GHI CHÉP VỀ
CAMPUCHIA (1975-1991) Huỳnh Anh Dũng
LỜI NÓI ĐẦU
Giai đoạn 1975-1991 là một thời kỳ
lịch sử đặc biệt về công tác đối ngoại của Việt Nam (VN) mà trong thời gian đó,
vì vấn đề Campuchia (CPC) liên quan đến quan đến quan hệ Việt-Trung, nước VN một
lần nữa lại bị chảy máu. Về đối ngoại, VN bị cô lập về chính trị, bị bao vây về
kinh tế trong khi đó chúng ta phải đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội
rất trầm trọng ở trong nước. Từ 1978 đến 1989, lần thứ ba, VN đưa quân vào CPC
(chưa kể thời gian ngắn quân ta lại trở lại từ tháng 10/1989 đến đầu 1991), trong
3939 ngày có mặt giúp CPC, hơn mười vạn chiến sĩ VN đã ngã xuống và bị thương
(con số hy sinh được công bố là 60.000), 200.000 chiến sĩ quân tình nguyện,
10.000 chuyên gia quân dân, chính, Đ__g, các ngành trong đó có 4 Uỷ viên Bộ
Chính trị (BCT) và Ban Bí thư (Lê Đức Thọ, Lê Đức Anh, Đoàn Khuê, Trần Xuân
Bách), 9 Uỷ viên Trung ương Đảng[Cộng sản Việt Nam] (Nguyễn Côn, Vũ Oanh, Bùi
San, Đỗ Chính, Trần Trọng Tân, Phạm Bái…), 2 Phó Thủ tướng (Nguyễn Côn, Phan Trọng
Tuệ), 30 Thứ trưởng, 54 Thường vụ Tỉnh uỷ đã từng có mặt và trực tiếp làm nhiệm
vụ ở CPC.
Với việc ta đưa quân vào CPC, ta
đã lật đổ bè lũ Pol Pot; giữ yên bờ cõi phía Tây- nam Tổ quốc; giúp CPC xây dựng
Đảng, chính quyền, quân đội; xây dựng được một bước quan hệ hữu nghị VN-CPC,
nhưng cái giá mà VN phải trả là vô cùng to lớn với những hậu quả lâu dài, chưa
lường hết được. Vấn đề CPC càng đi sâu vào giải pháp chính trị, càng rất phức tạp,
nhiều lúc đã làm cho nội bộ ta có ý kiến rất khác nhau.
Với những hiểu biết và tư liệu vốn
có của mình, tôi cố nhớ, ghi lại và mô tả thật khách quan, trung thực những diễn
biến trong giai đoạn lịch sử đặc biệt này.
Trong quá trình viết, có những
lúc tôi không muốn tiếp tục viết nữa vì hơn mười năm đó, vì vấn đề quan hệ với
Trung Quốc (TQ) và vấn đề CPC mà trong nội bộ Đảngta có sự bất hòa, điều này
cũng dễ hiểu vì vấn đề cực kỳ phức tạp, diễn biến vô cùng quanh co, lại phát
triển trong tình hình có sự đảo lộn cực kỳ to lớn ở Liên Xô và Đông Âu sau gần
nửa thế kỷ, cho nên việc nhận thức tình hình không đơn giản, có những vấn đề cần
có thời gian mới có thể nhận thức đúng được. Chính vì vậy, những trích dẫn của
tôi trong tài liệu này là nhằm phản ảnh thật khách quan những suy nghĩ của lãnh
đạo ta lúc đó, không nhằm phê phán cá nhân bất cứ đồng chí (đ/c) nào. Tôi cố gắng
trình bày lại thật trung thực sự hiểu biết của mình do điều kiện công tác mà
tôi được biết để khi có điều kiện, Đảngta nhìn lại, đánh giá thật khách quan diễn
biến của hơn mười năm vô cùng khó khăn đó nhằm rút ra những bài học cho công việc
hiện nay và sau này nhất là trong công tác đối ngoại.
Tài liệu lịch sử này, tôi cố viết
… lại trong thời điểm hiện nay vì rằng sợ để lâu không thể nhớ lại được nữa và
tư liệu có thể mất mát đi. Điều tôi mong muốn là những tư liệu lịch sử này sẽ
được sử dụng để ta đánh giá đúng diễn biến phức tạp của thời kỳ lịch sử đó,
không để vì những tư liệu này mà lại một lần nữa, khơi lại hoặc gây bất hòa
trong nội bộ Đảngta. Đó là điều tâm huyết của tôi.
I. GIAI ĐOẠN 1975-1978: NGUỒN GỐC
CỦA VẤN ĐỀ
Trước khi đi vào giai đoạn 1975-1978,
cần nhắc lại những diễn biến trong quan hệ VN-CPC giai đoạn chống Mỹ 1970-1975.
VN, CPC, Lào cùng một chiến trường đánh Mỹ nhưng quan hệ VN-CPC, ngay từ lúc
này khi 2 nước còn dựa vào nhau chiến đấu, đã bộc lộ những mâu thuẫn. Sau đảo
chính của Lon Nol (18/3/1970, khi quân đội ta vào CPC, bọn Pol Pot đã tuyên
truyền trong nhân dân CPC rằng “VN là khách không mời mà đến”, không cho ta
đóng quân trong làng... Tại những cuộc hội đàm giữa Pol Pot với đ/c Lê Duẩn vào
cuối tháng 3 đầu tháng 4/1970 về việc ta giúp CPC thì ngay từ lúc này khi Pol
Pot còn yếu, cần sự giúp đỡ của ta, Pol Pot đã có ý muốn hạn chế sự có mặt của
ta ở CPC, hạn chế lực lượng vũ trang ta ở CPC, ngăn cản ta trong việc tổ chức
xây dựng lực lượng chính trị, quân sự cho CPC…, muốn “VN chỉ giúp vật chất,
giúp vũ khí thôi”, “Việt kiều chỉ giúp vận chuyển vũ khí”; trong chiến đấu “VN
giúp súng cối và có lực lượng bao vây bên ngoài, hỗ trợ nhân dân và lực lượng
CPC bên trong nổi dậy, làm như thế mới bảo đảm “sạch sẽ về chính trị”.
Trên chiến trường trong tháng 3,
4/1970, do có sự thoả thuận của Nuon Chea và Suvanna , quân đội ta ở CPC đánh mạnh
thắng nhanh, giải phóng và tổ chức chính quyền ở 4-5 tỉnh. Trước tình hình đó,
tại Hội nghị Trung ương Đảngtháng 9/1970, Pol Pot đề ra 4 bài học “kinh nghiệm
thất bại” của cách mạng CPC trong kháng chiến chống Pháp và “kinh nghiệm thành
công” trong 16 năm hòa bình, trung lập để hạn chế ta. Bốn bài học đó là:
1. Phải tự mình quyết định vận mệnh mình, quyết không được để cho
sai lầm lịch sử để cho người khác giải quyết thay vận mệnh mình xẩy ra một lần
nữa.
2. Kiên quyết không được giao lại thành quả cách mạng tốt đẹp của
mình cho giai cấp bóc lột. Hiện nay những cường quốc lớn và một số nước khác
còn có tư tưởng cũ vẫn muốn và đương cố tìm trăm phương nghìn kế để quyết định
vận mệnh dân tộc CPC thay cho người CPC.
3. Lực lượng là yếu tố quyết định quan trọng nhất trong đấu tranh
cách mạng.
4. Phải nêu cao lập trường độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh.
Vì không có 4 kinh nghiệm đó nên
kết quả kháng chiến chống Pháp bằng không. Trong đấu tranh vì độc lập, hòa
bình, trung lập, tuy CPC làm đơn độc mà vẫn thắng, nhờ: “nắm vững lập trường độc
lập dân chủ, tự lực cánh sinh và chịu đựng gian khổ; tự xây dựng được lực lượng
cách mạng của mình về mọi mặt và giữ vững lập trường tự mình định đoạt vận mệnh
của mình”.
Bài học lực lượng là quyết định,
không thương lượng, không khoan nhượng này chi phối rất sâu sắc đường lối của
Khmer Đỏ. Thắng lợi chống Mỹ chỉ bằng đấu tranh vũ trang không đấu tranh chính
trị, không đấu tranh ngoại giao đã củng cố thêm tiềm thức của Khmer Đỏ về vấn đề
này. Điều này mới lý giải được tại sao sau này Pol Pot kiên quyết từ chối không
thương lượng với VN và vì sao mặc dù đã ký Hiệp định Paris về Campuchia năm
1991 nhưng Khmer Đỏ lại không thi hành.
Từ sau Hội nghị tháng 9/1970,
trong thực tế, nhóm Pol Pot đã từng bước hạn chế hoạt động của lực lượng VN
trên đất CPC như: gây khó khăn và hạn chế hành lang tiếp tế của ta trên đất
CPC, hạn chế nhân dân bán lúa gạo cho ta, hạn chế bộ đội ta hợp tác đánh Chenla
I năm 1971 phối hợp chiến dịch đường 9 Nam Lào, có nơi đã giết liên lạc, giết
cán bộ VN đi lẻ và tổ chức cướp kho tàng ta ở CPC nhất là khu Tây-nam CPC do Ta
Mok đứng đầu, có lúc lực lượng hai bên đã bắn nhau như ở các tỉnh Takéo,
Kandal… Họ giải tán lực lượng vũ trang của Việt kiều, hạn chế Việt kiều hoạt động
cách mạng, có nơi gây khó khăn và đuổi Việt kiều về nước, giết hại và cướp tài
sản Việt kiều, Lon Noi đã “cáp Duôn” nhưng Khmer Đỏ cũng kích động hằn thù dân
tộc và cũng chủ trương “cáp Duôn”. Họ hạn chế hoạt động của số cán bộ CPC tập kết
ở VN về, tập trung lại và diệt dần. Họ bỏ chính sách đối với vợ con cán bộ CPC
đang ở miền bắc VN. Một số cán bộ CPC có quan điểm khác, có thái độ chống lại
thì bị trấn áp, buộc phải ly khai tổ chức.
1.1 Từ 1973 đến 17/4/1975
Trong khi cuộc kháng chiến VN,
Lào đi vào giai đoạn kết thúc thì CPC quyết đánh đến cùng; đánh để nổi bật vai
trò cuộc kháng chiến CPC thật sự là Khmer chứ không phải lệ thuộc VN. Họ chủ
trương không đàm phán, cho rằng không muốn “làm cái đuôi VN” và ngại “kiểu
Gienève 1954 tái diễn”. Sau khi Mỹ đơn phương ngừng ném bom bằng B-52 (8/1973),
cuộc chiến đấu đã chắc chắn, nhóm Pol Pot chủ tâm hạn chế ảnh hưởng và hoạt động
của Sihanouk ; kiên quyết đẩy lực lượng VN ra khỏi đất CPC, phá hành lang tiếp
tế, hạn chế bán lương thực cho ta, tổ chức quần chúng làm mít tinh chống VN,
đòi lực lượng VN rút về, đánh cướp các kho tàng và các đơn vị bộ đội ta ở CPC,
thậm chí đánh vào trại thương binh của ta… gây khó khăn cho ta trong việc di
chuyển quân trong chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975.
Tính từ 1970 đến 4/1975, bọn Pol
Pot đã gây ra 174 vụ làm ta chết 301 người, 233 bị thương, 38 mất tích. Nơi nào
không chấp hành việc chống VN thì họ tàn sát khủng bố dã man, như cuối 1973 đã
giết chết 1 Uỷ viên Trung ương, 11 tỉnh uỷ viên, rất nhiều cán bộ và nhân dân ở
tỉnh Koh Kong.
Về mặt đối ngoại, họ dựa vào TQ
là chính, phê phán VN xét lại, nửa vời và cố đưa ra thực hiện những chủ trương
hoàn toàn khác VN; họ phê phán phương châm đấu tranh của VN kết hợp vũ trang với
đấu tranh chính trị, binh vận trong khi họ đánh đến đâu thì di dân đến đấy, giết
hết tù binh, thực hiện công xã và không dùng tiền ngay từ năm 1974; họ không
quan hệ với Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu (trừ Anbani và Rumani); trong khi
3 nước Đông Dương đã có Hội nghị cấp cao 3 nước, 4 bên (thêm Chính phủ Cách mạng
lâm thời miền Nam) thì họ muốn họp Hội nghị 5 nước, 6 bên (thêm TQ và Bắc Triều
Tiên) với ý đồ để TQ nắm ngọn cờ.
1.2 Năm 1975 – 1976
Sau chiến thắng 17/4/1975, bọn
Pol Pot đã nêu 8 yếu tố thắng lợi là: có đường lối chung, có nhân dân, có lực
lượng vũ trang, có kinh tế độc lập, tự chủ, có cơ sở cách mạng rộng khắp, có đường
lối độc lập tự chủ, không liên kết, nội bộ đoàn kết nhất trí và có quốc tế giúp
đỡ. Họ cố tình phủ nhận các yêu tố khách quan và bối cảnh lịch sử quốc tế đối với
chiến thắng của CPC; đặc biệt là không đếm xỉa đến sự giúp đỡ về mọi mặt của
ta, kể cả sự hy sinh của hàng vạn cán bộ, chiến sĩ, đồng bào ta trên đất CPC.
Trong bối cảnh như vậy, ngay sau khi ta vừa giải phóng miền Nam 30/4/1975, họ
đã tiến hành những hành động xâm lấn biên giới và không ngừng làm xấu đi quan hệ
2 nước.
Ngày 4/5/1975, một tiểu đoàn CPC
đổ bộ lên đảo Phú Quốc. Ngày 8/5/1975, lực lượng Pol Pot tiến công nhiều địa
phương thuộc tỉnh Hà Tiên và Tây Ninh. Ngày 10/5/1975, lực lượng Pol Pot tiến
công đảo Thổ Chu của VN và bắt đi 515 dân trên đảo. Thực hiện quyền tự vệ của
mình, quân đội ta đã đánh trả và truy kích chúng đến tận nơi xuất phát là đảo
Wai, bắt giữ một số tù binh.
Ngày 2/6/1975, đ/c Mười Cúc (Nguyễn
Văn Linh) đi Phnom Penh gặp Pol Pot, Nuon Chea và Ieng Sary . Ngày 12/6/1975,
Pol Pot thăm bí mật Hà Nội, cho việc họ tấn công đảo Thổ Chu là do “không rành
địa lý”, đề nghị ký Hiệp ước hòa bình hữu nghị nhưng lờ đi đề nghị của ta về
đàm phán ký Hiệp ước biên giới. Ngày 3/7/1975, đ/c Nguyễn Văn Linh gặp lại Nuon
Chea ở Phnom Penh và ngày 10/8/1975, đ/c Nguyễn Văn Linh một lần nữa đi Svay
Rieng gặp Nuon Chea để xử lý vụ đảo Wai và về quan hệ 2 nước, ta đồng ý trao trả
số tù binh CPC (800 lính) bị ta bắt ở đảo Wai nhưng phía họ vẫn không trao trả
cho ta 515 dân bị bắt ở Thổ Chu.
Trong bối cảnh đó, ngày
26/5/1975, Pol Pot đi thăm bí mật TQ (mãi đến tháng 9/1977, họ mới công khai
chuyến đi này). Ngày 12/8/1975, TQ đón tiếp trọng thể Khieu Samphan thăm chính
thức TQ. Dịp này, Mao và Đặng đã tiếp Khieu; trong diễn văn chiêu đãi Khieu, Đặng
ám chỉ Liên Xô bành trướng và tìm sự có mặt ở Đông-nam Á. Trong lúc đó, khi tiếp
đ/c Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị (14/8/1975), Phó Thủ tướng Lý Tiên Niệm nói nhiều
đến khó khăn của TQ, không đáp ứng yêu cầu viện trợ mới, chưa trả lời về hợp
tác kinh tế 1976- 1980 và nói là VN đã thu được 5 tỷ đô la chiến lợi phẩm.
Ngày 24/9/1975, trong hội đàm với
đoàn Đảngvà Chính phủ ta thăm TQ, Đặng Tiểu Bình nói “…Về nhận định tình hình
quốc tế, hai bên có khoảng cách khá xa; về đường lối chiến lược quốc tế hoặc về
những vấn đề cụ thể, hai bên có sự khác nhau rất lớn”; và TQ bắt đầu công khai ủng
hộ nhóm Pol Pot, ngày 7/10/1975, Lý Tiên Niệm nói với Đại sứ Vũ Ngọc Hồ (chính
phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam VN) ca ngợi ĐảngCPC và nói ĐảngCPC có uy tín
cao trong nhân dân, cứ đè nén thì họ không chịu đâu, một dân tộc giác ngộ, bất
cứ nước lớn nào xâm lược thì họ chống lại vì trong tay họ có chân lý.
Từ tháng 12/1975, tình hình biên
giới VN-CPC lại căng lên ở Gia Rai, Kon Tum và Đắk Lắk nhất là khu vực Bu Prang
(nay thuộc tỉnh Đắk Nông). Bọn Pol Pot tiến hành tấn công vào đồn số 6 công an
biên phòng ở Đắk Lắk, giết hại một số đ/c của ta.
Ngày 5/1/1976: Pol Pot công bố Hiến
pháp mới của CPC Dân chủ. Cũng ngày 5/1/76, đ/c Phạm Văn Xô (Hai Xô) ở Trung
ương Cục (TWC) sang Phnom Penh thăm bí mật. Ngày 17-18/1/1976, đ/c Bảy Cường
(Phạm Hùng) sang thăm bí mật CPC được Pol Pot, Nuon Chea, Ieng Sary đón tiếp rất
trọng thể.
Cần phải nói rằng cũng giống như
TQ, bọn Pol Pot tìm cách chia rẽ nội bộ ta, rất tranh thủ các đồng chí miền Nam
(TWC) và phê phán các đ/c miền Bắc. Mặt khác, trong nội bộ ta, TWC miền Nam và
Trung ương ĐảngHà Nội cũng có cách đánh giá khác nhau về tập đoàn Pol Pot, về
tính chất cuộc chiến tranh biên giới ở Tây-nam. Về cuộc chiến tranh ở biên giới
Tây-nam, TWC nặng cho rằng nguyên nhân là do địa phương ta xâm phạm biên giới
CPC, do buôn lậu chứ không phải do Pol Pot khiêu khích. Cũng chính vì vậy mà ở
trong Nam thiếu cảnh giác, bị thiệt hại nặng khi Pol Pot tấn công, ví dụ ngày
30/9/1977, Pol Pot tiến công toàn tuyến biên giới tỉnh Tây Ninh, đánh vào khu vực
TWC cũ (xã Tân Lập, huyện Tân Biên, Tây Ninh) giết hại 1.000 đồng bào ta; mặc
dù tin này được dự báo trước nhưng Quân khu 7 không tin, nói là chỉ chuyện vặt ở
biên giới, Tư lệnh Quân khu 7, Tướng Trần Văn Trà vẫn bình thản ở thành phố Hồ
Chí Minh, khi bị tấn công mới bị động đối phó. Nhân đây cũng nói thêm rằng khi
thành lập và tổ chức bộ máy giúp CPC năm 1978, đ/c Lê Đức Thọ không sử dụng các
cán bộ TWC cũ vốn quen thuộc và giúp ĐảngCPC từ nhiều năm mà tuyệt đại đa số
các đ/c phụ trách chuyên gia, đều là các đ/c mới, ở miền Bắc vào.
Trở lại vấn đề biên giới VN-CPC,
tiếp theo những sự kiện xung đột ở Đắk Lắk, tháng 3/1976, Nuon Chea, Phó Bí thư
ĐảngCPC gửi thư cho đ/c Phạm Hùng đề nghị có cuộc gặp cấp cao 2 Đảngvề vấn đề
biên giới và đề nghị có cuộc gặp trù bị để chuẩn bị cho gặp cấp cao. Ngày
6/4/76, Trung ương Đảngta điện cho Trung ương ĐảngCPC tán thành đề nghị đó và
thoả thuận cuộc gặp sẽ tiến hành vào tháng 6/76. Từ 4 đến 18/5/1976, đ/c Phan
Hiền, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao dẫn đầu đoàn trù bị VN thăm CPC; tại cuộc họp
trù bị này, phía Pol Pot đòi lấy đường biên giới trên đất liền theo bản đồ Pháp
tỷ lệ 1/100.000 thông dụng trước năm 1954 nhưng đòi ta chấp nhận bản bản đồ đã
bị cạo sửa 9 chỗ và đòi lấy đường Brévié làm đường biên giới biển nên cuộc đàm
phán thất bại và không tiến hành được gặp gỡ cấp cao 2 Đ__g. Hai bên chỉ thoả
thuận được 3 biện pháp: tăng cường giáo dục cán bộ, chiến sĩ và nhân dân; mọi
va chạm phải giải quyết trên tinh thần hữu nghị, đoàn kết, tôn trọng lẫn nhau;
Ban liên lạc 2 bên tiến hành điều tra các vụ va chạm và gặp nhau để giải quyết.
Cũng năm 1976, có mấy sự kiện nữa
đáng chú ý:
Trong nội bộ CPC: tháng 1/1976,
Pol Pot tiến hành Đại hội IV của Đ__g; tổ chức tổng tuyển cử (20/3/1976); ép
Sihanouk và Pen Nút từ chức Quốc trưởng và Thủ tướng, lập Chính phủ mới. Ngày
27/9/1976, Pol Pot tạm nghỉ vì “lý do sức khoẻ” thôi giữ chức Thủ tướng và Nuon
Chea làm Quyền Thủ tướng và Quyền Tổng bí thư. Phải chăng có đấu tranh nội bộ
CPC? Điều này gây nhiều tranh luận trong các cơ quan Trung ương của ta theo dõi
vấn đề CPC, có ý kiến cho rằng có đấu tranh giữa một bên là Pol Pot, Ieng Sary
còn bên kia là Nuon Chea, Suvanna vốn có quan hệ tốt với VN. Điều trùng hợp nữa
là sự kiện này diễn ra khi Mao Trạch Đông chết (9/9/1976) và sự kiện “bè lũ 4
tên” ở TQ, phía CPC tổ chức 7 ngày quốc tang, Pol Pot đọc diễn văn coi tư tưởng
Mao Trạch Đông là chủ nghĩa Marx-Lenin ngày nay, đề cao thuyết 3 thế giới và đề
cao công lao Mao Trạch Đông đồng thời phê phán Lâm, Lưu, Đặng. Một nguồn tin
khác nói sự thật việc Pol Pot “nghỉ ốm” chỉ để về Kompong Thom trấn áp lực lượng
chống đối và củng cố căn cứ chúng ở đây (Kompong Thom cũng là quê Pol Pot).
Quan hệ CPC-TQ vốn chặt chẽ trong
những năm 1970-1975 tiếp tục được đẩy mạnh với việc Tổng tham mưu phó TQ Vương
Thượng Vinh thăm CPC (2/1976), ký Hiệp định TQ viện trợ quân sự cho CPC và
tháng 3/1976 ký Hiệp định Chính phủ TQ viện trợ không hoàn lại cho CPC trị giá
140 triệu Nhân dân tệ và 20 triệu USD. Trong khi đó, quan hệ Việt-Trung lạnh nhạt
dần, TQ không thực hiện các công trình đã ký kết, trì hoãn việc ta sử dụng tiền
vay của TQ đồng thời trong năm 1975, lại gây ra vi phạm 814 vụ ở 102 điểm trên
biên giới 2 nước. Dịp Đại hội IV Đảngta (12/1976), TQ từ chối cử đoàn sang dự,
đưa tin sơ sài, điện mừng không ca ngợi Đảngta.
Quan hệ Việt-Mỹ có điểm đáng chú
ý là 10/01/1976, Liên Xô chuyển cho ta ý kiến của Kissinger về bình thường hóa
quan hệ và ngày 26/3/1976, Kissinger gửi công hàm cho VN bày tỏ Mỹ sẵn sàng thảo
luận phát triển quan hệ với VN và 15/11/1976, Mỹ phủ quyết VN gia nhập LHQ. Ở
Đông-nam Á, các nước ASEAN họp Hội nghị cấp cao lần thứ nhất ở Bali và ký Hiệp
ước Bali (23/01/1976). Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN (24/6/1976) hoan ngênh VN thống
nhất và hy vọng phát triển quan hệ tay đôi với VN. Về phần VN, ngày 5/7/1976,
ta tuyên bố chính sách 4 điểm với các nước Đông-nam Á, nội dung như sau:
1. Tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau,
không xâm lược, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng
có lợi, cùng tồn tại hòa bình.
2. Không để lãnh thổ nước mình cho bất cứ nước ngoài nào sử dụng
làm căn cứ xâm lược và can thiệp vào nước kia và các nước khác trong khu vực.
3. Thiết lập quan hệ hữu nghị láng giềng tốt, hợp tác KHKT và
trao đổi văn hoá trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi. Giải quyết các vấn đề tranh
chấp giữa các nước trong khu vực thông qua thương lượng trên tinh thần bình đẳng,
hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau.
4. Phát triển sự hợp tác giữa các nước trong khu vực vì sự xây dựng
đất nước phồn vinh theo điều kiện riêng của mỗi nước vì lợi ích độc lập dân tộc,
hòa bình, trung lập thật sự ở Đông-nam Á, góp phần vào hòa bình thế giới.
Bốn điểm đó bao hàm ý của ta
không chấp nhận khái niệm ZOPFAN và ta (cũng như Liên Xô) vẫn cho ASEAN là tổ
chức quân sự, tay sai Mỹ trong khi đó TQ ra sức tranh thủ ASEAN, công khai
tuyên bố “ASEAN không phải là một liên minh quân sự”. Tình hình này diễn ra khi
TQ bắt đầu công khai coi “chủ nghĩa bá quyền Liên Xô là nguồn gốc chính của sự
đe dọa đối với Đông-nam Á ” và phê phán luận điểm an ninh tập thể châu Á của
Báo cáo chính trị tại Đại hội 25 của ĐảngCộng sản Liên Xô tháng 3/1976).
1.3 Năm 1977:
Quan hệ VN-Campuchia, VN-TQ ngày
càng xấu đi. Bước sang năm 1977, tình hình biên giới Việt Nam-CPC tiếp tục ngày
càng xấu hơn do những hành động khiêu khích, xâm lấn của bọn Pol Pot. Từ giữa
tháng 1/1977 đến giữa 3/1977, các tỉnh Đông-bắc CPC chấm dứt tiếp xúc với các
Ban liên lạc của các tỉnh Khu 5 và từ cuối tháng 3/1977 đến giữa 5/1977 chấm dứt
liên lạc với Ban liên lạc các tỉnh Nam bộ (cơ chế liên lạc tiếp xúc này có từ
1975 và được củng cố sau chuyến đi CPC của Thứ trưởng Phan Hiền tháng 5/1976).
Ngày 30/4/1977, bọn Pol Pot đồng
loạt tiến công 14 xã trên toàn tuyến biên giới tỉnh An Giang mở đầu cuộc chiến
tranh qui mô lớn biên giới Tây-nam nước ta.
Trước tình hình nghiêm trọng đó
ngày 7/6/1977 Trung ương Đảngvà Chính phủ VN gửi thư cho Trung ương Đảngvà
Chính phủ CPC đề nghị có cuộc gặp cấp cao Đảngvà Chính phủ 2 nước để giải quyết
vấn đề biên giới. Ngày 18/6/1977, phía CPC gửi thư trả lời Trung ương Đảngvà
Chính phủ ta: “...chờ một thời gian cho tình hình bình thường trở lại và những
xung đột ở biên giới được chấm dứt… sẽ gặp gỡ cấp cao”. Một mặt từ chối thương
lượng, mặt khác bọn Pol Pot điên cuồng tấn công biên giới ta. Ngày 18/7/1977,
chúng đồng loạt tấn công trên chiều dài 40 Km vào tỉnh Kiên Giang, pháo kích
nhiều lần vào thị xã Châu Đốc. Trên trường quốc tế, họ ra sức vu cáo VN; phát
biểu ở ĐHĐ/LHQ, Ieng Sary ám chỉ VN xâm lược CPC. Ngày 26/9/1977, sau một thời
gian “nghỉ ốm” Pol Pot xuất hiện trở lại tuyên bố Đảngra công khai và đi thăm hữu
nghị chính thức TQ ngay và được đón tiếp rất linh đình. Cùng lúc này, bọn Pol
Pot cho một lực lượng lớn tiến đánh toàn bộ tuyến biên giới tỉnh Tây Ninh, sát
hại rất dã man đồng bào ta ở biên giới.
Cũng lúc này, quan hệ Việt-Trung
ngày càng xấu đi. Ngày 2-20/6/1977, đoàn quân sự ta do đ/c Võ Nguyên Giáp dẫn đầu
thăm TQ, TQ nói gay gắt là ta đã làm tổn thương quan hệ 2 nước. Ngày 7-
10/6/1977, Thủ tướng Phạm Văn Đồng thăm các nước Bắc Âu về qua Bắc Kinh, TQ
trao bị vong lục 7 điểm: VN công khai nói xấu TQ; vấn đề biên giới trên bộ; điểm
nối ray đường sắt VN-TQ; 2 quần đảo; vịnh Bắc bộ; Hoa kiều ở VN; VN dùng vấn đề
lịch sử để chống TQ. Ngày 20/11/1977, đoàn Đảngvà Chính phủ ta do đ/c Lê Duẩn dẫn
đầu thăm TQ. TQ đón tiếp và hội đàm lạnh nhạt. TQ nhắc lại thuyết “3 thế giới”,
từ chối việc ta yêu cầu viện trợ 50 vạn tấn thép. Trong khi đó, quan hệ CPC-TQ
tiếp tục được tăng cường, tháng 12/1977, Phó Thủ tướng TQ Trần Vĩnh Quý thăm
CPC, đi thị sát tất cả các quân khu giáp biên giới với VN.
Lúc này chúng ta nhận định TQ vừa
tranh thủ, vừa kiềm chế ta mặc dù mặt kiềm chế nổi lên nhưng TQ không thể đẩy
VN đi hẳn với Liên Xô, bất lợi cho TQ. Trong khi quan hệ với CPC xấu đi, ta chủ
trương tăng cường quan hệ với Lào, ký Hiệp ước hòa bình, hữu nghị, hợp tác với
Lào 18/7/1977 và đưa quân trở lại Lào. Cần nhớ lại rằng ngày 5/2/1976, đoàn Đảngvà
Chính phủ Lào thăm VN, khi hội đàm 2 BCT, phía Lào nêu vấn đề biên giới nói
phân định nhiều nơi chưa rõ và yêu cầu VN rút quân tình nguyện khỏi Lào. Ta đáp
ứng và hoàn thành việc rút quân vào tháng 4/1976. Tháng 12/1976, hội đàm 2 BCT ở
Đồ Sơn, lúc này bọn phỉ Lào tăng cường hoạt động uy hiếp mạnh các đ/c Lào nên một
lần nữa Lào lại yêu cầu VN đưa quân trở lại.
Trong quan hệ với Mỹ, tháng
1/1977, Carter nhậm chức Tổng thống; Đại sứ Mỹ ở LHQ A. Young nói: Tôi coi VN
như Nam Tư ở châu Á, không phải là một bộ phận của TQ hay Liên Xô, là một nước
độc lập. Một nước VN mạnh và độc lập là phù hợp với lợi ích quốc gia của Mỹ.
Ngày 16/3/1977, L. Woodcock, đặc phái viên của Tổng thống Mỹ thăm VN. Phía Mỹ
nêu vấn đề MIA, phía VN nêu vấn đề thực hiện điều 21 Hiệp định Paris. Ta và Mỹ
cũng tiến hành 3 vòng hội đàm về bình thường hóa quan hệ 2 nước (3/5/1977,
1/6/1977, 19/12/1977) nhưng không kết quả; tuy nhiên, Mỹ thôi không phủ quyết
việc VN gia nhập LHQ.
Trong tình hình quá phức tạp như
vậy ở CPC, Ban Bí thư [TW ĐCS VN] quyết định lập “Tiểu ban lâm thời nghiên cứu
vấn đề CPC” gọi tắt là “Nhóm 77″ do đ/c Trần Xuân Bách, Chánh Văn phòng Trung
ương phụ trách; tham gia có các đ/c [Trung tướng] Trần Văn Quang (Bộ Quốc
phòng), Phan Đình Vinh (Ban Đối ngoại Đ__g), Nguyễn Xuân (Bộ Ngoại giao). Sau một
thời gian nghiên cứu, Tiểu ban này đã kết luận và kiến nghị như sau:
“I. …Có thể nhận định: ĐảngCPC hiện
nay với tên gọi chính thức là ĐảngCộng sản CPC, về thực chất, không phải là một
Đảngcách mạng của giai cấp công nhân theo chủ nghĩa Marx-Lenin, mà có tính chất
một Đảngdân tộc chủ nghĩa tiểu tư sản nông dân. Đường lối chính trị mà nhóm Pol
Pot – Ieng Sary đương thực hiện hoàn toàn không phải là đường lối độc lập, tự
chủ, mà là đường lối theo đuôi nước lớn, là sản phẩm và sự biến dạng của tư tưởng
Mao Trạch Đông. “Chủ nghĩa xã hội” hiện nay ở CPC không có những yếu tố cơ bản
của thời kỳ quá độ tiến lên CHXN, không phải là chuyên chính vô sản, không có
chính quyền nhân dân mà là một thứ chế độ bắt buộc lao động theo kiểu nô lệ, bắt
buộc công hữu hóa theo lối quân sự cưỡng bức, vừa dã man, vô nhân đạo, vừa có
tính chất thực dụng tiểu tư sản (cưỡng bức di tản, xóa sạch để bảo đảm an ninh
và để dễ “cải tạo”). Trước mắt, trong đường lối chính trị và tổ chức của ĐảngCPC,
những nhân tố tích cực (chống đế quốc, đoàn kết Đông Dương, hữu nghị với VN,
đoàn kết nội bộ để xây dựng xã hội tiến bộ ở CPC…) đương mất đi, những nhân tố
tiêu cực, phản động đương phát triển và chiếm ưu thế, tác động và sự chi phối của
các thế lực đế quốc và bành trướng từ ngoài vào CPC đương tăng lên.
II. Đất nước CPC đương ở trong
cơn khủng hoảng nghiêm trọng, nhân dân CPC đương bị sống trong một trại tập
trung khổng lồ; hình ảnh ĐảngCộng sản và CNXH đương bị bôi nhọ, bị nhân dân khiếp
sợ, thành quả cách mạng CPC có nguy cơ tổn thất lớn. Tâm trạng của số đông quần
chúng CPC hiện nay là lo sợ, chán ngán, hoặc chịu đựng để sống yên, hoặc có cơ
hội thì chạy sang nước bạn mong có nơi nương tựa. Một bộ phận nhỏ cơ hội bám
vào chính quyền hiện nay để có quyền lợi và bảo đảm cho sinh mệnh của gia đình.
Gần đây nhiều nhóm ly khai, chống đối đương phát triển ở trong nước hoặc lưu
vong. Trong số những người đã chạy sang ta, đã thấy có những tập thể nhỏ, lẻ tẻ
hoặc tập thể lớn quần chúng hoặc binh lính CPC, trong đó có một số cán bộ, Đảngviên
CPC có nguyện vọng được tổ chức lại, được giúp đỡ để cứu vãn cách mạng CPC. Xen
lẫn vào những người này cũng có những tên trá hàng, những kẻ cơ hội, những phần
tử mật vụ, gián điệp.
Trước tình hình ấy, Đảngta, một Đảngluôn
luôn đứng vững trên lập trường quốc tế vô sản nhất định phải có thái độ và chủ
trương, hành động thích hợp với trách nhiệm quốc tế và điếu kiện cụ thể của
mình. Ta coi tổn thất hoặc thành công của cách mạng CPC, của nhân dân CPC cũng
như của bản thân cách mạng ta, nhân dân ta. Hơn nữa, một nước CPC tách ra khỏi
khối đoàn kết Đông Dương, trở thành lực lượng xung kích của một chiến lược phản
động ở Đông Nam Á, đối lập, gây chiến với ta, thực sự là mũi dao nhọn thọc vào
sườn ta và uy hiếp nước Lào. Vận mệnh của nhân dân 3 nước Đông Dương, sự nghiệp
độc lập dân tộc và CNXH của nhân dân 3 nước gắn bó với nhau. Đoàn kết, giúp đỡ
nhau, cùng nhau xây dựng đất nước, xây dựng hạnh phúc của nhân dân mình theo đường
lối của mối Đ__g, cùng nhau tiếp tục chống chủ nghĩa đế quốc, là yêu cầu sống
còn và qui luật phát triển khách quan của cách mạng ở 3 nước trên bán đảo Đông
Dương. Lập trường của Đảngta đối với vấn đề Campuchia là:
Kiên quyết đánh trả quyết liệt bằng
những đòn tiêu diệt đối với những lực lượng CPC khiêu khích vũ trang, gây rối,
xâm lấn biên giới ta, tàn sát nhân dân ta. Phối hợp đấu tranh quân sự, chính trị,
ngoại giao để thắng địch; hạn chế và đẩy lùi mọi âm mưu bên ngoài; kiên trì bảo
vệ tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân VN và nhân dân CPC.
Tích cực ủng hộ, giúp đỡ và bảo vệ
những lực lượng CPC yêu nước và cách mạng chân chính xây dựng thực lực và phát
triển cuộc đấu tranh chính nghĩa chống lại nhóm cầm đầu theo chủ nghĩa dân tộc
cực đoan tiểu tư sản trong ban lãnh đạo CPC, nhằm cứu vãn cách mạng CPC, khôi
phục mối quan hệ đặc biệt giữa CPC và VN.
Cảnh giác ngăn ngừa và phá mọi
mưu mô và hành động nguy hiểm, cấu kết với nhau giữa đế quốc, thế lực bành trướng
và nhóm cầm đầu cực đoan trong ban lãnh đạo CPC đương khoét sâu hằn thù dân tộc,
chia rẽ nhân dân 3 nước, cô lập VN, duy trì và mở rộng chiến tranh biên giới,
phá hoại an ninh và sự nghiệp xây dựng kinh tế của VN và của Lào.
● Mọi
hoạt động của ta phải nhằm bốn yêu cầu chính trị:
● Bảo
vệ bằng được nhân dân ta;
● Đánh
mạnh để trừng phạt bọn lấn chiếm và giết hại dân ta;
● Lấy
lại đất bị lấn chiêm, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ;
● Phá
âm mưu chia rẽ nhân dân hai nước, cô lập bọn phản động.
Cần triển khai nhanh và đồng thời
bốn mặt công tác chính:
Phòng thủ thật vững, phản công và
tiến công thật mạnh về quân sự trên toàn tuyến biên giới, củng cố thật chắc an
ninh nội địa, từng bước làm nhụt, tiến tới đạp tan ý chí xâm lấn biên giới của
nhóm lãnh đạo CPC. Trên thực địa toàn tuyến biên giới và ở những tỉnh, huyện có
biên giới, cần xây dựng hệ thống ấp, xã chiến đấu, cần áp dụng những chính sách
và tổ chức thích hợp với tình thế có chiến tranh biên giới. Phải xây dựng khẩn
trương sức mạnh tại chỗ, sẵn sàng chiến đấu và cảnh giác thường xuyên, tổ chức
mạng lưới phong gian nhân dân, quân báo nhân dân, mạng lưới dân vận và địch vận.
Kiên quyết không để lọt một tên gián điệp, một tên quân xâm lấn CPC, đồng thời
không làm hai tính mệnh và tài sản của một người dân CPC.
Triển khai công tác ngoại giao
trên thế tiến công. Ta nắm chính nghĩa, ta thủy chung đoàn kết hữu nghị, ta
không gây ra xung đột biên giới, ta có quyền trừng phạt bọn lấn chiếm, bọn giết
người. Ta ở thế mạnh về ngoại giao vì ta đúng và nhân đạo. Phương hướng tiến
công ngoại gian là: nói rõ sự thật, chính sách đúng đắn của ta trong quan hệ với
CPC và trong việc giải quyết vấn đề biên giới, tranh thủ dư luận đồng tình ủng
hộ ta, đẩy đối phương vào thế bí, cô lập đối phương trước thế giới, chủ động
ngăn chặn những mưu đồ bên ngoài giật dây đối phương hoặc can thiệp vào nội bộ
CPC.
Giúp đỡ lực lượng cách mạng chân
chính CPC chống lại chính sách đối nội, đối ngoại phản động hiện nay của nhóm cầm
quyền CPC. Coi trọng giúp về các mặt: tập hợp lực lượng thành sức mạnh có tổ chức,
có đường lối đúng, phương hướng hành động rõ; đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chân chính; giúp đỡ đời sống và điều kiện sản xuất cho nhân dân CPC chạy
sang ta; xây dựng lực lượng vũ trang, đào tạo cán bộ vận động quần chúng, cán bộ
binh vận… Thực chất là giúp xây dựng lại Đảngcách mạng của giai cấp công nhân
CPC; khôi phục và đặt nên móng vững chắc lâu dài cho tình đoàn kết hữu nghị VN-
CPC.
Đề nghị Bộ Chính trị lập một ban
chuyên lo về vấn đề CPC với nhiệm vụ: phối hợp và thống nhất thông tin về CPC,
nghiên cứu để đề nghị với BCT những nhận định và chủ trương có tính chất tồng hợp
và cơ bản; phối hợp và hướng dẫn những ngành công tác có trách nhiệm liên quan
đến vấn đề CPC. Ban này do một đ/c trong BCT hoặc BBT phụ trách, lấy các ngành
quân sự, nội vụ, đối ngoại, ngoại giao làm chỗ dựa, có một tổ chuyên viên trực
thuộc đ/c phụ trách để làm đầu mối tổng hợp, thông tin và liên hệ với các cơ
quan có liên quan.
Ban phụ trách về CPC phải dự kiến
những tình huống đột biến và đề nghị với BCT chủ trương đối phó thích hợp với từng
tình huống. Tháng 1 năm 1978“.
Trước những cố gắng thương lượng
của ta với Pol Pot không thành công, cuối tháng 12/1977, ta đã dùng quân đội lớn
có xe tăng hỗ trợ phản kích bọn Pol Pot sâu vào nội địa CPC ở vùng Mỏ Vẹt dọc
theo đường quốc lộ 1 tiến đến thị trấn [khum] Prasaut, gần thị xã Svay Rieng
(cách biên giới khoảng 50 km). Ngày 31/12/1977, bọn Pol Pot ra tuyên bố chính
phủ lên án VN xâm lược CPC và tuyên bố cắt quan hệ ngoại giao với VN. TQ ủng hộ
Pol Pot và phê phán VN. Ngày 31/12/1977, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Hoàng Văn Tiến
gặp Đại sứ TQ Trần Chí Phương về tình hình biên giới VN-CPC. Trần Chí Phương
nói VN đã xâm lược CPC, đây là sự kiện nghiêm trọng nhất của năm 1977; VN phải
nhanh chóng rút quân. Tối 3/1/1978, đ/c Nguyễn Cơ Thạch thông báo cho một số
anh em ở Bộ Ngoại giao: BCT ta họp nhận định ta có thể thắng về quân sự nhưng
ta chưa có ngọn cờ chính trị của người CPC nên quyết định rút quân. Ngày
6/1/1978 ta hoàn thành việc rút lui an toàn, bọn Pol Pot lấy ngày 6/1/1978 để
ăn mừng “chiến thắng” chống VN.
1.4 Năm 1978 năm bước ngoặt.
Bước vào năm 1978, quan hệ VN với
CPC và TQ ngày càng căng thẳng Năm 1977, TQ gây ra 873 vụ va chạm ở biên giới
và dùng người Hoa phá chính sách kinh tế và cải tạo XHCN ở miền Nam, phá chính
sách nghĩa vụ quân sự. Tiếp theo Tuyên bố
của Chính phủ ta ngày 31/12/1977 về vấn đề biên giới VN-CPC ngày 4/1/78, Thủ tướng
Phạm Văn Đồng trả lời TTXVN lần đầu tiên đã nói ý chính sách nguy hiểm của nhà
cầm quyền CPC “được bọn đế quốc và phản động thế giới có tham vọng ở Đông-nam Á
hoan nghênh và khuyến khích”. Ngày 5/2/1978, Chính phủ ta ra Tuyên bố về vấn đề
biên giới Việt Nan-CPC và đề nghị 3 điểm:
● Chấm
dứt ngay hoạt động quân sự thù địch ở biên giới, lực lượng vũ trang mỗi bên
đóng sâu trong nh thổ của mình, cách đường biên giới 5 Km.
● Hai
bên gặp nhau ngay đề bàn và ký Hiệp ước không xâm lược và Hiệp ước biên giới.
● Hai
bên sẽ thoả thuận một hình thức thích hợp bảo đảm quốc tế và giám sát quốc tế.
Phía Pol Pot hoàn toàn bác bỏ đề
nghị trên.
Về thái độ của Lào: trong tháng
2/1978, đ/c Xuân Thủy dẫn đầu đoàn đại biểu Đảngta thăm bí mật Lào thông báo
tình hình biên giới VN-CPC. Trong cuộc họp với BCT Lào, đ/c Souphanouvong13 kể
lại chuyến đi thăm hữu nghị chính thức CPC tháng 12/1977, đ/c Souphanouvong có ấn
tượng tốt, cho CPC có kỷ luật và khâm phục việc CPC làm tốt hệ thống thủy lợi.
Về quan hệ VN- CPC, các đ/c Lào nói đại ý: VN là anh cả nên xử sự đúng như là
người anh cả, hãy gặp phía CPC bàn bạc giải quyết (lúc này, Lào thừa nhận VN là
anh Cả nhưng rất phấn khởi đảm nhận vai trò anh Hai). VN đưa 3 đề nghị 5/2/1978
nhưng chỉ ra tuyên bố, không gửi trực tiếp cho phía CPC có thể phía CPC phật
lòng, cho VN không chân thành. Lúc này trong nội bộ Lào có sự đấu tranh về quan
điểm khá phức tạp trong quan hệ với VN và với TQ trong khi đó TQ đẩy mạnh việc
đưa quân giúp làm đường ở Bắc Lào. Ngày 8/4/1978, Thứ trưởng Bộ Giao thông TQ
Phan Kì thăm Lào, khánh thành đoạn đường 286 km ở Bắc Lào. Theo gợi ý của Lào,
ngày 10/4/1978, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh gửi
công hàm cho Ieng Sary nhắc lại đề nghị 3 điểm, nhờ Lào chuyển công hàm này.
Ngày 15/5/1978, Bộ Ngoại giao CPC gửi công hàm trả lời, vu khống VN xâm lược,
muốn lập Liên bang Đông Dương, đòi VN thực hiện 4 điều kiện trong 7 tháng đến
cuối năm 1978, có như vậy hai bên mới có thể gặp nhau.
Đáp lại công hàm của phía CPC,
ngày 6/6/1978, Bộ Ngoại giao ta gửi công hàm cho Bộ Ngoại giao CPC nhắc đề nghị
3 điểm ngày 5/2/1978 và đề nghị 2 bên tuyên bố chấm dứt hoạt động quân sự thù địch
ở biên giới vào một ngày gần nhất mà hai bên thoả thuận, tách quân khỏi biên giới
5 Km, cùng ngày đại diện ngoại giao 2 bên tại Viên Chăn (Vientiane) hoặc bất cứ
thủ đô nào gặp nhau để thoả thuận ngày giờ, địa điểm, cấp bậc cuộc họp đại diện
giữa 2 Chính phủ.
Tuy nhiên, mọi cố gắng đề nghị
thương lượng của ta với CPC đều bị bác bỏ kể cả nhờ bon-office của LHQ và
[Phong trào] Không liên kết. Trong khi đó những cuộc tiến công giết hại đồng
bào ta ở biên giới ngày càng nghiêm trọng thêm điển hình là vụ thảm sát vô cùng
dã man ở xã Ba Chúc (An Giang) và thị xã Châu Đốc luôn bị pháo kích bằng pháo
130 ly. Tại Hội nghị Ngoại trưởng Phong trào Không liên kết ở Beograd
27/7/1978), phía CPC vu cáo ta thậm tệ và chống lại nội dung thông cáo của Hội
nghị Không liên kết kêu gọi 2 nước thương lượng. Còn ở LHQ, Kurt Walheim,
TTK/LHQ nói một bon-office của LHQ về quan hệ VN-CPC không được TQ tán thành.
Trong khi cuộc chiến tranh biên
giới với CPC ngày càng diễn ra ác liệt thì quan hệ với TQ ngày càng căng thẳng
hơn. Ngày 30/4/1978, lần đầu tiên, Lưu Thừa Chí, Chủ tịch Văn phòng công việc
Hoa kiều thuộc Quốc vụ viên TQ công khai nói Hoa kiều ở VN về nước hàng loạt, mở
đầu cho chiến dịch nạn kiều.
Ngày 12/5/1978, TQ gửi công hàm
phản đối ta “bài xích, xua đuổi Hoa kiều”, thông báo quyết định hủy bỏ 21 hạng
mục thiết bị toàn bộ cùng khoản tiền viện trợ dùng cho các hạng mục đó. Ngày
27/5/1978, TQ bác bỏ đề nghị của ta về chấm dứt tuyên truyền chống nhau, đại diện
2 Chính phủ gặp nhau đàm phán và tự quyết định đưa tàu sang đón “nạn kiều”.
Ngày 30/5/1978, Chính phủ TQ gửi công hàm cho Chính phủ ta hủy bỏ thêm 51 hạng
mục thiết bị toàn bộ cùng khoản viện trợ dùng cho các hạng mục đó. Ngày
2/6/1978, TQ gọi tất cả chuyên gia TQ ở VN về nước. Ta gửi công hàm phê phán TQ
(17/6/1978) làm xấu đi quan hệ với VN và ủng hộ Pol Pot chống VN.
Ngày 16/6/1978, TQ đòi ta rút 3 tổng
lãnh sự quán ở Côn Minh, Nam Ninh và Quảng Châu. Về quan hệ với Mỹ, ngày
3/2/1978 Mỹ trục xuất đ/c Đinh Bá Thi, Trưởng phái đoàn ta tại LHQ. Tháng
5/1978, Phó Tổng thống Mondale14 đi Đông-nam Á. Ngày 19/5/1978, Đặng Tiểu Bình
nói với báo chí: trong suốt thời gian Phó Tổng thống Mondale thăm Đông-nam Á, hầu
như ngày nào CPC cũng bị VN tấn công. Những cuộc tấn công ác liệt này là do ảnh
hưởng của Liên Xô ở VN tăng lên.
Ngày 20-23/5/1978, Brezinski thăm
TQ, hai bên tố cáo “chủ nghĩa bá quyền Liên Xô” và cam kết cùng nhau chống bá
quyền. Ngày 16/12/1978, Mỹ, TQ công bố sẽ chính thức lập quan hệ ngoại giao từ
1/1/1979 và trước đó ngày 12/8/1978 đã ký Hoà ước Trung-Nhật trong đó có điều
khoản chống bá quyền. Trong khi TQ, Mỹ đi vào câu kết chống Liên Xô, Đặng Tiểu
Bình không ngừng hết lời công kích và khiêu khích VN. Ngày 7/6/1978, Đặng Tiểu
Bình nói với nhà báo Thái: VN đã đi bước thứ 10 chống TQ. Khi họ đi bước thứ 11
thì TQ mới đi bước thứ 1, tức là giảm viện trợ cho họ. Nếu họ đi bước thứ 12
thì TQ sẽ có bước thứ 2. Ngày 3/10/1978, một lần nữa Đặng nói với các nhà báo
Thái: TQ cố tìm nguyên nhân tại sao VN chống TQ mạnh như thế và thấy rằng đó là
do VN muốn lập Liên bang Đông Dương mà TQ thì không tán thành. Ngoài ra, còn do
Liên Xô xúi giục và sử dụng VN để tìm căn cứ quân sự ở Đông-nam Á. Hiện nay VN
đã đưa quân lên biên giới TQ rất đông. Nếu VN cho rằng tiềm lực của mình đứng
thứ 3 thế giới và đem quân đánh phá các nước thì để họ làm thử xem… Ngay dù
Phnom Penh có mất, những người CPC kiên cường sẽ làm chiến tranh du kích đến thắng
lợi cuối cùng. TQ sẽ không đưa quân sang chiến đấu ở CPC nhưng sẽ tiếp tục viện
trợ cho CPC trong tất cả lĩnh vực.
Ngày 5/11/1978, Đặng thăm Thái
Lan và gọi VN là tên côn đồ phương Đông. Giữa tháng 11/1978, Cơ Bằng Phi nói với
Đại sứ Nam Tư, và Đại sứ CHDC Đức nói lại với ta rằng: nếu VN tấn công CPC và cả
Phnom Penh, TQ sẽ không đưa quân vào; TQ sẽ có biện pháp kiềm chế VN ở biên giới
Việt-Trung.
Tình hình trên đặt ra cho ta một
tình thế rất khó khăn, quan hệ với CPC, TQ đều xấu đi nghiêm trọng và nhanh
chóng. Tháng 5/1978, Bộ chính trị có Nghị quyết. Tháng 6/1978, Hội nghị Trung
ương lần thứ 4 khoá IV của Đảngquyết tâm tiêu diệt bè lũ Pol Pot-Ieng Sary
(theo tinh thần đề nghị của Nhóm 77 như trên trình bày) và kiên quyết chống chủ
nghĩa bá quyền TQ, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Marx-Lenin.
Ngày 27/7/1978, đ/c TBT Lê Duẩn
ký Nghị quyết số 09-NQ/TW với tiêu đề “Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 4 của
BCH Trung ương về tình hình và nhiệm vụ mới”. Về nhận định tình hình, Nghị quyết
viết: “sự nghiệp phấn đấu đưa cả nước tiến lên CNXH theo đường lối của đại hội
lần thứ IV của Đảngđã thu được những thành quả bước đầu đáng phấn khởi và đương
trên đà tiến triển tốt. Nhưng chúng ta có nhiều khó khăn phải giải quyết trong
quá trình tiến lên. Khó khăn lớn nhất hiện nay là âm mưu và hành động phá hoại
của tập đoàn phản bội theo chủ nghĩa Mao trong giới cầm quyền Bắc Kinh đối với
cách mạng nước ta. Chúng đã dùng bè lũ Pol Pot-Ieng Sary gây ra cuộc chiến
tranh chống VN, đánh phá biên giới Tây-nam nước ta. Gần đây, chúng dựng lên sự
kiện “nạn kiều”, cắt hoàn toàn viện trợ kinh tế, rút hết chuyên gia về nước,
đóng cửa 3 tổng lãnh sự quán của ta ở TQ, tìm cách gây rối cho ta về chính trị
và kinh tế, uy hiếp về quân sự ở tuyên biên giới Việt-Trung và ở Biển Đông, tiếp
sức cho bọn phỉ Mẹo ở Lào17 và ở biên giới phía Tây, hàng ngày tuyên truyền
kích động tư tưởng chống VN ở TQ và trên thế giới”.…
“Mục tiêu chiến lược của chủ
nghĩa Mao là xóa bỏ chủ nghĩa Marx-Lenin, xóa bỏ CNXH, thực hiện chủ nghĩa bành
trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn trên thế giới, trước hết là ở Đông Nam
châu Á”. …”Trên thế giới đã hình thành 2
lực lượng đối lập đấu tranh với nhau: một bên là các lực lượng cách mạng và tiến
bộ trong 3 dòng thác cách mạng của thời đại; một bên là các lực lượng đế quốc,
phản động, chống CNXH, độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình, trong đó Mỹ là lực
lượng đầu sỏ, tập đoàn theo Mao phản bội chủ nghĩa Marx-Lenin trong giới cầm
quyền Bắc Kinh là thế lực phản động quốc tế lớn nhất, đồng minh của Mỹ.
Ở Đông-nam Á nổi bật lên mâu thuẫn
chủ yếu giữa độc lập dân tộc và CNXH với chủ nghĩa bành trướng, bá quyền nước lớn
của tập đoàn theo Mao trong giới cầm quyền Bắc Kinh và các thế lực đế quốc đương
tranh giành quyền lợi và ảnh hưởng trong khu vực này. Tập đoàn phản bội theo
Mao đóng vai trò xung kích phản cách mạng nguy hiểm nhất, trực tiếp chống lại 3
dòng thác cách mạng ở Đông Nam châu Á. Nước Cộng hoà XHCN VN độc lập, tự chủ,
tiêu biểu cho CNXH và độc lập dân tộc, có sức mạnh và tiềm lực lớn, có uy tín
chính trị cao trên thế giới, là nhân tố quan trọng của hòa bình và cách mạng ở
Đông- nam Á, đồng thời là trở lực lớn nhất đối với mưu đồ bành trướng và bá quyền
ở Đông-nam Á của những người cầm quyền Bắc Kinh theo Mao…
…Cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn của tập đoàn phản bội trong giới cầm
quyền Bắc Kinh là một bộ phận quan trọng trong cuộc đâu tranh chống chủ nghĩa đế
quốc và cách thế lực phản động, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH
trên thế giới. Thắng lợi của cuộc đấu tranh đó sẽ có tác dụng to lớn, phát triển
thế tiến công của 3 dòng thác cách mạng, bảo vệ chủ nghĩa Marx-Lenin, nêu cao
tinh thần quốc tế vô sản, khôi phục và tăng cường đoàn kết trong hệ thống XHCN
thế giới và trong phong trào cộng sản quốc tế” .
…“Chúng ta đang ở trong giai đoạn
vừa có hòa bình, vừa có chiến tranh trên một bộ phận đát nước, đồng thời kẻ địch
đương đe dọa chiến tranh từ bên ngoài và gây rối bên trong, hòng gây khó khăn
cho công cuộc xây dựng của chúng ta và làm suy yếu ta về kinh tế và quốc phòng.
Tình hình còn diễn biến phức tạp. Chúng ta không loại trừ khả năng kẻ địch tiến
công quân sự qui mô lớn. Ta phải làm thất bại mọi âm mưu và hành động của kẻ
thù. Một mặt, ta phải tìm mọi cách làm cho khả năng xấu nhất không xẩy ra.
Nhưng mặt khác, ta phải khẩn trương chuẩn bị và sẵn sàng ứng phó với mọi tình
thế “.
…“Chúng ta đương có nhiều khó
khăn của một nước sau nhiều năm chiến tranh ác liệt nhưng Đ__g, Nhà nước, nhân
dân ta hoàn toàn có đủ sức đánh thắng bọn theo chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc,
nếu chúng trực tiếp xâm lược nước ta, đồng thời đạp tan mọi âm mưu phá hoại của
đế quốc Mỹ.
Chưa bao giờ nước VN XHCN lại có
sức mạnh như ngày nay. Đó là sức mạnh tổng hợp của một nước độc lập, thống nhất,
có chính nghĩa, có truyền thống anh hùng, bất khuất, đoàn kết chống ngoại xâm,
đã đánh thắng nhiều đế quốc lớn, kể cả tên đế quốc đầu sỏ; có sức mạnh của nền
chuyên chính vô sản…”
…“Đánh bại mọi âm mưu và hành động
của chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc chống VN là sứ mệnh lịch sử của nhân dân
cả nước ta để bảo vệ độc lập dân tộc, tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên
CNXH, góp phần bảo vệ và tăng cường CNXH trên thế giới và ở TQ, giữ gìn sự
trong sáng của chủ nghĩa Marx-Lenin.
Một lần nữa, tiếp theo cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, mâu thuẫn của thời đại lại tập trung ở
VN, cuộc đụng độ lịch sử mới có thể lại diễn ra ở VN, và kết quả cuối cùng là
nhân dân VN, chủ nghĩa Marx- Lenin, chính nghĩa và công lý sẽ thắng!”.
Từ những nhận định như vậy, Nghị
quyết xác định nhiệm vụ chung của cách mạng VN trước tình hình mới là:
“Động viên cao độ tinh thần yêu
nước và yêu CNXH, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, truyền thống đoàn kết
chiến đấu chống ngoại xâm, tinh thần tự lực tự cường của toàn Đ__g, toàn dân,
toàn quân, xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN toàn diện và rộng khắp, đẩy mạnh
công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, tăng nhanh tiềm lực kinh tế và quốc
phòng, phá tan âm mưu của địch hòng làm suy yếu và đánh phá nước ta, giành thắng
lợi trong chiến tranh biên giới phía Tây-nam, tăng cường phòng thủ đất nước, sẵn
sàng chiến đấu đánh bại chiến tranh xâm lược trên qui mô lớn. Tăng cường đoàn kết
với các nước XHCN anh em và toàn thể loài người tiến bộ, kiên quyết đấu tranh
chống chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ, chống chủ nghĩa bành trướng và
bá quyền nước lớn của tập đoàn phản động trong giới cầm quyền Bắc Kinh, làm tốt
nghĩa vụ quốc tế của nhân dân ta, góp phần bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa
Marx-Lenin, tăng cường lực lượng của CNXH và độc lập dân tộc ở Đông-nam châu Á
và trên thế giới“.
Về quốc phòng, an ninh:
…”Kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng
kinh tế và củng cố quốc phòng theo một kế hoạch cơ bản, lâu dài và được nghiêm
chỉnh thực hiện từng bước vững chắc. Chuẩn bị sẵn sàng về mọi mặt để nắm chắc
thế chủ động, giáng cho kẻ thủ xâm lược những đòn sấm sét ngay từ đầu, dù chúng
dùng phương tiện chiến tranh gì, với bất cứ qui mô nào.
Tập trung sức thực hiện nhiệm vụ
quân sự trước mắt là đánh thắng trong chiến tranh biên giới phía Tây-nam; tăng
cường khả năng và trình độ sẵn sàng chiến đấu trên hướng Bắc và Tây Bắc, tăng
cường phòng thủ các đảo và bảo vệ vùng biển; bảo vệ vững chắc cả nước. Phối họp
với các đ/c Lào dẹp bạo loạn, củng cố mọi mặt ở tuyến biên giới phía Tây, phát
huy sức mạnh của đường biên giới hữu nghị Việt-Lào, ra sức làm tốt nghĩa vụ quốc
tế“… ‘
Nghị quyết kết luận:
“Tiếp theo cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước vừa kết thúc thì sứ mệnh lịch sử mới, cuộc đấu tranh mới chống một
đối tượng mới rất thâm độc và thô bạo, lại bắt đầu. Nhân dân ta đương vững bước
tiến lên, hăng hái, dũng cảm và bình tĩnh thông minh vượt qua mọi khó khăn, thử
thách, quyết giành những thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo
vệ Tổ quốc VN yêu quý, đánh bại mọi mưu đồ của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa
bành trướng đại dân tộc, tích cực làm nghĩa vụ quốc tế cao cả vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và CNXH trên toàn thế giới, tích cực góp phần bảo vệ sự
trong sang của chủ nghĩa Marx- Lenin“.
Từ đây, ta tiến hành một loạt hoạt
động quan trọng để thực hiện Nghị quyết Trung ương 4:
Ngày 16/6/1978, BCT ra Nghị quyết
20 thành lập một ban mới gọi là B- 68 nhằm giúp Trung ương trong việc giúp cách
mạng CPC. Nghị quyết nói rõ đây là một cơ quan nghiên cứu, làm tham mưu, vừa là
cơ quan chuyên gia của bạn CPC. Trụ sở B-68 đặt ở ngôi nhà 606, đường Trần Hưng
Đạo thành phố HCM. B-68 lúc đầu do đ/c Nguyễn Xuân Hoàng làm Trưởng Ban, là đ/c
có quá trình lâu dài giúp CPC, từng là Trưởng ban CP-48 của Trung ương Đ__g;
sau này đ/c Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện làm Trưởng ban, Phó ban có các đ/c Lê
Hai (hiện là Trung tướng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục chính trị), Đăng Thành, Vũ
Oanh, Phan Đình Vinh, Nguyễn Hữu Tài (Ban Đối ngoại Trung ương), Ngô Điền, sau
này có thêm đ/c Phạm Chung (nguyên Phó Văn phòng Trung ương Đ__g). Khi cơ quan
thành lập do đ/c Lê Đức Thọ trực tiếp phụ trách đã nhanh chóng triển khai những
công việc đế chuẩn bị thực hiện Nghị quyết Trung ương.
Đ/c Lê Đức Thọ vào Nam, tập hợp
những cán bộ miền Nam vốn quen biết CPC để xác minh những người ly khai Pol Pot
chạy sang VN, dùng trực thăng để triệu tập cán bộ, lúc này Souvanna ở miền Đông
CPC vốn có quan hệ tốt với VN hồi 1970 bị Pol Pot trấn áp đã tự sát, (sau này
Nayan Chanda và Ben Kierman viết nhiều sách về vụ nổi dậy này ở miền Đông)18.
Theo lời Hun Sen, Chea Sim, trước khi tự sát Souvanna có dặn khi khó khăn cần
chạy sang VN tìm sự giúp đỡ. Heng Somrin và Chea Sim chạy sang VN năm 1978 cùng
một số đông cán bộ cũng thuộc lực lượng miền Đông mà Pol Pot gọi là khu 203,
còn Hun Sen thì sang VN từ 6/1977. Một nguồn cán bộ nữa là những người dân CPC
khi ta tấn công lên CPC ở khu vực Svay Rieng tháng 12/1977 cũng theo bộ đội VN
về VN tị nạn, sống tập trung ở trại Bến Sắn (Tây Ninh) trong số đó sau này có
người là Bộ, Thứ trưởng như Prach Sun, Phó Ban đối ngoại; Chay Kannha, Chủ tịch
[Hội] phụ nữ và Thứ trưởng Bộ Y tế; Chan Ven, Bộ trưởng Bộ Giáo dục… Tôi được
nghe kể lại là đ/c Lê Đức Thọ dặn cán bộ ta là phải tìm cho bằng được ngọn cờ,
ngọn cờ chính trị của người CPC dù đó là “ngọn cờ rách”.
Trong khi bên trong ta chuẩn bị
khẩn trương như vậy thì hoạt động đối ngoại để chuẩn bị cho hành động của ta
cũng diễn ra rất khẩn trương. Nghị quyết Trung ương IV tháng 7/1978, đề ra nhiệm
vụ cho hoạt động đối ngoại là: “Tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và
CNXH, giữ vững độc lập, tự chủ, đoàn kết với tất cả các lực lượng chống chủ
nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới, chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc,
tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ, ra sức lợi dụng mọi mâu thuẫn giữa
các đế quốc, giữa đế quốc và các nước khác với bọn phản động quốc tế phân hoá
và cô lập cao độ kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất hiện nay của nhân dân các
nước Đông-nam châu Á là tập đoàn phản động theo Mao trong giới cầm quyền Bắc
Kinh.
Ra sức củng cố và tăng cường tình
đoàn kết anh em và quan hệ hợp tác gắn bó về mọi mặt với Liên Xô, đồng thời
tăng cường quan hệ hữu nghị với các nước XHCN khác tranh chủ sự giúp đỡ của các
nước XHCN cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước ta“…
Ngày 29/6/1978 : VN chính thức
gia nhập SEV [Hội đồng tương trợ kinh tế.
Ngày 3/7/1978: Thứ trưởng Bộ Ngoại
giao Phan Hiền thăm Thái Lan, Nhật Bản, Singapore, New Zealand, Malaysia, Lào.
Từ 13/9/1978, Thủ tướng Phạm Văn
Đồng đi thăm các nước Thái Lan, Philippines, Indonesia, Maylaysia, Singapore
nêu đề nghị ký Hiệp ước không xâm lược, không lật đổ, lập khu vực hòa bình, độc
lập, tự do, trung lập và ổn định, phồn vinh. Ta tuyên bố không ủng hộ các tổ chức
Mao-ít ở các nước này.
Cuối tháng 9/1978, tại LHQ, VN và
Mỹ gặp nhau về bình thường hóa quan hệ 2 nước. VN không gắn điều 21 với bình
thường hóa quan hệ Việt-Mỹ. Hai bên thoả thuận lập Working Group bàn về bình
thường hóa quan hệ 2 nước.
Trong 2 tháng 8 và 9/1978 đàm
phán Trung-việt về người Hoa nhưng không kết quả.
Tháng 10/1978, Mỹ chuyển mạnh
sang câu kết với TQ chống Liên Xô, VN, giảm và tạm ngừng thương lượng về bình
thường hóa quan hệ với VN.
Ngày 3/11/1978, VN ký với Liên Xô
Hiệp ước hữu nghị và hợp tác.
Ngày 2/12/1978, ta giúp hình
thành Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước CPC, ngọn cờ chính trị của lực lượng
yêu nước CPC và Hãng thông tấn SPK ra đời. Anh Ngô Tiến (hiện là phát thanh
viên tiếng Khmer của Đài Tiếng nói An Giang) là người dịch và chép tay bản
Tuyên ngôn và Cương lĩnh của Mặt trận để phân phát. Trong quá trình chuẩn bị, một
lần nữa những người CPC lại tỏ ý ngại VN lại chi phối CPC, điển hình là Ouch
Bun Chhoeun người thuộc khu miền Đông cùng chạy sang với Chea Sim, cũng nhắc lại
đề nghị tương tự như Pol Pot năm 1970 là VN chỉ giúp pháo binh, vũ khí và huấn
luyện còn CPC tự đánh. Vì tư tưởng dân tộc đó nên Ouch Bun Chhoeun không được lựa
chọn vào hàng ngũ lãnh đạo mặc dù anh ta có trình độ, sau này Chhoeun làm Bộ
trưởng tư pháp. Người được lựa chọn đứng đầu Mặt trận là Heng Somrin, một người
nông dân chất phác, hiền lành.
Ngay trước và sau khi ra đời Mặt
trận, ta đã từng bước ém quân vào sâu trong nội địa CPC, giúp xây dựng những đội
quân vũ trang tuyên truyền CPC. Sau khi tập trung 19 trong số 25 sư đoàn ở biên
giới CPC-VN, ngày 23/12/1978, quân Pol Pot tiến công thị trấn Bến Sỏi và mục
tiêu là đánh chiếm thị xã Tây Ninh. Từ 25/12/1978, ta bắt đầu mở cuộc tấn công
lớn sang CPC và 7/1/1979, đánh chiếm Phnom Penh và các tỉnh khác của CPC.
Cần nói thêm rằng, sau khi ta đã
đưa quân đánh sang CPC ngoài Mặt trận ta chưa kịp giúp thành lập Đ__g, khi
Phnom Penh sắp giải phóng, ngày 6/1- 8/1/1979, tại Thủ Đức (thành phố HCM) đã họp
Hội nghị xây dựng lại ĐảngCPC với tất cả là 62 Đảngviên tập hợp từ các nguồn
khác nhau bầu 7 người vào Ban xây dựng Đảng(sau này được gọi là Đại hội III):
Pen Sovan19, Trưởng ban; Heng Somrin, Chea Sim, Van Son, Chan Kiri, Bouthong,
Hun Sen là Uỷ viên. Van Son làm Trưởng ban tổ chức; Chan Kiri làm Trưởng ban kiểm
tra. (Chan Kiri là một đ/c gốc Nam bộ tham gia kháng chiến chống Pháp, người
trung thực chất phác nhưng năng lực hạn chế. Pen Sovan không thích đ/c này, thường
chê bai và cũng không muốn có một đ/c lớp cũ như vậy trong lãnh đạo. Van Son là
Trưởng ban tổ chức kiêm Bí thư thành Uỷ Phnom Penh sớm có những biểu hiện sa đoạ
và liên hệ với những phần tử xấu. Tháng 3/1979 Van Son và Chan Kiri bị Pen
Sovan gạt và đưa Sai Phuthong thay Van Son nhưng không trao đổi gì với phía VN.
Pen Sovan, Chea Sim và Sai Phuthong hình thành Thường vụ Trung ương Đ__g). Ngày
7/1/1979, ta giải phóng Phnom Penh và các tỉnh nhưng các cán bộ chủ chốt của
CPC vấn còn ở tại căn cứ Quân khu 7 ở sân bay Tân Sơn Nhất mãi đến ngày
24/1/79, một chiếc Yak 40 của ta mới chở số lãnh đạo CPC bao gồm cả Pen Sovan,
Heng Somrin, Chea Sim, Hun Sen… về Phnom Penh để 25/1/1979 dự lễ mừng chiến thắng
ở sân vận động Olimpic, còn mọi việc của buổi lễ đều do chuyên gia và anh Phùng
Thế Tài đứng ra tổ chức. Chuyên gia VN đến làm tất cả, “làm thay, làm thầy” và
“làm cả tớ”. Khi chuẩn bị đón Thủ tướng Phạm Văn Đồng, ngoài vật chất, lễ tân,
người phục vụ do Anh Khai ở Sở Ngoại vụ thành phố Hồ Chí Minh đưa lên, ta còn
đưa cả công nhân quét đường lên Phnom Penh.
Tôi còn nhớ một chi tiết khi
Phnom Penh giải phóng, cần ra đời Chính phủ và tên nước mới, Bộ Ngoại giao được
giao nhiệm vụ soạn giúp Tuyên ngôn của Chính phủ mới CPC. Một buổi tối sau
7/1/1979, tại Phòng họp lớn của Bộ, các đ/c Nguyễn Cơ Thạch, Võ Đông Giang, Phạm
Bình, Nguyễn Xuân, Lưu Văn Lợi thảo luận và phân công giao viết gấp. Anh Võ
Đông Giang nói là Tuyên ngôn nên ngắn gọn, súc tích, mang tính chất hiệu triệu
như Tuyên ngôn 2/9 của VN. Tuyên ngôn phải ra đời tên nước có ý kiến là đặt tên
là Cộng hoà Dân chủ, có ý kiến là Cộng hoà Dân chủ Nhân dân, ý kiến này bị bác
vì quá giống tên nước Lào, cuối cùng anh Giang đề nghị đặt tên Cộng hoà Nhân
dân cho giống TQ.
Bản Tuyên ngôn được viết, điện mật
vào trong kia [tp HCM] và 12/1/1979, Tuyên ngôn của Hội đồng nhân dân cách mạng
CPC chính thức được công bố và tên nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân CPC có từ đấy.
Và cũng từ đó, do Bộ Ngoại giao CPC chưa hình thành, chuyên gia giúp Bộ Ngoại
giao chỉ có anh Ngô Điền, anh Chiến Thắng và anh Bùi Hữu Nhân nên phần lớn các
tuyên bố của Bộ Ngoại giao CPC đều được viết từ Bộ Ngoại giao VN, anh Võ Đông
Giang duyệt rồi gửi sang Phnom Penh để dịch và công bố. Ngày 16/2/1979, Thủ tướng
Phạm Văn Đồng sang thăm chính thức CPC; ngày 17/2/1979 ký Hiệp ước hữu nghị và
Hiệp định quân sự; cùng ngày TQ đưa 60 vạn quân tiến công các tỉnh miền Bắc VN
để “dạy cho VN một bài học”.
Chúng ta đưa quân vào CPC, giúp
CPC làm lại cuộc cách mạng từ con số 0 trên tất cả mọi lĩnh vực. Để hiểu thực
chất đội ngũ cán bộ CPC, xin trích đoạn báo cáo nhận xét của chuyên gia ta ở
CPC năm 1980:
“Lực lượng cán bộ, Đảngviên CPC
do nhiều nguồn tập hợp lại, chưa thông cảm và hoà hợp với nhau:
Số cán bộ Đảngviên tập kết từ miền
Bắc [VN] về nay còn độ 40 người. Số lượng ít song giữ vị trí quan trọng, chủ chốt
(3/6 Uỷ viên Trung ơng, 5/8 Bộ trưởng, 9/26 Thứ trưởng, 7/29 Bí thư và Chủ tịch
tỉnh. Nói chung, thái độ chính trị tốt, tin cậy và đoàn kết với VN. Có một ít
thật sự là ly khai Pol Pot ở lại miền Bắc, giác ngộ chính trị khá. Còn số đông
là già yếu hoặc do cầu an, sinh hoạt bê tha. Đến nay một số đã thoái hoá, rơi rụng.
Lực lượng ly khai Koh Kong thuộc
dân tộc Thái, đã sớm nhận ra bản chất phản động của Pol Pot, nổi dậy chống lại
chúng ngay từ năm 1974 rồi chạy sang Thái Lan, lúc đó có 65 Đảngviên. Lực lượng
ly khai Đông Bắc chủ yếu là thuộc dân tộc ít người ở Ratanakiri cũng đã sớm chống
lại Pol Pot, chạy sang VN và Lào.
Hai lực lượng ly khai này đều thuộc
các dần tộc ít người, nói chung có lập trường chính trị tốt, đoàn kết gắn bó với
VN. Các dân tộc ít người tuy chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng có lực lượng cán bộ, Đảngviên
khá đông và giữ vị trí quan trọng. Dân tộc Thái chỉ có gần 4.000 [người] song Đảngviên
hiện tới 70 người chẳng những giữ vị trí chủ chốt của tình Koh Kong mà cả
Kampot và một vài ngành Trung ương. Số cán bộ dân tộc ở Ratanakiri nay được bố
trí giữ các chức vụ chủ chốt ở cả 4 tỉnh Đông Bắc và một vài ngành Trung ương.
Bên cạnh chỗ mạnh, căn bản về lập
trường chính trị, các cán bộ Đảngviên người dân tộc (Koh Kong và Đông Bắc) đều
có nhược điểm là trình độ văn hoá thấp, chủ nghĩa địa phương và thành kiến dân
tộc với người CPC Kinh khá nặng nề.
Lực lượng nổi dậy của K-203, có số
cán bộ, Đảngviên khá đông, giữ nhiều chức vụ quan trọng (2 Uỷ viên Trung ương,
10 Bí thư tỉnh, 2 Bộ trưởng và 4 Thứ trưởng). Số do nhận rõ đường lối, quan điểm
Pol Pot phản động mà chống nó là số ít còn số đông do bị Pol Pot nghi ngờ trừng
trị mà nổi dậy. Có người đến nay thấy rõ là tiến bộ, chuyển biến tốt lên nhưng
cũng còn những người ta chưa thật hiểu rõ, ảnh hưởng quan điểm dân tộc hẹp hòi,
nghi ngờ VN, tác phong xấu của thời kỳ Pol Pot trong một số người còn nặng.
Những người tị nạn và ly khai
khác, lẻ tẻ không thành tổ chức, chạy rải rác sang VN từ 1977 đến cuối 1978. Số
này không thuần nhất. Có những người tốt nay trở thành cán bộ nòng cốt. Nhưng
cũng có người khá phức tạp.
Lực lượng cán bộ mới sau
7/1/1979, chủ yếu là học sinh, sinh viên, trí thức. Số đông có tinh thần yêu nước,
nhiệt tình, tận tuỵ đã thấy những nhân tố mới, có triển vọng nhưng những người
giác ngộ chính trị thấp, nhận thức mơ hồ, dễ dao động, có ảo tưởng đối với
Sihanouk, hoài nghi chưa tin chế độ mới. Số cán bộ này đã chiếm tới 25% các Ban
cán sự tỉnh, 38% UBND tỉnh, 80% cấp Vụ, Cục và 7 Thứ trưởng”.
II. DIỄN BIẾN CUỘC ĐẤU TRANH VỀ
CPC VÀ MỘT SỐ QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1979-1991
Cuộc đấu tranh về vấn đề CPC
trong gần 13 năm (1979-1991) và những quyết sách của ta về CPC luôn luôn gắn liền
với những biến đổi trong chiến lược của các nước lớn những biến đồi sâu sắc
trên thế giới. CPC là trọng tâm của hoạt động ngoại giao của ta trong giai đoạn
này. Có thể có nhiều cách chia giai đoạn khác nhau những để tiện trình bày được
chi tiết, tôi phân chia làm 4 giai đoạn nhỏ:
2.1 Giai đoạn 1979 – 1981:
a) Bối cảnh quốc tế:
Thắng lợi của VN trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ đã đưa đến sự suy yếu và khủng hoảng sâu sắc nhất của đế quốc Mỹ,
kéo theo sự khủng hoảng toàn diện của chủ nghĩa đế quốc trong thời kỳ sau VN. Mỹ
phải rút khỏi lục địa châu Á, chuyển sang chiến lược quần đảo tạo nên khoảng trống
trong khu vực. Thất bại của Mỹ, thắng lợi cách mạng VN và các nước Đông Dương
đã đưa tới sự khủng hoảng của các nước ở Đông-nam Á. Mỹ ra sức giải quyết khủng
hoảng nội bộ bằng mọi cách khôi phục lại sức mạnh của Mỹ về quân sự, kinh tế và
vị trí số một đối với đồng minh; đối phó với việc Liên Xô mở rộng ảnh hưởng và
sự phát triển của cách mạng thế giới. Nhằm mục tiêu đó, từ cuối những năm 70, Mỹ
đẩy mạnh chạy đua vũ trang, kiềm chế Liên Xô và quan hệ Đông-tây nhưng tránh
không làm đổ vỡ quan hệ Xô-Mỹ; đồng thời đẩy mạnh hoà hoãn với TQ, từng bước
chơi con bài TQ chống Liên Xô và cách mạng, nhất là từ sau chuyến đi TQ của
Brezinski tháng 8/1978, khi TQ chuyển hẳn sang đi với Mỹ chống Liên Xô, phục vụ
4 hiện đại hóa. Trong vấn đề CPC, Mỹ lợi dụng chính sách chống Liên Xô của TQ,
tuy nhiên tránh dính líu trực tiếp và điều Mỹ quan tâm nhất là bảo đảm an ninh
cho các nước ASEAN nhất là Thái Lan.
Liên Xô triệt để khai thác cục diện
quốc tế “sau VN”, sự suy yếu của Mỹ và khó khăn của TQ để mở rộng ảnh hưởng,
bao vây, kiềm chế TQ và phá câu kết Mỹ-Trung. Đặc biệt Liên Xô đã lợi dụng thắng
lợi của VN để tăng cường vị trí ở Đông-nam Á. Liên Xô đã ủng hộ ta đưa quân vào
CPC, đồng thời thúc đẩy quan hệ với VN (ký Hiệp ước hợp tác hữu nghị tháng
11/1978), với Lào, thiết lập quan hệ với CPC, mở rộng sự có mặt của Liên Xô cả
về chính trị, kinh tế lẫn quân sự, tranh thủ VN và các nước Đông Dương đi với
Liên Xô đối phó với câu kết Trung-Mỹ song tránh dính líu trực tiếp vào cuộc
xung đột.
TQ coi Đông-nam Á là khu vực ảnh
hưởng và là hướng bành trướng chủ yếu của TQ. Thắng lợi của VN, Đông Dương và sự
phát triển của xu hướng hòa bình, ổn định ở Đông-nam Á làm cho TQ thất bại
trong chính sách truyền thống lợi dụng và kiềm chế cuộc đấu tranh của 3 nước
Đông Dương, phá hoại và chia rẽ các nước Đông-nam Á vì lợi ích chiến lược của
TQ.
Thắng lợi của VN kéo theo việc
Liên Xô tăng cường ảnh hưởng ở Đông Dương, Mỹ thất bại và bị đẩy ra khỏi lục địa
Đông-nam Á tạo một khoảng trống chiến lược lớn. Các chính quyền của các nước
ASEAN lâm vào khủng hoảng, trong khi TQ bị suy yếu nghiêm trọng sau cách mạng
văn hoá và bè lũ 4 tên.
Trong tình hình đó, từ 1978 TQ
triển khai mạnh mẽ kế hoạch 4 hiện đại [hóa] đi liền với sự chọn lựa “phương
Tây hoá cả gói” đã quyết định bước ngoặt chiến lược đối ngoại của TQ đi với Mỹ
dẫn đến đỉnh cao của câu kết Trung-Mỹ trong những năm 1978-1981. TQ triệt để lợi
dụng sự suy yếu của Mỹ và yêu cầu của Mỹ ngăn chặn Liên Xô và cách mạng thế giới,
khai thác mâu thuẫn Mỹ-Xô và giữa cách mạng với phản cách mạng, đưa ra khấu hiệu
chống “đại bá” và “tiểu bá” tự xưng là “NATO phương Đông” phát triển mạnh quan
hệ với Mỹ và phương Tây.
TQ cũng triệt để lợi dụng mối lo
ngại của các nước ASEAN trước việc Mỹ rút lui và nguy Cơ Liên Xô mở rộng ảnh hưởng
ở Đông-nam Á để lập mặt trận TQ-Mỹ-ASEAN-phương Tây chống Liên Xô, VN và cách mạng
thế giới. Nhằm thực hiện mục tiêu tranh thủ Mỹ và phương Tây phục vụ 4 hiện đại
hoá đồng thời chống lại sự bao vây, kiềm chế của Liên Xô, TQ đã có những bước
đi rất quyết liệt về mặt đối ngoại, cắt viện trợ cho VN, Anbani (1978), khuyến
khích, hỗ trợ cho bọn Pol Pot tiến đánh VN, trực tiếp tiến hành chiến tranh xâm
lược chống VN tháng 2/1979, và lôi kéo Mỹ, ASEAN, phương Tây bao vây cô lập VN,
đối phó với ảnh hưởng ngày càng tăng của Liên Xô, VN trong khu vực. Việc TQ
chuyển từ cách mạng sang đi với Mỹ chống cách mạng, dùng vấn đề CPC để chống
Liên Xô và VN đánh dấu sự thay đổi lớn trong chiến lược của TQ trong hơn 40 năm
qua.
b) Về CPC, ngày 7/1/1979 khi ta
giải phóng CPC mặc dù ta dùng cả hải-lục-không quân; dùng lính dù nhảy xuống
Siem Reap nhưng chủ yếu là lùa quân Pol Pot từ phía Đông sang phía Tây, do đó
cơ bản lực lượng Pol Pot không bị tiêu hao lớn.
Về mặt đối ngoại, ta phải đối phó
với tình hình rất khẩn trương. Ngày 6/1/1979, TQ cho máy bay đón Sihanouk sang
Bắc Kinh và cũng trong những ngày này Cảnh Tiêu, Hàn Niệm Long bí mật sang
Bangkok gặp Thủ tướng Kriangsak [Chomanan] bàn việc giúp Pol Pot ” đất thánh”
và vận chuyển vũ khí của TQ cho Pol Pot (tài liệu ta bắt được ở căn cứ Tà Sanh
– Battambang). HĐBA/LHQ họp ngày 10/1/1979 và ra dự thảo nghị quyết lên án VN
xâm lược, đòi VN rút quân; Liên Xô đã phủ quyết dự thảo nghị quyết này. Ngày
9/1/1979, Hội nghị Ngoại trưởng các nước ASEAN ra tuyên bố kêu gọi rút ngay,
rút hết quân nước ngoài khỏi CPC. Cũng ngày 9/1/1979, Ngoại trưởng Mỹ Cyrus
Vance nói: cuộc nói chuyện giữa VN và Mỹ về bình thường hóa quan hệ đã đổ vỡ do
cuộc xâm lăng của VN vào CPC. Từ lúc này sức ép đòi ta rút quân ngày càng mạnh
và cũng từ 30/6/1979 dòng người VN di tản ngày càng tăng vọt trong khi kinh tế
trong nước rất khó khăn làm xấu đi hình ảnh VN trên thế giới. Lập trường Cơ bản
của chúng ta về CPC lúc này là tuyên bố “tình hình CPC là không thể đảo ngược”
và quyết tâm “ăn cả” ở CPC. Tháng 7/1981, chúng ta tẩy chay không tham dự Hội
nghị quốc tế của Liên hợp quốc về CPC (ICK).
Trong nội địa CPC, sau giải phóng
7/1/1979, ngoài việc bộ đội ta tiếp tục tiến công đánh vào 11 căn cứ lớn của
Pol Pot, nhiệm vụ khẩn cấp là phải cứu đói cho dân, lo tổ chức toà án kết tội
Pol Pot (8/1979) làm ngọn cờ chính trị cho chính quyền CPC, lo tổ chức bộ máy
chính. quyền từ Trung ơng đến địa phương, tổ chức in và phát hành đồng tiền trở
lại. Cần nói thêm rằng trong bối cảnh tình hình CPC lúc đó việc xây dựng Đảngvà
chính quyền đều làm từ trên xuống, lập chính quyền tỉnh rồi mới đến huyện, xã;
phát triển Đảngviên trong Bộ, Thứ trưởng trước rồi mới đến cán bộ… đây cũng là
nguyên nhân tại sao CPC không thể có Cơ sở vững chắc. Ngày 1/5/1981, ta giúp tổ
chức tổng tuyển cử bầu Quốc hội ở CPC; 26-29/5/1981, tổ chức Đại hội IV của Đảng[Nhaan
dân Cách mạng CPC] và công bố Hiến pháp mới. Có thể nói tất cả mọi hoạt động của
ta về đối ngoại và trên thực địa CPC lúc này là nhằm củng cố chính quyền CPC,
giữ nguyên trạng ở CPC.
Từ giữa năm 1979, một vấn đề nữa
mà ta phải đối phó là nhân việc dân CPC đói, các tổ chức quốc tế dùng chiêu bài
“cứu trợ quốc tê” để mùa mưa kéo dân CPC tị nạn sang biên giới Thái và mùa khô
thì đẩy trở lại vào nội địa CPC để giúp bảo tồn và cung cấp lương thực, thực phẩm,
thuốc men cho bọn Pol Pot. Tiếp theo Hội nghị 3 Ngoại trưởng VN, Lào, CPC lần
thứ nhất năm 1980 tại Phnom Penh nhân kỷ niệm một năm ngày giải phóng CPC (đ/c
Nguyễn Duy Trinh dự Hội nghị này; sau Hội nghị, đ/c Nguyễn Cơ Thạch trở thành Bộ
trưởng ngoại giao). Hội nghị 3 ngoại trưởng lần thứ 2 họp tháng 7/1980 ở
Vientiane là nhằm đối phó với vấn đề tị nạn, cứu trợ quốc tế và từ đấy hình
thành cuộc họp thường kỳ Ngoại trưởng ba nước.
Về Sihanouk, sau khi rời Phnom
Penh 6/1/1979, Sihanouk được đưa đến New York để trình bày vấn dề CPC, đòi VN
rút quân; trong tâm trạng vừa thoát khỏi tù Pol Pot nhưng phải bảo vệ Pol Pot,
ngày 14/1/1979, Sihanouk xin tị nạn chính trị ở Mỹ nhưng TQ đã thuyết phục Mỹ
không cho Sihanouk tị nạn. Trở về Bắc Kinh, Sihanouk 4 lần viết thư cho Thủ tướng
Phạm Văn Đồng (7, 23, 27/10/1979 và 11/11/1979), nội dung thư Sihanouk cám ơn
đã giải phóng CPC khỏi diệt chủng nhưng đề nghị được đàm phán với VN để khôi phục
chủ quyền CPC.
Ta không nhận và không trả lời
[những] thư đó. Trong cuộc họp báo ở La Havana nhân dịp Hội nghị cấp cao 6 của
Phong trào không liên kết (tháng 8/1979), Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói về
Sihanouk như sau: “Qest ce qui est Sihanouk? C’est ùn homme fini”. Tình hình đó
là do lợi ích của ta là giữ nguyên trạng ở CPC, còn những người lãnh đạo mới ở
CPC rất sợ uy tín và ảnh hưởng của Sihanouk nên kiên quyết không muốn ta tiếp
xúc với Sihanouk. Trong một cuộc gặp lãnh đạo ta năm 1979, để ngăn ta có thể có
tiếp xúc với Sihanouk, Pen Sovan nói: giống như tục ngữ CPC, Sihanouk như con
chó khi chui qua rào thì cụp đuôi, vượt qua rào nó sẽ vểnh đuôi trở lại.
c) Về quan hệ của ta với chính
quyền CPC:
Cán bộ, chuyên gia “làm thay, làm
thầy, làm tớ”, còn những người lãnh đạo, cán bộ CPC “hưởng thụ từ lúc còn thơ,
quan liêu từ lúc bơ vơ mới về” lại sớm nảy sinh đầu óc hẹp hòi dân tộc. Điển
hình là vụ Chea Sim và Pen Sovan. Chea Sim là đại biểu Quốc hội của Pol Pot, được
coi là người mẫu mực của CPC Dân chủ và Chea Sim dẫn đầu đoàn ly khai chạy sang
VN 1978 trong đoàn có Heng Somrin nhưng không được trọng dụng, được cử làm Bộ
trưởng nội vụ một thời gian ngắn lại chuyển sang làm Mặt trận, Quốc hội. Vốn mặc
cảm vì không được tin cậy nên Chea Sim tỏ ít nói, lầm lì và càng mặc cảm hơn
khi bị khám nhà. Ngày 10/3/1979 một chiếc ca nô cặp bến Phnom Penh, có 47 người,
có vũ trang và cờ Pol Pot, nói về để liên hệ với Chea Sim; tối 12/3/1979, quân
quản Phnom Penh đem xe tăng đến khám nhà Chea Sim, chụp ảnh tài liệu, những người
trong nhà và cho máy rà mìn tìm vũ khí quanh nhà Chea Sim. Cuối tháng 3/1979,
Hun Sen nói với anh Ngô Điền về sự kiện này như sau: Sao lại khám nhà một đ/c
Trung ương. Có địch mới làm như vậy. Nếu là tôi, tôi không cho phép làm thế,
tôi bắn cả người khám và bắn cả tôi luôn. Còn Pen Sovan, vốn là trẻ mồ côi CPC
do bộ đội ta nhặt được và được nuôi từ bé, trở thành đại uý quân đội ta, và
thành Tổng Bí thư nhưng sớm trở mặt chống lại ta và tháng 7- 8/1981 làm găng về
vấn đề người Việt ở CPC và đòi cử đoàn của Trung ương ĐảngCPC sang đàm phán với
Trung ương ĐảngVN về vấn đề này. Trong nội bộ ĐảngCPC, Pen Sovan độc quyền,
không tôn trọng tập thể. Tháng 12/1981, BCT CPC khai trừ Pen Sovan, nhờ ta bắt
giam Pen Sovan ở Hà Nội và Heng Somrin trở thành Tổng Bí thư.
Đối với Bộ Ngoại giao, từ 3 đ/c
chuyên gia đầu năm 1979, tháng 9/1979 theo yêu cầu của Bộ Ngoại giao CPC ta đã
cử sang 17 chuyên gia bố trí tới tất cả các Vụ của Bộ Ngoại giao CPC (như các
đ/c Hoàng Đình Cầu – trưởng đoàn, Ngô Quý Cận, Ngô Viết Lũy, Đặng Đức Khôi,
Châu Phong, Lê Đông, Trần Ngữ, Đỗ Ngọc Sơn, Nguyễn Huy Cẩm, Lê Quang (Tài vụ),
Kim Lân (Cục) v.v…). Tháng 3/1981, Pen Sovan và Hun Sen gặp đ/c Nguyễn Cơ Thạch
ở nhà khách góc đường Nguyễn Du ở Hà Nội có ý chê chuyên gia ta, cho rằng một số
việc CPC tự làm tốt hơn chuyên gia VN như về lễ tân, báo chí… và yêu cầu ta rút
chuyên gia khỏi Bộ Ngoại giao và chỉ cử một vài cố vấn giỏi. Theo yêu cầu của
CPC, ta rút chuyên gia khỏi Bộ Ngoại giao và cử 5 cố vấn sang CPC giúp Bộ Ngoại
giao CPC trong thời gian từ 1982 đến 1988 (các đ/c Vũ Toàn, Hoàng Đình Cầu,
Khang, Trần Ngữ, Đoàn Trần Cảnh/Ban Đối ngoại, Phạm Công Bai…).
Cần phải nói rằng Bộ Ngoại giao
ta có sự giúp đỡ rất to lớn đối với Bộ ngoại giao CPC, ngoài sự giúp đỡ trực tiếp
rất tỉ mỉ hàng ngày của đ/c Ngô Điền với cá nhân Hun Sen và Bộ Ngoại giao CPC,
những cuộc họp ba ngoại trưởng thường kỳ hoặc những dịp sang trao đổi tình hình
với những bài phát biểu chuẩn bị công phu của đ/c Nguyễn Cơ Thạch thật sự là sự
bồi dưỡng rất Cơ bản về đánh giá tình hình thế giới và khu vực cũng như phương
pháp luận trong việc xem xét xử lý các vấn đề đối ngoại và điều này có ảnh hưởng
rất lớn đến Hun Sen. Không những thế, năm 1985 ta còn giúp mở lớp bồi dưỡng kiến
thức ngoại giao cho CPC, các đ/c Vũ Khoan, Lê Mai, Nguyễn Phượng Vũ đã từng
sang CPC giới thiệu với lớp học này về chiến lược của Liên Xô, Mỹ, TQ.
2.2 Giai đoạn từ 1982-1986
a) Bối cảnh quốc tế:
Dưới tác động mạnh mẽ của cuộc chạy
đua toàn cầu về kinh tế và KHKT và do những khó khăn nội tại của mỗi nước, từ đầu
những năm 1980 cả ba nước Mỹ, Xô, Trung đã bắt đầu điều chỉnh chiến lược, tập
trung phát triển sức mạnh bên trong, giảm bớt tình trạng căng mỏng ra nhiều địa
bàn và nhiều mục tiêu, từ đó ở mức độ khác nhau buộc phải giảm bớt chạy đua vũ
trang, giảm cam kết ở bên ngoài, tránh đụng độ trực tiếp với nhau và tránh bị
sa lầy vào một cuộc xung đột quân sự kéo dài. Quan hệ 3 nước lớn đã vượt qua thời
kỳ đối đầu căng thẳng của giai đoạn trước, chuyện sang hình thái cải thiện quan
hệ từng đôi một. Xô- Mỹ đã đẩy nhanh việc cải thiện quan hệ (gặp gỡ cấp cao
Genève 1985, ký INF 12/1985), củng cố thế 2 cực. TQ tiếp tục duy trì quan hệ với
Mỹ trong khuôn khổ các thông cáo chung Trung-Mỹ từ 1972, đồng thời từng bước đi
vào bình thường hóa với Liên Xô (nối lại đàm phán Thứ trưởng từ 1982, gặp gỡ 2
Ngoại trưởng tháng 9/1984, đón Phó Thủ tướng Liên Xô Arkhipov tháng 12/1984).
Tuy nhiên, việc cải thiện từng cặp quan hệ các nước lớn chỉ đang ở bước đầu.
b) Cuộc đấu tranh về vấn đề CPC
trong giai đoạn này về cơ bản vẫn nằm trong khung cảnh tập hợp lực lượng cho cuộc
đối đầu giữa 2 phía, đồng thời xuất hiện nhân tố mới là các nước lớn bắt đầu sử
dụng vấn đề CPC để dàn xếp quan hệ với nhau.
Khi nối lại đám phán Trung-Xô
tháng 10/1982, ngay từ đầu TQ nêu “3 trở ngại”, trong đó có vấn đề CPC, đồng thời
trao 5 điểm cho Liên Xô (VN tuyên bố rút hết quân và bắt đầu rút một bộ phận;
đàm phán bình thường hóa Việt-Trung; cải thiện quan hệ Trung-Xô; lập Chính phủ
liên hiệp ở CPC; bảo đảm quốc tế cho một nước CPC độc lập và không liên kết). Đến
1/3/1983, TQ đưa ra công khai 5 điểm, tháng 6/1983, TBT Triệu Tử Dương nhắc lại
5 điểm ở Quốc hội TQ, và 10/1983 TQ nhắc lại tại vòng 3 Xô-Trung. Lập trường của
TQ về vấn đề CPC lúc này là không chấp nhận được đối với ta. Trong khi thương
lượng với Liên Xô về CPC, TQ cương quyết bác bỏ đàm phán với ta, dùng việc TQ cải
thiện quan hệ với Liên Xô, các nước XHCN để ép ta và gây xung đột lớn trên biên
giới Việt-trung đầu năm 1984. Đi vào đàm phán với TQ từ tháng 10/1982, Liên Xô
tiếp tục ủng hộ VN, CPC, chưa chịu bàn với TQ về 3 trở ngại. Cùng với việc điều
chỉnh quan hệ với TQ, Mỹ coi trọng hơn vị trí của ASEAN. phó Tổng thống, Ngoại
trưởng, Bộ trưởng quốc phòng, Tham mưu liên quân Mỹ lần lượt thăm Đông-nam Á
(1983-1984). TQ cùng các nước ASEAN thúc đẩy việc lập “Chính phủ liên hiệp 3
phái” (6/1982) và Mỹ ủng hộ, và từ 1983 TQ bắt đầu đề cao vai trò Sihanouk phù
hợp với yêu cầu của Mỹ và ASEAN hơn.
Từ năm 1985, khi các nước lớn đẩy
mạnh quá trình cải thiện quan hệ từng cặp một, vấn đề CPC ngày càng trở thành một
chủ đề quan trọng và trực tiếp trong đàm phán tay đôi giữa 3 nước lớn.
Từ giữa năm 1984, thái độ của
Liên Xô trên vấn đề CPC đã bắt đầu thay đổi, Liên Xô thúc đẩy ta và CPC đi vào
giải quyết vấn đề CPC bằng chính trị. Tháng 6/1984, lần đầu tiên gợi ý ta tiếp
xúc với Sihanouk, đồng thời lấy vấn đề CPC làm một nội dung trong đàm phán tay
đôi với Mỹ và TQ. Tháng 5/1985 vấn đề CPC đã được đặt vào chương trình nghị sự
cuộc đàm phán cấp chuyên viên Xô-Mỹ bàn về các vấn đề khu vực. Từ vòng 9 đàm
phán Xô-Trung tháng 10/1986, Liên Xô bắt đầu nhận bàn với TQ về vấn đề CPC, nêu
lên khả năng sử dụng Khieu Samphan. Tháng 7/1986, TBT Gorbachov tuyên bố ở
Vladivostok nêu vấn đề CPC phải giải quyết giữa VN và TQ là 2 nước XHCN.
Tháng 3/1987, Ngoại trưởng Liên
Xô Shevardnadze thăm VN, CPC khuyên CPC nên đẩy mạnh hoà hợp dân tộc. Tháng
6/1987, đ/c Nguyễn Văn Linh thăm Liên Xô, Liên Xô gợi ý giải pháp về CPC theo
công thức Afghanistan; sau chuyến đi này, đ/c Nguyễn Cơ Thạch sang CPC
(2/6/1987) thông báo cho lãnh đạo CPC và phân tích sự khác nhau giữa CPC và
Afghanistan… Tháng 7/1987, Gorbachov tuyên bố với báo Merdeka (Indonesia) Liên
Xô ủng hộ việc lập Chính phủ liên hiệp ở CPC giống như ở Afghanistan; cuối
1987, Liên Xô lại gợi ý với ta về việc Hun Sen gặp Khieu Samphan. Khác với trước,
Mỹ tăng cường hoạt động về vấn đề CPC, từ tháng 5/1985, cùng với Liên Xô đưa vấn
đề CPC vào danh mục các vấn đề khu vực nhưng ưu tiên bàn về các khu vực khác
quan trọng hơn đối với Mỹ, đồng thời Mỹ bắt đầu viện trợ công khai cho 2 phái
không cộng sản CPC nhằm giúp 2 phái này tăng cường lực lượng, khẳng định vai
trò của Mỹ trong việc giải quyết vấn đề CPC. Tới tháng 9/1985 Mỹ cùng với Liên
Xô đàm phán ở cấp Thứ trưởng về CPC và châu Á- Thái Bình Dương. Qua 8 vòng đàm
phán Xô-Trung, TQ kiên trì đòi lấy vấn đề CPC làm một nội dung đàm phán về bình
thường hóa quan hệ 2 nước, và trước bước phát triển nhanh của quan hệ Xô-Mỹ, TQ
đã giảm yêu cầu, cố vượt qua “trở ngại” để thúc đẩy quan hệ Trung-Xô (tháng
4/1985, Đặng đặt vấn đề: nếu VN rút quân khỏi CPC, Liên Xô có thể duy trì căn cứ
Cam Ranh và tháng 9/1986, Đặng tuyên bố sẵn sàng gặp Gorbachov nếu để giải quyết
vấn đề CPC). Ngay trong khi sử dụng vấn đề CPC để thúc đẩy quan hệ với Liên Xô,
TQ vẫn rất coi trọng việc tranh thủ Mỹ, phương Tây và ASEAN. Tháng 11/1986, Đặng
tuyên bố một chính thể cộng sản không phù hợp với CPC, đồng thời TQ không chịu
nói chuyện với VN.
Trước triển vọng Xô-Mỹ, Xô-Trung
dùng vấn đề CPC để dàn xếp với nhau, ASEAN cũng điều chỉnh chính sách gia tăng
đối thoại với VN về vấn đề CPC, trong đó Indonesia đi mạnh hơn cả do Indonesia
muốn đề cao vai trò nước lớn trong khu vực, tạo thế đi vào bình thường hóa với
TQ. Từ cuối 1987, Thái Lan cũng bắt đầu tìm kiếm quan hệ với ta và CPC. Một
nhân tố không kém phần quan trọng là các nước Đông-nam Á cũng đi vào cuộc chạy
đua về kinh tế và KHKT, từ đầu những năm 1980 do giá sản phẩm sơ cấp giảm mạnh,
nhiều nước khó khăn lớn, phải điều chỉnh Cơ cấu để thích nghi với tình hình.
Nếu như trước đây các nước Tây Âu
đứng về phía ASEAN trong giải pháp cho vấn đề CPC thì nay đã tích cực tham gia,
từ năm 1984 Pháp đã gợi ý tổ chức cuộc gặp Hun Sen-Sihanouk nhưng không thành
do TQ cản phá.
c) Từ 1982, với những chuyển biến
mới trong tình hình quốc tế và sau Đại hội V của Đ__g, chính sách của ta về CPC
cũng từng bước điều chỉnh. Ngày 6/7/1982, Hội nghị 3 Ngoại trưởng VN, Lào CPC họp
ở Vientiane tuyên bố đơn phương rút một bộ phận quân đội VN ở CPC. Ngày 1
8/9/1982, lần đầu tiên Hun Sen tuyên bố: nếu những người trong hàng ngũ Pol Pot
tuyên bố ly khai chúng, tôn trọng Hiến pháp CHND CPC thì sẽ được hưởng quyền
công dân trong bầu cử theo Hiên pháp qui định và sẽ mời người nước ngoài quan
sát cuộc tổng tuyển cử tự do ở CPC.
Trong lúc này, ý định về việc phải
rút quân tình nguyện VN ở CPC về nước là một ý định rõ ràng tuy nhiên việc rút
quân đó phải trên Cơ sở giữ nguyên trạng ở CPC. Ngày 22/2/1983, Hội nghị cấp
cao Đông Dương ở thủ đô Vientiane đã ra tuyên bố về vấn dề quân tình nguyện VN ở
CPC, khẳng định hàng năm, một bộ phận quân đội VN sẽ rút quân tùy theo sự phát
triển của tình hình CPC và Tuyên bố chung của Hội nghị tăng cường hơn nữa quan
hệ đoàn kết đặc biệt giữa 3 nước, quyết định lập Ủy ban hợp tác kinh tế 3 nước
và Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao 3 nước 6 tháng họp một lần là nằm trong Cơ chế
tăng cường hợp tác kinh tế-văn hóa-KHKT giữa 3 nước. Đ/c Lê Duẩn trong hội đàm
cấp cao ba nước đã phát biểu đại ý: chúng ta có SEV lớn ở Đông Âu còn ở
Đông-nam Á, 3 nước chúng ta hình thành một SEV nhỏ.
Tháng 2/1983, BCT ĐảngNhân dân
cách mạng (NDCM) CPC ra Nghị quyết đề ra 3 mục tiêu phấn đấu của cách mạng CPC:
xây dựng thực lực cách mạng; làm cho địch suy tàn; xây dựng đoàn kết VN-CPC,
CPC-Lào. Tháng 5/1983, BCT ta ra Nghị quyết 11 chỉ đạo các ngành, các tỉnh giúp
CPC thực hiện 3 mục tiêu nói trên.
Ngày 3/2/1983, đ/c Nguyễn Cơ Thạch
cùng đ/c Lê Đức Căng (Vụ trưởng Vụ châu Á 2), Trần Như Lịch (thư ký) đến thăm
bí mật CPC. Ngày 4/2/1983, đ/c Thạch làm việc với BCT CPC có mặt: Heng Somrin,
Sai Phuthong, Bouthong, Chao Si, Hun Sen, Chia Soth, Chea Sim. Phía ta có thêm
đ/c Lê Đức Anh và đ/c Ngô Điền.
Đ/c Lê Đức Anh nói: Từ 1979 đến
nay, hàng năm, tùy theo sự phát triển của tình hình CPC, sự suy yếu của địch mà
một bộ phận quân đội VN rút bớt. Năm 1983, đề nghị rút thêm Bộ tư lệnh Quân
đoàn, 1 sư đoàn và 5 trung đoàn trực thuộc binh đoàn. Từ 1981 ta rút không công
khai, từ 1982 việc rút đó có kết hợp với tấn công ngoại giao và đã thu được kết
quả tốt. Lần rút này, đề nghị kết hợp tốt với đấu tranh ngoại giao. TBT Heng
Somrin phát biểu tán thành nhưng đề nghị VN tăng cường giúp quân đội CPC. Việc
rút Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long), đợt rút quân lớn nhất cho đến lúc này, được
tiến hành vào tháng 5/1983, kết hợp với tuyên truyền đối ngoại, đã gây tiếng
vang lớn trên thế giới. Cũng lúc này trên chiến trường CPC là bọn Pol Pot giảm
hoạt động quân sự nhưng đẩy mạnh xây dựng chính quyền 2 mặt. Điển hình là vụ
đánh địch “ngầm” ở Siem Reap tháng 5/1983, sai về phương pháp, phương châm,
đánh vào cán bộ CPC. Ban lãnh đạo chuyên gia toàn CPC đã kiểm điểm và ta đã thi
hành kỷ luật: cảnh cáo trong Ban chấp hành Trung ương Đảngvà rút về nước đ/c
Bùi San (thường trực Ban Lãnh đạo Tổng đoàn chuyên gia ở CPC), kỷ luật lưu Đảngvà
hạ cấp đ/c Hồ Quang Hoá từ Thiếu tướng xuống Đại tá. Ngày 18-19/10/1983, nhân dự
Hội nghị chủ nhiệm Tổng cục chính trị 3 nước, đ/c Chu Huy Mân và Trần Xuân Bách
thay mặt BCT ta xin lỗi Bộ chính trị CPC về sự kiện Siem Reap và thông báo quyết
định kỷ luật của phía ta.
Ngày 15/6/1984, Đại sứ Ngô Điền gặp
TBT Heng Somrin thông báo việc Ngoại trưởng Pháp Claude Cheysson gửi thư cho
Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch đề nghị thu xếp cuộc gặp với Sihanouk nhưng VN
không chấp nhận, chỉ có thể cùng Pháp thu xếp cuộc gặp CHND CPC với Sihanouk.
Heng Somrin nói Sihanouk là kẻ thù trước mắt của CPC và là kẻ thù của 3 nước
Đông Dương.
Ngày 24/9/1984, đ/c Lê Đức Anh gặp
Bộ chính trị CPC tại Phnom Penh. Đ/c Lê Đức Anh phát biểu đại ý: BCT VN hoàn
toàn ủng hộ 3 mục tiêu mà BCT ra nghị quyết tháng 2/1983 nhằm xây dựng lực lượng
cách mạng CPC. Qua thực hiện thấy CPC có nhiều tiến bộ. Cách mạng nước nào là sự
nghiệp của bản thân nhân dân nước đó. Cuối 1978, đầu 1979 do hoàn cảnh rất đặc
biệt của CPC, sự phản bội của chủ nghĩa bành trướng; nhân tố cách mạng, nhân tố
những người cách mạng chân chính CPC bị tàn sát do đó lực lượng cách mạng VN phải
tạo điều kiện cho nhân dân CPC đứng lên xây dựng lại lực lượng cách mạng, tạo
điều kiện cho những người cách mạng chân chính thoát khỏi bàn tay giết người của
Pol Pot.
Do hoàn cảnh đặc biệt đó, lúc đầu
cách mạng CPC phải do 2 lực lượng VN- CPC quyết định nhưng lực lượng quyết định
là cách mạng CPC, không ai có thể làm thay… BCT VN ủng hộ và sẽ giúp thực hiện
3 mục tiêu. Sau khi thực hiện được 3 mục tiêu đó, lúc bấy giờ mới tính giải
pháp chính trị. Trong khi đẩy mạnh xây dựng thực lực cách mạng, hiểu bản chất kẻ
thù, chúng ta có thể vận dụng sách lược để phân hoá hàng ngũ kẻ thù, tranh thủ
sự đồng tình của quốc tế đặc biệt sách lược đó phải làm cho cách mạng mạnh lên.
Trên tinh thần đó BCT VN tán thành cuộc gặp gỡ CHND CPC với Sihanouk. Heng
Somrin và Hun Sen phát biểu nhấn ý thúc đẩy để gặp Sihanouk chỉ dể tìm hiểu chứ
chưa phải là để tìm giải pháp.
Cuối tháng 11 đầu tháng 12/1984,
Hun Sen đi thăm Thụy Điển và đi thăm Pháp để gặp Sihanouk theo sự sắp xếp của
Ngoại trưởng Pháp Claude Cheysson nhưng cuộc gặp không thành do TQ phá. Hun Sen
chỉ gặp người bà con tên là Hun Yendi có quan hệ mật thiết với In Tam, nguyên
Chủ tịch Quốc hội thời Lon Nol và từ đó Hun Sen thiết lập được quan hệ với In
Tam.
Ngày 4/12/1984, anh Trần Xuân
Bách gặp tay đôi với Heng Somrin và tôi đi dịch. Anh Bách thông báo Thủ tướng
Chan Sy ốm phải điều trị lâu dài ở Liên Xô do đó CPC nên cử Quyền Thủ tướng.
Anh Bách nói Chia Soth và Buthong bận quá nên để Hun Sen làm Quyền Thủ tướng.
Heng Somrin nói Hun Sen có khả năng hơn, giải quyết việc nhanh hơn còn Chia
Soth khi bận việc hay ngang ngạnh và hay quên. Ít lâu sau đó, Chan Sy chết vì
ung thư và Hun Sen trở thành thủ tướng từ đó.
Năm 1984, ta và CPC tổng kết
thành tựu 5 năm kể từ 1979, CPC rất phấn khởi, tự tin. Cuối năm 1984 đầu 1985,
mặc dù rất gian khổ và chịu nhiều hy sinh, quân đội VN mở chiến dịch mùa khô tấn
công đánh chiếm toàn bộ các căn cứ của cả 3 phái CPC phản động trên toàn bộ tuyến
biên giới CPC-Thái Lan; đánh chiếm đến đâu ta xây dựng công trình kiên cố, rào
lại toàn bộ biên giới và đưa lực lượng CPC chốt giữ – Lực lượng CPC này có tên
gọi là A.3.
Trên cơ sở thắng lợi lớn về quân
sự đó, Hội nghị 3 Ngoại trưởng lần thứ 11 tại Phnom Penh 16/8/1985 đã ra tuyên
bố nêu nội dung mạnh mẽ nhất về giải pháp chính trị:
VN sẽ đơn phương rút hết quân vào
năm 1990.
CHND CPC sẵn sàng nói chuyện với
cá nhân và các nhóm Khmer đối lập bàn về vấn đề hoà hợp dân tộc trên Cơ sở loại
trừ bọn diệt chủng Pol Pot.
Tuy nhiên, những cố gắng của ta về
đàm phán với TQ, đàm phán về CPC vẫn bế tắc, TQ vẫn giữ đòi hỏi cao về vấn đề
CPC. Trước Đại hội VI, BCT họp ngày 12/6/1986 đã thảo luận và ngày 8/7/1986 đã
ra Nghị quyết 32 về tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của Đảngvà Nhà
nước ta, đánh dấu bước ngoặt trong đấu tranh của ta về CPC và quan hệ với TQ.
Nghị quyết 32 nhận định: “Trong
cuộc đấu tranh hiện nay của nhân dân ta, đế quốc Mỹ là kẻ thù lâu dài và Cơ bản,
bá quyền TQ là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Nhưng trong bối cảnh hiện nay, TQ
lại là đối tượng mà Liên Xô, các nước XHCN và lực lượng tiến bộ trên thê giới
đang tranh thủ đồng thời có đấu tranh”… ” Trong 10 năm qua, chúng ta giành được
những thắng lợi lớn trên mặt trận đối ngoại, đồng thời cũng có một số khuyết điểm
và thiếu sót“.
Nghị quyết đề ra nhiệm vụ đối ngoại
trong tình hình mới và chủ trương: “Ta phải chủ động tạo ra thế ổn định để tập
trung vào xây dựng kinh tế“. Nghị quyết nhận định, do thuận lợi trên thế giới
và thắng lợi của cuộc đấu tranh của ta “đang mở ra khả năng mới cho phép chúng
ta chủ động chuyển sang một giai đoạn đấu tranh mới dưới hình thức cùng tồn tại
hòa bình giữa 3 nước Đông Dương với TQ, với các nước ASEAN, với đế quốc Mỹ, xây
dựng Đông-nam Á thành một khu vực hòa bình, ổn định và hợp tác, tạo điều kiện
quốc tế thuận lợi cho việc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc“. Tình hình CPC đang
có thuận lợi, CPC lớn mạnh và có chỗ dựa là VN, Lào; …”tuy nhiên sự nghiệp cách
mạng CPC phải do nhân dân CPC quyết định“.
Nghị quyết 32 chủ trương: “Để giải
quyết hòa bình vấn đề CPC và Đông- nam Á, chúng ta cần phải đạt được một sự thoả
thuận của các bên có liên quan trực tiếp ở Đông-nam Á, đồng thời chúng ta có thể
và cần ra sức lợi dụng mâu thuẫn giữa bọn đế quốc và bá quyền để đạt một giải
pháp có lợi nhất cho 3 nước Đông Dương. Một giải pháp về CPC phải bảo đảm giữ vững
thành quả cách mạng CPC và cách mạng CPC phải tiến lên, tăng cường khối liên
minh giữa 3 nước với nhau và giữa 3 nước với Liên Xô…” ...“Ta cần tranh thủ
Liên Xô ủng hộ một giải pháp về CPC có lợi cho cách mạng 3 nước Đông Dương. Mặt
khác, một giải pháp về CPC mà không tính đến vai trò của TQ là không phù hợp với
tình hình thực tế cuộc đấu tranh ở CPC và trong khu vực Đông-nam Á. Đồng thời
chúng ta phải tính đến thực tế và kinh nghiệm của ông cha ta. Chúng ta kiên quyết
chống chính sách bá quyền của. TQ đối với ta, đồng thời tranh thủ cùng tồn tại
hòa bình với TQ ” ...“ta có thể vận dụng sách lược linh hoạt với TQ để kéo TQ
đi vào một giải pháp cùng tồn tại hòa bình. Làm được như vậy chúng ta chủ động
tạo được thế mạnh và vững chắc cho cách mạng 3 nước tiếp tục tiến lên.”
2.3 Giai đoạn từ 1986 đến cuối
1989:
a) Bối cảnh quốc tế:
Quan hệ Mỹ-Xô phát triển với cường
độ cao, trong 6 năm 1986 – 1990 có tới 7 cuộc gặp cấp cao đi tới một loạt các
thoả thuận về giảm chạy đua vũ trang, thực hiện Hiệp ước INF, hợp tác giải quyết
các vấn đề khu vực (vấn đề Afghanistan, vấn đề CPC, bán đảo Triều Tiên), mở rộng
quan hệ song phương.
Trước tình hình đó, từ 1989 TQ đã
bỏ qua các trở ngại, kể cả vấn đề CPC để bình thường hóa hoàn toàn quan hệ với
Liên Xô. Cuộc gặp cấp cao Xô-Trung tháng 5/1989 đã bình thường hóa hoàn toàn
quan hệ giữa Liên Xô và TQ, và đã Cơ bản hoàn chỉnh cục diện quan hệ từng đôi một
giữa 3 nước lớn. Từ sau sự kiện Thiên An Môn, quan hệ giữa TQ với Mỹ và phương
Tây giảm xuống mức thấp nhất kể từ 1979, đặt TQ vào thế khó khăn. TQ cần nhanh
chóng khôi phục quan hệ với Mỹ và phương Tây để tiếp tục tranh thủ vốn và kỹ
thuật cho 4 hiện đại, đồng thời cải thiện thế chiến lược trong mối quan hệ giữa
các nước lớn. Đối với các nước láng. giềng, TQ cũng gác lại các vấn đề gây cấn,
đi vào cải thiện quan hệ với Ấn Độ, Mông Cổ, VN…. trên Cơ sở 5 nguyên tắc cùng
tồn tại hòa bình.
Đầu năm 1988, đàm phán về vấn đề
CPC cũng được đẩy mạnh với một loạt các diễn đàn thương lượng: JIM (Jakarta
Informal Meeting)-1 (7/1988), JIM-2 (2/1989), Hun Sen-Sihanouk (1981- 1989), Việt-Trung
(l-5/1989), Hội nghị Paris (8/1989) và việc VN đơn phương rút Bộ tư lệnh quân đội
và một nửa số quân về nước tháng 5/1988 và đơn phương rút hết quân khỏi CPC
(9/1989) đã làm dư luận quan tâm hơn về nguy Cơ diệt chủng trở lại CPC.
Nội dung đấu tranh chính trong thời
gian này là vấn đề phân chia quyền lực trong thời gian quá độ, vấn đề tranh
giành vai trò giữa các bên trong việc đi đến giải pháp và vai trò Liên hợp quốc
trong một giải pháp. Về phía chúng ta, chúng ta vừa đòi giữ nguyên trạng chính
quyền, quân đội trong thời kỳ quá độ và dùng vấn đề diệt chủng để làm còn bài mặc
cả về việc giữ nguyên trạng.
Mỹ từ ủng hộ ASEAN là chính, từ
6/1989 đã chuyển sang chủ động thúc đẩy giải pháp cho vấn đề CPC (James Baker
đưa 3 mục tiêu giải pháp tại Brunei), đồng thời tính đến quan hệ với VN, Đông
Dương “sau CPC”. Tư tưởng chỉ đạo trong chính sách của Mỹ là tìm cách hạn chế tối
đưa vị trí của Khmer Đỏ và Nhà nước CPC nhưng chấp nhận sự tồn tại của cả 2 lực
lượng này để đối trọng lẫn nhau, đồng thời cố đề cao vai trò Sihanouk và Son
San nhằm tác động vào tình hình CPC. Sự chuyển biến đó của Mỹ diễn ra trong bối
cảnh Liên Xô đang gặp nhiều khó khăn ở Đông Âu và trong nước, phải tập trung giải
quyết vấn đề trong nước, giảm dần cam kết và buộc phải từng bước rút khỏi các vấn
đề khu vực, kể cả VN và Đông Dương. Trong tình hình mới Mỹ có yêu cầu hạn chế
vai trò của Liên Xô, ngăn chặn ảnh hưởng của TQ ở khu vực để bảo vệ lợi ích của
Mỹ; vấn đề CPC đã chín muồi cho một giải pháp chính trị, nhiều nước tham gia
vào giải pháp đòi hỏi Mỹ phải chủ động nắm vấn đề để có vai trò.
Trước những khó khăn ngày càng lớn
ở trong nước, Liên Xô từng bước giảm cam kết với VN, CPC và muốn thúc đẩy giải
quyết nốt vấn đề khu vực còn tồn tại là vấn đề CPC, dùng vấn đề này để dàn xếp
với Mỹ và TQ. Liên Xô theo đuổi lập trường về một giải pháp thỏa hiệp, vẫn ủng hộ
VN, CPC nhưng chú ý đến lợi ích của tất cả các bên liên quan và coi trọng vai
trò và lợi ích của TQ.
TQ đứng trước những khó khăn nội
bộ gay gắt, mà đỉnh cao là sự kiện Thiên An Môn 6/1989 làm giảm sút nghiêm trọng
quan hệ TQ với Mỹ và phương Tây. TQ lo ngại quan hệ giữa các nước Đông-nam Á với
VN chuyển theo hướng không có lợi cho TQ; Mỹ và phương Tây lại lên án Khmer Đỏ;
xu hướng đối thoại phát triển. TQ đặc biệt lo ngại thế 2 cực Mỹ-Xô giải quyết
các vấn đề thế giới. Trong vấn đề CPC, tình thế trở nên bất lợi hơn đối với TQ.
Các diễn đàn khu vực (JIM) và giữa các bên CPC, nhất là giữa Hun Sen-Sihanouk
đang phát triển; VN đã rút hết quân khỏi CPC. TQ có thể mất khả năng kiểm soát
vấn đề CPC như trước. TQ thấy cần đi vào giải pháp chính trị về CPC và sử dụng
giải pháp chính trị về CPC phục vụ lợi ích của TQ khai thông quan hệ với Liên
Xô, khôi phục quan hệ với phương Tây nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật phục vụ cho
4 hiện đại và phá thế 2 cực Mỹ-Xô, khẳng định vai trò cường quốc của TQ. Vì vậy,
một mặt TQ cản phá đối thoại Hun Sen-Sihanouk, diễn đàn khu vực, gây sự kiện
Trường Sa, sự kiện biên giới Lào-Thái. Mặt khác, dùng vấn đề CPC để mặc cả với
Liên Xô và Mỹ.
Từ 2/1989, TQ bỏ qua vấn đề CPC
đi vào cấp cao với Liên Xô và từ 3/1989 đi vào thảo luận trong khuôn khổ các nước
lớn ở LHQ theo hướng giảm cam kết với Khmer Đỏ, cùng Mỹ và phương Tây sử dụng lực
lượng trung gian (Sihanouk-Son San) và tìm cách gạt bỏ hoặc hạn chế tối đưa vị
trí của Nhà nước CPC nhằm tạo thế để TQ hàn gắn quan hệ với phương Tây vì lợi ích
4 hiện đại hóa. Đối với ta, TQ luôn đặt giá cao: tháng 10/1982 TQ chỉ đặt điều
kiện VN rút quân, thậm chí chỉ cần có lịch rút quân rõ ràng và rút đợt đầu thì
TQ sẽ tiến hành đàm phán để bình thường hóa quan hệ Việt-Trung. Nhưng tháng
6/1988, sau khi ta rút 1/2 số quân và đặc biệt sau Tuyên bố 5/4/1989 về việc
đơn phương rút hết quân vào 9/1989, TQ lại đặt điều kiện là VN phải giải quyết
hậu quả của việc đưa quân xâm lược CPC, không phải rút là hết trách nhiệm, đòi
lập Chính phủ liên hiệp 4 bên do Sihanouk đứng đầu, lập quân đội 4 bên ngang
nhau.
Trong 2 vòng đàm phán Việt-Trung
(tháng 1 và 5/1989), TQ một mực đòi ta phải giải quyết vấn đề nội bộ CPC “hậu
quả của VN xâm lược CPC” rồi mới bàn việc cải thiện quan hệ 2 nước và tháng
6/1990 đưa kế hoạch 5 bước nhằm thâu tóm việc giải quyết vấn đề CPC. TQ chỉ chấp
nhận đàm phán với ta sau khi tất cả các đối tượng đã chuyển động, VN đã rút
quân từng bước và trong đàm phán với ta, TQ từ đầu chí cuối giữ một lập trường
rất cứng rắn, không thay đổi – tôi muốn nhấn mạnh không thay đổi - là ta phải
giải quyết vấn đề CPC như điều kiện tiên quyết để cải thiện quan hệ hai nước,
VN phải rút hết quân khỏi CPC và phải chấp nhận một giải pháp chính trị về CPC
theo ý muốn của TQ.
Trong giai đoạn này, các nước
ASEAN, nhất là Thái Lan, có bước phát triển nhanh về kinh tế, từ đó có nhu cầu
bảo đảm ổn định để phát triển, đồng thời đối phó khả năng Xô-Trung, Việt-Trung
bình thường hóa quan hệ, dàn xếp giải pháp CPC không có lợi cho họ. Thủ tướng
Thái Chatichai lên cầm quyền tháng 8/1988 đã đưa ra chính sách biến Đông Dương
từ chiến trường thành thị trường, lập Bán đảo Vàng, bao gồm 3 nước Đông Dương,
Thái Lan, Miến Điện, lấy Thái Lan làm trung tâm để lập một khu vực kinh tế và
thị trường của tư bản Thái Lan. Theo hướng đó, Thái Lan cải thiện quan hệ với
Lào, VN và có quan hệ trên thực tế với Nhà nước CPC. Với cương vị là nước lớn,
Indonesia đại diện cho ASEAN đưa ra dàn xếp giải pháp với VN, Đông Dương, đưa tới
các diễn đàn JIM.
Pháp ra sức làm trung gian dàn xếp
các cuộc gặp Hun Sen-Sihanouk ở Paris (12/1987, 1 và 11/1988, 7/1989) và từ
tháng 4/1989 đưa ra vấn đề họp hội nghị quốc tế về CPC ở Paris để nắm vai trò ở
Đông-nam Á.
b) Diễn biến của cuộc đấu tranh:
Có thể chia thành 2 thời đoạn:
1986 đến tháng 5/1988 khi có Nghị quyết 13 Bộ Chính Trị và từ 5/1988 đến đầu
1990.
* Thời đoạn 1986 – 1988: Thời kỳ
bắt đầu đàm phán nhưng chỉ mang tính chất thăm dò.
Nghị quyết 32 của Bộ Chính trị
ngày 8/7/1986 nêu vấn đề cần đạt giải pháp chính trị về vấn đề CPC và đi vào
bình thường hóa quan hệ với TQ. Tuy nhiên việc triển khai Nghị quyết 32 có những
khó khăn do phải chuẩn bị Đại hội VI. Tại Đại hội VI (12/1986) ta đã sửa lời
nói đầu của Điều lệ Đảngnói về TQ, không còn coi Trung.Quốc là kẻ thù. Dịp Đại
hội VI, ba TBT VN, Lào, CPC trao đổi ý kiến và nhất trí cần đi vào bình thường
hóa quan hệ với TQ. Các đ/c Lào tỏ phấn khởi và chủ trương bình thường hóa.với
TQ, đ/c Kaysone [Phomvihan] còn nói: chúng ta có mục tiêu chung như đàn sếu bay
cùng một hướng nhưng có thể có con bay trước, có con bay sau, ý nói là để Lào
bình thường hóa quan hệ với TQ trước rồi Lào thúc đẩy TQ bình thường hóa quan hệ
với VN.
Sau Đại hội ĐảngVI, ngày
7/3/1987, BCT họp xem xét đề án đấu tranh ngoại giao do Bộ Ngoại giao trình, nhận
định TQ có hai mặt: vừa tồn tại nhân tố XHCN, vừa có chính sách bá quyền. Đánh
giá về chiến lược TQ đối với Đông Dương, BCT nêu 3 khả năng: một là tiếp tục đối
đầu, hai là cùng tồn tại hòa bình; ba là đi vào hợp tác hữu nghị. Trên tinh thần
đó, ta chủ trương tấn công ngoại giao trên 2 mũi: đề nghị TQ-VN đàm phán bí mật
tạo khuôn khổ cho giải pháp CPC, mặt khác CPC ra tuyên bố về chính sách hoà hợp
dân tộc. Ta chủ trương làm với TQ là quan trọng đồng thời thúc đẩy các diễn đàn
khác.
Ở Bộ Ngoại giao, để triển khai đấu
tranh cho một giải pháp chính trị về CPC, đã tiến hành thành lập CP.87. Đ/c Trần
Quang Cơ được phân công chỉ đạo trực tiếp bộ phận này. Thường trực gồm có các
đ/c Đặng Nghiêm Hoành, Nguyễn Thương, Nguyễn Phượng Vũ, Trần Xuân Mận, Bùi Văn
Thanh và Vụ trưởng một số Vụ trong Bộ; giúp việc có các đ/c Nguyễn Mạnh Hùng,
Nguyễn Ngọc Trường, Nguyễn Duy Hưng, Hồ Xuân Sơn…
Sau cuộc họp 7/3/1987 của BCT,
đ/c Lê Đức Thọ đã sang thăm và làm việc với Lào (từ 9-16/3/1987) và cuối tháng
4 cùng với đ/c Lê Đức Anh sang CPC, trong đoàn có các đ/c Trần Quang Cơ, Trần
Xuân Mận. Tiếp theo đó đã tiến hành họp 2 BCT Việt-Lào (9-10/5/1987) và BCT
VN-CPC (12-13/5/1987) để triển khai việc thúc đẩy giải pháp chính trị về CPC và
quan hệ với TQ.
Đến thời đoạn này, có thể nói rằng
vấn đề CPC đang đi vào giải quyết, đàm phán đã mở ra nhưng mỗi bên đều giữ giá
cao, chưa thật sự muốn giải quyết vấn đề. VN có yêu cầu bức bách là giải quyết
vấn đề CPC, bình thường hóa quan hệ với TQ, phá thế bị bao vây cô lập để tập
trung khắc phục khủng hoảng kinh tế-xã hội trong nước. Trong khi đó, ta có khó
khăn trong việc thuyết phục CPC đi vào đánh và đàm để tiến tới giải pháp chính
trị và việc gợi ý về một Giải pháp Đỏ cũng không làm vừa lòng lãnh đạo CPC. Ý đồ
nhất quán của lãnh đạo CPC là muốn ăn cả bằng một giải pháp quân sự, coi cả Khmer
Đỏ và cả Sihanouk đều là đối thủ nguy hiểm, chỉ miễn cưỡng tán thành giải pháp
chính trị khi ta góp ý kiến. Nội bộ CPC có rất nhiều tâm tư, lo ngại khi đi vào
giải pháp; khi bàn chuẩn bị đi vào giải pháp 4/1987, Ney Pena, Uỷ viên BCT nói
lâu nay CPC làm được một số việc nhưng với điều kiện có VN bên cạnh, nay quân
VN định rút hết không biết sẽ thế nào. Hun Sen nói: Chúng nó về thì chúng nó sẽ
làm thịt những người tích cực trước hết là chúng ta. Còn Bou Thong và Chia Soth
nói chúng nó sẽ mua chuộc cán bộ với giá rẻ lắm, chỉ cần vài “chỉ” cũng đánh
ngã được khối người.
Còn về bạn Lào cũng không ít tâm
tư, ngày 20/9/1987, Đại sứ Nguyễn Xuân từ Lào về nói với anh em phụ trách Vụ
Châu Á 2: ý Lào là VN nên rút bài học đừng lập lại sai lầm cũ ở Genève 1954 về CPC;
giải pháp phải bảo đảm chắc chắn thành quả cách mạng CPC; cần tranh thủ
Sihanouk để phân hoá hàng ngũ đối phương, nên xem lại chuyên gia VN ở CPC có áp
đặt và thiếu tôn trọng CPC không ? Tuy nhiên, theo sự gợi ý của ta, ngày
30/6/1987, BCT CPC ra nghị quyết về đấu tranh ngoại giao, CHND CPC ra tuyên bố
về chính sách hoà hợp dân tộc (27/8/1987), ra tuyên bố 5 điểm về lập trường về
một giải pháp chính trị cho vấn đề CPC (8/10/1987) và thành lập nhóm B.1 như
CP.87 của ta để chuẩn bị đi vào giải pháp chính trị.
Ngày 29/7/1987, gặp gỡ giữa Ngoại
trưởng Nguyễn Cơ Thạch và Ngoại trưởng Indonesia Moctar tại thành phố Hồ Chí
Minh thoả thuận sẽ tổ chức tiệc rượu (coctail party) để bàn về vấn đề Đông-nam
Á và vấn đề CPC.
Ngày 2/12/1987, Hun Sen gặp
Sihanouk lần đầu tại Fère-en-tardenois, ngoại ô Paris ký được Thông cáo chung về
một giải pháp chính trị cho vấn đề CPC. Lần thứ 2, Hun Sen-Sihanouk lại gặp
nhau ngày 20/1/1988 tại Saint- German-en-Lay (Paris). Tuy nhiên các cuộc gặp gỡ
này còn mang nặng tính chất thăm dò, ý kiến khác nhau vẫn về xử lý Khmer Đỏ, về
lực lượng gìn giữ hòa bình quốc tế (IPKF) và sự tồn tại của Chính phủ CPC.
Tháng 12/1987, BCT ta ra quyết định
số 35 và 36 về đổi mới quan hệ với ĐảngLào và ĐảngCPC, quyết định giải tán Ban
lãnh đạo Tổng Đoàn chuyên gia ở CPC, cố vấn cao cấp bên cạnh ĐảngLào và Ban
công tác miền Tây. Quyết định rút chuyên gia ở CPC, Lào; quan hệ Đảngsẽ tiến
hành trực tiếp qua đại diện 2 BCT, quan hệ Nhà nước thông qua 2 Đại sứ.
Ngày 5/1/1988, đ/c Lê Đức Anh đại
diện BCT VN sang CPC bí mật làm việc với BCT ĐảngCPC về đổi mới quan hệ, quyết
định: thôi tổ chức chuyên gia cấp cao bên cạnh Trung ương Đảngvà Nhà nước CPC
và đổi mới quan hệ theo tinh thần quyết định 35, 36 sẽ rút hết chuyên gia trong
năm 1988 và giúp CPC đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang CPC để rút 5 vạn quân
CPC trong năm 1988.
Ngày 3/6/1988, đ/c Lê Đức Anh một
lần nữa sang CPC làm việc với BCT ĐảngCPC và thoả thuận đến tháng 1/1989 sẽ từng
đợt rút hết chuyên gia dân sự ở CPC và lấy ngày 28/6/1988 làm mốc kết thúc giai
đoạn ĐảngVN giúp CPC xây dựng Đ__g, bộ máy Nhà nước và đoàn thể quần chúng ở
CPC và tháng 6/1988 cũng chấm dứt hoạt động của Đoàn chuyên gia quân sự VN.
Tháng 7/1988, Đoàn chuyên gia đối ngoại bên cạnh Bộ Ngoại giao CPC cũng chấm dứt
hoạt động.
Với TQ, ngày 20/5/1987, Bộ Ngoại
giao kiến nghị với BCT cần sửa đổi Lời nói đầu của Hiến pháp đoạn nói về TQ
nhưng việc triển khai thực hiện có khó khăn mãi đến ngày 28/6/1988, Quốc hội mới
có Nghị quyết thông qua việc này. Ngày 26/6/1987, Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch
gặp Đại sứ TQ chuyển Message Oral của đ/c Phạm Văn Đồng đề nghị hai nước đàm
phán bí mật. Ngày 22/8/1987, Ngoại trưởng TQ Ngô Học Khiêm nói chưa trả lời
Message đó vì không muốn chấp nhận sự việc đã rồi ở CPC.
Ngày 14/3/1988, TQ tấn công ta ở Trường
Sa. Ta ra tuyên bố bảo vệ chủ quyền ta, không ai ủng hộ kể cả Lào và Liên Xô mặc
dù lúc này đang có cuộc họp tư vấn ba nước Đông Dương với Liên Xô ở Phnom Penh
và ta đã trực tiếp vận động Liên Xô, mãi đến khi ta đề nghị thương lượng, Liên
Xô mới ủng hộ.
Cũng giai đoạn này bắt đầu xuất
hiện ý kiến về Giải pháp Đỏ, nhưng việc thực hiện gặp khó khăn.
Cuối tháng 4/1987, khi đ/c Lê Đức
thọ và Lê Đức Anh sang CPC làm việc với lãnh đạo CPC bàn về giải pháp chính trị
kể cả Giải pháp Đỏ, CPC không đón tiếp và chiêu đãi; hai đ/c lãnh đạo ăn, ở tại
Bộ Tư lệnh 719. Dịp này Sứ quán tổ chức chiêu đãi, nhiều lãnh đạo CPC như Chea
Sim, Sai Phuthong lấy cớ “mệt”, ”đau bụng” để từ chối lời mời.
Ngày 22/12/1987, ta và CPC tán
thành gợi ý của Liên Xô là Liên Xô gửi Message Oral cho Ngoại trưởng TQ đề nghị
Liên Xô và TQ góp phần dàn xếp một cuộc gặp gỡ giữa CHND CPC và Khmer Đỏ, nếu
TQ đồng ý, Liên Xô sẵn sàng tiếp xúc 2 nước ở cấp Ngoại trưởng. TQ đã không đáp
ứng đề nghị đó.
Ngày 30/7/1988, Hun Sen nói với
đoàn ngoại giao ở Phnom Penh: Bọn Khmer Đỏ là thú chứ không phải là người,
chúng không thay đổi bản chất, nhân dân CPC không chấp nhận chúng. Chúng tôi rất
hiểu Khmer Đỏ, mong các đ/c hiểu cho, bọn này không chơi được, nếu chỉ CPC
không thôi thì không chấp nhận chúng. Nay ta muốn giải pháp nên cần có TQ, do
đó mà chấp nhận chúng về chính trị. Riêng CPC không có TQ cũng giải quyết được…
nhưng CPC liên quan đến xung quanh. VN cần bình thương hoá quan hệ với TQ.
Ngày 19/9/1988 Hun Sen nói tại Hội
nghị tài chính ám chỉ chuyên gia ta là “cộng sản tả khuynh”, là “người điên”.
Ngày 12/10/1988, trao đổi với anh
Ngô Điền, sau khi phê phán Liên Xô nhượng bộ TQ, ép CPC thoả hiệp với TQ, Khmer
Đỏ đánh đồng “tội phạm và nạn nhân”, và không tôn trọng các nước bạn, Hun Sen
nói: “VN cũng có đ/c nói phải nhượng cái gì để giữ thể diện cho Bắc Kinh. Năm
1987, tôi cũng đã tính đến Giải pháp Đỏ, bọn Khmer Đỏ, trừ bọn đầu sỏ, có thể
tham gia, xin lỗi với nhân dân rồi hoà hợp dân tộc. Nay tôi đã suy nghĩ nhiều,
tiếp xúc với dân ở nhiều nơi, trực tiếp gặp bọn Khieu Samphan, tôi nhận thức rõ
dứt khoát không chơi với bọn này được, phải giải tán lực lượng của chúng…”
Ngày 7/1/1989, Hun Sen xuất bản
quyển sách “CPC – con đường 10 năm” dành một đoạn dài nói về Giải pháp Đỏ, phê
phán những suy nghĩ về Giải pháp Đỏ, cho quan điểm đó là “sai lầm và nguy hiểm”,
là “điều phi lý và trái đạo đức khi đánh đồng bọn tội phạm Pol Pot với nạn nhân
của bọn tội phạm” rồi kết luận “Giải pháp Đỏ là con đường nguy hiểm rất lớn cho
nhân dân CPC, nó không thể nào hình thành được, bởi vì chúng ta không “Đỏ” như
kiểu người ta hiểu là có thể hòa đồng vào với cái “Đỏ” của Pol Pot được”.
** Thời đoạn 1988 đến đầu 1990:
Giai đoạn đàm phán đi vào nội dung thực chất.
Nghị quyết 13 BCT ngày 20/5/1988
chủ trương giải quyết vấn đề CPC trước năm 1990 và phấn đấu bình thường hóa
quan hệ với TQ. Nghị quyết BCT nói rõ: “Phấn đấu bình thường hóa quan hệ với TQ
là một quá trình đấu tranh gay go, phức tạp, đòi hỏi có thời gian. Sau khi bình
thường hóa, quan hệ 2 nước khó trở lại ngay như những năm 50, 60. Cuộc đấu
tranh tiếp tục dưới nhiều hình thức khác, không như tình trạng đối đầu như hiện
nay… Chúng ta phải luôn luôn cảnh giác, chuẩn bị tốt về mọi mặt khi bước vào cuộc
đấu tranh mới, làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn xấu hòng làm suy yếu ta, “diễn
biến hòa bình”, chia rẽ, phá hoại nội bộ, chia rẽ 3 nước VN, Lào, CPC“. Cần
phòng ngừa, khắc phục những tư tưởng lệch lạc: chỉ thấy giới hạn TQ là bá quyền,
không thấy TQ là XHCN hoặc chỉ thấy TQ là nước XHCN mà không thấy bá quyền,
bành trướng.
Đối với Lào và CPC: “Việc Lào và
CPC sẽ đi lên CNXH hoặc phát triển theo con đường dân tộc, dân chủ nhân dân là
do Đảngvà nhân dân 2 nước đó quyết định, phù hợp với điều kiện thực tế và nguyện
vọng nhân dân nước đó“… “Vấn đề CPC phải giải quyết với TQ nhưng cho đến nay TQ
chưa muốn trực tiếp giải quyết với ta vấn đề CPC. Vì vậy, ta cần tiếp tục kiên
trì mở ra nhiều hướng khác nhau (Hun Sen-Sihanouk, VN-Indonesia, VN-Thái Lan,
ASEAN- Đông Dương, VN-Mỹ…) để thúc đẩy và kéo TQ vào giải quyết. Dù giải quyết
trực tiếp với TQ hay với các đối tượng khác thì việc giải quyết vấn đề CPC cũng
phục vụ mục tiêu bình thường hóa với TQ, không nhằm chống TQ“. Thực hiện Nghị
quyết 13 BCT, ta đã có một loạt hoạt động rất quan trọng để thúc đẩy giải quyết
vấn đề CPC và phấn đấu bình thường hóa quan hệ với TQ.
Với Trung Quốc
Thực hiện Nghị quyết 32 và nghị
quyết đại hội VI từ 1986, ta đã có nhiều hành động thiện chí để giảm căng thăng
trong quan hệ Việt-Trung, thôi coi TQ “là kẻ thù trực tiếp, nguy hiểm“, có nhiều
động tác quan trọng để chứng tỏ ta không tiếp tục chống TQ và phấn đấu bình thường
hóa với TQ, kiên trì đề nghị đàm phán (từ khi TQ cắt vòng 2 đàm phán Việt-Trung
ở Bắc Kinh 6/3/1980 đến cuối 1986 ta đã 16 lần gửi công hàm và thư đề nghị họp
lại vòng 3 và đàm phán bí mật) nhưng TQ đều bác bỏ.
Ngày 28/6/1988, Quốc hội có nghị
quyết và ngày 27/12/1988, Quốc hội chính thức thông qua Lời nói đầu của Hiến
pháp sửa đổi đoạn nói về TQ.
Ngày 15/7/1988, Ngoại trưởng Nguyễn
‘Cơ Thạch gặp Đại sứ TQ nêu một loạt biện pháp để giảm căng thẳng quan hệ 2 nước;
chấm dứt hoạt động vũ trang trên biên giới đất liền và hải đảo, không bên nào
đóng ở điểm cao trên đường biên, giảm quân về phía sau để tránh xung đột, ở điểm
nóng Vị Xuyên cũng làm như vậy, tạo điều kiện cho dân biên giới qua lại thăm họ
hàng, hai bên chấm dứt tuyên truyền chống đối nhau, và đề nghị hai bên đàm phán
bất cứ cấp nào kể cả cấp cao, bất cứ lúc nào, ở đâu, bí mật hoặc công khai. Và
sau đó, ta đã đơn phương thực hiện những đề nghị nói trên (2/8/1988), Ban Tuyên
huấn Trung ương ra thông tư 94 về hướng dẫn tuyên truyền với TQ; mở một số cửa
khẩu cho dân biên giới qua lại thăm nhau và trao đổi hàng thiết yếu hàng ngày…
Ngày 7/10/1989, Đặng Tiểu Bình tiếp
đ/c Kaysone [Phomvihan], TBT Lào, sang thăm chính thức TQ để bình thường hóa
quan hệ hai Đ__g, hai nước khi đề cập vấn đề bình thường hóa quan hệ với VN, Đặng
chỉ nêu điều kiện là VN rút hết quân. Ngày 6/11/1989, Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch
gặp Đại sứ Trương Đức Duy chuyển thông điệp miệng của TBT Nguyễn Văn Linh gửi Đặng
Tiểu Bình mong bình thường hóa quan hệ 2 Đ__g, 2 nước, mong gặp Đặng. TQ không
trả lời. Ngày 28/11/1989, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch gửi thư cho Bộ
trưởng Bộ Ngoại giao [TQ] Tiền Kỳ Tham nhắc lại thông điệp miệng của TBT Nguyễn
Văn Linh và khẳng định VN sẵn sàng gặp lại TQ cấp Bộ trưởng hoặc Thứ trưởng
trong tháng 12/1989. Ngày 12/12/1989, Đại sứ TQ Trương Đức Duy gặp Bộ trưởng
Nguyễn Cơ Thạch thông báo thông điệp miệng của Đặng Tiểu Bình gửi đ/c Nguyễn
Văn Linh: “VN rút quân sạch sẽ, triệt để và lập chính phủ liên hiệp lâm thời 4
bên do Sihanouk đứng đầu là hai vấn đề hạt nhân thiết thực cần đồng thời giải
quyết. Phía TQ sẽ suy xét dề nghị của VN về mở vòng thương lượng ở cấp Thứ trưởng,
nếu VN chấp nhận một cơ chế giám sát quốc tế do Liên hợp quốc chủ trì có 4 bên
tham gia để kiểm chứng VN rút quân và lập chính phủ liên hiệp lâm thời 4 bên do
Sihanouk đứng đầu trong giai đoạn quá độ”.
Sau Nghị quyết 13 BCT và điều chỉnh
của TQ ở Hội nghị BCT [ĐCS TQ tại] Bắc Đới Hà tháng 9/1988, ta và TQ đã tiến
hành hai vòng đàm phán cấp Thứ trưởng ngoại giao ở Bắc Kinh (16/1/1989;
8-10/5/1989). Trong 2 vòng đàm phán này, ta chủ trương chỉ bàn mặt quốc tế của
vấn đề CPC còn TQ đòi phải bàn cả mặt nội bộ và đặt điều kiện có giải quyết
xong vấn đề CPC mới bàn bình thường hóa quan hệ 2 nước. Đàm phán không kết quả.
Như trên vừa nói, tháng 12/1989 ta đề nghị nối lại đàm phán, TQ đặt điều kiện
VN rút quân “sạch sẽ”, lập chính phủ 4 bên do Sihanouk đứng đầu, nhận Liên hiệp
quốc giám sát thì TQ “sẽ suy xét” đề nghị của VN về nối lại đàm phán cấp Thứ
trưởng. Trong tình hình bế tắc đó, từ 3-9/5/1990, Thứ trưởng Đinh Nho Liêm đi Bắc
Kinh “kiểm tra công tác sứ quán” và thực chất đã tiến hành vòng 3 đàm phán.
Trong lần đàm phán này, ta tỏ mềm dẻo hơn là có thể trao đổi ý kiến về một giải
pháp toàn diện nhưng không thể quyết định về vấn đề nội bộ CPC. Đàm phán vòng 3
có một số tiến triển, TQ đòi 4 bên nhưng không đòi ngang nhau, không đòi chính
phủ lâm thời nhưng đòi Hội đồng tối cao mang tính chất chính phủ; về diệt chủng,
ta tán thành không nói quá khứ nhưng phải đề cập về tương lai; hai bên hẹn gặp
tiếp tháng 6/1990 ở Hà Nội.
Về vấn đề Campuchia
Thực hiện Nghị quyết 13 của BCT,
ta và bạn thoả thuận rút hết chuyên gia quân sự dân sự ở CPC về nước, tháng
5/1988 tuyên bố rút 5 vạn quân trong năm 1988 và ngày 5/4/1989 tuyên bố đơn
phương rút hết quân vào tháng 9/1989.
Nhân đây cũng nói thêm rằng giữa
đ/c TBT Nguyễn Văn Linh và đ/c Nguyễn Cơ Thạch có ý kiến không hoàn toàn giống
nhau về vấn đề rút quân: đ/c Thạch muốn rút quân gắn với giải pháp chính trị,
ít nhất là có thỏa thuận quốc tế về chấm dứt viện trơ quân sự cho các bên CPC để
làm con bài mặc cả, còn đ/c Nguyễn Văn Linh thấy không cần. Dịp đ/c Linh sang
thăm Liên Xô ngày 20/7/1988, đ/c Linh đã nói với Liên Xô rằng VN sẽ rút hết
quân vào tháng 9/1989 nhưng không nói điều kiện, Liên Xô đã đưa công khai điều
này. Ngày 6/1/1989, sang CPC dự 10 năm giải phóng CPC, cùng đi có đ/c Trần
Quang Cơ, đ/c Nguyễn Văn Linh phát biểu trong mít tinh ở Hội trường Bassac:“Hôm
nay, VN tuyên bố hoàn toàn nhất trí với CHND CPC về quyết định rút toàn bộ số
quân tình nguyện VN còn lại ra khỏi CPC vào tháng 9/1989.
Việc rút hết quân VN khỏi CPC phải
đặt song song với việc chấm dứt viện trợ quân sự của nước ngoài cho tất cả các
bên CPC, chấm dứt sử dụng lãnh thổ nước ngoài làm đất thánh chống lại nhân dân
CPC. Những điều thoả thuận này phải được tiến hành dưới sự kiểm soát quốc tế có
hiệu quả“.
Khi đưa tin, ta cố gắn vế rút
quân với chấm dứt viện trợ quân sự, thực chất ý Anh Linh không gắn 2 vấn đề
này; mãi đến 5/4/1989, Chính phủ ta mới ra tuyên bố rút quân đơn phương vào
9/1989. Việc VN quyết định rút hết quân VN khỏi CPC đã có tác động thúc đẩy đàm
phán, tiếp theo mở ra hàng loạt diễn đàn về giải pháp CPC: JIM-1 (7/1988), vòng
3 Hun Sen-Sihanouk (11/1988), Nhóm làm việc của JIM (l0/1988), JIM-2 (2/1989),
vòng 4-5-6 Hun Sen- Sihanouk (4 và 7/1989, 2/1990), và các diễn đàn Việt-Mỹ, Việt-
Thái, CPC-Thái.
Đỉnh cao của các diễn đàn là Hội
nghị quốc tế Paris tháng 7/1989. Tại Hội nghị, phía bên kia đòi VN rút quân,
xóa bỏ Nhà nước CPC; phía ta một mực đòi phải loại trừ vĩnh viễn bọn diệt chủng;
phía bên kia lên án VN xâm lược CPC, đưa người VN định cư đến xâm chiếm CPC
(colons vietnamiens), đòi giải tán nhà nước và quân đội CPC và Hội nghị không
đi đến kết quả nào. Hội nghị quốc tế Paris kéo dài từ 30/7 đến 31/8/1989 nhưng
không thành công là do nhiều nguyên nhân. TQ và 3 phái CPC chỉ muốn giải quyết
vấn đề CPC trên cơ sở xoá bỏ Nhà nước CPC, mặt khác TQ còn hy vọng làm thay đổi
tình hình sau khi VN rút hết quân tháng 9/1989. Về phía Nhà nước CPC, sau chuyến
đi Thái Lan ngày 25/1/1989 của Hun Sen theo lời mời của Thủ tướng Chatichai và
tiếp xúc với nhóm Chaovalít từ tháng 6/1988, CPC có phần ảo tưởng ở Thái Lan và
đánh giá không đúng lực lượng của bản thân mình nên Hội nghị Trung ương lần thứ
9 từ 30/6 đến 5/7/1989 ngay trước Hội nghị quốc tế Paris tháng 7/1989 quyết tâm
ăn cả bằng một giải pháp quân sự; Nghị quyết nói: “Đối với giải pháp chính trị
cho vấn đề CPC, mọi cố gắng của ta đều đặt trong phạm vi không có giải pháp“.
Ngày 12/7/1989, đ/c Trần Quang Cơ
sang CPC thông báo gợi ý của ta về đấu tranh tới (vòng 5 Hun Sen-Sihanouk; Hội
nghị quốc tế Paris), Hun Sen phát biểu trong cuộc họp BCT nghe đ/c Cơ trình
bày: “Nghị quyết 9 đã hạ quyết tâm không có giải pháp chính trị nhưng bên ngoài
vẫn phải tỏ thiện chí phấn đấu cho một giải pháp về mặt quốc tế. Không ngại nội
chiến. Sẽ không nhắc lại việc mở rộng chính phủ mời Sihanouk trở về mà chỉ nêu
phương án lập HĐ Hòa hợp Dân tộc và đề nghi lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp chuẩn
bị cho Quốc hội tương lai để giữ cầu với Sihanouk trong cuộc gặp tới với
Sihanouk“. Lúc này tình hình Đông Âu cũng bắt đầu diễn biến phức tạp mở đầu bằng
việc Công đoàn Đoàn kết lên cầm quyền ở Ba Lan, đã làm tăng thêm lực cản của
phía ta về việc đi vào giải pháp chính trị cho vấn đề CPC. Ngày 10/8/1989, Hun
Sen (ở Phnom Penh) lại điện cho Anh Thạch ở Paris là: Vấn đề mở rộng chính phủ
cho Sihanouk trở về là vấn đề sách lược đấu tranh để phân hoá kẻ thù. Nếu
Sihanouk chấp nhận thảo luận, chúng ta sẽ đưa ra những đòi hỏi cao hơn nữa, trước
hết là xoá Pol Pot và thậm chí đi đến đòi xoá lực lượng Sihanouk và nếu cần thiết
sẽ đưa ra những đòi hỏi khác để ngăn chặn vai trò của Sihanouk hoặc ngăn không
cho Sihanouk trở về.
Về phía VN, mặc dù có Nghị quyết
13 BCT nhưng khi thực hiện có nhiều trục trặc, ý kiến khác nhau và chúng ta
cũng còn ý muốn ăn cả ở CPC như Nghị quyết 13 nói: một giải pháp chính trị về
CPC “phải bảo đảm thành quả cách mạng CPC”. Trong đàm phán về giải pháp CPC lúc
này, chúng ta giữ 3 nguyên tắc: bảo vệ thành quả cách mạng CPC, kiên quyết loại
diệt chủng Pol Pot; không chấp nhận lực lượng gìn giữ hòa bình IPKF. Chúng ta
chủ trương mềm dẻo trên 3 điểm: thành phần Chính phủ liên hiệp; giữ nguyên trạng;
chấp nhận Uỷ ban quốc tế về kiểm soát giám sát. Mặt khác, trong lúc này chúng
ta đánh giá quá cao thành tựu đạt được mỗi khi có những tiến triển nhất định về
đàm phán, cụ thể như:
Gặp gỡ đ/c Nguyện Cơ Thạch và Ngoại
trưởng Indonesia ở thành phố HCM 29/7/1987 thoả thuận về “tiệc rượu”.
Tại JIM-1 (7/1988), ta đạt được
ghi vào Tuyên bố của Chủ tịch là không để diệt chủng trở lại. Chúng ta nhận định
với việc rút 5 vạn quân tháng 5/1988, cuộc đấu tranh về CPC “đã thay đổi tính
chất từ chỗ đòi VN rút quân sang đòi ngăn chặn nguy cơ diệt chủng trở lại CPC“…
“đã đưa đến sự tập hợp lực lượng mới có lợi cho 3 nước“.
Đề án đấu tranh từ tháng 9/1988 đến
cuối năm 1988 nhận định “có 4 khả năng giải quyết vấn đề CPC: a) Một giải pháp
toàn diện bao gồm mặt nội bộ và quốc tế; b) Một giải pháp bao gồm toàn bộ mặt
quốc tế và chỉ một phần mặt nội bộ; c) Một giải pháp về mặt quốc tế, mặt nội bộ
giải quyết sau; d) VN rút hết quân đơn phương vào năm 1990 và không có giải
pháp chính trị. Khả năng nào cũng có mặt lợi, mặt phức tạp. Tuỳ tình hình sẽ
tính.”… “Mục tiêu chính của ta là: vấn đề mấu chốt là tăng cường lực lượng cách
mạng CPC… làm tan rã trên thực tế liên hiệp 3 phái, cô lập làm suy yếu lực lượng
Khmer Đỏ”
Ngày 16/10/1988, Đại sứ Nguyễn
Xuân trao đổi với đ/c Kaysone Phomvihan về đề án này thì đ/c Kaysone nói: “Điều
quyết định là lực lượng cách mạng CPC. Nếu VN rút quân mà CPC đứng vững được
thì không cần giải pháp chính trị”.
Lúc này có nhân tố mới là
Chatichai lên cầm quyền ở Thái, chủ trương biến Đông Dương từ chiến trường
thành thị trường; ngày 28/10/1988, Lào thu xếp để Hun Sen bí mật gặp Tướng
Chaovalít26 ở Vientiane (và Chaovalít cũng gặp đ/c Trần Văn Quang, Thứ trưởng Bộ
Quốc phòng), Hun Sen-Chaovalít thoả thuận cơ chế giữ liên lạc 2 bên; tháng
1/1989, Chatichai mời Hun Sen thăm chính thức Thái; VN rút 5 vạn quân nhưng
tình hình CPC không thay đổi lớn. Tình hình đó củng cố thêm ý định VN rút quân,
không có giải pháp mà CPC vẫn đứng vững.
Ngày 11/2/1989, BCT họp cho ý kiến
về đề án đấu tranh ngoại giao trong thời gian tới. Đề án nhận định “hiện nay mặt
quốc tế của vấn đề CPC cơ bản đã được giải quyết đồng thời có nhiều thuận lợi gắn
việc giải quyết vấn đề CPC với việc lập khu vực hòa bình, tự do, trung lập ở
Đông-nam Á“, nhận định về 4 khả năng giải quyết vấn đề CPC (như đề án tháng
l0/1988). Khi xin ý kiến, đ/c Phạm Văn Đồng phát biểu với đ/c Nguyễn Dy Niên
ngày 10/2/1989 như sau: “Cần tính khả năng rút quân 9/1989. Trong tình hình này
phải tính nói chuyện với TQ. Đàm phán VN-TQ lúc này là quan trọng. Ta đừng để
nó mất thể diện. Xem có thể đi nhanh về bình thường hóa quan hệ. Ta hiểu TQ, biết
họ là bành trướng, biết âm mưu ý đồ của họ. Đã biết thì không ngại“.
Tuy nhiên ngày 16/2/1989, đ/c
Nguyễn Cơ Thạch sang CPC họp 3 Bộ trưởng ngoại giao chuẩn bị cho JIM- 2, đ/c Thạch
đã báo cáo với BCT CPC về chiến lược đấu tranh cho thời gian tới. Đ/c Thạch
trình bày:“Tháng 7/1988, chúng ta đánh giá rằng có 4 khả năng, đồng thời nhất
trí cho rằng khả năng thứ tư, không có giải pháp, là không có lợi cho chúng ta.
Lúc đó cũng thấy rằng tốt nhất là giải quyết mặt quốc tế, còn mặt nội bộ thì giữ
nguyên. Bây giờ chúng tôi cũng nghĩ rằng tốt nhất là giải pháp bộ phận, nhưng
so với tháng 7/1988 thì bây giờ tình hình có khác. Bây giờ không có giải pháp
không phải là xấu. Vì trước kia Thái Lan là đất thánh, nay Thái Lan khác rồi,
TQ cũng khác nên nếu không có giải pháp chúng ta vẫn sẽ rút quân mà không sợ.
Không có giải pháp thì mình ăn cả. Cho nên bây giờ chúng tôi cho rằng giải pháp
bộ phận là tốt, nhưng không có giải pháp cũng không phải là xấu… Sau khi VN rút
hết quân mà không có giải pháp chính trị thì Sihanouk và Son San có thể phải
xin về tham gia CHND CPC, chứ không phải đòi xóa CHND CPC nữa. Có thể các đ/c
nên tính sau khi VN rút hết quân thì Quốc hội CHND CPC nên ra tuyên bố về nền
trung lập vĩnh viễn của CPC“… “Hiện nay chúng ta đang chuyển sang giai đoạn đấu
tranh mới. Chúng ta phải tranh thủ những nhân tố, đồng thời phải củng cố lực lượng”
… “Chúng ta đều hết sức phấn khởi trước những thắng lợi của cách mạng CPC. Một
năm trước đây chúng ta không nghĩ được rằng tình hình sẽ thuận lợi như thế
này“.
Ngày 30/4/1989, Quốc hội CPC ra
tuyên bố về nền trung lập vĩnh viễn của CPC và đổi tên từ CHND CPC thành Nhà nước
CPC (Etat du Cambodge và State of Cambodia) theo yêu cầu của Sihanouk. Ngày
2/5/1989, tiến hành vòng 3 Hun Sen- Sihanouk tại Jakarta (Indonesia) đạt kết quả,
Sihanouk hứa sẽ trở về CPC sau khi VN rút quân, thôi đòi giải tán CHND CPC.
Trước tình hình đó, Hội nghị
Trung ương 9 ĐảngCPC ra nghị quyết ăn cả bằng giải pháp quân sự (5/7/1989) và Hội
nghị quốc tế Paris về CPC tháng 7/1989 thất bại.
Sau thất bại ở Hội nghị quốc tế
Paris, để tìm một giải pháp toàn bộ, những cố gắng để đạt giải pháp từng bước
(sáng kiến của Chatichai về kiểm chứng rút quân VN (9/1989), nhân chuyến thăm
Thái Lan lần thứ 2 của Hun Sen, tuyên bố của Ngoại trưởng Xô-Mỹ ngày 23/9/1989
về moratorium [đình hoãn] việc cung cấp viện trợ cho các bên CPC…) đều không đạt
kết quả. Cuộc đọ sức trên chiến trường CPC cho thấy không bên nào ở CPC có thể
giành thắng lợi hoàn toàn bằng quân sự. 4 ngày sau khi VN rút quân, lực lượng
Son San đã đánh chiếm Thmar Pouk27; ngày 22/1 0/1989, Khmer Đỏ đánh chiếm
Pailin28 và uy hiếp thị xã Battambang, ta đã phải đưa lực lượng đặc biệt lên
giúp bạn.
Cũng từ thời gian này, nội bộ ta
lại bộc lộ ra những khác biệt về nhận định đánh giá tình hình trước những chuyển
biến nhanh chóng ở Đông Âu. Nghị quyết 13 chủ trương thúc đẩy giải pháp chính
trị cho vấn đề CPC và bình thường hóa quan hệ với TQ được Nghị quyết Trung ương
6 khẳng định lại. Nhưng trong quá trình thực hiện đã gặp không ít khó khăn, đặc
biệt là trong thái độ xử lý quan hệ với TQ. Sau sự kiện Trường Sa (14/3/1988)
và việc TQ tiếp tục gây căng thẳng trong quan hệ với ta, bác bỏ các đề nghị cải
thiện quan hệ của ta, giữa các ngành đã xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau, và
không khí chung là không thuận lợi cho việc bình thường hóa quan hệ với TQ theo
Nghị quyết 13 của BCT. Một số ý kiến cho rằng, trong khi TQ đang chống ta thông
qua vấn đề CPC và tìm cách lấn chiếm biên giới 2 quần đảo của ta, việc ta rút
quân khỏi CPC, sứa Điều lệ Đ__g, sửa Hiến pháp… là sự hy sinh chủ quyền lãnh thổ
của đất nước, chủ trương của BCT về giảm tuyên truyền chống đối nhau cũng không
được thực hiện đầy đủ; thậm chí còn có ý kiến cho rằng ngoại giao hữu khuynh
trong quan hệ với TQ.
Mặt khác, trong Trung ương, một số
ngành và ngay trong BCT cũng đã bắt đầu xuất hiện một số ý kiến khác nhau về
đánh giá sự kiện Thiên An Môn (6/1989), đánh giá TQ cũng như đánh giá Liên
Xô-Đông Âu. Tại Hội nghị Trung ương 7, ý kiến rất khác nhau về thái độ của ta
khi Công đoàn Đoàn kết lên cầm quyền ở Ba Lan (7/1989), báo Nhân dân có xã luận
về sự kiện này. Trong hội nghị Trung ương 8 (27/3/1990), một số ý kiến đặt vấn
đề về sự đúng đắn của Nghị quyết 13 và những bước đi của ta với TQ và trong vấn
đề CPC. Tuy nhiên, sự khác nhau chưa bộc lộ rõ nét. Trung ương và BCT vẫn khẳng
định Nghị quyết 13 là đúng đắn, đ/c TBT Nguyễn Văn Linh đã phát biểu về vấn đề
này tại Hội nghị Trung ương 8 (26/3/1990) khi tiếp thu ý kiến phê bình của
Trung ương đối với BCT.
Đến đầu năm 1990, những ý kiến
khác nhau trong BCT từ giữa năm 1989 bộc lộ rõ nét hơn. Có ý kiến nhấn mạnh mặt
XHCN của TQ và thấy cần phải hợp tác với TQ để bảo vệ XHCN chống Mỹ và các thế
lực đế quốc khác, nhất là từ sau sự kiện Thiên An Môn, sau khủng hoảng trầm trọng
của Liên Xô, Ba Lan, Đức, Rumani và các nước Đông Âu khác. Từ những cách đánh
giá đó đã dẫn đến ý kiến khác nhau về phương hướng đấu tranh cho một giải pháp
chính trị về CPC. Sự thật là: Ngày 11/11/1989, BCT họp bàn và thông qua đề án đấu
tranh ngoại giao về vấn đề CPC. Trên cơ sở đánh giá tình hình quân sự, chính trị
trên chiến trường và xu thế chung trên thế giới, ta chủ trương cần phấn đấu đạt
một giải pháp chính trị về CPC, đề ra 3 phương án về Cơ quan quyền lực ở CPC
trước tổng tuyển cử (thấp nhất là giữ nguyên bộ máy 2 chính phủ đang tồn tại, lập
Chính phủ liên hiệp hai bên ở Trung ương để tổ chức tổng tuyển cử và thực hiện những
điều thoả thuận).
Ngày 24/11/1989, Ngoại trưởng
Australia Gareth Evans đưa ra sáng kiến dùng công thức Namibia để trống vấn đề
quyền lực ở CPC trong thời kỳ quá độ, Liên hợp quốc kiểm soát và tổ chức tổng
tuyên cử.
Ngày 2/12/1989, đ/c Nguyễn Cơ Thạch,
theo chỉ thị của BCT, đã sang bàn với BCT CPC, phân tích cuộc chiến tranh ở CPC
là một cuộc nội chiến, VN không thể đưa quân trở lại, tính chất quốc tế của vấn
đề CPC, xu thế của thế giới và bàn với bạn cần đấu tranh để đạt một giải pháp
chính trị để giành thắng lợi từng bước. BCT CPC hoàn toàn nhất trí với 3 phương
án trên, đồng thời đồng ý với ý kiến đ/c Thạch cần nghiên cứu việc sử dụng vai
trò Liên hợp quốc như sáng kiến của Ngoại trưởng Australia G. Evans ngày
24/11/1989. Phải nói thêm rằng đ/c Thạch khi trên máy bay sang Phnom Penh mới đọc
thư của Evans về sáng kiến 24/11/1989 và đến nơi, đ/c Thạch sửa lại bản trình
bày tinh thần như BCT cho ý kiến 11/11/1989 nhưng thêm phương án sử dụng vai
trò Liên hợp quốc. Về phía những người CPC, khi thấy có phương án Liên hợp quốc
thì họ bập ngay cho là Liên hợp quốc ít phức tạp và nguy hiểm hơn là liên minh
với lực lượng CPC đối lập. Đ/c Thạch nói phương án Liên hợp quốc cần xin thêm ý
kiến BCT VN.
Hội nghị BCT ta họp 14h30′ ngày
6/12/1989 có mặt Cố vấn Phạm Văn Đồng và 7 Uỷ viên BCT: Võ Chí Công, Đỗ Mười,
Nguyễn Đức Tâm, Trần Xuân Bách, Đổng Sĩ Nguyên, Nguyễn Cơ Thạch và Đào Duy Tùng
(lúc này đ/c Nguyễn Văn Linh đang nghỉ ốm do bị cảm lạnh khi đi dự Quốc khánh ở
CHDC Đức tháng l0/1989) đã bàn về sáng kiến của Australia và nhất trí ngoài 3
phương án BCT cho ý kiến ngày 11/11/1989, thêm phương án sử dụng vai trò Liên hợp
quốc thành 4 phương án. Ngày 9/12/1989, đ/c Lê Mai vừa kết thúc nhiệm kỳ Đại sứ
ở Thái Lan về được uỷ nhiệm sang Phnom Penh trao đổi với BCT CPC và BCT CPC
hoàn toàn đồng ý với ý kiến BCT ta. BCT CPC đã triệu tập kỳ họp Trung ương lần
thứ 10 từ ngày 10-15/1/1990 để bàn đi vào giải pháp chính trị và ngày
18/1/1990, Quốc hội CPC đã họp thông qua việc để Liên hợp quốc tổ chức tổng tuyển
cử và uỷ quyền cho Hun Sen đàm phán về vấn đề này.
Với TQ: Bằng nghị quyết 13 BCT, với
những động tác quan trọng của Đảngvà Nhà nước ta trong quan hệ Việt-Trung (sửa
lời nói đầu của Điều lệ Đảng(12/1986), sửa Hiến pháp (6/12/1988) không còn coi
TQ là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm, giảm tuyên truyền chống TQ, mở cửa biên giới,
VN đơn phương rồi cả 2 bên chấm dứt hoạt động quân sự trên biên giới, tuyên bố
nới lỏng trong việc sử dụng cảng Cam Ranh… trên thực tế ta đã đơn phương giải
quyết hết những điều mà TQ cho ta là dùng để chống TQ. Có thể nói đến tháng
12/1988, TQ không còn lý do gì để nói VN có những chính sách và hành động chống
TQ, một trong hai vấn đề TQ coi là VN chống TQ từ 10 năm qua không tồn tại nữa.
Tồn tại là vấn đề CPC. Việc VN tuyên bố rút 5 vạn quân bằng 1/2 số quân còn lại
ở CPC và rút Bộ Tư lệnh quân tình nguyện VN ở CPC (tháng 5/1988) đã làm tác động
mạnh mẽ xu hướng thúc đẩy một giải pháp cho vấn đề CPC, các nước lớn do lợi ích
của mình không muốn VN rút quân mà không có giải pháp, duy trì nguyên trạng ở
CPC, chính vì vậy phương Tây có thái độ mềm dẻo hơn, đáp ứng phần nào yêu cầu của
phía ta trên vấn đề diệt chủng. Tuyên bố của Ngoại trưởng Mỹ ở Hội nghị PMC
ASEAN 9/7/1988 ở Bangkok đã đưa đến kết quả cuộc gặp không chính thức về CPC ở
Jakarta 25/7/1988 (JIM-1) khẳng định có 2 vấn đề trong giải pháp cho vấn đề CPC
là rút quân VN đi đôi với việc ngăn chặn việc phục hồi chế độ diệt chủng Pol
Pot.
Chuyển biến của thế giới đối với
vấn đề CPC, sự thay đổi trong quan hệ Xô-Mỹ trong quan hệ quốc tế và trong việc
giải quyết các vấn đề quốc tế đã đưa đến việc TQ điều chỉnh chính sách đối ngoại
của mình thể hiện ở Hội nghị BCT ở Bắc Đới Hà tháng 9/1988. Với VN, TQ đã từng
bước hoà dịu trong quan hệ trên thực tế (giảm căng thẳng trên biên giới, trao đổi
hàng hoá và đi lại thăm hỏi, làm ăn ở biên giới theo đề nghị của lãnh đạo ta
qua tiếp xúc giữa Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch và Đại sứ TQ ngày 15/7/1988) và
chấp nhận đi vào đàm phán cấp Thứ trưởng Ngoại giao với ta để trao đổi về vấn đề
CPC và quan hệ hai nước. Tuy nhiên TQ vẫn coi vấn đề CPC là điều kiện tiên quyết
để cải thiện quan hệ Việt-Trung. Một mặt TQ duy trì “3 trở ngại” để mặc cả
trong cải thiện quan hệ với Liên Xô mặt khác TQ đặt thêm điều kiện về vấn đề
CPC trong cải thiện quan hệ với VN. Cần nhắc lại rằng tháng 10/1982 trong đàm
phán Xô- Trung và trong tuyên bố chính thức của Bộ Ngoại giao TQ ngày 1/3/1983,
TQ chỉ đặt điều kiện VN rút quân, thậm chí chỉ cần có lịch rút quân rõ ràng thì
TQ sẽ tiến hành đàm phán để đi đến bình thường hóa quan hệ Việt- Trung. Từ
6/1988 khi VN rút 1/2 số quân và Bộ Tư lệnh quân tình nguyện VN ở CPC, đặc biệt
sau tuyên bố 5/4/1989 của VN, CPC đơn phương rút quân tình nguyện VN về nước
vào tháng 9/1989, TQ lại đặt thêm điều kiện là VN “phải giải quyết hậu quả của
VN đưa quân xâm lược CPC” không phải VN rút hết quân là xong trách nhiệm, đòi
VN phải lập Chính phủ liên hiệp lâm thời 4 bên do Sihanouk làm Chủ tịch và phải
chấp nhận bộ máy giám sát của Liên Hợp quốc (trong khi Liên hợp quốc ủng hộ
Khmer Đỏ giữ ghế ở Liên Hợp quốc và ra nhiều nghị quyết bất lợi cho VN) kiểm chứng
VN rút “hết mọi loại lực lượng VN” ở CPC làm điều kiện để nối lại đàm phán đề
bình thường hóa quan hệ với VN. Trong khi đàm phán TQ một mực đòi VN phải giải
quyết vấn đề nội bộ CPC “hậu quả của VN xâm lược CPC” thì TQ mới bàn việc cải
thiện quan hệ 2 nước. (Tuyên bố của Bộ Ngoại giao TQ ngày 1/7/1988 sau khi VN
rút 5 vạn quân). Trong khi đó, cách xử sự của TQ với Liên Xô thì khác hơn.
Tháng 5/1989, trong khi “3 trở ngại” trong quan hệ Trung-Xô chưa được giải quyết
TQ vẫn đón TBT Gorbachov thăm chính thức TQ, cải thiện quan hệ cả về mặt Đảngvà
Nhà nước với Liên Xô. Tháng 10/1989, khi TBT Lào Kaysone Phomvihan thăm TQ, Đặng
Tiểu Bình chuyển message oral cho TBT Nguyễn Văn Linh chỉ nêu yêu cầu VN rút
quân nhưng ngày 6/11/1989 khi TBT Nguyễn Văn Linh gửi message oral bày tỏ mong
muốn bình thường hóa quan hệ với TQ, đề nghị tiếp xúc cấp cao với TQ thì ngày
12/12/1989 trả lời message oral đó TQ lại đặt thêm điều kiện VN ép Phnom Penh lập
Chính phủ liên hiệp lâm thời 4 bên do Sihanouk đứng đầu và chấp nhận Liên Hợp
quốc giám sát thi hành Hiệp định thì TQ mới “suy xét” việc đàm phán cấp Thứ trưởng
ngoại giao với VN.
4. Giai đoạn từ đầu 1990 đến cuối
1991:
Các nước lớn áp đặt giải pháp về
Campuchia và Việt Nam không kiểm soát được vấn đề Campuchia nữa. Từ đầu năm
1990, mở đầu cho thời kỳ hoà hoãn giữa 3 nước lớn mà chủ yếu là sự hợp tác Xô-Mỹ,
đồng thời mở đầu cho việc 3 nước lớn dùng cơ chế 5 nước thường trực HĐBA (P.5)
giải quyết vấn đề CPC và vấn đề vùng Vịnh. Đây là chuyển biến rất quan trọng, từ
chỗ 3 nước lớn trao đổi từng cặp với nhau về vấn đề CPC, nay hình thành cơ chế
5 nước đề áp đặt giải pháp vào CPC theo sự thỏa hiệp lợi ích của họ với nhau.
Việc ta và CPC chấp nhận sử dụng vai trò Liên hợp quốc và xem xét sáng kiến của
Australia để giải quyết vấn đề phân chia quyền lực bị bế tắc ở Hội nghị quốc tế
Paris đã một lần nữa thúc đẩy mạnh mẽ các diễn đàn để giải quyết vấn đề CPC: Bí
thư thường trực Australia Costello thăm CPC và VN 7/1/1990, Informal meeting on
Cambodia (IMC) (Jakarta 26/2/1990), các cuộc họp 5 nước Hội đồng Bảo an, vòng 6
Hun Sen-Sihanouk (Bangkok.- 22/2/1990). Tại IMC 26-28/2/1990, một lần nữa vấn đề
diệt chủng đã ngăn cản mọi thoả thuận, Khmer Đỏ phủ quyết dự thảo thoả thuận có
ghi vấn đề diệt chủng, IMC thất bại; đ/c Thạch gặp Ngoại trưởng Indonesia Ali
Alatas với sự có mặt của hầu hết cán bộ chủ chốt của Bộ Ngoại giao Indonesia,
đ/c Thạch phê phán rất mạnh Alatas nhu nhược, dung túng cho Khieu Samphan,
Alatas bị bẽ mặt, quan hệ của Alatas với đ/c Thạch xấu hẳn đi.
Thất bại của Mặt trận giải phóng
Sandino trong bầu cử ở Nicaragua 25/2/1990 và thất bại của cuộc họp IMC-Jakarta
(28/2/1990) đã tác động mạnh mẽ vào nội bộ ta về phương hướng giải quyết vấn đề
CPC. Ngày 8 và 10/3/1990, đ/c Lê Đức Thọ gặp đ/c Nguyễn Cơ Thạch, Đinh Nho
Liêm, Trần Quang Cơ nêu ý kiến: “cần có chuyển hướng chiến lược trong đấu tranh
về vấn đề CPC. Kinh nghiệm Genève 1954, Paris 1973 là phải đàm phán với lực lượng
mạnh nhất, chủ yếu nhất. Ở CPC, phải giải quyết với TQ, nếu không giải quyết với
TQ thì không giải quyết được. Hướng tới là nên bàn với TQ để giải quyết, không
thể gạt Khmer Đỏ, cần mềm dẻo về vấn đề diệt chủng, không thể chấp nhận để Liên
hợp quốc tổ chức tổng tuyển cử ở CPC. Cần mềm dẻo về vấn đề diệt chủng, không
thể gạt Khmer Đỏ. Có thể đưa ra 2 phương án cao thấp: lập HĐ Dân tộc Tối cao 4
bên có hệ thống dọc hoặc Chính phủ liên hiệp lâm thời 2 bên gồm 4 phái để tổ chức
tổng tuyển cử và soạn thảo Hiến pháp. Liên hợp quốc chỉ giám sát và kiểm soát
thi hành Hiệp định. Trước Đại hội VII, phải giải quyết một bước cơ bản vấn đề
CPC để khai thông vấn đề đối ngoại cùng vấn đề đối nội khác, tạo không khí phấn
khởi chung. Liên Xô, Đông Âu khó khăn; Lào đã đi với TQ, ta giải quyết được với
TQ là phù hợp nhất.
Từ 8-20/3/1990, TBT Heng Somrin
đi nghỉ ở Hà Nội có dịp gặp gỡ đ/c Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Thọ,
Lê Đức Anh trao đổi về tình hình Liên Xô Đông Âu, Nicaragua, tình hình CPC. Đ/c
Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh nêu phải cảnh giác với Liên hợp quốc, không thể để
Liên hợp quốc tổ chức tổng tuyển cử ở CPC. Từ đây CPC chuyển sang phương án SNC
tổ chức tổng tuyển cử, không tán thành Liên hợp quốc tổ chức tổng tuyển cử.
Hội nghị BCT ta ngày 10/4/1990 đã
bàn về phương hướng thúc đẩy giải pháp chính trị về vấn đề CPC. Hội nghị BCT thấy
không nên giao cho Liên Hợp quốc tổ chức tổng tuyển cử mà nên trở lại phương án
3 mà BCT thông qua 11/11/1989 (lập Chính phủ liên hiệp 2 bên ở Trung ương để tổ
chức tổng tuyển cử). Trong hội nghị, đ/c TBT Nguyễn Văn Linh có ý kiến: “VN, TQ
là hai nước XHCN cùng chống âm mưu đế quốc xoá bỏ XHCN, phải cùng chống đế quốc,
trước hết phải phát triển quan hệ 2 nước, các vấn đề khác giải quyết sau” … “Một
CPC thân thiện với TQ, thân thiện với VN là tốt nhất. Trên cơ sở điểm đồng này
mà giải quyết vấn đề CPC có lợi cho CPC“‘. “Phương án 3 là tốt, không để Liên Hợp
quốc nhúng tay vào vì Liên Hợp quốc là Mỹ; Thái Lan là Mỹ”. Hội nghị BCT quyết
định cử đ/c Nguyễn Cơ Thạch đi CPC bàn với BCT CPC. (Ngày 17/4/1990, đ/c Thạch
sang CPC thông báo, BCT CPC không tán thành.)
Ngày 20-21/5/1990, nhân dịp kỷ niệm
100 năm ngày sinh Hồ Chủ tịch, TBT VN, Lào, CPC họp hẹp dành nhiều thời gian
phân tích tình hình thế giới, âm mưu của đế quốc chống CNXH, về những biến đổi
phức tạp ở Liên Xô, Đông Âu. Ba đ/c TBT trao đổi thấy cần thực hiện Giải pháp Đỏ
ở CPC. Phía CPC đề nghị về nước xin ý kiến tập thể BCT để BCT CPC quyết định rồi
sẽ thông báo cho VN để VN thăm dò TQ. Heng Somrin về Phnom Penh để Hun Sen chờ ở
Hà Nội. Ngày 26/5/1990, Sar Kheng29 ra Hà Nội báo cáo Hun Sen ý kiến BCT CPC,
ngày 27/5/1990 Hun Sen lần lượt làm việc riêng với đ/c Đỗ Mười, Lê Đức Anh,
Nguyễn Cơ Thạch thông báo BCT CPC họp bỏ phiếu 10/16 tán thành Giải pháp Đỏ.
Như phần trên đã trình bày thực
chất Nhà nước CPC muốn ăn cả bằng một giải pháp quân sự, coi cả Khmer Đỏ và
Sihanouk đều là đối thủ nguy hiểm. Việc VN thuyết phục CPC và CPC chấp nhận đi
vào giải pháp chính trị là điều miễn cưỡng và khi có điều kiện thì CPC trở lại
chủ trương giành thắng lợi bằng một giải pháp quân sự, điển hình là quyết tâm của
Hội nghị Trung ương ĐảngCPC lần thứ 9 (7/1989).
Từ khi VN rút hết quân khỏi CPC,
quan hệ CPC với VN chuyển sang giai đoạn mới. Càng đi gần vào giải pháp thì lợi
ích của CPC và lợi ích của ta ngày càng kênh nhau lớn. Ngay khi kiểm điểm rút hết
chuyên gia và Ban lãnh đạo đoàn chuyên gia ở CPC (6/1988), những người lãnh đạo
CPC đã bộc lộ ngay phản ứng, bộc lộ ý kiến khác ta, cho ta là áp đặt về vấn đề
cán bộ CPC, hậu quả CPC phải gánh chịu, cho VN là “cộng sản tả khuynh” “người
điên” “duy ý chí” bằng việc áp đặt CPC chuyển gia giai đoạn “quá độ đi lên
CNXH” trong khi CPC không có cơ sở gì của CNXH30. Ngay sau khi ta rút hết
chuyên gia (tháng 8/1988) CPC thay đổi ngay hàng loạt cán bộ lãnh đạo cấp cao kể
cả chức vụ thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảngvà tiến hành Hội nghị cán bộ Đảngtoàn
quốc để xác định lại giai đoạn là CPC phải hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân chứ không phải bước vào thời kỳ quá độ đi lên CNXH như VN góp ý kiến đồng
thời thay đổi hàng loạt chính sách kinh tế theo hướng kinh tế thị trường tự do;
Mặt khác CPC “thanh toán sòng phẳng mọi nợ nần” với VN: gửi công hàm xoá bỏ việc
VN nợ gạo và tiền (831.790.000 riels) để nuôi quân tình nguyện VN trong 10 năm
chiến đấu ở CPC (16/7/1988 và 30/5/1989).
Ngày 9-10/7/1988, đ/c Nguyễn Cơ
Thạch thăm bí mật CPC với danh nghĩa Đặc phái viên TBT ta. Ngày 10/7 đ/c Nguyễn
Cơ Thạch thông báo ý kiến của BCT ta lấy đường Brévié làm biên giới trên biển
giữa 2 nước. Ngày 25/7, Hun Sen gặp anh Ngô Điền, Hun Sen đề nghị ký sớm biên
giới trên biển theo đường Brévié trước khi đàm phán vòng 3 với Sihanouk
(l0/1988). Hun Sen nói cán bộ CPC nhất là trí thức rất mừng khi nghe BCT VN khẳng
định lấy đường Brévié; trước đây nghe kế hoạch chia đôi vùng nước lịch sử họ có
thắc mắc và lo lắng. Ngày 10/9/1988, BCT VN họp bàn lại thấy việc ký Hiệp ước
biên giới trên biển thấy phức tạp, đề nghị CPC hoãn lại, lý do cần tập trung giải
pháp, VN còn quân, ký bây giờ địch sẽ xuyên tạc. Được chỉ thị, đ/c Ngô Điền xin
gặp Hun Sen không được nên viết giấy để lại về ý kiến BCT hoãn ký đường Brévié.
Mãi đến 12/10/1988 gặp anh Ngô Điền, Hun Sen mới nói đồng ý chưa làm gì về đường
Brévié.
Về Giải pháp Đỏ, CPC nhiều lần ám
chỉ xa gần là do VN cần bình thường hóa quan hệ với TQ và lợi ích của VN mà VN
ép CPC đi vào Giải pháp Đỏ, cho đó là điều “phi đạo lý, phi đạo đức”, “đánh đồng
nạn nhân diệt chủng và tội phạm diệt chủng” và kết luận rằng lãnh đạo CPC không
“Đỏ” để đi vào Giải pháp Đỏ với Pol Pot như có người tưởng…
Việc ta thuyết phục CPC đi vào giải
pháp chính trị và tán thành sáng kiến của Ngoại trưởng Australia dùng vai trò
Liên Hợp quốc để không dùng vai trò Khmer Đỏ và Sihanouk trong thời kỳ quá độ
đã làm cho bạn “nhẹ nhõm” trong việc chấp nhận đi vào giải pháp chính trị. Một
tháng sau khi ta thông báo ý kiến của BCT (9/12/1989) chấp nhận sử dụng vai trò
Liên hợp quốc, CPC đã chủ động triệu tập ngay Hội nghị toàn thể Trung ương Đảnglần
thứ (10- l0/1/1990) để thông qua chủ trương đi vào giải pháp chính trị (mặc dù
trước đó 5 tháng trong Hội nghị Trung ương 9, CPC đã quyết tâm giành một thắng
lợi hoàn toàn bằng quân sự và triệu tập kỳ họp của Quốc hội (18/1/1990) để
thông qua nghị quyết cho phép Liên Hợp quốc tổ chức tổng tuyển cử ở CPC. (Ngày
11/8/1990, Hun Sen nói với đ/c Ngô Điền đại ý: CPC lo ngại bọn 3 phái hơn là
Liên hợp quốc. Chấp nhận Liên hợp quốc hoặc cho SNC trong đó có 3 phái tổ chức
tổng tuyển cử liên quan đến quyết định chiến lược có đi vào giải pháp chính trị
hay không). Với những suy nghĩ đó TBT Heng Samrin miễn cưỡng chấp nhận ý kiến của
TBT ta là không nên chấp nhận cho Liên Hợp quốc tổ chức tuyển cử ở CPC (tháng
3/1990) và ngày 17/4/1990 khi đ/c Nguyễn Cơ Thạch sang CPC thông báo với BCT
CPC ý kiến của BCT ta trong Hội nghị BCT ngày 10/4/1990. BCT CPC không chấp nhận
áp dụng phương án 4 (lập Chính phủ liên hiệp 2 bên để tổ chức Tổng tuyển cử). Cảnh
giác với Liên hợp quốc và không chấp nhận thoả hiệp về vấn đề diệt chủng, cho rằng
thoả hiệp về vấn đề này là phủ nhận cuộc đấu tranh 10 năm qua của cán bộ lãnh đạo
CPC, phủ nhận tính chính nghĩa của sự có mặt của quân tình nguyện VN ở CPC. Nó
sẽ tạo điều kiện cho bọn Khmer đối lập tiêu diệt những cán bộ lãnh đạo của Nhà
nước vì không có diệt chủng họ ắt phải là “phản quốc”, VN vào CPC ắt là “xâm lược”.
Mặt khác, BCT CPC đề nghị ta góp ý để CPC đơn phương tổng tuyển cử vào đầu năm
1990.
Từ 24-30/4/1990, Chea Sim sang VN
kiểm tra sức khoẻ, gặp làm việc với đ/c Lê Đức Anh và Nguyễn Cơ Thạch. Đ/c Thạch
nhắc lại BCT VN chỉ gợi ý phương án 4 như đ/c Thạch trình bày ở Phnom Penh ngày
17/4/1990, tuỳ BCT CPC quyết định. Chea Sim nhắc lại là nên đề Liên hợp quốc tổ
chức tổng tuyển cử tốt hơn đồng thời đề nghị ta giúp CPC đơn phương tổ chức tổng
tuyển cử.
Phải nói rằng việc ta khuyên CPC
đi vào Giải pháp Đỏ (từ 1987), gợi ý việc chấp nhận vai trò Liên hợp quốc
(12/1989) rồi bác vai trò Liên hợp quốc (3/1990), khuyên CPC đi vào phương án 3
(4/1990) và đi vào Giải pháp Đỏ (hội đàm 3 TBT 20-21/5/1990) là khác với lợi
ích của những người lãnh đạo CPC muốn ăn cả bằng một giải pháp quân sự. Việc
BCT CPC không chấp nhận gợi ý của BCT ta trong cuộc hội đàm 17/4/1990 đánh đấu
bước ngoặt mới trong quan hệ VN-CPC sau khi VN rút hết quân khỏi CPC và sau khi
CPC đã có quan hệ với Thái Lan (từ tháng 6/1988). Ngay sau khi chấp nhận Giải
pháp Đỏ trong cuộc gặp 3 TBT 20-21/5/1990, trong cuộc họp BCT CPC ngày
30/5/1990, Chea Sim đã nói “Nếu đi vào giải pháp quá sớm, chúng ta sẽ tự treo cổ
ta“31. Ngày 1/6/1990, Hun Sen nói với đ/c Nguyễn Cơ Thạch ở sân bay Nội Bài
trên đường đi Tokyo gặp Sihanouk: “BCT CPC thấy giải pháp như đã thoả thuận giữa
3 đ/c TBT (Giải pháp Đỏ) cũng có nhiều khó khăn.”
Hun Sen cho rằng sự hợp tác có
nhiều khó khăn vì 3 nhân tố:
Bọn Pol Pot là bọn rất cực đoan cả
về cách mạng và rất cực đoan về chủ nghĩa dân tộc.
Sau hơn 10 năm đánh nhau, việc hợp
tác giữa 2 quân đội không thể dễ dàng được.
Bọn Pol Pot sẽ cố gắng đưa một số
Đảngviên lớn hơn số Đảngviên hiện nay của ĐảngNDCM CPC để giành đa số trong một
Đảnghợp nhất.
Trong khi trong nội bộ ta và ta với
CPC có nhiều ý kiến khác nhau như vậy thì bên ngoài, 5 nước lớn khẩn trương
hoàn chỉnh Hiệp định khung về giải pháp toàn diện về CPC với vai trò lớn của
Liên hợp quốc như Quốc hội CPC đã chấp nhận ngày 10/1/1990. Ngày 15-16/12/1989,
5 nước thường trực HĐBA/LHQ (P-5) họp lần đầu cấp Thứ trưởng tại Paris ra thông
cáo nêu 16 nguyên tắc để chỉ đạo tìm kiếm giải pháp toàn bộ cho vấn đề CPC, bảo
đảm quyền tự quyết của CPC thông qua tổng tuyển cử tự do, công bằng và dân chủ;
với vai trò tăng cường của Liên hiệp quốc (enhance the role of the United
Nations). Ngày 11 – 12/2/1990, P-5 họp vòng 2 cấp Thứ trưởng tại New York tập
trung bàn về 2 vấn đề quân sự và cơ chế chính quyền quá độ ở CPC nhưng chưa có
thoả thuận cụ thể; vòng 3 họp ngày 12- 13/3/1990 tại Paris thoả thuận những
nguyên tắc chính về 3 vấn đề: tổ chức tổng tuyển cử; lập Hội đồng dân tộc tối
cao (SNC); quyền lực lâm thời của Liên hợp quốc.
Trên chiến trường CPC, sau khi VN
rút quân vào cuối tháng 9/1989, ngày 22/10/1989, bọn Pol Pot phản công đánh chiếm
thị trấn Pailin và uy hiếp thị xã Battambang. Ngày 26/10, CPC yêu cầu ta chi viện.
Đ/c Lê Đức Anh sang CPC xem xét tình hình. Ngày 29/10/1989, ta đưa lực lượng đặc
biệt lên Battambang cả bằng không quân và đường bộ để hỗ trợ cho CPC gồm 3
trung đoàn (E9 của F339, El của F330 và E20 của F4) do đ/c Sáu Phú, Phó Tư lệnh
Quân khu 9 chỉ huy. Ngày 11/1/1990, Heng Somrin có công hàm khẩn gửi đ/c Nguyễn
Văn Linh, đề nghị hoãn rút lực lượng đặc biệt ở Battambang và yêu cầu gửi thêm
lực lượng bảo vệ Sisophon và Sam Rong. Ta không đáp ứng, ngày 15/1/1990, đ/c
Đoàn Khuê lên CPC bàn với Bộ Quốc phòng CPC: ta rút lực lượng đặc biệt, ngoài số
1.265 chuyên gia và nhân viên kỹ thuật, ta đưa một bộ phận lực lượng đặc biệt
này vào số chuyên gia, tăng số chuyên gia lên gấp đôi (do CPC trả lương từ
70-150 USD/tháng, theo như thoả thuận giữa hai Bộ Quốc phòng sau khi Bộ Tư lệnh
VN ở CPC rút đi tháng 5/1988) bao gồm một số bộ phận bảo vệ cho chuyên gia, số
lực lượng tăng cường này lúc cần có thể tham gia chiến đấu nhưng không chủ động
chiến đấu. CPC chấp nhận phương án này, sau một thời gian nữa nếu không cần thì
rút bớt. Trên thực tế, nếu số đó quá đông mà trả lương theo Đô la như thoả thuận
từ 5/1988 thì CPC cũng không kham nổi. Lực lượng chuyên gia quân sự bên cạnh Bộ
quốc phòng CPC lấy tên là K-88.
Từ giai đoạn này, tình hình chuyển
biến rất nhanh chóng, ta phải đối phó rất căng thẳng vì tình hình diễn biến rất
khẩn trương mà nhận thức của chúng ta lại rất khác nhau; cộng thêm sức ép của
việc chuẩn bị cho Đại hội VII trong khi đó, ở Bộ ngoại giao có thêm sức ép là
đ/c Uỷ viên BCT phụ trách Bộ ngoại giao có khả năng thay đổi, thuyên chuyển.
Từ 3-9/5/1990, đ/c Thứ trưởng ngoại
giao Đinh Nho Liêm đi Bắc Kinh tiến hành vòng 3 đàm phán VN-TQ với danh nghĩa
là đi “kiểm tra công tác của Sứ quán”. Tại vòng đàm phán này ta đồng ý có sự
trao đổi ý kiến về vấn đề nội bộ CPC. Trong đàm phán, Từ Đôn Tín32 nói rõ ý TQ
về SNC là SNC phải thật sự có quyền lực như chính quyền. Ta đồng ý giảm nói về
diệt chủng. TQ coi giải quyết vấn đề CPC là điều kiện để bình thường hóa quan hệ
với VN. Từ Đôn Tín hẹn sang Hà Nội tháng 6/1990 để tiếp tục đàm phán.
Trước khi sang Hà Nội, ngày
25/5/1990, Từ Đôn Tín đi New York họp vòng 4 Thứ trưởng P-5. Trong cuộc họp P-5
này, TQ đưa ra 2 phương án: hoặc lập SNC 4 bên làm nhiệm vụ chính quyền lâm thời
trong thời kỳ quá độ hoặc giao cho Liên hợp quốc làm chức năng quản lý hành
chính trong thời kỳ quá độ, còn SNC chỉ có chức năng tượng trưng. Trong khi đó ở
Hà Nội, ta và CPC lại thấy cần tranh thủ Giải pháp Đỏ.
Lúc này ở Hà nội, sau cuộc gặp 3
TBT ngày 21/5/1990, ngày 23/5/1990, theo chỉ thị của đ/c Lê Đức Anh, Thiếu tướng
Vũ Xuân Vinh, Cục trưởng Cục đối ngoại Bộ quốc phòng đã thông báo cho Tuỳ viên
quân sự TQ Triệu Nhuệ: ”đ/c Nguyễn Văn Linh và đ/c Lê Đức Anh sẽ gặp Từ Đôn
Tín” . Ngày 27/5/1990, Từ Đôn Tín huỷ bỏ chương trình gặp Phó TTK/LHQ Admed sau
cuộc gặp P-5 ngày 25-26/5/1990 và đi về Bắc Kinh ngay.
Ngày 30/5/1990, BCT họp cho ý kiến
về đề án đàm phán với Từ Đôn Tín.
Đ/c Phạm Văn Đồng nói: Mấy nghìn
năm TQ vẫn là TQ, không nên cả tin TQ. Ta cần thăm dò thúc đẩy nhưng cảnh giác
đừng để hớ. Đ/c Nguyễn Văn Linh kết luận: Đ/c TBT sẽ gặp Đại sứ TQ, không gặp Từ
Đôn Tín. Đ/c Thạch gặp Từ Đôn Tín. Gặp Đại sứ TQ không nói giải pháp CPC, chỉ
nói 2 nước đoàn kết bảo vệ CNXH, thăm dò việc gặp cấp cao.
Chiều ngày 5/6/1990, đ/c TBT Nguyễn
Văn Linh gặp Đại sứ TQ Trương Đức Duy. Đ/c TBT nói: “Bây giờ đế quốc âm mưu thủ
tiêu CNXH, chúng điên cuồng tấn công CNXH, tất nhiên bọn đế quốc là cùng một ruột,
chúng dùng KHKT và kinh tế bao vây XHCN. Chúng âm mưu dùng diễn biến hòa bình,
mỗi Đảngphải tự lực chống lại. Liên Xô là thành trì XHCN nhưng có nhiều vấn đề.
Chúng tôi muốn cùng các người cộng sản chân chính bàn vấn đề bảo vệ CNXH. Trong
vụ Thiên An Môn, các đ/c đã xử lý rất kiên quyết và rất vững vàng. Tôi sẵn sàng
sang TQ gặp các đ/c lãnh đạo cấp cao của TQ để khôi phục lại quan hệ hữu hảo.
Âm mưu của bọn đế quốc là chống phong trào cộng sản quốc tế do đó những người cộng
sản chân chính của 2 nước cần trao đổi kinh nghiệm với nhau”.… “Giờ đây vấn đề
CPC, ta phải giải quyết như thế nào. Việc Liên hợp quốc vào tổ chức tổng tuyển
cử sẽ có lợi cho các nước phương Tây. Vừa qua 5 nước HĐBA/LHQ họp bàn trong đó
có Mỹ, Anh, Pháp là 3 nước đế quốc, Liên Xô là nước XHCN nhưng có vấn đề cũng
khó nói, nay chỉ còn TQ...”.
Ngày 6/6/1990, đ/c Lê Đức Anh lại
gặp Đại sứ TQ truyền đạt ý kiến của BCT VN. Nội dung xoay quanh vấn đề đoàn kết
bảo vệ CNXH và Giải pháp Đỏ ở CPC.
Ngày 8/6/1990, đ/c Lê Đức Anh điện
thoại dặn đ/c Trần Quang Cơ khi biết đ/c Cơ sẽ thay đ/c Đinh Nho Liêm (bị ốm)
làm việc với Từ Đôn Tín ở Hà Nội:
Đã làm việc với anh [Đặng Nghiêm]
Hoành, anh [Đinh Nho] Liêm. Phương hướng như đã bàn. Tất cả các vấn đề đều ổn cả
duy chỉ còn vấn đề Hội đồng tối cao thời kỳ quá độ gồm 2 bên, có chức năng nhất
định, với các uỷ ban giúp việc như đối ngoại, kinh tài, tổng tuyển cử về quốc
phòng và an ninh chỉ nên là một. Nên tránh phương án Liên hợp quốc trong thời kỳ
quá độ.
Việc hai bên Đỏ tiếp xúc nhau là
chuyện lâu dài cần cho ổn định lâu dài. TQ sẽ tác động với phía thân TQ, ta sẽ
tác động với phía thân ta để 2 bên kiềm chế việc thù địch nhau và hợp tác với
nhau. Việc này phải có thời gian, không thể nhanh được, không thể đòi họ trả lời
ngay. Đừng thúc họ, cứ để họ chủ động, khi nào trả lời được thì họ trả lời.
Phải rất bí mật. Lộ ra rất nguy
hiểm. Chỉ nói khi gặp riêng chứ không nói trong đàm phán. Về việc Anh Nguyễn
Văn Linh đặt vấn đề với Đại sứ Trương Đức Duy nói sẵn sàng đi TQ gặp cấp cao nhất,
cũng không nên hỏi lại Từ Đôn Tín nếu họ chưa nói tới.
Ngày 9/6/1990, trên đường từ
Tokyo về nước, Hun Sen đã ghé Hà Nội. Đ/c Thạch tiếp và làm việc với Hun Sen,
đ/c Thạch hoan nghênh và ửng hộ kết quả cuộc họp Hun Sen-Sihanouk, khẳng định
VN tôn trọng thoả thuận Tokyo và sẵn sàng cùng các nước liên quan đảm bảo thực
hiện các thoả thuận đó. (Thoả thuận Hun Sen – Sihanúc ở Tokyo là lập SNC 2 bên,
như vậy là gạt Khmer Đỏ).
Ngày 11/6/1990, đàm phán tại Hà Nội
giữa đ/c Trần Quang Cơ và Từ Đôn Tín. Từ Đôn Tín trình bày ý kiến TQ Cơ bản như
lập trường trong cuộc họp P-5 ngày 25/5/1990.
Trưa 1 1/6/1990, đ/c Trần Quang
Cơ về báo cáo đ/c Nguyễn Cơ Thạch (lúc này cũng đang có Hội nghị ngoại giao
đánh giá sự sụp đổ của Đông Âu). Đ/c Thạch gắn hỏi đ/c Cơ có hỏi Từ Đôn Tín về
Giải pháp Đỏ không ? Đ/c Cơ nói đ/c Lê Đức Anh đã dặn. Đ/c Thạch chất vấn đ/c
Cơ nghe theo ý kiến Bộ trưởng ngoại giao hay nghe ý kiến Bộ trưởng quốc phòng.
Đ/c Cơ nói sẵn sàng chấp hành ý kiến đ/c Thạch, sẽ hỏi Từ đôn Tín với sự hiểu
biết rằng đức Thạch là Uỷ viên BCT. Đ/c Thạch đề nghị đ/c Cơ phải gặp hỏi Từ
Đôn Tín, thậm chí còn bảo đ/c Cơ phải viết cam kết sẽ thực hiện điêu đó.
Chiều 11/6/1990, họp giữa 2 Trưởng
đoàn và có 2 Đại sứ trao đổi về nội dung đ/c Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh nói
với Đại sứ Trương Đức Duy. Từ Đôn Tín nhờ đông chí Trần Quang Cơ chuyến toàn
văn ý kiến của lãnh đạo TQ trả lời ý kiến đ/c Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh như
sau:“Lãnh đạo TQ rất coi trọng quan hệ Trung-Việt, lãnh đạo TQ cũng rất coi trọng
những ý kiến đ/c TBT Nguyễn Văn Linh và đ/c Lê Đức Anh đã nói với Đại sứ TQ
Trương Đức Duy. Phía TQ cho rằng quan hệ Trung-Việt sớm muộn cũng sẽ bình thường
hóa. Hai bên đều cần cùng nhau cố gắng để thực hiện. Về vấn đề CPC, cuộc chiến
tranh CPC đã kéo dài hơn 10 năm. Đây là vấn đề toàn thế giới quan tâm, các nước
trong khu vực, nhất là ASEAN, cũng rất quan tâm. Đối với 2 nước TQ và VN, nhiệm
vụ cấp bách cần giải quyết hiện nay là trên cơ sở những nhận thức chung đã nhận
được, tiếp tục trao đổi ý kiến về 2 vấn đề tồn tại (vấn đề quyền lực của Hội đồng
tối cao và việc xử lý quân đội của các bên CPC), làm sao có tiến triển về 2 vấn
đề này. Nếu được như vậy, chúng ta sẽ góp phần vào việc thực sự giải quyết vấn
đề CPC. Bước đi này là hết sức quan trọng. Chỉ có đi xong bước này, chúng ta mới
có thể suy nghĩ đến những bước sau. Cũng có nghĩa là chỉ có đi xong bước này,
lãnh đạo TQ mới suy nghĩ về việc gặp cấp cao, và việc thúc đẩy 2 phái cộng sản
Khmer hoà giải với nhau.”
Ngày 25/6/1990, trong cuộc gặp Thứ
trưởng Trần Quang Cơ ở Bộ Ngoại giao, Đại sứ Trương Đức Duy đã đọc lại toàn văn
trả lời của lãnh đạo TQ gửi lãnh đạo VN và nói là văn bản này “chính xác hơn”,
trong đó phần cuối nói về CPC như sau: “Vấn đề CPC đã kéo dài 11 năm, trở thành
vấn đề quốc tế trọng đại mà cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các nước ASEAN rất
chú trọng. Chúng tôi cho rằng việc này cần làm gấp trước mắt là 2 bên TQ-VN nên
đi đến thoả thuận càng sớm càng tốt về một số những mặt quan trọng cho giải
pháp chính trị vấn đề CPC để thúc đẩy và tăng nhanh hơn tiến trình giải quyết
toàn diện vấn đề CPC. Bước này đi tốt thì có lợi cho việc suy tính những vấn đề
của bước sau và tạo điều kiện cần thiết cho cuộc gặp cấp cao TQ-VN, và tạo sự
hoà giải nội bộ của CPC“).
Trong đàm phán với đ/c Cơ, Từ Đôn
Tín đã nêu ra với ta dự kiến giải quyết vấn đề CPC theo 5 bước:
1. TQ-VN thoả thuận một “biên bản nội bộ” ghi lại sự nhất trí giữa
2 bên về những vấn đề chính của giải pháp.
2. Năm nước TQ, VN, Thái Lan, Lào và Indonesia (thay cho cuộc họp
3 nước TQ, VN, Thái Lan do Thủ tướng Thái đề nghị năm ngoái) họp cấp ngoại trưởng
và có tuyên bố chung về CPC.
3. Năm nước trên họp cùng với 4 bên CPC.
4. Năm nước Hội đồng Bảo an họp với 4 bên CPC. Theo TQ, nếu 3 bước
trên đều suôn sẻ thì việc họp 5 nước Hội đồng Bảo an với 4 bên CPC làm sớm hay
muộn không thành vấn đề.
5. Họp lại Hội nghị quốc tế Paris về CPC ký kết Hiệp định toàn bộ.
Theo kế hoạch này, rõ ràng TQ muốn
đóng vai trò trung tâm của khu vực trong cả quá trình giải quyết vấn đề CPC.
Trong 5 bước này, TQ không nói gì đến gặp gỡ cấp cao giữa 2 nước.
Tối 12/6, từ 21 giờ đến 1 giờ
sáng, Đại sứ Đặng Nghiêm Hoành làm việc với Vụ phó [Bộ Ngoại giao TQ] Trương
Thanh về “biên bản nội bộ”. Cuộc tranh luận rất găng và không đi đến thoả thuận.
Sau này trở lại Bắc Kinh, đ/c Hoành gặp rất nhiều khó khăn trong làm việc với Bộ
Ngoại giao TQ.
Một sự kiện đáng ghi nhớ là buổi
đ/c Nguyễn Cơ Thạch tiếp Từ Đôn Tín chiều 13/6/1990 biến thành một buổi tranh
luận to tiếng rất gay gắt và dùng những lời lẽ rất nặng nề, từ gọi là đ/c đến gọi
nhau là Ngài. Từ Đôn Tín nói với đ/c Thạch: …”Tôi muốn nói điểm thứ hai về vấn
đề 2 tiếng nói… Trong đàm phán, VN nêu ra với chúng tôi và vừa rồi đ/c nói mong
muốn Trung-việt hợp tác thúc đẩy hai phái cộng sản CPC hợp tác với nhau. Chúng
tôi biết đó không phải là ý kiến riêng của các đ/c mà là ý kiến của Trung ương ĐảngVN.
Chúng tôi đã báo cáo Trung ương Đảngchúng tôi. Tất nhiên chúng tôi rất coi trọng
và nghiên cứu ý kiến của các đồng chí. Nhưng trong thời gian đó, trên diễn đàn
quốc tế ở Tokyo, các đ/c lại cố sức tìm cách loại trừ một bên CPC, đó là Khmer
Đỏ. Các đ/c nói hai bên chúng ta nên khuyên hai phái cộng sản hoà giải với
nhau, nói đó là mong muốn chân thành của VN. Nhưng trên thực tế các đ/c cố sức
tiêu diệt Khmer Đỏ. Nếu lãnh đạo VN muốn có sự hoà giải giữa 2 nhóm cộng sản
thì lẽ tất nhiên là phải chấp nhận 4 bên. Chúng tôi không thể hiểu được hai giọng
nói đó của lãnh đạo VN. Không hiểu cái nào là thật và cái nào là giả. Nếu nghe
tiếng nói này thì tiếng nói kia là giả dối, nếu nghe tiếng nói kia thì tiếng
nói này là giả dối. Mong rằng sau này các đông chí không nên làm như vậy.” … Và
hai bên tranh luận rất nhiều về “các bên” và “4 bên CPC “. … Đ/c Thạch hỏi Từ
phụ trách vấn đề CPC từ bao giờ, Từ nói mới 2 năm. Đ/c Thạch nói: “Tôi bạc đầu
vì vấn đề CPC… Tôi phụ trách vấn đề CPC đã 20 năm, từ tháng 3/70 khi Sihanouk bị
lật đổ… Người TQ cũng như người VN đều có câu “Hậu sinh khả uý” … Đ/c Thạch nói
tiếp: “Nghe đ/c nói tôi rất không hài lòng vì chúng tôi nói một đằng, đ/c hiểu
một nẻo, điều đó rất không tốt. Tôi nói đ/c sang Hà Nội một lần, chứ không phải
nói sang một lần thì phải thất bại. Đó là xuyên tạc, là một ý xấu… Tôi nói một
đằng, đ/c hiểu một nẻo. Dù nước lớn hay nước nhỏ cũng phải tôn trọng bình đẳng
với nhau. Chúng tôi có nói loại trừ bên nào đâu mà đ/c nói chúng tôi tìm cách
loại trừ một bên. Đó là xuyên tạc. Tôi hết!“. Sau một hồi to tiếng nữa cuối
cùng Từ Đôn Tín nói: “Ngài không hài lòng với tôi nhưng tôi cũng mãi mãi không
hài lòng với Ngài“. Từ đây quan hệ giữa đ/c Thạch với TQ càng căng thẳng hơn.
Ngày 1/11/1990, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao TQ còn nói: “phát biểu của Nguyễn
Cơ Thạch về quan hệ Trung-Việt và vấn đề CPC nội dung là không đáng tin cậy, chẳng
qua chi là cách nhìn của ông ta mà thôi“.
Ngày 19/6/1990, BCT họp đánh giá
cuộc gặp Việt-Trung với Từ Đôn Tín ở Hà Nội, ý kiến rất khác nhau. Đ/c Nguyễn
Văn Linh vắng mặt (đi thành phố Hồ Chí Minh) trong cuộc họp này và dặn đ/c Nguyễn
Thanh Bình đề nghị BCT chưa bàn về phương hướng tới chờ đ/c Linh về.
Ngày 25/6/1990, đ/c TBT Nguyễn
Văn Linh từ thành phố Hồ Chí Minh điện ra cho BCT: Đã đọc biên bản họp BCT
(19/6/1990), có một số ý kiến sẽ phát biểu sau. Một số việc làm ngay:
● a)
Không đồng ý thông báo cho Trung ương và cấp uỷ về điều tối mật mà chỉ thông
báo nói rõ cuộc họp Việt-Trung là do TQ phá. Ngoại giao có cách giải thích cho
dư luận theo hướng trên.
● b)
Do Bạn đề nghị ta thăm dò, đề nghị Anh Sáu Nam [Lê Đức Anh] đi ngay CPC thông
báo cho bạn.
● Tình
hình thế này cần giúp bạn có đòn tấn công, đánh một số trận tốt như Kompong
Thom chẳng hạn.
● c)
Đề phòng TQ lộ ra những điều ta lấy tình bạn mà nói, ngoại giao theo dõi, nếu
có bác ngay, không để chậm 2-3 ngày.
Ngày 22/6/1990, Đại sứ Nguyễn
Xuân thông báo cho động chí Phun Sipasớt về đàm phán với Từ Đôn Tín ở Hà Nội.
Đông chí Phun phát biểu: Giải pháp Đỏ là không nên và không thể được, bất lợi
cho ta. TQ đang bị cô lập vì là nước duy nhất ủng hộ diệt chủng. Chắc chắn TQ
không muốn Giải pháp Đỏ mà muốn giải pháp thực chất 4 bên để duy trì vai trò và
vị trí Khmer Đỏ mà không mang tiếng là ủng hộ diệt chủng.
Theo chỉ thị của TBT Nguyễn Văn
Linh, sáng 1/7/1990, đ/c Lê Đức Anh đi Phnom Penh làm việc với BCT CPC, cùng dự
có Đại sứ Ngô Điền và anh Ba Cung.
Đ/c Lê Đức Anh phát biểu đại ý:
Sau cuộc họp 3 TBT, các đ/c uỷ quyền cho chúng tôi thăm dò ý đồ thật của TQ về
giải pháp CPC. BCT chúng tôi cho rằng những cuộc gặp gỡ ngoại giao (anh Đinh
Nho Liêm đi Bắc Kinh, Từ Đôn Tín đi Hà Nội) cứ tiến hành bình thường, mặt khác,
các đ/c Nguyễn Văn Linh, Võ Chí Công, Đỗ Mười giao cho tôi gặp Đại sứ TQ. Khi gặp
ăn cơm với Trương Đức Duy, tôi nói mặt quốc tế của vấn đề CPC hầu như không còn
vấn đề gì chỉ còn mặt nội bộ CPC, nếu nhận thức nhất trí về 3 nguyên tắc sau
đây thì dễ giải quyết:
a) Một giải pháp chính trị nội bộ
CPC phải phản ánh gần đúng so sánh lực lượng, thế và lực trên chiến trường giữa
2 bên đối kháng. Một bên là Nhà nước CPC kiểm soát hầu hết CPC, còn bên kia là
CPC Dân chủ lưu vong với 3 nhóm nhưng lực lượng chủ yếu là Khmer Đỏ.
b) Mọi giải pháp phải tôn trọng
chủ quyền CPC…
c) Mọi giải pháp phải bảo đảm sự ổn
định, ít nhất như hiện nay, không làm xáo trộn tình hình CPC…
Đại sứ TQ không phản đối nguyên tắc
trên và thăm dò VN có thể thuyết phục bạn bè ở Phnom Penh hoà giải với Khmer Đỏ
không… Trương Đức Duy nói cần giữ tuyệt mật, sẽ báo cáo về Bắc Kinh. Tôi gặp đại
sứ TQ ngày 6/6/1990 và ngày 7/6/1990 Từ Đôn Tín đã rời Bắc Kinh. Từ Đôn Tín
sang Hà Nội đàm phán với giọng cao, đòi Hội đồng tối cao 4 bên nắm các Bộ chủ yếu…Theo
uỷ quyền của BCT VN tôi đã thăm dò, xin báo cáo quá trình làm và kết quả như vậy.
Đề nghị CPC cho ý kiến về bước làm tới.
Buổi trưa, BCT CPC họp riêng, chiều
BCT CPC gặp lại đ/c Lê Đức Anh, TBT Heng Somrin phát biểu đại ý:
- TQ quan tâm và không bác bỏ ý
kiến của ta. Khó hiểu thái độ TQ, có lẽ họ đang nghiên cứu.
- Đề nghị VN tiếp tục thăm dò,
thúc đẩy TQ tác động đến Khmer Đỏ để có cuộc gặp bí mật với Khmer Đỏ. Có thể gặp
thẳng Pol Pot hoặc gặp Son Sen hay đại diện có thẩm quyền của Khmer Đỏ, phải gặp
người có thẩm quyền…
Dù gặp Pol Pot không có nghĩa là
ta chấp nhận Pol Pot trở về. Khi gặp Pol Pot ta nói rõ cho họ hiểu nhân dân CPC
không chấp nhận họ trở về nên họ phải hy sinh vì sự nghiệp hoà hợp dân tộc, chấm
dứt đau khổ của nhân dân… Địa điểm gặp nên bí mật, có thể là một địa điểm trên
biên giới Việt-Trung…Hun Sen phát biểu: Ta tiếp tục thăm dò, gặp để tìm hiểu
song song ta thúc đẩy thực hiện thoả thuận Tokyo về lập SNC 2 bên…Anh Lê Đức
Anh nhấn mạnh: ta vừa làm, vừa thăm dò, quan trọng là củng cố lực lượng trên
chiến trường.
Trước đó, ngày 26/6, từ Hà Nội trở
lại Phnom Penh, anh Ngô Điền đã thông báo cho Hun Sen và 28/6 thông báo cho Sar
Kheng về kết quả đàm phán với Từ Đôn Tín. Cả hai ghi chép rất cẩn thận nhưng
không bình luận gì mặc dù cuộc nói chuyện dài về nhiều vấn đề.
Tối 1/7/1990, tại Phnom Penh, Đ/c
Lê Đức Anh nói với đ/c Ngô Điền: Đ/c bất ngờ về ý kiến CPC định gặp thẳng Pol
Pot. Trong cuộc gặp 3 TBT ở Hà Nội 5/1990, phía ta không đặt vấn đề Giải pháp Đỏ,
chỉ bàn nhiều về tình hình khủng hoảng ở Liên Xô- Đông Âu, về âm mưu đế quốc đối
với VN, Đông Dương. Khi giải lao, Anh Đỗ Mười có nói với Hun Sen về việc gặp
Khmer Đỏ. Đoàn CPC hội ý với nhau lâu, khi vào Heng Somrin nêu Giải pháp Đỏ, 2
TBT khác tán thành và uỷ quyền cho ta thăm dò. Các Anh Linh, Công, Mười giao
Anh Lê Đức Anh làm. Anh Lê Đức Anh nói trước đây Anh Sáu Thọ có nêu Giải pháp Đỏ
với CPC từ 1987 mãi sau này Anh Lê Đức Anh mới biết. Ngày 5/6, Anh Linh tiếp Đại
sứ TQ có Anh Thạch dự. Hôm sau 6/6/1990, Anh Lê Đức Anh mới biết rằng Anh Linh
đã nói hết với Đại sứ TQ (đoàn kết VN-TQ bảo vệ CNXH, chỗ dựa Liên Xô lung lay,
Giải pháp Đỏ) đáng lẽ chỉ tiếp xã giao và thăm dò thôi. Khi tiếp và ăn cơm cùng
Trương Đức Duy, anh Lê Đức Anh nêu 3 nguyên tắc giải quyết mặt nội bộ của CPC,
Trương Đức Duy không phản đối (Thư ngày 6/7/1990 của Anh Ngô Điền gửi Anh Thạch).
Cũng khoảng tháng 7/1990, Hun Sen
thông báo [với] anh Ngô Điền là, qua “người trung gian” của Bắc Kinh đến Phnom
Penh ngày 20/7/1990) cũng như sự giúp đỡ của Jerome Kanapa và bà Galabru33 ở
Pháp, chị Ty Borasy34 sẽ đi Hongkong để gặp Đại diện của Bắc Kinh vào cuối
tháng 7/1990. Sau đó Hun Sen có nói với anh Ngô Điền một số tin về vấn đề này.
Sau đó không thấy Hun Sen nhắc lại chuyện này. Ý kiến cá nhân tôi là việc này
không có thật mà Hun Sen cố tình bịa ra để làm vừa lòng ta.
Ngày 17/7/1990: P-5 họp vòng 5 cấp
Thứ trưởng thoả thuận 2 nội dung chủ yếu: tập kết và giải pháp các bên CPC;
Liên hợp quốc tổ chức tổng tuyển cử, kiểm soát 5 Bộ, còn SNC chỉ là tượng
trưng.
Ngày 18/7/1990: Tại Paris Ngoại
trưởng Mỹ James Baker nói Mỹ sẽ rút lui công nhận CPC Dân chủ, lên án Khmer Đỏ,
đối thoại với VN qua phái đoàn ở New York, viện trợ nhân đạo cho VN.
Ngày 27/7/1990, BCT ta họp đánh
giá về tuyên bố của Ngoại trưởng Mỹ Baker, tán thành việc xúc tiến về đàm phán
Việt-Mỹ, chủ trương về CPC: Ta thoả thuận với Mỹ, TQ, với các nước khác về mặt
quốc tế của vấn đề CPC và không dính líu vào các vấn đề nội bộ CPC. BCT cử đ/c
Nguyễn Cơ Thạch sang thông báo cho CPC ý kiến của ta.
Ngày 6/8/1990: Đàm phán Việt-Mỹ lần
đầu tại New York theo tuyên bố của J. Baker. Mỹ chủ yếu thăm dò thái độ của ta
về 2 văn kiện khung giải pháp CPC của Liên hợp quốc.
Ngày 8/8/1990: Bộ Ngoại giao
trình BCT đề án đấu tranh về vấn đề CPC trước những diễn biến quan trọng trên
quốc tế. Đề án nhận định: chúng ta đứng trước một tình hình là Xô-Mỹ và 5 nước
lớn quyết tâm đạt thoả thuận về một giải pháp chính trị cho vấn đề CPC. CPC đang
đứng trước tình thế tiến thoái luỡng nan: không thể kéo dài nội chiến vì khó
khăn kinh tế, chính trị trong nước và khó khăn trên thế giới; đi vào giải pháp
chính trị thì lo thất bại trong tổng tuyển cử. Nên góp ý với bạn đồng ý phương
án của P-5: SNC chỉ tượng trưng, cần xác định rõ quyền hạn của Liên hợp quốc
trên cơ sở tôn trọng chủ quyền CPC.
Trong khi chờ đợi ý kiến của BCT,
đ/c Nguyễn Cơ Thạch cử tôi (Huỳnh Anh Dũng) đem đề án sang CPC để đ/c Ngô Điền
trình bày với Hun Sen. Ngày 11/8/1990, tại nhà riêng Hun Sen, Hun Sen tiếp anh
Ngô Điền và tôi. Sau khi nghe, Hun Sen nói:"Như vậy là ta trở lại phương
án Liên hợp quốc như ta đã nhất trí từ trước. Ba đ/c TBT trao đổi ở Hà Nội thấy
Liên hợp quốc là nguy hiểm. Khi chuyển không dùng Liên hợp quốc làm chúng tôi rất
khó khăn, Liên Xô rất thắc mắc. Ba TBT nói giao Liên hợp quốc tổ chức bầu cử là
nguy hiểm sau khi có thất bại của Mặt trận Sandino ở Nicaragoa. Ba đ/c TBT trao
đổi như vậy nên ta phải chuyển.
Trước đó các đ/c cùng chúng tôi
đã nhất trí SNC chỉ là tượng trưng, giao Liên hợp quốc tổ chức bầu cử. Trên
tinh thần đó, ta tính các phương án và các đ/c cử người (đ/c Đặng Nghiêm Hoành)
gặp tôi ở Svay Rieng trước khi tôi gặp Costello ngày 7/1/1990… Khi ta chấp nhận
Liên hợp quốc tổ chức tổng tuyển cử, Liên Xô rất vui… Nếu trở lại công thức này
thì rất tốt, tập hợp được lực lượng. Tôi và đ/c Hor Nam Hong35 bàn nhau thấy
công thức này thì tốt nhưng 3 đ/c TBT quyết định tôi phải làm theo, tôi phải
làm công tác tư tưởng cho Hor Nam Hong, khó lắm… Tháng 4/1990, đ/c Thạch sang
đây nêu phương án SNC tổ chức tổng tuyển cử. Tôi có phát biểu ý kiến cá nhân
tôi chắc đ/c Điền và đ/c Dũng còn nhớ. Nếu ta lấy SNC tổ chức bầu cử thì ta phải
đối phó với không biết bao nhiêu người của bọn 3 phái, người của SNC và ứng cử
viên của nó, đồng thời ta còn phải đối phó với Liên hợp quốc mà thôi. Liên hợp
quốc lại là người nước ngoài, đi đâu ta cũng biết và họ khó mua chuộc được dân
CPC, không như bọn 3 phái là người Khmer… Ta phải quyết định có giải pháp chính
trị về vấn đề CPC. Giải pháp chính trị hay không, không phụ thuộc vào ý muốn của
ta… Đối với CPC, việc cho Liên hợp quốc tổ chức tổng tuyển cử đã được hợp pháp
hoá, Quốc hội đã thông qua.
Ý anh em chúng tôi là muốn cái
này (Liên hợp quốc)…Việc có sử dụng vai trò Liên hợp quốc hay SNC là một bộ phận
quan trọng của quyết định chiến lược có đi vào giải pháp chính trị hay không?…
Nếu BCT VN đồng ý cái này thì BCT chúng tôi họp một giờ là thông qua được.. Khi
anh Heng Somrin đi nghỉ ở Hà Nội, đ/c Nguyễn Văn Linh và đ/c Lê Đức Anh gặp anh
Heng Somrin tỏ lo ngại về việc sử dụng vai trò Liên hợp quốc. Anh Heng Somrin về
nói cái này, tôi có nói lại là giao cho Liên hợp quốc có mặt phức tạp nhưng
giao cho SNC phức tạp hơn: nó có hệ thống, người nhiều mà ta còn phải lo đối
phó với cả Liên hợp quốc nữa. Cái này làm tôi rất khó… Quyết định của 2 đ/c TBT
làm tôi rất khó. Không nên để có ý kiến khác nhau giữa TBT và Thủ tướng, tôi phải
làm ý kiến nhất trí… Làm SNC rất phức tạp, CPC không đủ người và khả năng để
tham gia các Uỷ ban đế đối phó với bọn kia. Khi bàn không để Liên Hợp quốc tổ
chức tổng tuyển cử, đ/c TBT Lào Kaysone Phomvihan băn khoăn điều này. Ta nhận rồi
ta lại thôi. Đ/c Kaysone nói ta trèo cao rồi, nếu tuột xuống dễ ngã đau.
…Về Giải pháp Đỏ, lúc đầu ta tưởng
rằng TQ muốn như vậy. Tình hình thế giới chuyển biến phức tạp tưởng rằng TQ muốn
Giải pháp Đỏ. Bây giờ rõ ràng TQ không muốn Giải pháp Đỏ, ta không nên một mình
làm Giải pháp Đỏ. Đối với Khmer Đỏ như tôi vừa trình bày khi anh Thạch vừa sang
đây: sách lược của ta là không công nhận chúng có quyền véto [phủ quyết] nhưng
ta không loại bỏ chúng hoàn toàn. Ta tính giải pháp “Đỏ” để loại trừ “Xanh”. Nếu
“Đỏ” không được thì ta phải đi với “Xanh” diệt “Đỏ”. TQ không muốn đi với ta,
sao ta lại chiếu cố TQ?"
15 giờ 30′ ngày 8/8/1990, đ/c Phạm
Văn Đồng góp ý với đ/c Trần Quang Cơ về đề án của Bộ Ngoại giao: Tình hình hiện
nay tạo cơ hội thuận lợi cho giải pháp vấn đề CPC. Cần tận dụng cơ hội mới này
trong khi ta còn sử dụng được. Phải dám chơi với Liên hợp quốc, với HĐBA, với Mỹ
và phương Tây… Đề án lý thuyết thì tốt nhưng làm sao thực hiện được? Ta giúp
vào đó cũng không có hiệu quả. Còn lãnh đạo CPC coi như bất lực, rất xoàng… Đi
vào tổng tuyển cử giành được 50% là lý tưởng, có khi 30% còn khó… Cần tranh thủ
nhân tố Mỹ trong tình hình mới… Trong liên minh… chớ nên tính chuyện khống chế.
Không nên đặt yêu cầu quá cao “giữ vững thành quả cách mạng CPC”.
- Ngày 12/8/1990, BCT họp về đề
án của Bộ Ngoại giao, sau khi thảo luận, đ/c TBT Nguyễn Văn Linh kết luận:
● +
Đối với Mỹ, ta tiếp tục đối thoại theo chủ trương của BCT đã cho ý kiến.
● +
Đối với TQ, trong cuộc gặp ngày mai (13/8, giữa anh Cơ và Trương Đức Duy) ta
nên nói là 2 nước XHCN Việt Nam và TQ nên hợp tác giải quyết vấn đề CPC, để có
một nước CPC hữu nghị với các nước láng giềng, trước hết là VN, TQ, Lào. Ta
không nói VN và TQ là 2 nước XHCN cần đoàn kết chống đế quốc và bảo vệ CNXH.
● +
Đối với bạn CPC: những vấn đề tồn tại hiện nay là những vấn đề thuộc nội bộ và
chủ quyền của CPC phải do các đ/c CPC tự quyết định. VN sẽ tôn trọng những quyết
định của các đ/c CPC về những vấn đề này.
Ngày 12 và 13/8/1990, Anh Thạch
điện chỉ thị anh Ngô Điền: Sáng 12/8, BCT VN vừa họp. Anh Thạch đã trình bày ý
kiến Bộ Ngoại giao. Sau đó BCT kết luận nhất trí từ nay các vấn đề nội bộ CPC
trong giải pháp toàn diện do lãnh đạo CPC cân nhắc lợi hại để quyết định làm
như thê nào có lợi nhất. VN sẽ ủng hộ quyết định của CPC. VN tôn trọng quyết định
của CPC giao một số quyền lực cho Liên hợp quốc trong thời kỳ quá dộ còn hơn là
giao cho SNC như anh vừa trao đổi với Hun Sen. Anh Điền nên coi cuộc trao đổi
ngày 11/8 với Hun Sen là giữa những bạn quen thân tình, không cần thông báo lại
cho bất cứ ai.
Chiều 14/8, anh Điền gặp Hun Sen
trình bày hầu như toàn bộ nội dung điện của Anh Thạch. Hun Sen cho biết: chiều
11/8, Hun Sen đã trao đổi với BCT CPC; tất cả nhất trí nên hạn chế SNC, giao một
số quyền cho Liên hợp quốc, Hun Sen sẽ viết thư trả lời thư Ngoại trưởng Liên
Xô Shevardnadze theo hướng chấp nhận văn kiện khung của Liên hợp quốc (Hun Sen
gửi ngày 15/8/1990).
Ngày 27/8/1990, P-5 họp vòng 6 cấp
Thứ trưởng tại New York, nhất trí hoàn toàn văn kiện khung về giải pháp toàn bộ
cho CPC gồm 5 vấn đề: sắp xếp về chính quyền quá dộ; sắp xếp vũ trang; bầu cử
dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc; nhân quyền; bảo đảm quốc tế. Thông cáo nói 5
vấn đề này cùng với thoả thuận của Hội nghị quốc tế Paris về hồi hương và tái
thiết CPC sẽ tạo khung cho giải pháp CPC.
Ngày 29/8/1990, Đại sứ Trương Đức
Duy gặp TBT Nguyễn Văn Linh và đ/c Đỗ Mười chuyến lời mời của TBT Giang Trạch
Dân, Thủ tướng Lý Bằng mời TBT Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười và đ/c Phạm
Văn Đồng sang TQ gặp bí mật tại Thành Đô 3/9/1990.
Ngày 31/8/1990, đàm phán Việt-Mỹ
vòng 2 tại New York. Mỹ đề nghị VN và CPC chấp nhận giải pháp khung, CPC đi
Jakarta để lập SNC, coi đây là điều kiện để bình thường hóa quan hệ với VN và Mỹ
nói chuyện với Phnom Penh.
Ngày 30/8/1990, BCT bàn về đàm
phán cấp cao Trung-Việt ở Thành Đô (thủ phủ Tứ Xuyên, TQ). Anh Linh nêu vấn đề
sẽ bàn hợp tác chống đế quốc bảo vệ CNXH và hợp tác [giữa] Phnom Penh và Khmer
Đỏ.
Anh Võ Chí Công: TQ sẽ ép ta về vấn
đề CPC. TQ vừa giữ Khmer Đỏ, vừa nắm Sihanouk, nắm cả 5 Bộ. TQ sẽ không nghe ta
giữ CNXH, TQ muốn tranh thủ phương Tây. Không nên nói gì về Liên Xô, phải giữ
chiến lược đoàn kết với Liên Xô. Anh Lê Đức Anh: Phải nói về hoà hợp dân tộc thực
sự ở CPC. Nếu không có Pol Pot thì vẫn tiếp tục chiến tranh. Anh Thạch nêu 3 khả
năng về quan hệ với TQ, dự kiến các vấn đề TQ nêu: Hội đồng tối cao theo công
thức 6+2+2+2 để đòi 4 bên, tập kết lực lượng vũ trang, diệt chủng.
Ngày 2-4/9/1990, TBT Nguyễn Văn
Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, Cố vấn Phạm Văn Đồng đã thăm Thành
Đô, hội đàm với TBT Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng về giải quyết vấn đề CPC
và quan hệ 2 nước. Cùng đi có đ/c Hồng Hà [Bí thư TƯ Đ__g], Hoàng Bích Sơn [Trưởng
Ban Đối ngoại TƯ Đ__g], Đinh Nho Liêm. Trong gặp gỡ Giang trạch Dân đọc hai câu
thơ đời nhà Đường: “Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, Trường phùng nhất tiếu mẫn ân
cừu” ý nói: sau phong ba, bão táp, tình anh em vẫn còn; gặp nhau mở một nụ cười
thì xoá hết oán hờn. Hai bên đã ký biên bản nội bộ gồm 8 điểm, nhất trí giải
quyết vấn đề CPC bằng giải pháp chính trị toàn diện, công bằng, hợp lý, đồng ý
lập SNC gồm 13 thành viên do Sihanouk đứng đầu theo công thức 6+2+2+2+l và song
song từng bước cải thiện quan hệ 2 Đ__g, 2 Nhà nước tiến tới bình thường hóa
quan hệ. Điểm 4 biên bản viết: “Hai bên tán thành 5 văn kiện được 5 nước thường
trực HĐBA/LHQ thoả thuận về vấn đề CPC và cho rằng cần lấy các văn kiện đó để
làm khuôn khổ cho việc giải quyết chính trị toàn diện vấn đề CPC. Hai bên sẽ
thúc đẩy các bên CPC cũng tiếp nhận văn kiện đó và tích cực tham gia tiến trình
giải quyết chính trị toàn diện“.
Ngay sau khi về đến Hà Nội, sáng
ngày 5/9/1990, các đ/c TBT Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nguyễn Cơ Thạch
bí mật sang Phnom Penh thông báo về gặp cấp cao Thành Đô. Sau khi nghe thông
báo, trước khi BCT bạn họp riêng trao đổi, Heng Somrin đề nghị VN đánh giá khả
năng về Giải pháp Đỏ để BCT CPC dễ trao đổi. Sáng 6/9/1990, TBT Heng Somrin trả
lời không chấp nhận công thức 6+2+2+2+1 và phát biểu như sau:
● +
Sau thoả thuận 3 TBT tháng 5/1990, VN đã cố gắng và có được cuộc gặp cấp cao với
TQ.
● +
Qua thăm dò của VN thấy rõ TQ trước đây cũng như hiện nay TQ luôn dùng vấn đề
CPC đe gây sức ép trong quan hệ VN-TQ.
● +
…Chúng tôi đánh giá TQ xuất phát từ lợi ích của họ. Lợi ích đó là 4 hiện đại.
Vì vậy TQ giữ CNXH ở TQ nhưng TQ cố gắng mở cửa với phương Tây. Ý đồ TQ không
muốn 2 phái cộng sản ở CPC hợp tác với nhau gây phức tạp cho quan hệ của họ với
Sihanouk và gây phức tạp quan hệ của họ với phương Tây. Vì vậy chúng tôi thấy rằng
khó có thể thực hiện Giải pháp Đỏ vì Giải pháp Đỏ trái với lợi ích của TQ.
Về văn kiện khung P-5, Heng
Somrin nói: “Chúng tôi coi văn kiện này là cơ sở của giải pháp trong khuôn khổ
giải pháp của chúng ta. Vì vậy, chúng tôi chấp nhận về nguyên tắc.“
Ngày 7/9/1990: BCT họp thảo luận
về kết quả cấp cao Việt-Trung và cấp cao VN-CPC. BCT quyết định:
● +
8/9/1990: Đ/c Đỗ Mười gặp Đại sứ TQ nói lại lập trường CPC.
● +
Thông báo cho Liên Xô, Lào như nội dung thông báo cho CPC.
● +
Ai hỏi về công thức 6+2+2+2+1, nói không biết.
7 giờ 15′ sáng 9/9/1990, BCT họp
về thông điệp của TQ do Trương Đức Duy trao cho anh Hồng Hà 6 giờ sáng 9/9/1990
đề nghị tác động việc lập SNC do các bên CPC đang họp ở Jakarta. BCT quyết định:
Anh Trần Quang Cơ đi Jakarta. Anh Linh nói cố lập được SNC. Anh Thạch gửi thư
cho Hun Sen. Từ nay mọi tiếp xúc phải qua Bộ Ngoại giao và phải báo cáo trước với
Anh Thạch và Anh Lê Đức Anh.(Ý là ngăn Đại sứ TQ chỉ tiếp xúc với Ban Đối ngoại
[TW Đ__g] và lờ đi Bộ Ngoại giao). Theo quyết định đó, anh Trần Quang Cơ, có
tôi đi cùng, rời ngay Hà Nội trưa 9/9/1990 qua đường Bangkok. Chiều tối
10/9/1990, anh Cơ đến Jakarta thì cuộc họp các bên CPC đã kết thúc, đã thoả thuận
lập SNC gồm 12 thành viên xếp theo vẫn chữ cái và không có Sihanouk. Mặc dù vậy,
khi anh Cơ vừa đến Sứ quán ta ở Jakarta, Vụ phó Trương Thanh chủ động gọi điện
thoại cho anh Cơ thông báo cuộc họp đạt kết quả tốt và “cám ơn sự giúp đỡ” của
anh Cơ. Tuyên bố chung cuộc họp ghi rõ “các bên CPC chấp nhận toàn bộ văn kiện
khung P-5 làm cơ sở để giải quyết cuộc xung đột CPC. “
Ngày 24/9/1990, đ/c Lê Đức Anh
sang CPC, thay mặt BCT ta làm việc với BCT CPC (tôi không còn nhớ nội dung,
nhưng nghĩ rằng nội dung là bàn giúp CPC xây dựng lực lượng để chuẩn bị đi vào
giải pháp chính trị). Ngày 26/9/1990, Chea Sim thay mặt BCT CPC gửi thư cho BCT
ta với nội dung: Cám ơn sự giúp đỡ, hoàn toàn nhất trí với nội dung đ/c Lê Đức
Anh bàn với BCT CPC ngày 24/9/1990, đề nghị BCT sớm cử một tổ giúp nghiên cứu tổng
hợp trong tình hình mới ở CPC.
Tiếp sau đó đoàn các đ/c Trần Văn
Quang, Lê Hai sang làm việc với CPC ngày 18/10/1990 có Heng Somrin, Chea Sim,
Hun Sen, Sai Phu thong, Sar Kheng. Heng Somrin trình bày bản viết sẵn về tình
hình và đề nghị ta giúp đỡ theo hướng chuẩn bị giải pháp chính trị. Anh Trần
Văn Quang và Lê Hai còn dành thì giờ làm việc thêm với Bộ trưởng Bộ quốc phòng
Tia Banh, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Sin Song. Ngày 20/10, anh Quang về Hà Nội báo cáo
BCT. Anh Ngô Điền cũng làm việc với anh Trần Văn Quang và Lê Hai theo hướng dùng
K-88 (chuyên gia quân sự) và K-89 (chuyên gia an ninh) để giữ liên lạc với CPC.
Trong làm việc, theo anh Ngô Điền báo cáo, Hun Sen nói: Ta xác định bước đi tìm
giải pháp chính trị là không thể lùi lại được. (Từ 3 đến 7/2/1991, đ/c Trần Văn
Quang lên CPC lần nữa, không rõ cụ thể nội dung, hướng là giúp CPC xây dựng căn
cứ địa chuẩn bị giải pháp chính trị).
- Ngày 28/9/1990, gặp anh Trần
Quang Cơ tại Phnom Penh, Hun Sen nói: “Khi gặp Sok An36 ở Bangkok 17/9, TQ dọa
và đòi Nhà nước CPC phải nhận công thức VN-TQ đã thoả thuận. Nhưng Phnom Penh độc
lập. [Thủ tướng Thái] Kraisak đã nói rất đúng khi trả lời TQ về ý trên là VN
không phải là Phnom Penh”.
- Ngày 29/9/1990, ba nước VN,
Lào, CPC thoả thuận làm bị vong lục chung gửi Liên Xô nói rõ ý kiến về văn kiện
khung P-5 nhưng sau đó CPC thay đổi ý kiến là bị vong lục của riêng CPC không
làm chung 3 nước. Và có thể khẳng định từ lúc này trở đi, CPC không thật sự
trao đổi ý kiến với ta về giải pháp CPC nữa.
- Ngày 1 l/10/1990: Anh Lê Đức
Anh gặp Hun Sen tại sân bay Nội Bài. Anh Lê Đức Anh khuyên Hun Sen trong tình
hình hiện nay CPC nên đẩy mạnh hoạt động ngoại giao dể họp sớm SNC. SNC không
quan trọng; vấn đề quan trọng là đấu tranh sửa đổi tốt văn kiện khung P-5.
Hun Sen nhắc lại lập trường cũ với
vẻ kiên quyết, có thể nhân nhượng cho Sihanouk làm Chủ tịch nhưng Hun Sen phải
là Phó Chủ tịch. Hun Sen thông báo đang tập trung quân để đánh Khmer Đỏ. Anh Lê
Đức Anh khuyên không nên, làm như vậy sẽ bộc lộ lực lượng và mắc mưu Khmer Đỏ,
nên bảo toàn lực lượng để chuẩn bị khi đi vào giải pháp. Hun Sen đồng ý, hứa sẽ
báo cáo lại.
Do tháng 1/1990 Quốc hội CPC đã
chính thức thông qua quyết định giao cho Liên hợp quốc tổ chức tổng tuyền cử,
Quốc hội CPC họp phiên họp kín và bất thường (28/2- l/3/1991) sửa lại và thông
qua quyết định hạn chế vai trò của Liên hợp quốc, biểu quyết thông qua 7 điểm:
1. Hiệp định phải nêu các biện pháp cụ thể ngăn chế độ diệt chủng.
2. Giữ nguyên trạng chính trị và quân sự trước tổng tuyển cử.
3. Liên hợp quốc phải tôn trọng Hiến chương LHQ, chủ quyền và quyền
tự quyết của CPC: Liên hợp quốc và nước ngoài chỉ tham gia giải quyết mặt quốc
tế của vấn đề CPC không được can thiệp công việc nội bộ CPC.
4. Công việc nội bộ CPC do SNC quyết định.
5. SNC soạn thảo luật bầu cử, thủ tục bầu cử.
6. Liên hợp quốc chỉ gồm các nhân viên kiểm soát quân sự, không cần
lực lượng giữ gìn hòa bình.
7. Đại diện TTK/LHQ không được giao quyền quyết định cuối cùng.
Trong kỳ họp, Chea Sim đọc diễn
văn khai mạc và bế mạc, Hun Sen báo cáo về quá trình đàm phán và dự thảo Hiệp định
của 5 nước lớn. Chea Sim nói: “Người ta không được ép nhân dân CPC chấp nhận những
gì trái với lợi ích của mình. Sự thật không ai hiểu sâu vấn đề CPC hơn người
CPC“. Hun Sen nói: “Đấu tranh để bảo vệ độc lập, hạnh phúc và chân lý, nhất định
sẽ gặp nhiều khó khăn nhưng chúng ta đã vượt qua những khó khăn lớn nhất.”…“Vấn
đề quan trọng không phải ở chỗ là khó khăn đến mức nào mà là ở chỗ ta có dám vượt
qua không? Trước hết phải xây dựng và giữ vững lòng yêu nước, yêu dân tộc và
dám hy sinh vì độc lập và chủ quyền quốc gia.” Hun Sen phê phán công thức
6+2+2+2+l và nói: “Như các đại biểu đã biết, vấn đề SNC này rất phức tạp, để
thoát được chúng ta phải đấu tranh khắc phục và làm thất bại âm mưu kẻ thù và bọn
ủng hộ chúng nó không ít đâu, mặc dù SNC đã được thành lập trên cơ sở hai bên
bình đẳng, nhưng người ta muốn biến nó thành 4 bên theo công thức 6+2+2+2+1 và
vấn đề Chủ tịch làm cho SNC không hoạt động được.” Hun Sen còn nói: “Chấp nhận
toàn bộ văn kiện đó (của 5 nước lớn), chúng ta sẽ ở vào địa vị thấp hơn là chế
độ thuộc địa, và là hành động tự sát.”
- Ngày 7/3/1991, mít tinh 5 vạn
người trước Hoàng Cung ở Phnom Penh hoan nghênh Nghị quyết mới của Quốc hội
CPC, Hun Sen phát biểu rất hùng biện mấy tiếng đồng hồ nhấn ý độc lập, tự chủ,
đòi tôn trọng chủ quyền CPC. Trong mít tinh có cả khẩu hiệu tiếng Anh, Pháp
“Không ai hiểu CPC hơn người CPC”.
- Ngày 12/3/1991, Hun Sen ra Hà Nội
bảo vệ luận án Tiến sĩ. Sáng 13/3, anh Ngọc, Thư ký anh Lê Đức Anh truyền đạt
cho tôi ý kiến của anh Lê Đức Anh để thông báo với anh Thạch “Chiều 12/3, Anh
Lê Đức Anh đã làm việc với Hun Sen, Tea Banh. Hun Sen và Tea Banh thông báo lại
tình hình trong thời gian vừa qua và hỏi lại ý của BCT trong cuộc anh Linh và
anh Lê Đức Anh làm việc với anh Heng Somrin ở Hà Nội vừa qua. Bạn hoàn toàn nhất
trí ý kiến của ta, không có gì gây cấn.Về tình hình chung: bạn thông báo tình
hình chung tốt lên. Về đấu tranh cho giải pháp: Hun Sen và Tea Banh tán thành cần
đi vào giải pháp chính trị. Nhất trí SNC sẽ do Sihanouk làm Chủ tịch; Hun Sen,
Phó Chủ tịch, không đặt vấn đề đồng chủ tịch như trước. Nhất trí thu hẹp lại diện
đối tượng đầu sỏ diệt chủng phải loại trừ, không mở rộng ra nữa. Đối với
Sihanouk, nhất trí cân có cố gắng tranh thủ Sihanouk, tạo điều kiện để có cuộc
gặp mang tính chất cá nhân giữa Hun Sen và Sihanouk. Không còn đòi tách bạch mặt
nội bộ riêng, mặt quốc tế riêng nữa.“
Chiều 13/3/1991, đ/c Nguyễn Cơ Thạch
gặp Hun Sen trong 2 giờ. Hun Sen nói sẽ đáp ứng gợi ý của Ấn Độ là có “diễn đàn
anh em” giữa Hun Sen- Sihanouk. Về diệt chủng, Hun Sen nói dứt khoát: không thể
bỏ vấn đề diệt chủng. Tối 17/3, Trung ương Đảngta chiêu đãi mừng Hun Sen bảo vệ
thành công luận án Tiến sĩ.
Gặp anh Thạch sau chiêu đãi, Hun
Sen đề nghị VN quản lý Pen Sovan chặt chẽ hơn. Vừa qua bà Lia, thuộc Hoàng tộc
CPC, đến Hà Nội đã gặp Pen Sovan. Sau đó Pen Sovan viết thư về CPC nói ý sắp được
VN cho về CPC. CPC rất lo ngại về việc quản lý Pen Sovan và đặc biệt về tin Pen
Sovan sẽ trở lại CPC.
16 giờ ngày 13/3/1991, sau khi kết
thúc cuộc gặp giữa anh Thạch và Hun Sen ở Nhà khách Hồ Tây, anh Ngô Điền ngồi lại
nói chuyện với Hun Sen. Hun Sen nói: May quá, ra đây nghe các anh nói vậy thì
rõ ra. Anh Heng Somrin nghe không nắm hết. Vấn đề diệt chủng không thể bỏ chỉ
có vấn đề là sách lược phân hoá kẻ thù. Vấn đề diệt chủng phải giữ để sau này
bàn cả gói. Còn SNC thì Sihanouk làm Chủ tịch. Tôi, Phó Chủ tịch. Không thể nhận
13, cần thì 12 hoặc 14.
Anh Heng Somrin ở Hà Nội về thì họp
BCT. Nghe anh Heng Somrin nói, nhiều đ/c BCT ngạc nhiên. Nếu như vậy thì suy
nghĩ của VN và CPC khác nhau nhiều. Anh Say Chhum rất lo lắng đề nghị BCT nên cử
một đoàn 3-4 người đi Hà Nội nghe kỹ và trao đổi. BCT bàn và đề nghị anh Hun
Sen, anh Tea Banh vốn đã có kế hoạch đi Hà Nội thì nên đi sớm để trao đổi cho
rõ. Ra đây, gặp anh Lê Đức Anh, nghe anh Lê Đức Anh thì thấy rõ không có vấn đề
gì, chỉ do anh Heng Somrin nghe nhầm. Chẳng lẽ khác nhau nhiều đến thế.
Về Sihanouk, anh Lê Đức Anh nêu
nên lôi kéo Sihanouk vì đã có nguyên tắc consensus. Còn 12 hay 13 không thành vấn
đề. Tôi nói nếu ta nhận 13 thì rất bất lợi kẻ thù sẽ đổ lỗi cho ta, Sihanouk sẽ
làm cao, chỉ có thể nhận Sihanouk Chủ tịch và Hun Sen, Phó Chủ tịch. (Anh Ngô
Điền báo cáo anh Trần Quang Cơ sang 14/3).
- Ngày 13/4/1991, BCT bàn đánh
giá tình hình thế giới, buổi sáng đ/c Thạch đọc bản báo cáo dài đến gần hết buổi
họp mới kết thúc. Buổi chiều, đ/c Lân ở Tổng cục 2 Bộ Quốc phòng lại trình bày
một bản báo cáo rất dài ngược lại hoàn toàn ý kiến đ/c Thạch. Đ/c Nguyễn Văn
Linh nhận xét nói bản trình bày sáng và chiều có nhiều chỗ khác nhau quá. Đ/c
Thạch đề nghị 3 ngành quốc phòng, an ninh, đối ngoại thảo luận để đi tới nhất
trí. Đ/c Phạm Văn Đồng nói: Nói khôi hài lúc này thật không phải lẽ. Chúng ta cần
cố gắng làm việc đúng lương tâm, nghiêm chỉnh, đúng trách nhiệm của mình. BCT
đã giao cho 3 đ/c phụ trách 3 ngành làm nhưng lại chưa làm. Đ/c Phạm Văn Đồng
nói thêm: Nên gửi tài liệu thường xuyên, nghe thế này mất nhiều thì giờ. Ba đ/c
nên ngồi vào đánh giá tình hình xem cái gì nhất trí, cái gì chưa. Làm việc như
thế này không có hiệu quả.
Ngày 15/5/1991, đ/c Thứ trưởng quốc
phòng Trần Văn Quang sang CPC dự Hội nghị tổng kết mùa khô của CPC. Theo chỉ thị
của đ/c Lê Đức Anh, đ/c Trần Văn Quang đã đặt vấn đề với CPC về rút chuyên gia.
TBT Heng Somrin nói BCT CPC đã bàn nhất trí sẽ rút chuyên gia trước khi có kiểm
chứng của Liên hợp quốc. Trước mắt có thể rút [một] bộ phận vào tháng 6/1991, số
ít còn lại sẽ tuỳ hoàn cảnh mà rút sau. Hun Sen nói tháng 6/1991 rút khoảng
1.200, còn để lại khoảng 200 ở Quân khu 4 và 5 (Battambang và Siem Reap). Chiều
19/5/1991, đ/c Trần Văn Quang và Thứ trưởng Quốc phòng CPC Ker Kimm Yan ký Hiệp
định hợp tác quân sự năm 1991 theo tinh thần trên: rút hết 1.200 vào tháng
6/1991; rút hết chuyên gia ở Quân khu 1, 2, 3 (Kandal, Kompong Cham, Kratie);
Quân khu 4, 5 mỗi nơi để lại 20; ở 3 sư đoàn của CPC: F286, F4, F196 mỗi nơi gửi
lại 42; K.88 giữ lại 25; tổng số chuyên gia quân sự còn lại là 191.
Ngày 15-17/5/1991, BCT ta họp đánh giá tình
hình thế giới và công tác đối ngoại (có trích biên bản kèm theo).
- Ngày 2/6/1991: Hun Sen và
Sihanouk gặp nhau tại Jakarta, thoả thuận Sihanouk làm Chủ tịch và Hun làm Phó
Chủ tịch, phá vỡ cuộc khủng hoảng về SNC kéo dài từ tháng 9/1990 và mở đường đi
thoả thuận một giải pháp chính trị về CPC. Sihanouk nhận lời trở về Phnom Penh
vào tháng 11/1991 dù có hay không có giải pháp chính trị.
- Đại hội lần thứ VII ĐảngCộng sản
VN. họp từ 17-22/6/1991, bầu TBT và BCT mới, chủ trương đẩy mạnh đổi mới, thi
hành chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá với tinh thần “VN muốn là bạn với
tất cả các nước trong cộng động quốc tế phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát
triển.”
- Ngày 27/6/1991, trong họp SNC tại
Pattaya, Sihanouk mời Hun Sen đi Bắc Kinh 15/7 rồi đi Bình Nhưỡng 18/7 để tiếp
tục cuộc gặp riêng giữa 2 người.
- Ngày 8/7/1991, BCT CPC ra nghị
quyết chủ trương: trong tình hình mới, “cố gắng hoàn thành một giải pháp chính
trị”, chủ trương lôi kéo Sihanouk và TQ.
- Ngày 13/7/1991, đ/c TBT Đỗ Mười,
Lê Đức Anh và Đào Duy Tùng họp bàn về vấn đề CPC trước khi Hun Sen đi TQ (lần đầu
từ 1979). Tham dự có đ/c Bí thư Trung ương Hồng Hà và các đ/c Hoàng Bích Sơn,
Nguyễn Quang Tạo, Trịnh Ngọc Thái, Trần Quang Cơ, Nguyễn Dy Niên, Lê Mai. Trong
cuộc họp, đ/c Lê Đức Anh nói: “Lần này anh Hun Sen đi gặp lãnh đạo TQ cố gắng
thành công, việc này có lợi cho ta. Phải thấy đây là kết thúc một giai đoạn đấu
tranh, chuyên sang một giai đoạn đấu tranh mới, cuộc đấu tranh còn dài, chưa phải
kết thúc vấn đề CPC. Với ta có thể là kết thúc, với bạn chỉ là chuyển giai đoạn
đấu tranh… Thành bại trong giai đoạn này tuỳ bạn… Thúc đẩy quan hệ với TQ,
nhưng phải thấy chuyện này vì về sau không đơn giản… Nói với anh Hun Sen không
[thể] nói hết vì qua Hun Sen, TQ có thể khai thác.”
- Ngày 1 5/7/1 991, đ/c Nguyễn Cơ
Thạch gặp Hun Sen tại Sân bay quốc tế Nội Bài, Hun Sen thông báo tinh thần Nghị
quyết BCT CPC chuyển từ giai đoạn “vừa đánh, vừa đàm” sang giai đoạn “vừa xây dựng
lực lượng, vừa đàm phán”, chủ trương tìm cách tranh thủ lôi kéo và có chính
sách lâu dài với Sihanouk, tranh thủ TQ.
- Ngày 16-17/7/1991, SNC họp tại
Bắc Kinh dưới sự quan sát của đại diện 2 đồng chủ tịch PICC, TTK/LHQ và TQ, thoả
thuận Sihanouk làm Chủ tịch SNC, không có Phó Chủ tịch, giữ lại Cơ cấu SNC 12
thành viên; Sihanouk từ chức Chủ tịch liên hiệp 3 phái. Sau Bắc Kinh, Hun Sen
đi thăm Bình Nhưỡng.
- Ngày 24/7/1991, đ/c TBT Đỗ Mười
gặp Hun Sen tại Hà nội sau chuyến đi thăm TQ và Triều Tiên của Hun Sen, Hun Sen
được gặp Tiền Kỳ Tham và Kim Nhật Thành và cuộc họp SNC ở Bắc Kinh đạt kết quả,
Sihanouk được bầu làm Chủ tịch SNC. Hun Sen tỏ rất phấn khởi về kết quả chuyến
đi, nói “Lần này vui lắm. Mọi lần cũng vui nhưng không đi vào cụ thể“, Hun Sen
thông báo chủ trương tích cực tranh thủ Sihanouk,tranh thủ cả TQ và lạc quan về
giải pháp chính trị.
- Từ ngày 28/7-2/8/1991, đ/c Lê Đức
Anh sang thăm và làm việc nội bộ ở TQ. Cùng đi có đ/c Hồng Hà, bí thư Trung
ương, Trịnh Ngọc Thái, Phó Ban đối ngoại. Đ/c Lê Đức Anh đã giới thiệu về nội
dung Đại hội VII, về bình thường hóa quan hệ 2 nước. Đ/c Lê Đức Anh và Hồng Hà
đã hội đàm với Kiều Thạch, Uỷ viên thường vụ BCT, Chu Lương, Trưởng ban đối ngoại;
gặp Thủ tướng Lý Bằng; TBT Giang Trạch Dân tiếp và chiêu đãi.
Trong dịp này, đ/c Lê Đức Anh có
buổi gặp với Từ Đôn Tín chiều 29/7/1991 tại Điếu Ngư Đài, đ/c Lê Đức Anh nói:
“Năm ngoái khi đ/c Từ Đôn Tín sang VN đã xảy ra một số trục trặc không hay lắm,
do phía chúng tôi gây ra. Đ/c Nguyễn Văn Linh và chúng tôi khi biết việc này,
chúng tôi không vui lắm. Đ/c thay mặt chính phủ TQ sang VN để cùng chúng tôi thảo
luận giải quyết công việc nhưng lại để xẩy ra trục trặc, chúng tôi không vui lắm.
Hôm nay gặp đ/c tôi nói tình cảm của đ/c Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và của tôi.
Mong rằng sau này không xảy ra những trục trặc như thế nữa… Tình hình trục trặc
trong quan hệ nước là một việc đau, lòng… Tôi đồng ý là không nên nêu vấn đề diệt
chủng. Tôi cũng đã nói nhiều lần với đ/c Heng Somrin và Hun Sen.” Từ Đôn Tín
nói: “Gốc là vấn đề CPC… Song song với việc giải quyết vấn đề CPC thì tiến hành
bình thường hóa quan hệ Việt-Trung… Nếu vấn đề CPC được giải quyết xong, các
đ/c sang thì việc bình thường hóa quan hệ sẽ rất tốt. Nếu các đ/c lãnh đạo VN
sang TQ mà cái đuôi CPC còn thì chúng tôi khó nói với nhân dân… Tháng 6/1990,
đã để mất cơ hội, nay loại trừ hoàn toàn vai trò Liên hợp quốc thì không được nữa.“
Tối 31/7/1991, đ/c Hồng Hà cùng
Trịnh Ngọc Thái gặp Từ Đôn Tín. Cùng dự có Trương Tứ Giang, Tề Kiến Quốc, Hồ
Càn Văn. Đ/c Hồng Hà nói: “Sau chuyến đi TQ lần này, đ/c Lê Đức Anh và tôi phải
về gặp đ/c Nguyễn Dy Niên ở Hà Nội. Chúng tôi phải báo cáo BCT để BCT có ý kiến
chỉ đạo trước khi đ/c Nguyễn Dy Niên đi TQ, không những về nội dung mà về cả
tinh thần và thái độ làm việc. Để làm được như vậy, chúng tôi đề nghị hoãn cuộc
gặp Thứ trưởng vài ngày để có thì giờ chuẩn bị tốt. Trước đây dự định cuộc họp Thứ
trưởng từ 5 đến 8/8, nay đề nghị từ 8 đến 10/8. Đ/c Trịnh Ngọc Thái sẽ ở lại
tham dự cùng đ/c Nguyễn Dy Niên. Nếu cuộc gặp đó không nắm được tinh thần các
buổi làm việc của chúng tôi với các đ/c lãnh đạo TQ thì khó có kết quả… Đ/c Lê
Đức Anh và tôi sẽ làm việc trực tiếp với đ/c Nguyễn Dy Niên. Nếu chuẩn bị tốt,
cuộc gặp Thứ trưởng sẽ không kéo dài. Tinh thần của chứng tôi là phấn đấu làm
cho cuộc gặp thành công.” Từ Đôn Tín nói: “Cuộc gặp Thứ trưởng rất quan trọng,
phải làm cho có kết quả. Tiếp đó SNC họp ở Bangkok, TQ và VN có đại diện ở
Bangkok trao đổi ý kiến để góp phần làm cho cuộc họp SNC có kết quả. Tôi sẵn
sàng gặp các đ/c ở Bangkok.”
Sáng 4/8/1991, tại Văn phòng Trung ương Đảng(4
Nguyễn Cảnh Chân), đ/c Lê Đức Anh và đ/c Hồng Hà đã làm việc với đ/c Thứ trưởng
Trần Quang Cơ và Nguyễn Dy Niên về đề án họp Thứ trưởng ngoại giao Việt-Trung.
Đ/c Lê Đức Anh phát biểu như sau:
Hai vấn đề đối ngoại lớn ta đã
bàn: bình thường hóa quan hệ với TQ và phá cấm vận của Mỹ. Giải quyết được 2 vấn
đề này sẽ bung ra hết vấn đề khác. Hai vấn đề này tác động qua lại lẫn nhau.
Sang TQ lần này ta phải giải quyết. Nhưng giải quyết 2 vấn đề này ta không được
quên 3 nước Đông Dương. Tránh đừng để xảy ra trục trặc vấn đề gì trong quan hệ
2 nước. Ta có 3 vấn đề về CPC cần nắm chắc.Về quan hệ 2 nước, 2 Đảngđã có một
bước khai thông quan trọng. Cố gắng không để trục trặc để đi đến gặp cấp cao
chính thức. Phải nói ta cố gắng từ khi sửa Hiến pháp mãi đến sau Đại hội VII mới
giải quyết. Trong vấn đề với TQ, khách quan mà nói cũng mở đầu bằng vấn đề CPC.
Bên kia đánh ta, ta phản ứng lại. Vấn đề CPC là vấn đề giữa VN-TQ. Ta không thừa
nhận vấn đề này là không đúng. Ta phải giải quyết vấn đề này. TQ cũng đã ngán lắm
rồi. 10 triệu đô la một năm (?) cũng không phải ít. Ta cũng đã mệt. Khi tôi ở
trong Nam, anh Chu Huy Mân vào phổ biến việc đưa quân sang CPC, tôi nói ngay
lúc đó là ngay ở Tây Nguyên ta đã làm 3 năm rồi có được đâu mặc dù ta có Đ__g,
có cơ sở lại là người dân tộc mình. Vấn đề không đơn giản. Ta vào CPC, Thái Lan
sợ. Khi ta giải phóng miền Nam họ đã sợ, vào CPC họ càng sợ. Tuy ta kiên trì
bình thường hóa quan hệ với TQ nhưng không được. Vấn đề CPC có tiến triển là do
trưởng thành của bạn CPC và cố gắng ngoại giao của ta.
Bạn CPC cũng từng bước nhận thức
được vấn đề. Bạn CPC lúc thế này lúc thế khác là điều tất yếu có thể hiểu được.
Quá trình cho đến khi gặp cấp cao
Thành Đô là do cách đặt vấn đề của TQ không đúng. Đáng lý quan hệ Đảngtốt rồi
tác động giải quyết vấn đề CPC thì thuận hơn. Ta muốn như vậy nhưng TQ lại
khác. Bây giờ TQ muốn thoát ra và muốn giữ sĩ diện nước lớn. Khách quan là như
vậy. Anh ủng hộ chế độ diệt chủng phải thoát ra như thế nào để giữ sĩ diện. Đây
là vấn đề tâm lý. Trong bữa ăn, tôi nói với Giang Trạch Dân là TQ nước lớn, VN
nước nhỏ, Giang Trạch Dân nói con chim chích tuy bé nhưng cũng đủ gan đủ mật. Về
quan hệ 2 nước, cách đặt vấn đề của TQ đã khác. Về CPC, Lý Bằng nói chỉ giữ cái
khung mà TQ đã ký với tư cách là một trong 5 nước HĐBA nhưng họ thừa nhận là
văn kiện đó có điều không hợp lý. Cái khung này các bên CPC thừa nhận, cấp cao
Thành Đô đã thừa nhận và đã trở thành vấn đề pháp lý. Đây là cái vòng Kim cô.
Văn kiện khung có 2 điếm quan trọng: Liên hợp quốc tổ chức tổng tuyển cử và quyền
quản lý hành chính 5 Bộ, còn vấn đề quân đội chỉ nêu qua. Vấn đề đặt ra là bạn
thấy nguy, bạn nghĩ lấy vấn đề diệt chủng để phá vòng Kim cô này. Đó là suy
nghĩ đúng nhưng không được.
Sau Vùng Vịnh, TQ cũng thấy Liên
hợp quốc quá lớn cũng nguy cho TQ. TQ muốn thay đổi nhưng TQ không muốn đứng ra
thay đổi. Ta làm sao nói thân tình ta muốn CPC độc lập, trung lập CPC chỉ có thể
là một nước tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ, có quan hệ quốc tế rộng rãi để
tranh thủ đầu tư nước ngoài. Điều kiện CPC không thể đi lên ngay CNXH được. Ta
không cần liên minh quân sự, chính trị với CPC. Ta chỉ cần hữu nghị với CPC
nhưng không đơn giản vì vấn đề lịch sử bị nước ngoài kích động thêm. Vấn đề là
ta cố giữ thế cho bạn, làm sao ta và TQ thống nhất với nhau để giữ một CPC độc
lập, trung lập, không bị nước ngoài chiếm đóng.
Từ đó, tôi nói dứt khoát, ta
không nêu vấn đề diệt chủng. Chúng tôi sẽ nói với bạn cái này. Anh không thể lấy
cái này đế phá vòng Kim cô. Anh lấy cái này thì TQ đứng về phía P-5. Anh đánh
vào tim TQ, TQ bực, đứng về phía 5 nước ép anh bất lợi cho bạn. Liên Xô, Pháp,
TQ đều thấy hợp lý cần phải sửa. Ta và TQ thoả thuận, ta gỡ sĩ diện cho TQ thì
giải quyết được Ta cần tạo điều kiện để TQ gỡ được sĩ diện để ta giải quyết vấn
đề lớn. Tôi đã nói với bạn CPC, trong quần chúng, trong nhân dân không thể
buông vấn đề diệt chủng. Khi Sihanouk về, dẫn Sihanouk đi xem để nâng cao tinh
thần dân tộc nâng cao mặt tích cực của Sihanouk. Sihanouk nói vậy chứ chưa bao
giờ tận mắt thấy tội ác diệt chủng. Giữ vấn đề diệt chủng thế nào cho thực chất.
Không thể ngồi với Khieu Samphan, Son Sen mà nói diệt chủng, tức là chửi vào mặt
nó thì làm sao hòa hợp dân tộc. Ta phân tích kỹ nhưng không can thiệp công việc
nội bộ bạn.
Ta nói với TQ và đồng ý tác động
các bên CPC bỏ qua quá khứ, không để trở lại sai lầm cũ, ta muốn CPC hoà hợp
dân tộc thực sự, bỏ qua quá khứ. Tôi nói với TQ bản thân vấn đề này là vấn đề
nhân đạo, hai bên TQ-VN cần tiếp tục tác động về sau. Miễn chúng ta thống nhất
với nhau thì có thể nói với bạn CPC được. Ta nói trên tinh thần người cộng sản.
Vấn đề thứ hai là vấn đề quân đội.
Mỹ, Ahmed muốn giải giáp hoàn toàn quân đội CPC. Xu hướng chung trên thế giới
là mọi người muốn giảm quân, Xô- Mỹ giảm chạy đua vũ trang. Ta nói các nước đã
chấm dứt viện trợ quân sự, các bên CPC nên giảm quân. Có ngừng bắn và chấm dứt
viện trợ, nên giảm quân. Giải giáp ngay sẽ là một vết thương quá đau. Giảm bao
nhiêu do các bên CPC thoả thuận. Nếu mà bạn CPC nói giảm 50% thì thực chất là
không giảm do quân số ma. Ta có thể ghi vào giấy là có thể giảm quân để giảm bớt
đóng góp của nhân dân. Còn Từ Đôn Tín hỏi giảm bao nhiêu, ta đề nghị TQ đưa ra
phương án. Ta có thể thống nhất giảm 50%, TQ tác động đi, VN phụ thêm. TQ nói
Thái Lan được. Chưa chắc TQ dám chịu ghi biên bản điều này. TQ tác động, VN hỗ
trợ. Nếu chúng tôi thoả thuận thì tức là can thiệp công việc nội bộ người ta,
phức tạp lắm. Ta phải làm cho bạn CPC, ta làm tất cả điều này vì lợi ích của
Đ__g, Chính phủ và nhân dân CPC. Các anh lo là phải nhưng ta có cách. Quân đội
không can thiệp vào tổng tuyển cử, ở trong doanh trại, đi ra ngoài không mang
vũ khí.
Vấn đề thứ ba là vai trò Liên hợp
quốc: Cần nâng cao vai trò SNC, hạn chế Liên hợp quốc. Ta hỏi ý TQ như thế nào.
TQ nên tác động 4 bên CPC để nâng cao vai trò SNC lên đến mức nào thì VN sẽ phối
hợp.
Về tổ chức bộ máy Liên hợp quốc,
ta không chấp nhận có quân đội Liên hợp quốc, ta chỉ chấp nhận nhân viên quân sự.
VN và TQ nên thống nhất vấn đề này và tác động các bên CPC. Không thể chấp nhận
đội quân chiếm đóng của Liên hợp quốc. Ta kiên quyết cái này, không chấp nhận
vì trái với Hiến chương Liên hợp quốc. TQ không đồng ý, ra Hội nghị quốc tế ta
cũng bảo lưu cái này. Đồng ý ta đưa trước vấn đề quan hệ 2 nước, chuẩn bị gặp
Ngoại trưởng, gặp cấp cao.
Vấn đề CPC tồn tại 3 vấn đề như
trên. Ta đồng ý trao đổi vấn đề này nhưng không phải là thương lượng. Nếu nhắc
vấn đề diệt chủng thì ta dồn TQ vào thế đi với 5 nước.
Nếu quân đội Liên hợp quốc vào
CPC, ta lại phải đưa quân xuống biên giới. Đưa quân vào không phải để đối phó với
Liên hợp quốc mà đội quân Liên hợp quốc sẽ làm chỗ dựa cho bọn Khmer phản động
đánh ta. Ta sẽ lại phải tăng quân số, cả một vùng phì nhiêu ở đồng bằng sông Cửu
Long như An Giang, Đồng Tháp… lại bỏ hoang“.
Đ/c Hồng Hà nói: “Ta khẳng định với
TQ trong đoàn còn có anh Trịnh Ngọc Thái.“ Đ/c Lê Đức Anh: “Anh Niên sang cố gắng
giải toả quan hệ giữa hai Bộ Ngoại giao. …Nói thật, ta cũng bị Pol Pot diệt chủng.
Đồng bào ta ở An Giang bị họ sang sát hại ghê gớm. Nhưng vì ta vì đại nghĩa vì
vấn đề lớn phải thoát ra.“
Buổi chiều 4/8/1991, Thường trực
BCT và BBT họp cho ý kiến tinh thần như đ/c Lê Đức Anh cho ý kiến ban sáng.
- Từ ngày 8-10/8/1991, Thứ trưởng
Nguyễn Dy Niên thăm và tiến hành họp Thứ trưởng ngoại giao 2 nước (anh Trịnh Ngọc
Thái sang TQ với đ/c Lê Đức Anh từ cuối tháng 7/1991 ở lại chờ để dự cuộc gặp
này). Sau khi bàn bạc, hai bên ra thông cáo báo chí chung: hoan nghênh Sihanouk
làm Chủ tịch SNC, ủng hộ văn kiện khung Liên hợp quốc, khuyến khích giải pháp
chính trị toàn diện và hoà hợp dân tộc và trao đổi ý kiến về bình thường hóa
quan hệ 2 nước. Ngày 10/8/1991, đúng ngày Quốc hội VN thông qua việc để đ/c
Nguyễn Cơ Thạch thôi chức Bộ trưởng ngoại giao và bổ nhiệm đ/c Nguyễn Mạnh Cầm
làm Bộ trưởng Bộ ngoại giao, Ngoại trưởng TQ Tiền Kỳ Tham tiếp đ/c Nguyễn Dy
Niên mời Bộ trưởng ngoại giao VN thăm TQ vào 10/9/1991 chuẩn bị cho cuộc gặp cấp
cao.
- Ngày 13/8/1991, Hội nghị Trung
ương lần thứ 13 của CPC ra nghị quyết đi vào giải pháp chính trị, đề ra khẩu hiệu
hành động “Tất cả vì bầu cử” thôi không nói cộng sản và chủ nghĩa Marx-Lenin.
- Ngày 26-28/8/1991, SNC họp tại
Pattaya (Thái Lan) chấp nhận toàn bộ văn kiện khung và dự thảo Hiệp định của
P-5. Ngày 30/8, P-5 họp với SNC thoả thuận triệu tập Hội nghị quốc tế Paris về
CPC trước cuối tháng 10/1991. Theo thoả thuận với TQ, đ/c Thứ trưởng Nguyễn Dy
Niên và Từ Đôn Tín cũng đến Pattaya để theo dõi cuộc họp SNC. Trong quá trình
thảo luận trong SNC có lúc phía Phnom Penh lại nêu lại vấn đề diệt chủng, một
giờ sáng (vì phải chờ buổi chiêu đãi quá kéo dài do Sihanouk và Monique liên tục
hát), Từ Đôn Tín lại gặp đ/c Niên để đề nghị VN tác động về vấn đề diệt chủng.
Ta có thông báo cấp thấp cho CPC biết ý TQ, cuối cùng phía CPC không nêu vấn đề
diệt chủng nữa và cuộc họp đạt kết quả, TQ hài lòng. Dịp ở Pattaya, đ/c Nguyễn
Dy Niên, (là quan chức cao cấp nhất của ta gặp Sihanouk từ 1975) đã đến chào
Sihanouk và chuyển lời đ/c Lê Đức Anh mời Sihanouk thăm VN.
- Ngày 9/9/1991, Bộ trưởng Bộ ngoại
giao Nguyễn Mạnh Cầm thăm chính thức TQ ký Thông cáo chung nêu 5 nguyên tắc chỉ
đạo quan hệ 2 nước, thoả thuận Đoàn cấp cao VN chính thức thăm TQ để bình thường
hóa quan hệ 2 nước.
- Ngày 20/9/199: P-5 họp với SNC
tại New York; ngày 24/9 Hun Sen chấp nhận toàn bộ dự thảo 26/11/1990, rút bỏ mọi
bổ sung. Dịp này đ/c Trần Quang Cơ có mặt ở New York tham dự ĐHĐ/LHQ. Lúc đầu tại
New York ta và Lào đề nghị với phía CPC lập cơ chế thông tin cho nhau, phía CPC
tiến hành được vài buổi chủ yếu nghe CPC thông báo, sau đó đến những ngày cuối
cùng quyết định thì cả Lào và ta không thể nào gặp được CPC. Admed, Phó TTK/LHQ
thông báo cho ta, phía CPC đã rút bỏ mọi bổ sung nhưng cả Lào và ta không thể gặp
được CPC để xác minh. Phút cuối cùng, khi mọi việc đã ngã ngũ, Hun Sen ra sân
bay chuẩn bị rời New York, đ/c Cơ mới gặp được Hun Sen, Hun Sen nói tình hình
CPC, tình hình quốc tế Liên Xô như thế này thì phải chấp nhận như vậy, đành phải
rút hết bổ sung để còn giữ được bộ phận quân đội, chính quyền.
- BCT và Ban Bí thư họp tối ngày
3 và sáng ngày 4/10 dưới sự chủ toạ của đ/c TBT Đỗ Mười để cho ý kiến về chủ
trương của ta đối với việc ký kết Hiệp định Paris về CPC. Trong cuộc họp, đ/c
Nguyện Cơ Thạch được mời đến phát biểu. Đến lúc này đ/c Thạch vẫn có ý kiến
khác. Đ/c Thạch nói:” Trong đàm phán không ai bỏ chủ bài. Ta đã bỏ 2 chủ bài lớn
nhất: diệt chủng, giảm quân số. Đáng lẽ phải lấy 2 vấn đề này ngăn Liên hợp quốc.
Con buôn nhỏ cũng phải mặc cả. Đây là cuộc đàm phán lớn mà ta lại bỏ chủ bài để
mặc cả. Ta có thế mạnh là Hiệp định vi phạm Hiến chương Liên hợp quốc. Ta có 2
lựa chọn: không ký; ký với bảo lưu rõ ràng, ký và chấp nhận mặt quốc tế nhưng
không chấp nhận mặt nội bộ. Cần phải làm hết mức, nếu bạn CPC không đồng tình
thì ta cũng không còn trách nhiệm lịch sử. Xin cho thêm thời gian để tôi làm việc
với Bộ Ngoại giao rồi BCT bàn lại… Khi tôi đến Paris, tôi xin gặp, anh Hun Sen
đồng ý gặp… Anh Hun Sen có nói dù tôi có thôi chức vụ vẫn yêu cầu tôi tiếp tục
góp ý với anh… Nên đi CPC trao đổi với bạn, tôi xin xung phong đi (2 lần)… Chủ
quyền CPC bị vi phạm thì chủ quyền các nước bị đe dọa. TQ ký kết chỉ tán thành
mặt quốc tế, còn mặt nội bộ ta bảo lưu vì nó vi phạm chủ quyền CPC“. Đ/c Trần
Quân Cơ phản ứng nói: như vậy thì cứng quá; lâu nay ta đã nói ta tôn trọng mọi
quyết định của SNC. Đ/c Thạch vẫn giữ ý kiến bảo lưu và nói thêm rằng: trước
đây Mỹ còn không ký Hiệp định Genève về Đông Dương mặc dù Hội nghị quốc tế đều
ký.
Cuối cùng BCT kết luận: “Sau khi
nghe báo cáo của Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng, BCT đã thảo luận và đi đến kết
luận:
BCT cho rằng, bạn đã quyết tâm sớm
đi vào giải pháp và đã nhanh chóng rút bỏ tất cả những vấn đề rất quan trọng về
giải pháp mà lâu nay bạn đã đấu tranh, và đã chấp nhận một dự thảo Hiệp định rất
không có lợi. BCT cũng cho rằng, tình hình quốc tế đã có những thay đổi lớn. Mỹ
đang ra sức khai thác lợi thế của mình, nhằm thao túng tình hình, thực hiện ý đồ
lập trật tự quốc tế mới có lợi cho chúng. Thái độ các nước khác trong P-5 nói
chung cũng lựa chiều theo Mỹ. Các nước thành viên Hội nghị Paris cũng không muốn
gay cấn và muốn sớm giải quyết vấn đề.
Trong tình hình đó, tuy ta sẽ phải
ký Hiệp định Paris, nhưng để giữ lập trường nguyên tắc nhất quán của ta, tránh
việc giải quyết vấn đề CPC trở thành một vấn đề lịch sử trong quan hệ giữa ta
và CPC như đã từng xẩy ra, đồng thời để cho nhân dân VN, nhân dân CPC và nhân
dân thế giới hiểu rõ lập trường của ta, BCT chủ trương một mặt ta cần gặp sớm
BCT CPC, chân thật, thẳng thắn nêu lại với bạn những vấn đề nguyên tắc mà lâu
nay ta vẫn kiên trì, góp với bạn nhưng ý kiến cần thiết trước khi đi vào ký kết;
mặt khác ta bảo lưu một cách khôn khéo việc đòi giữ nguyên tắc tôn trọng Hiến
chương Liên hợp quốc và chủ quyền CPC và một số vấn đề liên quan đến chủ quyền
và lợi ích của ta.
Cử đ/c Lê Đức Anh, đại diện BCT,
đi trao đổi với BCT CPC về:
a- Đánh giá của ta đối với bản dự
thảo cuối cùng của Hiệp định.
b- Thái độ của VN: VN trước sau vẫn tuân thủ nguyên tắc: các vấn
đề thuộc chủ quyền của CPC do lãnh đạo CPC quyết định. VN tôn trọng các quyết định
đó. Tuy nhiên, trên tinh thần người cộng sản đối với các đ/c CPC, chúng ta chân
thành nêu ý kiến của chúng ta để các đ/c tham khảo. Khi ký kết Hiệp định, với
tư cách là một thành viên Liên hợp quốc và thành viên Hội nghị quốc tế Paris,
VN sẽ ra tuyên bố Chính phủ nói rõ lập trường của mình không tán thành và bảo
lưu đối với các điều khoản Hiệp định vi phạm Hiến chương Liên hợp quốc và chủ
quyền của một nước thành viên Liên hợp quốc…
c- Gợi ý bạn một số việc cần làm
để ngăn chặn tác động bất lợi của Hiệp định sau khi được ký kết …
- Ngày 6/10/1991, đ/c Đỗ Mười điện
cho đ/c Lê Đức Anh trên đường đi “Thường trực ở nhà bàn tiếp về vấn đề CPC thấy
rằng trong tuyên bố về vấn đề CPC sắp tới khi ký Hiệp định Paris, Chính phủ ta
cần nói rõ 3 ý lớn:
1) Thiện chí của ta góp phần vào
đi đến giải pháp về CPC (đã rút hết quân năm 1989).
2) Ta tôn trọng quyết định của
SNC.
3) Việc thực hiện Hiệp định Paris
về CPC phải trên Cơ sở tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, tôn trọng chú quyền
CPC.
Nói như vậy là đủ, không dùng từ
không tán thành và bảo lưu vì như vậy đặt ta vào thế đối lập găng với tất cả
các nước đã đồng tình nội dung Hiệp định, mà đằng nào Hiệp định vẫn được ký.
Tôi báo lại Anh ý trên đây để anh lưu ý khi làm việc với bạn.“
Đ/c Lê Đức Anh đến Phnom Penh
sáng ngày 7/10/1991. Sai Phuthong và Hun Sen gặp riêng buổi sáng. Buổi chiều 14
giờ làm việc với BCT và Ban Bí thư, tất cả uỷ viên đều có mặt. Anh Ngô Điền và
anh Ba Cung (đang có mặt ở Phnom Penh) tham dự cuộc họp. Đ/c Lê Đức Anh nói BCT
ĐảngCộng sản VN đã họp bàn về giải pháp chính trị CPC và cử đ/c sang báo cáo ý
kiến của BCT VN.
Đánh giá tổng quát tình hình 12
năm qua, đ/c Lê Đức Anh nêu 2 thành tựu lớn:
Một là giải thoát nhân dân CPC khỏi
họa diệt chủng; những người cộng sản CPC đứng lên lập mặt trận đoàn kết cứu nước
với sự giúp đỡ của Đảngcộng sản và nhân dân VN, đã cứu nhân dân CPC đang trên bờ
vực thẳm, sau đó thực hiện cuộc hồi sinh kỳ diệu, đem lại độc lập tự do và hạnh
phúc bước đầu cho nhân dân CPC. Đó là thành tựu đáng tự hào của những người cộng
sản CPC và VN.
Hai là giữa 2 Đảngvà nhân dân 2
nước đã hun đúc tình sâu nghĩa nặng, làm cơ sở cho quan hệ hữu nghị bền vững.
Trong đấu tranh cho giải pháp chính trị, phần đóng góp quan trọng nhất của VN
là cuộc chiến đấu của quân tình nguyện VN nhằm tạo thế cho quân đội CPC. Vì mục
đích đó, quân VN đã tiến vào những vùng chưa từng ai đến, thương vong vì sốt
rét rất cao. Quân tình nguyện VN đã trả giá rất đắt, thương vong trên 10 vạn,
trên cơ sở chiến thắng, quân VN đã rút sớm hơn dự định mà thành quả cách mạng
CPC vẫn được giữ vững, do đó thúc đẩy tiến trình đàm phán tìm giải pháp chính
trị cho vấn đề CPC.
Về giải pháp, lập trường nguyên tắc
của Đảngchúng tôi là: Vấn đề CPC do nhân dân CPC quyết định. Phải tôn trọng chủ
quyền nhân dân CPC. Quốc tế chỉ giúp thôi, cao nhất là giám sát và kiểm soát,
tuyệt đối không được vi phạm chủ quyền. Từ đầu cho đến nay, Đảngchúng tôi giữ lập
trường này, không bao giờ đồng tình cho Liên hợp quốc tổ chức tổng tuyển cử và
lâm thời cai trị CPC. Tuy nhiên, chúng tôi tôn trọng quyết định của CPC; khi
CPC để cho Liên hợp quốc tổ chức tổng tuyển cử, lập trường của chúng tôi vẫn thế
nhưng chúng tôi tôn trọng quyền của CPC, không làm trở ngại. Chúng tôi hoàn
toàn không muốn Liên hợp quốc lâm thời cai quản CPC trong thời kỳ quá độ, đó là
lập trường nguyên tắc, nhưng khi ĐảngCPC quyết định chấp nhận UNTAC, chúng tôi
không cản trở.
Thái độ VN có 2 vế như vậy. Cuộc
họp BCT của chúng tôi vừa rồi khẳng định lập trường nguyên tắc như vừa trình
bày… Ở Paris, nếu VN phải ký Hiệp định vì tôn trọng SNC không phải sợ bị cô lập
thì VN sẽ ra một tuyên bố chính phủ có 3 nội dung:
Thiện chí VN góp phần đạt sớm một
giải pháp chính trị, thể hiện bằng việc rút hết quân tình nguyện năm 1989.
Tôn trọng các quyết định của SNC.
Việc thực hiện Hiệp định phải
trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của CPC và Hiến chương Liên hợp quốc. Chúng tôi
nói với nhân dân VN: 10 năm qua, ta đã gửi con em đi làm nghĩa vụ quốc tế ở
CPC, chúng ta đã làm tròn nhiệm vụ, những người cộng sản VN tự hào mang danh hiệu
Đảngviên cộng sản. Về phần các đ/c chắc cũng như thế. Đế quốc chửi cộng sản,
chúng ta càng tự hào là người cộng sản.
BCT vừa họp xong đã giục tôi đi
báo cáo, chưa có văn bản, xin các đ/c thông cảm, có gì sai sót xin lượng thứ
trên tinh thần người cộng sản. Đề nghị các đ/c chuẩn bị nhiều phương án đấu
tranh, mọi phương án phải bám dân, bám cơ sở để giành thắng lợi cuối cùng cho
CPC.
Anh Heng Somrin nói mấy lời cảm
ơn. Anh nói: Đàm phán diễn ra phức tạp, ta cố giữ lập trường nguyên tắc nhưng
có những điểm 2 Đảngchúng ta nhất trí kiên trì nhưng rồi không giữ được, trong
5 nước lớn không còn ai ủng hộ ta. Sắp tới càng phức tạp nên ta muốn hạn chế
tiêu cực. Chúng tôi sẽ nghiên cứu để tìm cách đấu tranh. Sau đó, anh Heng
Somrin nói về Đại hội Đảngbất thường (sẽ họp ngày 16-17/10).
Hun Sen phát biểu, nêu những khó
khăn trong đàm phán với tình hình quốc tế bất lợi Nhà nước CPC bị cô lập trong
những vấn đề còn lại. Họp SNC ở đâu, P-5 cũng bám theo và tạo sức ép. Vì quyền
quyết định cuối cùng của UNTAC, đã cố tránh đưa ra rộng, đòi bàn trước trong
SNC nhưng Sihanouk đưa ra, buộc Hun Sen phải trả lời. Gạt không được, chỉ có thể
giảm nhẹ đi thôi. Anh Heng Somrin vừa nói là tìm cách đấu tranh ở Paris, nhưng
tôi thấy hết cách rồi. Chỉ có VN, Lào, Ấn Độ ủng hộ còn tất cả đều ép mạnh.
Liên Xô khác trước, chỉ đến để moi tin và truyền đạt cho phía bên kia, nên
chúng tôi không dám thông báo kỹ hay bàn bạc.
- Ngày 23/10/1991, tại Trung tâm
Hội nghị quốc tế Kléber ở thủ đô Paris, các nước tham gia Hội nghị quốc tế Paris
về CPC dã ký Hiệp định về giải pháp toàn bộ cho vấn đề CPC. Ngày 3/11/1991, tại
Hà Nội, đoàn ĐảngCPC do Heng Somrin, Chea Sim dẫn đầu làm việc với đoàn đại biểu
Đảngta về đôi mới quan hệ 2 Đảngtrong tình hình mới; ngày 9/11/1991, đ/c Hồng
Hà và Ker Kim Đan ký biên bản về những vấn đề cấp bách trong quan hệ 2 Đ__g, 2
nước. Ngày 24- 31/10/1991, đ/c Thủ tướng Võ Văn Kiệt đi thăm hữu nghị các nước
ASEAN: Indonesia, Thái Lan, Singapore. Ngày 5/11/1991, đ/c TBT Đỗ Mười và Thủ
tướng Võ Văn Kiệt thăm hữu nghị chính thức TQ bình thường hóa hoàn toàn quan hệ
2 Đảng2 nước. Ngày 14/11/1991, Sihanouk trở về Phnom Penh.
Từ đây kết thúc vấn đề VN ở CPC;
quan hệ Việt-Trung được bình thường trở lại kể từ 1978; VN-ASEAN chấm dứt 13
năm đối đầu về vấn đề Camnuchia. Từ thời điểm này mở ra một giai đoạn hoàn toàn
mới trong hoạt động đối ngoại của Đảngvà Nhà nước VN theo hướng ta thực hiện
chính sách đối ngoại rộng mở, đưa dạng hoá và đưa phương hoá với tinh thần VN
muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới.
****
Tôi đã ghi chép và kể lại hết tất
cả hiểu biết của mình về giai đoạn 1975 – 1991, chủ yếu là vấn đề CPC. Cảm tưởng
của tôi là 13 năm đó thật sự quá nặng nề, bao nhiêu vật chất, công sức kể cả
máu xương đã đổ xuống mà chắc hậu quả còn lâu dài. Tôi nghĩ rằng ta nên tổng kết
giai đoạn này để từ đó rút ra bài học cho hoạt động của ta hiện nay. Tôi không
dám làm tổng kết chỉ xin mạnh dạn nêu một số suy nghĩ như sau.
Một là, trong từng giai đoạn cách
mạng chúng ta nên xác định mục tiêu. và lợi ích cơ bản mang tính chất bao trùm
của giai đoạn đó và mọi đường lối chiến lược và sách lược cả đối nội và đối ngoại
của ta phải phục vụ cho mục tiêu và lợi ích cơ bản đó. Việc xác định mục tiêu
và lợi ích cơ bản, bao trùm đó phải dựa trên cơ sở đánh giá đúng tình hình,
đánh giá đúng, chính xác thế và lực của ta, hết sức tránh chủ quan duy ý chí vì
điều này có thể dẫn đến những hậu quả không lường hết được. Phải chăng sau
1975, chúng ta đã đánh giá quá mức thế và lực của chúng ta như nhận định đất nước
ta mãi mãi sạch bóng quân thù, không kẻ thù nào dám nhòm ngó nữa và từ đó chủ
trương hành động của chúng ta có những sai lầm nhất định. Từ những suy nghĩ đó,
phải chăng nên xác định mục tiêu và lợi ích bao trùm của ta trong giai đoạn hiện
nay là phấn đấu “duy trì và củng cố môi trường hòa bình, tập trung sức đẩy mạnh
phát triển kinh tế-xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc”. Mọi cố gắng cao nhất của ta là nhằm để thực hiện mục tiêu đó,
khi cần phải hy sinh, lùi một bước để tiến hai bước như Bác Hồ đã sử dụng rất
tài tình sách lược đó trong những năm 1945-1946, phấn đấu không để những vấn đề
cục bộ, tạm thời có thể làm chệch hướng lợi ích cơ bản, bao trùm đó.
Hai là, đối với một nước vừa và
nhỏ như ta, kinh nghiệm của ta cũng như kinh nghiệm của thế giới là cần phải
kiên quyết giữ vững đường lối độc lập, tự chủ, giữ quan hệ cân bằng với tất cả
các nước lớn. Cân bằng ở đây có nội dung là tạo ra thế đứng độc lập và trong mọi
hoàn cảnh tạo được khả năng khai thác mọi thuận lợi, hạn chế mọi bất trắc trong
quan hệ với tất cả các nước lớn, các trung tâm kinh tế-chính trị lớn trên thế
giới. Để thực hiện được tốt điều đó, điều cần thiết là phải thiết lập được mối
quan hệ hữu nghị, thân thiện với các nước láng giềng xung quanh ta. Trong bất cứ
hoàn cảnh nào cũng tuyệt đối không đi với một nước lớn này chống lại một nước lớn
khác.
Ba là, nhận thức đúng đắn việc
làm nghĩa vụ quốc tế theo đúng luận điểm của chủ nghĩa Marx-Lenin. Cách mạng
không làm thay. Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Hơn nữa, cách
mạng nước nào lo do bản thân quần chúng, nhân dân nước đó quyết định, bên ngoài
chỉ có thể giúp đỡ chứ không thể làm thay. Đó phải chăng là bài học thấm thía
ta rút ra được sau 13 năm tận tình giúp cách mạng CPC.
Điều cuối cùng tôi muốn nói là,
trong quan hệ với CPC, chúng ta cần thiết đi sâu nghiên cứu đặc tính của người
CPC. Bản thân tôi nhiều năm gần gũi và công tác về CPC nhưng thật sự cũng thấy
khó kết luận …
Ấn tượng sâu sắc nữa của tôi là
thái độ của TQ, qua hơn 10 năm theo dõi thái độ của TQ về vấn đề CPC và trong
quan hệ đối với ta, tôi cảm nhận một cách mạnh mẽ rằng đối với VN, những ý kiến
của TQ về những vấn đề trong quan hệ hai nước mang nặng ý kiến của “thiên triều”,
những điều kiện TQ đặt ra trong quan hệ với ta, TQ kiên quyết giữ từ đầu chí cuối,
không hề thay đổi mà chỉ một mực ép ta phải thực hiện đúng như điều TQ đặt ra,
không một chút nhân nhượng, nếu cần nhân nhượng, TQ có thể nhân nhượng với các
nước lớn khác chứ không bao giờ TQ nhân nhượng đối với ta. Liên hệ điều này với
tình trạng tranh chấp ở Trường Sa, tôi thấy đây là bài toán rất hóc búa vì tôi
không nghĩ rằng TQ có thể có nhân nhượng nào đó dù là nhỏ đối với ta trong vấn
đề này./.
Hết