy đâu ra B 40…
- Bên tự vệ có không?
- Không, bên ấy toàn CKC…
Như vậy thì không cách gì đánh lui được hai chiếc xe tăng kia. Chiếc
đi đầu chạy thêm một trăm mét nữa thì dừng lại trước một hiệu ảnh. Tôi biết đó
là hiệu ảnh của Voòng Cắm Sềnh. Tên cắm cờ ban nãy khi bị súng bộ binh của ta bắn,
nó chui tọt vào xe, nay lại từ trong xe chui ra. Ngọn cờ không còn nữa, tháp
pháo xe quay tròn và bắn liên hồi vào các trận địa trên sườn đồi…
Tôi thoáng trông thấy một bóng người từ trên nóc xe tăng tụt xuống đường.
Nó lom khom chạy vọt vào trong hiệu ảnh… Hình như có ai kêu to điều gì đó và
bên tôi, đại đội trưởng đang ra mệnh lệnh. Các chiến sĩ í ới gọi nhau và khi
nhìn lại đã thấy ba cái nòng cao xạ dài nghêu từ từ hạ xuống. Câu chuyện đùa
vui ban nãy lúc này đang được Phong thực hiện. Anh trực tiếp lấy phần tử bắn và
giơ cao cờ phất mạnh cho cả ba khẩu pháo nổ súng nhất loạt, mỗi khẩu bắn liền
năm phát… Mười lăm trái đạn cùng một lúc bay đi, nhằm thẳng chiếc xe tăng đi đầu
đang đỗ trước hiệu ảnh của lão Cắm Sềnh. Ít ra thì cũng có vai ba viên trúng
đích. Chiếc xe tăng rùng lên một cái như bị lay mạnh và một luồng khói bốc ra mờ
mờ đen đặc. Tháp pháo nổ tung, khó từ đó chui ra ngày một nhiều. Và cũng từ đó,
ba bốn tên địch cuồng cuồng vọt ra khỏi xe. Chúng la hét, kêu la điều gì đó và
chạy vội về phía sau, nơi có chiếc xe tăng thứ hai đang đậu. Chúng nhảy cả lên
nóc xe và nằm bẹp xuống. Ba cái nòng cao xạ chuyển làn về chiếc thứ hai, một loạt
đạn xé gió lao tới. Nó hốt hoảng, vội bỏ mặc đồng đội bị trọng thương, cuốn
xích lùi lại và thoắt một cái, nó dùng một bên xích làm trụ quay ngoắt lại , chạy
biến.
Chiếc xe thứ nhất bắt đầu phụt ra những lưới lửa. Lửa lem lém cháy
trên mình nó. Còn lúc ấy, tôi vẫn theo dõi cánh cổng nhà Cắm Sềnh, chờ đợi tên
địch vừa chui tọt vào đó quay lại. Mà nó quay ra thật, lần này tay nó cầm vật
gì trăng trắng như lá cờ. Nhìn thấy chiếc xe bốc cháy, nó đứng sững lại và giật
lùi ra xa. Một tiếng nổ rất lớn rồi tiếp những tiếng nổ khác bung ra, có lẽ những
trái đạn đại bác trong xe bén lửa.
Tôi vẫn bám chặt lấy tên địch đang rúm lại trước cửa nhà Cắm Sềnh. Khoảng
cách giữa nó và chiếc xe tăng cháy không xa nên khi đạn nổ, tôi thấy nó loạng
choạng – có lẽ nó bị mảnh đạn văng phải – tựa vào cây cột trước hiên nhà. Nó
khuỵu xuống và nằm vật ra. Cái mảnh trong tay nó văng sang một bên, bị hơi lửa
tạt lại bay lất phất như tàu lá chuối khô…
Buổi chiều, đại đội trưởng Phong cùng các khẩu đội trưởng kéo nhau xuống
phố. Họ đứng vây quanh chiếc xe tăng cháy, kiểm tra hiệu quả của mấy loạt đạn
cao xạ. Mấy anh bộ đội cười nói nhộn nhạo. Mới chỉ thử sức chơi chơi như vậy mà
thằng địch đã phải để lại cả cái khối thép đen xì nằm chềnh ềnh ra đó.
Tôi và Tú Hoa đi theo anh em. Chúng tôi đứng trước cửa nhà Cắm Sềnh,
ngôi nhà quen thuộc cũ. Xác tên địch nằm còng queo ngay đó, nơi trước kia có
treo hai khung kính lớn lồng các thứ ảnh mẫu. Chúng tôi nhận ra người quen cũ.
Voòng Chuýn, người con trai độc nhất của lão thợ ảnh, gã thanh niên đã có một
thời mơ tưởng đến cuộc sống huy hoàng vương giả ở Hồng Công, Úc và Ca-na-da.
Bây giờ thì gã nằm sóng sượt ngay trên mảnh đất đã sinh ra và nuôi dưỡng gã từng
ấy năm trời. Gã nằm đó, ruột thòi ra một đống đen đặc và tanh lợm, khuôn mặc
xưa kia đẹp đẽ, thanh tú nay biến dạng hẳn. Mái tóc dài của gã không còn nữa,
nó bị gọt trọc, ngắn cũn và lởm chởm như cái đầu ông sư phá giới. Ai đã biến gã
thành một tên biệt kích chuyên dẫn đường cho bọn giết người?
Chúng tôi phỏng đoán là khi theo địch về tới nhà, gã vội nhảy xuống để
tìm kiếm cha mẹ gã. Nhưng ngồi nhà này chẳng còn ai hết. Cha gã đang nằm trong
trại giam và mẹ gã đã theo mọi người sơ tạn về đâu chẳng biết. Di vật mà xưa
kia bố gã thường nâng niu là bức tranh Quan Công “thân tại Tào doanh, tâm tại
Hán”. Gã vào nhà thấy bức tranh đã vơ vội rồi chạy ra ngoài để đón nhận cái chết
từ mấy trái đạn của lính Trung Quốc. Bức tranh vẫn nằm bên xác gã, nó bị rách
mướp và hoen ố vết máu.
Hoặc có thể chính Lưu Nghị đã sai Voòng Chuýn về nhà lấy bức tranh mà
hắn vẫn hi vọng bản sơ đồ bí mật còn được giấu kín bên trong. Vậy thì gã chính ủy
này cũng có thể cùng ngồi với Voòng Chuýn trong chiếc xe tăng bị bắn cháy. Hắn
đã trốn khỏi cái chết trông thấy.
Đây mới là trận thử sức đầu nên hắn trốn thoát. Cuộc chiến đấu này
chưa chấm dứt, liệu hắn còn có thể trốn thoát mãi ư? Tôi nghĩ rằng đến một ngày
nào đó, tên biệt kích nguy hiểm ấy và đồng bọn của hắn sẽ phải trả giá trên những
tội ác mà chúng đã gây ra cho các dân tộc sống trên bán đảo này…
Mùa xuân 1986
HẾT.