Nhập ngũ
Hồi ký anh Đức Cường
Tốt nghiệp cấp III năm 1976 song mãi năm 1977 tôi mới nhập
ngũ. Đó là câu chuyện dài không trọn vẹn với tôi. Ngày 15 tháng 11 năm 1977,
ngay khi giao quân xong đồng chí xã đội trưởng mới đưa tôi giấy báo nhập học
trường cao đẳng sư phạm kỹ thuật Vinh (tức
trường đại học sư phạm kỹ thuật Vinh bây giờ). Và nói: “Gia đình anh đông con trai, hiện không có ai ở trong quân đội nên anh
phải nhập ngũ đợt này. Hãy cầm giấy báo để sau này hoàn thành nghĩa vụ về học”.
Tôi im lặng cầm chẳng một lời cảm ơn và đưa ngay cho người nhà đưa tiễn cầm về.
Thời đó chuyện như vậy là bình thường, còn bây giờ là sai luật.
Song bạn bè tôi đi đợt đó rất đông vì vậy tôi cũng hăm hở lên đường.
Do hiệp đồng có sự cố nên 4 ngày sau chúng tôi mới hành quân
bộ vào binh trạm Hưng Lộc. Trong thời gian 4 ngày, chúng tôi học tập hợp và động
tác lên, xuống ba lô. Chúng tôi trọ ở xóm 12 xã Nghi Trung huyện Nghi Lộc. Bây
giờ, quân của xã nào xã nấy phải cử dân quân nữ ra phục vụ, lo cơm nước trong
thời gian đó.
Chúng tôi chỉ biết đơn vị nhập ngũ là sư 10 quân đoàn 3,
đóng ở Phú Khánh. Đoàn tuyển quân rất tuyệt mật về nhiệm vụ của đơn vị mà sau
này tôi mới biết toàn quân đoàn đang tác chiến tại biên giới thuộc tỉnh Tây
Ninh.
Chuyện nhập ngũ của tôi thật đơn giản nhưng nó đã quyết định
bước ngoặt cuộc đời tôi, bởi 32 năm sau tôi mới rời bộ quân phục và đã trải qua
bao vất vả hy sinh ở chiến trường cũng như bao kỷ niệm trong đời quân ngũ.
Tạm biệt quê hương Nghi Lộc yêu dấu, tạm biệt thành phố đỏ
thân thương, đoàn xe chở tân binh rời binh trạm lao hối hả về phía Nam. Đất nước
vừa hoà bình được 2 năm, trong 1000 người ra đi hôm đó không ai biết được mặt
trận Tây Nam đang chờ họ và không ai có thể nghĩ rằng ngày trở về đoàn quân đầy
thương tích đó thiếu 270 người. Vâng! Họ đã vĩnh viễn nằm vào lòng đất mẹ khi
tuổi còn xanh, họ đã anh dũng hy sinh trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc tại mặt trận
Tây Nam.
Quân trường Lam Sơn
Những người lính thời đó, ai cũng thường nghe những băng đĩa
thuộc dòng nhạc vàng về người lính do ca
sỹ Thanh Tuyền (chế độ Sài Gòn cũ) hát. Trong đó, có bài hát nổi tiếng
“Giờ này anh ở đâu” có lời: “Giờ này anh ở đâu, Dục Mỹ hay Lam Sơn…”
Vâng ! Đó là hai trại lính lớn của chế độ Nguỵ quyền Sài Gòn
ở khá gần nhau thuộc Ninh Hoà tỉnh Phú Khánh cũ. Đặc biệt là căn cứ huấn luyện
lớn - căn cứ Lam Sơn.
Chúng tôi huấn luyện 3 tháng tại quân trường Lam Sơn, nơi
doanh trại trước đây chuyên huấn luyện thám báo và biệt kích Mỹ. Xung quanh được
bao bọc bởi 7 lớp hàng rào dây thép gai, giữa các lớp là mìn các loại và ống bơ
báo động để chống đặc công của ta chưa được rà phá còn nguyên. Trên 1 số áp
phích, bờ tường vẫn còn khẩu hiệu của chế độ cũ chưa xoá hết. Ví như ở cửa ra
vào mỗi trại lính đều có quy định: “Khi Việt cộng tiến công phải:
- Ở yên tại chỗ, không chạy đi lại lộn xộn
- Không kêu la, không bật đèn sáng.
- Chiến đấu theo mệnh lệnh chỉ huy.”
Đại loại như thế. Đạn các loại nhiều vô kể nhất là đạn R15.
Mũ sắt nguỵ quăng lung tung, lính ta lấy làm gàu múc nước tắm, tưới rau. Nước tắm
không đủ vì vậy đơn vị phải rà mìn mở đường xuống suối tắm. Chỉ cần bước ra khỏi
phạm vi chiều ngang 2m là tính mạng ngàn cân treo sợi tóc. Thực tế có chiến sĩ
vô kỷ luật không chấp hành quy định vượt qua hàng rào đã bị mìn ríp tiện ngang
bàn chân. Nếu giẫm phải mìn râu tôm thì coi như “xong”. Những câu chuyện huấn luyện tân binh ở quân trường
Lam Sơn thì kể cả ngày không hết, hẹn các bạn dịp khác vậy. 3 tháng sau, tất cả
chúng tôi hành quân vào mặt trận Tây Nam. Một số ít ở lại quân đoàn bộ và các
đơn vị trực thuộc, đa số đều bổ sung vào F320A. Sư đoàn lúc này đang tác chiến
tại Lò Gò, Xoan Giũa, Đà Ha thuộc huyện Tân Biên Tỉnh Tây Ninh. Chỉ sau một đêm
khi quân bổ sung chưa hết đã có đồng hương thương vong trở ra và chúng tôi nghiễm
nhiên trở thành cựu binh.
Hồi âm bài “Bám trụ kiên cường”
Tôi không có năng khiếu viết. Song trên trang Dựng nước - Giữ
nước và trên blog “Hội lính 77 Nghi Lộc” là một độc giả thường xuyên. Sau khi đọc
bài “Bám trụ kiên cường”, tôi thấy lòng mình se lại. Bồi hồi xúc động nhớ lại
trận phòng ngự “Bất đắc dĩ” đó mà tôi là một trong những người trong cuộc.
Trước hết,tôi xin tự giới thiệu. Tôi quê Nghi Lộc – Nghệ An,
nhập ngũ 11/1977. Sau khi vào mặt trận, tôi được huấn luyện nghiệp vụ trinh sát
tại chiến trường và sau đó bổ sung vào đại đội 20 trinh sát Sư đoàn 320-Quân
đoàn 3. Đúng như bài “Bám trụ kiên cường” đã viết. Mờ sáng, địch tấn công vào đội
hình chốt giữ của Tiểu đoàn 4. Địch có sự hỗ trợ của xe tăng nên không bao lâu
tuyến phòng ngự bị vỡ và tiểu đoàn 4 phải rút lui về tuyến sau.
Những ai ở sư đoàn bộ Sư đoàn 320-Quân đoàn 3 trong năm 1979
có lẽ không ai quên câu chuyện Sư đoàn bộ bị địch bao vây. Chỉ một giờ sau khi
địch tấn công, bộ binh của D4 chạy toán loạn vào Sư đoàn Bộ. Đạn cối của địch bắn
theo làm thị trấn hoang tàn chìm ngập trong khói lửa. Lúc này tất cả cán bộ chiến
sĩ sư đoàn bộ đều ra công sự chiến đấu. Năm chiếc xe tăng của Lữ đoàn 273 tăng
cường cho sư đoàn chỉ kịp cơ động ngắn đến các trục đường chính dẫn vào thị trấn
và trở thành năm lô cốt chiến đấu- quyết tâm bảo vệ sư đoàn bộ đến cùng. Đại đội
20 trinh sát chúng tôi nằm sát bên phải đường 3, phía Nam sư đoàn bộ. Chúng tôi
thấy rõ địch, tốp thì vận động theo đường mương vào, tốp thì len lỏi qua các gốc
cây thốt nốt ngoài đồng vào thị trấn. Phía bên phải đường 3 đối diện đơn vị tôi
là trận địa pháo tầm xa Đ74 của Lữ đoàn 40 tăng cường. Do bộ binh Tiểu đoàn 4
chạy tràn qua địa phận pháo vào đại đội chúng tôi làm nhiều người dao động, một
số chiến sĩ pháo chủ đích bỏ pháo chạy. Tôi còn nhớ như in hình ảnh người đại đội
trưởng C20 trinh sát của chúng tôi tên là Lê Thanh Trung, quê ở Thanh Hoá (sau này anh lên phòng trinh sát Sư đoàn 3
và nay đã nghỉ hưu) đứng trên mặt đường 3 cầm súng AK giương cao tuyên bố:
“Tất cả trở lại chiến đấu, chạy qua đường là chúng tôi bắn”. Nhìn thấy, chúng tôi
nằm chiến đấu ngay cạnh đường, lấy vệ đường 3 làm công sự, các đồng chí có phần
yên tâm và quay trở lại trận địa pháo. Chính các đồng chí này, ngay sau đó đã
dùng pháo tầm xa bắn thẳng vào đội hình chiến đấu của địch. Sau này, tôi được
biết câu chuyện dùng pháo binh tầm xa bắn thẳng này được viết vào cuốn “Lịch sử
Lữ đoàn 40 pháo binh Quân đoàn 3”.
Sau gần 3 giờ tiến công chính diện vẫn không tiến vào thị trấn
được. Lúc này địch đánh vu hồi nhiều hướng. Cả sư đoàn bộ, phía trước, phía sau
ở đâu cũng nổ súng đánh địch. Xe tăng địch gầm rú điên cuồng, chạy đi chạy lại
hòng làm hoang mang tinh thần chiến đấu của bộ đội ta chứ không dám dẫn bộ binh
vào vì sợ ta mai phục bắn cháy.
Sau gần một ngày bao vây sư đoàn bộ với sự hiểm trợ của xe
tăng, địch đã không thể chiến được thị trấn để hành quân về hướng Ta Keo nên
khoảng 5 giờ chiều, địch phải rút lui. Cũng vào thời điểm đó, chúng tôi thấy
hai chiếc xe tăng của ta cùng một đơn vị bộ binh Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 64 đánh
vận động từ hướng Nam theo trục đường 3 lên để giải vây cho Sư đoàn song thực tế
lúc này địch vừa rút quân.
Ngay hôm đó bộ phận trinh sát kỹ thuật của chúng tôi (dùng máy PRC25 nghe thoại tiếng của địch)
phát hiện đây là một cuộc hành quân lớn của một trung đoàn bộ cơ giới của địch
bị ta đánh chia cắt nay phải đánh vượt đường 3 để về lại đội sư đoàn, sau đó sẽ
đánh chiếm thị xã Ta Keo.
Năm 2005, tôi có dịp ghé thăm sư đoàn ở Gia Lai. Tôi đã mượn
đọc cuốn lịch sử truyền thống Sư đoàn đồng bằng (F320) mới biên soạn lại và cuốn
sách đó có một trang để viết về câu chuyện Sư đoàn Bộ bị bao vây và phá vây
này.
Sau này là sĩ quan quân đội, ngẫm nghĩ lại cuộc chiến đấu
đó, tôi thấy đây là một bài học lớn cho chỉ huy trong việc tác chiến phòng ngự,
cho việc bố trí đóng quân thời chiến và sử dụng hoả lực. Việc Tiểu đoàn 4 bỏ trận
địa chạy là một điều dễ hiểu vì cuộc chiến không tương quan lực lượng. Địch có
một Trung đoàn có xe tăng yểm trợ, ta chỉ có một Tiểu đoàn không đủ như biên chế
(bị thương+sốt rét+hy sinh chưa được bổ
sung kịp+…) chiến đấu trong điều kiện tạm dừng nên công sự tạm thời sơ sài.
Bố trí đội hình chiến đấu và chi viện lẫn nhau chưa thể là phương án tối ưu.
Hơn nữa lần đầu tiên bộ binh ta chiến đấu với địch có xe tăng hỗ trợ nên tinh
thần dao động, bỏ chạy là tất yếu.
Việc không cho xe tăng ta cơ động đánh địch xuất phát từ nhiệm
vụ chính là bảo vệ bằng dược Sư đoàn Bộ.
5 xe tăng trở thành năm lô cốt hoả lực mạnh phong toả mọi ngả đường địch không
thể tiến công nổi. Người chỉ huy trực tiếp bố trí 5 xe tăng hôm đó là thủ trưởng
tên là Kỷ, Lữ đoàn 40 xe tăng Quân đoàn 3 đi tăng cường cho Sư đoàn 320. Sau
này ông là Tư lệnh bộ đội tăng thiết giáp. Xét về lực lưỡng khi địch đánh vào
sư đoàn bộ, ta và địch ngang nhau.
Địch tiến công một Trung đoàn có xe tăng hỗ trợ. Ta có một
Tiểu đoàn công binh, một Tiểu đoàn thông tin, một đại đội vệ binh, một đại đội
trinh sát, năm xe tăng và một Tiểu đoàn đã mất sức chiến đấu. Kết quả ta đã
đánh tan một cuộc hành quân lớn của địch, làm thất bại âm mưu tập trung lực lưỡng
để tạo thế. Sau trận chiến đấu này 4 tháng, sư đoàn 320 hành quân ra phía Bắc
nhận nhiệm vụ mới. Những người lính trẻ chúng tôi tạm biệt Đất nước chùa tháp với
bao kỉ niệm vui buồn. Ra sân bay vào buổi đêm, 11h30’ lên máy bay Au-22 do kíp
lái toàn người Nga chỉ huy. Ba giờ sau, chúng tôi đã xuống sân bay Nội Bài, người
bắt tay đầu tiên khi xuống cầu thang là Sư đoàn trưởng Khuất Duy Tiến.
Kính chào anh TrầnPhu341.
Anh có nhận ra những người trong tấm hình này không ạ. Người
ngồi ngoài cùng bên trái chính là tôi - Đức Cường, thành viên mới của VMH.Bức ảnh
được chụp vào một buổi tối đặc biệt khi anh vào xứ Nghệ và ghé thăm gia đình
bác Vaphothotu. Chính từ cuộc gặp gỡ này đã để lại cho tôi một ấn tượng sâu sắc
về tình đồng chí đồng đội. Đặc biệt là sức thu hút mạnh mẽ của các thành viên
trên trang dựng nước. Anh và bác Vaphothotu chưa một lần gặp nhau ngoài đời vậy
mà qua trang Dựng nước bỗng trở thành gắn bó. Anh đã không ngại đường sá xa
xôi, không ngại đêm tối đã từ Diễn Châu cách Nghi Lộc khoảng gần 40 km vào thăm
bạn tôi. Có lẽ, chính vì tình cảm thiêng liêng ấy mà bạn tôi đã điện cho tôi về
để trò chuyện cùng anh. Anh biết đấy lúc đó tôi vẫn đang tại ngũ. Trong bộn bề
công việc, tôi đã nghe theo tiếng gọi của trái tim người lính cũng băng màn đêm
về hàn huyên cùng bạn bè đồng đội. Lúc đó trang dựng nước đang còn xa lạ với
tôi lắm. Nhưng cuộc gặp gỡ ấy đã làm cho tôi tò mò tìm đọc. Rồi những câu chuyện
các thành viên trên VMH đã cuốn hút tôi,làm sống dậy trong tôi những năm tháng
"không thể nào quên" trên đất nước Chùa tháp xinh đẹp mà đầy ám ảnh.Rồi
câu chuyện của bạn Vaphothotu kể về trận thất thủ của D4, e 52 tại đường 3 Tà
keo đã thúc dục tôi cầm bút. Vì trận đánh này tôi có tham gia.Viết rồi mới nhận
ra là mình không phải thành viên của VMH nên không gửi được bài. Cuối cùng nhờ
bạn của mình đăng kí thành viên cho.Tôi rất vui mừng khi trở thành thành viên
VMH nhưng hiện tại tôi đang "trục trặc" một chút về máy móc nên không
thường xuyên vào potic được.Rất mong nhận được hồi âm của anh.
ĐucCuongc20.
"Thủng lưới”
Đêm nay, miền Bắc lại trở lạnh. Ngồi co ro bên bếp lửa hồng.
Lòng lại bồi hồi nhớ về một Thời áo xanh quân tình nguyện trên đất K.
Ừ, mới đó mà đã ba lăm năm rồi đấy nhỉ! Phải rồi. Cũng ngày này ba lăm năm trước,
ngày 13 tháng 1 năm 1979(?), tiểu đoàn 4 của chúng tôi đang chốt giữ ở mặt trận
phía Tây Tà keo. Cách trung tâm thị xã(?)
khoảng 4 km.Nhường trung tâm thị xã cho sư bộ 320. Nhiệm vụ của đơn vị
tôi là phối thuộc cùng quân khu 7(?) truy quyét tàn quân của địch, bảo vệ hành
lang đường 3 và bảo vệ sư bộ 320.
Tối ngày 12 tháng 1 năm 1979(?), chúng tôi được thông báo: Sáng mai, ta sẽ tổ chức đánh vận động,
có sự hiệp đồng của xe tăng thiết giáp. Đây là lần thứ ba chúng tôi được tham
gia đánh vận động có xe tăng yếm trợ. Tâm trạng ai cũng náo nức nhưng cũng
thoáng một chút lo âu. Hòa bình rồi còn gì. Đường về quê mẹ gần lắm rồi.Không
biết trận đánh ngày mai diễn ra như thế nào? Kinh nghiệm cho hay, trận nào có
xe tăng yểm trợ thường là trận đánh lớn và ác liệt. Người ta thường bảo con thú
trước khi giãy chết thường hung hãn lắm cơ mà.
Sáng hôm ấy, anh em anh nuôi của dê bộ bắn được một con lợn
ngót tạ và đang xào nấu chia cho các bộ phận. A trinh sát chúng tôi cũng đã lấy
phần về. Có mấy anh em đã nếm thử. Đa phần chưa kịp ăn. Vì đang mải chạy đi xem
anh em công binh rà mìn cho xe tăng đi.
Công binh vừa rút được một lúc. Thì nghe tiếng xe tăng gầm
rú. Tiếng gầm rú nghe một lúc một gần. Nhưng nhìn về phía sư đoàn bộ thì chẳng
thấy xe tăng đâu mà lại nghe tiếng 12 ly 8 nổ toang toác trên đầu. Hướng của đường
đạn không phải từ phía sư bộ bắn lên mà là phía trước mặt bắn lại. Tất cả anh
em chúng tôi phải nằm sát vào mép hố bom phía trước để tránh đạn. Trên chốt của
xê 2 tiếng súng các loại nổ râm ra. Mươi
phút sau,chưa hiểu tình hình ra sao thì đã thấy lính xê hai hớt hơ hớt hải
chạy về nói không nên tiếng:
- Mất chốt rồi.
- Xe ...t...ăng...tăng địch. Chạy đi.
Lần đầu ra trận
Tám anh em chúng tôi được bổ sung vào đại đội 20 trinh sát
sư đoàn nhưng vì chưa có nghiệp vụ trinh sát nên được huấn luyện “nghề” cấp tốc
tại mặt trận. Trong khoá huấn luyện còn có 3 tiểu đội trinh sát của 3 trung
đoàn E48, E52, E64. Tất cả đều là chiến sĩ mới quê ở Nghi Lộc – Nghệ Tĩnh bấy
giờ. Còn tiểu đội trưởng là những cựu trinh sát nhập ngũ trước năm 1975, đã trải
qua thử thách chiến tranh.
Chúng tôi học chỉ có một “thầy” – đó là thầy Ký nguyên là
thiếu uý, trợ lý ban trinh sát trung đoàn 48 điều lên, bạn bè anh thường gọi là
“Ký mù” bởi anh phải thường xuyên đeo kính cận. Sau này về đơn vị, đại đội trưởng
Lê Thanh Trung của tôi nói rằng: anh Ký là học viên xuất sắc khoá học viên
trinh sát của trường sĩ quan lục quân 1. Chúng tôi chỉ học bản đồ và địa bàn,
các phương pháp giao hội để xác định vị trí đứng và kinh nghiệm xác định phương
hướng ở trong rừng, trong đêm có sao và mùa gió để phục vụ trực tiếp cho chiến
đấu.
Một đêm vào tháng 5 năm 1978 lúc đó khoảng 2h sáng, chúng
tôi nghe tiếng súng rộ lên tất cả nhanh chóng ra vị trí chiến đấu. Cả một vùng
trời khói lửa bốc cao nghi ngút. Không bao lâu sau, sư đoàn điện thoại xuống
thông báo địch vào đốt làng, các đơn vị tăng cường lực lượng canh gác chờ sáng.
7h sáng hôm sau, toàn bộ lớp huấn luyện trinh sát nhận nhiệm
vụ truy quét địch ẩn náu ở trong rừng và tổ chức phục kích địch thường ra đường
gài mìn vào buổi đêm. Đây là tốp địch luồn sâu vào đất của ta vì rừng Lò Gò dày
đặc gần như nguyên sinh. Trong rừng còn lưu lại nhiều dấu vết như hầm hào, nhà
tạm, giếng,…nơi các đơn vị chủ lực miền của ta trú quân trong thời kì chống Mĩ,
và nơi đây là diễn biến chính của cuộc hành quân gian sơn city của Mĩ. Ngôi
làng địch vào đốt cách sư đoàn bộ khoảng 2 km theo trục đường 20 đi về hướng Lò
Gò km0. Phân đội truy quét do đồng chí Dảnh-trợ lý trinh sát sư đoàn chỉ huy và
được tăng cường 1 đồng chí thông tin 2W. Chúng tôi chỉ để lại 3 đồng chí nấu ăn
ở ngoài đường 20, còn tất cả đi theo đường lâm nghiệp hướng về suối Đà Ha. Vào
đến cửa rừng chưa xa, chúng tôi thấy một tốp chiến sĩ ta hối hả đi ra, đi trước
là 2 đồng chí khênh thương binh máu chảy đầm đìa, đang kêu la và sau đó là một
tốp thay phiên nhau khênh một tử sĩ xác bó trong túi ni lông rồi mà hôi thối
kinh hoàng, ruồi nhặng bay theo như một đàn ong. Hỏi ra mới biết đồng chí này ở
tiểu đoàn công binh 17 đi rà mìn bị địch bắn chết đã mấy ngày mà ta đánh mấy lần
để lấy xác không được. Sự sợ hãi làm tôi choáng váng vì chỉ cách đây chưa đầy
tám tháng vẫn là cậu học sinh chưa bao giờ tiếp xúc với cảnh tượng như vậy. Mọi
người vẫn tiếp tục đi vào hết sức trật tự và yên lặng. Tôi liếc mắt nhìn các đồng
hương hình như ai cũng có tâm trạng như tôi. Con đường được rà mìn đi đã hết,
có một biển báo nhỏ viết nguật ngoạc trên bìa các tông: “Chú ý có mìn, đường
chưa rà”. Chúng tôi lần từng bước theo dấu chân nhau. Mìn địch cài dày đặc chủ
yếu là râu tôm, hình như đã có tốp bộ đội nào đó đi trước nên cắm cành cây để
làm dấu cho người đi sau. Đồng chí chỉ huy thông báo đã rất gần địch phải tản
ra hai mép đường đi khom tiến vào. Chúng tôi vừa bắt được liên lạc tiếp xúc với
bộ binh C10-E48 cũng là lúc C10 nổ súng đánh vào chốt đường của địch. Súng bộ
súng binh cả 2 bên bắn đua nhau bắn loạn xạ. Thú thật, tôi dám chắc rằng cả 2
bên đều không thấy nhau bởi rừng rất dày. Ta hô xung phong để “hù” địch chứ
không ai lên cả, chúng tôi cũng hô theo cùng bộ binh đến lạc giọng để lấy lại
dũng khí và để chúng hoang mang. Nhưng rồi địch cũng rút và ta đã chiếm được chốt
địch. Chúng để lại khá nhiều lựu đạn trên công sự, chúng tôi không dám lấy sử dụng
vì sợ gặp phải lựu đạn nổ tức thì, thì oan uổng.
Một lúc sau, địch dùng hoả lực tập kích vào trận địa của
chúng tôi. Chúng bắn cối 60 và M79 khá chính xác (vì chỉ xác định phương hướng và ước chừng cự ly chứ không thấy nhau).
Chúng tôi phải vào hầm trú ẩn vì sợ dính mảnh đạn. Hầm chốt này do địch đào có
cả giao thông hào đi lại thông nhau. Tôi nhảy xuống hầm có nắp của một đồng chí
bộ binh tóc xoăn, hỏi mới biết cùng quê Nghi Lộc, cùng nhập ngũ tên là Chung
(sau này ra Bắc, về quê chúng tôi có tìm nhau).
Tôi và một đồng chí trinh sát nữa được lệnh lên bám địch
phía trước và có một đồng chí bộ binh cầm hoả lực B40 hỗ trợ. Bò được khoảng
100m, tôi chột dạ lúc nãy nghe tiếng nổ đề pa (đầu nòng) của M79 rất gần, nếu
tiến nữa thì rất nguy hiểm. Ông bạn BB cầm B40 lúc nào cũng bò sau nếu “ông” bắn
thì chắc mình sẽ chết trước lúc địch chết. Hơn nữa, chỉ có ba người thì làm sao
trụ nổi và chúng tôi quay lại báo cáo: “rừng dày quá không đi xa được, với lực
lưỡng ít thế này địch phát hiện sẽ rất nguy hiểm”. Có lẽ ai cũng biết vậy nên đồng
chí chỉ huy bảo thôi.
Chập chiều, chúng tôi được lệnh trên (qua máy 2W) lùi lại phục
kích địch, buổi đêm cắt đường ra cài mìn. Trời mưa rả rích mà chúng vẫn phải
đào công sự nằm chiến đấu. Tôi được giao bố trí và giật mìn ĐH10 (định hướng của
ta) - Nhiệm vụ phát hoả đầu tiên cho trận đánh. Hai chúng tôi nằm chung 1 hầm
thay nhau quan sát. Khoảng nửa đêm, tôi thấy như có con gì bò sột soạt dưới
tăng (vì trải hai lớp tăng) và cắn đau dưới bụng và chân. Đến lúc không thể chịu
đựng được nữa, tôi kéo tăng lên kiểm tra xem thì ra đó là một tổ mối rừng to
như con ong mật cắn tan cái tăng hai lớp chui lên. Nếu cố nằm thì mối cắn cũng
chết bởi bụng tôi đã bị cắn nổi dị ứng như nổi mày đay, thế là đành liều phải
ngồi xổm cả đêm, trời thì mưa và đầu óc thì căng thẳng chỉ mong trời mau sáng.
Khổ ơi là khổ! Nhưng rồi một đêm thanh bình cũng trôi qua.
Sang ngày thứ hai. Ăn cơm nắm nuôi quân đưa vào. Toàn quân đội
dàn hàng ngang mỗi người cách nhau 5m, đi càn trong rừng cho đến khi ra tận bờ
kênh (giáp đường 20) thì đã buổi trưa. Chúng tôi phát hiện nơi ém quân bí mật của
địch trước khi vào đốt làng. Ra đến đường 20 ăn cơm trưa xong, chúng tôi lại
càng trở lại tuyến mới cạnh tuyến càn sáng nay mà không gặp địch. Chiều tối,
chúng tôi lại đào công sự để phục kích, đồng chí chỉ huy dẫn các toán trinh sát
chỉ từng vị trí mai phục. Đồng chí A trưởng dẫn đầu khi đi qua bãi tranh săng
đá phải dây lựu đạn. Tôi đi thứ 5 vẫn nghe rõ tiếng nổ “bép” của tiếng nổ xuỳ
và tiếng hô của ai đó “Lựu đạn!” Mọi người chạy hai, ba bước và lao người nằm
xuống. Oàng! Khói mù mịt. Tôi nghe tiếng nói “có ai việc gì không?” Tôi dậy thì
thấy mọi người đã đứng lên cả. Hú vía, không ai việc gì mới lạ. Tôi thầm nghĩ
lính trinh sát cựu binh nhanh và bình tĩnh thật, anh bạn đeo máy 2W nặng vậy mà
vẫn kịp bật người ra sau mà nằm xuống. Đây là bài học đắt giá cho nhiều đồng
chí tân binh mới vào như chúng tôi, bởi sau 4÷8 giây (tuỳ loại) lựu đạn mới nổ
nếu bình tĩnh vẫn đủ thời gian xử lý an toàn. Sau này trong đại đội tôi, có đồng
chí Thu “đen”- người xã Nghi Khánh huyện Nghi Lộc bị thương vào bụng phải cắt mất
gần 2m ruột do đá phải lựu đạn nghe tiếng nổ xuỳ mà vẫn quay lại đứng nhìn!
Suốt đêm đó, chúng tôi mai phục mắt căng theo sợi dây mìn định
hướng song vẫn không gặp địch. Sáng dậy, chúng tôi được lệnh rút về tuyến sau để
huấn luyện trinh sát tiếp. Lần đầu ra trận của tôi chỉ đơn giản như vậy. Những
cảnh tượng tác động trước lúc vào trận, rồi cùng C10–E48 nổ súng, rồi còn phải
đối phó với muỗi, với mối rừng đã dần tôi luyện mình trở thành một trinh sát có
bản lĩnh, gan góc, kiên cường. Lính chiến lần đầu ra trận có lẽ ai cũng trải
qua những giây phút như vậy phải không các bạn?
SANG CAMPUCHIA CHIẾN ĐẤU
Khoảng Tháng 8 dương lịch năm 1978, chúng tôi được lệnh di
chuyển toàn bộ đơn vị sang đất bạn. Trước lúc lên đường, chúng tôi được học 9
điều quy định khi làm nhiệm vụ quốc tế. Địa bàn tác chiến của sư đoàn 320 bàn
giao lại cho F331 -QĐ3 (hình như ở ngoài Bắc mới bổ sung vào quân đoàn? - Vì
lúc đó tôi là chiến sĩ nên bạn thông cảm). Chúng tôi hành quân bằng xe cơ giới,
đi ngược lại về ngã 3 Đồng Ban, lên Cà Tum, qua đường Trần Lệ Xuân và vượt qua
ngầm do lữ 273 CB QĐ3 thi công dài khoảng 1km. Đến khi nhìn thấy cây thốt nốt
nhiều mọi người mới bàn tán đã sang K rồi. Đường xe chạy "gập ghềnh biên
giới" tốc độ rất chậm chạy qua nhiều ngầm được đan ngang bằng cây (chống
lún) dài vài trăm mét. C20 chúng tôi đóng trong rừng cây tếch, ở miền Bắc tôi
không thấy có cây này, nghe nói để làm que diêm hoặc làm giấy, lá to như lá
bàng. Ở đây cách đường 7 khoảng 2km, thực tế trên bản đồ đường 7 của bạn chạy dọc
theo biên giới Việt Nam thì ở đây là khu vực gần Việt Nam nhất. Hằng ngày thấy
xe thùng chở liệt sĩ ra nhiều quá chúng tôi hiểu rằng phía trước sẽ là một cuộc
chiến đấu gay go ác liệt đang chờ. Cũng ở vị trí trú quân này do khi tìm vị trí
mắc võng, hai người đồng hương cùng nhập ngũ với tôi do đặt ba lô vào đúng chỗ
quả mìn râu tôm nên đ/c Nam (xóm 1 Nghi
Trung Nghi Lộc Nghệ An hi sinh tại chỗ) và đ/c Lượng bị thương ở sọ não (tuy vậy sau này vẫn về học ĐH và làm giám đốc
xí nghiệp thanh niên ở phường Nghi Hải - TX Cửa Lò - NA. Năm 2005 mất do tái
phát vết thương). Như vậy mới vào chiến đấu chưa lâu trong 8 anh em chúng
tôi bổ sung vào C20 thì đã hi sinh 1 và bị thương 2 đ/c (đ/c Sanh ở xã Nghi Liên- Nghi Lôc - NA bị thương lò Gò). Tôi hiểu
rằng đây mới thực sự là chiến trường, và cũng từ hôm nay sẽ mở đầu cho nhiều
câu chuyện kỷ niệm chiến tranh mà rồi đây tôi sẽ tâm sự cùng đồng đội. Một điều
cũng không thể quên đây là ngày đầu tiên nằm tăng võng mở đầu cho 340 ngày sau
đó (tận ngày ra Bắc) nằm ngủ võng liên tục. Các bạn có tin không? Còn bản thân
tôi giờ cũng không tin nổi mình đã sống được như vậy. Nhưng đó lại là sự thật
100%. Không phải là riêng mình tôi mà cả sư đoàn 320 đều như vậy ...
Nỗi đau nơi xóm vắng
Một quyết định liên quan đến tính mạng một con người hẳn đó
là một quyết định đặc biệt cần phải cân nhắc kỹ. Cho đến bây giờ đã gần U60 mà
tôi vẫn còn day dứt bởi đúng hay sai về
một quyết định tập thể của tổ trinh sát mà lúc đó đều ở tuổi 20. Câu chuyện thế
này.
Khoảng tháng 10/ 1978, đội hình sư đoàn 320A đã sang tác chiến
bên kia biên giới thuộc huyện Mi mút tỉnh Kongpong Cham. Đây là huyện miền núi
biên giới của nước bạn giáp tỉnh Tây Ninh của ta. Đại đội 20 trinh sát sư đoàn
đóng ở phía Đông cao điểm 200. Nói là cao điểm nhưng thực ra đó là 1 đồi thấp,
được phủ toàn bộ cây cao su đã nhiều năm tuổi. Vào buổi chiều, lúc này ở CPC là
đầu mùa khô, đ/c Đại đội trưởng gọi toàn tổ lên giao nhiệm vụ luồn sâu đặt đài
quan sát đường 78 từ ngã ba Suông đi đầm Be. Công việc chủ yếu là theo dõi, ghi
chép sự di chuyển lực lượng của địch thời gian 5 ngày về báo cáo trực tiếp tại
ban trinh sát.
Nhận lương thực thực phẩm xong chúng tôi lên đường ngay.
Riêng đ/c Duyên tổ trưởng và Thịnh thông tin 2W cả hai đều là người Hà Bắc, còn
đ/c Tư người khối Tân Phú xã Nghi Hòa (Cửa Lò bây giờ) đến chập chiều xác định
vị trí đứng chúng tôi biết cách chốt cuối cùng của BB khoảng 1km nữa. Rừng cao
su mênh mông muỗi nhiều vô kể, trời đã nhá nhem tối, chúng tôi quyết định nghỉ
lại sáng mai đi tiếp để tránh BB ta bắn nhầm. Trước mắt chúng tôi là bản nhỏ nằm
giữa rừng cao su. Do làng bản ở K khó đọc nên lính ta thấy trên bản đồ hình thù
thế nào, đặc trưng gì thì gọi như vậy. Nào là bản đỏ, bản vuông, bản dài, bản
đu đủ (vì có nhiều đu đủ)... Bản chúng tôi dừng nghỉ là bản vuông. Chúng tôi nhẹ
nhàng tiếp cận, bản này cách đây 1 tuần địch còn kiểm soát. Bản vắng lặng hoang
tàn không một bóng người. Có lẽ khi chiến tranh đến dân bỏ chạy vào rừng sâu cả.
Chúng tôi leo lên sàn, tổ trưởng phân công tôi cảnh giới còn 3 đ/c còn lại mắc võng và đổ nước vào bao gạo sấy. Nhà dân ở
Cam pu chia 100% là nhà sàn như nhà dân tộc bên ta.
Tôi ngồi quan sát ở cửa sổ để theo dõi. Chỉ có tiếng xào xạc
của gió rừng, tiếng gà con lạc mẹ, tiếng chim lợn bắt đầu đi ăn đêm. Bỗng nhiên
nghe tiếng sột soạt ngày càng rõ, tôi tắc lưỡi 3 cái ra tín hiệu SSCĐ. Tôi nhìn
thấy 1 người đang bò 1 cách nặng nhọc tiến về phía chân cầu thang rồi chui vào ổ
rơm. Tôi nâng khẩu AK lên nhưng tổ trưởng ra ký hiệu không được bắn. Phương án
tác chiến hình thành nhanh chóng trong tích tắc, Tư và Thịnh cảnh giới còn tôi
và Duyên cùng nhảy xuống dùng võ thuật bắt sống. Hai chúng tôi bất ngờ cùng nhảy
xuống và hô: "Lớc dai lơn" (giơ tay lên). Vốn tiếng K quá ít ỏi của
chúng tôi chỉ đủ dùng bắt tù binh thôi. Nó không giơ tay. Ồ thì ra đây chỉ là 1
thằng oăt con nó không có dấu hiệu sợ sệt ngước mặt nhìn như lóe sáng niềm hi vọng,
có lẽ nó tưởng dân làng hay bố mẹ về cứu nó. Nụ cười tắt vội trên môi thay vào
đó là 2 hàng nước mắt, trước mắt nó là 2 người lính ngoại quốc, súng lăm lăm
trong tay. Ngôn ngữ bất đồng nên chúng tôi không thể có cách gì để diễn đạt được
ý nghĩ của mình. Tội nghiệp thằng bé khoảng 9 - 10 tuổi, da đen sạm gầy còm,
trên tay còn cầm miếng cơm khô có lẽ do ai đó rơi nồi nấu cơm sót lại khi bỏ chạy.
Nó gầy yếu quá bước không nổi nhìn vào ổ rơm thấy còn có mấy bắp ngô khô và vài
củ sắn nữa có lẽ đây là "kho" lương thực của nó. Chúng tôi bế thằng
bé lên sàn, người nóng quá có lẽ nó sốt cao. Rồi chúng tôi cùng ăn, nó ăn một
cách ngon lành mắt nhìn chúng tôi ra vẻ cảm ơn. Ăn no rồi nó nằm thiếp đi có lẽ
do đã nhịn đói nhiều ngày. Chúng tôi thì thầm nói chuyện với nhau phán đoán tại
sao thằng bé nông nổi như thế này. Tôi là người hay nói đưa ra nhận định đầu
tiên:
- Đây sẽ là nhà của nó. Nó quá yếu không leo được nên nằm dưới
chân cầu thang để chờ bố mẹ về cứu.
Tư nói:
- Có lẽ nó đi học xa nên khi trở về dân làng đã chạy vào rừng
hết biết đâu mà tìm?
Tổ trưởng Duyên thì thầm:
- Cậu kém thế. Khơ me đỏ làm gì có trường dạy văn hóa mà học,
nó đang thực hiên chính sách ngu dân mà!
Tư nhận định:
- Vậy thì có thể dân làng, bố mẹ nó bỏ chạy khi đi chăn trâu
hay vào rừng làm rẫy?
- Cũng có thể. Duyên trả lời.
Tư nói:
- Nó đói nhiều ngày quá mà sốt cao có lẽ nó chết mất. Ta phải
đưa nó đi anh à, mai để em cõng cho.
Trời đã tối song tôi thấy Tư đưa tay lên như lén gạt nước mắt.
Tổ trưởng Duyên nói:
- Thôi thay phiên nhau ngủ lấy sức mai ta bàn quyết đinh
nhưng nhiệm vụ ta dài ngày nặng nề lắm nếu đưa nó đi theo e không hoàn thành
nhiệm vụ.
Chúng tôi thay phiên nhau ngủ, song tôi thấy hình như cả bốn
đều trằn trọc thâu đêm có lẽ vì chuyện thằng bé. Sáng sớm dậy cả bốn cùng bàn để
có quyết định nhọc nhằn này. Tư và Thịnh ý kiến phải đưa thằng bé đi theo vì để
lại nó sẽ chết. Nhưng tổ trưởng đã quyết định để lại bởi đường đi còn dài gặp địch
cơ động sẽ khó khăn. Chúng tôi bớt khẩu phần ăn mỗi người 1 ngày để lại cho thằng
bé cà cho nó uống thuốc cảm với hi vọng ngày quay trở lại nó còn sống sẽ đưa nó
về đơn vị. (Lính trinh sát trên dây lưng chiến đấu khi nào cũng có dao găm, bi
đông nước, túi bao đạn, túi thuốc cá nhân. Còn lưng đeo gùi vải đựng quần áo,
tăng võng, LTTP). Trao "tiêu chuẩn" cho thằng bé chúng tôi không quên
múc cho nó vò nước để cạnh thầm nhủ rằng: "chỉ cần em sống đến ngày các
anh trở về thì cuộc sống sẽ dang tay đón em". Trước lúc chia tay chúng tôi
muốn nói với em nhiều lắm song ngôn ngữ bất đồng đành nhìn em yên lặng. Chúng
tôi vẫy tay chào, nhìn thấy ánh mắt em đượm buồn nhưng vẫn ánh ngời niềm hi vọng.
Em đâu biết được rằng cái chết đang chờ em phía trước. Tôi thấy trong mắt thằng
đồng hương đa cảm, nước mắt đã lăn dài trên má. Đi đã được vài chục bước như sực
nhớ gì đó Tư chạy quay trở lại hình như dấu chúng tôi cho nó thêm phong lương
khô.
Đến chốt cuối cùng của ta chúng tôi hiệp đồng thời gian quay
trở lại để tránh bắn nhầm. Các đ/c BB nói rằng hãy cẩn thận vì cách đây 2 ngày
địch đánh vào chỗ này. Đúng 4 ngày sau hoàn thành nhiệm vụ chúng tôi quay trở lại.
Đến gần bản Vuông đi càng nhanh, Tư lúc nào cũng đi trước, những ngày thực hiện
nhiệm vụ chúng tôi lúc nào cũng nhắc về em. Tư nói đi nói lại mấy lần:
"Thương nó quá, nó bằng tuổi em út mình"! Kia rồi, em vẫn nằm kia.
Chúng tôi ùa chạy lại. Trời ơi thằng bé đã cứng lạnh rồi, trong tay vẫn còn cầm
miếng lương khô ăn dở. Mắt vẫn mở như đang trông chờ chúng tôi trở về. Chúng
tôi vuốt mắt cho em khá lâu mới được chứng tỏ em chết chưa lâu, tuy vậy ruồi nhặng
đã bay đậu như đàn ong. Chúng tôi nhanh chóng mai táng em ngay vườn nhà rồi để
quần áo, dép của nó ngay trên mộ với hi vọng sau này bố mẹ nó còn nhận ra được,
vừa đào, rồi lấp mà tất cả chúng tôi mắt đều ứa lệ.
Xong việc chúng tôi cắt đường về đơn vị, không ai nói câu
nào mà đều tự thấy lòng mình nặng trĩu. Hãy tha thứ cho các anh, các anh đã về
muộn vì sự hoàn thành nhiệm vụ, vì cứu cả đất nước hồi sinh nên đành lòng bỏ em
lại để rồi lương tâm bứt rứt cho đến bây giờ.
Cuối tháng 7/1979 chúng tôi ra Bắc đóng quân ở Đại Từ - Thái
Nguyên. Vào dịp chào mừng ngày thành lập Quân đội 22/ 12 năm đó, bởi chữ đẹp
tôi được chi đoàn C20 TS F320A chọn vào ban biên tập báo tường. Đó là số báo đầu
tiên khi trở về đất Bắc chuyên đề chào mừng ngày thành lập quân đội. Đa số bài
đều viết về kỷ niệm chiến tranh song có 1 bài thơ làm nhức nhối tim tôi. Đó là
bài thơ "Qua xóm vắng" của tác giả Ngô Thanh Tư với dòng ghi chú:
"Kỷ niệm chuyến công tác qua bản Vuông". Tôi đọc đi đọc lại mà nước mắt
dâng trào tự trách mình vô cảm, thằng Tư ít nói mà trái tim giàu đến vậy. Tôi
không thể sửa một ngôn ngữ nào bởi nghĩ rằng hãy để yên cho trái tim đồng đội
rung động, hãy để cho dòng nước mắt tự chảy. Trong bài thơ này có cả trăn trở của
tôi, của Thịnh, của anh Duyên và sẽ như bao người lính tình nguyện VN trong hoàn
cảnh đó.
Cho đến bây giờ đã 34 năm trôi qua. Quãng thời gian không ngắn
trong đời mỗi con người, tôi còn nhớ 8 câu thơ mở đầu bài "qua xóm vắng":
Trên đường công tác anh gặp em
Bản hoang nhà vắng cảnh điêu tàn
Mình em bơ vơ nơi xóm nhỏ
Ổ rơm ai lót đặt em nằm
Em nhỏ mới lên độ 9 - 10
Có biết gì đâu lứa tuổi chơi
Đã mấy ngày nay em sống vậy
Không gạo không tiền không mẹ cha
Và 4 câu cuối:
Chiến tranh lửa khói ngợp trời mây
Tràn đến bản em miền quê vắng
Anh khắc mãi một lời tâm niệm
Em là nạn nhân của chiến tranh
Đức Cường trân trọng cảm ơn những ai đã đọc câu chuyện này
và hãy giải cho chúng tôi đáp số của một quyết định day dứt mà đến bây giờ vẫn
chưa biết đúng hay sai.
Bài 1: Mắc võng không phải chuyển nhỏ
Khi huấn luyện chiến sỹ mới,chúng tôi đều được học cách mắc
tăng võng nhưng để mắc cho mình nằm thì
chưa, vả lại mắc võng ai không làm được,ở quê nhà nào ai chẳng có võng
.Chuyện nhỏ như con thỏ.
Vào chiến trường lính mới học lính cũ cũng biết mắc võng phải
có cột phụ để nước không chảy vào võng làm rãnh thoát nước, làm giá ba lô
vv..."Biết rồi nói mãi"thế mà tôi vẫn phải trả một cái giá quá đắt do
sự đơn giản bớt xén quy trình mắc tăng võng nên phải nhớ đời bài học này.
Chuyện là khi sư đoàn chuyển từ cao điểm 200 lên phía bắc bản
Đỏ nhưng chưa đến bản Plu nghĩa là đã vượt qua tuyến phòng thủ đã phát quang
dài hàng km rồi. Cũng như ở cao điểm 200 ở đây cũng toàn rừng cao su nên tìm vị
trí mắc võng không khó. Vừa hành quân đến địa điểm quy định việc đầu tiên là mắc
tăng võng để nghỉ ngơi. Các lần trước mắc tăng
tôi thấy dây dựa lằng nhằng khó đi lại, thậm chí vướng ngã nên lần này
tôi quyết định bớt cột dây níu tăng nghĩ rằng đơn giản từng nào hay từng đó. Mọi
người đang hì hục mắc tăng võng còn tôi bắt chân chữ nghũ húyt gió khệnh khạng
nằm nghỉ nhai lương khô khoái chí với cái "khôn" của mình mới có giây
phút khoan thai này.
Thế rồi đêm khuya trời đổ mưa. Lúc này ở K đang giữa mùa mưa
những cơn mưa như trút cơn tức giận kéo dài hàng tiếng đồng hồ theo chu kỳ mỗi
ngày. Nằm giữa rừng nghe mưa rơi lộp bộp trên mái tăng ai không chạnh lòng nhớ
quê nhà, nhớ mẹ già em nhỏ...Tôi còn nhớ có nhà thơ nào đó đã viết cảm giác khi
nằm dưới mái tăng" nằm ngửa nhớ trăng nằm nghiêng nhớ bến" đang Miên
man với ý nghĩ của mình đi vào giấc ngủ thì gió lốc mạnh nổi lên ngay lập tức lật
nghiêng mái tăng của mình. Chỉ một phút người tôi ướt như chuột còn võng và ba
lô tư trang thì như túi đựng nước. Trời tối đen như mực không có đèn nên không
thể khắc phục được.
Vậy là nửa đêm phải lọ mọ sang tá túc nhà "hàng
xóm"dưới tăng đồng đội ngồi chờ sáng. Thương tình anh em mời lên võng
nhưng người ướt như chuột thì làm sao nằm chung được thôi đành ôm hận ngồi chờ
sáng. Không cần kể các đồng đội biết khổ như thế nào rồi.
Sáng dậy việc đầu tiên phải giặt phơi lại tòan bộ quân tư
trang, đến quần lót cũng phải mượn bạn bè. Tôi không dám kể chuyện này với
ai vì tự thấy xấu hổ. Cái giá phải trả
là một đêm thức trắng cùng với cảm cúm ngày hôm sau, may không phải đi viện. Bài
học đầu tiên sang K bài học nhớ đời mắc tăng võng và tất nhiên những lần di
chuyển sau này thì tăng võng của tôi như một cái nhà nhỏ chắc chắn không bao giờ
bị tốc mái.
Lại chuyện cọc phụ trong mắc võng. Một lần đơn vị chúng tôi
hành quân qua một khu rừng tre (chẳng nhớ
ở đâu). Ở đó có rất nhiều khỉ. Chiều.Anh em có bắn được mấy con và chia nhau ăn
thịt. A trinh sát chúng tôi cũng bắn được một con. Tôi thì không náo nức trong
phi vụ này nên chỉ đứng nhìn anh em làm thịt. Khi vặt lông sạch sẽ rồi trông nó
chẳng khác gì một đứa trẻ (ngoại trừ cái miệng và cái đuôi). Tối. Có một số anh
em không ăn trong đó có tôi. Sáng dậy.Khi gấp tăng võng một số anh em phát hiện
ra võng và quần áo mình bị ướt. Quái. Đêm qua không mưa. Sao lại ướt? Không
gian sặc một mùi thum thủm, anh em đoán là nước đái khỉ. Thì ra khỉ trả thù vì
đã ăn thịt đồng loại của nó. Đêm khuya, khi anh em đang ngủ say sưa thì chúng lặng
lẽ kéo đến "oanh tạc' vào đầu các dây võng. Thậm chí nó còn bậy lên cả mái
tăng. Hầu như anh nào ăn thịt khỉ đều bị khỉ 'trả thù". Nhiều anh em bị khỉ
đái ướt cả quần cả áo vì khi mắc võng không dùng cọc phụ. Riêng tôi và một số
anh em không ăn thịt khỉ thì võng vẫn khô ráo.
Bài học nhớ đời: Ai nhanh kẻ đó được
Khoảng cuối tháng 10/1978 sư đoàn bộ f320A chuyển lên phía
trước cách bản plu khoảng 2km nghĩa là sắp hết rừng cao su Mi mút theo hướng
tây. Lúc này ở K vẫn đang giữa mùa mưa vì vậy nhiệm vụ sư đoàn giai đoạn này là
phòng ngự và chuẩn bị cho chiến dịch giải phóng khi mùa khô đến. Bởi xác định ở
dài ngày nên chúng tôi làm nhà âm, đào sâu xuống một mét lợp mái che bằng nhiều
tăng góp lại rồi làm khung gỗ mắc 3-4 cái võng nghỉ sinh hoạt trong đó.
Một buổi sáng thanh bình tiểu đội ts chúng tôi gồm 5 người
nhận nhiệm vụ bám địch tại một tọa độ gần đầm be. Bấy giờ đầm be địch đang kiểm
soát. Nhận LTTP xong chúng tôi lên đường ngay. Đi hết rừng cao su là rừng tạp,
tre mọc ken dày nên tầm quan sát hết sức hạn chế, từ đây chúng tôi phải cắt đường
đi bằng phương vị. Đây là vùng đệm giữa ta và địch nên chúng tôi rất cảnh giác.
Do cây cối cen dày mà cành khô nhiều nên chúng tôi phải rón rén vạch lá cây đi
từng bước một để tránh gây tiếng động.Bởi vậy đi gần một ngày mà chưa đến vị trí quy định.
Chúng tôi luôn phiên nhau đi đầu để đảm bảo công bằng và
tránh sự căng thẳng quá mức. Người đi đầu đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa quyết
định đến sự hoàn thành nhiệm vụ chung của phân đội. Đó là phải quan sát phát hiện địch phía trước đồng thời
phải nhìn địa bàn xác định phương vị liên tục để đi đúng hướng. Tất nhiên chúng
tôi phải học và truyền đạt kinh nghiệm lại cho nhau, muốn đi phương vị nhanh
thì lấy góc chuẩn bắc rồi xác định vật chuẩn mà tiến, có như vậy mới đi nhanh
và có thời gian quan sát địch tình. Lúc này trời đã chạng vạng tối đ/c Liên đi
đầu bỗng ngồi thụp xuống chúng tôi nhanh chóng tản ra, không gian tĩnh mịch chỉ
thấy đàn chim quạ giáo giác bay. Có thể có người, chúng tôi nghĩ vậy nhưng rồi
sau vài phút thấy yên tĩnh chúng tôi tiếp tục hành tiến. Vừa đi được khoảng chục
bước chúng tôi chồ phải tốp địch, tôi vẫn kịp nhìn thấy thằng đi đầu mặc quần
áo màu đen đội mũ pôn pốt [khá giống mũ tai bèo của ta nhưng màu vàng] vai quấn
khăn rằn chỉ cách đ/c Liên khoảng 5 mét. Theo phản xạ tự nhiên cả hai toán đều
ù té chạy lùi về phía sau, chúng tôi vẫn nge được tiếng thằng Miên hét lạc giọng và nói ú ớ gì đó
không rõ.
Một tràng AK dài rộ lên, chúng tôi nằm xuống quay mặt lại
thì đã thấy Liên vừa chạy vừa thở hổn hển nói:“nó cũng chạy rồi quăng cả súng lại
không kịp lấy”. Hình như đây là một tốp thám báo [như trinh sát của ta] do tính
chất nhiệm vụ và ít người nên cả hai bên đều không muốn nổ súng chiến đấu khi
giây phút nguy hiểm đã qua, nên bình thường thấy đối phương là tránh, bất đắc mới
phải nổ súng.
Chúng tôi quyết định quay lại thu chiến lợi phẩm vị trí chỉ
cách chỗ nằm chúng tôi khoảng 50m, anh Toán chỉ huy tổ hỗ trợ để Liên trực tiếp
lấy. Địch chạy mất tiêu, chúng tôi thu được một khẩu AK mới teng và băng đạn
còn đầy chưa kịp bắn. Thằng địch này có lẽ là tân binh được phen khiếp vía
nhưng số phận vẫn mỉm cười với hắn. Ai cũng phấn khởi với trận đánh ngoài dự kiến,
một trận đánh kỳ lạ chỉ một người bắn, một
loạt đạn, thu được một súng. Như thế cũng là hiệu quả rồi.
Chúng tôi lùi về sau rồi cắt đường vuông góc với hướng cũ để
vòng tránh và tiếp tục, đi phương vị cho đến khi màn đêm buông thì chúng tôi
nghỉ lại trong rừng. Đêm khuya gió rừng xào xạc chúng tôi nằm bên nhau lúc này
Liên mới kể cho chúng tôi nghe khi nhìn thấy nhau quá gần và quá bất nghờ nên cả
hai đều hoảng, thấy thằng địch mắt trợn ngược kêu hét lạc giọng còn mình thì miệng
cũng tròn chữ o. Nhưng mình còn nhanh hơn nó sau giây phút hốt hoảng mình trấn
tĩnh ngay liền bật chốt an toàn, sử dụng động tác bắn găm xiết cò, thằng địch
ngã xuống súng văng ra khỏi người nó lăn lộn cứ tưởng đã bị thương đạn cày
quanh nó cho đến khi nghe “cạch”. Súng hết đạn phải thay băng thì thấy nó đứng
dậy “bỏ của chạy lấy người” đến khẩu súng cũng không kịp lấy. Lắp xong băng đạn
khoảng 30s thì nó đã biến trong bóng tối và rừng xanh bất tận.
Thằng này thật cao số. Về đ/v kể lại, đ/c Trung đại đội trưởng
cứ xuýt xoa”nếu bình tĩnh bắt sống tù binh khai thác thì tuyệt vời”. Trinh sát
sư đoàn bắn găm cự ly gần mà không trúng kể cũng xoàng nhưng ở hoàn cảnh đó ai
nhanh kẻ đó được, nếu nó nhanh hơn thì hôm nay làm gì có chuyện mà kể, nếu kể
thì đó sẽ là câu chuyện buồn bởi thêm một bằng TQGC nữa là cái chắc.
Sau này mỗi khi nhắc đến câu chuyện này anh em trong đ/v thường
trêu chọc đ/c Liên, thêm thắt hình ảnh khôi hài cho câu chuyện ly kỳ như là đ/c
Liên bắn, nó nhìn lại cười khi thấy hết đạn thì đứng dậy giơ tay chào rồi mới
…chạy.
Sáng hôm sau chúng tôi tiếp tục hành trình đến địa điểm quy
định và đúng 1 tuần sau chính chúng tôi lại dẫn D3E48 đánh chiếm khu vực này tạo
thế làm bàn đạp cho khởi đầu chiến dịch giải phóng. Bài học để lại là bất luận
trong tình huống nào cũng phải bình tĩnh mới có đ/k để xử lý, chỉ cần ai nhanh
hơn vài giây thôi thì kẻ đó là người chiến thắng.
Đọc bài viết của bác, tôi lại nhớ đến tình huống đi trinh
sát gặp địch của mình. Xin cóp lại để bác cùng anh em tham khảo.
Tây Ninh.Một buổi sáng tinh khôi.
Mới tờ mờ sáng, theo lệnh của đồng chí tiểu đoàn trưởng, tổ
trinh sát chúng tôi đã có mặt tại sở chỉ huy của xê hai để nhận nhiệm vụ mới.
Nhiệm vụ của chúng tôi là trinh sát, thăm dò, lùng sục khu vực phía trước mặt của
chốt xê hai. Cùng đi với chúng tôi còn có một A bộ binh nữa.
Theo như đồng chí tiểu đoàn trưởng thông báo thì hiện nay có
một khẩu cối 81 của địch thỉnh thoảng vẫn nã rất chính xác vào đội hình của xê
hai(?). Ban chỉ huy tiểu đoàn dự đoán: Có thể khẩu cối của địch đang được đặt
trong một vườn chuối, cách vị trị xê hai khoảng trên dưới một ngàn mét gì đó (Trước
đây ta đã đánh vận động và chiếm được bản
chuối này). Hai từ “vườn chuối” mà đồng chí tiểu đoàn trưởng vừa nhắc, đã gợi
cho tôi nhớ về một kỉ niệm thật khó quên.
Hồi đó, tôi mới chỉ là cậu lính tân binh, gia nhập cuộc chiến
chưa lâu. Kinh nghiệm chiến trường chưa nhiều. Sau những ngày tháng “ăn đất, nằm
đai” trên chốt, nay được nhìn thấy không gian rộng lớn đầy "hoa thơm quả
ngọt". Lính ta khoái chí lắm. Tỏa đi khắp vườn, vặt chuối chín cây để ăn. Những
quả chuối căng tròn. Chín nục. Thơm lừng. Lính ta ăn ngấu ăn nghiến như chưa
bao giờ được thưởng thức thứ quả thơm ngon đến thế.
Ăn chán. Lính ta lại
đi tìm "hương thơm quả lạ" khác. Thứ quả mà anh em tìm đến sau chuối
là đu đủ. Đủ đủ nhiều vô kể. Qủa nào quả nẩy chín mọng, vàng hươm. Treo lủng lẳng.
Trông đến là ngon lành. Tôi “tia” một cây có quả to nhất và lao đến. Khi đang
giơ tay định hái “trái cấm” thì bỗng nghe giọng của đồng chí tiểu đoàn trưởng
hét:
- Trinh sát. Cẩn thận đấy. Dưới gốc có thể có mìn.
Nghe thấy thế, tất cả lính tráng đứng khựng lại. Còn tôi, vẫn
bám chắc trên thân cây. Nghe thấy hương thơm ngọt ngào của nó mà tôi không nén
được thèm khát. Tôi nghĩ bụng: Chết thì chết cũng hái bằng được nó. Ôm quả đu đủ
to tướng, tôi từ từ tụt xuống gốc cây. Tôi hoảng hồn khi phát hiện ra một sợi
dây màu xanh lá cây, cách gốc cây mà tôi đang trèo khoảng hơn một mét. Tôi cẩn
thận, lần theo sợi dây .Và phát hiện ra một quả lựu đạn US được cài rất khéo
léo vào một gốc đu đủ gần đó. Tôi nhẹ nhàng giữ lấy chốt an toàn và vô hiệu hóa
nó. Thật hú vía.
Rất may. Cả tiểu đoàn không ai “đổi máu” lấy chuối và đu đủ
cả. Cầm quả đu đủ trên tay. Tôi lại nhớ tới mẹ. Hồi ở nhà được quả đu đủ chín lựng
như thế này thế nào mẹ tôi cũng đem vào gọt vỏ, bỏ ruột đánh cho mỗi người một
cốc…
Đang chìm trong suy
tưởng thì đồng chí A trưởng bộ binh lên tiếng:
- Đi thôi. Trinh sát. Tôi chợt tỉnh. Lấy địa bàn cố định hướng đi và cẩn thận xác định hướng về (Phòng
khi gặp tình huống xấu để đưa anh em rút lui an toàn). Tôi nhắc anh em kiểm tra
súng đạn. Sắp xếp đội hình. Và lên đường. Đang đi. Tôi phát hiện thấy một cây rừng,
thân nhỏ bằng ngón tay út vừa bị bẻ ngọn. Nhựa đang còn chảy. Đi thêm một quãng
nữa, lại gặp một cây rừng bị bẻ ngọn như thế. Tôi ra hiệu cho anh em: Có địch.
Các đồng chí bộ binh tản ra. Tiếng mở khóa lách cách.
Chúng tôi nhận định: Khả năng ta đang đi vào đúng con đường
mà bọn Miên vừa đi qua. Tôi nhắc anh em: Nhiệm vụ của chúng ta hôm nay là đi
trinh sát, thăm dò tình hình địch chứ không phải đi phục kích. Hạn chế nổ súng.
Chỉ được nổ súng khi thấy thật cần thiết. Để đảm bảo bí mật. Chúng tôi cắt
tránh sang bên trái khoảng năm chục mét. Rồi bẻ vuông góc, cắt một con đường
khác song song với con đường mà chúng tôi đang đi..Đi được khoảng một trăm mét
nữa. Chúng tôi bắt gặp một con suối cạn, rộng chừng hai mươi mét. Hai bên bờ suối
tương đối rậm rạp… và khá dốc. Muốn tiến về phía trước chẳng có con đường nào
khác là phải băng qua con suối này. Tôi lấy địa bàn gióng hướng. Đúng vào một bụi
tre giữa lòng con suối. Rồi tiến lên.
Đang đứng giữa lòng suối.. Ngước mắt nhìn lên bờ bên kia thì
bất ngờ thấy hai thằng Miên cũng đang lù lù đi từ trên bờ bên kia xuống. Ba cặp
mắt nhìn nhau. Ba cái miệng ú ớ. Tôi cứng miệng không tài nào hét được. Sau mấy
giây trấn tĩnh. Tôi lia một loạt Ak về phía địch. Còn hai thằng Miên sau mấy
giây sững sờ, cũng kịp “chào” anh em chúng tôi băng mấy viên Ak. Viên đạn xé
gió, rít bên tai.
Bọn Miên chạy dạt về phía bờ bên kia. Lính tráng chúng tôi
leo lên bờ chạy dạt về bên này. Có thằng
chạy rơi cả mũ. Chiếc mũ cối lăn lông lốc xuống tận lòng suối mới dừng lại. Lên
đến bờ suối. Lính tráng nhìn nhau cười như nắc nẻ. Mấy thằng máu chiến thì tức anh ách. Tức vì mình ở vào cái
thế bất lợi. Không tài nào nằm mà bắn được. Đành bắn mấy viên rồi rút lui trong
danh dự.
Chúng tôi quyết định bỏ khúc suối này. Chọn khúc suối khác để
vượt. Đi thêm mấy trăm mét nữa thì tiếp cận được vườn chuối. Trước mắt chúng
tôi là bản chuối. Nơi chúng tôi suýt phải “đổi máu” lấy chuối hôm nào. Nhìn khắp
lượt “vườn xưa, lối cũ”.Chẳng thấy động tĩnh gì. Đang định lui quân thì thấy
hai thằng Miên khiêng một thùng chuối xanh từ trong bản đi ra. Chúng đi về bên
kia bản chuối. Sợ gặp mấy thằng Miên lúc nãy. Anh em chúng tôi rút êm.
Về gần đến “nhà’. Tôi bảo anh em: Chẳng cần cắt đường nữa. Cứ
xuống lòng suối đàng hoàng mà bước. Cả đội hình nằm gọn dưới lòng suối. Đang
đi, thì gặp ngã ba con suối cạn. Tôi rẽ vào nhánh suối bên trái. Nhánh suối này
nhỏ. Chiều rộng khoảng một mét. Đi được một mét. Đang tìm chỗ thấp để trèo lên
bờ thì bất ngờ thấy ngay trên đầu mình là một Thằng Miên đen thui thui. Hắn
cũng đang tìm chỗ hẹp để vọt sang bờ. Hai thằng bất ngờ phát hiện ra nhau. Tôi
vọt lùi về chỗ rẽ. Thằng Miên vọt sang bờ bên kia. Tôi giơ súng lên bờ suối bắn
đại một dây. Vừa nép vào bờ suối thì nghe một tiếng nổ lớn trên bờ suối - Ngay
trên đầu mình. Tôi ngước lên bờ suối tìm mục tiêu. Thì thấy vị trí nổ của quả lựu
đạn địch chỉ cách mép suối chừng hơn một mét. Gía như thằng Miên ném mạnh tay
hơn một chút thì tôi đã hết đường về quê mẹ rồi. Tôi đưa mắt nhìn về phía sau. Quái.
Anh em đồng đội của mình đâu cả rồi sao không thấy ai? Tôi theo mép suối lùi lại
phía sau. Tôi hỏi thằng trinh sát đi sau tôi:
- Sao chúng mày phát
hiện ra địch mà không bảo cho tao?
Thằng trinh sát lí nhí:
- Anh đi nhanh quá. Khi phát hiện ra địch thì không có
cách nào báo hiệu cho anh được. Tôi điên tiết. Chửi:
- Chờ thằng Miên bắn tao chết rồi mày mới lên lôi xác về chứ
gì? Nếu tao không nhanh thì hôm nay đã "ăn kẹo" của nó rồi!
Đang ngồi đay nghiến hai thằng trinh sát thì nhìn sang bờ suối
bên kia, cách chúng tôi khoảng hơn năm chục mét, hai thằng Miên đang từ từ đứng
dậy. Tôi bảo thằng a trưởng bộ binh:
- Nổ súng.
A trưởng bảo với tôi thế này:
- Thôi anh ạ.Về gần đến nhà rồi còn gì. Nổ súng bây giờ nhất
định địch sẽ phản pháo. Chúng em sợ pháo địch lắm…Mấy chục năm đã trôi qua,
bóng dáng của hai thằng Miên vác súng lững thững đi về trước mũi súng của mình
luôn ám ảnh tôi. Tôi nghĩ: Gía như hôm nay có anh Nhì cùng đi thì hay biết mấy.
Nhật kí ngày 13 tháng 10 năm
2013
[đón
linh xa đại tướng võ nguyên giáp về quê an táng]
Bảy giờ sáng, chúng tôi vừa ăn sáng vừa xem truyền hình trực
tiếp lễ tang đại tướng tại Hà Nội để kịp thời gian lên đường. Theo kế hoạch, 7
giờ 30 phút xuất phát song chương trình trực tiếp đang sinh động nên chúng tôi
nán thêm 30 phút nữa rồi cũng phải hành quân.
Ra thị trấn chúng
tôi dừng lại làm công tác bảo đảm hậu cần lo buổi trưa bởi qua báo chí chúng
tôi biết khu vực an táng Vũng Chùa không có người ở nên không có dịch vụ mua
bán. Vaphothotu mua nhiều bánh mì lương khô nước uống bởi lo thiếu giữa rừng
thì phải chịu đói khát. Đến đèo Ngang chúng tôi dừng lại chụp ảnh lưu niệm rồi
lại tiếp tục hối hả lên đường.
9h30 chúng tôi đến ngã ba đường rẽ về Vũng Chùa đã thấy xe
ôtô xếp hàng dọc đường rất nhiều còn dân thì đông chưa từng thấy bao giờ. Khán
giả chảo lửa sân bóng đá TP Vinh tôi thường xem so với số người ở đây thì chỉ
như “muối bỏ biển” .
10h- Chúng tôi quyết
định hành quân bộ vào Vũng Chùa thế là đoàn CCB hòa vào dòng người đi đón linh
xa Đại Tướng về nơi an nghỉ. Hai bên đường có đến vài trăm thanh niên tình nguyện
đứng ôm chân dung Đại Tướng. Trong dòng người đi viếng chúng tôi thấy đủ các
thành phần lứa tuổi. Có những CCB già ngực đeo đầy huân chương đi bằng xe
lăn,có những gia đình trẻ,vợ tay bồng bế chồng dắt con nhỏ,có nhiều dòng tu vừa
đi vừa đồng ca niệm phật... Trên đừng đi vào chúng tôi thấy nhiều người ,có cả
phóng viên đi trước họ đã chiếm lĩnh các vị trí thuận lợi trên cao tiện quan
sát và có bóng cây che nắng mát mẻ để tác nghiệp và chờ đợi.
Vào đến vị trí trung tâm chúng tôi tranh thủ chụp ảnh lưu niệm
bởi chỉ vài giờ nữa thôi thì chúng tôi không có cơ hội được đứng ở vị trí này gần
khu vực an táng đại tướng.
Chụp ảnh xong công việc khẩn trương ngay đó là tìm chọn nơi
đặt“đại bản doanh” để trú quân. Sau vài chỗ lựa chọn chúng tôi mới tìm được nơi
ưng ý gần khu trung tâm tiện quan sát và có bóng mát. Cạnh chúng tôi là một gia
đình trẻ làm nghề nông, nhà cách đây 20 km. Chúng tôi hỏi: “ Sao chị cho cháu
nhỏ đi theo,trời nắng thế này tội cháu phải đi bộ xa quá?” Vợ chồng vui vẻ trả
lời: “Để sau này cháu có kỉ niệm không quên và để cháu hiểu vì sao ông đại tướng
được nhiều người dân kính trọng, yêu thương đến như vậy.” Cảm nhận câu trả lời
của một nông dân, tôi thầm nghĩ học lịch sử, giáo dục công dân cũng cốt để giáo
dục lòng yêu nước, sống có đạo đức… Vậy câu trả lời của chị cũng là một phương
pháp giáo dục thực tế nhất.
12h - chúng tôi ăn trưa. Ngồi trong lùm cây, ăn theo kiểu dã
chiến mà nhớ chiến trường. Lương khô bây giờ làm ngọt hơn trước. Còn 4h chờ đợi
nữa, dòng người cứ tuôn đổ vào khu trung tâm ngày một nhiều. Thời tiết nắng và
nóng, mọi người vẫn kiên trì chờ đợi và kể cho nhau nghe những câu chuyện xung
quanh về cuộc đời đại tướng. Thật maythời tiết nắng nóng được nước phục vụ miễn phí được ban tổ chức phục vụ
đầy đủ nên không ai bị khát. Tuy vậy, vẫn có 2 trường hợp cấp cứu được đưa lên
xe cứu thương chở về bệnh viện huyện. anh bạn tôi có máy điện thoại nối mạng
internet nên cập nhật được liên tục đoàn linh sa về đã về đến đâu và thông báo
cho mọi người xung quanh biết. Đúng 4h, Linh cữu đại tướng đã về khu trung tâm
Vũng Chùa. Khi xe chở linh cữu chạy qua, mọi người đứng dậy. Tôi giơ tay chào,
cái chào đầu và cũng là cuối cùng đối với Võ đại tướng thiêng liêng mà nước mắt
tuôn trào bởi vô cùng thương tiếc, ngưỡng mộ, biết ơn đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Lễ an táng xong thì trời đã sắp tối. tuy mọi người dân chưa thể thắp nhang trực
tiếp cho đại tướng được bởi đại diện các tổ chức, đoàn thể quá đông đành phải đốt
bó nhang và để lại những bó cúc vàng trên mảnh đất Vũng Chùa này. Nhưng mọi người
vẫn toại nguyện bởi tấm lòng thành đến tận nơi đây đã là nén nhang thắp lên bàn
thờ đại tướng. Tôi thầm nghĩ ở dưới suối vàng đại tướng sẽ mỉm cười mãn nguyện
bởi lòng thành kính tri ân của nhân dân cả nước dâng lên đại tướng.
[Xin gửi tới các đồng chí và các bạn
một số hình ảnh trong chuyến trở về Quảng Bình tiễn đưa đại tướng].
Ảnh dưới: đức Cường[người mặc quân phục
xanh] giơ tay chào khi xe chở linh linh cửu đại tướng đi qua.


Nhật ký 7 ngày chiến
dịch giải phóng k[từ 1-7/1979]
Ngày 1/1:
Tháng 12/1978 Sư đoàn bộ vẫn đóng trong rừng cao su trên bản
đỏ nhưng chưa đến bản plu [bản đu đủ].Từ ngày sang k đến nay thì ở đây lâu nhất,trọn
hai tháng trời. Vì vậy chúng tôi làm nhà âm rồi mắc võng ngủ vài người trong
đó. Đêm khuya chúng tôi mới có điều kiện tìm hiểu tâm sự cùng nhau. Tuy trong
cùng một đại đội nhưng mỗi người một lứa tuổi mỗi người một quê, linh 74,75 quê
vĩnh phú, Hà bắc, lính 76, 77, 78 Hải phòng, Hà nam ninh, Nghệ tĩnh, Thanh
hóa…Đủ mọi miền quê đâu cũng có “chuyện quê tôi”
Cuối tháng 12/1978 chúng tôi được quán triệt chuẩn bị đánh lớn
tiến về đồng bằng chứ thực ra không biết đó là chiến dịch giải phóng k. Những
ai ở C20F320A năm1978-1979 đều biết chuyện anh em ở hậu cứ [núi bà đen] nuôi được
một con lợn nặng 180kg nhân có xe sư đoàn về gửi sang và 22/12 năm đó được một
bữa ăn ngon nhớ đời bởi chiến dịch sắp mở không thể đưa đi theo cất dành được.
Trước ngày nổ súng một tuần, một đại đội”cảm tử” được hình
thành mà nòng cốt là C6 E48 được bổ sung nhiều tay súng thiện xạ có sức khỏe tốt
từ các đơn vị khác đến. Chỉ một đai đội chiến đấu nhưng do tính chất nhiệm vụ đặc biệt nên có cả
TL tác chiến, TL ban TS sư đoàn, trinh sát quân đoàn, sư đoàn và cán bộ trung
đoàn cùng đi. Quân số tất cả 125 người kể cả 1A vận tải trung đoàn tăng cường để
vận tải đạn hỏa lực, mìn chống tăng vv...Nhiệm vụ đại đội cắt rừng luồn sâu đến
tận cầu sắt [cầu khmung] cách bến phà Kongpong Cham khoảng 2km chốt giữ cầu cắt
đứt đường số 7. Khi chiến dịch mở ta đánh dọc theo trục đường 7 thì bị chặn tại
đây buộc địch phải bỏ xe, pháo lại. Mìn chống tăng sẽ được bố trí rải mìn cấp tốc
ngay trên mặt cầu. [Hình thức cđ khá giống với một bộ phim Liên xô trước đây
tôi đã xem]. Do tính chất nhiệm vụ nên bộ tư lệnh quân đoàn và sư đoàn trưởng
Khuất duy Tiến trực tiếp giao nhiệm vụ cho đại đội cảm tử. Điểm xuất phát từ bản
Na qua sát Đầm be, vượt qua phía tây Chúp, thị trấn Suông đến vị trí tập kết
quãng đường khoảng 70km. Trên bản đồ hiển thị có nhiều rừng tre mà rừng tre thì
rất khó đi phương vị nên tốc độ sẽ rất chậm.Bởi vậy do địa hình phức tạp lại phải
tránh địch và phải khênh 1đ/c do bị đau ruột thừa đột xuất nên khi sư đoàn đánh
qua cầu rồi mà đại đội cảm tử vẫn chưa đến vị trí quy định. Tôi nghĩ rằng nếu đại
đội cảm tử hoàn thành nhiệm vụ thì kết quả thắng lợi chiến dịch sẽ rất cao và
cũng sẽ là bản hùng ca đầy bi tráng.
Mờ sáng ngày 1/1/1979 toàn sư đoàn nổ súng tiến công vận động
theo các trục đường ra đường 7. Xe chở BB do đoàn xe H13 TTHC tăng cường vận
chuyển mới đủ để chuyên chở BB và VKTB bảo đảm cho chiến dịch, các mũi tiến
công đều có hỗ trợ xe tăng nên tốc độ tiến công rất cao, có đ/v tiến công bằng
BB cơ giới, gặp địch ở đâu xuống xe đánh ở đó. Xe nối đuôi nhau hàng km nên cơ
hội khóa đuôi của địch là không có. Qua các làng bản chúng tôi thấy xác người, động
vật la liệt. Đến Suông chúng tôi thấy nhân dân ở đây không chạy [hay không kịp
chạy] vẫy tay chào đón. Đại đội 20 ts chúng tôi luôn đi theo SCH tiền phương tiếng
súng chiến đấu BB luôn ở trước mặt. Do ở
các trung đoàn đều có ts sư đoàn tăng cường, anh em đi, về liên tục nên chúng
tôi cũng nắm được cập nhật tình hình chiến đấu cuả sư đoàn. Đêm đó chúng tôi ngủ
tại rừng cao su thuộc Suông.
Nhật ký 7 ngày chiến dịch giải phóng từ 1-7/1/1979.
Ngày 2/1:
Mờ
sáng những tiếng nổ chát chúa vang lên từ nhiều phía chứng tỏ đêm qua, một đêm
không bình yên bởi sẽ có nhiều đ/v hành quân cả đêm luồn sâu ém quân chờ sáng nổ
súng. Buổi chiều hôm qua toán trưởng do trung đội trưởng Thạch chỉ huy đã đi
tăng cường cho E48 [chỉ còn 2 tiểu đoàn d2, d3. Còn d1 tăng cường cho E64] đánh
theo trục đường 15 đi TX Prey Veng [hướng
này C11 d3 chỉ còn ba tay súng chiến đấu do hy sinh và bị thương hết tại cầu gần
TX play veng. Tháng 5/79 tôi theo đoàn tìm xác tử sỹ mất tích do trước đây thời
gian gấp rút các đ/v chưa tìm được và đã đứng trên cầu này nghe đ/c Tòng tiểu
đoàn trưởng kể lại. Trong cuốn lịch sử sư đoàn 320A có đoạn nói về trận này]. Gần
trưa thì ta đã làm chủ thị trấn ngã ba này. Sang buổi chiều bộ binh E64 đã đánh
đến cầu Khmung [cầu sắt]. Đây là chiếc cầu mục tiêu chiếm giữ của đại đội cảm tử
do không hoàn thành nhiệm vụ nên khi E64 đánh qua cầu mà đại đội cảm tử vẫn
chưa đến.
Buổi chiều chúng tôi cùng SCH tiền phương di chuyển đến
Chúp. Ở đây chúng tôi thu được nhiều chiến lợi phẩm phục vụ cho công tác như
bút, thuốc menvv…lính cho nhau vô tư bởi
không mang được nhiều mà biết sống chết ra sao. Có chuyện này kể các bạn lính
chiến rất khó tin nhưng tôi thề có thật 100% vì bài tôi viết ở VMH có một số
anh em trong đại đội đã đọc theo dõi góp tư liệu với tôi qua điện thoại. Đó là
chập chiều hôm đó tiếng súng chiến đấu chưa dứt mà anh em Ctrinh sát chúng tôi
do đại đội trưởng Lê Thanh Trung đã tổ chức đá bóng ngay bãi cỏ ven đường gần
thị trấn Chúp! Súng ống dây lưng cđ để ở ngay sân bóng!. Tuy là đ/v chiến đấu
song đại trưởng chúng tôi rất ham mê thể thao. Ở rừng cao su [cao điểm 200] vẫn
nhờ cánh hậu cần về VN công tác mua bóng chuyền hộ và có cả bơm để bơm bóng nữa,
di chuyển đâu cũng mang theo. Nghĩ lại vô tư quá nhưng cũng có lý vì cán bộ, chiến
sỹ trong đại đội chưa ai qúa 25 tuổi. Bây giờ gặp nhau chúng tôi vẫn nhắc chuyện
này.
Trong đại đội có một tiểu đội ts kỹ thuật chuyên dùng máy
PRC25 [của Mỹ] “nghe trộm” đài địch, sàng lọc thông tin báo cáo ban ts. Nhiều
tin quan trọng thủ trưởng chưa biết mà chúng tôi đã biết do anh em đài kỹ thuật
thường ở bên cạnh nhanh mồm nhanh miệng nói ngay. Cũng nhờ vậy mà hồi mùa mưa ở
cao điểm 200 chúng tôi thường thay phiên vào bản xala hái rau quả, bản nằm
trong rừng sâu cách xa đơn vị 5-6km. Một hôm đại đội trưởng Lê Thanh Trung cấm
không cho đi lấy rau nữa vì địch phát hiện và báo cáo qua máy TT đàm thoại “hằng
ngày có vài tên Duôn qua lại vào bản xa la hái rau” nhờ đài kỹ thuật mà anh em
chúng tôi không phải đổ máu. Qua đài thông tin địch, chúng tôi được biết địch sẽ
“Tử thủ” ở bến phà Kongpong Cham mà nòng cốt là sư đoàn 502 quân khu đông bắc. Buổi
tối, tôi được tiểu đội trưởng thông báo sáng mai toàn tiểu đội đi công tác[bám
địch].
Ngã ba Chúp(?)
- Ngày 1.1.1979.
Cuối buổi chiều, chúng tôi hành quân đến ngã ba...(?)Tổ
trinh sát chúng tôi được giao nhiệm vụ bắt liên lạc với một đơn vị bạn tại ngã
ba này. Đó là đơn vị ...(?) đánh từ hướng ...(?) sang. Chúng tôi tìm được một
chiếc chăn màu đỏ. Rồi cột vào một cái sào lớn, treo ngang dưới cây cột điện
làm hiệu.
Trong khi chờ bắt liên lạc, chúng tôi đi lùng sục khắp nơi. Phát
hiện ra một cái bếp ăn tập thể. Trước đây mới chỉ nghe nói: Nhân dân CPC ăn cơm
tập thể thì nay mới được chứng kiến. Trên bàn, còn lại một ít thịt chưa nấu và
trong nồi cơm chỉ trơ lại một ít cháy.
Mấy người dân biết Tiếng Việt, có dìu đến một cô gái khá
xinh xắn.Cô ấy bị thương vào đùi. Máu cháy khá nhiều,y tá nói thế nào cũng
không cho băng. Cuối cùng, y tá đem bông băng và hướng dẫn cho mấy bà Việt Kiều
băng bó cho cô ấy. Khi chia tay, cô gái cười bẽn lẽn trông đến dễ thương.
Gần tối.Chúng tôi nghe tiếng xe tăng ì ầm từ phía Việt Nam vọng
lại. Tiếng xe nghe một lúc một gần. Khi đã nhìn rõ hình hài một chiếc xe
k63(?). Đoán chắc là xe đơn vị bạn. Chúng tôi bắn ba phát súng làm ám hiệu. Và
trên xe tăng cũng đáp lại mấy phát. Mừng rỡ, cả đơn vị chạy ùa ra hoan hô.
Chiếc xe tiến gần đến ngã ba thì tăng tốc và lao vun vút về
phía Phnom Penh. Chúng tôi đang ngỡ ngàng chưa hiểu điều gì đang xảy ra thì mấy
phút sau, một chiếc xe nữa cũng ầm ầm lao tới và không dừng lại... Lúc này cả
dê bộ mới chợt tỉnh. Tiếng của một ai đó hét to: Xe tăng địch tháo chạy. Toàn
đơn vị bảo động chiến đấu.B40 được điều đến.Nhưng chờ mãi chẳng thấy chiếc xe
nào chạy qua nữa. Sau này nghe kể lại: Trên đường tháo chạy xe tăng địch đã lao
vào đội hình một đơn vị nào đó và cán chết một số người. Không biết điều đó có
đúng không?
Xạ thủ ĐKZ 82.
Chiến trường ngày càng khốc liệt. D6 của tôi đang đánh nhau
tưng bừng khói lửa trên đất bạn CPC(?).Còn tôi, vẫn ngày hai buổi quẩn quanh ở
trạm thu dung.
Thế rồi ra viện. Tôi được điều về D4, E 52. Cùng về D4 với
tôi còn có anh Mai người Nghi Văn. Cả hai anh em chúng tôi được điều về C4 hỏa
lực. Anh Mai được tăng cường cho khẩu đội 12 ly 7. Còn tôi, được tăng cường cho
khẩu đội ĐKZ 82. Lúc đầu, tôi được phân công làm xạ thủ số hai, vác chân. Sau lại
chuyển sang làm xạ thủ số ba, mang năm quả đạn. Công việc của một xạ thủ ĐKZ thật
vất vả, vì mang vác nặng nề. Tôi còn nhớ, riêng cái nòng của nó là hai mươi
chín cân. Mỗi quả đạn năm cân, vậy chi xạ thủ số ba phải mang hai mươi lăm ki
lô gam. Ngoài ra còn có gạo, súng AK, quân tư trang của mình nữa. Khi hành quân
đã vất vả. Còn khi đánh vận động lại càng vất vả hơn. Đòi hỏi người lính hỏa lực
phải có sức khỏe tốt mới hoàn thành được nhiệm vụ. Trong khi đó, lính trinh sát
mang vác rất nhẹ nhàng. Ngoài quân tư trang, người lính trinh sát lại được
trang bị một khẩu súng Ak báng gấp, năm đến bảy băng đạn và vài quả US. Gọn nhẹ.
Thú thật, tôi rất khoái làm xạ thủ ĐKZ. Vì so với lính trinh
sát thì nó ít tiếp cận địch hơn. Vì vậy,
tôi dấu kín chuyện làm lính trinh sát ở d6 của mình. Chỉ huy khẩu đội ĐKZ 82 là
anh Sơn – Lính bảy lăm. Anh là người rất nghiêm khắc. Anh bảo với cả khẩu đội:
Thằng này (chỉ tôi), là lính mới, phải rèn đến nơi đến chốn. Đi phục, đi tập
kích, lúc nào anh cũng bắt tôi đi đầu. Nhiều khi sợ sệt, không biết làm thế nào
mà lùi lại sau, đành giả vờ đi đái (để
người khác vượt lên trước mình). Anh dừng lại. Nói khẽ, nhưng đầy giận dữ:
Tao bắn đứt “chim” đấy.Lâu dần thành quen. Từ chỗ tim đập bất chấp nhịp địệu, đến
lúc “chậm dần và đều lại” là một quá trình tôi luyện đầy gian khổ. Ở C4, tôi chỉ
tham gia một trận đánh với tư cách là xạ thủ số 3 mà thôi.
Lần đó, ở Me Mút(?), D4 được lệnh luồn sâu, đánh vào phía
sau lưng địch. Sau một đêm luồn rừng vất vả. Mờ sáng chúng tôi tiếp cận được mục
tiêu. Trước mặt chúng tôi là cái bản nhỏ. Muốn đánh vào bản đó phải vận động
qua một bãi cỏ gai cao quá đầu gối. Địa hình thật chẳng thuận lợi chút nào. Từ
xa, chúng tôi thấy địch đi lại lố nhố. Chúng chẳng hay biết rằng, hàng trăm
nòng súng các loại đang hướng về phía chúng và sẵn sàng nhả đạn.Tôi thấy một
làn khói nhỏ bay lên từ cuối bản. Tôi nghĩ: Chắc chúng đang nấu cơm? Và giờ G
đã đến. Pháo tầm xa của trung đoàn cấp tập bắn vào mục tiêu. Lệnh tấn công bắt
đầu. Cối 82 của C4 rót vào bản. Chính xác đến từng quả một. Tiếng hô xung phong
của cả đại đoàn quân vang vọng khắp cánh rừng cao su. Tôi xách súng chạy theo
anh Nghĩa xạ thủ số một.
Đây là lần đầu tiên, tôi được tham gia đánh vận động trong một
đội hình lớn như thế này. Tôi khoái lắm. Chỉ tiếc là không được cầm AK mà bắn
vào đầu bọn Miên. Tiến được một vài chục
mét. Chúng tôi thấy một chiếc xe ca. Vâng, chính xác là một chíêc xe ca màu trắng,
khoảng trên ba chục chỗ ngồi đang chạy qua bản. Mục tiêu ngon quá. Cả khẩu đội
hét lên:
- Anh Nghĩa bắn đi. Bắn đi anh Nghĩa. Bắn đi. Bắn đi...
Anh Nghĩa bước thêm mấy bước nữa để lấy thế. Bỗng anh ngã sụp
xuống. Tôi chạy lại phía anh. Khi gần đến chỗ anh.Tôi bỗng ngã nhào về phía trước.
Mặt mày tối sầm lại.
Anh Sơn, khẩu đội trưởng hốt hoảng:
- Sao thế? Bị thương à?
Anh Nghĩa chửi đổng:
- Đ…mẹ sa hố!
Thì ra, chúng tôi đang tiến vào một bãi cao su đã được chặt hạ, trơ lại toàn
gốc. Bên cạnh mỗi gốc cây là một cái hố sâu, chuẩn bị cho việc trồng cây mới.
Anh Nghĩa đã kéo được chân phải lên. Chuẩn bị bắn. Còn tôi, tôi đang nằm ngay
sau đuôi khẩu ĐKZ. Nếu anh Nghĩa bắn thì tôi sẽ nằm gọn trong luồng lửa phụt ra
từ phía sau của nó. Chắc chắn tôi sẽ bị cháy thui. Nguy cơ năm quả đạn sau lưng
tôi sẽ nổ. Nếu khối thuốc nổ hai mươi lăm kí trên lưng tôi được kích hoạt thì không biết điều gì sẽ xảy ra đối với xê hỏa
lực. Tôi hét:
- Khoan. Anh Nghĩa còn em ở phía sau!
Hình như anh Nghĩa không nghe thấy. Tôi lấy hết sức bình
sinh, chống hai tay để nâng một trọng lượng hơn tám chục kí ra khỏi hố và lao về
phía trước. Một tiếng nổ “ầm” vang lên. Khói bụi mù mịt. Tôi thoáng nhìn về
phía sau, nơi tôi vừa ngã, cây cỏ cháy queo. Vì bắn vội nên quả đạn không trúng
xe mà lao vào mái nhà gần đó. Bản làng chìm trong lửa khói. Tôi lắp xong quả đạn
thứ hai thì chiếc xe đã chạy quá xa. Tiếc quá.
Trận đánh gặp địa hình không thuận lợi, nên đội hình tiến
lên rất chậm. Không ai ám chạy nhanh mà dò gẫm từng gốc cây một. Thỉnh thoảng lại
vài thằng sa chân xuống hố. Ngã nhào. Bị đánh bất ngờ, địch không dám chống cự.
Khi chúng tôi chiếm được bản thì địch đã cao chạy xa bay. Để
lại trên hiện trường vài xác chết, mấy nồi
cơm chỉ còn trơ lại cháy. Ấn tượng nhất đối với chúng tôi là mấy chảo thịt còn
nóng hổi, thơm phưng phức…
Chiếm được mục tiêu. Chúng tôi không chốt lại trong bản mà tản
ra chốt ở phía ngoài. Đề phòng địch phản pháo và tấn công chiếm lại trận địa.
Khẩu đội ĐKZ của chúng tôi chốt ở bên trái, ngay gần ngã ba chạy vào bản. Tôi
còn nhớ lúc đó, cả khẩu đội say sưa đi lùng sục và thu chiến lợi phẩm. Chẳng
chú ý gác sách gì cả. Đang mơ màng nghĩ đến chảo thịt của lính Miên để lại thì
phát hiện thấy một thằng Miên, to cao cởi trần, áo vắt vai không mang theo súng
đạn gì cả, đang vừa đi vừa nhảy chân sáo. Xem chừng có gì vui lắm. Hình như nó
mừng là sắp về đến “nhà” chăng? Nhưng nó có biết đâu “nhà của nó” đã bị D4
chúng tôi chiếm mất rồi. Cơm thịt của chúng đã bị bọn tôi chén sạch. Chỉ còn mấy
viên đạn này dành cho nó thôi…
Thú thật tôi hơi run. Vì cả đại đội chẳng ai phát hiện ra
nó. Trong tay anh em chúng tôi có hai khẩu Ak và một khẩu ĐKZ. Nếu hét to báo động
thì nó sẽ chạy mất. Lẽ nào đem ĐKZ bắn cái thằng này? Tôi bảo anh Nghĩa:
- Chờ nó vào thật gần
sẽ bắn.
Anh Nghĩa hỏi tôi:
- Trình độ bắn Ak của mày như thế nào?
Tôi bảo:
- Anh yên tâm. Lính trinh sát điểm xạ chuẩn lắm. Khi nó cách
chúng tôi chừng ba mươi mét. Chúng tôi nâng súng lên và …bóp cò. Hai loạt đạn
găm ngay vào người nó. Chúng tôi bồi thêm loạt nữa. Nó gục xuống. Nghe súng nổ.
Bọn anh nuôi túa ra. Chúng hét nhao nhao: Bọn ĐKZ bắn được một thằng Miên rồi.
Một thằng anh nuôi nhanh chân, chạy đến chỗ thằng Miên. Có lẽ
là để thu chiến lợi phẩm? Bỗng một tiếng nổ khô khốc vang lên. Thằng anh nuôi
ngã nhào xuống vệ đường. Tất cả bọn anh nuôi phía sau đứng khựng lại. Chúng tôi
men theo vệ đường. Nhìn thấy hai thằng nằm chỏng queo. Một thằng Miên và một thằng
anh nuôi .Chúng tôi nã thêm mấy viên nữa vào thằng Miên cho yên tâm. Và cùng
anh em chạy lên. Nhìn thấy xác thằng Miên toe tét, mình mẩy đầy máu, cũng đủ biết
vì sao có tiếng nổ bất ngờ ấy. Thằng anh nuôi bị thương khá nặng. Trong cơn
đau, nó thiều thào: Thằng Miên tự sát…
Đai đội nhắc nhở các bê tăng cường cảnh giới.Đặc biệt khẩu đội
ĐKZ đang chốt giữ đầu con đường đi vào bản. Khoảng hai mươi phút sau. Chúng tôi
lại thấy hai thằng Miên từ trong rừng đi ra. Trong hai thằng, chỉ có một thằng
mang vũ khí. Một thằng cởi trần. Có lẽ hai thằng này vừa đem cơm cho lính Miên
về. Bọn anh nuôi, và bọn cối 82 hét toáng lên: Bắn. Bắn bỏ mẹ nó đi.
Vậy là hàng chục khẩu súng thi nhau nhả đạn.. Bị bất ngờ.
Hai thằng Miên đứng sựng lại. Khi đã hiểu ra vấn đề, chúng liền chạy thục mạng
xuống chân cao điểm. Hàng chục tay súng đuổi theo. Đạn bay như mưa về phía
chúng. Hai chúng tôi chạy ra đến nơi thì đã thấy tấm lưng trần của thằng Miên
khuất vào rừng xanh.Tôi tặc lưỡi: Chậm mất rồi.
Phải công nhận lính
anh nuôi nấu cơm,xào thịt là giỏi; chứ bắn AK trong trường hợp này thì kém thật.
Đến chiều thì chúng tôi đánh vận động thêm vài ki lô mét nữa. Và D4 chốt lại rừng
cao su Mi Mút cho đến ngày mở chiến dịch giải phóng Cămpuchia.
-----------
Xin chào bác chủ và các đồng đội, theo câu hỏi của bạn VAPHO
về đơn vị nào bắt tay với QĐ3 ở Công pông chàm, thời gian này là cuối 78 tôi là
lính trinh sát tiểu đoàn 1 trung đoàn 88, chúng tôi nhận lệnh chờ E 429 và E
271 đánh ủi cửa mở hướng Lò gò có xe tăng và pháo binh 262 hỗ trợ, xong các đơn
vị này đã không chọc thủng tuyến phòng thủ của địch nên cấp trên lệnh cho E88
luồn qua các chốt của địch, cùng đi với chúng tôi có thủ trưởng Hai phê, lúc đầu
tôi đi đầu ở Lò gò, đi theo đường mòn đến chỗ ngã ba tôi đã hỏi đi theo hướng
nào thì ở dưới truyền lên cứ bên tay phải mà đi, và thế là chúng tôi tiếp tục đến
khi bộ phận chỉ huy tiểu đoàn (có cả thủ trưởng Hai phê và tổ trinh sát sư) đến
ngã ba đó thì xác định chúng tôi đi nhầm, thủ trưởng Hai phê cáu quá bắt tổ
trinh sát sư dẫn đường để hành quân tiếp, tổ trinh sát chúng tôi quay lại đi bảo
vệ chỉ huy sở. Đi được mấy cây số thì tổ trinh sát đi đầu đụng phải chốt của pốt,
ba đ/c bị 12ly8 tiện đứt chân nằm rên la trong khi các loại súng như cối, B40, M79,
AK trong chốt thi nhau nhả đạn, tổ trinh sát của chúng tôi lại nhận lệnh lên
kéo mấy đ/c đó ra, tôi là lính mới đương nhiên phải bò lên còn hai lính 77 kia
làm nhiệm vụ yểm trợ, tôi thấy đằng trước là thân cây to cỡ hai người ôm nằm
ngang, tôi giương AK cho một loạt về hướng đấy thì chúng lại đổ các loại đạn
ra, báo hại đồng hương của mình với một tay trung đội trưởng bộ binh (Quế người
Thanh hóa) bị dính một quả M79 địch bắn từ trong chốt ra, tôi không tiến lên được
mặc dù các thương binh rên la quá trời, pốt không bắn thương binh mà dùng làm mồi
dử bọn tôi lên......khoảng hơn 20 phút thì có lệnh rút để bộ phận trinh sát F
lên lấy còn chúng tôi bắt đầu cắt rừng đi tiếp chứ không theo đường mòn, hôm đó
chúng tôi hành quân theo đội hình trung đoàn đi suốt không nghỉ, đoạn nào
thoáng thì chạy, thỉnh thoảng cũng theo một hai con đường mòn bắt gặp những bộ
xương dọc đường, trời tối không nhìn thấy gì thì mới dừng lại để ăn và chờ
trăng lên....đến khi trăng lên là lại hành quân tiếp, cứ như vậy tới sáng thì
chúng tôi ra tới lộ 24 bên đất CPC, tiểu đoàn tôi vẫn đi đầu, trong lúc chờ ổn
định đội hình thì anh Sửu tiểu đoàn phó dẫn mấy thằng trinh sát chúng tôi đi
trước dọc lộ để bám nắm tình hình....
Theo kế hoạch chúng tôi phải bắt tay với QĐ3 ở ngã ba x...
nhưng chúng tôi đã chậm bởi chờ cửa mở, bên QĐ 3 họ tới điểm chờ một ngày mà
không thấy chúng tôi, họ tiếp tục đánh xuống để khép chặt vòng vây.....mà QĐ họ
đánh thì các bạn biết rồi đấy, xe tăng mở đường, nếu gặp tổ chốt thì pháo dàn, pháo
bày kéo lên bắn trực xạ, vẫn không trôi thì máy bay tới.....
Nói về chúng tôi, để cướp lại thời gian nằm chở cửa mở Lò
gò, thủ trưởng Hai phê thúc lính vận động hết công suất. Các cấp chỉ huy xác định
chúng tôi còn cách ngã ba x.. để bắt tay khoảng nửa ngày hành quân nữa, nhóm
trinh sát chúng tôi phát hiện ra đằng trước có địch, tôi dặn mọi người không vội
bắn cứ theo tôi tiến lên, địch tưởng chúng tôi là đồng bọn nên không bắn dừng từ
xa hỏi..chúng tôi không trả lời cứ từ từ tiến một mặt để chờ báo về sau cho bộ
binh lên...khoảng hơn 100m địch bắn mấy loạt đạn cày trước mặt, thì chúng tôi mới
lăn ra hai bên đường rồi nhất loạt nổ súng, con lộ này đoạn này không có cây to
chỉ toàn cây lúp súp như các bụi cây sim, cây mua ở ngoài bắc, lúc này chúng
tôi phát hiện ra rất nhiều xe pháo địch ở đằng trước, chúng tôi không tiến nữa
chốt lại chờ bộ binh (bởi chúng tôi chỉ có 6 thằng). Bộ binh lên tới nơi thì
chúng tôi tiến theo sau họ, địch bỏ đường chính chúng chạy dạt sang hai bên rừng,
vửt xe pháo quân trang vào các đường cụt....chúng tôi tiếp tục hành tiến theo đội
hình, một đại đội đánh dọc lộ, còn hai đại đội dạt sang hai bên tạo thế giương
cung, tiểu đoàn liên tiếp nhận tin báo từ các đại đội,các mũi báo về địch bỏ lại
rất nhiều xe pháo, quân trang, lương thực, nhu yếu phẩm...khí thế đang ào ào
thì đột nhiên đại đội đi trước dọc lộ báo đụng chốt địch "rất rắn", tiểu
đoàn điều động cối 82 lên tăng cường cùng cối 60ly bắn cặp lộ, đạn cối của địch
rơi giữa lộ, rồi đằng trước báo về có tiếng hô xung phong ở tuyến trước, sở chỉ
huy xác định khả năng đụng QĐ3, anh Tấc chính trị viên tiểu đoàn ra lệnh cho
anh Tâm chính trị viên phó tiểu đoàn cầm cờ lên bắt tay với bạn, tổ trinh sát
chúng tôi đi cùng anh Tâm, trên đường đi thấy bộ binh ta nằm dán chặt dưới đất,
anh Tâm cầm cờ cứ giữa lộ đi lên....và thế là chúng tôi bắt tay với QĐ3, phía
bên 88 không hề hấn gì, còn bên bạn bị thương bởi đạn cối của chúng tôi, chậm
chút nữa thì họ xóa sổ cả tiểu đoàn chúng tôi, vì họ cũng đang thắc mắc đánh suốt
từ trên xuống tới đây, lại gặp kháng cự mạnh, họ đang điều xe pháo xuống bắn trực
xạ, còn bên tôi thì cũng đang cầu cứu pháo 262 ......Đêm hôm đó chúng tôi hạ trại
ngay tại nơi bắt tay. Thế là một lực lượng lớn của địch đã bi bao vây dọc tuyến
biên giới...
Còn bạn nói về vụ xe tăng của pốt đường cùng đã lao vào đội
hình bộ binh của ta, bên ta bị cũng tương đối, cái ngã ba này ở gần bờ sông Mê
công, chỗ mà ta bác cầu phao qua sông đánh vào thị trấn.....Xin chào các bạn là
lính QĐ 3, bạn Đức Cường à, một số anh em nguyên lính F302 đang theo dõi tonic
này của các bạn, trong đó có những đồng đội đã tham gia trận đánh lộ 24 bắt tay
QĐ3, nên có nhắn và mong muốn biết được đơn vị nào của QĐ 3 đã bắt tay với
chúng tôi.....
Nhân đây tôi nói tiếp về số phận của mấy thương binh đụng chốt
pốt ở Lò gò mà chúng tôi không kéo ra được, mãi đến đêm hôm đó lợi dụng trời tối
cánh trinh sát mới bò vào kéo anh em ta ra để đưa về chôn cất.
Còn đêm hôm bắt tay với QĐ 3 chúng tôi nằm chốt ngay tại đó,
tay Phi tiểu đội trưởng giao cho tôi với tay Trực (lính 77 người QUẢNG BÌNH ) lập
một tổ chốt đề phòng địch lợi dụng đêm tối phá vây tràn qua lộ 24, hắn mượn tôi
cái "ven" tôi trả hiểu hắn mượn cái gì, đến lúc hắn chỉ cái xẻng đeo
dưới đáy ba lô của tôi thì mới hiểu, hắn bảo quê hắn gọi xẻng là
"ven", gọi bát ăn cơm là "đọi", rồi hai thằng hì hục đào được
cái hố mèo, đào xong hắn bảo cái hố này của hắn còn mình sang bên đào cái khác,
tức với mấy thằng cha hay ma cũ bắt nạt ma mới, mình thoa thuốc muỗi rồi leo
lên trước đội hình khoảng hơn chục mét chọn cái bụi lúp xúp làm một giấc đến
sáng cóc cần chia gác. Mà hồi đấy lính trinh sát bọn mình được ưu tiên hơn cánh
bộ binh là có thuốc muỗi, thuốc lọc nước, gạo sấy, gạo sấy có hai loại
"bích hưng" với "chánh ngà". Hôm sau chúng tôi bàn giao địa
bàn cho E 6, cả trung đoàn lại rút về Sa mát theo con đường dấn qua cửa mở Lò
gò, thôi thì mạnh ai nấy đi, các đơn vị lẫn lộn, nhóm trinh sát bọn tôi may mắn
gặp mấy chiếc xe tăng T54 chở về, mình ngồi trên tháp xe chạy trong rừng rậm, cành
cây quất vào người, xe chạy nhanh vì sợ đụng pốt, bọn pốt bị bao vây dọc tuyến
biên giới, chúng tìm cách rút về nên liện tục chạm trán với quân ta, tiếng súng
thỉnh thoảng lại rộ lên lúc đằng trước, lúc đằng sau, đoàn xe tăng chúng tôi
đang chạy thì súng nổ rộ ngay đằng trước mặt cánh chúng tôi nhảy từ trên xe xuống
để ứng chiến cùng xe tăng, anh Lưu trung đội phó của tôi nhảy từ trên xuống
chúng vào ông bộ binh đơn vị bạn đang đi bộ phía dưới cả hai cùng ngã, tay bộ
binh nằm dưới anh Lưu nằm trên và một ông bộ binh nữa không rõ đơn vị nào cũng
từ trên xe nhảy xuống nằm đè lên trên, đúng lúc đó hàng loạt súng 12ly8, B40 nổ,
ông lái xe tăng lại giật lùi đè lên ba người tôi chỉ kịp hét lên "tăng đè
người ,tăng đè người", lập tức xe tăng chồm lên trước, tôi lao đến một cảnh
tưởng hãi hùng, hai ông bộ binh bị nghiến bét, còn anh Lưu đau đớn vật lộn, tôi
nhìn anh chẳng thấy vết thương, như hiểu ý ảnh chỉ vào đùi, thế là tôi với Trực,
Minh "móm" chặt cây buộc võng cáng anh đi theo, lúc sau chúng tôi
giao anh cho bên vận tải tiểu đoàn rồi nhanh chóng về, tới Sa mát không khí
trung đội trinh sát có phần ảm đạm bởi cái tin anh Lưu bị xe tăng đè.....
-------------------------
Cảm ơn bác tuanb5 đã có bài viết mạn đàm trao đổi. Nhắc đến
Lò gò tôi vẫn sởn gai ốc vì cuộc chiến ở biên giới khốc liệt căng thẳng hơn
sang k. Bạn bè hy sinh, bị thương ở lò gò &đà ha nhiều lắm. Nhận định đó chắc
sẽ đúng bởi lúc đó địch đang ở thế chủ động tấn công. Ở lò gò mìn nhiều vô kể. Buổi
đêm địch vào tận địa bàn xã Tân lập cài mìn nhiều lần. Còn trong rừng thì cả địch
và ta cài nhưng có ai gỡ đâu. Tháng 5/79 tôi cùng theo đoàn 30 người của nhiều
đ/v cử trở lại lò gò và một số nơi diễn ra trận đánh bên k mà ta chưa kịp lấy tử
sỹ để tìm xác đưa về. Lúc đó ở VN chiến tranh đã đi qua vậy mà thằng bạn bị mìn
cụt bàn chân, mảnh khắp người ở trong rừng cách lò gò không xa khi đang đi tìm
kiếm. Tháng 6 quay lại truy quét dịch ở cong pong xư phư, cuối tháng 7 ra bắc toàn
quân đoàn.
Nhưng có điều tôi vẫn thắc mắc cả trung đoàn của bác đã đánh
sang rồi lại quay trở lại VN ngay khi chiến dịch giải phóng đã mở. Có vẻ vô lý
bác nhỉ? Còn nói chuyện ăn gạo sấy có 2 loại thì đúng rồi. Bao gạo sấy có 2 vạch
đỏ để hướng dẫn đổ nước sau 15p mới được ăn. Đúng chưa bác? Ở chỗ đ/v tôi cũng
sẵn (ưu tiên ts mà) đi công tác ai muốn lấy lương khô thì lấy nếu không thì lấy
gạo sấy. Nghĩ lại chúng ta đều là người may mắn phải không bác tuan?
Chiến dịch giải phóng(từ 1-7/1/1979 Nhật ký 7 ngày)
Ngày 3/1:
Sáng dậy người đau ê ẩm do trận đá bóng chiều qua. Tiểu đội
trưởng Toán người vĩnh phú lính 74 giao tôi và Hường (lính 78 quê Nam anh,Nam
đàn NA) xuống quản lý nhận LTTP cho tiểu đội. Xong việc trở về thì đã thấy anh
em đang chờ mình về để kịp lên đường. Tôi cũng xin nói thêm là mỗi lần đi công
tác (bám địch) chúng tôi chỉ mang tư trang gọn nhẹ nhất, thường là chỉ thêm một
bộ đồ và tăng võng, còn lại thứ khác như sổ tay, thư từ sách vở…gửi lại cho bạn
bè, đồng hương hoặc trung đội trưởng. Và cứ gửi chuyền nhau nếu người sau tiếp
tục đi công tác nên nhiều khi về đ/v tìm ba lô của mình mãi mới được nhưng chưa
bao giờ bị mất. Trong đại đội cũng có mấy người ấp ủ ước mơ như tôi vào lính rồi
mà vẫn mang theo sách để học, hòng nuôi chí vào giảng đường ĐH khi hết nghĩa vụ
nên khi gửi ba lô hay hành quân bộ nặng nề thêm.
Chúng tôi hành quân theo dọc đường 7. Đến gần cầu sắt chúng
tôi thấy ở đây mật độ bộ binh và xe
pháo ta tản hai bên đường khá dày có cả xe tăng nữa, có lẽ do bị dồn toa vì
phía trước địch chặn đánh mạnh liệt. Tiếng súng bộ binh nổ râm ran mọi hướng, pháo
binh địch bắn dọc theo đường 7 càng gần bến phà càng dày đặc. Nhiệm vụ chúng
tôi là phải có mặt sớm nhất sau khi ta làm chủ bờ đông phà Kongpong Cham, việc
máy bộ đàm 2w của toán ts sư đoàn làm việc liên tục với ban trinh sát trên đường
đi chứng tỏ tính chất quan trọng của nhiệm vụ tiểu đội chúng tôi. Vì vậy dù
pháo binh địch bắn dọc theo trục đường nhưng chúng tôi vẫn phải hành quân tiếp
cận tiểu đoàn 7 trung đoàn64 đang quần địch tại bến phà. Qua cầu Khmung chiếc cầu
sắt dài khoảng 50m chúng tôi ai cũng phải nhìn lại bởi chiếc cầu này là mục
tiêu chiếm giữ của đại đội cảm tử nhưng vì nhiều lý do khách quan đại đội đã
không có mặt theo đúng thời gian hiệp đồng. Từ đây địch bắn pháo nhiều quá
nhưng chúng tôi vẫn phải đi theo trục đường bởi đây là con đường duy nhất đến bến
phà mà hai bên đường thì toàn rừng tre dày đặc.
Khoảng 1-2 giờ chiều ta làm chủ bến phà. Tiếng súng bộ binh
vẫn râm ran, pháo binh địch bắn liên tục vào bến phà khói lửa nghi ngút nhưng
chúng tôi đã có mặt và chuyển những bức điện đầu tiên tình hình địch về sư
đoàn. Chúng tôi lựa chọn nơi đặt đài là một kho thóc lớn đang cháy bên trái bến
phà bởi có các ô cửa sổ thoát gió trên
cao nhìn sang bờ đối rất rõ. Đây là trọng điểm bắn phá của pháo binh địch nhưng
chúng tôi không còn sự lựa chọn nào khác bởi quan sát bờ bên kia thì chỉ có nơi
này là thuận lợi hơn cả. Chúng tôi phải báo cáo hằng giờ tình hình bố phòng các
trận địa hỏa lực và di chuyển của địch cả trên bờ và dưới bến. Do sông mê công
đoạn này rộng hơn 1km nên thấy đối phương đó nhưng chẳng làm gì được nhau. Ca
nô đich vẫn có thể chạy đi lại bờ bên kia. Các ổ hỏa lực của địch bố phòng dày
đặc trên bờ cao còn mép bờ bến phà, bộ binh địch đi lại mang vác vận chuyển, củng
cố công sự nhộn nhịp. Gần tối chúng tôi thấy chỉ huy sư đoàn và quân đoàn (thủ
trưởng Nguyễn quốc Thước thì phải) xuống bến và gé vào đài chúng tôi dùng ống
nhòm nhìn sang bờ tây có ai đó nói “địch nhiều quá”.
Suốt đêm 3/1 tại bến phà trong đêm tối các binh chủng nhất
là công binh chuẩn bị bến vượt, bộ đội ta làm việc cả đêm tập kết vật liệu,
PTKT vượt sông nhưng chỉ sát bờ chưa được lệnh hạ thủy. Cũng trong đêm đó chúng
tôi có thêm một đồng ngiệp khác binh chủng đến trọ chung trong kho thóc đó là tổ
trinh sát pháo binh của sư đoàn.
Nhật ký chiến dịch giải phóng k (từ1-7/1/1979)
Ngày 4/1:
Toàn bộ bờ Đông sông Mekong ta đã làm chủ hoàn toàn. Địch với
ba sư đoàn trên phòng tuyến đường 7 đã rút hết toàn bộ sang bên kia bờ và tổ chức
phòng thủ hỏa lực, binh lực địch dày đặc. Đoạn sông này rộng hơn 1km hai bên bờ
dốc cao nên rất khó khăn cho việc đổ bộ tấn công. Cả quân đoàn và cả F302 Qk7
tăng cường đang dồn lại bên này sông đội hình chờ tiến công chạy dài theo đường
7 mà E64 là đội quân tiên phong.
Cả ngày thay phiên cầm ống nhòm nhìn sang bên kia sông để vẽ
lên bức tranh bố trí lực lượng của địch theo dọc bờ tây để cung cấp cho cơ quan
TM. Vì vậy chúng tôi cũng phải đi dọc bờ bên này dưới làn pháo địch để quan sát
mới thấy rõ bố phòng của địch. Chúng hiểu rằng nếu Qđ3 vượt qua được thì TP Phnom
Penh sẽ bị trực tiếp uy hiếp. Bởi vậy dọc bờ bên kia khoảng 2km chỗ nào cũng có
địch bố trí sẵn sàng đánh quân ta vượt sông bằng thuyền. Ngày hôm nay pháo địch bắn cầm canh không ngớt theo trục đường
hòng làm giảm sự chuẩn bị của ta bởi chúng thừa hiểu sớm hay muộn sẽ bị tấn
công. Cánh lính bộ binh theo hướng tấn công đường 7 gần như được nghỉ ngơi để sẵn
sàng vượt sông khi có lệnh, còn mũi tiến công của d2,d3 E48 theo đường 15 thì bị
thiệt hại nặng tại của ngõ đầu cầu thị xã plâyveng. [ngày 4/1 đại đội 9 d3 hy sinh 30 đ/c. Cả đại đội còn 3 tay súng. (theo
tư liệu sử F320)].
Địa hình phía bên bờ đông (bên ta) chỉ có một xóm ngay bến
phà còn bờ sông là rừng tre cho đến tận cầu khmung. Đường 7 là đường duy nhất dẫn
tới bến phà bởi vậy sự cơ động vận chuyển VK-TBKT bảo đảm vượt sông cực kỳ khó
khăn cho các bến vượt sông bí mật (bến vượt của d9). Còn bờ bên kia là TP Kongpong
Cham cổ kính ngiêng mình soi bóng dưới dòng mê công tráng lệ. Khoảng 7-8 giờ tối
chúng tôi được đ/c thông tin 2w thông báo kế hoạch vượt sông thay đổi thời gian
được kéo dài thêm một ngày chuẩn bị.
Với một lực lượng quân binh chủng hùng hậu của ta và sự khẩn
trương đối phó phòng thủ của địch bên bờ tây hứa hẹn một trận quyết chiến thay
đổi cục diện trên chiến trường vào ngày mai…(tiếp theo nhật ký ngày 5/1. Cảm ơn
câc đồng đội đã theo dõi).
Nhật ký chiến dịch giải phóng k(Từ 1-7/1979)
Ngày 5/1:
Suốt đêm công binh ta vận chuyển trang bị xuống bến để sẵn
sàng cho trận vượt sông được dự báo sẽ tổn thất nhiều. Ở bờ bên kia chúng tôi
cũng thấy có nhiều ánh đèn pin chứng tỏ
địch đôn đốc bố phòng canh gác rất chặt chẽ. Xung quang đài quan sát, bộ binh
ta rất nhiều nên chúng tôi không lo bị tập kích mà tìm nơi mắc võng, xả hơi sau
một ngày căng thẳng.
Đài quan sát là một ô cửa sổ nhỏ thoát khí của kho thóc. Lúc
nào khói cũng mù mịt do đã bị cháy mấy ngày nay. Có lẽ vì trọng điểm đang bị
cháy nên địch không ngờ có gần chục người trinh sát BB, PB trong đó nên không
thấy pháo binh địch bắn vào bến phà.
Sáng dậy bến lại yên tĩnh chứ không sôi động như buổi tối, có
lẽ ta tránh địch phát hiện sự chuẩn bị của ta nên phải làm đêm. Tôi rủ Hường
cùng quê đi “dạo chơi” một vòng về phía sau xem thế nào thì thấy toàn lính E64
và tôi gặp mấy người đồng hương cùng nhập ngũ. Tàu thủy(ca nô) đến 7-8 cái có
móc để dọc hai bên đường có lẽ chờ đêm xuông mới hạ thủy.
Thỉnh thoảng chúng tôi thấy các thủ trưởng sư đoàn, quân
đoàn xuống tận bến thị sát. Linh tính báo rằng giờ G đã gần lắm rồi bởi đã hơn
2 ngày đội hình của ta chưa phát triển được. Khoảng 8 giờ tối tiếng súng ở hướng
d9 rộ lên đạn hỏa lực cháy chưa hết thuốc sáng rực trên mặt sông. Khi tiếng
súng vừa dứt đ/c Liên thông tin 2w hỏi sang toán trinh sát sư đoàn đi cùng d9
thì biết rằng ta bí mật vượt nhưng bị địch phát hiện bắn thủng thuyền và hy
sinh một số đ/c phải quay lại.
Màn đêm buông cũng là lúc công binh được lệnh hạ thủy. Mọi
hành động đều trong bóng tối nhưng tất cả đều diễn ra mau lẹ. Do địa hình bến hẹp
và trách bị địch phát hiện nên chỉ đưa xuống từng chiếc một sau khi tìm được bến
đậu ngụy trang thì mới đưa chiếc khác. Cả một đêm người lên xuống bến rất nhiều
và chúng tôi được biết sáng sớm mai ta sẽ tiến công bằng sức mạnh ngay tại bến
phà này.
Một đêm không ngủ. Có lẽ cả sư đoàn như chúng tôi.
Nhật ký chiến dịch giải phóng (từ 1-7/1/1979)
Ngày 6/1:
Tờ mờ sáng chúng tôi thấy mọi người đều khẩn trương với công
việc của mình, vất vả nhất là lính công binh. Hình như địch đã phát hiện được sự
chuẩn bị của ta nên địch dùng 12,8 bắn vào khu vực bến phà, đạn nổ toang toác
trên đầu nhưng công tác chuẩn bị chiến đấu vẫn được tiến hành.
Mờ sáng tiếng súng rộ lên đạn hỏa lực bay đỏ lừ trên mặt
sông khoảng 30 phút thì kết thúc. Thông tin 2w điện hỏi tổ ts đi cùng E64 do
đ/c Quý trung đội trưởng phụ trách thì được biết d9 vượt sông bí mật nhưng bị địch
phát hiện nổ súng buộc phải quay lại hy sinh một số đ/c. Khoảng 6 giờ sáng pháo
binh ta bắt đầu trút cơn tức giận vào trận địa phòng ngự của địch bên kia sông.
Tiếng đạn pháo ta rít trên đầu trùm xuống bờ bên kia tạo nên những cột khói bốc
cao. Lúc này mới thấy mấy vị ts pháo binh làm việc hết công suất. Nghe các đ/c
nói rằng pháo ta bắn đồng thời 2 mục tiêu đó là trận địa phòng ngự của bộ binh
và trận địa pháo địch hòng làm câm họng chúng. Không biết ta dùng bao nhiêu khẩu
pháo mà mật độ bắn dày đặc, đạn rít trên đầu rền vang như tiếng sấm. Ngay những
loạt đầu tiên 2 ca nô địch đã bị bốc cháy khói lửa mù mịt mặt sông. Bầu trời
xám xịt như muốn vỡ tung những viên đạn pháo xé không khí lao vào trận địa địch,
hàng trăm cột khói bốc lên cao. Lúc này chúng tôi thấy có nhiều xe tăng của ta
từ phía sau cơ động lộ diện ra tận bờ sông bắn thẳng sang bờ bên kia yểm trợ
cho bộ binh chuẩn bị vượt sông. Chúng tôi có cảm giác bờ sông bên kia bị nát nhừ,
khói bao trừm bờ tây và mặt sông làm chúng tôi chẳng nhìn thấy gì nữa. Sau này
chúng tôi mới được anh Quý trung đội trưởng nói cho biết, ta sử dụng đạn khói
hóa học để ngụy trang che khuất mục tiêu quan sát của địch, bảo đảm tối đa cho
vượt sông. Pháo binh vừa chuyển làn cũng đồng thời bộ binh ta lên tàu lao ngay
về hướng địch. Chỉ có 4 thuyền chở C3 đi giữa hai làn đạn. Ở bờ bên này ai cũng
hiểu rằng vượt sông lần này chỉ tiến chứ không có quay lại cho dù hy sinh thiệt
hại nhiều cũng phải vượt sông mê công trong hôm nay. Thầm hiểu rằng trong số họ
sẽ có nhiều đ/c ngã xuống dòng Mê công trước khi chế độ diệt chủng sụp đổ.
Nếu ai chứng kiến cảnh vượt sông Mê công bằng thuyền dưới
làn đạn hỏa lực của địch thì mới thấy tính mạng con người hết sức nhỏ bé mong
manh. Tất cả đều hồi hộp lo âu dõi theo họ. Ngay trên thuyền nhiều ánh lửa của
B40 chớp lên kéo theo luồng lửa chụp vào những ổ hỏa lực địch cũng là lúc bộ
binh ta tiếp đất. Khi C4 đã làm chủ đầu cầu (Phạm vi hẹp) thì d9 tiếp tục được
lệnh vượt sông. Thuyền ta đi giữ hai làn đạn, pháo địch bắn trên sông dựng lên
những cột nước trắng xóa. Lần lượt các đ/v của F320 sang tăng cường tham chiến.
Khoảng 10 giờ ta đã giải phóng TP Kongpong Cham. Lúc này khói lửa hai bên bờ
chưa tan thì công binh của bộ (E 269) đã tiến hành gép phà. Chúng tôi hiểu quả
đấm thép thứ hai đã bắt đầu đó là sư đoàn 10 sư đoàn 31 chuẩn bị vượt sông Mê
công…
Buổi chiều qua máy 2w chúng tôi được lệnh quay về sư đoàn bộ
để hành quân cơ giới. Quân ta tiến xuống bến phà như dòng thác đổ, xe, pháo, phà
tự hành GPS bộ binhvv… chật đường. Rời bến phà Kongpong Cham chúng tôi không khỏi
nhìn lại dòng Mê công xanh trong dịu dàng thơ mộng đẹp đến vậy mà chỉ mới sáng
nay thôi đã nhuộm màu máu của bao chiến sỹ quân tình nguyện Việt nam.
Trận đánh lịch sử vượt sông Công pông chàm
Theo yêu cầu của bộ chỉ huy chiến dịch, tôi cóp ra đây trận
đánh lịch sử mà các đồng chí đang theo dõi.Trích: Sử Sư đoàn 320A - Quân đoàn 3
về trận vuợt sông Mekong giải phóng Kom pong Cham tháng 1/1979
Để giành thắng lợi trong trận quyết chiến chiến lược tiến
công giải phóng Phnôm Pênh, Bộ chỉ huy liên quân Việt Nam - Cam-pu-chia chủ
trương như sau:
- Kết hợp giữa tiến công và nổi dậy, dùng sức mạnh tổng hợp
nhanh chóng đập vỡ các tuyến phòng thủ của quân địch Ở vành ngoài mở cửa cho
các binh đoàn chủ lực tiến công vào các mục tiêu chính trong thành phố. Táo bạo
chọc thẳng vào Phnôm Pênh, tiêu diệt các cơ quan đầu não quét sạch quân địch ra
khỏi thành phố, làm chủ thủ đô, kết hợp chặt chẽ giữa tác chiến và binh vận
nhanh chóng xóa bỏ chính quyền Pôn Pốt - Yêng Xa Ri, thành lập chính quyền cách
mạng.
Các hướng tiến công như sau:
- Hướng chủ yếu: Từ vùng giải phóng phía đông, tiến theo đường
số 1 vượt sông Mê Công (đoạn phà Niec Lương) đánh vào trung tâm Phnôm Pênh.
- Hướng thứ 2: Đánh chiếm khu nam và tây nam thành phố.
- Hướng thứ 3: Do Quân đoàn 3 đảm nhiệm tiến công, từ phía
tây đánh vào sau lưng địch, chiếm khu bắc và tây bắc thành phố.
Các hướng tiến công đều nhằm vào hợp điểm cuối cùng là đài Độc
lập và BỘ Tổng Tham mưu của Pôn Pốt - Yêng Xa Ri.
Trên hướng tiến công thứ ba, để hoàn thành nhiệm vụ quân
cách mạng phải vượt sông Mê Công giải phóng thị xã Công Pông Chàm, mở cánh cửa
phía bắc của chiến dịch. Mặc dù lúng túng và bị động, Pôn Pốt - Yêng Xa Ri cũng
nhận thấy hiểm họa từ hướng tiến công này:
Sau khi chiếm được Công Pông Chàm, quân cách mạng sẽ phát
triển dọc đường số 6 chặn mất lối rút chạy về phía biên giới Thái Lan của
chúng. Vì vậy Xon Xen, Bộ trưởng Quốc phòng vội vả điều thêm 1.000 quân tới
Công Pông Chàm, dựa vào sông Mê Công thiết lập tuyến phòng ngự. CƠ quan tiền
phương của BỘ Tổng Tham mưu địch cũng theo hẳn ra trực tiếp chỉ huy tác chiến
trên toàn bộ hướng bắc Phnôm Pênh.
Công Pông Chàm, một thị xã lớn của vùng Đông Cam-pu-chia. Nằm
trên bờ tây sông Mê Công, từ lâu đã là nơi trung tâm kinh tế, chính trị văn hóa
và đầu mối giao thông của vùng này. Từ đây theo quốc lộ số 6 đi về phía bắc đến
Poi Pét giáp biên giới Thái Lan, theo đường số 7 về phía đông đi tới huyện ly
Mi Mút giáp Việt Nam; ngược dòng Mê Công lên phía bắc qua Kra Chê tơi đất nước
Lào, xuôi về phương nam gặp dòng Tôn Lê Sáp vào Phnôm Pênh.
Mặt trước Mê Công đoạn bến phà Công Pông Chàm rộng hơn một
ki-lô-mét nước chảy xiết hai bờ dốc đứng, đã trở thành chướng ngại tự nhiên lợi
hại của địch. Đến đây Xon Xen đích thân gom nhặt tàn quân từ miền Đông chạy về
cùng với Sư đoàn 520, một trung đoàn của sư đoàn 116 tổ chức thành những đơn vị
chiến đấu mới. Hàng ngàn dân cũng bị chúng bắt bổ sung vào đội quân vốn đã ô hợp
này. Tuyến phòng thủ được dựng lên cấp tốc. Chúng dựa vào bờ sông vách đứng vừa
kè đá cao kết hợp cải tạo địa hình, đào hố chiến đấu, hào giao thông, đắp thêm ụ
súng cùng với xe tăng, thiết giáp được huy động ra bờ sông tạo thành những công
sự di động và trấn giữ các ngã ba, ngã tư đường phố, các trận địa pháo đã chuẩn
bị kỹ phần tử, sẵn sàng biến Mê Công thành dòng sông lửa. Sau năm 1975, Công
Pông Chàm hoang tàn vắng lặng, bây giờ nó biến thành một căn cứ quân sự lớn.
Nhưng cả miền Đông đã sục sôi không khí chiến thắng. Đất nước Cam-pu-chia đau
thương và anh dũng đang hừng hực khí thế tiến công. SỐ phận của quân địch phòng
ngự Ở thị xã Công Pông Chàm, số phận chính quyển "Cam-pu-chia dân chủ”, của
những tên đao phủ thời đại chỉ còn được tính từng ngày.
Sau chiến thắng Suông - Chụp, mặc dầu nhiều việc phải làm
cùng một lúc như bám sát bờ sông Mê Công truy quét tàn quân địch, khẩn trương
điều chỉnh đội hình chiến đấu, giải quyết chính sách thương binh tử sĩ giúp bạn
ổn định đời sống nhân dân, đồng thời nghiên cứu dòng Mê Công và địa hình bờ
phía tây, dự kiến những phương án tác chiến, những tình huống có thể xảy ra,
song song với những việc làm trên, Bộ tư lệnh Sư đoàn đã chỉ thị cho các đơn vị
mở đợt sinh hoạt chính trị, sơ kết rút kinh nghiệm. Những trận đánh hay, những
người đánh giỏi được tuyên truyền ngay trên tờ tin "Quyết thắng" của
Sư đoàn. Dấu hiệu tư tưởng "dừng lại bên này sông Mê Công" vừa len lỏi
vào đội hình lập tức bị đấu tranh gạt bỏ. Vấn đề chấp hành kỷ luật dân vận quốc
tế, công tác địch vận... cũng được quan tâm. Phó chính ủy Sư đoàn Nguyễn Văn Chứ,
Chủ nhiệm chính trị Sư đoàn Lê Nông thường xuyên bám sát các đơn vị chỉ đạo nội
dung sinh hoạt, công tác và kiểm tra chặt chẽ. Một vài hiện tượng sai trái được
kịp thời phê phán uốn nắn. Thường xuyên rút kinh nghiệm đã thành nếp, đã thành
truyền thống nó góp phần tạo nên sức mạnh của quân đội ta, nó làm cho chúng ta
"thắng không kiêu, bại không nản". Chúng ta thường xuyên nghiêm khắc
nhìn lại mình, để luôn tự vượt lên mình để chiến thắng. Sư đoàn 320 luôn luôn sẵn
sàng !
Ngay từ ngày 1 tháng 1 năm 1979 tiểu đoàn 1 đã được lệnh
phát triển tiến công đánh chiếm bến phà phía đông sông Công Pông Chàm để tạo thế.
Bộ tư lệnh sư đoàn đã dự đoán được những gì sẽ xảy ra ở đây, nên tăng cường
đáng kế lực lượng xe tăng pháo binh cho tiểu đoàn 1 và yêu cầu phải giữ chắc
khu bàn đạp này. Phía địch, đã phán đoán được điều gì xảy ra nên trong suốt bốn
ngày tử ngày 1 đến ngày 4 tháng 1 chúng liên tiếp mở hàng chục đợt phản kích
quy mô cỡ tiểu đoàn, trung đoàn vào trận địa tiểu đoàn 1. BỘ binh của chúng bám
dọc bờ sông cả hai phía đông và tây lúc pháo kích dữ dội, lúc quần lộn xen kẽ
vào đội hình của ta. Pháo binh từ bờ tây sông chi viện tối đa, chiến hào công sự
quân ta sạt lở, mặt đất biến dạng. Nhng các mũi tiến công của địch đều bị đảnh
bật trở lại. Tiểu đoàn Đống Đa vẫn đứng vững. Trưa ngày 4 tháng 1 năm 1979. BỘ
Tư lệnh Quân đoàn giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 320:
Vượt sông Mê Công, giải phóng thị xã Công Pong Chàm, đập nát
mắt xích quan trọng trong hệ thống phòng ngự phía bắc Phnôm Pênh, mở cửa cho lực lượng chủ lực tiến vế giải phóng thủ đô ngay
trong đêm ngày 4 rạng ngày 5 tháng 1 năm 1979. Lúc này trung đoàn 48 thiếu tiểu
đoàn 1 đang tiến theo dọc đường 15 về hướng nam công kích thị xã Prey Veng , đội
hình Sư đoàn chỉ có 2 trung đoàn bộ binh là 64 và 52. Vì nhiệm vụ giải phóng
Công Pông Chàm là rất khó khăn và cấp bách nên BỘ tư lệnh Quân đoàn quan tâm đặc
biệt đến công tác chuẩn bị và bảo đảm cho Sư đoàn 320. Ngay trong những ngày tiểu
đoàn 1 chiến đấu quyết liệt với quân địch thì Tham mưu trưởng quân đoản Lê Minh
cùng với Sư đoàn trưởng Khuất Duy Tiến, các đồng chí chỉ huy trung đoàn và cơ
quan đã ra bờ sông trực tiếp quan sát sự bố phòng cửa địch và lập phương án tác
chiến vượt sông.
Cơ quan tham mưu chuẩn bị kế hoạch bằng hai phương án:
Phương án một: Bí mật vượt sông bất ngờ đánh chiếm bờ tây
sông và thị xã Công Pông Chàm, do trung đoàn 52 đảm nhiệm.
Phương án hai: Vượt sông bằng sức mạnh do trung đoàn 64 đảm
nhiệm. Cụ thể: dùng tiểu đoàn 9 bí mật vượt sông đánh chiếm bờ táy mở rộng đoạn
đổ bộ, tạo điều kiện cho lực lượng chủ lực của trung đoàn tiến công thị xã. Nếu
không thành công sẽ dùng tiểu đoàn 7 vượt sông bằng sức mạnh.
tuy nhiên, phương án vượt sông với lực lượng bí mật có những
điều không ổn. Bởi vì địch cũng đánh giá được vị trí quan trọng của thị xã đầu
cầu này và trên thực tế chúng đã triển khai hệ thống hỏa lực và binh lực đông đặc,
kiểm soát chặt chẽ mặt sông và phân đội cảnh giới từ xa cả hai bờ sông, nhằm
phát triển đánh phá ngăn chặn lực lượng và phương tiện vượt sông của ta; mặt
khác, vượt sông bằng phương tiện nào? Chắc chắn không thể dùng phao bơi, bè mảng
nhỏ để đưa một lực lượng lớn quà sông rộng hàng ki-lô-mét. Cách đó chỉ có thể
đáp ứng cho các lực lượng trinh sát, đặc công... Chính từ sự phân tích trên Bộ
tư lệnh Sư đoàn giao cho trung đoàn 52 chuẩn bị phương án vượt sông bí mật và đặt
phương án khó nhất là phương án vượt sông bằng sức mạnh cho trung đoàn 64 đảm
nhiệm. SỞ chỉ huy Sư đoàn cũng rời khu vực Chụp lên phía trước.
Cả Sư đoàn lao vào trận đánh vượt sông gấp, thì 20 giờ trong
ngày được lệnh của Tư lệnh quân đoàn, Sư đoàn đã được phép kéo dài thời gian
chuẩn bị bảo đảm đánh chắc và tổ chức vượt sông vào đêm ngày 5 rạng ngày 6
tháng 1 năm 1979, đồng thời qua thực tế trinh sát thực địa đêm ngày 5 tháng 1
cho biết thẳng hướng trung đoàn 52 không thể tổ chức vượt sông bí mật được. Do
vậy chuyển nhiệm vụ tập trung vào trung đoàn 64 phải thực hiện cả hai phương án
trên một bến để đêm ngày 5 rạng ngày 6 tháng 1 năm 1979 nổ súng. Thời gian làm
công tác chuẩn bị của trung đoàn 64 chỉ có đêm ngày 4 và ngày 5 tháng 1 . Bao
nhiêu công việc dồn nén vào khoảng thời gian eo hẹp ấy: trinh sát bến vượt, xây
dựng quyết tâm, họp đảng ủy, lập kế hoạch chiến đấu, giao nhiệm vụ cho các đơn
vị, tổ chức hiệp đồng chiến đấu kiểm tra và báo cáo... tất cả phải chính xác,
khẩn trương kịp thời, hành động nhịp nhàng với các hướng khác của chiến dịch.
Sau này, đồng chí Vũ Cối trung đoàn trưởng trung đoàn 64 tâm sự:
Đây là trận đánh thú
vị nhất trong đời chiến đấu của tôi. “Cưỡi trên lưng hổ", khi đã áp mép nước
chỉ có một con đường vượt nhanh chiếm bở phía địch, chiếm bằng được thị xã Công
Pông Chàm làm chủ toàn địa bàn này, mở đường cho chủ lực cấp trên tiến về Phnôm
Pênh. Mọi sự chuẩn bị càng chu đáo bao nhiêu, càng bảo đảm "chắc ăn"
bấy nhiêu.
Trung đoàn 64 được tăng cường 18 xuồng máy, 4 xe tăng T54,
được chi viện 4 khẩu pháo 105 ly, 6 khẩu pháo 155 ly, 4 khẩu cao xạ 57 ly, 4 khẩu
cao xạ 37 ly có nhiệm vụ vượt sông Mê Công đánh thẳng vào khu vực phòng ngự chủ
yếu của địch ở thị xã Công Pông Chàm. Trung đoàn tổ chức thành 2 đoạn vượt
sông. Đoạn vượt trực tiếp chính diện trận địa phòng ngự chủ yếu của địch ngay bến
phà Công Pông Chàm do tiểu đoàn 7 đảm nhiệm.
Suốt đêm ngày 5 tháng 1, các phân đội công binh vượt sông
chuyển toàn bộ số thuyền máy hạ thủy an toàn. Nhân dân vùng mới giải phóng hỗ
trợ cho trung đoàn 64 kéo hàng chục khẩu pháo vào trận địa trên đoạn đường dài
gần 5 ki'lô-mét. Trong khi ấy pháo địch bắn nh vãi đạn đoạn từ đầu cầu Khmung
trở ra bến sông. Mặt đất bị cày xới nham nhở. Những vạt rừng cháy xém, cây cối
nát nhừ vì lửa đạn. 2 giờ sáng ngày 6 tháng 1 địch bí mật đưa một tiểu đoàn từ
phía đông bắc vượt sang tây nam đường xen kẽ giữa tiểu đoàn 9 và tiểu đoàn 1 chừng
hơn 1 ki-lô-mét, kết hợp với lực lượng địch còn lại và các loại hỏa lực bên bờ
đông, bất ngờ đánh mạnh vào sờn tiểu đoàn 1.
BỘ đội ta một mặt giữ chắc tuyến công sự, mặt khác tổ chức
những mũi xuất kích ngắn găm vào bên sườn, phía sau đội hình của chúng. Trước
tình huống này sư đoàn trưởng điện nhắc: trung đoàn 64 có thể được tăng cường 9
xuồng xung phong (xuồng máy) và được các trận địa pháo trực tiếp chi viện, dùng
hành động vượt sông bằng sức mạnh dưới sự yểm hộ trực tiếp bằng hỏa lực của Sư
đoàn.
Đoạn vượt sông bí mật cách xa tiểu đoàn 7 chừng 1800 mét về
phía bắc do tiểu đoàn 9 đảm nhiệm được tăng cường 9 thuyền xung phong và một tiểu
đội trinh sát Sư đoàn dẫn qua sông. Khi tiểu đoàn 9 bám được bờ phía tây sông
Mê Công, lập tức hỏa lực Sư đoàn đánh mạnh vào địch và tiêu đoàn 7 đồng loạt vượt
sông, cùng tiểu đoàn 9 đánh chiếm bãi đổ bộ và mở rộng liên lạc với nhau bảo đảm
cho các lực lượng dự bị vượt tiếp.
Trận đánh lịch sử vượt sông Công pông chàm
Ngày N và giờ G của ta và địch trùng nhau. Tuyệt đối giữ bí
mật lực lượng tiến công, kiên trì thực hiện các phương án đã chuẩn bị.
4 giờ 30 phút, tiểu đoàn 9 bắt đầu vượt sông theo phương
pháp bí mật. Địch phát hiện, chúng dùng hỏa lực dày đặc quét trên mặt sông.
Trong vòng 15 phút, 6/18 thuyền máy vượt sông bị thủng, hàng chục cán bộ chiến
sĩ tiểu đoàn 9 hy sinh. Bến vượt bị địch kiểm soát chặt chẽ. Lúc này, phía tiểu
đoàn 1 cuộc chiến đấu càng trở nên dữ dội quyết liệt. Sư đoàn lệnh cho tiểu
đoàn 6 (trung đoàn 52) nâng đội hình chiến đấu phối hợp với tiểu đoàn 1 .
Thấy không thể thực hiện kế hoạch bí mật vượt sông như đã dự
kiến, sau khi đã được Phó tư lệnh quân đoàn Nguyễn Quốc Thước, người theo dõi trực
tiếp đồng ý, Tư lệnh Sư đoàn ra lệnh cho chỉ huy trung đoàn 64 thực hiện phương
án vượt sông bằng sức mạnh.
Trời sáng dần. Bằng mắt thường đã phát hiện các mục tiêu
chính bên kia sông. Từ giờ phút này trở đi đường dây liên lạc với trung đoàn 64
và các trận địa pháo được lệnh ưu tiên số một.
5 giờ 45 phút, Sư đoàn trưởng lệnh pháo bắn chuẩn bị. Trong
khi các cỗ pháo vồng cầu chụp xuống trung tâm chỉ huy của địch, thì các trận địa
pháo bắn thẳng dồn dập vào tuyến công sự sát mép nước của địch. Xe tăng T54
cùng tiến ra bờ sông dùng pháo 100 ly tham gia "dàn nhạc". Trong lịch
sử chiến đấu của Sư đoàn có lẽ chưa bao giờ thấy mật độ hỏa lực tập trung và có
hiệu quả như thế. Những tiếng nổ chồng lên nhau, kéo dài, rền vang. Hai chiếc
ca nô lớn của địch bị bắn cháy ngay từ loạt đạn đầu. Lửa và khói cuộn lên, che
lấp tầm nhìn của quân địch. Bầu trời Công Pông Chàm ngập trong biển lửa, các
tuyến hỏa lực sát mép nước và bờ đối diện bị đập nát, sở chỉ huy của tướng Xon
Xen bị rối loạn.
Đại đội 3, mũi tiên phong của tiểu đoàn 7 nổ máy xuất phát.
Cuộc vượt sông bằng sức mạnh lần thứ nhất trong lịch sử chiến tranh Đông Dương
bắt đầu. Từ 18 thuyền máy chỉ còn 4 chiếc, rời bờ được vài chục sải nước thì một
thuyền đột ngột chết máy. Quái ác thật ! Loay hoay mãi không chữa được, các anh
đành phải bơi tay dạt vào bờ. Đại đội 3
chỉ còn lại 3 thuyền.
Sau cơn choáng váng vì cơn bão pháo, địch bắt đầu hồi lại,
chúng phát hiện được những chiếc thuyền đang lao như tên trên sông. Súng địch
phát hỏa, bước đầu còn chệch choạc, dần
sau càng xoắn sít tập trung. Ra giữa sông, mới thấy khoảng cách còn lại là lớn.
Những khoảng cách trong chiến tranh không chỉ đo bằng đơn vị chiều dài thông
thường, hệ số bom đạn đã nhân nó lên gấp bội. Dưới những trái đạn pháo 85 ly,
ĐKZ, những chùm 12,7 ly, đại liên, súng cối các loại... mặt sông oằn lên sục
sôi, không còn cách nào khác là phải nhằm thẳng vào những họng súng địch và
tăng hết tốc độ. Qua máy PRC đại đội trưởng Nguyễn Đức Thại yêu cầu tiểu đoàn
diệt những hỏa điểm lợi hại. Cách bờ chừng một trăm mét chiếc thuyền thứ hai
trúng đạn, một chiến sĩ hy sinh, tiểu đoàn phó Nguyễn Văn Điều bị thương. Chiếc
thuyền vẫn quả cảm lao thẳng vào bờ phía địch, rồi thuyền của Thại cũng trúng đạn,
thủng hai lỗ. Binh nhất Vũ Mạnh Tuấn cởi áo băng vết thương cho nó. Đã tới tầm
sử dụng hỏa lực, bộ đội ta nổ súng quét mạnh vào bờ địch dọn vị trí đổ bộ. Một
tốp địch lợi dụng kè đá nhảy xuống mấy công sự sát mép nước. Chúng lựa thế dùng
khẩu 12,7 ly. Bên trái khẩu ĐKZ của địch cũng vừa nạp đạn. Nhưng cùng một lúc
hai chớp lửa của ta từ các thuyền chụp xuống. Địch bị chọc thủng một mảng.
"Chuẩn bị lựu đạn", Nguyễn Đức Thại hạ lệnh. Anh
đã nhìn thấy dãy kè đá lợi hại và đằng sau nó những bóng áo đen lố nhố, những
khuôn mặt lỳ lợm, hốc hác... Đạn nhọn xiết xuống mặt nước, rát như mưa đá. Những
cánh tay vung lên. Từng chùm đạn bật theo, chớp lòe lòe sau kè đá. Mũi thuyền gắn
vào bờ cát ướt. Chiến sĩ ta nhảy qua mép nước áp vào bờ. Hoảng hốt, một số tên
địch tháo chạy ngược lên. Thại nhảy tới, chụp khẩu ĐKZ quay nòng. Nhưng nó đã bị
hỏng kính ngắm. Năm quả đạn "bắn vo" của anh liên tiếp diệt các hỏa
điểm địch. Trung đội trưởng Nguyễn Ngọc Phương dẫn các chiến sĩ chiếm từng gò đất,
gốc cây. Một khẩu đại liên địch lợi dụng cây thốt nốt đổ, bắn cày tung mặt đường
trước mặt. Hai chiến sĩ ngã xuống. Trung đội bị chững lại. Hạ sĩ Đinh Quán Khoa
bám theo vạt cỏ thấp bò sang trái. Hiểu ý bạn, Nguyễn Đình Phùng dùng khẩu RPĐ
bắn thu hút. Khoa cứ nhích dần lên, nhích dần lên..; Đến khi khẩu đại liên địch
không còn vật che khuất nữa và nòng súng của Khoa đã hướng dọc thân cây thốt nốt
thì lại bị gò đất trước mặt chắn mất tầm bắn. Quả M79 nổ bên cạnh, mặt Khoa máu
chảy tràn qua mắt. Khoa vuốt mặt, lựa thế đứng bật dậy. Quả B40 nổ trùm lên khẩu
đại liên. Khoa cũng ôm ngực khụy xuống. Nguyễn Đức Thại, Nguyễn Ngọc Phương dẫn
bộ đội băng qua đường. Ở phía nam, tuy bị thương tiểu đoàn phó Nguyễn Văn Điều
vẫn chỉ huy bộ đội đánh bật địch ra, lần lượt chiếm từng dãy công sự.
Vậy là nhờ vào tinh thần quả cảm của mình, đại đội 3 với vài
chục tay súng đã hoàn thành nhiệm vụ, đánh chiếm đoạn đổ bộ chừng 300 mét. Ngay
từ khi đại đội 3 vừa chiếm được dãy công sự vành ngoài tiêu đoàn trưởng Kiều Bảo
và chính trị viên Nguyễn Văn Hội đã chỉ huy bộ đội vượt sông tiến vào đoạn đột
phá đại đội 3, xé rộng bàn đạp. Cũng trong lúc này Ở sở chỉ huy, Sư đoàn trưởng
cầm tổ hợp điện thoại trả lời Tư lệnh quân đoàn.
- Báo cáo, tiểu đoàn 7 đã chiếm được một đoạn bờ sông, tiểu
đoàn 9 đang tiếp tục sang sông. Địch chống trả mạnh. Bộ đội đang mở rộng đầu cầu?
Tôi nhớ... 10 giờ 30 phút...
10 giờ 30 phút là giờ hiệp đồng trong mệnh lệnh chiến đấu của
Tư lệnh quân đoàn: "... Sư đoàn 320 phải làm chủ thị xã để mở cửa cho Sư
đoàn 10, lực lượng thọc sâu chiến dịch của quân đoàn vượt sông tiến vào giải
phóng Phnôm Pênh.
Báo cáo Sư đoàn trưởng, cậu Thại đã chiếm được bãi đổ bộ. Hiện
nay...Người sĩ quan tham mưu dừng lại, bởi anh thấy Sư đoàn trưởng bỏ máy. Lát
sau ông nói chậm rãi:
- Tôi biết !... Nhưng nếu nó đánh bật mình trở lại... mặc đù
điểu đó khó có thể xảy ra. Phải nắm thật chắc mới báo cáo Tư lệnh quân đoàn.
Tôi ra chốt 64 ngay bây giờ...
Sau khi báo cáo tình hình với Sư đoàn trưởng, trung đoàn trưởng
Vũ Cối và một số sĩ quan tham mưu vượt sông theo sát bộ đội để chỉ huy giải
phóng thị xã Công Pông Chàm. Tư lệnh quân đoàn, sau khi biết bộ đội đã chiếm được
bờ sông cũng rời sở chỉ huy của mình. Ông muốn theo dõi càng gần càng tốt diễn
biến trận đánh quan trọng này.
Bất chấp bom đạn, các chiến sĩ công bỉnh nhanh chóng hạ thủy
ghép phà. Xe tăng PT76 tự vượt sông trực tiếp chi viện cho tiểu đoàn 7. Các loại
binh khí kỹ thuật khác cũng lần lượt sang sông. Tới bờ, trung đoàn trưởng 64 ra
lệnh cho tiểu đoàn 7 thọc sâu chia cắt địch nhanh chóng đánh vỡ thế trận phòng
ngự của địch. Để tăng cường sức mạnh tiến công, tiểu đoàn 9 và tiểu đoàn 1 cũng
được lệnh vượt sông. “Khoảng trống” của hai tiểu đoàn này Sư đoàn đã dùng tiểu
đoàn 6 líp lại, giữ chắc bờ sông.
Lại những trận chiến đấu quyết liệt trên đường phố, từng căn
nhà, từng ô cửa. Lựu đạn, B40 nổ chát chúa. Không khí đặc sệt khói đạn và bụi đất.
Sau gần một giờ, tiểu đoàn 8 đã thọc sâu cắt địch thành hai mảnh, Bắc và Nam. Ở
cả hai mảng này tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 9 sau khi đổ bộ đã nhanh chóng tổ chức
đội hình chiến đấu, đánh lui các mũi phản kích, dồn địch vào từng ngõ phố, căn
nhà. Thị xã Công Pông Chàm vang dội tiếng hô xung phong, tiếng loa địch vận.
Trong khói lửa ngút trời, bóng những ngôi nhà chao đảo. Những tấm cửa rung bần
bật. Nắng ngột ngạt. Một số tên địch vọt lên tầng trên quẳng lựu đạn xuống.
Quân ta vòng ra, bất ngờ chiếm dãy nhà phía sau “phóng” B40 sang. Cối cá nhân
M79 phóng đạn qua ô cửa. Có tên hoảng sợ nhảy ào từ gác ba xuống. Bộ đội ta bám
sát các chiến sĩ quân đội cách mạng Cam-pu-chia dẫn đường, tạo thành các mũi nhỏ
thọc vào từng dãy phố. Địch chạy túa ra, gặp lực lượng phía sau của ta chà đi
xát lại.
Gắng gượng sức tàn, Xon Xen thúc một tiểu đoàn lợi dụng trảng
dừa phía nam thị xã phản kích. Chúng gặp tiểu đoàn 1, đang trên đà tiến công,
đành phải bật ra trảng trống. Lúc này kho bom đạn cũng nổ dữ dội. Những đám
cháy khổng lồ thiêu hủy chút hy vọng cuối cùng của Xon Xen.
10 giờ ngày 6 tháng 1 năm 1979 thị xã Công Pông Chàm được giải
phóng, cửa vào Phnôm Pênh khai thông. Sư đoàn 10, lực lượng dự bị của quân đoàn
ào ào vượt sông nhằm thẳng hướng Phnôm Pênh tiến tới. Trên đường tiến công Sư
đoàn 10 lần lượt nhổ tung các tuyến phòng thủ của địch Ở ngã ba Xơ Kin, chiếm
dãy Phu Chê vượt sông Tôn Lê Sáp diệt địch, đánh chiếm các mục tiêu: nhà máy
xay, nhà máy cơ khí, kho súng đạn... rồi phát triển sang phía đông chiếm Bộ Tổng
Tham mưu của quân đội Pôn Pốt - Yêng Xa Ri, bắt liên lạc với binh đoàn bạn ở hướng
tiến công chủ yếu của địch.
Nhật ký chiến dịch giải phóng (từ 1 – 7/1/1979
Ngày 7/1/1979:
Lúc này sư đoàn bộ đã di chuyển lên sát cầu sắt (cầu Khmung)
cuối phum Bekrâp. Ở gần đường 7 nên
chúng tôi thấy các đ/v sư 10, sư 31 và một số đ/v của quân khu 7 hành quân cơ
giới xe pháo nối đuôi nhau trông thật khí thế hào hùng. Các đ/v hành quân bộ có
lẽ của quân khu 7 bởi quân “triều
đình”tiến đến đâu bàn giao địa bàn cho quân địa phương đến đó. Hồi ấy các đ/v
lính chiến đấu quân đoàn 3 ai cũng may một miếng vải trắng hoặc vàng ở vai trái
để nhận ra nhau nhất là để hành quân đêm nên cũng dễ nhận biết. Tiếng súng chiến
trận chỉ sau một ngày nghe đã ở khá xa chứng tỏ tốc độ tiến công rất thuận lợi.
Khoảng đầu giờ chiều tôi nghe tiếng súng bắn loạn xị
quanh mình tôi hỏi chính tri viên đạị đội
thì mới biết ta đã giải phong TP nongphenh. Hứng chí tôi cũng xả một tràng AK dài cán bộ đứng bên cạch mà chẳng
nói gì. Có lẽ ai cũng hân hoan đều nghĩ rằng ngày trở về quê mẹ VN sẽ không còn
xa nữa và sống là chắc rồi. Trong ngày lính ta gặp nhau dù quen hay lạ đều truyền
tin chiến thắng mọi người túm ba túm bảy cũng vậy, có lẽ có anh đã vạch cả cho
mình cả tương lai với bao tràn trề hy vọng mà không thể biết rằng cuộc chiến
sau đó còn kéo dài 10 năm nữa..
Đại đội tôi ở khá gần hầm tư lệnh sư đoàn (hồi đó cấp sư
đoàn vẫn gọi giống cấp qđ, qk như bây giờ). Căn hầm có mái bằng rộng 25-30 mét
vuông được phủ đất dày tránh đạn pháo. Các cột trụ gỗ dâng cao lên khỏi mặt đất
chừng ½ mét để có ánh sáng khi hội họp
và trỏ thành công sự chiến đấu kiên cố khi bị địch tiến công. Ngày đêm đều có
C23 vệ binh canh gác. Anh em vệ binh và chúng tôi thường hay đi theo thủ trưởng
nên quen biết nhau cả. Bởi vậy khi ra Bắc thái có lần đi chơi đêm quá giờ bị vệ
binh bắt cũng cười xuề thôi. Họ ở ngoài rìa làng (phum) khi thay phiên canh gác
phải đi qua chỗ tôi nằm nên có chuyện gì cũng kể hết, kể cả chuyện tư lệnh giận
nhau người ăn trước người ăn sau chứ không ăn cùng mâm. Nghe đ/c vệ binh nói ở
đó đang giam giữ mấy thằng tù binh nên chúng tôi cũng muốn nhìn rõ địch thủ
hơn, kéo nhau ra xem thì lại thương chúng nó,người thì nhỏ yếu bị trói chân ở
trong cũi (có lẽ công binh đóng cũi) có thằng đang khóc có thằng chắc chỉ mới
15-16 tuổi non toẹt.
Chập tối chúng tôi nghe loa hát tiếng K inh ởi, hỏi mấy đồng
hương vệ binh mới biết trong phum Bekrap có đám cưới. Tối hôm đó tôi cùng mấy
anh bạn ra xem để tìm hiểu phong tục họ ra sao. Tới nơi thì thấy bộ đội ta đến
xem khá đông. Đây là đêm vui trước ngày cưới họ múa lăm thôn chứ không ngồi bàn
trà lá như bên ta. Tôi thấy điệu múa lăm thôn rất giống điệu múa của đồng bào
tây nguyên. Một bó củi to chụm lại đốt cháy rực mọi người không phân biệt lứa
tuổi đều múa theo tiếng nhạc đi vòng tròn quanh đống củi cháy đỏ rực. Nhạc cụ tự
chế rất đơn giản chỉ có một dây néo theo một cái cọc thẳng đứng đế là một cái
can sắt. Âm điệu chỉ có 2 tiếng bập, bùng. Dùng mấy đầu ngón tay kéo dây tay
kia cầm cọc gỗ kết hợp chân giẫm lên cái can sắt tạo nên tiếng “bập” còn tiếng
“bùng” thì chỉ kéo dây rồi thả. Họ cầm tay kéo bộ đội ta vào múa song chúng tôi
đều ngại ngùng vì không biết múa nhưng
cuối buổi thì cũng có mấy chiến sỹ bạo dạn vào múa rất dẻo được nhân dân đồng
tình hoan ngênh. Sau này khi đ/v về chiến đấu ở ta keo vô tình tôi được đọc một
bài báo (báo binh đoàn Tây nguyên) viết về đám cưới này tiêu đề bài viết là
“Đám cưới đầu tiên sau ngày giải phóng” trong số này có cả một bài thơ của đ/c Lê
Đức Thọ viết về nỗi đau khi đ/c thiếu tương tư lệnh Kim Tuấn hy sinh.
Đêm nghủ đầu tiên sau ngày giải phóng thật đáng nhớ, nằm
trong một lùm cây cạnh cầu Khmung. Chúng tôi vẫn chưa được lệnh cỏ động bởi
quân sang sông cả ngày lẫn đêm mà vẫn ùn tắc. Phà công binh mỗi lần chỉ chở được
2 oto và khoảng một đại đội. sông mê công ở đây rất rộng nên một chuyến phà cần
phải có thời gian mà ta chỉ có duy nhất một phà. Trên chiến trường như các đồng
đội biết đấy trục đường 7 này là toàn bộ đội hình qđ3 và f302 phải đều vượt
sông càng sớm càng tốt để chặn đánh thu hồi VKTB của địch giảm gánh nặng cho cuộc
chiến sau này.
Chưa có lệnh cơ động nhưng chúng tôi biết rằng sẽ phải hành
quân rất sớm bởi 2/3 sư đoàn đã ở bên kia sông đang chờ...
--------------------------------------------------------
Nhật ký 7 ngày tham gia chiến dich giải phóng của duccuong
chỉ có vậy. Cảm ơn các đồng đội đã cùng duccuong hành trình và có ý kiến tranh
luận tham gia sôi nổi. VMH là diễn đàn của CCB chúng ta biết thế nào viết thế
đó vậy có vấn đề gì về lịch sử cũng như văn vẻ các bác lượng thứ. Sắp tới
duccuong theo bước chân đ/v về giải tỏa đường 3. Rất mong lại được các bác-nhất
là ccb f339 chiến đấu cùng f320 trên mặt trận đường 3 và vùng núi đất đồng
hành.
Hành quân về đường 3
Thời gian năm tháng đã lùi xa, tôi không thể nhớ rõ sư đoàn
bộ 320 ở cầu sắt thêm 1 hay hai ngày nữa chỉ biết gần sáng chúng tôi lên xe ô
tô hành quân cùng sư đoàn bộ. Đến bến phà Kongpong Cham tất cả xuống xe để lên
phà. Kho thóc nơi chúng tôi đặt đài quan sát vẫn cháy, khói vẫn nồng nặc nghe
đâu kho này cháy mấy tháng liền sau đó không ai dập. Trời vẫn chưa sáng, sóng
nước Mê công mênh mông vẫn âm thầm chảy đưa đoàn quân giải phóng sang sông. Tôi
lấy tay vục nước cho đỡ tỉnh ngủ chợt nhớ hình ảnh trận chiến vượt sông cách
đây 2 ngày có bao chiến sỹ đã ngã xuống làm dòng sông phải thay màu, đỏ ngầu
sôi sục. Phà cập bến, mọi người hối hả lên xe, con đường bị pháo ta băm dập tạo
nên những ổ gà làm xe lắc lư. Hàng phượng
chạy theo con đường vào TP đây rồi. khi đặt đài quan sát chúng tôi vẫn thấy TP
này rất nhiều cây phượng. Tôi rất tiếc do trời chưa sáng nên không nhìn thấy được
vẻ đẹp của thành phố cổ kính này chỉ biết đây là cố đô có từ thời xa xưa và được
pháp xây dựng lại vào hồi đầu thế kỷ. Tạm biệt TP Kongpong Cham, tạm biệt bến
phà và dòng sông không bao giờ quên trong ký ức, đoàn xe lại hối hả tiến về hướng
có tiếng súng nổ.
Đi qua ngã ba sê cun đ/c đại đội trưởng ngồi cạnh nói nơi
này đã xảy ra giao tranh giữ dội giữa Miên và F10 (hồi bên đó chúng tôi gọi địch là Miên chứ không gọi Pốt như các đ/v
khác). Đại đội trưởng của tôi khá đẹp trai người Quảng Xương, Thanh hóa rất
hay làm thơ, có bài thơ nào mới ra đời là cho tôi đọc ngay. Tôi rất ấn tượng về
đ/c đại đội trưởng trẻ trung mới tốt ngiệp khóa TS trường sỹ quan lục quân 1
này do bởi sự gan dạ thông minh và táo bạo trong nhiều lần cùng đi bám địch hay
luồn sâu cùng anh. Ví dụ khi cắt đường đụng
chốt địch thì cứ lùi lại chỉ cần đủ vòng qua chốt thì tiếp tục góc phương vị cũ
mà đi bởi thực tế một chốt chỉ quan sát và giữ được trong một khoảng nhất định
nếu vòng rộng quá thì sẽ gặp chốt khác. Do có nhiều quyết định chính xác nên
anh em trong đ/v thích cùng đi với đại đội
trưởng hơn các đ/c cán bộ đại đội khác. Hồi mùa mưa ở cao điểm 200 tôi thường
tìm cách mắc võng gần anh để được nói chuyện và được nghe đài vào buổi đêm. Ngồi
trên xe anh kể chuyện người yêu tên là Lan quê ở Quỳnh Lưu nghệ an đang học năm
thứ 3 khoa Sử đại học Tổng hợp. Mối tình này
đang gặp khó khăn do bố người yêu chưa đồng tình. Cặp này lấy nhau là một
thiên tình sử nếu có dịp tôi sẽ kể các đồng đội nghe.
Mãi đến trưa chúng tôi mới đến bến phà Prech Đam đây là điểm
cuối cùng của đường7. Dòng sông này trên bản đồ gi là tong le sap hình như chảy
từ biển hồ xuống rồi chạy dọc đường 5 về Nongpenh. Chúng tôi xuống xe dừng khá
lâu bởi vượt sông bằng phà tự hành bánh xích gsp của Liên xô chỉ chở được từng
chiếc ô tô một cùng khoảng 25-30 người. Xe tăng của sư đoàn (lữ 273 tăng cường
) có khoảng chục chiếc tự bơi sang sông chỉ thấy trồi ụ pháo, tôi nhớ có người
nói đây là xe tăng đời mới của Nga pt76 hay pt85 gì đó. Quãng sông này rộng chừng
400m nước chảy không xiết như sông Mê công đoạn chảy qua TPcông phông cham. Nhìn
cảnh sư đoàn vượt sông hôm đó tôi lại nhớ trận vượt sông hôm 6/1 ở công
pongcham, lần đó bi hùng bao nhiêu thì lần này hoàng tráng bấy nhiêu. Trong quá
trình hành quân hàng trăm km và chờ ở bến phà chúng tôi tuyệt nhiên không thấy
người dân nào, có lẽ họ đi lánh nạn chưa về.
Trong lúc chờ đợi sang sông chúng tôi tìm nơi bóng mát nhai
lương khô. Ở đây có một hình ảnh tôi không bao giờ quên đó là giữa “rừng” bộ đội
đang chờ sang sông có một cô gái rất đẹp, da trắng má ửng hồng có lẽ do hôm ấy
trời rất nắng đứng ở dưới bóng cây bàng ven sông (con gái k đa phần da đen).
Bên cạnh cô là đ/c Lê Nông chủ nhiệm chính trị sư đoàn cùng một số đ/c trong
ban địch vận. Tôi không hiểu nổi giữa trận mạc thế này lại có một cô tiên giáng
trần đi cùng đ/v chủ lực tiến vào mặt trận mà hồi ở Mimut 100% tôi khẳng định
không có một ai là nữ cả. Tôi còn nhớ như in cô mặc áo quần màu cỏ úa của thanh
niên xung phong đầu đội mũ tai bèo nói tiếng CPC và nói cả tiếng Việt nữa nhưng
chưa sõi. Chẳng hiểu lý do gì mà cô khóc nhiều quá, bao nhiêu người sỹ quan đến
giỗ dành nhưng cô im lặng chỉ một tý rồi lại khóc nức nở hình như cô đang xúc động
mạnh cái gì đó. Đôi mắt luôn mở to đen tròn như hạt nhãn chỉ nhìn xuống dòng
sông Tonle Sap mà khi đó có mấy xe tăng lữ 273 đang tự bơi sang. Khoảng một
tháng sau trên mặt trận đường 3 tôi may mắn được gặp lại người đẹp một lần cuối
cùng khi cô đang đứng trên bục cầm micro đọc lời kêu gọi của mặt trận cứu nước
Campuchia trước dân trong núi đang lũ lượt trở về bản quán. Đứng cạnh cô vẫn là
mấy đ/c ở ban địch vận. Giọng đọc của cô trong trẻo mạch lạc rõ ràng của một
người có học. Lúc này tôi thấy cô như một người chỉ huy chứ không yếu đuối như
hôm vượt tonglesap. Cuộc đời cô gái Cămpuchia này về sau có lẽ sẽ là một cuốn
tiểu thuyết hay nếu nhà văn k nào tìm biết được.
Chờ mất khoảng 2 giờ chúng tôi mới sang sông được. Lên khỏi
bờ là đường quốc lộ số 5 của bạn. Đường được dải nhựa mặt đường to và tốt hơn
đường 7 chúng tôi rẽ trái chạy khoảng 2 giờ thì đến TP Nongpenh. Lúc này đã về
chiều chúng tôi nghỉ lại dưới chân cầu sập. Đây là một chiếc cầu dài rất đẹp bắc
từ thành phố qua sông không hiểu sao bị gãy sập mất mấy nhịp ở giữa. (có người
thì nói cầu sập do máy bay ta ném bom, có người thì nói sập từ hồi đánh Mỹ, do
máy bay mỹ ném bom…duccuong rất muốn ai biết thì giải thích hộ).
Cảnh tượng đầu tiên trong mắt mọi người là thành phố Pnong
penh rất đẹp nhưng hoang vắng (không tàn vì không có dấu hiệu chiến sự xảy ra
nơi đây). Chúng tôi chỉ đủ thời gian đi loang quang mấy phố gần nơi trú quân bởi
sợ lạc vì trời đã sắp tối nhưng tuyệt nhiên không gặp một ai kể cả bộ đội ta ở
đ/v khác.
Đêm đầu tiên ở thủ đô Pnong pênh cả đại đội ngủ dưới chân cầu
sập. Dĩ nhiên sư đoàn bộ 320A cũng nghỉ loang qoang khu vực này.

Anhtho trên cầu Chroy Changva một chiều chủ nhật tháng 8/1982
Chào bác chủ và các bác đang tham gia hành quân rôm rả trên
chiến trường cũ. Từ năm 1979 đến 1984, đơn vị vận tải của tôi (Binh trạm 179 -
cục vận tải TCHC) chiếm lĩnh một phần cảng Phnompenh và cảng nhỏ trước Watphnom
(chùa đất) làm chỗ neo đậu phương tiện thủy và xuống hàng cho mặt trận 479
nhưng nơi tôi ở binh trạm bộ đóng gần Chroy Changva 1km về phía Oudong quốc lộ
5 (National Higway Five). Hơn thế nữa cây cầu này cũng là một trong những nơi
Vetran tôi hẹn hò với Anhtho mỗi chiều chủ nhật. Do vậy các bác nhắc đến cầu sập
làm tim tôi lại bồi hồi. Nơi ấy vừa mát, lại tình tứ vì bên cạnh cũng có nhiều
cặp đôi hò hẹn gồm các cặp đôi Koongtop Việt Việt, cặp đôi thanh niên nam nữ K
và đặc biệt có cả các cặp đôi Koongtop Việt với Consray Kampuchea mà trên khuôn
mặt ai cũng rạng rỡ yêu đời khi mua khô mực, hến phơi khô, hạt dẻ, thậm chí có
cặp mua nguyên một con cá lóc nướng trui chấm mắm me uống với nước thốt ngọt hoặc
chua (tức thotnot êm, chu) cùng nhau dựa vào thành cầu nhâm nhi tình tứ. Sau vụ
một cặp tình nhân người Việt buộc tay nhau nhảy cầu thì chính quyền làm lan can
chắn nơi cầu gãy và có nhân viên túc trực mỗi chiều, thổi còi kịp thời khi có
người có ý đinh tiến ra sát mí dầm cầu gãy. Ngày đó tôi tìm hiểu qua một sĩ
quan cùng quê ở cục II đóng quân ở gần điện Chamcamon thì được biết: Chroy
Changva Bridge là cây cầu do Liên Xô xây cho Kampuchea, bị đánh sập năm 1973 với
mục đích ngăn quân Khơ me đỏ từ các tỉnh phía Bắc vượt qua huyện Phumi Chroy
vào đánh chiếm thủ đô Phnom Penh. Không biết ai đánh nhưng cũng có thông tin
khá tế nhị mà lúc này chúng ta không muốn đề cập tới nữa. Cuối năm 1984 trước
khi về Việt Nam, những lần lên cầu, tôi đã chứng kiến chuyên gia Liên Xô khảo
sát hiện trạng cây cầu nhưng không hiểu lý do gì mà họ không khôi phục lại.
Cầu Chroy Changva
ngày nay nó là một trong những cửa ngõ chính từ các tỉnh phía Bắc đi vào Thủ đô
và nó thường bị ách tắc vì sự gia tăng nhanh chóng lưu lượng xe. Chính phủ
Campuchia nhìn nhận: "Đường xá, cầu là mạch máu kinh tế của đất nước"
và phát triển cơ sở hạ tầng là một trong những nhiệm vụ hàng đầu hiện nay. Cầu
Chroy Changva Mới được xây dựng theo một khoản vay từ Trung Quốc và chính phủ
Nhật chỉ định nhà thầu xây dựng từ năm
2011 và khánh thành cuối năm 2012 trở thành cây cầu hữu nghị CPC - Nhật Bản
(Cambodia – Japan Frenship Bidge). Cầu mới Choy Changva góp phần giải quyết sự
ùn tắc giao thông, tạo điều kiện thuận lợi cho thông thương giữa các vùng và tỉnh
lân cận với Phnôm Pênh.
Vì thới gian cũng đã qua hơn 30 năm, trong tâm thức Vetran
và Anhtho vẫn in đậm dáng hình cây cầu mất hai nhịp giũa trên dòng Tonlesap. Vì
không có điều kiện trở lại chiến trường xưa nên không được "thực mục sở thị"
cây cầu mới nhưng xem trên Google Map Satellite thì hình như cây cầu cũ vẫn còn
để làm di tích nhưng mố cầu đã bị cắt để
tranh hậu họa, không biết có đúng không, bác nào đi thăm chiến trường xưa bật
mí cho anh em biết với.
Hành quân về đường 3.
Sau cuộc chinh chiến vùng rừng núi nay được về nghỉ ngơi
ngay thủ đô Phnom Penh tráng lệ ai cũng lấy làm thích thú cứ như được lạc vào động
tiên. Thật may mắm sư đoàn bộ tiếp tục ở thêm vài ngày nữa nên chúng tôi có dịp
viễn cảnh TP Phnom Penh. Buổi sáng mấy anh em rủ nhau lên xem cầu sập, một chiếc
cầu dài rất đẹp bắc qua sông tong lê sáp như một chiếc cầu vồng trông thật hùng
vĩ mấy anh em bình luận ở việt nam ta lúc đó chưa thể có chiếc cầu nào hơn thế.
Thật tiếc nó bị sập mất mấy nhịp ở giũa nên không thể sử dụng được. Sau đó thả
bộ đi dọc theo con đường chạy dài sát bờ sông tong lê sát cho đến tận đài độc lập
gần sân vận động Olimpic.Có một số vị trí được vệ binh QK7 canh gác không cho
vào như khu hoàng cung, chùa vàng, chùa bạc…nên chúng tôi chỉ đứng ngoài chiêm
ngưỡng. Ở gần khu hoàng gia chúng tôi thấy có một số biệt thự vẫn treo cờ đa quốc
gia bên trong vẫn có người đi lại, có lẽ đây là khu vực ở của đại sứ quán các
nước mà họ thân Việt nên không chạy theo CP Pon pốt. Gần trưa trở về đ/v chúng
tôi đi qua nhiều dãy phố mà chẳng thấy một người dân nào, kể cũng lạ thành phố
không có dân như một TP ma, nhiều chỗ ven đường cỏ cây mọc đầy chứng tỏ không
ai quản lý và không tồn tại sinh hoạt cuộc sống ở nơi này. Chúng tôi nghe nói
sau 1975 bọn Pon pot lùa dân ra khỏi TP sống theo kiểu công xã ở những vùng
quê, ăn tập thể, cưới cũng tập thể, bác sỹ cũng như nhà sư phải đi chân đất.
Trên đường phố nhiều nhà đồ đạc sách vở bàn gế bị lục tung ném ra ngoài. Tôi nhặt
khá nhiều vở viết học sinh xem (có lẽ là
con em lục thum mới được học) thấy họ toàn viết bằng tiếng Pháp, có lẽ họ
phổ cập tiếng pháp trong chương trình giáo dục ở nhà trường giống như môn tiếng
anh bên ta.
Buổi chiều chúng tôi di chuyển nơi ở mới đó là khu vực nhà
ga Pnong pênh. Cả đ/v ngủ nghỉ ngay trong nhà chờ tàu. Hơn nửa năm toàn ngủ
võng hôm nay mới được ngủ trong nhà, lính chiến thế này thì quí tộc quá. Ở đây
hình như gần trường đại học y khoa thì phải bởi gần nơi trú quân chúng tôi thấy
có một ngôi nhà bên trong có nhiều dãy bàn xếp chai lọ thủy tinh ngâm nội tạng
người trong dung môi và có nhiều bộ hài cốt cũng như nhiều mô hình sinh học khác.
Theo như các tổ trinh sát của đại đội tăng cường cho các
trung đoàn thì chúng tôi được biết e52 (đ/v của va photu) đang truy quyét địch ở
đầu cầu sập bờ bên kia sông Tong lê sáp còn e48,e64 đang trú quân tại khu vực
sân bay pu chen tông cơ bản là nghỉ ngơi để củng cố bổ sung lực lượng (quân số
VKTB) chuẩn bị vào chiến dịch giải tỏa đường 3.

Hành quân về giải tỏa đường 3
Chúng tôi không thể nhớ sư đoàn 320A ở thủ đô Phnom Penh mấy
ngày vì đã quá lâu rồi. nhưng với tình hình chiến sự ở thời điểm sau ngày giải
phóng ít hôm thì một đơn vị chủ lực của bộ làm gì được nghỉ xả hơi. Những người
lính trinh sát chúng tôi vẫn tự hiểu địch còn rất mạnh bởi khi chiến dịch mở
sinh lực địch chưa bị tổn thất nhiều và bộ máy chiến tranh chỉ rút khỏi Phnom
Penh mà thôi
Một buổi sáng cả sư đoàn bộ cùng các đơn vị trực thuộc rùng
mình chuyển động rồng rắn chạy theo đường 3 về hướng Ta keo và cảng
xihanucvin(?). Toàn đại đội trinh sát chúng tôi được phổ biến đường 3 ta đã làm
chủ chỉ được ít ngày, địch bị giãn ra khi ta dùng sức mạnh tiến công nay chúng
đã kịp thời củng cố lực lượng khống chế toàn bộ đường 3 và nhiệm vụ sư đoàn
đánh địch để giải tỏa đường 3. Cũng như đường 5, 6, 7 đây là con đường quốc lộ
huyết mạch chạy từ thủ đô pnong pênh về hướng Nam, mặt đường nhựa rộng và tốt
hơn đường 7.
Sư đoàn một lần nữa đánh vận động tiến công như ở mặt trận
đường số 7, bởi vậy trinh sát sư đoàn không phải luồn sâu bám địch làm gì vì
phía trước đã là địch rồi. Đến buổi chiều thì đụng độ. Tiếng súng bộ binh, hỏa
lực nổ râm ran chúng tôi xuống xe bắt đầu hành quân bộ. Lúc này phía trước mặt
chúng tôi là địch sau lưng là vùng giải phóng. Đêm đó chúng tôi ngủ trong một
làng nhỏ ven đường 3.
Sáng dậy đã thấy xe thùng sắt chạy ra chúng tôi hiểu trận
chiến đấu chiều qua nhiều đ/c đã hy sinh. Không biết các đ/v khác thế nào còn ở
sư 320A xe chở tử sỹ là một chiếc xe đốt được đóng thùng sắt kín có hai cánh cửa
hậu, mặc dù đóng kín nhưng mỗi lần xe chạy qua thì mùi tanh, hôi thối để lại đến
kinh hoàng.
Buổi chiều toàn tiểu đội nhận lệnh đi tăng cường cho trinh
sát E64. Nói tiểu đội cho oách chứ quân số tiểu đội lúc nào cũng chỉ 5-6 người.
Thấy đạị đội trưởng Lê thanh Trung chấm khoanh tọa độ E bộ 64 đóng chỉ cách vài
km theo trục đường 3 chúng tôi thở phào nhẹ nhõm vì đường đi gần và an toàn. Nhận
LTTP xong chúng tôi lên đường ngay. Đường hoang vắng họa hoằn lắm mới có o tô
jin ba cầu của vận tải sư đoàn chở đạn dược LTTP cho E64 hoặc E48 đang ở tuyến
trước. Cũng nói thêm một tý, lính lái xe vận tải cấp sư đoàn trở xuống ở chiến
trường k, bị địch phục B40, B41 kèm vài tràng AK là chuyện bình thường. Vì vậy,
khi chạy lẻ cánh tài xế phóng bạt mạng mục đích để trách đòn hỏa lực ban đầu mà
thôi. làng bản ở đây nhà trệt chứ không nhiều nhà sàn như dân trên trục đường
7, có lẽ họ là các dân tộc khác nhau. Tiếng súng bộ binh thỉnh thoảng rộ lên rất
gần, chúng tôi hiểu mình đã sắp đến vị trí qui định. Đêm hôm đó ngủ tại nơi
đóng quân c20 E64.
Ngày hôm sau với sự hỗ trợ của xe tăng lữ 273, E64 tiến thêm
khoảng 15km, vì vậy buổi chiều chúng tôi cùng c20 trung đoàn 64 hành quân bộ
cùng E bộ dâng lên sát các đơn vị chiến đấu nhằm chỉ huy và bảo đảm hậu cần
VKTB kịp thời. Các đơn vị đánh vận động nhanh đến nỗi thông tin đường dây có
lúc đang rải dây bảo đảm thì được lệnh thu dây để kịp hành quân theo đội hình
chiến đấu của sư đoàn. Qua các tổ trinh sát sư đoàn đi tăng cường cho các đơn vị,
chúng tôi được biết các tiểu đoàn của E48 nhiệm vụ càn sâu theo trục đường
nhánh bảo đảm hành lang đường, còn E52 luôn đi càn địch mở rộng hành lang đường
và trấn giữ phía sau cùng đội hình sư đoàn. Chỗ ở liên tục di chuyển theo trục
đường 3, mỗi ngày dâng lên 5-10km, tôi còn nhớ rõ đơn vị chúng tôi không ở đâu lâu quá 2-3 ngày.
Cho đến một ngày gần tết âm lịch năm 1979 thì chúng tôi đánh
vào khu vực mà địch đã mai phục và đã tiêu diệt phá hủy toàn bộ đoàn xe của
quân khu 9 trên đường trở về Việt nam. Đoạn đường này tôi nhớ không nhầm thì
thuộc tỉnh Căngđan (CPC) trận địa mai phục của địch dài chừng hai km. Mọi người
lính sư đoàn 320A đều chứng kiến tận mắt có khoảng gần 100 xe ô tô các loại
trong đó có khá nhiều xe ka mang biển số xe dân sự chở khách của hai tỉnh Kiên
Giang và Tiền Giang (in ở cửa xe) được động viên phục vụ chở quân, khi quay trở
lại thì bị bắn cháy và tiêu diệt hết. Thật đau đớn khi thấy đồng đội mình chết
nằm ở nhiều tư thế khác nhau, người thì như đang ngồi trong ca bin, người thì vắt
vẻo trên thùng xe, có người hy sinh trong tư thế đang nằm bắn. Sau khi chặn đầu
khóa đuôi, chúng tiêu diệt hết những người sống sót và rút xăng dầu trong xe đốt
cháy hết, các xe chỉ còn là đống sắt vụn cháy nham nhở. Tôi nghĩ rằng có lẽ
trong chiến tranh biên giới tây nam thì đây là bài học vì chủ quan đắt giá nhất.
Do không có phương tiện thông tin và thông tin trên không có lợi cho chiến trường
lúc đó, nên sự kiện này tuy lớn nhưng không nhiều người biết.
Chẳng biết đơn vị nào sau này đến thu gom còn chúng tôi vẫn
phải tiếp tục đánh vận động theo trục đường 3, càng đi xa về phía nam càng khốc
liệt. Nhìn một số chiến sỹ ta nằm đó, mọi người nhói tim đau nhưng đành phải đi
qua để lao vào phía có tiếng súng nổ, bởi những người lính sư đoàn 320 còn phải
thực hiện nhiệm vụ tiêu diệt hoàn toàn lực lượng đich đang co cụm ở phía nam CPC
này. Có lẽ không lâu nữa đơn vị bị thiệt hại này sẽ đưa các bạn về đất mẹ Việt
Nam an nghỉ trong lòng đất tổ quốc.
Ở vùng đất sư đoàn đang tác chiến này là vùng đồng bằng của CPC,
đồng ruộng mênh mông như những cánh đồng Nam bộ ta vậy. Một lần đi bám địch đến
chốt cuối cùng mấy đồng chí bộ binh ngồi dưới hầm chỉ sang làng (Phum) cách khoảng
500m bảo: “địch ở làng bên kia, các “ông” đi lại phải vận động bên trong làng,
men theo cây cối mà đi, nếu theo đường rìa làng là “ăn đủ”đấy!. Chỉ đứng quan
sát một hồi, chúng tôi thấy địch trong làng bên kia cũng đi lại như mình bên
này, lúc ẩn lúc hiện. Mấy anh em chúng tôi phải đi đến cuối làng để đêm xuống sẽ
vượt qua cánh đồng rộng về khu vực tác chiến của K7 nhận nhiệm vụ mới. Đi men theo cây cối chui
vườn tược lâu quá, vả lại cự ly xa vậy thì xạ thủ cũng phải lắc đầu, chúng tôi
đành liều nhảy đại ra đường rìa làng để đi cho nhanh thì một khẩu đại liên đã
được khóa tầm như chỉ cần chờ sự xuất hiện của chúng tôi là “khạc ''đạn xối xả.
Chúng tôi chỉ biết chạy vào trong chứ phản ứng bằng AK thì ăn thua gì mà sẽ còn
nguy hiểm hơn là chắc. Mấy anh em tìm được nơi trú ẩn nhìn nhau cười, ngầm hiểu
sự nguy hiểm đã đi qua, quả là đùa giỡn với tử thần không đáng chỗ.
Tà Keo những ngày máu lửa
Chẳng biết mặt trận Tà Keo nóng bỏng như thế nào? Tình hình
quân khu 7 ra sao? Mà đơn vị tôi đang truy quét bên kia sông Mê Kông (phía Bắc
thủ đô) phải nhanh chóng vượt sông trở lại Phnom Penh và gấp rút hành quân lên
Tà Keo. Cuộc chuyển quân khẩn trương đến nỗi, ba đồng chí trong A trinh sát
chúng tôi đang đi dạo ở hoàng cung không kịp về để hành quân. Đành rớt lại.
Những ngày đầu ở Tà Keo, tiểu đoàn bộ chúng tôi đóng quân tại
thị trấn nhỏ. Chiến sự những ngày đầu khá yên ắng. Không có đánh lớn. Địch chỉ
lén lút tập kích xe cơ giới chạy trên đường 3. Tuy vậy, sự mất mát hy sinh
không phải là nhỏ. Ngày nào, đêm nào cũng có xe bị bắn cháy. Xe cháy, người chết
đã gây hoang mang không ít cho cánh lính
lái xe. Vào một buổi sáng, tổ trinh sát chúng tôi nhận được một nhiệm vụ đặc biệt.
Quay trở lại Phnom Penh để tìm ba đồng chí bị thất lạc. Trưởng đoàn tìm kiếm là
đồng chí Tân chính trị viên tiểu đoàn. Chúng tôi được bố trí đi cùng với xe hậu
cần về Phnom Penh nhận nhu yếu phẩm cho đơn vị.
Hôm ấy là ngày mồng 3 tết âm lịch năm 1979. Tôi nhớ đó là
ngày mồng ba vì trước khi lên xe có ai đó đã nói: Chớ đi mồng ba, chớ về mồng bảy.
Tôi nghe nhưng chẳng mấy lưu tâm đến chuyện đó. Xe nổ máy, chúng tôi ngược đường
ba trở lại Phnom Penh. Quang cảnh chiến trường dần dần lùi xa. Cảnh phố xá nhà
cao đường rộng hiện dần ra trước mắt. Tâm trạng ai cũng vui. Vì tạm xa tiếng
súng mấy ngày.
Chúng tôi đến Phnom Penh khá sớm. Xe ô tô vừa dừng bánh thì
từ trên xe chúng tôi đã phát hiện ba đồng chí trinh sát đang đi vào nhà ăn quân
khu 7. Nghe tiếng gọi, ba đồng chí trinh sát giật mình. Họ đứng như trời trồng
khi nhìn thấy đồng chí chính trị viên tiểu đoàn. Sự lo sợ hiện rõ trên ba khuôn mặt. Tuy vậy, niềm vui
tìm được đơn vị đã làm cho anh em quên sợ hãi. Chạy lại ôm chầm lấy chúng tôi.
Trước cảnh ấy, đồng chí chính trị viên tiểu đoàn, người nổi tiếng nghiêm khắc
cũng không trách mắng.
Mấy thầy trò Đường tăng đang tung tăng trên đường phố không
biết tìm nơi nào để tá túc thì tình cờ thủ trưởng chúng tôi gặp một ông đồng
hương người Thái Bình mới được điều sang đây làm cố vấn cho chính quyền bạn.
Ông cố vấn mời chúng tôi vào dinh để nghỉ. Một sự may mắn ngoài mong đợi. Thưa
các bạn. Nói là được ở trong dinh thự ông cố vấn nhưng tình hình cũng chẳng có
gì khả quan hơn những ngày đầu vào Phnom Penh. Như hiểu được tâm trạng của
chúng tôi. Ông cố vấn thanh minh: Không mấy khi gặp được đồng hương và anh em
nhưng tình hình nước bạn đang gặp muôn vàn khó khăn.Không có gì để chiêu đãi
anh em cả...
Chúng tôi ở lại Phnom Penh đến ngày mồng 7 âm lịch thì trở về
đơn vị. Lại một sự trùng hợp ngẫu nhiên: “Về mồng bảy”. Sáng ngày mồng bảy, tôi
ra góc sân đánh răng. Tình cờ phát hiện thấy một con rùa bằng bàn tay. Tôi gọi
cả mấy thằng lại xem. Thấy lính đang bàn tán rôm rả, thủ trưởng cũng tò mò đến
xem. Có ai đó bảo: Thủ trưởng ơi, “gặp rắn thì đi gặp quy thì về”... Hay là mai
hẵng về thủ trưởng?Thủ trưởng tôi “xì” một lên tiếng rõ to và nói: Vẽ chuyện.
Chúng tôi tạm biệt ông cố vấn. Tạm biệt Phnom Penh xinh đẹp
để trở về đơn vị. Chiếc xe trở về đơn vị lần này mang theo hai niềm vui lớn. Niềm
vui thứ nhất là tìm được đồng đội. Niềm vui thứ hai là mang về cho anh em rất
nhiều nhu yếu phẩm và quà tết. Nào là su hào, cải bắp, thịt lợn đông lạnh
...ngoài ra còn có bánh chưng, kẹo, mứt tết, thuốc lá, đường sữa... Đây là những
món quà từ đất Mẹ Việt Nam gửi sang. Tôi thầm nghĩ: Chắc anh em đang mong quà tết
lắm đây?
Xe về gần đến đơn vị, cách
thị xã(?) khoảng ba ki lô mét thì bỗng nghe tiếng súng Ak, M79... nổ râm
ran. Đạn Ak của địch bay vèo vèo bên
tai. Chúng tập kích đúng phía thành xe tôi ngồi. Lúc bấy giờ đồng chí chính trị
viên đang ngồi trong ca bin. Đồng chí sĩ quan hậu cần đang đứng bám ngoài cửa
xe - Phía “đầu tên hòn đạn”. Anh phải đứng ngoài cửa vì trên xe chất đầy hàng
hóa. Nhiều nhất là su hào, cải bắp. Thành ra chúng tôi chỉ ngồi chứ không đứng
được. Khi biết xe mình lọt vào ổ phục kích, đồng chí lái xe liền tăng tốc độ. Xe
chạy như tên bắn. Chúng tôi chỉ lo giữ chặt thành xe để không bị hất tung xuống
đất. Tiếng đồng chí chính trị viên hô:
- Bắn ...đi!
Trong lúc đang loay hoay tìm tư thế để bắn thì một quả b40
bay vèo vèo qua trên đầu. Theo phán xạ tất cả nằm rạp xuống. Sau mấy giây lấy lại
bình tĩnh, mấy thằng trinh sát ở phía thành xe bên phải (trong đó có tôi) chĩa
súng về hướng địch bắn loạn xạ. Ngay sau đó, một quả b40 nữa bay vèo qua trước
mũi xe...Trượt. Xe chạy xa. Ước chừng bắn không hiệu quả nên địch không bắn nữa.
Thưa các bạn.
Vì chỗ địch tập kích cũng rất gần đơn vị. Nên nghe tiếng
súng, các đồng chí trong dê bộ vác Ak ra chi viện. Nhận ra xe chở anh em mình.
Ai cũng mừng. Mừng nhất là xe và người không bị trúng đạn. Sự may rủi xin nhường
lại cho các bạn bình luận. Còn tôi, tôi nghĩ: Nhiều khi sự đam mê thiếu kiềm chế
có thể dẫn đến hậu quả khôn lường. Trong trường hợp này, sự đam mê trước cảnh đẹp
(chưa nói là vô kỉ luật) của ba đồng chí trinh sát suýt nữa phải đổi bằng máu của
chính họ và máu của đồng đội mình. Đúng vậy trên mặt trận đường 3 xe vận tải của
ta bị phục rất nhiều. Nhưng đồng hương nên nhớ để về tỉnh Ta keo thì phải đi
qua tỉnh kăng đan. Chỗ đoàn xe của quân khu 9 bị phục và đốt cháy gần 100 xe là
thuộc tỉnh kăng đan. Thị xã Ta keo không nằm trên trục đường 3 vì vậy đồng
hương nhầm một thị trấn nào đó. Bị phục đang ở trên xe thì chưa nhưng rất gần
thì có 2 lần:
- Hồi trên đường 3 đại đội mình ở cuối làng, buổi đêm bọn
mình lên mặt đường 3 ngồi hóng mát. Một xe vận tải chạy qua bóp còi để bọn mình
tránh đi qua chừng 300m thì "ùng oàng " ăn ngay một trái b40 và một
loạt AK. Kết quả xe cháy nhưng may không chết ai do địch phải rút ngay bởi biết
ta rất gần sẽ ra ứng cứu.
- Lần 2 đi truy quét đich ở cong pong chư pư. Rừng già mênh
mông, một xe tải chạy qua cách 20m trên xe có vài chiến sỹ. Đường này là đường
đất lâm ngiệp chạy giữa rừng. thì một quả B40 và một loạt trung liên rộ lên. Kết
quả một đ/c của ta bị một viên thủng bụng. Còn quả B thì đi tìm hiêu.
Có lẽ do rừng mịt mùng nên tốp lính đi phục cắt đường đi nhầm
chỗ, nếu chỉ mấy bước chân nữa bấp phải bọn mình thì chắc 2 bên đều đen bởi tốp
đi bộ toàn lính thiện chiến có bản lĩnh. Chờ tối hẳn chúng tôi vượt qua cánh đồng
rộng để về K7 (tiểu đoàn7) theo lệnh của ban trinh sát trung đoàn 64. Chúng tôi
có thói quen cũng là bệnh nghề nghiệp khi đi về đâu thì đề nghị ban ts phải
thông báo cho các đ/v đang chốt giữ biết bởi ban ngày còn bắn nhầm chứ chưa nói
đến ban đêm. Cánh đồng rộng chừng 2km nhưng để bảo đảm chính xác hướng và điểm
đến chúng tôi vẫn đi bằng địa bàn. Chừng một giờ sau chúng tôi đã về đến ban chỉ
huy tiểu đoàn 7.
Thấy chúng tôi đến mọi người mừng rỡ bởi phương án tác chiến
của họ đúng kế hoạch, thì ra nhiệm vụ mới là ngay trong đêm dẫn k7 luồn sâu tập
kích địch. Chúng tôi nhờ máy điện thoại gọi về ban ts thông báo đã có mặt đúng
thời gian thì các đ/c chỉ huy nói chuẩn bị cơ động nên đã thu dây,các đại đội đều
được tăng cường thông tin 2w để liên lạc. Cũng như những lần dẫn các đ/v luồn
sâu tập kích, chúng tôi được ban chỉ huy phổ biến kế hoạch thời gian và phương
án chiến đấu, vị trí tập kết của các đại đội. Trách nhiệm chúng tôi là dẫn đường
chính xác và bảo đảm bí mật đúng thời gian, địa điểm. Quãng đường không xa, đo
trên bản đồ gần 8km bởi vậy tiểu đoàn sẽ hành quân lúc 1h sáng khi trăng thượng tuần đã khuất ,hành quân đến vị
trí tập kết và triển khai đội hình xong là vừa sáng thì lệnh phát hỏa tiến công
ngay.
Nhìn trên bản đồ thì đây là một ngôi làng dài bám theo tỉnh
lộ (không phải đường 3 ) phương án hành quân là đi giữa đồng để tránh gặp địch
bởi vậy chúng tôi phải vòng tránh một ngôi làng địch đang kiểm soát. Các đại đội
đều làm công tác chuẩn bị từ buổi chiều nên chỉ cần lệnh xuất phát là lên đường
ngay.
Khi trăng thượng tuần đã lặn, làng xóm chìm trong bóng tối
thì cả tiểu đoàn lên đường. Cánh đồng của họ cây thốt nốt mọc nhiều như cây dừa
ở vùng trung trung bộ ta vậy. Do đồng rộng lại có nhiều cây thốt nốt với lại
đêm tối nên chúng tôi đều thấy khá an tâm bởi cả ta hay địch chẳng ai đóng quân
gữa đồng cả. Trinh sát bao giờ cũng đi đầu bởi nhiệm vụ dẫn đường không có gì
phải bàn cãi, trong tốp đi đầu có một đ/c tiểu đoàn phó quê ở vĩnh phú lính nhập
ngũ 1974. Phụ trách toán trinh sát chúng tôi là một đ/c trung đội trưởng c20
trinh sát trung đoàn 64.
Chúng tôi bám nhau đi trong đêm tối, thỉnh thoảng le lói ánh
sáng dạ quang địa bàn của đ/c chí tiểu
đoàn phó và trung đội trưởng trinh sát kiểm tra góc phương vị chiến sỹ trinh
sát cắt đường. Sau khi vòng tránh ngôi làng đich đang kiểm soát, chúng tôi lại
đi gần như đường thẳng bởi cũng may trên đường đi không có sông hồ. Thỉnh thoảng
có tiếng ho của ai đó vô tình hay tiếng kim loại của vũ khí va nhau làm chúng
tôi giật thót mình. Thương nhất mấy “vị ”hỏa lực, dù ưu tiên khi nhận quân phải
to, khỏe được bổ sung vào trung đội hỏa lực, nhưng do phải mang vác nặng nên thỉnh
thoảng lại ngã “oạch” gượng đứng lên vội vàng đi ngay cho kịp đội hình trông thật
tội. Đang đi có ai đó vỗ vai nói nhỏ:
- Cường lên cắt đường
thay Hải.
Thì ra đ/c trung đội trưởng trinh sát c20 của trung
đoàn thay phiên, nhắc đã đến lượt tôi
lên đi đầu cắt đường. Tôi vượt qua hai người rồi vỗ nhẹ vai Hải ra hiệu đi lui
về sau để đỡ căng thẳng rồi tiến lên phía trước. Tim tôi có đập nhanh hơn một
chút nhưng vẫn biết mình phải làm ngay việc gì. Tôi hiệu chỉnh góc phương vị,
xoay mặt bàn độ cho hai dạ quang trên kim và mặt bàn độ trùng nhau để đi bằng cạnh
địa bàn. Sau lưng mình là một đoàn quân thiện chiến, tôi an tâm hành tiến, tất
cả tâm trí lúc này đều dồn vào đôi mắt và lỗ tai để phát hiện địch trước và bóp
cò nhanh hơn khi cần thiết.
Khoảng ba giờ sáng liên lạc tiểu đoàn vọt lên truyền lệnh tiểu
đoàn trưởng nghỉ 15 phút tại chỗ. Mấy anh em trinh sát chụm đầu xác định vị trí
đứng trên bản đồ qua ánh sáng dạ quang của ba địa bàn chụm lại. Chúng tôi nhận
định đã đi được 2/3 quãng đường.
Mọi người đều nghỉ,
bi đông nước của ai người đó dùng, còn tôi nghỉ bằng cách thả bộ về phía sau. Bộ
đội ta nằm la liệt đủ các tư thế, nhìn đ/c chiến sỹ hỏa lực đeo cả đế cối trên
lưng ngủ mà tôi thấy chạnh lòng và nghĩ rằng
mình còn nhàn chán bởi chỉ mang một khẩu AK báng xếp với ba băng đạn
cùng vài quả us trên dây thì sao so sánh sự vất vả với hai đ/c khênh nòng khẩu
ĐK75 kia.
Lệnh tiếp tục hành quân. Đoàn quân vẫn đi trong bóng đêm giữa
cánh đồng mênh mông. Ở phía đông, sao Hôm đang nhấp nháy. Ừ, đúng rồi ở đó đất
mẹ Việt nam đang chờ tin thắng trận. Nhưng đất mẹ có biết không, trong đoàn
quân hôm nay sẽ có người không trở về bởi đó là qui luật ngiệt nghã của chiến
tranh.
Lúc này đ/c trung đội trưởng
trinh sát trung đoàn đã thay tôi lên đi trước. Tôi thật sự ấn tượng về sự
sòng phẳng xương máu của đ/c này. Cán bộ như thế thường ở đơn vị nào cũng được
anh em tin yêu. Bỗng nhiên đ/c trung đội trưởng ngồi thụp xuống, không cần nói
mọi người tự dãn ra nhanh chóng chiếm vị trí có lợi. Đúng rồi, tôi cũng đã nghe
tiếng động rất rõ như tiếng đào công sự. Một phút hội ý nhanh chóng, đoàn quân
không thể lùi để vòng tránh bởi mờ sáng
là phải nổ súng tấn công theo hiệp đồng của trung đoàn. Đồng chí trung đội trưởng
nói:
- Anh và tôi ta cùng lên xem sao, có hỏa lực hỗ trợ.
Đ/c tiểu đoàn phó dẫn hai đ/c hỏa lực, một đ/c mang trung
liên và một đ/c xạ thủ b40 đến chỗ chúng tôi. Tôi chợt nhớ hồi ở Lò gò Tây ninh
tình huống cũng tương tự.Liền nói nhỏ:
- Cẩn thận không bắn vào chúng tôi.
Cả hai chúng tôi đi khom đến gần mục tiêu nghe rõ tiếng ì ạch
thật kỳ lạ, rồi cả hai cùng bò tiếp cận xác định có địch hay không. Khi khoảng
cách còn 5m thì mới tá hỏa đó là hai con trâu đang đầm nước.
Chúng tôi tiếp tục hành trình. Đ/c tiểu đoàn phó làu bàu: “mất
mẹ nó 30 phút”. Nhưng không bao lâu mục tiêu đã mờ ảo trong sương mai đó là bản
dài đã hiện ra trước mắt. Có ai đó nói: “bốn giờ sáng rồi”.
Tôi nghe tiếng đ/c tiểu đoàn trưởng truyền lệnh qua bộ đàm :
- Từ bây giờ tắt máy thông tin khi có hỏa lực ta bắn mới được
mở máy. Trinh sát dẫn các đại đội vào vị trí tập kết theo kế hoạch.
Toán trinh sát đã bị xé lẻ. Tôi và Hải dẫn c2 về pía nam bản
dài. Đi với c2 còn có đ/c tiểu đoàn phó, còn Huệ và một đ/c trinh sát trung
đoàn dẫn c3 về phía bắc. Đại đội 1 đánh chính diện dưới sự hỗ trợ trực tiếp của
trung đội hỏa lực cùng tiểu đoàn bộ do tiểu đoàn trưởng trực tiếp chỉ huy.
Chờ đội hình đại đội 2 lên chúng tôi đi ngay. Đồng chí trung
đội trưởng trinh sát sợ chúng tôi chưa biết nên còn dặn đưa c2 đến vị trí ám
sát thì quay lại tiểu đoàn bộ, nếu không thì cứ đi cùng c2 cũng được. Lúc này
không cần đi bằng địa bàn nữa bởi mắt thường cũng nhìn thấy mục tiêu cần đến.
Tôi cất địa bàn khỏi lòng thòng ở cổ rồi vượt lên đầu. Khoảng 30 phút sau chúng
tôi đã đưa c2 đến vị trí cần đến. Khẩu cối 60 của đại đội và đại liên được lắp giá ngay sau ụ mối trước mặt.
Các trung đội đều nhanh chóng cơ động theo mệnh lệnh của đạị đội trưởng. Quân
ta đi khom rồi bò áp sát làng nằm im chờ lệnh.
Tôi tựa lưng vào gốc cây thốt nốt xả street. Ở phương đông,
chân trời đã ngả hồng, trời đã sắp sáng, có thể nhìn thấy được người.Với chúng
tôi nhiệm vụ chính đã hoàn thành. Cạnh tôi lúc này vẫn là Hải, lính 78 người Hải
phòng có sống mũi cao đẹp trai và đ/c thông tin 2w đeo cả máy trên lưng, cũng tựa
gốc cây như tôi hình như đang tranh thủ chợp mắt.
Theo thông báo tình hình địch mà chúng tôi được phổ biến tối
qua thì ngôi làng này có thể là sở chỉ huy nhẹ tiền phương cấp trung đoàn hoặc
tiểu đoàn bởi có otô vận tải ra vào hằng ngày. Ở đây cũng không xa tiền duyên
phòng ngự của địch nên không thể là kho tàng được. Tôi chợt nghĩ thông tin trên
có lẽ do có toán trinh sát sư đoàn hay trung đoàn 64 đã vào đây trước chúng tôi
mà họ đã quan sát được cách đây không lâu. Đ/c đại đội trưởng đi đôn đốc kiểm
tra đã về. Còn chúng tôi chờ trận đánh như thế đó.
Do đánh vận động tiến công nên chúng tôi thấy không ai đào
công sự cả. Các trung đội đều áp sát rìa làng cách chúng tôi khoảng 200-300m. Chúng
tôi tiến lên nằm cạnh đại đội trưởng trong một con mương cạn mắt căng lên quan
sát và chờ đợi. Sau lưng không xa là mấy anh “nhọ đít”vũ khí là nồi quân dụng
và mấy chục bao tượng gạo anh em bộ binh mang hộ để xếp chồng. Đ/c chính trị
viên và đại đội phó đã phân công nhau đi cùng với các trung đội.
Chúng tôi quyết định không quay lại tiểu đoàn bộ, bởi đêm
còn tối rất nguy hiểm. Tôi nói nhỏ với Hải:
- Đại đổi trưởng ở
đâu, cứ theo đó nhé.
Trong bóng sáng mờ, đại
đổi trưởng ngoái đầu nói nhỏ liên lạc:
- Xuống bảo y tá có
thương binh thì đưa về bờ mương này. Nuôi quân sẵn sàng vận
chuyển thương binh nặng
theo đội hình đại đội. không đưa về tiểu đoàn vì dê bộ cơ động. Cậu liên lạc chạy
đi.
Trời rạng sáng. Một
buổi sáng yên lặng như bao buổi sáng khác mà sao tôi thấy ngột ngạt căng thẳng,
có lẽ do chờ giờ nổ súng quá lâu. Nhưng cũng phải chờ sáng rõ mặt người mới tiến
công được, nếu không thì người sau bắn người trước chứ chưa nói đến hai đơn vị
bắn nhau. Tôi quay sang Hải, cậu hơi đăm chiêu dù sao hải cũng đã hai, ba lần
đi công tác (bám địch) rồi, chỉ nổ súng hai lần là gan lì ngay thôi mà.
Đ/c đại đội trưởng bỗng đập vai tôi:
- Trinh sát thấy gì cuối làng không ?
- Đụn khói. Có lẽ nó đang nấu ăn sáng. Tôi trả lời.
Đại đội trưởng nhận định:
- Bình thường cấp đại
đội mới tổ chức nấu ăn.
Rồi quay sang đ/c thông tin 2w bảo: “nhớ có tiếng súng nổ là
mở máy ngay, báo cáo về tiểu đoàn c2 đã
vào vị trí tập kết. Tôi ngẫm nghĩ đ/c đại đội trưởng nhận định đúng và lại nghĩ
mệnh lệnh của đ/c tiểu đoàn trưởng lúc nãy thật cao mưu. Nếu mở máy thì phải gọi
nhau truyền đạt nội dung chuẩn bị chiến đấu và như thế sẽ bị đài kỹ thuật của địch
“tóm bắt”.Chẳng khác gì “thưa ông tôi ở bụi này”.
Một loạt AK bỗng rộ
lên tiếp theo các loại tiếng nổ loạn xị, đồng thời ngay sau đó là cối 82 của tiểu
đoàn rót vào làng, có lẽ mục tiêu là mấy cái nhà hai tầng có thể là SCH của địch.Vậy là hướng c1 đã nổ súng. Đại đổi trưởng
nói: thông tin theo tôi.
Chúng tôi cũng vọt theo, đó là kinh ngiệm chiến đấu bởi đã
có rất nhiều câu chuyện trong chiến đấu bộ đội ta thường kể nhau nghe. Như là ở
đ/vị nọ hay đ/vị kia, có mấy vị nhát gan đ/v vận động xung phong, biết đó nhưng
vẫn trốn dưới hầm không lên. Khi lọ mọ ra khỏi công sự thì địch đã phản công
chiếm lại và đi mãi không về. (Hồi sư đoàn ở My mút congpongcham. Trận đánh cao
điểm 105 nghe nói có chiến sỹ trốn dưới hầm đến khi bị xe tăng địch phản kích
nghiền trên hầm mới biết. Cũng có thể đây là chiêu tâm lý. Có gì bạn đọc thông
cảm). Hướng c2 chưa bị địch phát hiện nên tôi thấy rất rõ quân ta vận động vào
rìa làng mà vẫn chưa gặp địch. Từ khu vực nơi c1 đang đánh mạnh có một xe tải của
địch kịp bỏ chạy về hướng Nam theo con đường giữa làng, tức là hướng của đại đội
2 với một tốc độ kinh khủng. Vẫn chưa gặp địch song lính c2 không thể tiến
nhanh vì sợ vào ổ mai phục của địch chờ
sẵn thì thật nguy hiểm cho bộ đội. bởi vậy đội hình chiến đấu chưa ra tới đường
được. Vậy là chiếc xe tải của địch đã thoát trong sự luyến tiếc của nhiều người.
Quyết tâm đánh chặn không cho địch chạy thoát, các đ/c cán bộ ở hướng đôn đốc bộ
đội vào sâu trong làng hết sức khẩn trương khi chưa bị lộ. Phía trung đội1 (có
đ/c đại đội phó đi cùng) đã bị địch phát hiện chặn đánh, tiếng súng bộ binh, hỏa lực loạn xị đạn bay réo trên đầu,
chúng tôi tưởng chừng chỉ đứng dậy là “dính” ngay. Ngay sau đó cả đại đội đều nổ
súng bởi địch đã phát hiện đội hình đánh chặn đường rút lui của chúng. Đại đội
trưởng chính là sở chỉ huy cơ động, đồng chí đi đâu, thông tin,liên lạc, văn
thư theo đó, dĩ nhiên có cả chúng tôi. Tiếp theo đ/c đại đội trưởng gọi to và
chỉ vào đ/c văn thư nói:
- Lệnh cối bắn vào ổ
đại liên đang bắn.
Đ/c văn thư chạy lui về sau. Chỉ mấy phút sau khẩu cối tép
60 cấp tập khoảng mươi trái. Chúng tôi thấy khẩu đại liên im bặt. Hình như đạn
cối do mang vác bộ nên hết sức tiết kiệm mặc dù uy lực và hiệu quả cao. Cả bản
dài lúc này bao trùm khói lửa, trời mới sáng nên những viên đạn cháy, và đạn DK
kéo theo đuôi lửa chi chít đan nhau nhìn thấy rõ. Trong màn khói mờ ảo tôi thấy
một đ/c đang lom khom đi nhanh về sau, tay trái đang đỡ tay phải đi không vững,
lưng vẫn đeo khẩu M79 cùng áo đạn trước ngực. Tôi gọi đ/c y tá và chỉ nói: có
người bị thương!
Đồng chí y tá vụt đứng dậy chạy đến dìu thương binh về sau
và tiến hành băng bó. Không biết lệnh của ai, tôi thấy ba đ/c vác khẩu đại liên
cùng hai hộp đạn chạy ngang qua trước mặt di chuyển hẳn vào làng. Tôi đổi khẩu AK của mình cho đ/c thương binh, khoác
dây đạn cùng khẩu M79 chạy theo đ/c đại đội trưởng cùng tổ đại liên vào hẳn
trong làng. Với lính trinh sát chúng tôi ai cũng biết sử dụng M79 vì biên chế một
tiểu đội (một toán) có một khẩu để khi
luồn sâu bị truy đuổi thì bắn chặn hiệu quả nhất. Địch phản ứng dữ dội bằng cối,
M79, đại liên và có cả tiếng toang toác của 12,8ly nổ hai lần. Tôi định hình, ước
lượng cự ly, bật thước ngắm dựng đứng lên, đế báng súng tựa vào nền bờ mương,
ngắm vào nơi khẩu 12,8 đang khạc lửa, bắn. “phốc, oàng ”quả thứ nhất đúng hướng
nhưng nổ sau mục tiêu khá xa bởi tôi dễ dàng nhận biết mục tiêu qua màn khói bao trùm do khẩu 12,8 bắn nhiều gây
ra. Tôi kéo nòng khẩu M79 chếch lên một tý để rút ngắn cự ly bắn tiếp vài quả
và quan sát. Khói nổ của đạn M79 bốc cao hơn lẫn trong đám khói đầu nòng, nghĩa
là đã trúng khu vực bố trí hỏa lực của địch. Không biết thế nào mà khẩu 12,8
câm hẳn. Có lẽ chúng hiểu đã bị lộ, nếu tiếp tục bắn thì sẽ là mục tiêu cho hỏa
lực của ta tiêu diệt nên di chuyển về sau.
Khoảng 30 phút chiến đấu, hướng b2,b3 đã đẩy địch sang bên
kia đường còn b1 chốt giữ đường không cho địch chạy theo trục đường về phía Nam.
Lúc này địch chống cự yếu ớt bởi tiếng súng hỏa lực ít dần. Chúng tôi lại tiếp
tục theo đ/c đại đội trưởng vận động lên sát mặt đường. Đồng chí tiểu đoàn phó
lệnh trực tiếp Hỏa lực ta (trung liên, đại liên…) bắn mạnh để hỗ trợ các trung đội
vượt đường truy kích. Tôi và Hải lấy băng cá nhân băng bó giúp hai đ/c bị
thương. Lúc này chúng tôi mới có dịp quan sát xung quanh rõ hơn. Không xa là nồi
cơm sáng đang nấu dở còn nguyên trên bếp khói còn phảng phất. Trên mặt đường, một
thằng Miên đang nằm sấp mặt, máu lênh láng có lẽ nó trúng đạn thẳng đang cọ quậy
giãy chết. Tôi chỉ hướng tập trung thương binh, nơi có y tá đang băng bó sơ cứu
để anh em tự đi, rồi cùng Hải vọt lên theo hướng trung đội 2 đang chiến đấu,
nơi đ/c tiểu đoàn phó và đại đội trưởng đang ở chỉ huy đại đội chiến đấu ở đó…
Chúng tôi khom thấp len theo bờ cây hàng rào tìm về nơi chỉ
huy thì thấy cả liên lạc và văn thư chạy lại ngược chiều. Tôi kịp hỏi “đi đâu”
thì đ/c văn thư vừa chạy vừa trả lời “truyền lệnh ”. Những ai qua chiến đấu mới
biết liên lạc hoặc văn thư không phải là không nguy hiểm. Mệnh lệnh trên được
truyền qua thông tin 2w hay đường dây thoại. Để truyền đạt mệnh lệnh xuống các
trung đội, chỉ huy phải xuống giao nhiệm vụ trực tiếp còn nếu không chỉ có hai
anh này phải xuống tận nơi chốt để chuyển tải nội dung mệnh lệnh. Nhìn thấy cần
ăng ten máy thông tin, chúng tôi biết chỉ huy đang ở đó nên lê đến ngay.Tôi thấy
đ/c tiểu đoàn phó đang cầm Pôn của máy
2w báo cáo thoại trực tiếp với tiểu đoàn trưởng giọng như thét để át tiếng súng
đang truy kích của ta. Sau đó đ/c lom khom chạy về sau nơi hai khẩu cối 60 đang
tạm dừng bắn để chỉ huy bắn trực tiếp vào hướng địch đang rút ngoài đồng.
Một viên M79 nổ trên ngọn thốt nốt lá bay tơi tả xuống cả đầu
chúng tôi. Địch phản ứng hỏa lực để trách sự truy kích của ta. Cối 82 của tiểu
đoàn lúc này đã hỗ trợ cho c1, Đạn nổ tạo thành một bức tường lửa ngoài đồng,
khói bụi bay mù mịt. Lúc này lính ta có thể quan sát rõ địch đang rút chạy
ngoài đồng, ẩn hiện sau những cây thốt nốt. Có lẽ không được lệnh tiếp tục truy
kích nên bộ binh ta không ra khỏi làng. lúc này chỉ còn nge tiếng đạn cối của
ta bắn đuổi truy kích, tiếng súng bộ binh thưa dần. Tôi hiểu trận chiến cũng sắp
kết thúc. Thấy bao đạn trên ngực còn khá nhiều đạn, điều chỉnh thước ngắm tầm
xa nhất (45độ ) tôi nện mấy viên chia lửa với khẩu cối của đại đội đang bắn đuổi.
Ở hướng c1, c3 tiếng súng cũng đã lắng. Lúc này chúng tôi mới
nghe được rất rõ tiếng súng ở phía Bắc, cách làng này chừng 4-5 km. Vậy là tiểu
đoàn 8 nơi chiều qua chúng tôi còn ở đó, đang tiến công chính diện theo trục đường.
Ngôi làng đêm qua chúng tôi phải vòng trách cũng đang bị ta tiến công. Tôi thầm
hiểu toàn tiểu đoàn 7 lại phải chuẩn bị cho một trận chiến đấu mới khi đội hình
địch rút chạy qua đây.
Toàn đại đội được lệnh đào công sự chốt giữ hết sức khẩn
trương. Bộ phận nuôi quân nấu cơm ngay chỗ bếp của địch. Chẳng biết kho hậu cần
của địch có gì để bồi dưỡng cho anh em không bởi mọi người đang mệt và đói,
nhưng vẫn phải đào công sự để chuẩn bị chiến đấu. Qua máy bộ đàm chúng tôi biết
các đại đội đã “bắt tay” nhau. Ta đã làm chủ hoàn toàn bản dài. Lúc này chúng
tôi có thể về tiểu đoàn bộ theo ngay đường lộ. Công tác thương binh tử sỹ giải
quyết hết sức khẩn trương. Tôi chỉ thấy một võng cột vo tròn có đòn khênh. Vậy
là vĩnh biệt một đ/c. Còn bị thương vài người không nặng lắm có thể vài tháng
điều trị lại trở về chiến đấu được.
Chúng tôi đi cùng đ/c tiểu đoàn phó theo trục đường lớn để về
D bộ D7. Đi đâu cũng thấy bộ đội ta đang đào công sự, có lẽ đó là mệnh lệnh
chung cho cả tiểu đoàn. Mấy anh em trinh sát sư đoàn, trung đoàn gặp nhau thấy
đầy đủ là vui mừng phấn khởi, tay bắt mặt mừng. Đồng chí trung đổi trưởng trinh
sát cho biết toàn tiểu đoàn hy sinh hai đồng chí. Ta thu được một o tô tải,một
khẩu cối và nhiều súng BB. Còn tiêu diệt thì không ai đếm cả nhưng thường thì
báo cáo số lượng địch bị tiêu diệt theo đầu súng thu hồi được.
Tiếng súng tiến công của tiểu đoàn 8 ngày một gần hơn, cũng
có nghĩa địch đang bị đẩy lùi rất dễ chạy vào trận địa của d7. Tôi nghe đ/c tiểu
đoàn trưởng nói với ai đó là d8 đánh vận động có cả xe thiết giáp tăng cường.
Chỉ khoảng một giờ sau thì không nghe tiếng súng nữa, mọi người hiểu rằng địch
đã phải rút theo đường khác bởi chắc rằng chúng biết phía sau đã bị đánh chặn.
Chúng tôi ăn trưa cùng D bộ 7. Nuôi quân tiểu đoàn cũng
nhanh tay kiếm được nồi canh rau tập tàng thật ngon. Lính chiến có lúc thèm rau
hơn thèm thịt bởi thiếu rau lâu ngày, nhất là cánh trinh sát hầu như phải ăn đồ
khô. Lương khô, gạo sấy, bột canh, thịt hộp là bài ca muôn thuở của lính trinh
sát. Bữa nào được ăn bằng bát thì thấy ngon miệng lắm.
Ăn trưa xong, đ/c tiểu đoàn trưởng báo cho đ/c trung đội trưởng
trinh sát E64 biết, ban trinh sát lệnh cho toàn bộ trinh sát về C20 trung đoàn
để nhận nhiệm vụ mới. Đ/c còn dặn thêm sẽ có xe của vận tải trung đoàn chở TB
LS đưa về tuyến sau ngay nên có thể đi
cùng cho đỡ mệt. Chúng tôi không vội, mắc võng nghỉ ngơi đàng hoàng bởi đêm qua
trọn đêm có ai ngủ được đâu. Cho dù niềm vui thắng trận rất lớn nhưng vẫn không
che được sự mệt mỏi trong chúng tôi.Và giấc ngủ ùa đến.
Khoảng một giờ chiều, trung đổi trưởng đánh thức dậy để về
đ/v. Tử sỹ và thương binh đã được đưa về tập trung ở D8 theo lệnh trung đoàn
nên tiểu đoàn đã cho người khênh ngay từ buổi trưa. Bốn anh em lếnh thếch trở về
dưới ánh nắng ban chiều gay gắt. Mùa này ở miền Bắc đang giữa mùa đông mà đất k
này lại nóng như lửa cháy. Tôi bỗng nhớ gia đình quê hương da diết. Ừ đúng rồi
chỉ còn 10 ngày nữa là tết. Giờ này chắc mẹ và em đang cúi lưng ngoài đồng, dưới
những cơn gió bấc lạnh giá để cấy những búp mạ và chờ đón con về. Bạn bè mỗi đứa
một phương. Trong lớp học chỉ có ba đứa nhập ngũ cùng đơn vị thì một đứa đã về
thiên cổ ở biên giới Lò gò, còn một đứa khi huấn luyện tân binh, đơn vị tổ chức
thi chữ đẹp được chọn đi học cấp tốc lớp đồ bản, nghe nói đang công tác ở phòng
tác chiến quân đoàn, hiện cũng đang ở bên này (người bạn này tên là Lâm. Chức
vụ Thượng tá nay đã nghỉ hưu. Quê ở xã Phúc thọ- huyện nghi lộc –NA. Đ/v trước
lúc nghỉ hưu phòng hậu cần F337- QK4)
Còn mình thì chưa biết số phận sẽ ra sao, bởi vào đại đội 20F có tám anh
em cùng quê thì hy sinh hai, bị thương ba rồi.
Vừa bước vừa Miên man với suy nghĩ của mình thì đã vào đến đầu
làng. Gặp ngay lính chốt của anh em C5D8 đang đào công sự, vẫn biết quân của ta
rồi nhưng anh em vẫn hỏi chúng tôi đ/v nào, chúng tôi trả lời “trinh sát sư
đoàn”. Đến tiểu đoàn bộ tiểu đoàn 8, các đ/c cán bộ ai cũng ra bắt tay hồ hởi.
Chỉ mới chia tay sớm qua mà cứ tưởng đã lâu rồi. Chỉ nhìn thái độ của các anh,
chúng tôi biết là D8 đánh thắng lợi lớn. Các đ/c cho biết tiểu đoàn nổ súng
chưa bao lâu thì ba xe tăng của ta từ phía sau bất ngờ xuất hiện, vừa chạy vừa
bắn, bộ binh theo sau, địch bỏ chạy như vịt đầy đồng. Có lẽ địch đã biết mờ
sáng nay, phía sau lưng chúng đã bị ta tấn công đánh chiếm nên rất hoang mang.
Nếu bọn này rút chạy theo trục đường về đụng D7 đang trấn giữ ở bản dài thì có
lẽ xóa phiên hiệu luôn.
Chúng tôi không ở được lâu bởi phải về trung đoàn cho kịp
trước tối. Trung đoàn ở làng ven đường 3. Đi theo đường xe chạy mất khoảng 13
km, nếu cắt đường đi chỉ 8km nhưng chúng tôi bàn nhau cứ đường lớn mà đi cho
tuyệt đối an toàn bởi còn mìn, lựu đạn gài trước chốt của địch cũng như của ta
chưa gỡ.
Về đến C20 F64 lúc hoàng hôn đã buông xuống. Đồng chí Huấn đại
đội trưởng người Quảng trị là bạn thân học cùng khóa trinh sát lục quân 1 với đại
đội trưởng C20F Lê thanh Trung của chúng tôi. Gặp nói ngay: Ngày mai các đ/c về
đ/v sớm để cùng đại đội di chuyển nơi ở mới. Lần tăng cường này các đ/c hoàn
thành tốt nhiệm vụ.
Bốn anh em trinh sát sư đoàn cũng kịp đi dạo một vòng nơi ở
của đại đội 20 E64 tìm đồng hương. Ai cũng tìm được bạn, cười nói rôm rả, cùng
ngồi đung đưa trên võng vui vẻ ôn chuyện quê nhà. Sáng hôm sau tổ trinh sát
chúng tôi đã về đến đơn vị để nhận nhiệm vụ tiếp theo.
Đón tết
Hôm sau chúng tôi về đơn vị. Công việc đầu tiên là tắm giặt
và giải phóng đôi chân sau một tuần đi dày vải đã khẳm mùi ô uế. Đã trở thành
thói quen mỗi khi đi công tác (bám địch) thì ba lô được gửi lại cho những đ/c
chưa đi, cứ vậy dồn cho đến đ/c cuối cùng, nếu đi công tác nốt thì đưa về đại đội
để lỡ khi di chuyển thì có đồng đội mang giùm. Trong đại đội chỉ có hai người
mang theo sách phổ thông để ôn luyện, trong đó có tôi. Rồi còn sổ tay, vật lưu
niệm…nên ba lô thường nặng, căng hơn ba lô đồng đội. Cũng nhờ vậy mà khi rảnh rỗi
mới có việc để đốt thời gian, nếu không thì cũng xách súng đi chơi các trung đội
khác hay đánh bài tiến lên ngày này qua ngày khác cho đến khi cán bộ gọi “điểm
danh” thì lên đường…
Ngày hôm sau đại đội hành quân bằng ô tô tải. Cả đại đội khi
nào cũng chỉ đi một xe bởi quân số thường chỉ 2/3 hoặc một nửa so với biên chế
do bởi đi công tác, hay nằm viện hoặc do đi tăng cường cho các trung đoàn. Nơi ở
mới cách nơi ở cũ theo trục đường khoảng 15km. Khi xe chạy qua vị trí E bộ 64
đóng quân, thì chúng tôi đã thấy trung
đoàn đã di chuyển. Chứng tỏ các đơn vị bộ binh của ta đã phát triển rất nhanh.
Ở nơi đóng quân mới này cho đến ngày 28 tết. So với mọi lần
thì ở như vậy khá dài. Nơi trú quân này rất kém, không đáp ứng được nguyên tắc
đóng quân canh phòng. Nguồn nước thiếu trầm trọng. Cây cối để ngụy trang quá
thưa nên cũng không thể mắc võng được, nắng nóng nhiều lúc phải chen nhau dưới
bóng cây. Nếu bị tập kích thì chỉ làm bia đỡ đạn. Tôi đưa thắc mắc này nói với
đ/c chính trị viên thì đ/c cười nói: “cả sư đoàn bộ đều vậy, ta đang đánh vào một
thị tứ nhỏ để vào đấy đón tết cho đàng hoàng”.
Sáng 30 tết năm 1979, chúng tôi hành quân bộ vài km thì vào
thị tứ. Ba anh em không nằm võng mà nằm trong
ngôi nhà hoang không có mái. Mọi người đều mang chuyện “quê tôi” ra kể. Câu chuyện rôm rả nhất là cúng 30 tết. Có
vùng quê làm buổi trưa, có nơi làm buổi chiều vậy mà cãi nhau inh ỏi. Chiều 30
tết, anh Chước quê ở Hà Bắc (ra Bắc tôi
đã đến chơi. Nhà cách TX Bắc ninh không xa. Làng bên kia sông Cầu) thủ một
chai rượu Rum lùn nguyên đai, khệnh khạng bước kèm theo nụ cười kiêu ngạo đến
chỗ chúng tôi. Không còn gì vui mừng hơn được nữa, bởi trong hoàn cảnh như thế
này lại có rượu uống, mà rượu ngoại thật 100% thì cả tiểu đội như là được lạc
vào cõi tiên. Bởi vậy, đây là chén rượu ngon nhất cho nên phải nhớ đời. Chả là
khi đ/v đi qua Phnong Penh, tranh thủ thời gian, lính ta đi tìm “đồ cổ” thì vớ
được kho rượu. Thực ra trước đây không lâu, chúng tôi đã được uống loại rượu
này bởi tôi cũng được “chia” một chai, nhưng tiểu đội tôi đã giải quyết nhanh
chóng chứ có ai nghĩ được chuyện cất dành để đón tết đâu.
Một cái tết không có thịt lợn dưa hành, không bánh chưng. Một
cái tết chiến trường cả đời không bao giờ quên. Một cái tết mà để tết nào cũng
phải nhớ đến. Ôi giá như có điều kiện và thời gian để đến quê anh Hà bắc, uống
rượu làng Vân để rồi cùng hàn huyên về câu chuyện chai rượu tết này. Tất nhiên
trước đó chúng tôi đã được đại đội thông báo, sẽ được “ăn tết” sau khoảng vài
ngày nữa bởi xe hậu cần ở VN chưa sang.
Đêm 30 tết trên đường 3. Mấy anh em mỗi đứa một quê, nằm
trên tấm tăng được trải trên nền gạch trong căn nhà hoang tốc mái. Nằm bên
nhau không ai chuyện trò, nhưng tôi biết
không ai ngủ bởi mọi người đang dành riêng cho mình tình cảm hướng về quê
hương, nơi có mẹ già đang mòn mỏi trông ngóng đứa con xa. Nửa đêm, tiếng súng
AK bắn loạn xị cả bốn hướng. Chúng tôi hiểu giờ giao thừa đã đến. Dù đã có lệnh
không được dùng súng bắn đón giao thừa nhưng anh em gác đêm có lẽ không kìm được
cảm xúc nên làm vài loạt cho đỡ buồn,chắc hẳn chỉ huy đơn vị cũng cảm thông.
Khoảng một tuần sau xe chở thịt lợn và hàng tết đã về. Lợn
đã được thịt chẻ đôi ướp đá. Xe bắt buộc
phải chạy ngay nên vào chiến trường mà đá lạnh vẫn chưa tan hết. Ở chiến trường
đ/v tôi cất dành thịt bằng hai hình thức thủ công. Muốn cất lâu dài thì phải vùi thịt trong muối. Bởi vậy, có những
miếng thịt vùi lâu quá khi ăn mặt chát lưỡi. Còn hết muối thì vùi trong bao gạo,
cũng cất được vài ngày mà không bị hỏng.
Bánh chưng vẫn được tiêu chuẩn một người một cái. Chúng tôi
nghe “chính ủy ”nói bánh này do bà con chợ An đông TP HCM góp tặng chiến trường.
Thật tình nghĩa giữa hậu phương và tiền tuyến. Làm an lòng và vơi đi bao nỗi nhớ
quê hương. Vâng, chúng tôi những người lính sư đoàn 320 qđ3 đón tết 1979 ở chiến
trường như vậy đó.
Sư đoàn bộ bị bao
vây.
Sau tết 1979 cả sư đoàn chúng tôi tiếp tục đánh phát triển
theo trục đường 3 về hướng nam. Cuộc chiến càng đi xa Phnong Penh càng khốc liệt
bởi địch lúc này đã cũng cố được lực lượng, tổ chức nhiều trận đánh lớn gây cho
ta nhiều thiệt hại.
Khoảng sau tết 20 ngày, sư đoàn bộ chúng tôi dâng lên và
đóng tại một vùng đồng bằng có mấy phum liền nhau dọc theo đường 3. Ở phía tây
cách sư đoàn bộ khoảng 4km, có một dãy núi và một con đường đất cấp phối chạy
vào sư đoàn bộ. khu vực này tiểu đoàn 4 trung đoàn 52 (tiếu đoàn của
vaphothotu) đang trấn giữ. Đại đội 20 chúng tôi đóng ở phía nam sư bộ. đối diện
bên kia đường 3 là đại đội pháo nòng dài Đ74 của lữ 40 quân đoàn tăng cường.
Xung quanh sư bộ là các đơn vị trực thuộc (tiểu đoàn công binh, đại đội vệ
binh, tiểu đoàn thông tin vv…) đóng quân.
Đoạn đường này khá gần địch nên xe vận tải của ta thường
xuyên bị phục. Một bữa vào buổi tối chúng tôi lên mặt đường 3 ngồi chơi hóng
mát thì một xe tải của ta chạy qua, vừa ra khỏi làng, cách chúng tôi khoảng
200m thì bị địch phục B40. Xe cháy nhưng những người trên xe không ai việc gì.
Rất may bọn này cũng nhát gan bởi biết bộ đội ta ở trong làng sẽ ra ứng cứu nên
không dám ở lâu, bắn trộm xong là bỏ chạy.
Trở về câu chuyện đánh địch giải vây. Hôm ấy khoảng 6 giờ
sáng. Đại đội đang ăn sáng thì tiếng súng rộ lên, càng ngày càng gần. Đại đội
trưởng Lê thanh Trung chạy xuống các trung đội hô: Tất cả ra mặt đường 3 chuẩn
bị chiến đấu.
Chúng tôi xách súng chạy theo, lấy mặt đường làm công sự. Với
một vị trí thế này địch sẽ bất lợi bởi trước mặt là cánh đồng mênh mông. Khoảng
30 phút sau chúng tôi phát hiện rất nhiều người chạy về phía chúng tôi. Đại đội
trưởng ra mệnh lệnh:
- Có lệnh mới được nổ
súng. Đây có thể quân ta.
Chúng tôi hồi hộp chờ đợi. Qua sắc phục quân trang chúng tôi
phát hiện đúng là bộ đội ta. Lính ta chạy tràn qua đại đội pháo rồi vào trận địa
của đại đội tôi, mặt anh nào cũng nhợt nhạt nói không ra lời, có lẽ do chạy dài
mấy km liền.
Đạn của địch lúc này đã bắn réo ngay trên đầu. Đại đội trưởng
Cầm ngang khẩu AK chạy lên mặt đường quát tốp chiến sỹ đang bỏ chạy: Tất cả dừng
lại để chiến đấu. Đồng chí nào bỏ chạy qua qua đường chúng tôi bắn!
Nhận thấy thái độ kiên quyết của đồng chí đại đội trưởng và
nhìn chúng tôi nằm dọc theo lề đường chuẩn bị chiến đấu với thái độ bình tĩnh
các đồng chí liền quay lại trận địa pháo
để cùng chiến đấu. Trong số anh em bỏ chạy, tôi thấy có cả lính đội mũ sắt, số
này sẽ là lính của đại đội pháo. Không bao lâu chúng tôi thấy một số cán bộ tiểu
đoàn 4 bất chấp nguy hiểm phải chạy đi tìm lính. Chúng tôi chỉ một số vị trí
anh em d4 đang ẩn nấp để họ đưa về.
Bỗng nghe phía sau lưng có tiếng nói to. Tôi quay lại thấy đồng
chí sư đoàn trưởng Khuất Duy Tiến và một đồng chí đầu cắt cua má bị nám đen một
bên đang lom khom quan sát (sau này mới
biết đó là thủ trưởng Kỷ, lữ đoàn trưởng thiết giáp 273 QĐ3 đi tăng cường hướng
F320. Ra bắc ông lên tư lệnh binh chủng tăng – thiết giáp). Một lát sau có
một chiếc xe tăng từ hướng sư đoàn bộ chạy đến rồi ẩn sát mặt đường nơi hai thủ
trưởng vừa đứng. Vị trí xe đậu rất thấp, chỉ còn thấy tháp khẩu pháo và đại
liên nhô lên. Chúng tôi mới biết các thủ trưởng ra thị sát và trực tiếp điều động
từng vị trí của các xe tăng để phát huy sức mạnh hỏa lực hiểu quả nhất. Bốn ngả
đường vào sư đoàn bộ lúc này đều có xe tăng trấn giữ tạo thành bốn lô cốt chiến đấu không cho địch vào.
Có tiếng động cơ xe bánh xích từ hướng địch. Chúng tôi quan
sát thấy rõ hai chiếc xe tăng vừa chạy vừa bắn vào nơi trú quân của tiểu đoàn
thông tin. Tôi thầm nghĩ thật nguy hiểm.
Bởi lính thông tin D18 anh em chúng tôi thường
gọi trêu là “lính cậu”, do nghiệp vụ thường xuyên ở tuyến sau nên trải qua chiến đấu ít. Ở hướng tiểu đoàn
thông tin, khói lửa cháy nghi ngút bốc cao. Sau này chúng tôi mới biết đám cháy
đó là do xe thông tin của tiểu đoàn bị bắn cháy.
Địch sau khi bị đánh chặn lại ở hướng chủ yếu, địch chuyển
sang tiến công vào hướng Nam tức là vị trí của đại đội chúng tôi. Chúng lom
khom chạy theo bờ mương và lần theo những cây thốt nốt tiến vào. Cả đại đội đồng
loạt nổ súng. Đồng chí đại đội phó nhắc nhở anh em bắn phải điểm xạ để tiết kiệm
đạn, phòng cuộc chiến đấu kéo dài. Quan sát thấy một thằng đang quỳ bắn sau gốc thốt nốt, tôi ép nòng súng vào gốc
cây xoài điểm xạ. Không trúng nhưng nó hoảng sợ chạy lùi lại. Tôi tiếp tục quan
sát thì một viên đạn thẳng bắn toác cả mảng vỏ cây xoài rơi xuống mũ của tôi.
Chẳng biết vô tình hay bị thằng nào phát hiện rồi bắn tỉa, tôi nhanh chóng di chuyển sang vị trí khác.
Xe tăng của địch rú ga liên tục, hình như để làm lung lạc ý
chí chiến đấu của bộ đội ta. Hỏa lực trên xe tăng bắn xối xả, nhưng không hiểu
sao nó không dám dẫn bộ binh tiến vào. Có lẽ chúng sợ bị bắn cháy. Tôi thấy một
tổ chiến đấu của đại đội vệ binh 23 mang B40 chạy vượt qua đường, ngay trước mặt.
Thấy có người quen, liền hỏi: Bây đi mô đó ?
Ấn vừa chạy vừa trả lời: Đi phục diệt tăng.
Ân người Bình Lục tỉnh Hà Nam Ninh cũ. Chúng tôi thường cùng
đi bảo vệ thủ trưởng sư đoàn nên quen nhau. Sau này ra bắc, Ân cùng đi học sỹ
quan với tôi.
Gần trưa thì tiếng súng sau lưng tôi rộ lên. Vậy là chúng đã
vòng vượt đường 3, đánh tập hậu vào vị trí đóng quân của đại đội vệ binh. Khẩu
cối của đại đội vệ binh được giá bắn gần chỗ chúng tôi nằm, nhưng hướng bắn thì
ngoảnh phía sau. Lúc này, phía trước phía sau đều có địch. Chúng tôi thầm hiểu
vậy là sư đoàn bộ bị bao vây. Xe tăng địch cứ chạy đi chạy lại ngoài đồng, bắn
vào làng. Xe tăng ta thì cứ đứng tại chỗ nhã đạn. Tôi biết chính xác ta có năm
xe tăng vì trước đó một hôm chúng tôi lên ban TS thấy đậu dọc đường gần nơi ở của
tư lệnh sư đoàn.
Phía bên kia đường, khẩu pháo Đ74 nòng dài đã được hạ thấp
nòng để bắn thẳng. Nhưng chỉ bắn hai phát, không biết nổ ở đâu. Có lẽ để hù dọa
mấy cái xe tăng địch đang chạy loanh quanh ngoài đồng. Hướng của chúng tôi do
trống trải nên địch không đánh mạnh như các hướng khác. Tiếng súng nổ ran cả bốn
hướng. Phía sau lưng khu vực tác chiến của đại đội 23 vệ binh diễn biến hết sức
căng thẳng. Khẩu cối 82 gần đại đội tôi liên tục nhả đạn chi viện cho các trung
đội vệ binh đang bám trụ. Tại vị trí chúng tôi nhìn ra phía sau, thấy rõ cả ta
và địch thấp thoáng trong khói bụi, chẳng khác nào xem phim chiến đấu trước
đây. Nhìn về ngôi nhà hai tầng khu vực tư lệnh ở, chúng tôi thấy có mấy đồng
chí (chắc là của C23) đang giá khẩu 12,7 ly, sau đó bắn xối xả về hướng địch.
Nhưng chẳng được bao lâu, một quả ĐKZ của địch làm thủng một
mảng ngay tầng hai khói bụi mù mịt. Mấy chiến sỹ bỏ súng chạy xuống. Thật là
may bởi mục tiêu quá lộ. Nếu nó bắn bằng thước ngắm quang học và người bắn có
kinh ngiệm thì chắc là đi cả.
Khoảng sáu giờ chiều tiếng súng mới lặng dần. Lúc này chúng
tôi nghe tiếng xe tăng chạy trên đường 3 từ hướng Nam lên. Đại đội thông báo
đây là xe tăng và bộ binh của ta về cứu viện, lúc này đã gần tối địch buộc phải
rút quân. Xe tăng và bộ binh của ta đi kèm chạy qua trước mũi súng của chúng
tôi. Hỏi một số chiến sỹ chúng tôi biết
đây là một đại đội của tiểu đoàn 8 E64.
Vậy là một ngày tròn nổ súng (6h sáng đến 6h tối). Địch đã
không thể đưa đội hình hành quân cơ giới vượt qua được. Ngày hôm sau đài kỹ thuật
của ta thông báo, lực lượng địch là một trung đoàn bộ binh có xe tăng iểm trợ,
đang di chuyển về lại đội hình sư đoàn do bị ta đánh chia cắt trong chiến dịch
giải phóng. Trên đường hành quân di chuyển thì đụng tiểu đoàn 4, địch quá mạnh
nên tiểu đoàn phải rút lui. Đội hình của chúng tiếp tục tấn công thì thọc vào
đúng sư đoàn bộ. Quả là vận không may cho trung đoàn này. (tiểu đội trinh sát kỹ
thuật này biên chế trong đại đội 20 chúng tôi. Các đ/c này nghe và nói tiếng K
rất thành thạo. Hằng ngày chỉ nghe “trộm” đài thông tin của địch. Công việc và
điều động trực thuộc ban trinh sát).
Trận đánh thật là đúng tầm “kỳ phùng địch thủ gặp nhau”. Xét
về lực lượng ta và địch ngang nhau. Địch có một trung đoàn đủ quân. Có xe tăng
yểm trợ. Ta có hai tiểu đoàn (công binh, thông tin) hai đại đội trực thuộc
(trinh sát, vệ binh) và một tiểu đoàn đã mất sức chiến đấu, cùng 5 xe tăng trấn
giữ các nghả đường vào sư đoàn bộ.
Sẽ còn nhiều điều phải bàn khi mổ xẻ phân tích chiến thuật
trận đánh bất đắc dĩ này. Nhưng dù sao ta cũng đã làm thất bại âm mưu tập trung
lực lượng để tạo thế của địch.
Buổi tối chúng tôi ăn cơm, miệng đắng ngét vì khói thuốc súng. Không ai bị “cắt cơm” cả, vậy
là vui rồi. Anh em chúng tôi thường nói đùa như vậy thay cho ngôn ngữ bị hy
sinh. Một ngày không bình yên. Nhưng đó là việc bình thường của chiến tranh.
Năm 2006 tôi có dịp vào Gia lai thăm lại sư đoàn. Anh bạn
cùng quê cùng nhập nghũ với tôi lúc này đã là chính ủy sư đoàn (đại tá Nguyễn Xuân
Trương) đưa tôi đi tham quan phòng truyền thống. Và tôi tìm đọc cuốn Lịch sử sư
đoàn đồng bằng. Cuốn sách đã dành một trang nói về trận đánh giữa vòng vây này.
Bài viết này đưa lên khi năm mới đã cận kề, Chỉ còn một giờ
nữa. Nhân đầu năm mới đuccuong chúc các CCB, các thành viên VMH mạnh khỏe hạnh
phúc. Bài viết này duccuong coi đây là móm quà đầu năm gửi tặng các đồng đội.
Sau trận đánh giải vây, sư đoàn bộ tiếp tục di chuyển theo
đường 3. Lần này sư đoàn bộ đóng quân trong một ngôi làng hoang không có dấu vết
tồn tại sinh hoạt cuộc sống ở đây. Cỏ mọc lan cả trên lối đi. Có lẽ dân ở đây
đã bị đưa đi hành quyết hay tập trung trong công xã theo mô hình chế độ dân loại
một bấy giờ.
Đại đôi 20 chúng tôi trú quân trong xóm nhỏ không dân. Tôi bị
ốm nặng nên chính trị viên cho ngủ sát đường 3 trông coi mấy bao gạo. Không hiểu
sao mà cả làng không có lấy một giếng nước. Chúng tôi phải dùng nước ăn uống
trong một cái ao bèo mọc dày, nên mỗi khi lấy nước phải đẩy bèo mới múc nước được.
Nước bẩn đến mức nấu cơm chín thì cơm ngả màu vàng, cũng không biết có sinh vật
chết dưới đó không. Nghĩ lại thấy ghê người.
Ở đây cách ngã tư Tram ka khoảng 30km (đường từ thị xã Ta
keo đi vào vùng núi đất cắt đường 3 tại Tram ka). Một buổi chiều tôi thấy tiểu
đội trưởng Toán cùng hai đồng chí đến chỗ tôi nằm chờ xe ô tô để đi công tác.
Chúng tôi biết là đi bảo vệ thủ trưởng về quân khu 9 ở thị xã Ta keo để họp. Một
chốc thì xe đến. Đây là loại xe Zép của Mỹ rất thông dụng trong chiến trường. Chỉ
huy đơn vị nào cũng đi xe này bởi gầm xe thấp có thành để ngồi gác chân ra
ngoài. Nếu bị địch phục thì ngồi trên xe vẫn bắn trả dẽ dàng. Trên xe gồm có thủ
trưởng Chung phó tư lệnh sư đoàn và hai đồng chí sỹ quan tham mưu. Lực lượng đi
bảo vệ gồm có hai đồng chí vệ binh và ba đồng chí trnh sát.
Xe chạy đến ngã tư, do trời lúc này đã nhá nhem tối nên
không phát hiện được.Vì vậy đã chạy thẳng lên khoảng 10km thì gặp mấy chiến sỹ
bên đường của ta vẫy tay. Mọi người cứ tưởng xin đi nhờ xe nên không dừng lại.
Không ai biết đó là chốt cuối cùng của bộ binh ta. Xe chạy khoảng 1km trong
vùng địch mà không ai hay biết. Đột nhiên một thằng Miên nhảy thẳng ra vệ đường
bắn chính diện vào xe. Tiếp đó là các loại súng khác bắn xối xả. Xe thắng gấp.
Mọi người nhảy xuống nằm bắn trả ngạy. Mọi người không thấy thủ trưởng Chung
đâu, nhìn lên xe vẫn thấy thủ trưởng ngồi bên gế phụ, người ngả về sau. Lúc này
xe trở thành mục tiêu chính nên việc lên cứu cực kỳ nguy hiểm. Dù vậy, đồng chí
công vụ sư đoàn vẫn bất chấp hiểm nguy lao lên ôm thủ trưởng xuống. Nhưng thủ
trưởng đã hy sinh bởi một viên đạn thẳng ngay loạt đầu tiên của thằng Miên gan
lỳ đó.
Những loạt đạn phủ đầu của địch,đã làm ta bị thương mất ba đồng
chí. Tuy bị thương nhưng các đồng chí vẫn phải chiến đấu bởi lực lượng quá
chênh lệch. Dưới sự chỉ huy chiến đấu của đồng chí Dảnh trợ lý ban trinh sát và
một đồng chí trợ lý tác chiến ta chống trả mãnh liệt nên địch không ra đốt xe
hoặc truy bắt quân ta được.
Anh em chống trả khoảng 30 phút, lúc này đạn đã gần hết. Thật
may lính đi theo bảo vệ tất cả đều đã trải qua chiến đấu nên ta đánh trả rất
ngoan cường. (ở đơn vị tôi vệ binh đa số là những đ/c chiến đấu bị thương ra viện về bổ sung vào). Lúc này ở chốt bộ
binh cuối cùng điện thoại báo trung đoàn có một xe ta chạy lạc vào vùng địch.
Trung đoàn lệnh cho đơn vị chốt gần nhất nhanh chóng vận động cứu viện. Một đại
đội của tiểu đoàn 7 đã vận động theo trục đường đến chi viện và đánh bật địch
ra khỏi chốt .Ta làm chủ trận địa.
Ngay khi đó ta điều xe ba cầu đến đưa xác thủ trưởng Chung
cùng anh em bị thương về. Đồng thời kéo theo xe Zép. Xe dừng lại cho một đồng
chí trinh sát xuống về đơn vị ngay chỗ tôi nằm. Cả đại đội nghe tin đều đổ ra mặt
đường để nhìn thủ trưởng Chung lần cuối và động viên hai đồng chí trinh sát bị
thương. Một viên đạn thẳng bắn thủng một lỗ giữa kính của gế chỉ huy. Có lẽ
viên đạn này đã cướp đi sinh mạng của thủ trưởng sư đoàn .
Anh Toán bị thương do mảnh M79 làm mù cả hai mắt. Còn Hường bạn tôi (ảnh dưới) thì bị thương nhẹ
ở cánh tay. Sau hơn một tháng điều trị đã trở về đơn vị tiếp tục chiến đấu. Cũng
tại ở đây, tôi đã gặp lại người đẹp mà tôi đã nhìn thấy ở bến phà phreechs đam
hôm vượt sông tông le sáp.
Đó là vào một buổi trưa. Trung đội 3 phát hiện rất đông người
kéo cờ trắng (vải trắng) vừa đi vừa phất ra hiệu xin đừng bắn. Đơn vị tôi ra chặn
lại thì ra đó là dân chạy lánh nạn chiến tranh trở về làng. Lệnh của sư đoàn giữ
lại để chờ ban địch vận đến để làm công tác dân vận và đọc lời kêu gọi của mặt
trận dân tộc cứu quốc CPC cho nhân dân nghe. Chúng tôi vừa đi bảo vệ vừa xem
nhân dân của họ thế nào. Thật tội, nhìn cụ già em nhỏ, ăn uống thiếu thốn rồi bệnh
tật làm cho mọi người đều khắc khổ. Vẫn là cô gái CPC cổ ba ngấn đó đang cùng
đi với các đồng chí trong ban địch vận. Một cái bục lấy trong nhà dân ra được
kê cao. Cô gái cầm loa tay đọc lời kêu gọi của mặt trận cứu nước CPC. Giọng cô
sang sảng mạch lạc, rõ ràng. Không còn thấy những giọt nước mắt của cô như hôm
vượt sông tông lê sáp ngày nào, mà thay đó, cô như là một vị chỉ huy đang diễn
thuyết trước nhân dân. Làn da trắng ửng hồng có lẽ do cô dưới ánh nắng quá
lâu. Hôm đó cô vẫn đội mũ giải phóng. Mặc
quần áo như nữ quân nhân của ta chỉ khác không
đeo quân hàm. Cô đẹp một cách thật ấn tượng. Bộ đội ta ai cũng trầm trồ
khen ngợi. Chỉ gặp có hai lần nhưng hình ảnh cô gái CPC này tôi không bao giờ
quên. Chắc rằng các đồng chí trong ban địch vận rất rõ lai lịch của cô gái này.
Vài ngày sau chúng tôi lại tiếp tục hành quân đến ngã tư
tram ka rồi rẽ trái vào vùng núi Tượng lăng. (lính chiến đấu quân khu 9 gọi là
núi đất). Chiến dịch giải tỏa đường 3 kết thúc. Sư đoàn 320 lại thực hiện nhiệm
vụ mới cùng các sư đoàn 339, sư 330 đánh vào căn cứ địch ở vùng núi tỉnh giới của
hai tỉnh Ta keo và Căm pốt.
Đây là ảnh đồng chí Hường (người mặc áo lính xanh Tô châu)
trinh sát sư đoàn 320A ở mặt trận tây Nam năm 1978 -1979. Quê ở xóm chợ chùa xã
Nam anh Huyện Nam đàn tỉnh Nghệ an. Là người tham gia đi bảo vệ đồng chí Chung
phó tư lệnh sư đoàn trong trận đánh tôi kể lại trên. Người đứng bên phải là bạn
chiến đấu Đức Cường. Chủ topick đời quân ngũ.
Đánh địch ở vùng núi
tượng lăng
Cả đội hình sư đoàn bộ chúng tôi lại tiếp tục hành quân. Bấy
giờ sư đoàn không đánh theo trục đường 3 nữa mà đánh về hướng Tây theo trục đường
từ thị xã Ta keo đi vào núi tượng lăng và vùng núi lính ta thường gọi là “đầu lâu
xương chéo”. Đây là tỉnh giới Căm pốt và Ta
keo. Do có ba đỉnh chụm lại nên trên bản đồ các đường bình độ để lại
hình thù giống như đầu lâu nên cả sư đoàn đều gọi như vậy. Con đường đất vào
mùa khô bụi bay mù mịt. Xe nối đuôi nhau chạy tạo nên một vệt bụi dày trên mặt
đất. Lần này hành quân khá xa nên chúng tôi được vận chuyển bằng o tô. Đến một
ngã ba có đường rẽ vào núi tượng lăng thì chúng tôi xuống xe, hành quân bộ
vào. Nhìn mặt nhau mà buồn cười bởi đất
bụi và mồ hôi đã vẽ trên khuôn mặt những hình thù quái dị. Tôi vẫn ốm chưa khỏi
nên vẫn được nằm sát đường trông hai bao gạo và mấy thùng lương khô. Chỗ tôi nằm
là một gốc cây xoài cổ thụ. Cách không xa là tiểu đội chuyên “nghe trộm” đài địch.
Tức là tiểu đội trinh sát kỹ thuật. Tiểu đội này thường bố trí trong đội hình đại
đội nhưng phải phải ở gần đường, thuận lợi đi lại. Bởi hàng ngày phải lên ban
trinh sát báo cáo những thông tin thu được. Có lúc buồn, tôi thường lui tới mấy
anh em tiểu đội này chơi, rồi đeo cáp,
nghe tiếng lính Pon pốt gọi nhau trên
máy. Sau đó còn “bắt” bạn bè dịch cho nghe.
Buổi tối đầu tiên.
Tôi chưa ngủ nhưng đã mắc màn chui vào để tránh muỗi cắn. Bình thường
thì ngủ gần anh em trong tiểu đội nói chuyện tếu táo cho đỡ buồn. Nhưng khi phải
ngủ một mình thì hay nhớ gia đình, bạn bè, người thân. Tôi đang Miên man với tuổi
học trò của mình thì có mấy đồng chí trong đại đội đến rỉ tai: Trung đội 3 (anh
Thạch trung đội trưởng ) bắt được mấy con gà hoang đang nấu cháo. Có đi không ?
Thời đó chín điều làm nghĩa vụ quốc tế thực hiện rất ngiêm.
Nhưng rồi vì ăn uống thiếu thốn lâu ngày, nên đành “phá lệ” để có sức chiến đấu
lâu dài. Tất nhiên chúng tôi phải dấu
không cho đại đội biết. Tôi cũng đi theo. Cả trung đội hì hục quanh nồi
20 quân dụng. Có lẽ đây là bát cháo nhớ đời vì từ ngày nhập ngũ đến giờ có khi
nào được ăn cháo đâu. Để ăn bát cháo này, chúng tôi phải đi và về qua cánh đồng
nhỏ trong đêm. Tất nhiên đó là khu vực đóng quân chúng tôi quản lý. Còn đi ra
ngoài vào buổi đêm thì phải bắn súng theo qui định hỏi – đáp. (ví dụ bắn hai
viên xin đi thì bên nhận tín hiệu và đồng ý thì bắn ba viên = năm viên. Một
tháng thay đổi quy ước một lần).
Ở đây là vùng trung du, vậy mà không hiểu sao tôi lại bị sốt
rét. Hồi ở rừng cao su muỗi nhiều vô kể thì không bị sốt rét. Một hôm cơn sốt
rét ập đến. Lạnh run cầm cập không chịu được, tôi trùm võng ra ngoài nắng ngồi.
Nắng trưa ở k thì anh em biết đấy, nắng gắt như mùa hè của miền Bắc. Đến khi
tôi không chịu được nữa thì vào bóng râm nằm và lịm đi. Khi tỉnh dậy tôi cố lê
bước đến chỗ tiểu đội trinh sát kỹ thuật nhờ điện thoại vào đơn vị biết tôi bị
sốt nặng. Không lâu sau đồng chí quân y đơn vị đến kẹp nhiệt độ. Tôi sốt 41 độ!.
Đúng là “ngoài nóng trong rét”. Nếu quân y không ra kịp thì có lẽ tôi sẽ chết
do sốt rét chứ không phải chết trận. Đồng chí quân y đại đội được học cơ bản. Tốt
ngiệp trường trung cấp QY 1 Sơn Tây. Nên điều trị mấy ngày thì khỏi. Đ/c nói tôi sốt cao là do khi bị sốt rét lại trùm mền ra nắng
ngồi. Đúng là không có cái dại nào hơn thế.
Một buổi trưa cũng tại nơi này. Lúc đầu nghe tiếng súng bộ
binh đánh nhau ở khá xa, sau đó gần dần. Rồi không lâu sau, thấy quân ta khênh
súng ống, xoong nồi chạy đầy đồng. Trên đường có cả xe ô tô kéo theo pháo 105
chạy nữa. Nghĩa là rút chạy có tổ chức hơn tiểu đoàn 4, cách đây gần một tháng.
Bởi khi rút chạy vẫn kéo được cả pháo 105 và không quên xoong nồi.
Lúc này pháo của địch bắn đuổi theo đúng đội hình đang chạy. Khi lực lượng
này chạy vào khu vực sư đoàn bộ 320, nhiều sỹ quan sư đoàn bộ ra ngăn lại nói:
“đây là sư đoàn bộ 320 các đ/c còn chạy đi đâu nữa”. Chúng tôi ngăn lai và hỏi
thì biết đây là một đơn vị của sư đoàn 339 chiến đấu bên cạnh, phía Bắc đội
hình F320 trong khu vực vùng núi Căm pốt.
Pháo binh địch lúc này bắn đuổi trùm vào đúng sư đoàn bộ. Phải
công nhận nó bắn rất chính xác. Nghĩa là sẽ có “con mắt pháo” (trinh sát pháo
binh) đang hiệu chỉnh nên mới có độ chính xác cao như vậy. Tôi nằm sau gốc cây
xoài cổ thụ, pháo địch bắn có quả rất gần, mảnh đạn cắm vào cả gốc cây. Một đồng
chí trợ lý tác chiến sư đoàn, (là một sỹ quan còn rất trẻ tôi quên tên) chạy qua sau lưng tôi về hướng
khu vực phòng chính trị đóng quân. Tôi thấy mình nằm đây quá nguy hiểm, liền
xách súng chạy tìm công sự trú ẩn. Tôi chạy vào khu vực phòng chính trị, thấy một
số đang ẩn nấp trong hầm và xin trú nhờ. Một lúc sau thấy đồng chí sỹ quan tác
chiến chạy trở lại. Có lẽ đồng chí đi đôn đốc các phòng, ban chẩn bị chiến đấu.
Sau đó chúng tôi nghe tiếng súng 12,7 ly của đại đội 23 vệ binh bắn rất nhiều
lên đỉnh núi Tượng lăng. Về sau này chúng tôi mới biết, Ta phán đoán địch đặt
đài quan sát trên núi tượng, nên mới chỉnh pháo bắn chính xác như vậy. Chỉ một
lúc sau, pháo địch chuyển làn. Không biết có phải đài quan sát pháo của địch đã
bị ta vô hiệu hay chuyển làn, mà đạn pháo không bắn vào sư đoàn bộ nữa. Tôi lên
hầm về vị trí cũ. Thì ngay gần chỗ tôi nằm, đồng chí trợ lý tác chiến đã hy
sinh. Mảnh đạn pháo đã làm bay cả mảng bụng, ruột đứt chảy lòng thòng ra ngoài.
Tôi chạy lại tiểu đội đài kỹ thuật báo tin để anh em dùng máy thông tin báo về
phòng tham mưu. Trở về gốc cây xoài thì gạo vương vãi tứ tung, một trái pháo đã
rơi đúng chỗ tôi nằm. Ba lô bay sạch. mấy thứ đồ lưu niệm trước lúc lên đường
và cuốn nhật ký cũng nát vụn. Tôi thấy mình quá may mắn. Nếu chủ quan cứ nằm lỳ
ở đó thì “cắt cơm” là cái chắc. Nghĩ rằng “của đi thay người”, tôi chẳng tiếc
gì những thứ đó nữa.
Lúc sau, tôi thấy một đơn vị bộ binh đi qua trước mặt . Hỏi
mới biết đó là tiểu đoàn 8 E64 tăng cường chiến đấu cho hướng này. Nhưng cuộc tấn
công của địch cũng đã chấm dứt. Bộ binh địch ngừng tiến công, dừng lại cách
chúng tôi chừng một km.
Vài ngày sau tôi hồi phục sức khỏe, về lại đội hình tiểu đội.
Trung đội trưởng của tôi tên là Thạch, quê ở
lập thạch Vĩnh Phú. Người thấp đậm, rất vui tính. Nói ngay: Tao nghe
quân y nói, mày sốt rét ra nắng ngồi để chữa bệnh. Sao mày dốt thế, tý nữa thì
trời cứu. Lần sau nhớ mà chừa.
Tôi cảm ơn anh. Thầm nghĩ, thần may mắn đã mỉm cười với
mình. Có một nguyên nhân mà tôi không dám nói ra. Đó là quân y đơn vị qui định
uống thuốc phòng ba (thuốc phòng chống sốt rét) theo định kỳ. Mỗi lần uống thuốc
30 viên no cả bụng. Mà mỗi viên to bằng cái cúc, cứ đưa lên miệng là buồn nôn.
Tôi uống giữa chừng rồi bỏ. Có lẽ tại mình tất cả.
Ban tác chiến vẫn nghi ngờ trên núi có thám báo địch nên
giao cho đại đội lập một tổ chốt ở chân núi. Tiểu đội tôi làm nhiệm vụ này.
Ngày hôm sau chúng tôi kéo khẩu đại liên K57 đi. Hỏa lực còn một khẩu M79 do
tôi sử dụng, còn lại là AK. Ba ngày nằm chờ địch nhưng chẳng thấy gì. Đại đội
cho rút về đơn vị nhận nhiệm vụ mới.
Vừa đặt chân về đơn vị thì nhận được tin dữ. Thằng bạn thân
vừa bị thương nặng. Anh Quý đại đội phó nói: Mày ra ngay trạm xá sư đoàn (d24)
thăm đồng hương may ra còn kịp, thằng Hợi bị thương do đạn thẳng. Khó qua
đó.Tôi hiểu bị thương do đạn thẳng thường rất nặng. Bởi đầu vào của viên đạn
thì lỗ nhỏ, đầu ra nó phá to, vết thương sâu, mất máu nhiều.
Rủ thêm thằng bạn trong tiểu đội cùng đi. Ra đến nơi thì hỡi
ơi, bạn đã nằm bó trong túi ni lông. Trái tim tôi như ngừng đập. Nhưng tôi
không khóc. Dù tin không thể có sự nhầm lẫn, nhưng tôi vẫn mở lọ Penixilin treo
đầu túi để xem mảnh giấy. Một dòng chữ nguệch ngoạc “Nguyễn Văn Hợi. Xóm 3 xã Nghi
Kim, Huyện Nghi Lộc- NA” . Cũng không thể vuốt mắt cho bạn. Vĩnh biệt. Mày đi
nhé. Cuộc chiến tranh này có ai muốn. Mày mới sang tuổi hai mươi. Mười tám tuổi
vào chiến trường. Chưa biết yêu là gì. Còn bọn mình thì biết sống chết thế nào.
Hết chiến tranh, nếu còn sống tao sẽ đến quê mày.
Trên đường trở về chúng tôi im lặng. Có lẽ cứ để mọi người
có những giây phút cho riêng mình. Chín thằng cùng quê, cùng nhập ngũ, cùng bổ
sung vào một đại đội. Nay đã hy sinh ba, bị thương ba. Còn ba thằng đang ngày
đêm cùng đại đội hành quân…
Đánh địch ở vùng núi
Tượng lăng
Hồi ở Công phông chàm. Thương binh đơn vị được đưa về điều
trị tại viện quân y 211 của quân đoàn ở đầu cầu thị trấn Tân biên. Thương binh
nặng thì thường được trực thăng chở đi thẳng về bệnh viện 175. Tử sỹ thì chôn ở
nghĩa trang Tân biên. Còn sư đoàn chúng tôi chiến đấu ở đây, xa đội hình quân
đoàn gần một ngàn km, nên tất cả đều “ăn nhờ ở đậu” quân khu 9. Thương binh thì
đưa về Ta keo điều trị. Tử sỹ thì chôn ở Nghĩa trang Tịnh biên (An Giang). Lương
thực thực phẩm cũng do quân khu 9 cung cấp. Đó là lý do tại sao lính quân đoàn
3 (f320) tử trận lại chôn ở nghĩa trang
Tịnh biên tỉnh An Giang.
Thời gian bây giờ khoảng cuối tháng hai. Một hôm đại đội trưởng
Lê Thanh Trung bảo: Ngày mai cậu theo xe sư đoàn về Việt nam mua thực phẩm cho
đại đội nhé.
Nghe tin tôi ngày mai về Việt Nam. Anh em đến nhờ gửi thư rất
nhiều. Sáng hôm sau tôi lên phòng hậu cần sư đoàn. Ở đây đã có rất đông người
cùng về Việt Nam để mua thực phẩm cho các đơn vị. Trên xe còn có một số đồng
chí thương binh chuyển tuyến. Xuất phát từ buổi sáng. Gần trưa thì xe về đến thị
xã Takeo. Chúng tôi vào trạm xá sư đoàn để các đồng chí thương binh nhập trạm
và dừng lại ăn trưa ở đó. Ăn xong chúng tôi lên đường ngay. Từ thị xã Takeo về
thị trấn Tri tôn, đường nhỏ nhưng được trải nhựa. Cảnh hoang tàn chiến tranh
còn nguyên trên bộ mặt của làng quê hay thị tứ. Xe chạy qua kênh Vĩnh Tế. Vượt
qua cầu xi măng dài khoảng 10m rộng chỉ đủ một làn xe là đến đất Việt Nam mà đầu
tiên là thị trấn Tri Tôn . Khoảng 3 giờ chiều thì chúng tôi đến nơi. Đây là lần
đầu tiên tôi đặt chân về vùng đất cực nam của Nam bộ. Thị trấn Tri tôn hoang
tàn do bọn Pôn pốt tràn sang giết người cướp phá. Tuy vậy cuộc sống sinh hoạt
đã nhanh chóng trở về trên thị trấn heo hút này. Quản lý đại đội dặn thế nào,
tôi mua như thế. Có mấy quả bầu bí, còn lại là mua cá lóc bởi nó sống dai, vào
chiến trường vẫn còn tươi là được. Chúng tôi chiến đấu ở vùng núi tượng lăng ăn
uống vô cùng khổ vì thiếu thực phẩm. Đặc biệt là rau. Tôi còn nhớ có một hôm
nghe nói ở gần chân núi có một ao rau muống. chúng tôi rủ nhau đi hái. Ra đến
nơi thì đó là ao đã cạn khô (đang giữa mùa khô mà) rau thì lèo tèo bởi các đơn
vị đi qua trước họ đã hái hết. Nhưng rồi chúng tôi cũng mót được một nồi canh
cho đơn vị. Bữa cơm canh đó cả đại đội ăn rất ngon miệng. Bởi khá lâu không có
rau ăn, dinh dưỡng thiếu trầm trọng nên nhớ đời là đúng thôi .
Sáng hôm sau chúng tôi mua nhanh để kịp về đơn vị trong ngày.
Ở chiến trường làm gì có biên chế tiếp phẩm nên tôi cũng thật may lần đầu tiên
được làm tiếp phẩm và cũng là lần duy nhất trong đời quân ngũ. Nhờ đó, tôi mới
biết được vùng đất cực Nam này. Ngày hôm sau, cả đại đội được một bữa tươi. Ai
cũng hồ hởi phấn khởi như được tiếp thêm nguồn sức mạnh để vào cuộc chiến đấu mới.
Ít ngày sau, tổ trinh sát chúng tôi lại đi tăng cường cho
C20 trinh sát E64. Là lính trinh sát sư đoàn nên chúng tôi hiểu đã đi tăng cường
cho trung đoàn thì sẽ có đánh cấp tiểu đoàn. Đến c20 E64 chúng tôi được phổ biến nhiệm vụ ngay. Trinh sát địch ở bản không
tên. Bản này nằm ở cuối chân núi, sườn phía tây núi Tượng lăng (lính chiến đấu
QK 9 thì gọi là núi đất). Trên bản đồ khoảng 10 km đường rừng.
Ngày hôm sau chúng tôi lên đường ngay. Cả toán là sáu người.
Do đồng chí Sót đại đội phó trinh sát trung đoàn chỉ huy. (trinh sát sư đoàn chỉ
có hai người. Bởi còn đi hướng khác). Chúng tôi phải đi ban ngày để có thể quan
sát được có địch hay không. Đồng chí đại đội phó quyết định phương án hành tiến.
Chúng tôi sẽ đi bám theo dãy núi nhưng phải đi lưng chừng núi để tránh địch
phát hiện. Thật là một quyết định táo bạo mà lính chúng tôi chưa ai nghĩ đến.
Đúng vậy. Địch có thể ở chốt ở chân núi, còn trên đỉnh thì dễ gặp các toán thám
báo của địch. Bởi núi tượng lăng này có ý nghĩa chiến thuật như núi bà đen ở
Tây ninh bên ta. Nên ta và địch đều vận dụng thuận lợi tự nhiên ban tặng để vận
dụng trong chiến đấu. vì vậy, cả ta cũng như địch sẽ lập đài quan sát trên núi
là chắc chắn.
Lúc này sư đoàn 320 tác chiến xung quanh vùng núi tượng
lăng. Cả hai bên đang ở thế da báo. Làng này là của ta, bên kia là của địch rất
rõ ràng. Đường đi của toán trinh sát như thế thì “bố” thằng địch cũng không
phát hiện, nên chúng tôi rất an tâm. Vấn đề là đường vận động dự báo sẽ là vô
cùng khó khăn. Chúng tôi len lỏi giữa rừng cây. Cứ đi gần hết dãy núi là thấy
rõ bản không tên (trên bản đồ không có tên). Có lẽ bản này có chưa lâu lắm. Tuy
vậy, vẫn có một con đường chạy dọc theo chân núi qua đây. Khoảng hai giờ chiều
chúng tôi đã nhìn thấy mục tiêu cần đến. Nhưng chúng tôi vẫn phải tận mắt nhìn
trong làng có địch nhiều không nên phải đi tiếp. Đến một vị trí thuận lợi chúng
tôi leo lên cao dùng ống nhòm quan sát. Trong làng, địch đi lại rất rõ ràng có
thể quan sát bằng mắt thường. Chúng tôi còn thấy xe bò vận chuyển đi lại nữa. Đồng
chí Sót đại đội phó C20 E64, chỉ vào cây cao rìa làng nói: Các đồng chí chú ý gốc
cây cổ thụ cao kia. Đó là vị trí tập kết. Chúng ta sẽ dẫn bộ binh luồn sâu,
không thể đi bằng con đường chúng ta vừa đi, vì họ phải mang vác nặng không thể
đi được, mà sẽ đi bằng con đường đi về của chúng ta.
Chúng tôi tụt xuống chân núi. Lần trở về này hết sức cảnh
giác, vì đi dọc chân núi sẽ gần địch hơn. Nhưng rồi mọi chuyện đều suôn sẻ. ba
giờ sau chúng tôi đã về đến đơn vị .
Chập tối ngày hôm sau. Cả toán trinh sát chúng tôi ngồi chờ
bộ binh bên dòng suốt cạn. Khoảng 7 giờ thì đơn vị luồn sâu tập kích đã đến. Đó
là tiểu đoàn 8 trung đoàn 64. Đồng chí tiểu đoàn trưởng dáng người đậm da đen.
Tên là Tòng. Lần này hành quân sớm chứ không như lần trước chúng tôi dẫn tiểu
đoàn 7, bởi đường rừng khó đi. Khoảng một giờ đầu, chúng tôi bám theo chân núi
Tượng lăng để hành tiến. Chúng tôi đi khá nhanh vì tranh thủ trời chưa tối hẳn.
Hơn nữa, ở đây gần ta hơn nên khả năng gặp
địch là rất ít. Với thời điểm nhá nhem này, rất khó bị phát hiện.
Khi hoàng hôn đã tắt hẳn thì chúng tôi bắt đầu phải đi bằng
địa bàn. Từ giờ tốc độ hành quân sẽ rất chậm . Quãng đường trên bản đồ chỉ 10
km mà đi cả đêm thì chúng tôi không cần vội. Đồng chí Sót đại đội phó C20 TS
E64 quán triệt công tác bảo đảm bí mật được đặt lên hàng đầu. Bởi nếu bị địch
phát hiện thì kế hoạch tập kích sẽ thất bại.
Cũng như mọi lần. Chúng tôi chia nhau mỗi người đi trước cắt
đường một quãng. Khoảng một giờ thì thay phiên để trách căng thẳng không cần
thiết. Chúng tôi vạch từng càng cây để đi. Buổi đêm trong rừng càng tối. Chúng
tôi xác định vật chuẩn chỉ được vài chục mét rồi lại phải nhìn địa bàn xác định
lại góc chuẩn bắc rồi đi tiếp nên tốc độ rất chậm. Khoảng 12 giờ đêm đồng chí
tiểu đoàn trưởng lệnh cho giải lao tại chỗ.
Hình như tôi đã trở thành thói quen khi dẫn quân luồn sâu.
Tôi không ngồi nghỉ mà thong thả bước lùi về sau cùng với đồng chí chỉ huy đang
đi kiểm tra đơn vị. Nhìn thấy anh em mang vác nặng mà thương cảm. Họ nghả người
nghỉ mà đế cối vẫn nằm trên lưng. Nòng khẩu ĐKZ 75 không biết nặng bao nhiêu mà
chỉ có hai người khênh. Đường xa, lại đi trong rừng nên anh em phải khênh bằng
đòn như là khênh người.
Hết giờ nghỉ chúng tôi lại tiếp tục hành trình. Khoảng một
giờ sáng chúng tôi nghe tiếng khóc trong khe núi vọng ra. Cả đội hình chững lại. Mấy anh em
trinh sát tiến lên vài chục bước thì nghe rõ tiếng trẻ con khóc và có cả tiếng
ru con của mẹ. Vậy là rõ. Dân chạy vào núi lánh nạn chiến tranh. Có lẽ họ còn
đông người nữa. Chúng tôi lại lên đường tiếp tục nhiệm vụ của mình. Khi sao Hôm
lên cao, nghĩa là trời đã gần về sáng. Tôi nghe giọng đồng chí đại đội phó
trinh sát nói: Cắt sang trái năm độ.
Vậy là đi vào phía trong sát chân núi. Tôi xoay cạnh địa
bàn, lấy lại góc chuẩn Bắc và ngầm hiểu, đã gần đến bản không tên. Đội hình phải
men sát chân núi để đến gần chỗ chúng tôi đã quan sát hôm trước rồi mới đi xuống
vị trí tập kết.
Cũng như các lần dẫn đường cho bộ binh luồn sâu đánh chặn.
Chúng tôi đưa được bộ binh đến vị trí tập kết là nhiệm vụ cơ bản đã hoàn thành.
Đồng chí Sót đại đội phó trinh sát trao đổi với đồng chí tiểu đoàn trưởng xong
rồi đến nói nhỏ với chúng tôi: Ta cứ ở
đây. Đơn vị triển khai đội hình chiến đấu là việc của tiểu đoàn. Sau khi đánh
chiếm bản không tên, đơn vị sẽ chốt giữ ,còn ta phải về đơn vị. Đồng chí Sót
trao đổi gì đó với mấy đồng chí trinh sát tiểu đoàn. Ngay sau đó, các đồng
trinh sát tiểu đoàn dẫn các đại đội về các vị trí theo ý định chiến đấu của đồng
chí tiểu đoàn trưởng.
Tiểu đoàn đã hình thành thế bao vây chờ giờ nổ súng. Chúng
tôi nằm nghỉ nhưng không ai nghủ được. Trời đã mờ sáng. Đồng chí tiểu đoàn trưởng
đi kiểm tra các vị trí đã về. Chúng tôi chia tay tiểu đoàn và không quên gửi lời
chúc chờ tin chiến thắng. Cả toán trinh sát không về ngay vì trời chưa sáng rõ.
Hơn nữa, không an toàn. Chúng tôi rút lên núi, đến đúng chỗ hôm trước đặt đài
quan sát chờ sáng.
Vừa đến nơi chúng tôi thấy trong làng có một số đốm lửa lập
lòe. Chắc địch đã dậy nấu ăn. Cũng lúc đó tiểu đoàn 8 đã nổ súng. Bắt đầu là cối
của ta rót vào làng. Rồi sau đó là tiếng súng bộ binh râm ran. Màn sương như bị
xé nát bởi những vệt đạn lửa chắng chịt. Từ trên cao nhìn xuống chúng tôi thấy
rõ các hành động chiến đấu của ta và địch. Thấp thoáng người chạy đi, chạy lại
, trong màn khói và sương sớm. Nhiều viên đạn địch bắn trả rít quanh chúng
tôi, cắm cả vào gốc cây. Lần đầu tiên được
xem trực tiếp thế này kể cũng lý thú. Sau này về đơn vị kể cho anh em nghe chuyện
ngồi trên núi xem ta và địch đánh nhau chả khác gì như hồi ở nhà xem phim chiến
đấu của Liên xô !.
Khi tiếng súng đã vào trong làng. Cuộc chiến đấu của tiểu
đoàn 8 chưa kết thúc thì đồng chí đại đội phó trinh sát trung đoàn 64 lệnh trở
về đơn vị. Đồng chí quán triệt nếu gặp địch thì chủ động nổ súng. Với lính
trinh sát, đi ít người thế này trong vùng địch là chuyện bình thường. Nếu gặp
thì chúng tôi sẽ nổ súng chiến đấu chứ không tránh như khi đi. Bởi đây cũng là
đám tàn quân trên đường rút chạy …
Đánh địch ở vùng núi
Tượng Lăng.
Chúng tôi trở về bằng con đường đêm qua đã dẫn D8 luồn sâu
nên khả năng gặp địch là rất ít. Cả đêm thức trắng, đầu óc căng thẳng mệt mỏi.
bây giờ hoàn thành nhiệm vụ trở về mọi người đều thấy nhẹ nhõm nên đi rất
nhanh. Tiếng súng xa dần rồi im lặng. Có lẽ ta đã làm chủ trận địa. Rừng khoọc
mênh mông. Bên dưới được trải thảm cỏ và lá khô đã rụng xuống. Sáu anh em bước
trong tiếng xào xạc của lá rụng và tiếng chim hót vang rừng chào buổi sáng. Tiếng
các loài chim như một bản hòa tấu rộn ràng như chia sẻ niềm vui với chúng tôi,
những người lính vừa hoàn thành nhiệm vụ trở về. Dấu vết của đoàn quân đêm qua
hành quân để lại rất rõ ràng. Đặc biệt có chiến sỹ nào đó vô tình ăn lương khô
nơi nghỉ giải lao, đã để lại vỏ bao lương khô VN sản xuất. Chúng tôi thu lượm lại
đề phòng thám báo địch nhặt được. Đối với lính trinh sát chúng tôi, đi luồn sâu
mà để lại dấu vết thì rất tối kỵ.
Chúng tôi về đến C20E64 thì được lệnh trở về đơn vị. Chắc có
nhiệm vụ mới đây. Ăn trưa xong chúng tôi chào anh em để về. Những cái bắt tay hẹn
ngày gặp lại. Trong cuộc chiến khốc liệt này những cái bắt tay như thế rất nhiều
ý nghĩa. Bởi trong số những cái bắt tay đó, sẽ có ai đó không may mắn thì đây sẽ
là cái bắt tay lần cuối. Và tôi cũng xin nói thêm. Đây là lần cuối cùng tại chiến
trường, tôi đến công tác tại C20 E64 bởi cho đến ngày ra Bắc, tôi không đi tăng
cường cho E64 lần nào nữa.
Về đến đại đội. Việc đầu tiên là tìm văn thư (kiêm quân khí)
để xem có thư nhà hay không. Sau mười ngày đi tăng cường mà cứ tưởng như lâu lắm.
Anh nào mà có thư thì vui ra mặt. Còn ai không có thì ngược lại, và rồi tìm niềm
vui bằng cách đọc ké chia sẻ với bạn bè.
Cả đại đội tôi có lẽ không bao giờ được đầy đủ do các toán
trinh sát thường xuyên đi tăng cường cho các trung đoàn hoặc hoạt động nhiệm vụ
độc lập. Chúng tôi chỉ được nghỉ ba ngày thì đại đội phó (anh Quý) giao nhiệm vụ
đi vào vùng núi “đầu lâu xương chéo”.
Vùng núi này cách núi Tượng lăng khoảng 5 km về hướng tây và
là tỉnh giới của hai tỉnh Ta keo và Căm pốt. Đây là nơi địch bỏ chạy dồn ở các
tỉnh phía Nam tụ tập về, lập thành căn cứ. Bởi vậy, lực lượng địch còn rất mạnh.
Những CCb nào của sư đoàn 339, sư đoàn 8 của QK9 những năm 78-79 đều biết vùng
núi rộng lớn này. bởi chúng tôi đã gặp trực tiếp họ hành quân qua hay chiến đấu
ở bên cạnh.
Một hôm anh Đạm tiểu đổi trưởng (người Lập thạch - Vĩnh phú)
lên đại đội nhận nhiệm vụ. khi trở về giao tôi lên quản lý nhận tiêu chuẩn 10
ngày. Bình thường ở đơn vị vẫn nấu cơm ăn.
Khi đi công tác thì chúng tôi nhận lương thực là lương khô và gạo sấy,
còn thực phẩm thì có bột canh, cá khô, thịt hộp. Toán chúng tôi gồm có năm người,
trong đó có một đồng chí thông tin 2w. (máy M71 Trung Quốc). Chúng tôi đi vào đến
gần núi thì thấy có mấy đồng chí đang dùng pháo 37 hạ nòng chuẩn bị bắn thẳng vào
làng cách đó một cánh đồng rộng chừng
3km. Pháo hạ càng để nguyên trên đường. Gần đó là xe ô tô kéo pháo. Chúng tôi dừng
lại để xem. Tôi nghĩ rằng bắn như thế này chỉ để dọa, nắn gân địch thôi chứ hiệu
quả sẽ không có nhiều. Sau đó chúng tôi
tiếp tục lên đường. Mấy ngày sau đó chúng tôi vào vùng núi, ở chung với bộ
binh. Công việc báo cáo hàng ngày về ban trinh sát do toán trưởng báo qua máy
2w. Các đơn vị bộ binh ta đánh lấn dần, men theo yên ngựa từ đỉnh núi này sang
đỉnh núi kia. Núi non ở đây rất hiểm trở. Quân ta lúc đầu còn đánh địch dưới
thung lũng nhưng khi vào sâu vùng núi hiểm trợ thì chỉ bám trên đỉnh núi, còn
dưới núi, trong thung lũng là địch. Nước uống là vấn đề nan giải nhất đối với
chúng tôi cũng như anh em bộ binh. Hai đến ba ngày chúng tôi lại cắt cử
nhau theo đường cũ xuống núi lấy nước.
Các bi đông, vịt nước, được dồn lại. Lấy được nước đưa lên thì sớm cũng mất một
buổi. Chỉ cần nhầm đường xuống núi thì
tính mạng bị đe dọa ngay.
Một hôm chúng tôi nhận nhiệm vụ đến tọa độ ( ? ) là địa giới
hai tỉnh để kiểm tra địch có đóng quân hoặc lập kho tàng không. Tọa độ này cách chúng tôi không xa nhưng lại
nằm dưới chân núi. Chúng tôi đã lường được sự nguy hiểm vì dưới các chân núi, bộ
binh ta chưa bao giờ truy quét theo. Chúng tôi tiếp tục bám theo triền núi. Nhiều
thứ địch không thể mang theo phải để lại. Gạo vận chuyển lên đến đây là một sự
kỳ công, vậy mà chúng phải bỏ lại nhiều bì, che đậy rất sơ sài. Chúng tôi bắt đầu
xuống núi. Tôi cảm giác ớn lạnh bởi sự im lặng tĩnh mịch hoang vắng và linh cảm
có gì đó đang chờ đợi phía trước. Nơi chúng tôi xuống núi rất dốc, đá chổm chổm
xen lẫn trong cỏ cây. Mới xuống được lưng chừng thì nghe tiếng máy nổ tại chỗ.
Lạ thật. Không ai giải thích được. Trong bản đồ ở đây không có đường. Và tại
sao lại có tiếng máy nổ tại chỗ ? Hẳn là có người, nhưng địch hay là ta. Đơn vị
nào? . Mọi người suy luận nhưng bất lực trước câu hỏi mà chỉ có xương máu mới
trả lời chính xác được. Chúng tôi không ai nói ra nhưng đều hiểu nếu bị địch
phát hiện thì ở thế hoàn toàn bất lợi, rất dễ bị tiêu diệt hết. Tiểu đội trưởng
lệnh tiếp tục xuống. Rất vô tình đồng chí Đạt (quê Thanh Hóa ) bước đạp lên một
cục đá, do mưa lâu ngày bị xói nên đã lăn xuống núi. Tiếp theo là hội chứng
đômino nhiều cục đá khác bị va đập cộng hưởng rơi theo. Chúng tôi ai nấy hoảng
hốt chạy ngược lên núi ngay. Mọi người nằm
chờ tiếng súng nổ. Nhưng chỉ một loạt AK bắn ngược lên đỉnh núi. Tiếng
máy nổ cũng im bặt.
Chúng tôi nhận định. Địch (hoặc ta) đã phát hiện đá lăn,
nhưng chỉ mới nghi ngờ bởi trên núi đá rất nhiều. Vì vây. chuyện đá lăn do thú
rừng chạy hay sụt lở cũng dễ xẩy ra nên bắn thăm dò. Chờ đến phiên liên lạc,tiểu
đội trưởng báo cáo tình hình về ban trinh sát, cả sự việc đã bị đối phương phát
hiện. Ban trinh sát cho lệnh rút để bảo toàn lực lượng và đây cũng là địa giới
của hai tỉnh Căm pốt- Ta keo .
Lần này chúng tôi được lệnh rút về hẳn ở sở chỉ huy cơ bản. Lúc
này bộ tư lệnh sư đoàn đã rời núi Tượng lùi ra ngoài đường 3. Chúng tôi được
thông báo tọa độ sư đoàn bộ trú quân để chủ động đường về. Sau khi cả nhóm tính
toán đường đi. Chúng tôi quyết định đi về hướng nam núi tượng lăng. Từ trên núi,
chúng tôi có thể thấy được ô tô của ta chạy trên đường 3, cách chừng 5 km theo
đường chim bay.
Xuống chân núi là cánh đồng mênh mông đến tận đường 3. Buổi
trưa không một bóng người. Đến phía Nam bản không tên (bản mà cách đây hai tuần
chúng tôi dẫn tiểu đoàn 8 luồn sâu) chúng tôi nghe mùi rất khó chịu. Càng tiến
sâu mùi càng nồng nặc. và chúng tôi đã phát hiện nguyên nhân cái mùi ấy. Xác chết
của Miên nhiều quá, đang trong thời kỳ trương phình. Cả toán trinh sát đã ở giữa
nghĩa địa chưa chôn ! nhìn xung quanh ở đâu cũng có thây người nằm đủ tư thế.
Không chịu nổi mùi hôi tanh, nhiều người trong đó có tôi nôn ọe. Lúc này tiến
thoái lưỡng nan. Mọi người lấy khăn hay áo quần bịt miệng để chạy. Mạnh ai người
chạy. Tôi sức yếu nên chạy sau cùng. Nhìn thấy trước mặt một xác người nữa, tôi
chạy vòng tránh. Nhảy qua bờ ruộng, vừa chạy vừa nhìn quanh thì chân tôi đạp
vào một vật cực kỳ mềm. Nhìn xuống thì cha, mẹ ơi. Xác một thằng Miên đang
trương phình, tôi đã giẫm vào đúng bụng nó.
Dù chân tay bủn rủn nhưng ai trong tình huống đó cũng phải
chạy. Ruồi đậu đen như một tổ ong bay theo. Và rồi chúng tôi cũng đã thoát ra.
Lên tới đường 3, mọi người chờ nhau rồi ngồi nghỉ. Mặt ai cũng nhợt nhạt tái
xanh, nhìn nhau lắc đầu im lặng. Việc đầu tiên là tôi lột ngay đôi dày há mõm
quăng xa. Lạy chúa. Nếu hôm nay chân tôi mà ngập trong bụng nó thì tôi phải cưa
chân mất …
Trở lại tìm tử sỹ mất
Mấy anh em đi theo đường
3 về hướng Ta keo. Đường hoang vắng. Họa hoằn mới có một chiếc ô tô vận tải của
sư đoàn chạy qua. Chẳng ai nói chuyện gì
mà tất cả đều nóng lòng về đơn vị. Có lẽ không ai muốn nhắc chuyện trưa nay vượt
qua nghĩa địa chưa chôn ấy bởi ghê quá. Tôi đã từng khênh tử sỹ, cõng thương
binh chẳng ngại ngùng gì, kể cả vào trận. Vậy mà chỉ câu chuyện đó, cứ ám ảnh
tôi cho đến tận bây giờ.
Đến chiều tối, chúng tôi về đơn vị. Cũng như mọi lần,
anh em gặp nhau hỏi thăm tíu tít rồi mò
lại mấy thằng đồng hương chơi. Đại đội 20 chúng tôi đóng ở rìa làng (phum). Lúc
này dân ở đây mới lánh nạn trong núi trở
về nên cuộc sống rất tạm bợ. Do vốn tiếng k của chúng tôi quá ít ỏi nên rất khó
diễn cảm biểu thị thái độ của mình. Bởi vậy chúng tôi ít khi tiếp xúc với dân
làng mặc dù sống cách nhà họ không xa.
Lần đầu tiên tôi được uống nước thốt nốt là ở đây. Đã là
lính ở k ai cũng biết cây thốt nốt. Nó giống như cây cọ ngoài Bắc nhưng cao và
ít lá hơn. Trên cây họ treo một số ống tre (mét) để đổ nước thốt nốt và mỗi cây
đều có thang dây để leo hàng ngày. Người dân thường đi đổ nước thốt nốt vào buổi
sáng, bởi theo họ nước buổi sáng uống thơm ngon và mát hơn.
Tôi nhớ rất rõ tại đây, một lần lên ban chỉ huy đại đội
chơi, tôi đã đọc một bài báo Binh đoàn Tây Nguyên. Trong số báo này có một bài thơ
của đồng chí Lê Đức Thọ viết cảm xúc của mình về sự hy sinh của đồng chí tư lệnh
Kim Tuấn. Báo này được in ở thành phố Nha Trang. Như vậy thời gian chúng tôi ở
đây có lẽ vào cuối tháng 3 năm 1979 .(Tư lệnh hy sinh 17/3/1979).
Lúc này cả sư đoàn 320A đã rút ra ngoài, hình như được nghỉ
ngơi thì phải, vì không còn nge tiếng súng và không có ai trong đại đội đi công
tác (bám địch) nữa. Hằng ngày chúng tôi đi tuần tra khá xa theo nhiệm vụ đại đội
giao. Có khi còn phải mang cả lương khô ăn trưa, tuy vậy không gặp địch bao giờ.
thỉnh thoảng phải vào dân xin nước. Họ nhìn chúng tôi với thái độ dò xét, sợ
hãi. Chúng tôi đều rất lễ phép song cực kỳ cảnh giác vì ở đây cách vùng núi Đầu
lâu xương chéo không xa.
Khoảng đầu tháng 4/1979. Toàn tiểu đôi tôi được bổ sung tăng
cường cho đội tìm kiếm tử sỹ mất xác trong chiến đấu mà ta chưa có thời gian để
tìm kiếm. Với riêng đại đội tôi chỉ có một đồng chí tên là Sơn người Hà Nam
Ninh nhập ngũ 1978 mất tích khi đi luồn sâu lúc sư đoàn còn đóng quân tại cao
điểm 200 ở rừng cao su My mút. Đây là một câu chuyện bi hùng duy nhất của đại đội trong chiến tranh. (Đức cường sẽ xin
kể lại câu chuyện này sau khi mạnh chuyện “đời quân ngũ” kết thúc) . Đoàn tìm
kiếm do đồng chí Thuần trợ lý tác chiến sư đoàn chỉ huy. Đồng chí này nguyên là
tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 8 E64. Chúng tôi được đi trên hai chiếc xe zin ba cầu.
Lúc này đường 3 đã giải tỏa song thỉnh thoảng vẫn bị phục nên sư đoàn lệnh đoàn
tìm kiếm phải đi về Phnom Penh bằng đường số (?) từ thị xã Ta keo đi Phnom Penh. Chúng tôi
mang theo đầy đủ trang bị chiến đấu bởi lúc này trên đất nước k không có chỗ
nào cho tuyệt đối an toàn. Chúng tôi về Phnom Penh xe chỉ chạy mất một ngày,vậy mà khi mở chiến
dịch giải tỏa đường 3, sư đoàn đánh gần một tháng trời. Đêm đầu tiên chúng tôi
nghỉ đêm tại Phnom Penh. Thành phố đã được giải phóng nhưng vẫn vắng bóng người.
Sáng hôm sau chúng tôi tiếp tục lên đường. Chưa ra khỏi thành phố thì đoàn xe của
chúng tôi bị KSQS của QK7 lên xe kiểm tra và giữ lại. Lý do trên xe có nhiều xếp
túi bóng ni lông bắt chúng tôi để lại. Tất
cả đoàn, kể cả đoàn trưởng phản ứng kịch liệt giải thích cho các đồng chí KSQS
hiểu đây là túi bóng đựng thi hài liệt sỹ nhưng anh em không hiểu cứ tưởng đấy
là chiến lợi phẩm ! Chỉ có lính chiến đấu mới biết loại túi bóng trưng dụng này
thôi, các đồng chí vệ binh không qua chiến đấu nên không biết là phải. Nhưng
anh em cứ bắt đoàn chúng tôi giao lại mấy
bao tải túi ni lông thì mới mở ba ri e. Đồng chí Tòng đoàn trưởng vốn là một
người nóng tính không giữ được bình tĩnh lệnh cho tất cả xuống xe chuẩn bị chiến
đấu. Chúng tôi mang hỏa lực chiến đấu xuống, súng cối giá càng như thật. Đồng
chí Tòng yêu cầu cất ba ri e để đoàn hành quân làm nhiệm vụ. Nếu không thì tổ
KSQS phải chịu trách nhiệm. Cuối cùng tổ KSQS phải nhượng bộ mở ba ri e để đoàn đi.
Đến tối, chúng tôi về đến thị xã Prey Veng và nghỉ lại. Ở thị
xã nhở bé này dân đã về nhưng còn thưa thớt. Điều thiệt thòi nhất là chúng tôi
vốn tiếng k quá ít ỏi nên không thể bắt chuyện hỏi han hay tìm hiểu văn hóa của
họ được. Buổi sáng hôm sau đoàn dừng lại tại “cầu c10”. Cầu này do lính chiến
E48 đặt tên, nằm ở phía Bắc thị xã. Ở đây trong chiến dịch giải phóng ngày 2 và
3/1/ 1979 đã diễn ra trận đánh vô cùng khốc liệt mà bây giờ những người trong
c9, c10 gặp nhau khi nào họ cũng nhắc đến. Đánh chiếm đầu cầu cho đến khi chỉ
còn ba (3) tay súng chiến đấu nhưng vẫn chưa vượt cầu được. Cho dù hướng này có
6 xe tăng của lữ đoàn 273 quân đoàn hỗ trợ. Nhưng do địa hình hiểm trợ, chỉ có
duy nhất một cầu mà cầu lại rất hẹp nên tổn thất của ta rất lớn.
Chúng tôi chỉ đứng nghe các đồng chí E48 chỉ địa hình và kể
chuyện. Mọi người đều nhói tim đau khi biết xung quanh chân cầu này xác bộ đội
ta còn nhiều do tốc độ chiến dịch phát triển nhanh nên chưa lấy được. Một bộ phận
đội tìm kiếm do cán bộ E48 chỉ huy ở lại làm nhiệm vụ. còn một xe tải chở chúng
tôi tiếp tục chạy về bản Buôn sâm, cao điểm 105, cao điểm 200… để tìm thi hài
liệt sỹ mất tích ...
Đi tìm xác tử sỹ mất
tích
Các địa điểm (tọa độ) có người mất tích ở các đơn vị đều được
xe chở đến tận nơi và do các sỹ quan chỉ huy tổ chức tìm kiếm. Mấy anh em C20
chúng tôi thì được xe chở về cao điểm 200 rồi tự đi bộ vào gần bản Xala, nơi tiểu
đội đồng chí Sơn bị địch phục kích chạy lạc trong rừng rồi đi mãi không về.
Toán trinh sát bị lạc hai người thì một người trở về được, sau ba ngày mất
tích. Đó là đồng chí Viết quê ở xã Diễn tân- Diễn châu- Nghệ An. Khi bò về đến
chốt C11 E48 thì ngất xỉu do đói khát và kiệt sức.
Chúng tôi căn cứ vào mũ cứng, sao mũ, cúc quần áo quân trang
và dây lưng chiến đấu để xác định đó là xác địch hay bộ đội ta. Qua ngày thứ
hai tìm vẫn không thấy, chúng tôi báo cáo về đoàn trưởng (bằng máy 2w) xin chỉ
thị. Chúng tôi được lệnh thay tọa độ tìm kiếm, bởi đồng chí có thể đi hẳn vào
trong vùng địch song cũng không có kết quả. Địa hình rừng núi rất khó tìm, chứ
không dễ dàng như vùng đồng bằng.
Trong rừng cao su mênh mông này có một cái chùa cổ. Chúng
tôi vào tham quan và hy vọng được phật phù hộ dẫn đường đi tìm đồng chí Sơn.
Không khí lạnh lẽo hoang vắng nơi cõi phật làm chúng tôi thấy gai gai. Khu vực
này không có dân ở, không có sư chủ trì nên chúng tôi tự do đi xem. Đến nơi ông
phật to nhất làm bằng gỗ tôi vòng sau lưng xem. Thấy có một cái lỗ nhỏ, tính tò
mò của tôi trỗi dậy. Tôi thò tay vào thấy hai vật rất nặng, kéo ra thì đây là
tượng phật làm bằng đồng, đen kịt. Một kiệt tác đúc đồng tôi chưa một lần được
thấy. Ông phật thích ca ngồi tọa trên đóa sen nhưng đúc chỉ nhỏ hơn bàn tay nắm
lại. Những đường nét chạm trổ hoa văn hết sức tinh xảo. Tôi nói với anh em xin
phật đi theo để phù hộ rồi bỏ vào cóc ba lô. (thú thật sau này chuẩn bị về VN.
Đơn vị chúng tôi liên tục bị báo động di chuyển để kiểm tra quân tư trang. Sau
nhiều lần cất dấu, tôi quyết định trả lại cho chùa. Đó một ngôi chùa thuộc tỉnh
công phông xư phư khá gần sân bay phu chen tông. Tôi đã trả và đặt ngay trên
bàn tay phật. Cho đến bây giờ không biết quyết định đó đúng hay sai nhưng tôi vẫn
luyến tiếc. Bởi nếu bây giờ giữ được thì với tôi, đó là báu vật).
Chúng tôi không tìm được thi hài đồng chí Sơn. Có lẽ đồng
chí chạy lạc quá xa vào vùng đich nên bị bắt sống hoặc đã hy sinh. Ở bên này
không ai đào ngũ được vì cánh lái xe đã được quán triệt không bao giờ cho ai đi
nhờ về VN. Cho nên đồng chí chắc chắn đã hy sinh.
Chúng tôi được lệnh quay trở ra. Mọi người đều thấy lòng
mình nặng trĩu nhưng đành bất lực. Gia đình bạn sẽ không có mộ phần để chăm sóc
phúng viếng nhưng tổ quốc và nhân dân luôn biết ơn những người con vì tổ quốc
mà hy sinh.
Xe chạy trở lại cao điểm 105 và bản Buôn sâm để đón hai tổ
tìm kiếm của hai trung đoàn rồi về ngã ba Crech. Ở đây về đồn biên phòng xa mát
rất gần. Kết quả tìm kiếm của hai tổ này khá mỹ mãn nên cả đoàn rất phấn khởi.
Xe chạy qua cửa khẩu và đồn biên phòng Xa mát nhưng chúng tôi không thấy một
ai, và cũng không có barie chắn kiểm tra. Nhà cửa đồn tan hoang, hình như đồn
biên phòng này năm 1977 đã bị địch đánh chiếm và phá hủy.
Đoàn tìm kiếm đi qua sân bay Thiện Ngôn rồi về nghỉ tại xã
Tân lập. Tổ của chúng tôi tìm ở khu vực mũi Lò gò Km 0. Sát sông Vàm cỏ Tây.
Hàng ngày vào rừng đi tìm theo tọa độ được giao, tối lại ra Tân lập nghỉ. Dân ở
đây 100% là việt kiều ở k chạy về. Tìm kiếm ở Lò gò có hai câu chuyện mà tôi
luôn nhớ. Câu chuyện thứ nhất do sự vui đùa quá trớn của tôi lúc tuổi còn trẻ
mà tý nữa thì bị đồng đội bắn. Chuyện như sau :
Hôm đó toán chúng tôi do anh Liên tiểu đội trướng chỉ huy đi
tìm một đồng chí mất tích tại một bãi tráng ở sâu trong rừng. Con đường lâm
nghiệp bắt đầu từ mũi Lò gò đi về hướng tây cỏ cây mọc đầy trên đường đi. Tôi
thấy một cái đầu lâu bên đường, có lẽ của địch mà chiến tranh chống Mý để lại.
Người đi trước tôi là đồng chí Nẳn, người dân tộc thiểu số ở tỉnh Hòa Bình. Đồng
chí này ít nói, rất cộc tính. Chẳng hiểu trời xui đất đẩy thế nào mà cơn
"hâm" lên. Tôi lấy chân (tôi đi dày vải) đá hất một cái. Không ngờ
cái đầu lâu bay lên rồi đậu luôn trên ba lô đồng chí Nẳn. Đồng chí quay lại mặt
giận tái rồi thét lên một câu “tao bắn mày”. Đồng chí lên đạn chưa kịp nâng lên
thì anh em đã giằng ôm gì lại. Vậy mà đồng chí vẫn ngiến răng xả một loạt cho hả
giận. Tôi phải nói lời xin lỗi mãi đồng chí mới tha cho. Thật không có cái dại
nào giống cái dại nào. Một bài học thật đắt nếu không có anh em thì bị dính đạn
là cái chắc, bởi anh này rất cộc tính. Hơn nữa, nếu ai đó cài lựu đạn thì hỏi rằng
Đức cường có còn đường về quê mẹ không ?
Chuyên thứ hai đó là
hậu quả của chiến tranh.
Hôm đó, theo quy định khi đi tìm kiếm. Chúng tôi dàn hàng
ngang cách nhau năm đến mười mét để không bỏ sót. Bỗng nhiên một tiếng nổ xé trời
tiếp đó là tiếng kêu cíu của đồng đội chỉ cách tôi khoảng 10m. Tôi biết ngay đó
là đồng chí Định ở tiểu đoàn 17 công binh đi cùng chúng tôi. Đồng chí kêu nhiều
quá. Tôi lao lại nhưng đồng chí Liên tiểu đội trưởng không cho. Đồng chí nói
to: Cứ bình tĩnh anh em đang vào cứu!.
Đồng chí bắt tôi phải rà mìn rồi mới được vào. Và đúng vậy, tôi
đã phát hiện được một quả lựu đạn cài vướng nổ, dây chắn ngang lối đi. Sau khi
khắc phục xong, chúng tôi vào cấp cứu thì không phải một đồng chí mà cả đồng
chí Dảnh trợ lý trinh sát sư đoàn cũng bị thương, nhưng đồng chí rất bình tĩnh
không kêu la. Chúng tôi tập trung khênh ra thật vất vả bởi đường quá xa mà người
thì ít. Mất bốn đồng chí khênh, nghĩa là chúng tôi phải vác thêm 6 khẩu AK nữa.
Đồng chí khỏe nhất thì cho chạy bộ về tận xã Tân lập cách đây khoảng 7km để gọi
xe vào. Chúng tôi khênh ra đến mũi Lò gò thì gặp ô tô của đoàn. Vết thương đồng
chí Định khá nặng, máu ra rất nhiều. Đồng chí Dảnh thì nhẹ hơn. Ra đến xã Tân lập
chúng tôi nhờ trạm xá xã sơ cứu một lần nữa vì đoàn chúng tôi chỉ có y tá đi
theo nên khả năng cũng mức độ. Nhân dân thấy chúng tôi như vậy họ thương lắm.
Nhiều người khóc bởi biên giới đã kết thúc chiến tranh mà bộ đội vẫn phải đổ
máu. Xe chở hai đồng chí ra thi trấn Tân Biên. Thật may viện quân y 211 của
quân đoàn đã chuyển sang k nhưng vẫn còn một bộ phận thu dung ở lại. Sau này
đơn vị ra bắc, tôi có gặp lại đồng chí này. Nghĩa là chưa đủ nặng phải về đoàn
an dưỡng để làm thương binh. Nhưng với hơn một chục miểng vào người do tay tôi
tự băng bó thì có lẽ tiền xương máu cũng 19-20 %. Lúc đó mà giám định cởi mở
thì làm gì còn lính để mà chiến đấu ?.
Chúng tôi đi tìm đồng đội mất xác trong chiến đấu lúc đó,
không thể biết đó là nhiệm vụ giải quyết tồn đọng công tác chính sách để đơn vị
chuẩn bị hành quân ra biên giới phía Bắc. Xác tử sỹ tìm được, chúng tôi đưa về
nghĩa trang của quân đoàn ở Tân Biên. Chỉ ít ngày sau, đoàn chúng tôi lại sang
k trở về đơn vị bằng con đường qua cửa
khẩu Mộc Bài để về đơn vị nhanh hơn.
Tôi còn nhớ trong nhật ký lúc đó, cả đi và về là 20 ngày.
Chúng tôi về đến đơn vị. Sư đoàn vẫn ở chỗ cũ. Nhưng chỉ được ít ngày, cả sư
đoàn lại lên đường hành quân về truy quét địch ở tỉnh Công phông chư pư. Lúc
bây giờ khoảng cuối tháng 5/1979…
Truy quét địch ở Kongpong
Speu
Tạm biệt Takeo, tạm
biệt mặt trận đường 3 khói lửa đã để lại nhiều kỷ niệm trong đời quân ngũ.
Chúng tôi theo đội hình sư đoàn 320 chạy về hướng thủ đô Phnom Penh. Đến ngã ba
giao điểm của đường 3 và đường 4 (sát sân bay puchentong ) cả đội hình hành
quân rẽ trái theo đường 4 đi về tỉnh Công phông chư phư. Chưa đến thị xã thì
chúng tôi rẽ phải khoảng 30km và trú quân ở đó.
Ngày hôm sau chúng tôi đi địa hình để làm quen với thực địa
và cũng là để tuần tra khu vực đóng quân của sư đoàn. Bấy giờ có lẽ thời gian
vào đầu tháng sáu, nhưng các làng bản ở đây không hiểu vì sao dân vẫn chưa trở
về. Vườn không, nhà trống thật hoang vắng, tôi cảm giác có điều gì đó thật ngột
ngạt bí hiểm. Có lẽ trước đây là dân loại hai nên đã bị chế độ Pốt lùa đi quá
xa ?.
Tại đây trong một lần đi tuần tra, chúng tôi đi qua một cánh
đồng hoang xa khu dân cư, không có dấu
hiệu tồn tại sự sống ở đây. Hài cốt, tứ chi xếp thành từng đống, không có hài cốt
nguyên vẹn. Chúng tôi thấy rất nhiều than đốt bằng xương chứ không phải than củi.
Mọi người đều nhận định đây có thể là trung tâm hành quyết lực lượng chống đối
của chế độ Pốt trước đây. Nếu không có hình ảnh này thì tôi vẫn chưa tin tuyệt
đối sự tàn ác quá sức tưởng tưởng của chế độ Pôn Pốt mà các phương tiện thông
tin đưa lại.
Một lần khác chúng tôi đi công tác. Thấy mấy anh em lính thợ
và lái xe kỳ cạch bên chiếc xe ben Ipa sơn xanh còn mới. Hỏi mới biết đây là xe
chiến lợi phẩm ta mới thu được, và sư đoàn đang cho thợ kiểm tra để đưa về Việt
Nam đóng xe Ka. Chiếc xe ka duy nhất của sư đoàn 320A rất nhiều năm sau này
chuyên chở cán bộ từ Gia lai ra bắc đi phép, một tháng một chuyến, chính là chiếc
xe này. Năm 2000 tôi gặp đồng chí Vĩnh, nguyên phó tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn
25 vận tải sư đoàn (người xã Nghi hưng –Nghi lộc – Nghệ An). Tôi có hỏi chuyện về chiếc xe. Đồng chí cho biết chiếc
xe vẫn hoạt động bình thường.
Ít hôm sau toán trinh sát chúng tôi được lệnh gùi gạo vào
trong rừng, nơi bộ binh sư đoàn đang tiến hành truy quét, để tiếp tế cho toán
trinh sát khác hết LTTP và ở lại làm nhiệm vụ luôn. Ở đây rừng rất dày nhưng
không có núi. Con đường vào là đường đất lâm nghiệp xe vận tải có thể chạy được.
khu vực tác chiến này giống như vùng rừng Xa mát- Lò gò bên ta. Tuy rừng bằng
nhưng còn khá nguyên sinh, cây hai bên đường ken dày. khi vào gần đến nơi, có một
chiếc xe tải của ta chạy cùng chiều, chúng tôi vừa tránh cho xe chạy qua được
10m thì “ ùng…oàng ”kèm theo là những tràng AK dài xối xả. Quả B40 bắn trật kéo theo một đuôi lửa ngay trước mặt. Chúng
tôi nằm xuống tìm vị trí chiến đấu. Việc đầu tiên là nổ súng về hướng địch để
trấn áp tinh thần ngay. Thực ra rừng mịt mùng, có thấy gì nhau đâu. Tôi tin rằng
nếu địch phát hiện có tốp lính đang cuốc bộ ở đó thì không dám bắn. Tiếng súng
địch cũng nhanh chóng im bặt. Phục kích vốn là như vậy. Toán trưởng chúng tôi
dùng M79 “pốc” theo đường rút của địch mấy quả sau đó chúng tôi tiếp tục hành
trình. Đi được 200m thì gặp chiếc ô tô có số may mắn đó đang dừng lại bên tổ chốt
đường. Nói đúng ra là may do gặp phải thằng xả thủ tồi. Lái xe cũng là một lính
cựu rất kinh ngiệm chiến đấu đã kể lại cho chúng tôi nghe. (Với chúng tôi lúc
đó, lính cựu là lính thời đánh Mỹ chưa kịp
ra quân. Trong đại đội tôi còn nhiều đồng chí như vậy. Nghe anh em cựu binh kể
lại, có đ/c đã cầm quyết định ra quân trong tay chờ ra xe thì phải trả lại để
đi vào mặt trận TN cùng sư đoàn). Khi biết bị phục, thế là tăng ga phi nước đại,
cho đến khi gặp bộ binh chốt đường thì dừng lại. Trong tốp lính ngồi trên xe đi
nhận hàng, thì chỉ có một đồng chí bị đạn thẳng bắn thủng bụng nhưng không chết.
Trên xe vết đạn thẳng nham nhở.
Mấy anh em gùi gạo đi tiếp chưa được bao lâu thì gặp một tốp
bộ binh chạy nhanh qua đường, hỏi đi đâu vội thế, anh em chỉ phía trước nói: có
đi lấy thịt bò thì đi. Chúng tôi tạm nghỉ, gửi gùi gạo đi theo hy vọng kiếm
chác cải thiện một tý cho ngon miệng. Không biết ai bắn được một con bò lạc đã
lấy hết bốn đùi rồi. Chúng tôi chỉ có dao găm, khoét lấy được một ít rồi nhanh
chóng đi ngay. Bởi ở lại lâu có khi bị oan do vệ binh hay cán bộ biết được sẽ bị
tóm ngay.
Đến trưa thì chúng tôi vào đến nơi. Mỗi gùi chỉ đựng được 25
kg, đi cả buổi, đường xa nên cũng bầm vai và mệt mỏi. Khu vực này có dân ở
nhưng nhà ở rất thưa. Họ luôn nhìn chúng tôi với thái độ sợ sệt, dò hỏi. Còn
chúng tôi đến gần họ hay vào nhà xin nước (“hóp tắc te” là xin nước chè phải
không nhỉ ?) )thì rất cảnh giác vì dù nam hay nữ, dù lớn hay bé, bọn họ đều mặc
quần áo đen giống lính địa phương của chế độ Pôn pôt.
Một hôm đại đội trưởng gọi lên giao nhiệm vụ đi tăng cường
cho D18 thông tin sư đoàn đi rải dây. Nhiệm vụ củ thể của tiểu đội thông tin
tăng cường là vận tải dây về D4 rồi nối dây từ D4 về D5. Đường đến D4 có hai
con đường. Nếu đi theo đường an toàn thì
phải cuốc bộ hơn 10km. Còn con đường tắt mà bộ đội ta thi thoảng vẫn tổ chức đi
qua, chúng tôi được cảnh báo là khá nguy
hiểm, chỉ dài khoảng 5km. Nhưng đồng chí đại đội phó thông tin quyết định đi đường
tắt cho kịp. Phân đội thông tin có 11 đồng chí, trinh sát dẫn đường có 2 đồng
chí. Do đồng chí đại đội phó thông tin phụ trách chung.
Đến chốt của bộ binh chúng tôi nghỉ lại ăn cơm trưa. Được một
lúc thấy dân trong rừng kéo ra cả già lẫn trẻ có đến vài chục người. Họ đói và
rách quá. Họ không còn đủ sức để bế em nhỏ nữa. Nếu không cho ăn họ sẽ không
còn đủ sức về bản quán. Các đồng chí bộ binh nấu cơm trong nồi 20 quân dụng chỉ
được ăn một người một nắm nhỏ, phải nhịn để có cơm cứu dân. Khi đồng chí nuôi
quân bê nồi cơm đến nhờ chia hộ rồi bỏ đi. Tôi thấy một cảnh hỗn độn diễn ra, một
cảnh không còn tình ngĩa xóm làng gia tộc. Đó là cướp cơm. Trẻ em thì khóc lóc
inh ỏi, người lớn có sức khỏe thì ăn nhồm nhàm. Một số bà già chìa tay xin họ
không san sẻ. Thấy vậy tôi lao vào dằng lấy nồi cơm chỉ còn ít do dính cháy.
Tôi trực tiếp lấy cơm trên tay một số người đang ăn, bỏ vào nồi rồi bắt đầu làm
anh nuôi. Tất nhiên có mấy đồng chí thông tin thấy tôi làm như vậy động lòng hỗ
trợ. Tôi chia cho trẻ nhỏ trước rồi đến người già và cuối cùng đến mấy vị to khỏe
thì hết. Tôi không quan tâm, do ấn tượng hình ảnh vừa rồi. Khẩu phần ăn lương
khô của tôi cho hết. Nhìn họ ăn, tôi nhớ lại hình ảnh cha mẹ tôi diễn tả nạn chết
đói năm 1945 tại quê hương…
Truy quyết địch ở Kongpong
Speu
Chúng tôi được đồng chí trung đội trưởng bộ binh chốt giữ ở
đây cho biết. Cách đây một ngày địch đánh vào chốt sau đó rút theo con đường
chúng tôi chuẩn bị đi. Nhưng trước đó các đơn vị hành quân đông thì không gặp địch
nổ súng. Nhưng đi ít người là bị phục ngay. Như vậy đây có thể là một toán địch
thường đi phục ở đường này nhưng đã bị ta đánh nhiều lần nên cũng nhát. Hơn nữa
giai đoạn này trên các mặt trận, địch đang yếu thế do bị ta đẩy sâu vào trong
vùng rừng núi. Các đồng chí nhắc đi nhắc lại phải cảnh giác cao và sẵn sàng
đánh trả địch phục kích.
Chúng tôi lên đường. Trinh sát đi trước. Đó là nguyên tắc,
nhiệm vụ dẫn đường mà. Trên bản đồ con đường nhỏ được thể hiện như một sợi chỉ
đen ngoằn ngoèo xuyên qua rừng. Hai lần phải lội suối. Đây là những vị trí rất
có lợi cho trận địa phục kích đối phương. Trong thâm tâm tôi vẫn lo bởi lính
thông tin chúng tôi thường gọi là “lính cậu” do họ ít vất vả và gần như không
phải chiến đấu. Trong tốp lính thông tin này ai cũng phải gùi dây khá nặng. Hỏa
lực chúng tôi chỉ có duy nhất một khẩu trung liên RPD và một khẩu M79 còn lại
là tiểu liên AK. Cả đoàn quân hối hả đi theo con đường lâm nghệp vào rừng sâu .
Chúng tôi đi khỏi chốt khoảng một km là đến suối.
Đến đỉnh dốc chúng tôi dừng xốc lại đội hình. Lắng tai,
chúng tôi có thể nghe tiếng nước suối chảy róc rách hòa trong tiếng xào xạc của
gió rừng. Sự tĩnh mịch hoang sơ làm mọi người như linh cảm có điều gì nguy hiểm
đang chờ phía trước. Bỗng nhiên tôi thấy chim và gà rừng bay loạn xị ở bờ bên
kia về phía chúng tôi . Sự linh cảm có người làm cho tất cả đều cảnh giác cao độ. Tôi ngồi thụp xuống và
ra hiệu cho mọi người chuẩn bị chiến đấu. Những phút chờ đợi tiếng súng nổ thật
nặng nề nhưng rừng vẫn chỉ có tiếng xào xạc của gió. Tôi nói với đồng chí đại đội
phó: Anh nên chia đôi người, một nửa iểm trợ cho bộ phận sang trước.
Tuy là lính nhưng lính trinh sát được đi nhiều với thủ trưởng
sư đoàn hay sỹ quan tham mưu nên người cũng khôn ra. Bởi vậy, chúng tôi thường
hay “phán” với cán bộ tiểu đoàn hay đại đội trở xuống. Nghe hay không là quyền
của họ, nhưng họ rất chú trọng những lời nói của chúng tôi.
Sáu người đi trước bắt đầu xuống dốc. Đây là dốc khe nên độ
dốc lớn. Tôi chưa kip xắn quần để lội thì “ bầm, bầm…bàm” tiếng đại liên bắn xối
xả ngay trên đầu chúng tôi từ bờ bên kia. Bị phục rồi. Tôi nhìn lên bờ thấy anh
em đang chạy toán loạn lùi về sạu. Trong tích tắc, tôi hiểu đã bị địch phát hiện.
Nếu chạy ngược dốc theo đường cũ thì dính đạn ngay. Tôi chạy men theo khe lên
khoảng vài chục mét. Cả tốp bốn, năm người đều chạy theo, trong đó có cả đồng
chí đại đội phó thông tin. Men theo một rãnh nước chạy xuống suối, tôi nhảy bật
lên bờ rồi lăn ngắn qua một bãi tráng nhỏ để tránh đạn thẳng (thực ra đó là một
cái rẫy hoang). Khẩu đại liên của địch vẫn khạc đạn nhưng bắn dọc theo trục đường
mà một số đồng chí bỏ chạy. Lúc này chúng tôi đã có phần yên tâm để tổ chức
đánh trả. Tôi cứ nhằm hướng địch đang nhả đạn để bắn. Đồng chí Đạt (trinh sát
cùng đại đội người Thanh Hóa) nói: Có thấy gì đâu mà bắn!
Tôi vừa bắn vừa nói : Ông chờ nó sang bắt sống à?
Hiểu ý tôi, Đạt và đồng chí đại đội phó cũng đã nổ súng. Tiếng
súng bắn trả của ta như là một liều thuốc động viên tinh thần cho nhiều người.
Lúc này ở bộ phận iểm trợ mới nổ súng theo (chết thật. Đúng là lính cậu!). Một
đồng chí lính thông tin cứ loay hoay với
khẩu M79 mà không bắn. Tôi nói: Bắn đi.
Đồng chí trả lời: Mình không biết bắn!
Tôi chỉ biết van trời rồi đưa khẩu AK báng xếp cho cậu đó.
Không biết đồng chí đó có biết bắn nữa không. Còn tôi khoác luôn cả áo đạn vàng
ươm đang đầy, dựng nòng lên “phốc” liên tục 7-8 quả rồi di chuyển ngay. Tôi còn
nhớ viên đầu tiên nổ rất xa. Tôi dựng nòng điều chỉnh dần cho đến lúc thấy đạn
M79 của mình nổ sát bờ trùm vào nơi khói hỏa lực phát ra phía bên kia. Lính chiến
đấu ai cũng biết tiếng nổ đầu nòng của phóng lựu rất lớn nên rất dễ bị phát hiện
mục tiêu. Đúng như vậy, khẩu đại liên đã quay sang hướng chúng tôi vừa nằm, khạc
đạn. Lúc này các đồng chí thông tin đã nổ súng như hỗ trợ chia lửa với chúng
tôi. Đồng chí Đạt điểm xạ nhịp đôi (hai phát một) rất thiện chiến. Khấu đại
liên của địch kéo từng tràng dài, khói thuốc súng bốc cao lên khỏi ngọn cây. Chính
vì vậy trận địa hỏa lực đã bị lộ. Tôi tiếp tục dùng phóng lựu bắn thêm gần chục
phát nữa vào đám khói đó. Đồng chí đại đội phó thông tin lúc này ở cách chỗ tôi
nằm không xa, quỳ bắn sau gốc cây. Bờ bên kia tôi đã nghe được tiếng í ới địch
gọi nhau nhưng không biết nói gì. Chúng tôi vừa bắn vừa lui về phía sau cho đến
khi gặp anh em thông tin đang nổ súng hỗ trợ cho bộ phận chúng tôi rút về. Tiếng
súng thưa dần rồi im bặt. Chúng tôi kiểm người ngay. Đủ cả, không bị thương
vong. Thế là tốt rồi. Nhưng cái bản đồ địa
hình của đồng chí đại đội phó đã bị rơi ở dưới suối làm chúng tôi cũng trăn trở.
Và rồi chúng tôi quyết định không tổ chức xuống lấy nữa. Lý do chỉ vì một cái bản
đồ mà có thể phải thương vong là điều không nên. Cho dù rất cần bảo mật, bởi
trong đó có chấm các vị trí trú quân của các đơn vị trong sư đoàn. Tôi nhớ lúc
đó tôi có càu nhàu với mấy đồng chí thông tin vì lý do là chạy xa quá, nổ súng
hỗ trợ không kịp thời. Đáng lẽ chỉ lùi khoảng cách vừa đủ để tìm vị trí thuận lợi,
triển khai hỗ trợ cho bộ phận đang bị kẹt dưới suối. Khẩu RPD thì mang quá ít đạn
nên bây giờ trở thành cục sắt. Vừa bực tức không hoàn thành nhiệm vụ, vừa bực mấy
đ/c “lính cậu” thông tin tôi nói như quát: Tại sao các ông bỏ đồng đội chạy? Nếu
các ông đi trước, chúng tôi bỏ thì các ông nghĩ sao ?
Tất cả lính thông tin biết sai im lặng. Được nước tôi nói: Các
ông nên rút kinh ngiệm. nếu nhát gan nó sang thì tự chết cả lũ.
Nghĩ lại trong tình huống đó ai cũng hành động như nhau cả.
Việc bỏ chạy về sau theo phản xạ tự nhiên là điều dễ thông cảm. Chúng tôi cùng
nhau quay trở lại thì gặp anh em bộ binh khoảng hai chục tay súng tất bật chạy
ra cứu viện, vác cả cối 60 nữa trông thật tội nhưng tất cả đã an bài. Các đ/c
nói rằng nghe tiếng súng biết các anh gặp địch chúng tôi ra hỗ trợ ngay. Trên
đường về mọi người đều an ủi mình bằng vận may. Đạt nói với tôi: Nhìn thấy
“ông” ôm súng lăn lộn khi vượt qua bãi tráng, cứ tưởng bị thương!”.
Tôi nói: Các tư thế vận
động trên chiến trường vận dụng lúc đó chứ lúc nào nữa. Đại liên nó bắn như vậy
thẳng lưng đi mà chết à ?
Ngày hôm sau bộ phận thông tin đi theo trục đường lớn không
cần dẫn đường nữa. Hai chúng tôi trở về đơn vị …