TRUNG ĐOÀN
(Đã từ lâu tôi có ý định viết về trung đoàn 2, sư đoàn 9
thân yêu của tôi. Tình cờ biết trang web quansuvn này,tôi tranh thủ ghi lại những
chặng đường đã đi qua cùng Trung đoàn của mình ở dạng đơn sơ nhất trước khi rèn
giũa biên tập lại thành cái gì đó hay hơn để chia sẻ với các anh em đồng đội
trên diễn đàn. Kỷ sử của một binh nhì trong Quân sử lớn. Tạm coi là thế ! Tất cả
tên người, tên đất trong bài này, vì theo tiêu chí Sử nên xin phèp các Liệt sĩ,
các đồng đội cho phép dùng tên thật. Xin cảm ơn!)
Cho đến khi chuyển từ trạm Long Bình về cứ của Sư đoàn 9 ở
Trảng Lớn, Thị xã Tây ninh năm 1978, tôi - một binh nhì 18 tuổi đời vẫn chưa có
hình dung nào về chiến tranh, về những ngày tháng mình sẽ đi qua cùng trung
đoàn mình được bổ sung vào. Trung đoàn Đồng Xoài của tôi, một trang bi hùng, một
phần máu xương của đồng đội tôi, của tôi...
Thị xã Tây ninh, một thị xã biên giới xinh xắn và xanh ngắt
nằm yên tĩnh giữa một vùng đất đỏ. Đoàn xe quân sự vừa dừng bánh, các dì, các
em chìa tận cửa xe mời mua những bịch nước mía đá, những gói kẹo đậu phộng..."
Mía ghim ! Mía ghim....Năm hào một cây mía ghimm...". Xe lôi, xe thổ mộ
ngược xuôi. Toà Thánh Cao Đài, chợ Long Hoa người đi lại nhộn nhịp. Đám đông
dân chúng thỉnh thoảng điểm sắc lính áo xanh. Trong một vài quán cóc, dăm ba
thương binh chống nạng hoăc băng tay trắng toát, phì phèo điếu thuốc rê trên
môi, nhìn theo đoàn lính mới ra chiều thông cảm...
Ngày 25/11/1978, buổi tối, trong khi đang điểm danh đơn vị,
bầu trời thị xã đột nhiên sáng bừng bởi hàng trăm vệt đạn vạch đường xé toạc
màn đêm yên tĩnh. Đại trưởng hô: " Giữ nghiêm hàng ngũ! Các đơn vị phòng
không đang diễn tập đánh máy bay địch! Tiếp tục..
Đêm đó, tôi đã cảm thấy hơi thở của thần Chiến tranh đang phả
đâu đây !
Trảng Lớn là căn cứ cũ của sư đoàn 25 QLVNCH trước đây nằm
ngoài rìa thị xã Tây ninh, bao gồm nhiều phân khu độc lập. Các phân khu giới hạn
bởi các hàng rào thép gai phủ đầy cỏ Mỹ, vạch ngang dọc những lối chồn đi. Bấy
giờ đang là mùa khô. Ngày nắng, bụi, nhưng đêm về gió chướng lùa qua lỗ vách, vốn
là những tấm ghi lột lên từ đường băng dã chiến cũ, lạnh gai người. Bình minh
mùa khô phương nam thật lạ. Chân trời đỏ rực với những dải mây thấp, loang lổ
xám. Chưa đến giờ tập thể dục. Tôi còn đang ngái ngủ bỗng dỏng tai nghe. "
Vi vi vuuut.....Oành! Oành...! Tất cả chạy nháo ra sân. Trung đội trưởng hét
lên : " Tản ra ! Nằm xuông ! Pháo 130 ly nó giã đấy..! Mấy quả nữa bắn
trúng dãy nhà tôn bỏ không mé bên trái, giật tung mái bay xoang xoảng. Tôi
không còn thấy sợ nữa nhưng lòng cảm nhận tê tái : Chiến tranh thực sự rồi ! Nó
bắn thêm mấy quả nữa rồi ngưng, chắc sợ ta dò toạ độ phản pháo hoặc oanh tạc
không quân. Cỏ Mỹ khô bắt lửa cháy giần giật. tàn lửa bay tung toé trong khói
cuồn cuộn.
Ở căn cứ thêm mấy ngày nữa, ngày 8/12/1978, chúng tôi lên đường
ra chốt.
Lại lên xe. Nhưng không phải xe ca nữa, mà là xe REO, loại
xe vận tải quân sự của Mỹ. Chạy về hướng Sài gòn à? Ai cũng thắc mắc, mặt trận ở
hướng Tây kia mà? Lại qua những xóm ấp yên bình, những cánh đồng, trảng mía
ngút tầm mắt,sông Vàm Cỏ đông nước xanh ngăn ngắt, thị trấn Gò Dầu hạ tấp nập...
Chóp núi Bà Đen uy nghiêm chầm chậm xoay mình theo hướng xe lăn.... Bây giờ thì
chóp núi ấy đã ở phía sau chúng tôi, hơi chếch về tay phải. Có nghĩa là trước mặt
là hướng chính Tây...Đường bắt đầu vắng teo. Cánh đồng không cày cấy cỏ dại dày
rịt, vàng úa. Một con đê thấp nằm chắn ngang cánh đồng, đùn lên là mấy ụ đất
bao quanh mấy khẩu pháo tự hành lừng lững.Dãy lều bạt lụp xụp. Đơn vị pháo chiến
dịch 175mm (pháo Mỹ) đấy! Cửa khẩu Mộc bài đấy! Biên giới đấy! Ôi chao biên giới
là thế này đây...! Nó không như hình dung của tôi. Đoàn xe bình thản vượt qua
ranh giới vô hình ấy. Chúng tôi ngoái lại nhìn nước Việt một lần nữa. Ôi đất nước
mẹ tôi em tôi! Có lẽ nhiều nghìn ngày nữa, trên những con đường đầy khói bụi của
chiến tranh, có thể tôi sẽ gặp, hoặc không gặp lại Người !
Đồng không mông quạnh. Thốt nốt mọc theo những bờ ruộng
thành từng cụm hoặc đơn lẻ. Đến ngã ba Chi Phu, đoàn xe rẽ trái xuôi về hướng
nam chừng 1.5 km rồi dừng lại. Bộ đội xuống xe rôì được phân về từng đơn vị
theo sự dẫn dắt của ban quân lực. Tôi và nhiều chiến hữu quê Hà nội khác được
điều về tiểu đoàn 4, trung đoàn 2, sư đoàn 9 thuộc quân đoàn 4. Anh Tuấn - hỗn
danh Tuấn "còi", trung đội phó thông tin tiểu đoàn dẫn tôi và đoàn
lính mới tò te băng đồng về chốt. Bố này muốn doạ , hoặc ra điều ta đây lính cũ
thỉnh thoảng lại nhắc: " Bảo đi khom là đi khom, bảo chạy là chạy rõ chưa
! Không 12.8 mm nó quất cho bỏ mẹ !". Tiếng thì eo éo như con gái, nghe vừa
tức, vừa buồn cười.
Xế chiều hôm đó, chúng tôi về đến chốt Long An. Địa bàn chốt
giữ của tiểu đoàn nằm trọn trong vùng Mỏm Vẹt, phía nam cách ngã ba Chi Phu chừng
4 km. Tiểu đoàn bố trí đội hình hàng ngang theo chiều dài một con đê thẳng tắp.
Đại đội 2 nằm ngoài cùng, gần phum chùa Cốc. Tiếp đó là đại đội 1. Đại đội 3 nằm
nhô lên phía trên đội hình tiểu đoàn chừng 350m trong một cụm nhà cũ đã bị phá
huỷ. Đại đội 4 - đại đội hoả lực nằm gần tiểu đoàn bộ, hơi chếch về bên trái.
Đã bắt đầu mùa khô nhưng những căn hầm nửa nổi nửa chìm tựa vào bờ đê vẫn toát
lên mùi mốc ẩm. Thôi nhé từ nay vĩnh biệt thời huấn luyện! Ah ha ! Cái phản
lính dài dằng dặc trại Trảng Lớn trở thành niềm mơ ước. Còn cốc chè đậu đường
đen thị xã Tây Ninh, trong tiếng hát ma mị Khánh Ly chừng thuộc một thế giới xa
mờ. Thôi tiến lên nào, anh lính chiến !...
Tình hình cuối năm 1978 ở địa bàn đứng chân của trung đoàn 2
khá yên tĩnh. Ta và địch cách nhau một cánh đồng rộng khoảng 1.2km. Ngoại trừ một
lần vào lúc chập tối, tiểu đoàn trưởng Sơn ( anh Huỳnh Ngọc Sơn hiện là tư lệnh
Quân khu 5) lệnh cho đại 3 mang cối 60 tập kích địch để thăm dò. Khẩu đội cối
bò lên trước đội hình khoảng 600m, nạp liều 3 bắn chừng hơn chục quả. Địch trả
lời bằng 12.8 mm toang toác suốt đêm. Hầm của trung đội thông tin nằm gần hầm
tiểu đoàn. Ban ngày, tiểu đội hữu tuyến củng cố lại dây dợ máy móc. Tiểu đội vô
tuyến 2W chúi đầu học bảng mật danh mới. Thằng Vỹ, thằng Mạnh, Thằng Ban trố suốt
ngày lầm bầm như cầu kinh:" 01 tiểu đội, 02 trung đội, 03 tiểu đoàn, 04
trung đoàn...." Cha Nhương - tiểu đội trưởng 2W suốt ngày càu nhàu vì quân
lâu thuộc. Nhưng tôi dám chắc nếu kiểm tra thì chính bố này thể nào cũng tạm tịt
nhất. Đã thế lại còn cái tính hay chê, bôi bác người khác. Chẳng hạn kể chuyện
anh Hoạch bên hữu tuyến, hồi mới giải phóng Saigon cứ tưởng cái bồn cầu là chậu
vo gạo. Thế là cứ tống gạo vào vo. Đến khi giật nước gạo trôi đi sạch cứ thắc mắc
um lên. Lại còn luôn mồm chửi tiện nghi của bọn tư bản là thâm độc. Hay chuyện
Khương "khàn" dưới đại 1 dẫn lính đi khao. Không biết gọi phin cafe
là gì mới e hèm cất giọng sang sảng: " Naỳ cô em ! Cho một số cái nồi ngồi
trên một số cái cốc" ! Hết biết !
Tuy tiểu đoàn bộ nằm lui về sau đội hình nhưng vẫn tổ chức
gác ba vọng đề phòng địch bâu bám mật tập. Tôi đã biết định vị sao Tua Rua để
căn giờ gác. Trong đêm, nếu ếch nhái đang rỉ rả ầm ĩ mà tự nhiên im bặt, hoặc
chim đêm trong chòm cây phía trước bỗng dưng xao xác là phải coi chừng. Luồn
hào về bấu tay anh em dậy rồi trở lại vị trí gác ngay. Hãy cúi thật thấp sát mặt
đất, dùng nền trời đêm sáng mờ làm phông sẽ dễ phát hiện địch hơn. Lại còn muỗi
mới khiếp. Muỗi Chi Phu có họ với muỗi Đồng Tháp mười, con nào con nấy to như
con châu chấu con. Áo ka ki ga ba đin không là cái đinh gì. Vòi muỗi xuyên qua
hết. Muỗi lăn xả cảm tử xông vào đốt người. Không được đập vì sẽ gây tiếng động.
Cũng không được dùng dầu gió xoa vì ban đêm trên đầu gió, mùi dầu sẽ lan rất
xa. Chỉ được phép vuốt thôi, vuốt đến đâu lép bép đến đó...Có anh (chắc là con
bác Ba Phi) còn kể là hồi mùa mưa, minh nằm trong màn. Muỗi bâu kín ngoài màn hết
lớp này lớp khác, một lúc thì dây màn (dây dù) đứt phựt. Lỡ để một ngón tay sát
chân màn, muỗi châm ngay. Những con khác không châm được thì châm ngay vào bụng
con đang hút máu mình thành một dây chuyền dài hàng mét. Tóm lại là cũng biết
làm ăn theo kiểu hợp tác xã...
Ngày 22/12/1978 - ngày Tết Quân đội. Ngoài tiêu chuẩn mà xe
hậu cần B3 chở từ nước sang, chúng tôi còn tổ chức cải thiện thêm. Tôi xách AK
đi dọc bờ mương bắn cá. Đứng rình một lúc, từng đàn cá sặc rằn to cỡ bàn tay từ
từ nổi lên. Thế là : Bụp ! Cá láng trắng nước nhưng phải lập tức lấy màn vớt
ngay. Vì chỉ một lát là nó hồi lại. Bố Nhương lại có kiểu bắt cá khác. Không biết
anh ấy kiếm đâu được quả đạn B.40 lép liền tháo ngòi nổ ra. Buộc vào một thanh
tre cứng dài chừng 2m rồi vác xuống cái đìa cạn gần đại đội 4. Vào xin ít liều
cối tọng vào đầu đạn đốt. Thuốc nổ TNT bắt lửa cháy đen kịt. Thế là cha ấy gí
cái dụng cụ bắt cá quái dị ấy xuống đìa rà đi rà lại một lúc cho thuốc cháy hết
rồi lội ào xuống. Quờ quạng rồi quăng liên tiếp lên bờ những con cá lóc đen bị
say thuốc to cỡ bắp tay. Tôi ngán cái dụng cụ nghề cá ấy quá. Kinh bỏ mẹ ! Thôi
! Để em xách cá về cho nào...
Điểm qua thực binh và trang bị của trung đoàn 2 trước chiến
dịch giải phóng Phnom Penh :
- Trung đoàn trưởng : Thiếu tá Nguyễn Như Thạnh.
- Các ban Tác chiến, ban Chính trị, ban Hậu cần
- 3 tiểu đoàn bộ binh gồm D4, D5, D6 ( tiểu đoàn anh hùng) -
tổng quân số khoảng 700 người
- Đại đội 16 : 3 khẩu đội cối 120mm
- Đại đội 17 : 4 khẩu đội DKZ 75mm
- Đại đội 18 : 4 khẩu đội 12.8 mm
- Đại đội 19 : Công binh - trang bị nhẹ.
- Đại đội 20 : 1 B Thông tin -Vô tuyến máy 15W, 1 B hữu tuyến,
1 B truyền đạt
- Đại đội 21 : Trinh sát - Trang bị nhẹ - AK , M.79
- Đại đội 22 : Vận tải - 2 xe REO, 1 xe Zeep, trực thuộc B3
- Đại đội 23 : Trạm phẫu, bệnh xá trung đoàn
- Đại đội 24 : Vệ binh - trang bị như đại đội bộ binh, bảo vệ
sở chỉ huy trung đoàn ,trực thuộc ban tác chiến.
Thống kê như thế để thấy rằng tại thời điểm đó, quân số dù
đã được bổ sung vẫn còn lâu mới đủ quân số theo biên chế chính thức của một
trung đoàn bộ binh chủ lực. Chúng ta đã từng xem rất nhiều phim về chiến tranh.
Theo tôi, có bộ "Giải phóng châu Âu" của Liên xô có những cảnh quay
chiến tranh thành công nhất. Còn mấy bộ phim chiến đấu nước nhà muốn chân thực
hơn có lẽ phải cho mấy bố làm phim cầm súng choảng nhau vài năm hãy cho về cầm
máy quay.Chiến tranh giản dị đến khắc nghiệt vô cùng. Diễn tiến tâm lý cũng chẳng
lằng nhằng phức tạp trong thời điểm cận chiến. Mày sống tao chết hoặc ngược lại.
Huy động và sử dụng tối đa các kỹ năng sống sót của con thú. Lăn đi! Nằm xuống!
B.41 đâu? Bịt mồm khẩu đại liên! Mẹ kiếp !....Không sủa, không gầm gừ được thì
văng tục!..... Có thế thôi ! Sau này lắng
lại, các xúc cảm con Người trở về, và được sự giúp đỡ của các nhà văn nhà báo
lãng mạn mới hay mình đã chiến đấu vì Đất nước. Kể cũng thấy tự hào...
Rồi thời điểm ấy cũng đã đến !
TRẬN ĐÁNH MỞ MÀN
Cán bộ tiểu đoàn đi họp quân chính về vào những ngày cuối
cùng của năm 1978. Các đại đội cho người lên tiếu đoàn bộ nhận thêm một cơ số đạn.
Hữu tuyến tổ chức thu dây ngay trong trưa 31/12/1978. Thông tin 2W nhận pin mới
rồi xuống các đại đội nhưng cấm lên sóng. Mọi thông tin tạm thời dùng tiểu đội
truyền đạt chạy bộ cho đến khi có lệnh mới. Kiểm tra toàn bộ vũ khí trang bị
toàn tiểu đoàn trước 14h. Đúng 16h30, toàn tiểu đoàn rời chốt hành quân theo dọc
bờ đê về vị trí quy định. Tiểu đoàn 6 chủ công, tiểu đoàn 5 dự bị tấn công hướng
chính dọc theo lộ 1, con lộ từ Saigon đi Pnom Penh. Tiểu đoàn 8 (trung đoàn 3 -
trung đoàn Hoa Lư) với tiểu đoàn 4 chúng tôi hộ công luồn sâu vu hồi cánh trái.
Tại vị trí tập kết, sau khi ăn tối, anh nuôi phát cho mỗi
người một vắt cơm và gói bột gia vị là khẩu phần ăn ngày mai. Bữa tiệc tất niên
năm 78 hoành tráng như thế đấy. Lính nằm ngồi thao thức hoặc gà gật dưới tán
cây ô môi cổ thụ chờ lệnh xuất phát. Một cán bộ tác chiến sư đoàn được phái xuống
đi cùng với mũi của chúng tôi. Lính bâu vào hỏi: "Thủ trưởng ơi! Năm nay
ăn Tết ở đâu đây?" "Có thể sẽ ở tây S'vay Riêng!". Anh ấy có cái
đài bán dẫn mở nho nhỏ, đang phát đi bản tin báo gió mùa đông bắc...Chao ôi là
nhớ nhà. Những giờ khắc cuối cùng của năm này, những người thân yêu của tôi
đang làm gì?
2h30 sáng 1/1/1979, anh Ky tiểu đội trưởng vỗ mọi người dậy.Thì
ra tôi cũng ngủ được một lúc. Tiểu đoàn 8 đang vượt qua đội hình chúng tôi. Kế
đó đến đại đội 2 , đại đội 1.....Im lặng ! Lầm lũi đi ! 2W mở máy nhưng chỉ
thông tin ám hiệu bằng cách bóp công tắc.. Bùn lép nhép dưới chân. Thỉnh thoảng
đội hình dừng lại. Trinh sát đang bám địch. Lại tiếp tục đi xuyên vào một rừng
tràm non cao đến ngực. Lá tràm toả mùi thơm hăng hắc. Nhưng rẽ tràm nhọn hoắt mọc
ngược, đâm vào đế dày đau điếng. Chả hiếu sao quân nhu hồi đấy sản xuất loại
giày chết tiệt mỏng như vỏ trứng như thế ! Tiểu đoàn 8 đã sát địch rôi. Lệnh dừng
lại, triển khai công sự tại chỗ. Đằng đông, sao Mai đã mọc.
Đất bùn yếu nên chỉ sau 10 phút là tôi và thằng Thiệu
"mù" - quê Đông anh , Hà nội đã khoét được một cái hố cho hai thằng nằm.
Trời sáng dần. Đã quan sát rõ trước mặt chúng tôi là một cái phum rộng. Trong phum
thấp thoáng mấy mái ngói đỏ khuất sau hàng cây ngoài rìa.5h30- Phía bên lộ 1 hướng
D6,D5, pháo 105mm của sư đoàn bắt đầu bắn chuẩn bị. Bên này, cối 82 (4 khẩu) của
D8 và D4 cũng lập tức lên tiếng. Địch giã lại ngay. Cối 60 nổ vài quả giữa đội
hình tiểu đoàn tôi rồi thu tầm theo hướng phát triển của D8. Trinh sát đã cắt
nhầm hướng. Đáng lẽ phải vòng qua sau phum này thì chúng tôi lại đâm đầu đúng
vào nó. Bộ đội tiểu đoàn 8 không lên nổi vì sát phum là bãi mìn chống bộ binh
dày đặc. Đạn 12.8mm và đại liên quất ràn rạt. Đại đội 2 tiểu đoàn 4 được lệnh
xuất kích đánh vào sườn nhưng cũng bị vướng mìn không phát triển nổi. Địch mới
được trang bị loại mìn KP.2 ( còn gọi là K.978 ) hình trụ. Đường kính khoảng 8
cm, cao 15 cm. Dây bẫy vướng nổ sơn màu xanh lá cây nên lẫn hoàn toàn với cỏ
cây. Khi vướng dây tụt chốt, liều phóng phía dưới đẩy mìn nhảy cao lên ngang ngực
mới phát nổ. Văng nhiều mảnh nên gây sát thương rất lớn. Đã thế mấy thằng lính
mới lại nhảy lung tung mới bỏ mẹ. B trưởng gào khản giọng: " Chạy đi đâu...?
Nằm xuống... ! Chết mẹ bây giờ !". Lúc bắt đầu nổ súng, tay tôi tự nhiên
run bắn, nhưng một lúc thì cũng hết sợ. Bấy giờ thằng Thiệu mù tư dưng dở chứng
bảo tôi dịch ra cho nó đi ỉa. Tôi bảo nó bò ra đằng kia mà làm cái việc không
đúng lúc ấy, chứ ai lại bĩnh vào cái công sự chung của tao với mày. Nhưng nó cứ
phớt lờ đề nghị của tôi, lóng ngóng tụt quần. Tôi tức quá bò ra chỗ khác đào một
lỗ nông choèn rồi nằm xuống. Thương binh, tử sĩ bắt đầu được cáng về. Thương
vong khoảng gần 3 chục, chủ yếu do mìn.
Cũng may hoả lực địch ở hướng này không mạnh. Cả đơn vị nằm cứng giữa rừng tràm
non. Lá tràm che phủ chúng tôi. Địch cũng thôi không bắn nữa. Hướng D5,D6 cũng
không chọc thủng được tuyến phòng ngự của địch. Xế chiều có lệnh rút quân. Tiểu
đoàn 4 đi sau rút trước nhưng lính tiểu đoàn 8 cứ chạy tràn qua đội hình chúng
tôi. Địch phát hiện nên đồng loạt khai hoả hoả lực các loại. Nghe rõ lính nó
gào truy kích : " Trô..! trô.. ! trô..!." Anh Sơn hô 2 khẩu đội
12.8mm giá súng đứng, kiểu bắn phòng không, bắn thẳng vào đội hình địch. Nó chỉ
hô thế thôi chứ bố bảo cũng không dám đuổi theo. Thế là D4 đâm ra rút sau cùng.
Chúng tôi về lại đúng vị trí xuất phát. Tập hợp đội hình xong rôi hành quân về
đội hình trung đoàn ngay trong đêm...
Đêm ấy nằm sau đội hình trung đoàn nên lần đầu tiên không phải
gác. Mặc kệ quần áo toàn bùn khô đóng vảy, tôi quay ra kiếm mấy cái cọc đóng 4
góc rồi giăng mùng ngủ một mạch. Hôm sau mở mắt trời đã sáng rõ. Kiếm được một
con lạch mùa khô nước lờ lờ đục, bộ đội ào xuống tắm giặt. Lại có mỳ tôm và rau
cải xanh mới chở từ bên nhà sang nên lính tráng được một bữa nóng sốt tỉnh cả
người. Chiều cán bộ đi nhận nhiệm vụ về phổ biến mai đánh tiếp hướng lộ 1.
Không còn hồi hộp gì nữa, kể cả trận ngày hôm qua, như nó đã xảy ra nghìn lần trong đời.
Tinh mơ ngày
03/01/79, trung đoàn tiếp cận mục tiêu xong. Lữ đoàn pháo 71 (thuộc quân đoàn)
tăng cường hướng trung đoàn 2 hai khẩu 85mm đẩy tay lên sát tiền duyên trực xạ.
5h30 sáng, pháo chiến dịch khai hoả. Màn mở đầu quá ấn tượng. Pháo 155mm quân
đoàn, 105mm của sư đoàn và các cỡ cối trung đoàn, tiểu đoàn thi nhau trút đạn
xuống đầu địch. Nằm nghe đạn cầu vồng rít qua đầu mà khoan khoái cả con người.
Chết mẹ mày đi! Cho bõ tức ngày hôm qua. Địch phản pháo yếu ớt rồi câm luôn.
Hai khẩu 85mm nòng dài đi cùng trung đoàn không đào công sự, nằm ngay trên mặt
ruộng khô rạp nòng xuống quất. Mỗi lần giật cò lại nảy lên cầng cẫng. Tiếng
85mm đanh lọng óc, hơi đạn thấp đi phần phật. Tiểu đoàn 6, tiểu đoàn 4 bắt đầu
xung phong. Bộ binh phát triển đến đâu, pháo 85mm kéo lên đến đấy. Trên tuyến
phòng ngự của địch, những bựng khói đen dựng lên liên tiếp. DK.75 địch mới đầu
còn "cùng - x..éo.o" vài quả sau cũng tịt luôn. Loe loé đầu nòng độc
nhất một khẩu 12.8mm, toang toác chừng được vài phút thì bị DK tiểu đoàn 6 xơi
ngay. 11h30 trung đoàn đã đánh qua lớp công sự thứ nhất. Ở mấy hầm tiền tiêu
còn mấy quả bom bay đen trũi bọn lính Miên chết pháo, không kịp gí. Đến 12h, chịu
không nổi, địch bắt đầu tháo chạy.
Phát triển truy kích đến chiều tối, tiểu đoàn 4 dừng lai trước
một con lạch nhỏ chảy vào sông S'vay Rieng. Bên trái có lẽ là trạm phẫu tiền
phương của địch. Bông băng, dụng cụ y tế quăng bừa bãi. Mùi máu tanh nồng lẫn
mùi hăng của thuốc tê...Những chiếc võng còn dính đầy máu chăng ngang dọc dưới
chân cột nhà sàn. Đêm ấy tiểu đoàn bộ nằm lẫn luôn với đội hình đại 1. Trung
đoàn 3 phát triển sườn phía bắc đường. Các đơn vị nhận nhau ngoài vô tuyến điện
còn bắn bắt liên lạc, cộng tròn bằng 7. Đêm đầu tháng, như để bù lại cho buổi
ban ngày, cực kỳ yên tĩnh.
Sáng sớm ngày hôm sau, có lệnh tiếp tục tiến. Đồng ruộng trống
trải. đội hình hàng dọc đi trên mặt lộ như một buổi hành quân dã ngoại mỗi lúc
một rảo bước. Thị xã S'vay Rieng đã hiện ra trước mặt. Trên cây cầu sắt bắc qua
sông phía xa, một đoàn quân đang vượt tới. Triển khai ngay đội hình và bắn bắt
liên lạc. Ba phát AK vang lên. Bên kia trả lời đĩnh đạc bốn phát. Ta rồi ! Thì
ra lính tiểu đoàn 7 trung đoàn 3. Trong chiến đấu, không gì vững lòng bằng lúc
gặp đơn vị bạn đang cùng hướng, cùng nhiệm vụ. "Cho xin hớp nước bạn
ơi!"." Này! Dốc sang một nửa bi đông!"
9h30 sáng ngày mùng 4
tháng một năm 1979, trung đoàn chúng tôi vào thị xã S'vay Riêng không tốn một
phát súng nào. Mãi về sau này mới biết lúc đó Quân đoàn 3 đã vượt qua Kômpong
Chàm, đánh lên Kômpng Thom ở phía bắc. Quân khu 9 và Hải quân đánh bộ đã chuẩn
bị giải phóng cảng Kompong Som ở hướng nam. Nó sợ bị bao vây tiêu diệt chiến lược
lớn nên bỏ chạy tiệt. Cả tháng trời nằm hầm, nằm đất, bây giờ khoan khoái ngả
lưng trên nền đá hoa mát rượi. Đã đời ghê! Anh Nhương (lại anh Nhương) túm đâu
được con lợn khoảng 25 kg vẫy tay gọi Toàn cồ hữu tuyến. Hai người lôi nó vào
trong toilet làm thịt, phân công tôi đứng ngoài canh...tiểu đoàn. Có lệnh cấm
tuyệt đối không được vi phạm tài sản của nhân dân bạn và chiến lợi phẩm. Ông
Thưởng - chính trị viên tiểu đoàn biết là toi ngay. Ở thị xã này lấy quái đâu
ra dân, Lợn của địch thì có - thế thì thịt thôi. Một bao dứa đầy gio bếp chụp
vào đầu nó, thế là con lợn Pôn Pốt chỉ còn "hập ! hập" được mấy cái
là xong đời. Gia vị chỉ có mấy gói ngũ vị hương tống vào nhưng cứ thơm phức.
Anh nuôi nhọ đít chia xong là mấy thằng vội vác chậu cơm về. Một nửa trung đội
ăn trước, một nửa ăn sau. Nhớn nha nhớn nhác nhưng ngon miệng không chịu được.
Chén xong, thằng Ban trố đi rửa chậu về trả anh nuôi. Bố Nhương giằng lấy khịt
khịt ngửi đi ngửi lại rồi bắt nó mang xà bông đi rửa lại.
Chiều tối hôm ấy, lại tiếp tục hành quân thẳng tiến hướng
tây. Lúc đi, lúc nghỉ mải miết. Bàn chân tôi dần sưng phồng mọng nước như bị bỏng.
Mắt nhắm mắt mở thỉnh thoảng lại đụng thằng đi trước vì buồn ngủ. Hễ có lệnh
nghỉ giải lao là hạ ba lô nắm ngay trên mặt lộ ngủ ngay được. Đến khi bị đá dậy
còn càu nhàu, tưởng là mình vừa mới ngả lưng xong. Khốn khổ nhất là hoả lực cối
đại 4. Mỗi thằng một gánh đòn tre kẹp 8 quả cối 82. Thằng Văn râu đỏ đồng hương
Hà nội lặc lè với cái mâm đế cối. Tướng người đậm thấp, khoác cái mâm đế trông
không khác gì con rùa. Bù trừ thôi mày! Lúc bộ binh xung phong thì các bố chỉ mỗi
việc nằm sau ung dung thả đạn. Mãi gần trưa hôm sau mới đến Kômpong T'rabêk. Có
lệnh dừng lại, nấu cơm ăn rồi chờ xe của trung đoàn. Hai dãy nhà sàn xếp hàng
thẳng tắp hai bên đường. Trong lúc chờ cơm, trèo lên một căn nhà lục lọi, tôi bỗng
thấy trong bao thóc đổ có mấy cuốn truyện của Duyên Anh (trước năm 75). Chắc chủ
nhân ngôi nhà này là Việt kiều chăng? Không biết còn sống hay đã chết?
Nghỉ ngơi vài tiếng thoải mái cho đến chiều thì bắt đầu sốt
ruột. Mãi không thấy xe trung đoàn đâu. Kiểu này lại hành quân bộ quá. Y như rằng
có lệnh lên đường. Quá ít xe nên trung đoàn sẽ chuyển tăng bo dần từng đơn vị.
Lại mải miết đi...Bỗng nhiên ai cũng ngẩng lên nhìn trời. Dường như có hàng
trăm con diều sáo đang lên tiếng cùng một lúc, rồi phía đằng sau lưng, rộ lên một
loạt đề pa như sấm ầm ì. Tiếng hú gió của đạn pháo 130mm bay qua đầu chúng tôi,
nổ bên kia phà Niek Luong. Thê thiết thay cái dàn hơi chết người ấy...
Rồi xe sư đoàn cũng đón chúng tôi. Tất cả leo ào lên thùng
xe, duỗi đôi chân đã quá rã rời cho khoan khoái. Tôi ngồi ngó nghiêng cảnh vật
thay đổi hai bên đường. Đi trận mà như thế này quả là dễ chịu. Xe chạy chừng
hơn 1 tiếng. Một làn gió mát rượi hơi nước ào tới. Phà Niek Luong đây rồi!
Mêkong đây rồi! Tôi - một học sinh trung học vừa rời ghế nhà trường đi lính,
trong hồn còn đầy những xúc cảm học trò. Thấy bỗng nhớ Mêkong của Nguyên Hồng:
Mê Kông chảy cây lao đá đổ.
Lan hoang, dứa mật, thông nhựa lên hương.
Có những trưa ngun ngút nắng Trường Sơn.
Ngẫm nghĩ voi đi.
Thác Khôn cười trắng xoá...
Và cuộc chiến đã cuốn tôi đến đây, tới bờ sông này, trước
khi đẻ chín nhánh Cửu long trên đất Việt. Chúng tôi chạy ào xuông dốc phà, khoả
nước lên mặt. Mê Kông loang loáng chảy. Gió lồng lộng. Trên sông, đoàn tàu há mồm
LCU chở quân lùi lũi ngược sóng. Hộ tống hai bên sườn là bốn chiếc khinh hạm loại
nhỏ. Ba chiếc LCU khác cập bến thả cầu đón đơn vị sang sông. Sư đoàn 7 đã sang
sông trước. Thật là lạ, đến một thằng binh nhì như tôi cũng không thể hiều nổi
vì sao nó không lợi dựng cái chiến hào thiên nhiên vĩ đại này để tổ chức phòng
ngự? Chắc chắn sẽ gây không ít khó khăn cho quân ta. Đêm ấy, đơn vị dừng chân
ngay bến phà, bờ hữu ngạn...
Ngày 05/01/79, ai cũng yên trí rằng sẽ tiến dọc lộ 1 vào
Ph’nom Penh thì trung đoàn lại lệnh xuống cho tiểu đoàn 4 xuôi cặp bờ Mekong
truy quét địch. Từ Niek Lương, đơn vị ngoặt theo hướng nam, hành quân trên con
đường đất dọc bờ sông. Khu vực này bắt đầu gặp dân bạn. Họ đứng trên sàn nhà,
nhìn đoàn quân đi. Không vồ vập cũng chẳng sợ sệt. Dân mà…cốt yên bình sống là
đủ. Cán bộ dân vận cùng trinh sát hỏi thăm một cụ già về tình hình địch. Ông cụ
cười nhe lợi: “ Ruột tằng o hơi!” ( chạy hết sạch rồi!). Chúng tôi đi qua một
nông trường lớn với những con mương thẳng
tắp. Cái nhà ăn tập thể lợp lá thốt nốt rộng mênh mông. Mấy cái nồi gang to
đùng chúng nó bắn thủng hết đáy, chắc không để cho ta sử dụng được. Bọn này
đúng là thực hiện tốt việc tiêu thổ kháng chiến. Các dãy nhà sàn đứng cách nhau
đều như xếp hàng duyệt binh. Lại còn gà nữa mới đau. Thằng Cầm anh nuôi nghịch
gõ một tiếng kẻng đầu nhà ăn, gà bỗng nhiên ở đâu đổ về đông nghịt. Giữa ban
ngày ban mặt, không có vật che khuất nên không đứa nào dám ho he. Anh Nhương đi
cùng tiểu đoàn, nhìn đám gà cứ như nhìn thấy kẻ thù giai cấp, nuốt nước bọt ừng
ực. Thỉnh thoảng lại liếc anh Thưởng chính trị viên, rồi lại thở dài nhìn lên
trời …xanh mây trắng. Trưa hôm ấy, chúng tôi hạ trại nghỉ nấu cơm ngay tại nông
trang. Thực đơn bữa trưa gồm cá khô mang từ bên nước sang và món gà “ngó” trứ
danh ấy. Mâm tiểu đoàn cũng cá khô như lính. Nhưng có thêm chút me thằng Điệp
liên lạc hái về dầm vào cho dịu vị. Bố Nhương vẫn còn hậm hực quay sang kháy
liên lạc tiểu đoàn: “Điệp à! Me này mày cũng ém mang từ nước sang đấy à? “. Tôi
thì tự nhủ thầm: chiến tranh đúng là cực kỳ phi lý ! Một con gà trống, như tán
thưởng tư duy hàn lâm ấy, cất tiếng gáy o o…
Quá trưa ngày 07/01/79, chúng tôi nhận được tin quân ta đã
vào được Phnom Penh. Cả đơn vị vui sướng tột cùng , dù vẫn còn chút tiếc nuối
nho nhỏ vì vẫn phải loanh quanh tìm địch ở bến phà này. Cánh lính cũ được dịp
ôn nghèo kể khổ. Thôi hết nhé những ngày mưa nằm chốt cầu Prasot, ngã tư Nhà thương, giành giật với địch
từng met đường 24…Tôi thì tưởng tượng cảnh trung đoàn sẽ tiến vào thủ đô trên
những chiếc xe thiết giáp đầy bùn đất. Lá Quân kỳ ám đen khói súng và lỗ chỗ vết
đạn sẽ phủ bóng trên những gương mặt kiêu dũng của binh đoàn tình nguyện. Chúng
tôi sẽ mỉm cười với nhân dân ra đón. Và nếu như có cô gái nào đó tặng hoa tôi,
thì tôi sẽ ôm hôn cô ấy. Hệt như những nụ hôn không biên giới khi Hồng quân tiến
vào Budapet mà tôi đã được xem trên phim…Than ôi! Thương thay cho những tưởng
tượng huy hoàng ấy. Gần một tuần sau, trung đoàn tiến vào Phnom Penh không một
bóng người. Chỉ có tiếng léc chéc đạn nhọn của mấy thằng lính ta đi lục lọi kiếm
ăn bắn bậy. Tiểu đoàn 4 lộn lại nam cầu Sài gòn khoảng 6 km chốt lại bên sông Mê kông. Chốt đằng đít vì mình đánh
nhanh quá, sợ những đơn vị lẻ của địch bây giờ mới chạy đến thủ đô đánh tập hậu
- (hồi đó gọi là đánh bọc đít - sở trường của bon Miên). Đơn vị nằm giữa vườn
sa bô chê (hồng xiêm) rậm rạp, cạnh một trại nuôi gà (lại gà). Đời lính của tôi
chưa bao giờ có những ngày hạnh phúc đến thế. Mắc võng giữa vòm cây xanh mát.
Trên đầu, sóc đi tìm quả chín chạy loạt soạt. Những quả sóc ăn làm rụng ngọt đến
nhức răng. Ban ngày, tôi vào nhà một ông già sống độc thân chơi. Ông già đãi
tôi món khô cá lìm kìm nướng nhậu với nước thôt nôt chua. Để làm được thức uống
trứ danh này (được mệnh danh là bia Pochentong) là cả một kỳ công. Đầu tiên,
người ta đi chặt những cây tre già có gióng rất đều, tỉa cành đi rồi buộc áp
vào thân cây thôtnôt. Có những cây có thể cao hơn 20m nên phải hai, ba cây tre
mới leo đến ngon cây. Hoa thôt nôt ra buồng. Người ta dùng hai thanh tre cứng kẹp
lấy cuống hoa. Ngày nào cũng kẹp cho đến khi cuông hoa thôt nôt mọng lên, ứa ra
nước là cắt cuống, treo ống lố ô vào. Sáng hôm sau đã đầy ống nước ngọt, dùng để
nấu đường. Còn muốn làm nước thôt nôt chua, bỏ thêm vào ống mấy mảnh vỏ cây có
tác dụng lên men (tôi không biết là vỏ cây gì), là có bia Pochentong uống ngay.
Thứ nước này sinh ga rất mạnh. Tôi đã chứng kiến có lần lính ta mang một can 20
lit nước thôt nôt chua ra sân phơi nắng để uống cho thêm bốc. Một lát sau, cái
can nhựa từ từ phồng lên hết cỡ rồi nổ cái bùm. Mấy thằng không biết gì xách
súng chạy toé ra, tưởng địch tập kích. Thế là công toi…nghỉ uống.
Ngồi uống một vài
bát, mặt tôi đã thấy nong nóng. Anh Ky, với thứ ngoại ngữ bằng tay, hỏi cụ già
công nghệ chế tác mồi nhậu. Cụ già dẫn chúng tôi ra sông. Một con thuyền nhỏ, một
cái te bằng tre đan gióng trước mũi thuyền. Đàn cá kìm đang ve vẩy ngược sóng. Thân
hình chúng trông giống như quả tên lửa, gần như trong suốt với cái mồm dài ngoằng.
Một con to nhất đàn đang cặp ngang một con cá nhỏ bằng cái miệng đặc biệt ấy.
Te từ từ nâng lên. Xong rồi ! Mang về làm sạch, phơi qua một nắng và đưa lên
gác bếp xông khói. Không còn gì phải bàn nữa…!
Đã gần Tết Nguyên đán. Gió chướng lao rao trên các vòm lá.
Buổi đêm lạnh nên hay ngót bụng thèm ăn. Dường như không chịu được nữa, anh Tuấn
còi trung đội phó thông tin sai tôi với thằng Tường lé mò xuống trại gà. Vừa sờ
lườn được vài con thì hướng tiểu đoàn thấy có ánh đèn pin loang loáng đi xuống.
Bỏ mẹ ! Tôi với thằng Tường vội trèo ngay lên sàn gà đậu, nằm im không dám thở.
Anh Thào, tiểu đoàn phó cùng thằng Điệp liên lạc đang xuống kiểm tra. Tay vung
vẩy khẩu K.59, anh ấy quát hú hoạ: “ Mấy thằng mò gà đâu ra ngay! Tao bắn bể sọ
!” Im lặng đến nghẹt thở. Đám gà mé bên kia tự nhiên loác quác. Ánh đèn rê theo
hướng ấy, quét đi quét lại vài lần . Có cái gì buồn buồn ngang lưng. Tôi rờ rẫm
chạm phải cái gì lành lạnh bỗng rủn người hất xuống. “ Xoạch! Phì… phì ì
…!” Thằng Điệp quay ngoắt lại,
lia đèn vào chỗ phát ra tiếng động. Một con rắn hổ mang đang lắc lư trên nền đất.
Nó lia đèn loanh quanh một chút rồi chĩa thẳng vào mặt tôi. Hai thằng im lặng
nhìn nhau nửa giây rồi ánh đèn chĩa ra hướng khác. “ Rắn! Thủ trưởng ạ! Nó vào
mò trứng gà thôi!”. Tiếng chân bước xa dần.
Tôi và thằng Tường tụt xuống. Đêm lạnh nhưng mồ hôi ra ướt đẫm cả người. Hai thằng
bóp cổ chết năm con gà mái tha về trung đội. Nước đã sôi sùng sục. Tuấn còi chửi
“ Làm chó gì mà lâu thế?” Tôi nói không ra hơi, chỉ tay về hướng tiểu đoàn. Anh
Hoạch chồm dậy, dụi bớt lửa. Bố Nhương lấy tấm liếp thôt nôt che chắn xung
quanh rồi sai thằng Vỹ ra gác. Lông gà và lòng mề chôn ngay. Một lát sau, nồi
cháo thịt gà nhiều hơn gạo đã ngấu. Cả trung đội đang sì sụp ăn vụng bỗng giật
nảy mình. Thằng Điệp liên lạc, không biết bằng cách nào, đã đứng lù lù trước đống
lửa. Nó nhe răng cười và chìa bát sắt ra. Hú hồn ! Mẹ thằng này khôn thật ! Cả
về sau này, có lẽ chẳng còn bát cháo gà nào với tôi, ngon như thế nữa.
Sáng hôm sau, tôi được phân công xuống trực máy đại đội 1. Mừng
hú, vì dưới đại đội sinh hoạt có phần thoải mái hơn nằm ở tiểu đoàn bộ. Gần lửa
thì rát mặt. Cán bộ đại đội có anh Khanh, đại phó, anh Síu chính trị viên. Đại
đội 1 có mấy thằng lính cùng đoàn với tôi, chơi với nhau cũng hợp tính như thằng
Căn liên lạc, Thằng Đặc trung đội 3…Xuống đến nơi thì chúng nó đi đâu cả.Tôi hỏi
thì ông Khanh nháy mắt:” Cho chúng nó đi cải thiện!”. Gần trưa, hai thằng lặc
lè khoác ba lô về. Mở ra thì toàn rượu Napoléon loai lâu năm thượng hạng. Còn
ba lô kia toàn sữa hộp Neslé và thuốc lá thơm Ara. Trong thành phố Phnom Penh
lúc đó có rất nhiều kho dự trữ của địch. Chắc hai thằng này may mắn vớ đúng kho
Sở ngoại vụ rồi. Chiều ra sông tắm, quăng xuống quả US da láng (M.26). Nổ đánh ục
một cái, cá nổi trắng nước. Lao vội ra vớt những con to nhất quăng lên bờ. Thêm
hai con gà luộc nữa là bữa tối trở nên hoành tráng. Thằng Tuý 2W xì ra một lố
pin PRC.25 đã thải, đấu vào cái bóng 12V. Lúc này, cái nhà sàn ban chỉ huy đại
đội bỗng thành nơi dốc bầu tri kỷ. Cha con anh em ngất ngưởng nâng bát. Lưng chừng
cuộc vui, anh Khanh lúc ấy đã tây tây rồi, đòi đục sữa hộp ra pha vào rượu. Bố
ai chịu được loại coctail ấy. Thế mà anh ấy ực một hơi hết bát B.52 rồi ra vịn
lan can …ói. Chưa ai kịp ra đỡ thì từ từ gục xuống , cắm đầu rớt qua thành lan
can rơi xuống hồ. Thằng Căn lao xuống lôi lên. Bố ấy vẫn còn lè nhè : “Đ…mẹ !
Tao rớt ngọt như quả mít! “ Nói tiếng Đan mạch
(Đ…m) một lúc nữa rồi cha ấy nằm thẳng cẳng. Tôi cũng say quá. Tự nhiên
thấy nhớ nhà kinh khủng. Nước mắt giàn giụa không kìm đươc, tôi bật khóc hu hu
!
Những ngày yên tĩnh như thế rồi cũng nhanh chóng trôi qua.
Trưa ngày 25/01/79, tức là ngày 27 Tết Kỷ Mùi, đơn vị nhận lệnh hành quân gấp.
Tiểu đoàn 4 đi dọc con đường ngược sông về Ph’nom Penh. Đến mũi đất phía nam
sông Bốn mặt (gần cầu Sài gòn), chúng tôi leo xuống bờ sông dốc đứng. Ở đó đã
có mấy chiếc tàu LCU đang chờ sẵn. Tiểu đoàn xuống tàu, lùi lũi ngược Tonle
Sap. Sông bốn mặt rộng mênh mông. Thủ đô Ph’nom Penh trải dài ven bờ phía trái
tầm mắt chúng tôi. Những mái vàng của Hoàng cung lấp lánh trong nắng. Từng vòm
cây xanh ngắt ôm ấp những khu nhà ngói đỏ xinh xắn. Trước mũi tàu rẽ sóng, thỉnh
thoảng những đàn cá linh thấy động vụt nhảy rào rào trắng xoá. Ph’nom Penh lùi
dần lại sau lưng. Chạy được khoảng 2 giờ, bỗng có tiếng đạn nhọn rộ lên bên sườn
bờ bên tay phải. Chúng tôi ngồi thụp xuống lòng tàu, không bắn trả. Đoàn tàu né
sang bờ hữu ngạn, tăng tốc phả khói đen mù mịt tiếp tục tiến . Chạy thêm 1 tiếng
nữa, hải quân cập bờ trái. Đơn vị đổ bộ lên bến phà Preck Đam, tiếp tục tiến
theo mé sông hướng bắc lên Ô Đông. Địa hình ven bờ toàn những bụi cây dại lúp
xúp. Con đường đất chạy giữa một bên sông, một bên là đầm lầy. Trời đã mờ mờ tối.
Tiểu đoàn dừng lại ở một cái xưởng cưa ven sông, triển khai đội hình chiến đấu.
Trên mặt sông, mấy chiếc giang hạm nhỏ đen trùi trũi đi phối thuộc với chúng
tôi đang buông neo gần bờ. Anh Ky và tôi được lệnh kéo dây xuống đại đội 1 ở
phía trước. 20h30, liên lạc hữu tuyến đã thông suốt. Đêm cuối tháng tối như mực.
Im lặng đến rợn người. Máy điện thoai để mức chuông nhỏ nhất. Cấm đốt lửa,
chúng tôi đổ nước lạnh vào bịch gạo sấy hoặc xé mỳ tôm sống ra trệu trạo nhai.
Đến nửa đêm, tổ trinh sát tiểu đoàn 3 người vượt qua đại đội 1 lên bám địch.
Qua đội hình trung đội 3 tiền tiêu, anh Sơn tiểu đội trưởng trinh sát
còn lào thào dặn với :”Chút nữa bọn tao về ! Nhớ hỏi mật khẩu không có bắn
nhầm đấy!”. Gà gật đến 2h30 sáng 26/01 (28 Tết), đạn nhọn rồ lên phía trước mấy
loạt rồi im bặt. Gần sáng, hầm tiền tiêu thấp thoáng bóng người. Tiếng nói nhỏ:”
Trinh sát đây! Sơn đây! Đừng bắn!”. “Mật
khẩu?” “ Mật khẩu đ… gì? Mấy thằng lính mới trung đội mày gác giật mình ngoéo
cò thì bố mày lên nóc tủ à?”. Trinh sát đã về qua đại đội. Mọi người xúm vào hỏi.
“ Còn thằng nữa đâu?” “Chắc tiêu rồi! Sát họng đại liên, không kéo về được!”.
5 h30, trời bắt
đầu sáng. Chỉ huy tiểu đoàn triển khai nhiệm vụ cho đại đội 1 qua máy điện thoại
xong, 2W lên máy. Anh Nhương dặn tôi qua máy:” Chúng mày không phải thu dây,
tao cho chúng nó thu từ dưới này lên!”.
Cả đội hình tiểu đoàn từ từ tiến. Dưới sông, tàu hải quân cũng tiến song
song. Trước mặt có một cái cồn nổi lớn chia Tonle Sap thành hai nhánh. Bốn chiếc
khinh hạm của ta phát hiện địch trước. Đại liên 50 hai nòng trên các tàu bắt đầu
khai hoả. Lính đại 1 bám từng bờ cây, bụi cỏ phát triển dần lên. Địa hình hẹp bề
ngang, nhiều vật che khuất chỉ có một đường tiến. Cối 82 tiểu đoàn được yêu cầu
bắn trước đội hình 60 m nên đại 4 gần như dựng nòng lên thả đạn. Dưới sông, bốn
chiếc khinh hạm yểm trợ nhau lần lượt quay đuôi về phía địch thụt cối 81 (thằng
cối 81 dưới tàu Mỹ bắn bằng điện nên góc bắn có khi nhỏ hơn 45 độ). Trên cái cồn
(giồng) giữa sông, địch có một cái tăng PT.85 chôn âm, nguỵ trang đầy lá thôt
nôt gióng nòng pháo bắn săn tàu chiến. Do tàu cơ động liên tục, và khoảng cách
cũng xa nên nó nã hơn chục phát cũng không chiếc nào dính đạn. Mấy khẩu 85mm đi
tăng cường cho tiểu đoàn 4 không bắn được do địa hình bị che khuất bởi cây cối.
Trước mặt là cái trảng , rồi đến con mương thuỷ lợi rộng khoảng 20m ăn thông với
sông . Một cây cầu nối hai bờ mương. Bộ binh cứ thò ra ngoài trảng là đại liên
bên kia mương nó quất ngay. Địch tựa vào bờ sông và cồn bên kia làm thế ỷ giốc
gây khó khăn lớn cho ta. May là nó không bắn cối chứ đường độc đạo như thế, nó
cứ thả cối dọc theo đường thì cha con khiêng nhau mệt.Tử sỹ đã được chuyển về.
Trong số đó có thằng Thành quê Hà Nam Ninh, thằng Thái người Quảng Bình, thằng
Thư ở Bắc Ninh là mấy đứa cùng bổ sung cùng đợt 1978 như tôi. Mấy chiếc tàu
quân ta hùng hổ được một lúc, bắn hết đạn cối rồi quay đuôi chuồn thẳng. Bộ
binh cũng nằm luôn, không tiến nữa. Buổi trưa yên tĩnh trở lại, như chưa hề có
điều gì vừa xảy ra. Trên mặt công sự của tôi, những con kiến đang chăm chỉ tha
những cọng mỳ tôm vương vãi. Mặc kệ! Ai có việc của người ấy phải không? Tớ bận
kiếm ăn, còn loài người các cậu thì bận giết nhau. Cũng thế cả thôi! Tự nhiên
tôi bỗng nhớ tới nụ cười Bayon mà chúng tôi đã gặp rất nhiều trên đất nước này.
Đôi mắt lim dim, nụ cười đá nhếch mép thoang thoáng, nửa như chia sẻ, nửa như
giễu cợt :”Thôi đi nào! Kể cả sự Sống cũng như cái Chết ! Chỉ có Thời gian mới
là vĩnh cửu!”. Cái đất nước bí ẩn và quái quỷ này…
Pháo 105mm sư đoàn bắt đầu giã vào ngã ba chùa sau lưng địch.
Tiểu đoàn 5 từ Ô Đông đánh bọc đít tuyến chốt này, quyết bao vây tiêu diệt gọn.
Trung đoàn lệnh cho tiểu đoàn 4 xung phong phối hợp. Đại đội 4 còn bao nhiêu đạn
cối 82 mang ra xài hết. Đẩy khẩu DK.82 duy nhất của tiểu đoàn lên sát đại 1 thổi
thẳng vào những bụi cây ven bờ mương. Địch vỡ trận bắt đầu tháo chạy. Phía bên
kia cồn, tiếng động cơ rồ lên. Cái tăng PT.85 lùi ra khỏi ụ lủi đi thật nhanh.
DK82 bắn đuổi với nhưng không trúng. Bộ đội đã vượt qua được cầu. Ngay trước hầm
địch 5m là xác thằng Năm trinh sát hy sinh hồi đêm. Súng đã bị địch thu mất,
thi thể găm đầy vết đạn. Tôi thấy đôi dép cao su đúc của nó còn tốt liền tháo ra xỏ vào chân,
quăng ngay đôi giày thối xuống sông. Trên sân chùa, đoàn xe bò chở gạo và
thương binh tử sỹ địch trúng pháo văng tung toé. Một con bò què cẳng rống lên
thảm thiết. Có ngay một phát đạn nhân đạo dành cho nó. Anh nuôi các đại đội đi
qua mỗi thằng xẻo một miếng tướng trước mặt
ban chỉ huy tiểu đoàn nhưng cũng chẳng ai nói gì. Không thế lấy sức chó
đâu ra mà đánh nhau. Đến chiều tối thì hai tiểu đoàn gặp nhau. Trận này không kể
bị thương trung đoàn hy sinh 11 người. Anh Thạnh trung đoàn trưởng (đi cùng mũi
với tiểu đoàn 5) phần thì xót lính, phần thì tức tối vì sổng mất cái xe tăng,
luôn mồm chửi rủa. Đúng lúc ấy, hai trong số bảy thằng tù binh to vật vã đang
ngồi dưới gốc cây bỗng lao vào giật súng của vệ binh định ăn thua đủ. May mà
lính ta ra tay kịp thời. Đạn cày nát cái sân đất trước mặt. Trận ấy trung đoàn
2 không bắt sống được tù binh, nhưng đã xoá sổ gần một tiểu đoàn địch.
Mai đã là 30 Tết
rồi !
Chiều ba mươi Tết (năm ấy tháng thiếu, 29 là ngày ba mươi),
đơn vị dừng chân ở một phum trù phú ven bờ Tonle Sap. Tôi bị Tào Tháo đuổi có lẽ
do món thịt bò hầm bằng thùng đại liên trộn với nước lã uống đại dọc đường oánh
nhau trong bụng. Đêm mắc võng cạnh anh Thịnh 2W, nghe Thu Phương (không phải
Thu Phương bây giờ) hát qua cái radio chiến lợi phẩm mà lòng quặn lên nỗi…đi
ngoài. Bài hát này tôi thuộc và rất thích :” Em ơi mùa xuân đến rồi đó! Thắm đỏ
ngàn hoa sắc mặt trời…”.(Bây giờ thằng con giời đánh của tôi nghe chúng bạn đâu
đó sửa lại thành:” Em ơi đừng nghe nó lừa đấy! Nó ở nhà quê mấy vợ rồi…!”). Gà lợn đầy phum và đã có lệnh được phép sử dụng
thực phẩm thu được của địch một cách hợp lý. Nhưng các bạn biết đấy,với mấy thằng
lính chiến thì giới hạn của sự hợp lý là vô hạn.
Thôi thì đủ các món trên trời dưới bể : kho, xào,nướng,
tái…Anh Hồng đại trưởng đại 4 còn thể hiện món tiết canh chó. Các đại đội đóng
quân tương đối xa nhau nên hữu tuyến được nghỉ không phải dải dây. Đến giao thừa,
tất cả các cỡ súng đồng loạt rộ lên. Tiếng đạn nhọn giòn như bắp rang điểm nhịp
trầm trầm của hoả lực. Đạn vạch đường AK, đại liên, 12.8 từ hướng các tiểu đoàn
bay vạch ngang vạch dọc bầu trời. Thậm chí còn có thể nhận ra những vệt đỏ lừ của
đạn chống tăng M.72 . Anh Lộc người Hà Tây mới về nhận nhiệm vụ chính trị viên
phó tiểu đoàn 4 định kêu 2W gọi xuống các đại đội thì mọi người gạt đi :”Gọi
làm gì ! Địch tập kích ấy mà!”.“ Mẹ chúng nó ! Tập kích đường không hay sao ấy
nên toàn bắn lên trời thế kia ! Mai trung đoàn hỏi thì ăn nói thế nào ?”.” Ấy đừng
lo ! Chắc bây giờ trung đoàn bộ cũng đang bị tập kích thôi !”- Chính trị viên
Thưởng khoái trá. Thực ra từ hồi chiều chỉ huy tiểu đoàn đã lệnh cho các đại đội
cấm cho lính bắn bậy. Nhưng giờ phút thiêng liêng này, ai nỡ ngăn cản những xúc
cảm con người. Nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương xa xót, lòng hy vọng ở một ngày mai
yên bình, lời vĩnh biệt thằng bạn cùng ra lính sáng nay ngã xuống, niềm cô đơn
bất tận của đoàn người tha hương...Tất cả, tất cả những ẩn ức dồn nén ấy đã bật
ra trong tiếng súng. Bi tráng và day dứt hơn bất cứ dàn giao hưởng nào. Phải
chăng con sói của Jack London cũng đã từng tru lên như thế trong đêm lạnh dưới
vầng trăng vùng cực? Trong tận cùng cô độc, nhìn sâu vào lòng mình, con người
trưởng thành hơn và thấy thương con người hơn. Tất nhiên chúng tôi hiểu Đất nước
và Nhân dân luôn bên cạnh, nhưng trong khoảnh khắc ấy, với tôi là những giờ
phút rất riêng tư.
Sau Tết được vài
hôm, anh Ky, tôi và thằng Tuý 2W (hy sinh năm 1980) được lệnh đi độc lập với đại
đội 2 (đại đội anh hùng) cùng sở chỉ huy nhẹ tiểu đoàn ra Ô Đông phối thuộc với
trung đoàn 3 . Địch bâu bám, quấy rối và đánh cắt giao thông lộ 5 đi Kompong
Ch’nang, đẩy tiểu đoàn 8 trung đoàn 3 ra sát rìa lộ. Ở ngã tư gần thị trấn Ô
Đông còn thấy năm sáu chiếc xe tăng T.54, M.113 của ta bị nó phục kích bắn cháy
đen thui. Địa hình ruộng khô xen lẫn rừng thưa nên rất khó quan sát. Được tăng
viện, trung đoàn 3 quay lại đuổi địch dạt vào phía rừng. Nhưng bọn này thuộc địa
hình, cứ dạt ra chỗ này lại bâu chỗ khác rất khó chịu. Đã ba ngày liền, tiểu
đoàn 8 và đại 2 tiểu đoàn 4 quần nhau với bọn này. Rình rập nhau từng xó rừng,
bờ ruộng. Mùa khô lính khát nước gần chết. Phía trong rừng thưa lẫn ruộng chỉ
có độc nhất một cái hồ nhỏ, không hiểu sao lại gọi tên là hồ Thiên nga. Đại 2
đánh lên rồi nằm trấn ngay bờ hồ ấy, cứ thằng nào mò ra lấy nước là bắn tỉa. Gần
2 chục thằng phơi xác. Có lần địch bắn rát hô xung phong nhưng anh Hải (người
Quảng ninh – hy sinh năm 1981) đại trưởng quát lính nằm im không thèm bắn. Bọn
này biết ngay là gặp thành phần không dễ chơi nên lại dạt ra phía lộ. Trên máy
PRC.25 nó dò được tần số liên lạc của ta liền chửi :”chuây me Duôn!” nhặng xị.
Có thằng biết chửi cả bằng tiếngViệt. Thằng Tuý chửỉ lại mỏi mồm, bảo chúng nó
có khát thì chịu khó đái ra mà uống chứ đừng dại dột lại gần cái hồ này rồi
chuyển tần số theo quy định. Gần tối, đại đội 2 lại được lệnh quay ra lộ 5 đánh
bọc đít. Đi đến đâu địch dạt ra đến đấy. Trên mặt lộ, anh Nguyễn Năng Nguyễn –
trung đoàn trưởng trung đoàn 3- dàn cả 5 khẩu DK.75 táng đạn xuyên vào bìa rừng
chúng nó mới tháo lui.
Sơ qua về truyền thống đơn vị chúng tôi một chút : Sư đoàn 9
- Từng được mệnh danh Quả đấm thép miền đông Nam bộ có ba trung đoàn. Trung
đoàn 1 mang tên trung đoàn Bình Giã. Sau trận Bình Giã oanh liệt mà mang danh.
Trung đoàn 2 là trung đoàn tôi phục vụ, mang tên chiến thắng Đồng xoài. Trung
đoàn 3 mang tên chiến thắng Hoa Lư. Riêng trung đoàn tôi với truyền thống
“Thành đồng quyết thắng- Trung dũng kiên cường- Đi là chiến thắng- Đánh là dứt
điểm” đã có tiểu đoàn 6 được phong tặng danh hiệu Anh hùng. Tiểu đoàn 4 của tôi
có tới hai đại đội Anh hùng là đại 1 và đại 2. Từ cái nôi tiểu đoàn 4, qua trui
rèn chiến trận đã thành danh các tướng lĩnh như anh Sơn, anh Nguyễn...Còn biết
bao các anh nữa nếu giờ phút này chưa hy sinh anh dũng hẳn sẽ là những sỹ quan
rường cột nước nhà như anh Hải, anh Quang.. Đi trận với những người chỉ huy dày
dạn và quyết đoán, bộ đội tin tưởng và quyết tâm hơn. Tôi nhớ anh Sơn tiểu đoàn
trưởng, quân phục lúc nào cũng tinh tươm. Khi đụng địch cũng chẳng lúc nào đi
khom, trừ khi nó bắn rát quá. Thằng thông tin tiểu đoàn là tôi đi bên cạnh chẳng
nhẽ lại bò, nên cũng cố hít một hơi thật sâu rồi đứng dậy. Tôi nhớ anh Quang
râu (hy sinh năm 1980), khi địch nó đánh thốc vào đại đội 1 ở Ămleng. Có mỗi
cái hầm nhỏ, hai anh em nhường nhau chẳng ai chịu chúi. Anh ấy dúi tôi vào rồi
cứ ngồi kềnh kễnh trên miệng hố mà thét lính…Chiến thắng đến có thể bằng nhiều
cách. Nhưng những hành vi cao thượng luôn khích lệ con người…
Lộ 5 đã thông, đại đội 2 và chúng tôi trở về đội hình tiểu
đoàn bằng xe tải. Từ Ô Đông lên thẳng Kampong Ch’nang rẽ phải xuôi ra bờ Tonle
Sap. Tiểu đoàn 4 (thiếu) đã cùng tàu hải quân lên Kampong Ch’nang trước bằng đường thuỷ. Đại đội
2 qua sông bằng thuyền của dân bạn, về đội hình tiểu đoàn ở Bongbang, bên kia
thị xã Kampong Ch’nang. Ban chỉ huy tiểu đoàn đóng tại cái chùa lớn. Trung đội
thông tin nằm trong cái nhà đúc 2 tầng cách BCH khỏang 100m. Về đến nơi, tôi và
anh Ky được phân công xuống đại đội 1 ngay. Phải nói là sau những đòn mãnh liệt
và nhanh chóng của ta, địch bắt đầu hồi lại và tổ chức phản kích. Các đơn vị nhỏ
lẻ bâu bám cầm chân chủ lực ta để các đơn vị cấp sư đoàn gom quân, vũ khí, khí
tài rút vào địa hình hiểm trở hòng kháng chiến lâu dài. Chiến tranh có vẻ kết
thúc sau khi Phnom Penh được giải phóng. Nhưng với chúng tôi, nó mới thực sự bắt
đầu. Đêm vừa xuống đến đại đội 1, địch tập kích ngay. Tiếng súng rộ lên khắp
các đại đội. Nó đánh cả vào ban chỉ huy tiểu đoàn. Đại đội 1 nằm cạnh một gò
núi nhỏ mọc đầy tre tầm vông, chẹn ngang con đường đất đi về phía rừng thưa. Đại
2, đại 3, đại 4 nằm liền kề bố trí hình vòng cung lõm. Ban ngày yên tĩnh. Cánh
đồng trống trải nhìn rõ những gò cây khô trơ trụi do cháy và rụng lá mùa khô.
Lính tráng đi lại kiếm ăn cải thiện khá thoải mái. Sơn “ba tai” hữu tuyến còn
kiếm đâu được con ngựa liền cưỡi ra bờ sông sang thị xã Kampong Chnang kiếm rau
ăn. Chiều tối cả người cả ngựa bơi vượt sông về. Tôi cũng thử tập làm kỵ sỹ. Dù
lót cả cái bao tải làm yên nhưng cũng trợt cả da mông vì mồ hôi ngựa. Một lần
vào buổi trưa, thằng Đồng Huế liên lạc phát hiện một con trâu đang xồng xộc chạy
trên đồng, hướng địch hay vào tập kích . Tôi và nó nằm ngay trên cái phản trong
lều đại đội vớ ngay AK cứ thế tương. Con trâu đã loạng choạng lảo đảo thì lại
thấy bóng người đang đuổi theo nó. Ah! Địch rồi! Thằng này tợn thật, dám tiếc
con trâu à!. Thế là lại quay sang tỉa nó. Thằng Gia “cà bây”(trâu) bên cối 60
hét lên:” địch đâu mà địch! Ông Khanh đấy!”. Xung lực ngưng bắn ngay lập tức. Bố
Khanh -(Quê Cẩm Thuỷ, Thanh Hoá - đại trưởng) – đúng là bố Khanh thật, từ từ đứng
dậy quan sát rồi bình tĩnh tiến đến con trâu đã chết. Sau một hồi hì hục giải
phẫu, xách về một cái lưỡi trâu, một quả tim lừ lừ đi thẳng vào lều hỏi: “Thằng
nào vừa bắn đấy?” Thằng Đồng im lặng. Còn tôi đứng ngay dậy: “Em bắn đấy! Em tưởng…”.
Thế là veo một cái, cả cái lưỡi trâu trên tay cha Khanh bay thẳng vào mặt tôi.
Phản ứng cực lẹ, tôi né được phát thứ nhất. Chưa định thần thì bụp, cả quả tim
trâu đầy máu đập ngay vào bụng tôi rồi lăn ra đất. Dường như đã hả tức, anh ấy
chửi rủa vài câu nữa rồi thôi. Thằng Đồng len lén đi nhặt chiến lợi phẩm bất đắc
dĩ ấy đi rửa để chiều làm bữa. Còn tôi cởi áo (cái áo duy nhất), ra sau bụi le
đái vào vò sạch máu trâu rồi đi giặt.
Đấy là ban ngày, còn ban đêm các trung đội căng ra gác. Kể cả
các trung đội thông tin, trinh sát và vận tải tiểu đoàn. Đêm nào địch cũng tập
kích quấy rối. Bọn nó nằm ngoài bờ hoặc bìa rừng khô lia đạn nhọn vào đội hình
chứ cũng không dám xáp vô. Thỉnh thoảng cóc oành quả M.79. Hồi đầu, khẩu DK.75
đi phối thuộc với đại 1 cứ thấy loé lửa đầu nòng chỗ nào lại phụt một trái vào
đấy. Lâu ngày thành quen, ta chán không bắn lại nữa. Bọn nó đâm sợ bị ta dâng đội
hình phục kích nên dãn ra xa.
Đêm mùa khô thật lạnh. Địch tập kích đã thành quen. Có những
hôm không có tiếng súng bọn tôi không thể ngủ được. Tất nhiên,đừa nào gác cứ
gác,đứa nào ngủ cứ ngủ. Bây giờ là khoảng giữa tháng hai năm 1979. Qua radio,
tôi biết bọn Khựa đang tiến công ta trên toàn tuyến biên giới. Dường như để phối
hợp ,bọn Miên cũng tăng cường hoạt động. Có lần, giữa đại đội 1 và đại đội 3,
có hai thằng phụ B.40 lọt hẳn vào đội hình. Lính ta thấy mặt hơi bị lạ túm lại
hỏi :"Mày ở B nào?". Nó chỉ loằng ngoằng một lúc rồi phọt ra cánh đồng.
Mất cơ hội bắt sống hoặc diệt địch.
Đêm khuya thanh vắng. Bầu trời quanh vị trí đứng chân của tiểu
đoàn bỗng rền rĩ nức nở những tiếng than ai oán. Tôi nằm nghe cũng rợn hết cả
da người. Súng đây! Đồng đội cũng ngay đây! Ông Khanh đại trưởng đại 1 đánh
nhau thì hay nhưng hoá ra cũng sợ ma. Ông ấy hô thằng Dung "kỳ đà" bắn
cối. Cả đại đội nhỏm dậy. Điện thoại tiểu đoàn gọi xuống hỏi tại sao các anh
dùng hoả lực. Thì ra là tiếng kêu của bày công đất đi ăn đêm (thịt công đất tuyệt
ngon-đúng là nem công chả phượng. Chuyện này tôi sẽ kể với các bạn sau).
Hướng trung đội 2 tiếng trung liên của thằng Cự kéo hai loạt
ngắn trước. Tiếng AK của địch đáp trả rất gần. Một lát sau nổ thêm 3 phát nữa
nhưng xa hơn. Sau đó tất cả lại im lặng. Bình thường địch bao giờ cũng nổ súng
trước nhưng đêm nay như thế thì quả là lạ. Anh Khanh nhỏm dậy gọi thằng Đồng
cùng xuống trung đội 2 kiểm tra tình hình. Một lát sau trở về kêu các trung đội
tổ chức thêm vọng gác. Cả BCH đại đội và cối
60mm vì nằm gần nhau nên cũng phải tổ chức chung một vọng gác nữa. Cái
linh cảm là lạ này bắt đầu ở đâu nhỉ? Ah! Thì ra là từ sự im lặng bất thường ấy,
Rồi đêm cũng dần qua. Buổi sáng, trước hầm gác của thằng Cự trung đội 2 lù lù một
cái xác Miên to vật. Nó nằm sấp úp mặt xuống đất. Lính ta định lật xác nó lên
thì anh Khanh cản lại. Săm soi một lúc nữa mới phát hiện thêm một vệt máu nữa
cách đấy một chút rồi mất dấu. Trở lại xác thằng địch chết, thận trọng lật lên
(vì đề phòng chúng nó gài mìn) thu khẩu M.79 với rất nhiều đạn và lựu đạn. Bộ
ka ki màu xám, cái túi mìn claymo bên trong có một cái võng nilon (cái võng này
tất nhiên thuộc về thằng Cự). Một cuốn sổ ghi chép linh tinh chữ loằng ngoằng
như giá đỗ. Ở moi quần còn phụt ra cả một đám tinh dịch loang lổ, chắc do mất
kiểm soát hành vi trước khi về nước Chúa. Khẩu M.79 đã bắn nhưng đạn mới ra khỏi
nòng đượcmột nửa vì ngã sấp. Trinh sát tiểu đoàn khi dịch cuốn sổ cho biết đây
chính là bọn đặc công, đêm qua định xơi tái đại 1. Thật may là đàn công đất đã
báo động cho chúng tôi. Khi đại đội bắn cối nó tưởng là bị lộ nên rút ra. Có thể
hình dung tổ ba người của thằng trinh sát này đen đủi mò vào đúng họng RPD của
trung đội 2. Chết 1, bị thương 1 vì vẫn còn dấu máu khi rút lui. Tiếng AK bắn 3
phát sau từ phía xa có thể là hiệu lệnh tập hợp đội hình của địch. Hú vía! Từ
đó bố có bảo cũng chẳng thằng nào dám bỏ gác.
Thường thì cán bộ đại đội khi chọn liên lạc bao giờ cũng chọn
những thằng nhanh nhẹn tháo vát, nhỏ người trong số quân mới bổ sung. Ngoài nhiệm
vụ liên lạc với các trung đội, nó còn là cả một cái kho di động, chuyên ém những
nhu yếu phẩm cần thiết. Chẳng hạn có giai thoại là khi bắt đầu buổi họp quân
chính đại đội. Khi đại trưởng hoặc chính trị viên muốn khao các B thì hỏi liên
lạc:” Này thằng em! Thuốc rê còn hay hết?” Thế là liên lạc nhanh nhảu ngay:”
Còn anh ạ!” rồi mang ra tất cả phì phèo.
Còn nếu hỏi ngược lại rằng” hết hay còn?” thì câu trả lời bao giờ cũng là “Dạ
đã hết!”. Tất nhiên trong bồng bao giờ cũng phải còn một bịch nữa dành cho những
lúc anh em nhà nó lên cơn vật. Tôi cũng
tập toẹ hút thuốc từ dạo đó. Hồi đầu mỗi tháng được hai gói thuốc Mai, Đà lạt,
Lao động hay Vàm cỏ, tôi đều cho đi hết. Sau này đến cả thuốc rê Tây ninh đắng
nghét hôi xì cũng chẳng từ. Điếu thuốc rê sâu kèn, quận bằng báo Quân đội nhân
dân hoặc bằng lá cò ke còn một tý tóp cũng giắt lên vách, phòng khi cơ nhỡ mang
ra xài tạm. Mỗi lần có nhu yếu phẩm ở nước sang là cả một ngày hội đúng nghĩa.
Trà B’lao (lính gọi là trà Bố láo), thuốc lá bao các loại, đường và sữa…Đục mấy
hộp sữa ra, láng chảo một ít mỡ, tiếp thêm một chút đường. Bắc lên bếp ngoáy đều
cho đến khi quánh lại. Đổ ra vung xoong quân dụng cán phẳng rồi dùng dao cắt
thành những miếng vuông đều nhau. Thế là xong món kẹo. Ca inox Mỹ cho trà vào,số
lượng không hạn chế sau đó úp ngược cái bình tông nhựa vừa khít đầy nước sôi
lên trên. Thế là xong món trà quắt lưỡi. Quanh cái bàn dã chiến với những món “
thời trân” đó, những câu chuyện của lính bất tận liên tu…Trà trong bát hết lại
nhấc bình toong lên một chút, Nước lại chảy xuống ca. Chuyện chán thì quay ra
bôi bác nhau hoặc bôi bác tỉnh nọ tỉnh kia. Những câu chuyện vui về các miền
quê trên khắp đất nước truyền từ đời lính nọ sang đời lính kia, mà chắc bây giờ
vẫn lưu truyền trong quân ngũ. Lính Hải hưng chê lính Thanh Hoá “ăn rau má, phá
đường tàu- khu 4 đuổi ra- khu 3 đuổi vào - đuổi sang nước Lào- Lào không thèm
nhận- biết thân biết phận - lập quốc gia riêng- thủ đô thiêng liêng – là vùng
Nông Cống –bài ca truyền thống- dô tá dô tà….”. Lính tỉnh Thanh đốp lại dân Hải
Hưng là loại đội nón cho chó. “Nước lụt tháng 3, ngồi trên nóc nhà hát bài ca
hy vọng…”. Chuyện này bắt đầu là vì hồi nước lụt năm 1971. có gia đình ở Hải
hưng leo lên nóc nhà. Khi trực thăng bay qua thả bánh mỳ cứu trợ thì ông bố
nhanh trí giằng nón đội cho con chó để lấy thêm một suất nữa…Những chuyện vô
thưởng vô phạt như thế mà đôi khi máu đồng bào nổi lên là quay ra táng nhau
ngay. Tỉnh nào cũng có ”thành tích” nhưng khốn khổ nhất vẫn là Nghệ an và Thái
bình…Ghét nhau tức nhau lúc ấy thôi nhưng khi lâm trận mới thấy liền như ruột
thịt.
Tôi được điều xuống đại đội 3 trực máy vì một lý do rất vớ vẩn.
Thằng liên lạc mới (không nhớ tên) của anh Đạt đại trưởng nhặt được ở đâu đó quả
đạn cối 81 lép mang về định kẹp thêm lựu đạn đánh cá. Anh Đạt đang nằm võng
trông thấy hét nó mang đi vứt ngay. Thằng ngu đấy giật mình ném đi luôn thật.
Thế là :“Uỳnh!”. Đạn thì nặng, tầm ném gần. Đại trưởng và thông tin bị thương,
liên lạc hy sinh. Đang thiếu người, anh Thưởng, anh Sơn tiểu đoàn tức lộn tiết
nhưng đành động viên anh Thoan xuống nhận nhiệm vụ đại đội phó. Tôi từ đại đội
1 sang đi với đại 3. Nói thêm một chút về anh Thoan, người Thanh Hoá, lính 74
đang mang hàm chuẩn uý. Sau những trận đánh ác liệt ở cầu Prasaut, anh ấy không
nhận nhiệm vụ nữa. Tiểu đoàn rút lên kỷ luật Đảng nhưng vẫn để đi kèm tiểu đoàn
bộ. Lính tráng nói kháy gọi là “tham mưu tụt tạt” hay là “thành phần đọc báo”
anh ấy cũng mặc kệ. Lần này không nhận nhiệm vụ không được nên đành xuống đại đội
3. Một lần trong đêm, tôi gọi về tiểu đoàn kiểm tra đường dây như thường lệ. Thấy
tay quay máy nhẹ và không có tín hiệu biết ngay là dây đã đứt. Tôi gọi thằng Phụng
2W(người Huế- hy sinh năm 1982) lên máy rồi trở dậy, khoác súng đi nối dây. Lại
còn cẩn thận mang thêm cả bao xe. Xin anh Thoan thằng liên lạc đi cùng nhưng
anh ấy không cho.Tôi bảo thằng Phụng gọi về tiểu đoàn thông báo các chốt gác để
khỏi bắn nhầm rồi lên đường. Chỉ huy sở tiểu đoàn cách đại 3 khoảng 1,5 km. Đêm
tối như mực. Tay tôi cứ lần theo dây mà đi thật chậm tìm chỗ đứt. Thỉnh thoảng
lại co kéo dây thật nhẹ nhàng để kiểm tra. Nếu thấy dây điện thoại co về dễ
dàng thì hãy cẩn thận, vì đã đến gần chỗ phải nối. Ai biết được dây đứt vì lý
do gì? Bọn Miên thường chơi trò cắt dây điện thoại rồi nằm phục tại vị trí cắt
hoặc gài mìn. Điều này anh Hoạch, anh Tuấn “còi” đã dạy chúng tôi từ hồi còn nằm
chốt biên giới. Lần mò dần nhưng không thấy dây đứt chỗ nào. Đã nhìn thấy nóc
chùa tiểu đoàn mờ mờ trên nền trời sao. Vọng gác thông tin đây rồi. Tôi cúi người
thật thấp rồi giặng hắng: “ Thông tin đây! Đừng bắn!”. Anh Hoạch ra đón. Tôi
thông báo tình hình. Anh Hoạch nhận định có thể dây bị đứt ngầm rồi giục tôi về
làm cọc âm. Khi ta nối một dây vào cọc âm thì máy điện thoại vẫn có thể liên lạc
được. Tất nhiên chất lượng liên lạc có kém hơn. Về đến đại đội, tôi lôi que
thông nòng AK ra lấy xẻng đóng xuống đất làm cọc âm. Nhưng vẫn không liên lạc
được vì đất mùa khô độ dẫn truyền điện tích rất kém. Thế là tôi mang ra ngay
cây dừa, đóng vào thân cây. Tiếng chan chát vang lên trong đêm làm anh Thoan
cáu :” Thôi ngay đi! Địch nó bắn vào bây giờ!”. Tôi cũng phát khùng. Phần thì mệt,
phần thì tức chuyện không cho người đi cùng lúc nãy liền vặc lại :” Đây là nhiệm
vụ của tôi! Tôi không thể không nhận!”. “Ah ! Thằng cà chớn...!” Anh ấy chạm nọc
văng vung xí mẹt, đòi đuổi tôi về tiểu đoàn ngay. Đến lúc này thì tôi cũng cóc
cần gì nữa. Liên lạc đã thông, tôi quay máy thẳng về báo cáo với trung đội. Sau
vụ đó vài hôm, thấy căng thẳng, anh Nhương (lúc này đã là trung đội phó) lại
chuyển tôi sang đại đội 1.
Cuối tháng 2 lại có lệnh hành quân. Đơn vị rời Bongbang sang
Kampong Ch’nang bằng tàu hải quân. Đến thị xã, tôi nhận được một lúc 14 lá thư.
Thư gia đình, thư các bạn cùng lớp phổ thông…Đây là lần đầu tiên những lá thư đến
với tôi. Chúi vào một góc kín đọc chậm từng lá. Nước mắt lặng lẽ chảy… Làm thế
nào được, năm đó tôi mới 19 tuổi đời. Không có nhiều thời gian cho những xúc động
riêng tư, tiểu đoàn lên xe theo lộ 27 tiến về ga Rômeas. Đây là con lộ đất dài
khoảng 30 km. Phía trong khu vực ga, địch đang bao vây tiểu đoàn 6 và một đại đội
của trung đoàn pháo 42 (105mm). Đêm đêm nó đánh vào tận chân pháo. Pháo thủ phải
đánh nhau như bộ binh. Nhiều lần phải hạ nòng xuống bắn thẳng. Thậm chí các đơn
vị địch còn dùng pháo hiệu bắt liên lạc với nhau để hiệp đồng. Bọn này thuộc
quân khu Tây nam, đang bị ta dồn vào các thung lũng rừng núi kẹp giữa Kampong
Ch”nang và Kampong Speu – thánh địa cuối cùng- nên điên cuồng chống trả. Đường
đất đỏ mùa khô bụi mù mịt, nghẹt hết cả mũi. Xe chạy được nửa đường có lệnh xuống
xe hành quân bộ theo đội hình chiến đấu. Đại đội 2 đi đầu. Đại 3 sườn bên phải.
Đại 4, tiểu đoàn bộ đi giữa cùng xe tải. Đại 1 đi chặn hậu. Đại 2 bắt đầu chạm
địch. Chúng nó không đối đầu, dạt sang bên phải. Cứ thấy tiếng xe nổ máy rì rì ở
đâu là bắn đạn nhọn về phía đó nhưng cũng không dám dàn mặt. Mặc kệ! Xe cứ chạy,
tiểu đoàn cứ tiến. Phát đạn duy nhất bắn về phía địch là quả M.72 của một tham
mưu trung đoàn đi cùng đội hình đơn vị. Bố này mang nặng muốn quăng bớt đi cho
nhẹ. Cách ga Rômeas 1 km, đến cầu cháy thì gặp trung đội chốt đường của đại 11
tiểu đoàn 6. Tôi gặp thằng Hiệp là thằng bạn cùng lớp, cùng trường Phan Đình
Phùng rồi đi lính. Nó vẫn mặc bộ quân phục màu vàng đất thời huấn luyện ở Phủ
Lý. Trên tay là khẩu B.41 “ống loe”. Cùng lớp 10E của tôi năm ấy ra trận có thằng
Tuấn Anh, thằng Bình cáo, thằng Thọ. Mỗi lá thư của chúng tôi gửi về đều là thư
chung cho ngần ấy gia đình. Khỏi phải nói chúng tôi đã mừng rỡ như thế nào. May
mà vẫn chưa có đứa nào bị thương hoặc hy sinh. Thằng Hiệp kể rằng trung đội chốt
đường của nó đã nằm đây 4 ngày trời. Rình rập tỉa nhau với địch quanh cái cầu
cháy này. Bọn nó muốn chiếm và phá huỷ cầu để ngăn cơ giới ta nhưng không được.
Chuyện ngắn vài câu tôi lại mải mốt bước theo đơn vị. Chiều tối tiểu đoàn 4 nghỉ
luôn ở vị trí đại đội pháo 105mm. Lính pháo mấy ngày lạnh lưng hở sườn lo sốt
vó chống địch, bây giờ thấy chúng tôi đến, lại được tiếp thêm đạn pháo thì sướng
quá. Còn bao nhiêu trà lá thuốc thang mang ra chiêu đãi mệt nghỉ. Thằng Bình
cáo nghe tin tiểu đoàn 4 đến tăng viện, mò sang chỗ tôi chơi. Hai thằng trải
nilon nằm trên mặt bờ ruộng nói chuyện. Được mươi phút thì địch lại đánh rát
vào đại đội 11. Tiếng súng rộ lên. Nó trở dậy chạy về đơn vị. Rừng mùa khô đang
cháy dữ dội. Lửa hắt lên trời những vầng sáng hồng rực, nhìn rõ cả từng cái cát
tút rơi trên đường.
Sáng hôm sau, tiểu đoàn 4 nằm ở sân ga đợi lệnh. Ga Rômeas,
cũng như mọi nhà ga nhỏ trên trái đất này, với đủ đường ke, nhà chờ và tháp nước…Con
đường sắt heo hút chạy giữa rừng dầu thưa, mùa khô lá rụng, không biết về đâu.
Nhà ga một tầng, lợp ngói đỏ. Tường lỗ chỗ vết đạn to nhỏ. Phía trong nhà cũng
cửa tò vò, ghi sê bán vé. Những vật thể kiến trúc còn lại như nhắc nhở về một
thời yên bình từng hiện hữu nơi đây. Ngắm nhìn chúng, tôi thấy buồn buồn…Trên
sân ga, hàng cây keo cổ thụ toả bóng râm mát. Mỗi khi gió mạnh thổi qua, những
quả keo chín loăn xoăn quay vòng rụng xuống. Hướng tây ga Rômeass là một trái
núi nhỏ, thấp, cách ga khoảng 3 km. Trung đoàn 1 đang đánh địch ở đó. Trên núi,
nó có một khẩu pháo cao xạ 37mm hai nòng hạ góc tà âm bắn điên cuồng hòng cản
bước sư đoàn. Cứ “Bốp bốp…khục khục” suốt.
Trận địa pháo 105mm của trung đoàn 42, được chúng tôi hộ tống xe tiếp tế
hôm qua, bắt đầu bắn không tiếc đạn lên núi.Tại giao lộ đường sắt và đường 27,
cán bộ quân lực và chính sách trung đoàn 1 đang vạch võng thương binh,tử sỹ nhận
người. Tiểu đoàn 4 theo đường sắt lên hướng tây bắc 1.5 km rồi tạt xuống lòng một
con suối cạn chuẩn bị vu hồi. Hai bên bờ suối, le mọc dày rịt. Thân nọ đan thân
kia như một hàng rào không thể vượt qua. Toàn “cồ” túm được một con tê tê (con
trút) ngay trong lòng suối định mang theo làm thịt nhưng ai cũng bảo vứt đi. Đi
đánh nhau ăn thịt trút, ăn rùa và nhất là cơm khê thì lính rất kiêng, kể cả cán
bộ tiểu đoàn. Thằng anh nuôi mà sơ ý để cơm khê là nghe chửi vỡ mặt rồi chuẩn bị
cọ nồi mà đi nấu nồi khác. Được thả, con trút đang cuộn mình từ từ duỗi ra rồi
chậm chạp lủi vào một cái hốc. Khẩu 37mm của địch bây giờ không thấy bắn nữa.
Thông tin trung đoàn thông báo là E1 đã tịch thu được nó rồi. Thu nốt cả cái xa
ô tô kéo pháo. Tiểu đoàn tôi lại được lệnh quay lại nhà ga, theo đường bò bắc lộ
27 tiến giữ sườn cho trung đoàn 1. Đường bò là loại đường dân sinh. Nông dân
Campuchia thường dùng loại xe gỗ bánh cao do đôi bò kéo để vào rừng, lên rẫy.
Những con đường do bò kéo bao giờ cũng có hai vệt bánh xe, ngang dọc khắp rừng.
Chiều tà, nghỉ giải lao tại một cái nhà tôn có cần anten cao vút địch bỏ chạy
chưa kịp dỡ. Anh Trung tham mưu tiểu đoàn bảo đây chính là sở chỉ huy sư đoàn địch.
Tôi gặp thằng Thọ - bạn cùng lớp cũ - trong đội hình tiểu đoàn 6 đang hành quân
qua. Khẩu cối 60 cồ cộ trên vai, đầu chụp cái mũ nhựa ép dạng mũ sắt của QLVNCH
cũ, không biết nó kiếm được ở đâu. Nó thả khẩu cối bịch xuống đất, xin tôi hớp
nước. Nói được dăm ba câu chuyện rồi lại vác cối lên vai, lùi lũi đi theo đội
hình. Lại tiếp tục lên đường. Đi mãi đến sâm sẩm tối, đơn vị dừng lại ở một cái
phum cũ, rừng vây xung quanh. Không còn nhà cửa, chỉ có thể nhận biết là nơi từng
có người ở qua những cây me, cây chùm ruột lẫn trong những hàng rào đổ nát. Các
đại đội lặng lẽ bố trí đội hình. Lại cấm đốt lửa, chúng tôi bẻ cơm vắt được
phát hồi trưa, chấm với bột gia vị cố mà nuốt. Đêm trong rừng núi tịch lặng và
bí hiểm. Trên những cây dầu lớn, trong những hốc người ta đục vào thân cây đốt
để lấy dầu, ánh lửa chập choạng ma quái. Đâu đó phía xa, vài tiếng súng lẻ vang
lên rồi tắt ngấm. Sau tiếng súng, không gian như càng im vắng hơn.
4 h sáng. Dậy! Tiếp
tục hành quân. Lần này đơn vị bỏ đường lộ cắt xiên sang tay phải vào rừng. Tốc
độ hành quân chậm do trinh sát phải dò dẫm bám địch. Đi được một lúc, sau khi
vượt qua một con suối có một bờ cao dốc đứng, đội hình dừng lại. Đằng trước có
tiếng chặt cây chan chát cùng tiếng đào đất thình thịch. Địch đang chặt cây làm
hầm chiến đấu. Tiểu đoàn báo về trung đoàn đã phát hiện địch rồi triển khai đội
hình bí mật tiếp tục bám dần lên. Đại 3 vượt sang bên phải sẵn sàng đánh sườn.
Đã gần địch lắm rồi. Trong khi đặt đạn, không biết đứa nào bên cối đại 4 để
gánh đạn va vào mâm cối đánh “cốc” một tiếng. Tiếng chặt cây lập tức im bặt.
“Cóc! Oành…!”. Quả M.79 của địch bắn thăm dò trúng một thân cây loé xanh nổ.
Không ai bắn trả. Tất cả lại im lặng. Tôi nghí thầm bọn này ghê gớm đây! Không
gọi 2W vì sợ lộ, tiểu đoàn cho truyền đạt bò lên các đại đội lệnh khi phát hiện
địch cho hoả lực nổ súng đồng loạt áp đảo. Tổ truyền đạt vừa về đến tiểu đoàn
thì “Ùng ! Uỳnh!”. B.40, B.41 thi nhau nổ tức ngực. Tiếng đạn nhọn ré lên ngay
tức thì . Trời đã mờ sáng. Lính đại 1, đại 2 cứ thấy chỗ nào có ụ đất mới hoặc
cành cây gãy còn tươi lù xù trên đất là thổi B.40, B.41 vào đấy. Lối tiếp cận
quá gần cùng hoả lực mãnh liệt làm cho bọn nó choáng. Sau khoảng 15 phút là
tháo chạy ngay. Bỏ lại hơn chục thằng toi mạng trên dãy hầm mới đào đêm qua. Có
thằng nằm vắt nửa trên nửa dưới hầm, cánh tay và gần nửa người bị hơi nổ tuốt
đi. Cối 82 đại 4 mới bắn chi viện hơn chục trái đã phải tháo súng lên theo bộ
binh. Truy kích thêm nửa cây số nữa đến một cái phum. Địch chạy tuốt vào đấy rồi
tổ chức chống trả. Cối 60 của địch trong phum hoàn hồn, bắt đầu lên tiếng. Hai
khẩu cối 82 của đại 4 bắt đầu giã vào phum. Mấy thằng lính cối khôn vặt tranh
nhau tháo đạn để khỏi mang nặng. Hễ cứ nghe tiếng M.79 hay tiếng cối ta, cối địch
đề pa “Coong!” một tiếng, y như rằng tiếng đạn nhọn lại câm bặt. Nổ “Oành!”
xong một cái thì lại rồ lên như xé vải. Đạn cối địch rơi ngay trúng đội hình tiểu
đoàn bộ. Thằng Khoát người Thanh Hoá lính vận tải bị một quả cối 60 nện giữa đỉnh
đầu. Phần sọ biến mất. Chi còn xương hàm dưới với khúc đứt đầu tuỷ sống nám đen
thuốc nổ. Đại 1, đại 2 vẫn chưa vượt qua được trảng trống trước phum. Đúng lúc
đó, phía sau đội hình, tiếng súng địch toang toác rộ lên rất gần. Chúng nó đánh
bọc đít. Bọn này cơ động nhanh thật. Anh
Sơn điều một trung đội của đại đội 3, cùng với thông tin, trinh sát tiểu đoàn bộ
vận động ra phía sau chặn địch. Lúc trung đội của đại 3 vận động ra phía sau,
có tiếng lao xao: “Đại 3 chạy kìa!”. Anh ấy vằn mắt nhìn quanh. Tôi tin là nếu
phát hiện thằng nào vừa lên tiếng, ông ấy bắn cho vọt óc. Chúng tôi bắn dữ dội
về phía sau, mặc dù không nhìn thấy địch. Phía trước, bộ đội đã bám được vào
rìa phum. Tiếng súng thưa dần. Cối 82 quay nòng giã về phía sau mấy trái. Bọn bọc
đít biết tình hình không ổn nên cũng chuồn nhanh. Tiểu đoàn 4 đã làm chủ trận địa.
Đơn vị dừng lại củng cố vị trí đứng chân sau 2 ngày đánh địch,
vượt quãng đường gần 50 km. Anh nuôi triển khai nấu cho bộ đội ăn cơm nóng.
Đang mùa khô, lính ăn 8 lạng một ngày (mùa hè 7 lạng gạo/ ngày). Thông tin còn
trên tiểu đoàn 9 người, vị chi là 2.7 kg, vừa xoẳn cái ruột tượng tôi mang. Khốn
nạn hệt mấy thằng lính cối lúc nãy, tôi nhanh chân đến xoong quân dụng của thằng
Cầm điếc trút tuột hết gạo vào. Nhẹ mang đi được mấy ký. Thậm chí còn nháy mắt
với thằng Ban trố đến sau. Trừ các trung đội cảnh giới vòng ngoài, lính ta bắt
đầu lục lọi kiếm ăn. Tôi lục được một chum đường thốt nốt, múc đầy một ca inox
rồi vẫy tay gọi chúng nó. Sau một loáng chỉ còn lại cái chum không. Của này buổi
tối lạnh nấu một nồi chè thì cả trung đội ấm chân răng. Còn cái gì đây thế nữa?
Ah! Một dãy toàn chum đựng muối đầy ặc. Muối biển tải lên rừng để kháng chiến
lâu dài đây mà. Mấy thằng xúm lại, hè nhau lăn ra dốc hết xuống suối. Lia thêm
loạt AK, mấy cái chum vỡ toác. Thế là đi ráo cả cặp phạm trù nội dung lẫn hình
thức. Xin các nhà đạo đức đừng vội kết án. Chiến tranh là thế đấy! Tiểu đoàn
tôi hôm nay đã mất đi ba người nữa rồi…Trên một căn nhà khác, tôi tìm được một
con dao cắt kính. Con dao nhỏ chuôi gỗ đen bóng khắc nhiều hoạ tiết, chuốt cong
như một mái chùa xứ này. Có thể nói là một tác phẩm tuyệt đẹp. Tôi dám chắc nghệ
nhân chế tác ra nó chỉ để chơi mà thôi, chứ không phải để rạch cắt trên bất cứ
tấm kính thô lỗ nào. Gia tài bẻ bỏng trong ba lô của tôi thêm một món đồ. Nào!
Thử kiểm kê xem nó có những gì: Một bộ quần áo lính vải kaki gabađin Nam Định
(đang mặc trên người), thêm một cái quần dài vải chéo đã mủn vài chỗ. Đôi áo
lót trước kia là màu trắng. Hai cái quần đùi giải rút lính, rộng thùng thình,
chừa rất nhiều tự do cho đối tượng mà nó cần bảo vệ. Một cái võng vải còn khá tốt
lột được của địch. Tấm nilon dày phát từ thời huấn luyện ở Phủ Lý. Hai cuốn truyện lấy được gần phà Niek Luong
hao gầy dần đi theo năm tháng, vì ngoài chức năng phục vụ văn hoá, nó còn phải
phục vụ thêm một số nhu cầu bắt buộc khác. Cái địa bàn Mỹ anh Phát tôi (lính
trinh sát cũ bị thương năm 75) cho trước khi vào bộ đội. Bịch thuốc rê và tập
thư bọc kỹ trong túi nilon quý hơn vàng. Mấy miếng liều cối 60 và sợi dây inox
để kéo lửa khi trời mưa ẩm và để bôi dán ghẻ. Năm viên đạn vạch đường (tích trữ
do sợ bị lạc). Cái bát sắt B.52 và đôi đũa. Bây giờ có thêm con dao cắt kính nữa.
Hết! Thêm máy móc, súng đạn, tất cả gọn nhẹ trên người 16 kg, không kể đôi dép
đúc lấy của thằng Năm đã hy sinh dưới chân. Như thế thôi nhưng còn khá giả hơn
khối thằng trong đơn vị.
Như không bao giờ ngưng nghỉ, như những cuộc hành quân tháng 3 tháng 4 mùa khô năm 79. Sư đoàn 7, sư
đoàn 341 ở hướng nam và tây nam, sư đoàn 9 chúng tôi theo hướng đông bắc tiến
vào Ăm leng - chiến khu của Khơmer Đỏ. Có thể hình dung khu vực này giống như một
tứ giác lồi. Một cạnh là tuyến đường sắt từ ga Rômeas đến ga Pursat dài khoảng
100 km với các ga Thơmay, Bâmnak, Kâmrenh… mà lính sư 9 không thể nào quên. Một
cạnh là rìa phía tây tỉnh Kampong S’peu. Một cạnh là lộ 56 chạy từ thị xã
Pursat đi thị trấn Leach, đến tận biên giới Thái lan. Cạnh cuối cùng là một
lũng núi rộng lớn nằm kẹp giữa vùng núi tỉnh Kôcông và dãy núi Ôrăng S’vai,
thông từ Kampong S’Peu cho đến Leach - nơi hầu như toàn bộ quân khu Tây nam của
địch bị ta dồn vào đấy. Sở dĩ nhớ được những điều này bởi vì tôi là thằng rất
khoái bản đồ, địa bàn. Là lính thông tin, luôn được đi với chỉ huy sở khi hành
quân nên cứ mỗi lần tiểu đoàn trưởng, tham mưu hay trinh sát pháo binh xem bản
đồ, vạch tuyến đi là tôi cứ sán đến le lé mắt xem ké. Tôi dần học mót được khối
điều. Chẳng hạn cách xác định địa điểm đứng chân theo các mốc chuẩn tự nhiên của
địa hình. Các đường bình độ sít sịt dính nhau như thế kia là chuẩn bị leo dốc hộc
cơm. Cái con suối vẽ vạch đứt quãng như thế này thì chỉ có nước vào mùa mưa.
Còn hôm nay cái bút chì đỏ chỉ huy tiểu đoàn vẽ một mũi tên dài độ nửa gang tay
trên tấm bản đồ bọc nilon tỷ lệ 1/15.000 thì yên tâm là đi 15 km sẽ được nghỉ…
Mùa mưa đã gần tới. Phải đập tan phiên hiệu các đơn vị địch,
phá huỷ các căn cứ hậu cần của chúng, tạo thế đứng chân trong mùa mưa là nhiệm
phải hoàn thành gấp rút. Chúng tôi đi như bị phát cuồng. Hành quân cả ngày, đôi
khi cả đêm. Càng vào sâu trong thung lũng đi càng gấp. Đụng địch ở đâu đánh địch
ở đó. Một đêm trong khoảng trung tuần tháng 3, sau vài lần chạm súng lẻ tẻ với
bọn trinh sát, chúng tôi đã tiến gần tới Ăm leng. Con đường cát trắng, mờ mờ bụi
dưới ánh trăng. Hai bên là rừng thẫm tối. Đến gần sáng thì đại đội 3 chạm địch.
Anh Thoan đại đội phó đi cùng trung đội đi đầu lĩnh đủ một phát M.79 bi. Lính tản
ra nằm xuống bắn loạn xạ rồi bò lui, kéo được anh ấy vả thằng liên lạc về. Ngực
và bụng lỗ chỗ vết bi, máu ra đẫm ướt cả cái võng, anh ấy khò khè được vài tiếng,
kêu “Mẹ…!” rồi tắt thở. Hy sinh hai, bị thương một. Ơi anh Thoan! Hãy yên nghỉ!
Quên đi những phút nổi khùng giữa hai anh em mình nhé! Quên đi những lời đàm tiếu
hay những phút yếu lòng! Đơn vị mình mà túm được cái thằng chó bắn phát M.79 ấy
sẽ mang nó ra tế vong linh Liệt sỹ! Tiểu đoàn tôi quân số vãn dần đi. Mỗi đại đội
còn hơn ba chục tay súng khi xung phong là đã thấy vững lòng. Nhưng trường hợp
hy sinh của anh Thoan làm tôi suy nghĩ mãi. Con người ta ai cũng có đôi khi cảm
thấy sợ hãi, nhưng lại có những lúc lao lên dấn thân đi đầu như anh chăng? Bản
thân tôi cũng tự thấy mình đã mừng rỡ một cách khốn kiếp khi được chọn vào
trung đội thông tin nhiều cơ hội sống sót hơn. Cả đến bây giờ vẫn thấy là mình
đã may mắn mới tệ! Chúa ơi! Sao Người không tạo những cơ hội cho con người được
soi trong những cảm xúc yên lành, để được thấy rằng mình tốt đẹp và tử tế. Chiến
tranh quả thực là một tấm gương buồn. Tôi bỗng nhớ một bức tranh khắc gỗ của một
tác giả nước ngoài vẽ người lính Việt. Bố cục là một cái mũ sắt trùm lên gương
mặt trầm tư đang cúi xuống ống sáo trúc. Ngang vai sau lưng, vạch qua nòng súng
là một đàn cò giăng giăng… Hay người lính Nga trong bộ phim vượt sông Dniep. Cả
cánh đồng lúa mì đang cháy. Gã mujich phủi tàn lửa ở ống quần, tuốt một bông,
xoa xoa trong bàn tay to bè thô kệch cho sạch vỏ rồi hất vào mồm…Thân phận quá!
Vì trước khi là lính, tôi và họ đều là những con người bình thường.
Đêm ấy đơn vị triển khai đội hình tại chỗ chờ trời sáng. Đó
đây, trên các hướng khác thỉnh thoảng lại rộ lên tiếng súng, càng gần sáng càng
dữ dội. Có cả tiếng động cơ ô tô rì rì, không rõ xe ta hay xe địch. Tang tảng
sáng, mờ mờ địa hình địa vật. Cối 82 đại đội 4 bắt đầu bắn. Bắn thì cứ bắn thế
thôi, chứ có xác định được vị trí địch đâu. Các đại đội giữ sườn cho nhau. Bộ
binh bám đường tiến dần lên. Lên qua chỗ địch phục kích hồi đêm 200m, cả tiểu
đoàn lại chúi xuống. Hai bên rìa đường phía trước, hai khẩu đại liên địch bắn
chéo cánh sẻ rèn rẹt. Lính tráng hồi này cũng hư, cứ gặp hoả lực địch hơi mạnh
một chút là nằm kềnh ra, ỷ vào hoả lực tiểu đoàn. Rừng dày thế này, DK.82 xếp
xó mặc dù đã giá súng. Hai khẩu 12.8mm trong phòng ngự thì lợi hại , hoặc ngỏng
nòng bắn trợ chiến khi xung phong cho nó hách, chứ còn trong trường hợp này
cũng vô dụng. Tất cả trông chờ vào 2 khẩu đội cối 82 và mấy khẩu cối tép dưới
các đại đội. Đúng lúc đó, có tiếng động cơ xe tăng rền rền phía sau. Từ đâu lòi
ra 4 cái T.54 của lữ đoàn 22, phun khói mù mịt. Trưởng xe tháo mũ công tác gào
lên hỏi bộ binh tình hình địch rồi lại thụt vào xe. Bốn chiếc tăng vượt qua đội
hình, càn qua cả những bụi cây nhỏ xộc thẳng vào vị trí địch. Bộ đội bám liền
ngay theo sau. Pháo 100 và trọng liên 12.8 mm trên xe nổ điếc tai. Rừng rung
rinh nghiêng ngả. Mấy thằng lính chạy gần nhăn cả mặt, há cả mồm. Tiến được một
lúc nữa, mấy chiếc tăng tự nhiên dừng lại. Thằng xạ thủ 12.8mm trên tháp pháo
quay xuống hỏi các anh đơn vị nào? Khi biết chúng tôi là trung đoàn 2, bọn tăng
ơi ới gọi nhau trở lui ngay lập tức. Thì ra bọn này có lệnh đi phối thuộc với
trung đoàn 1 lại nhầm đường sang hướng đơn vị tôi. Đường bò ngang dọc trong rừng.
Chưa biết tiến hướng nào thì nghe chúng tôi nổ súng dồn dập nên đổ xô đến. Ôh!
Cảm ơn chiến hữu về sự hiệp đồng bất ngờ này! Bọn lính chúng tôi quen gọi những
trận chiến đi qua theo đặc điểm riêng của nó. Chẳng hạn trận “rừng tràm”, trận
“cầu cháy”… Và lần này là trận “xe tăng nhầm đường”. Một đám dân bạn rách rưới cùng mấy chiếc xe
bò đi ngược về hướng đơn vị. Tiếng mõ bò lốc cốc. Mấy người đi đầu huơ khăn cà ma rối rít rồi
kín đáo chỉ về phía sau. Chúng tôi dạt sang hai bên đường cảnh giác. Y như rằng!
Bọn địch bám theo dân thấy động lủi sang hai bên rừng, bắn mấy loạt réc réc rồi
biến mất. Một cái trảng nhỏ xuất hiện bên tay trái. Ngô mọc mới đến ngang thắt
lưng tạo một khoảng xanh giữa vùng rừng cháy. Thẩp thoáng trên triền bình độ thấp
trong hõm núi, cách chúng tôi chừng 300m là mấy mái tôn xám nhạt. Vết bánh xe tải
ngang dọc trên bãi. Đây là cứ của địch rồi! Tiểu đoàn dàn hàng ngang tiến đến.
Bộ binh đi đầu bắn như vãi đạn. Trung đội đi đầu đã lọt hẳn vào trong khu vực
mà không hề có tiếng bắn trả. Địch đã bỏ chạy. Vào đến nơi mới thấy đây là một
căn cứ hậu cần quá rộng. Một chiếc xe Hoàng hà vẫn còn đang nổ máy. Đường đi lối
lại phong quang. Thậm chí trong bếp lò nấu cơm, than vẫn còn hồng. Trong các
nhà tôn, chất đến gần mái toàn là vũ khí các loại. Có đến hàng vạn khẩu súng.
Thôi thì đồ Mỹ đủ loại : AR.15, M.16, M.72, M.79, đại liên 30 hai càng…Đồ Trung
quốc cũng oách : AK, CKC, K.63, rồi lựu đạn chày, nụ xoè, kíp nổ, thuốc nổ các
loại…Chỉ huy tiểu đoàn báo ngay về trung đoàn rồi bố trí đội hình các đại đội bảo
vệ kho súng thu được. Hai hôm sau, xe vận tải sư đoàn đến bốc dỡ ngay. Lính tiểu
đoàn 4 chốt ở đó cứ tuỳ tiện mà trang bị thêm. Tôi cũng lấy một khẩu M.16, bắn
bậy chán rồi cũng quăng lên xe vì ngại mang nặng. Trong một căn nhà tôn vách gỗ
mà đại đội 1 dùng làm chỉ huy sở có cả một chiếc máy phát điện cỡ lớn Made in
Germany, choán gần hết diện tích. Cái máy mới cáu cạnh, to gần bằng cả gian
nhà, được địch bảo quản rất cẩn thận. Về sau khi rút đi, không có cẩu mang đi
được nên trung đoàn cho lệnh đặt mìn phá huỷ. Của một đống tiền, thật tiếc! Mười
ngày bảo vệ kho súng là mười ngày xả hơi của đơn vị. Vừa được thành tích, vừa
được nghỉ ngơi, trong khi các đơn vị khác đi càn rã cẳng. Quanh khu vực đứng
chân, rừng dâu da đất đang mùa, chín từng chùm lúc lỉu màu hồng sậm. Tôi khoái
cái vị chua ngọt thanh thanh của nó. Nhưng anh Ky bảo tọng vừa thôi, không thì
sốt rét ốm đòn bây giờ! Cha này người Thái trắng, quê huyện Thường Xuân, tỉnh
Thanh Hoá. Anh ấy hơn tôi một năm lính nhưng cái gì cũng biết.
Vận tải sư đoàn chuyển xong kho vũ khí, chúng tôi lại lên đường.
Thời tiết càng về cuối mùa khô càng khốc liệt. Rừng dầu, rừng khộp rụng lá, nắng
chói chang. Triền rừng bốc hơi nóng, rung rung dưới nắng. Thảm mục và cỏ gianh
dưới chân rừng đã cháy hết, liếm cháy cả bên ngoài lớp vỏ những thân cây. Chúng
tôi hành quân, quệt ngang quệt dọc một lúc là mặt mũi quần áo thằng nào thằng nấy
lem nha lem nhem, đen sì như hề. Nhưng đáng sợ nhất là thiếu nước. Mang nặng
quá, những thứ khác có thể quăng đi chứ bi đông nước thì dứt khoát là không. Đi
rạc rài nửa ngày không có nước mà gặp một lòng suối cạn, lớp cát đáy còn hơi âm
ẩm là cả một niềm hạnh phúc bất ngờ. Dùng xẻng bộ binh khoét xuống lòng suối
khoảng 1m. Ngồi chờ nước ri rỉ ứa ra, lờ lờ đục. Chúng tôi giải khát luôn bằng
thứ nước ấy, tích trữ trong bi đông cũng bằng thứ nước ấy. Ấy thế mà không đứa
nào bị tháo dạ mới lạ. Một lần, cũng trong tình huống khát nước như thế, chúng
tôi tìm thấy một hủm nước trong vắt giữa lòng suối cạn. Trên bờ rặng le ngả
bóng xanh om. Quả là may mắn! Chúng nó uống và lấy nước chán chê. Vũng nước đã
gần cạn. Đến lượt mình, tôi vục mũ đưa lên miệng làm một hơi sảng khoái cho đã.
Nước mát lạnh và ngọt đến không ngờ. Khi vục bi đông để lấy nước dự trữ, tôi bỗng
thấy cái gì trăng trắng dưới đáy. Định thần nhìn kỹ lại thì cha mẹ ơi! Cái đầu
lâu người trắng nhờ đang nhìn tôi bằng hai hốc mắt vô hồn mọc đầy rêu. Hàm răng
nhe ra như nhạo báng. Tôi giật mình bật ngửa hét toáng lên. Mấy thằng chạy ào
xuống, ngó vào vũng nước lom lom rồi cũng thấy sởn da gà. Hai hốc mắt sâu hoắm
của cái sọ người đang hấp háy, bỗng dựng lên một hàng mi dài thượt như nổi giận.
Một thằng can đảm nhất bẻ vội cành le khô chọc xuống, hẩy cái sọ lăn đi. Từ
trong hốc xương mắt, mấy con cá nhỏ bị quấy rầy vọt ra. Kinh quá! Hoá ra mấy
con cá quậy bên trong làm rêu trong hố mắt toé ra. Ấy thế mà cũng chẳng ai đổ
bi đông nước của mình đi. Đằng nào thì cũng đã vào bụng rồi! Dùng thứ nước này
còn hơn là uống nước đái. Nói thế bởi vì chúng tôi đã có những lần phải đái ra
mà uống. Nắng như thiêu đốt. Hành quân mệt nhọc. Mồ hôi rịn ra giọt nào khô
ngay giọt đó, thấm vào quần áo cứng như mo nang. Môi đã nứt nẻ hết cả. Trên bản
đồ còn tới 5km nữa mới đến nguồn nước. Thế là tè vào bi đông mà uống để có đủ sức
mà lết đi. Mà nước tiểu có nhiều nhặn gì cho cam! Cố mà rặn may chỉ được chục nắp
bi đông, đỏ quạch, mặn và nồng không chịu được. Lại một lần khác, đơn vị cũng gần
như lả đi vì khát nước thì đại đội 3 phạt
hiện một con trâu. Trời cứu ta rồi! Hai loạt AK vang lên. Con trâu ngã kềnh ra.
Anh em lao vào xẻ thịt, thái những miếng thịt to như bao diêm rồi quăng vào nồi
quân dụng. Lửa được nhóm ngay lập tức. Nồi thịt trâu đã xình xịch nước. Ưu tiên
ngay cho những ai yếu nhất. Phần còn lại chia cho mỗi người một hụm. Thịt chín
thì rục ngay ra rừng, để đưa lượt thịt mới vào đun tiếp lấy nước. Yên bụng tàm
tạm lại khoác súng lên đường thiên lý. Càng đi tới gần suối hay gần nguồn nước
càng phải cảnh giác. Địch hoặc thú dữ cũng hay dựa vào đấy để tồn tại qua mùa
khô. Giữa vùng rừng khô khát vàng cháy bỗng xuất hiện một vệt xanh sẫm của rặng
le thì đích thị đấy là suối hoặc suối cạn rồi. Triển khai đội hình cẩn thận, thậm
chí bắn thăm dò, cử tổ cảnh giới xong xuôi mới có thể yên tâm mà giải khát.
Thời gian này, địch đã bắt đầu tan rã hoặc phân tán nhỏ lực lượng.
Để đáp ứng tình hình mới, thay vì tổ chức những trận đánh hiệp đồng quy mô lớn,
trung đoàn tôi cũng phân tán từng tiểu đoàn độc lập truy quét địch. Mùa mưa chuẩn
bị bắt đầu. Tiếng sấm đâu đó đã ì ầm thoảng qua phía chân trời. Rừng dầu đang
thay lá. Từ những thân cây, cành cây vỏ cháy đen trong những trận cháy rừng mùa
khô, những búp non xanh mỡ đã xoè tay đón nước. Tiểu đoàn 4 (thiếu đại đội 3),
sau khi càn qua phum chuối (lính gọi như thế vì phum này mọc rất nhiều chuối)
sát phía đông chân núi Ô răng S’vai thì rút ra cách đó 6 km, để lại đại đội 1
có tăng cường khẩu đội 12.8 mm của đại 4 chốt lại. Tại vị trí đứng chân của đại
đội 1 có một con suối chảy theo hướng Bắc – Nam, ở giữa có cây cầu gỗ nhỏ bắc
ngang. Rừng bám vào tận rìa phum. Gần như không còn tổ chức lại được lực lượng,
địch thấy ta là chạy. Trận nào hiệu suất lắm cũng chỉ diệt được ba bốn tên là
may, nên bắt đầu có tư tưởng chủ quan khinh địch. Có thể vì thế mà anh Khanh
khi bố trí đội hình đại đội 1 đã đưa chỉ huy sở đại đội lên đầu nguồn nước, tại
tiền tiêu luôn. Lại còn giỡn với các trung đội là lần này cho chúng mày ăn
…ghét văn phòng. Liền kề là khẩu đội cối 60mm. Kế đến khẩu 12.8mm chẹn ngang
cái cầu gỗ. Bên kia suối là trung đội 2 và trung đội 3. Trung đội 1 nằm ở cuối
nguồn, cách quan sát sở 120m. Các đồng đội của tôi! Các bạn còn nhớ cái thú tắm
suối mùa khô không? Nước mát lạnh, trong văn vắt, cuốn đi bao nhiêu mệt nhọc, bụi
đường. Nước mát nâng ta lên, bềnh bồng ve vuốt. Những con cá nhỏ rỉa vào chân,
vào lưng buồn buồn, nhồn nhột. Bên ngoài đã sạch rồi, làm sạch nốt trong lòng bằng
cái việc không được thơ cho lắm là…ỉa bậy. Tôi thì tôi cho rằng ngồi cái bồn cầu
bằng vàng ròng của Satdam ở Batda đã chắc gì thú bằng làm cái việc ấy trong
lòng suối mát đang xuôi chảy.
Sáng Chủ nhật,
ngày 15/4/1979. Trời xanh trong, nắng đẹp. Như mọi chủ nhật khác, chương trình
văn nghệ Chủ nhật dành cho chiến sĩ từ 7h30 đến 8h sáng đang phát đi đoạn nhạc
hiệu quen thuộc. Thằng Căn liên lạc với tay vặn to cái radio bán dẫn rồi ôm quần
áo ra suối tắm. Dưới suối, rất đông lính các B đang bì bõm giặt áo quần bỗng
nghệt mặt ra nhìn : mái nhà, vách nhà bằng gianh của chỉ huy sở đại đội bỗng
bay tung lên trời. Liền luôn đó mới là tiếng B.40 mà tiếng đề pa đầu nòng chập
làm một với điểm nổ. Tiếp một phát B.40 tức ngực nữa giật tung lều cối, may mà
không đưá nào bên trong. Đạn trung liên, đạn AK cày tung hai bên bờ suối. Địch
rồi! Nó đã làm chủ vị trí chỉ huy sở và trung đội 3. Anh Tảo người Hà Bắc-
Trung đội trưởng 12.8mm đang tắm cứ cởi trần nồng nỗng, nhảy lên khẩu 12.8 cạnh
cầu, hất tung tấm tôn che súng bắn cản địch. Lính ta quần đùi áo may ô, trong
tay không vũ khí chạy trắng lòng suối về hướng nam - hướng trung đội 1. Hoả lực,
đạn nhọn của địch tập trung vào diệt khẩu 12.8mm. Chịu không nổi, xung quanh
cũng chẳng còn ai, bố Tảo bắn thêm được mấy loạt ngắn nữa rồi cũng bỏ súng chạy
nốt. Thằng Tư trung đội 3 lớ ngớ tưởng còn chỉ huy sở, lại thấy 12.8 vừa giòn
giã liền chạy về qua cầu. Bị đạn nhọn rớt bịch xuống suối chết ngay. Anh Lượng
– (người Hải hưng, biệt danh Lượng khỉ) mới về nhận chức đại đội phó ngày hôm
trước chỉ kịp vơ khẩu AR.15 không biết của ai
và một băng đạn, kéo thằng Căn nhảy đại xuống một cái hầm sát bờ, cứ thấy
bóng áo đen là điểm xạ. Dưới lòng suối, hai cái đầu đen thò lên cách hầm có 7m.
Cò lại xiết nhưng hộp đạn rỗng không. Anh ấy nhanh trí giương súng quát to :“lớc
đay lơn!” (giơ tay lên). Hai thằng địch hụp đầu xuống. Hai thầy trò kéo tay
nhau vọt lên miệng hầm chạy gấp. Khẩu 12.8mm địch đã chiếm được quay nòng bắn
theo mục tiêu vừa phát hiện. Đạn cày tung dưới chân, xuyên qua dãy thùng phuy
làm dầu bốc cháy ngùn ngụt. Thật là còn may! Khói dầu đã cản tầm quan sát của địch.
Trên trận địa chỉ còn khẩu đại liên của thằng Lễ là còn lên tiếng, khằng khặc
thêm một thùng đạn rồi cũng tháo súng tuỳ nghi di tản. Cha con anh em đại đội
gom dìu nhau ở trung đội 3, theo con suối, thất thểu chạy về tiểu đoàn. Anh
Quang râu, chính trị viên phó cũng bị một phát AR.15 xuyên bắp chân, đi tập tễnh.
Thằng Tường lé, thằng Ban trố mất máy PRC.25, đôi mắt thất thần. Lính tráng non
nửa là quần đùi áo lót, đi tay không, súng ống , ba lô mất sạch. Khẩu cối 60mm
cũng rơi vào tay địch. Thấy thằng Gia “cà bây” vẫn còn gánh 6 quả cối trên đòn,
Thằng Trung B1 bảo sao không vất mẹ nó nốt đi rồi trang bị mới luôn thể. Thằng
này cáu bảo vất đạn lại để nó giã cho vỡ đầu ông vải nhà mày ra à? Hục hặc như
thế nhưng cũng chẳng còn lòng dạ đâu mà đánh nhau nữa. Kiểm điểm lại đại đội 1
trong sáng hôm ấy mất một khẩu 12.8mm; một khẩu cối 60mm; một máy PRC.25; 12 AK và RPD; hy sinh 5; bị
thương 3. Tử sỹ không mang đi được. Đến trưa thì về đến đội hình tiểu đoàn.
Gương mặt ai nấy bơ thờ.
Đau quá! Anh Sơn lệnh ngay phần còn lại của đại đội 1, toàn
bộ đại đội 2 và một khẩu đội cối 82 đại đội 4 do anh Thào - tiểu đoàn phó chỉ
huy, quay ngay lại đánh địch. Vào đến nơi thì địch đã rút đi từ bao giờ. Tại chỉ
huy sở đại đội 1, cái máy 2W nằm móp méo, lăn long lóc. Tử sỹ bị chúng nó dùng
xẻng bộ binh băm nát mặt. Ba lô quần áo cũng bị rạch nát tứ tung. Tiền phụ cấp
chúng tôi vừa mới lĩnh (toàn tiền mới) bay như bươm bướm trên mặt đất. Trong một
bụi cây gần chỗ bố trí khẩu đại liên cũ, anh Thào lấy gậy chọc chọc, lôi ra một
thùng đạn đầy nguyên rồi gọi toáng lên :” Lễ! Lễ lại đây! Mẹ mày! Bảo bắn hết đạn
rồi mới chạy thế thùng đạn nào đây?”. “Đạn địch đấy anh ơi!” . “ Mẹ! Cờ đỏ sao
vàng lè lè ra thế này mà mày dám bảo là đạn địch à ?”. Thế là cứ cái gậy sẵn đấy,
ông ấy quất vun vút. Thằng Lễ đại liên chân dài, ôm vội thùng đạn rồi bỏ chạy
sau khi ăn mấy chưởng gậy vào lưng. Thu dọn chiến trường xong xuôi, về đến đội
hình tiểu đoàn thì trời đã tối. Thật là một đêm nặng nề! Nửa đêm về sáng, có
hai phát pháo hiệu xanh vọt lên trên đỉnh rừng, cách chúng tôi khoảng 3 km. Điện
về trung đoàn hỏi thì được thông tin là không có đơn vị nào đứng chân hay làm
nhiệm vụ ở vị trí đó. Xác định rõ là địch đang bâu bám tiểu đoàn 4.
Sáng hôm sau, chỉ
huy tiểu đoàn triệu tập toàn bộ các đại đội và trung đội trưởng về họp rút kinh
nghiệm. Căn cứ lực lượng địch trong trận đại 1 mất chốt và các dấu hiệu đêm qua,
dự đoán địch sẽ có thể đánh vào đội hình tiểu đoàn nay mai. Các đơn vị củng cố
hầm hào sẵn sàng đánh địch. Cử các tổ thám sát vòng ngoài phát hiện dấu vết,
tránh bị bất ngờ. Cuộc họp ngắn vừa tan thì xe tải trung đoàn có một trung đội
của đại đội công binh 19 hộ tống vào đến nơi. Bổ sung súng đạn xong xuôi, tử sỹ
thương binh được chuyển lên là xe vội biến ngay vì sợ bị phục kích. Tiểu đoàn
trưởng trực tiếp bố trí lại đội hình. Cái phum đơn vị tôi đang đứng chân lính gọi
là phum “cây dừa cụt” hoặc “phum 19”. Trước đây một thời gian, đại đội 19 công
binh trực thuộc trung đoàn đóng quân ở đây nên mới đặt tên như thế. Địa hình dốc
thoai thoải từ cái chùa cũ đã bị phá huỷ, qua một trảng trống có một khẩu pháo
155mm xẹp lốp (thu được của địch, đã mất kim hoả) là đến con suối cạn hình cánh
cung, ôm lấy rìa phum. Đại đội 2, xác định là hướng chủ yếu, bám rìa con suối cạn
cắt ngang con đường. Khống chế trảng trống sườn phải ban chỉ huy tiểu đoàn là
trung đội vận tải và khẩu đại liên 30 Mỹ do thằng Luân – liên lạc tiểu đoàn lấy
được ở kho súng tháng trước (ba cán bộ tiểu đoàn mỗi người một liên lạc). Tôi
nhớ thằng Luân người Thanh Hoá, người nó to vật vã. Cái ba lô trên lưng nó cõng
đồ cho cả hai người, cả nó cả chỉ huy mà vẫn lọt thỏm trên tấm lưng bè bè như
cái phản. Ngoài khẩu AK treo bụng, nó còn vác thêm trên vai khẩu đại liên Mỹ
này. Băng đạn quấn ngang quấn chéo đầy mình, cứ đụng địch lại hạ càng bắn rèn rẹt.
Phần cao nhất địa hình là cái chùa đổ ở chếch phía sau bố trí đại đội 4 với khẩu
12.8mm còn lại và 2 khẩu cối 82mm. Đại đội 1, có tăng cường khẩu DK.82, giữ sườn
trái tiểu đoàn. Vị trí đại 1 nằm trong một chòm cây rậm sát bìa rừng thưa, cách
tiểu đoàn bộ khoảng 200m bằng một khoảng ruộng khô. Chỉ huy đại đội bây giờ là
anh Tuy “voi” Hà Bắc, thay cho anh Khanh. Anh Lược, dân Hải Phòng làm chính trị
viên phó thay cho anh Quang râu bị thương hôm trước. Như là duyên nợ, tôi và
anh Ky lại được điều động xuống đại 1.
Ngày 17/4/1979, buổi
sáng, anh Sơn tiểu đoàn trưởng kéo theo thằng Điệp xách khẩu M.16 xuống đại đội
2. Hai thầy trò dò dẫm ngược lòng suối cạn xem xét tình hình. Việc này đáng nhẽ
của trinh sát tiểu đoàn, nhưng không hiểu sao hôm đó anh ấy muốn trực tiếp thị
sát. Vừa qua khỏi đội hình đại đội 2 hơn 50m thì đụng 2 thằng trinh sát địch.
Thằng đi đầu đứng trên bờ suối mọc đầy le, há hốc mồm vì bất ngờ nhưng cũng kịp
bóp cò khẩu M.79. Quả đạn bay thẳng vào đùi anh Sơn, rơi bịch xuống nhưng không
nổ vì cự ly quá gần, không đủ vòng xoay. Thằng Điệp (người Huế- học sinh trường
Quốc học hẳn hoi) cũng bị giật mình, chĩa khẩu M.16 kéo một loạt. Hai thằng
trinh sát địch chúi xuống bỏ chạy. Thầy trò anh Sơn cũng tập tễnh dìu nhau tới
đại đội 2 rồi về tiểu đoàn, lệnh cho các đại đội chuẩn bị đánh địch. Trung đội
thông tin đang họp trong cái nhà sàn con con, nghe tiếng “Póc!” của M.79 và tiếng
tiểu liên hướng lòng suối cạn, xớn xác ngó ra ngoài. Anh Nhương lao về hét
thông báo địch vào rồi xua chúng tôi xuống các đại đội ngay. Tôi và anh Ky vừa
lao xuống cầu thang thì khắp các đại đội, tiếng súng đã rộ lên. Hai thằng cắm cổ
chạy vượt qua khoảng trống về đại đội 1. Không thể nói đạn bay chiu chíu hay cắc
bụp bên tai nữa, vì lúc này đã ào lên như một nồi cơm sôi rền từ khắp các hướng.
Sau mấy lần ngã chúi vì vấp, hai thằng cũng chạy về tới ban chỉ huy đại đội 1.
Địch đã bám được vào lòng suối cạn trước mặt đội hình đại đội. Cứ nhô lên thằng
nào là trung đội 1 xỉa ngay thằng đó. Biết không thể lên theo hướng này, nó để
lại bộ phận bắn kiềm chế rồi quay sang bìa rừng đánh vào hướng trung đội 2,
trung đội 3. Khẩu DK.82 nằm kẹp giữa hai trung đội làm liền mấy trái. Tiếng nổ
làm tai ù đặc. Lính trung đội 2 hô ầm ầm :” Cối bắn trước đội hình 40m!”. Thằng
Dung tiểu đội trưởng cối 60 do ù tai, lại đang cuống cả lên liền lấy cự ly 40m
thả đạn. Quả đạn cối rơi sát ngay khẩu đội DK.82. Thằng Hạnh, xạ thủ số 1 dính
ngay một mảnh vào đầu nằm quay táng ra. Một chú nữa dính mảnh vào đùi. Thằng Mận
- tiểu đội trưởng DK phát khùng, cõng thằng Hạnh về đặt nằm trong quan sát sở rồi
xách AK chạy xồng xộc về khẩu đội cối tính ăn thua đủ. Dung “kỳ đà” mặt xanh
như tàu lá. Anh Tuy chửi ầm ĩ, can chúng nó ra. Bên hướng tiểu đoàn bộ, địch
cũng bị trung đội vận tải với khẩu đại liên của thằng Luân ghìm chân không vượt
qua trảng được. Cối 82 đại 4 cứ thì thụp giã vào bìa suối theo yêu cầu của đại
2. Thằng Cường vận tải thấy thưa đạn, bò lên định gí quả H.12 giá cạnh khẩu
pháo 155mm thì bị chúng nó tỉa. Viên đạn có mắt đi qua trán nó. Anh Sơn bị
thương vì quả M.79 hồi sáng, không đi lại được, nằm trong hầm quay điện thoại hỏi
hết đại đội này đến đại đội khác rồi quay xuống đại 1. Cán bộ đại đội chạy hết
xuống các B nên tôi báo cáo luôn: “Đại đội 1 vẫn vững! Anh yên tâm!”,” Ờ! Ngon
nghe thằng em!”. Đúng lúc đó, ngay sau chỉ huy sở đại đội sát mép trảng, đằng
sau ụ mối thấp thoáng mấy thằng địch áo đen. Tiếng AK toang toác ngay sau lưng.
Đạn xuyên qua nóc lều lợp tạm bằng mấy mảnh tôn rách, thủng lỗ chỗ. Thằng Căn,
thằng Đồng liên lạc nhảy ra núp sau lều, bắn cản địch. Sợ mất máy, tôi lăn vào
lều, đè cả lên người thằng Hạnh đang khò khè, giật vội cái máy điện thoại rồi
nhào ra. Thấy thằng Thư y tá đang nhớn nhác, tôi bảo nó trong lều còn thằng Hạnh
đang bị thương nằm đấy, vào kéo nốt nó ra đi. Anh Tuy thấy địch đánh rát phía
sau, thét khẩu đại liên quay lại, giá súng ngay cạnh lều bắn dữ dội. Lúc này chẳng
thấy tiểu đội trưởng Quyến “khợp” đâu nữa, đại liên chỉ còn thằng Nhạ tân binh,
người Thái bình và thằng Lễ. Thằng Nhạ cứ ngồi xổm chồm chỗm trên mặt đất mà đẩy
cò. Hai thằng liên lạc và tôi cũng bắn điên cuồng hỗ trợ. Cái ụ mối lớn, cạnh gốc
cây to mấy thằng địch nấp bục dần từng mảng. Biết không ngon ăn, chúng nó rút
lui. Chúng tôi vận động lên đến đó, thấy quanh ụ mối máu me be bét lẫn cả bông
băng. Thu được hai quả lựu đạn địch chưa kịp ném. Tôi chạy vào trong lều đại đội
mắc vội dây vào máy. Chắc tiểu đoàn đang sốt ruột quay máy nên tôi bị giật rung
cả tay. Lập cập mấy lần mới xong. Liên lạc lại thông suốt. Anh Tuy báo cáo tình
hình, nghe máy một lúc rồi nhăn mặt, đưa tổ hợp cho tôi. Tiếng súng thưa dần rồi
im hẳn. Thế mà đã quá trưa lâu rồi!
Đến lúc này, anh Tuy mới gọi :” Thư! Thư! Băng cho tao!”.
Anh ấy bị một viên AR.15 xuyên bắp đùi, máu ra không nhiều. Cái mũ cứng của thằng
Nhạ cũng bị đạn xuyên thủng vành hai lỗ tròn vo lúc nó ngồi xổm bắn đại liên.
Buổi chiều, nó cứ ngơ ngẩn sờ sờ cái lỗ thủng, cười ngây ngô. Khẩu DK.82, do
quân ta đánh quân mình, bị thương 2, còn lại 3 người. Tiểu đoàn rút luôn khẩu đội
này về đội hình đại đội 4. Trung đội 2 được lệnh bung ra ngoài đội hình đại đội,
qua bờ suối cạn thám sát địch. Bọn này cũng chỉ lò dò qua trảng đến suối, loanh
quanh một lúc, bắn bậy mấy loạt rồi về. Đạn thiếu, lính đi mót từng viên đạn lẻ
rơi vãi tra vào băng. Chẳng bù cho những lúc chúng nó cứ bẻ đầu cát tút, dốc
thuốc đạn đổ vào để nhóm bếp pha trà. Đại đội 3, sau một thời gian đi phối thuộc
trung đoàn được trả về đội hình. Cắt rừng về đến nơi thì trời đã gần tối, bố
trí ngay sau lưng tiểu đoàn. Thêm một đại đội, dẫu chỉ hơn ba chục tay súng, ai
nấy cũng yên tâm hơn hẳn. Anh Tuy chào chúng tôi rồi chống gậy tập tễnh về tiểu
đoàn bộ. Hôm sau cũng theo xe thương binh tử sỹ, cùng anh Sơn tiểu đoàn đi viện
luôn, lập kỷ lục người chỉ huy đại đội 1 trong thời gian ngắn nhất (2 ngày).
Anh Quảng trung đoàn cử về thay, nhận chức tiểu đoàn trưởng. Anh Chính ”tréc”
người Hà nam ninh làm đại đội trưởng đại đội 1.
Tình hình yên ắng trở lại. Sau một tuần củng cố, sư đoàn lại
chuẩn bị chiến dịch đánh thông lên thị trấn Leach theo thung lũng phía bên kia
núi Ô răng S’vai để phối hợp với các sư đoàn bạn. Trung đoàn 2 chúng tôi được lệnh
trèo vượt núi này, chẹn ngang thung lũng để các đơn vị bạn lùa địch vào đấy cất
một mẻ lớn. Ô răng S’vai là một dãy núi cao nằm theo hướng tây bắc – đông nam.
Có những đỉnh độ cao tuyệt đối đạt gần 1500m. Địa điểm bắt đầu cắt vào để vượt
núi được xác định đúng cái phum hoang mà đại đội 1 mất chốt tuần trước, cách
phum “dừa cụt” tiểu đoàn 4 đang đứng chân 6 km. Mệnh lệnh rất rõ ràng, quán triệt
đến từng chiến sĩ: bí mật bất ngờ, tránh các đơn vị nhỏ lẻ của địch, mang đầy đủ
lương thực súng đạn tác chiến trong 6 ngày, nhất là đồ đựng nước uống. Chuẩn bị
tư tưởng, hậu cần xong xuôi, trung đoàn lục tục lên đường.
4h sáng, nhận xong phần cơm vắt cho cả ngày dưới anh nuôi là
hành quân ngay. Tiểu đoàn 4 đi đầu, theo con đường nhỏ (mà tôi đã vẽ trên sơ đồ
trong bài viết này) ngược về hướng bắc. Cấm dùng thông tin vô tuyến, cấm bắn bắt
liên lạc. Nói theo kiểu Tam quốc chí của La Quán Trung thì “người ngậm tăm, ngựa
khoá nhạc cứ theo khe núi lần lần đi”. Một bộ phận của đại đội trinh sát 21
trung đoàn và trinh sát tiểu đoàn 4 thuộc địa hình đi trước bám địch. Gần 6h
sáng có lệnh dừng lại. Trinh sát đã phát hiện có khói bay lên trong phum (bây
giờ gọi là phum “đại đội 1 mất chốt”). Đơn vị im lặng dạt vào rừng, cắt lối
khác áp vào triền núi. Bắt đầu leo dốc. Hai ba trăm mét độ cao khởi đầu còn ngon
nhưng càng lên cao càng khó đi. Rừng nguyên sinh trên núi dày rịt dây leo. Tầng
cây cao khép tán, toả bóng thâm u che phủ. Đã 9h sáng mà đáy rừng vẫn nhờ nhờ tối.
Những cây con bên dưới bị cớm nắng, thân mảnh thẳng đuột, ken dày như thành.
Tôi cũng biết là phải giữ hơi đều, hít sâu và thở ra từ từ, nhưng đến khoảng gần
trưa thì mớ kiến thức dưỡng sinh ấy trở thành vô dụng. Mũi, mồm và tai cùng thi
nhau hoạt động hết công suất. Đấy là còn được đi sau đấy! Còn mấy thằng trinh
sát đi đầu, vừa đi vừa phạt cây mở đường lên thì phải biết chúng nó siêu như thế
nào. Khoảng tiếp xúc giữa ba lô và lưng áo đã ướt đẫm mồ hôi. Rồi cái ruột tượng
5 ký gạo quàng quanh cổ cũng ướt nốt phần đáy. Quai máy, quai súng siết vào vai
tê dại. Vẫn chưa có lệnh nghỉ. Đi! Đi cho kịp giờ hiệp đồng! Toàn đơn vị thằng
nào thằng nấy khoanh tay trước bụng, còng lưng vượt dốc. Thằng Tào, thằng Lại
anh nuôi đại đội 1 cậy mang nhẹ, chỉ phải khiêng cái nồi nhôm quân dụng, nên cứ
băng băng vượt trước. Nhọ nồi quệt vào lá cây, từ lá lại quệt vào mặt những thằng
đi sau lem nhem. Ông Thào tiểu đoàn phó tức, vừa xoa mặt vừa quát chúng nó xuống
đi sau. Nhưng hai thằng này cứ như điếc, càng vọt khoẻ, mỗi lúc một xa. Bất lực!
Thế là bố ấy lấy cái gậy chống phi theo luôn nhưng trượt. Đã thế lại còn mất đà
ngã quay ra. Lính tráng cười ồ lên hô :” Tháo đạn đứng dậy!”. “Mẹ hai thằng cà
chớn! Rồi biết tay tao!”. Chửi với chữa ngượng thế thôi chứ sức chó đâu mà đuổi!
Tình huống khôi hài cũng làm quên đi cái mệt được một chốc. Quá trưa, có lệnh
nghỉ ăn cơm. Tôi kiếm một chỗ phẳng, ngồi phịch xuống, dựa vào ba lô vẫn quàng
nguyên sau lưng hồng hộc thở. Đỡ mệt, giở cơm vắt ra ăn. Bây giờ vợ hỏi muốn ăn
gì còn phải nghĩ chứ lúc đó, vèo một cái là nửa vắt cơm với chút bột gia vị đã
chui tuột vào trong bụng mà vẫn còn thòm thèm. Huống chi hôm đó lại có món mắm
trâu của bọn cối đại 1. Thịt trâu ăn chán rồi, còn lại nước thịt. Chúng nó cho
muối, bột gia vị vào rồi đun nhỏ lửa cho đến khi cô lại sền sệt. Đổ vào đoạn ống
DK.82, lấy nilon bịt lại mang theo khi hành quân. Loại “mắm” đó hao cơm vô
cùng!
Nghỉ một lát lại
leo tiếp. Rừng ở độ cao lớn quang hơn nhưng độ dốc lớn hơn. Bắt đầu có mây mù.
Trời tự nhiên tối lại. Những hạt nước li ti nhưng dày đặc làm triền dốc trơn nhẫy.
Khổ nhất là lính pháo DK.75 đại đội 17 trung đoàn. Khẩu đội trưởng đi trước,
dùng xẻng pháo đào khoét triền núi thành từng cái hốc cho bọn khiêng pháo phía
sau có chỗ đặt chân. Hai thằng khiêng nòng, mỗi thằng một đoạn tầm vông. Thằng
xỏ miệng, thằng xỏ đuôi, hai đoạn tầm vông oằn xuống dưới sức nặng của nòng
pháo. Cứ trầy trượt như thế mà bám sườn leo lên. Bọn mang đạn buộc hai ống DK
néo lại làm một, cúi đầu gằn gằn bước. Thỉnh thoảng có thằng trượt chân. Nòng
pháo lăn lông lốc rồi mắc lại ở cái gốc cây nào đấy. Chúng nó lại quay xuống,
nhẫn nại kéo lên không kêu một tiếng. Để đại đội DK.75 của trung đoàn vượt qua
là tôi đã bị tụt lại sau tiểu đoàn 4 khá xa rồi. Hai thằng một máy, anh Ky đi
cùng tôi cũng không giục không nhắc gì, cứ lùi lũi đi đằng sau. Khi các đơn vị
khác nghỉ, chúng tôi vẫn cứ cắm cúi bước để theo kịp đơn vị. Trời sâm sẩm tối
thì gần lên tới đỉnh. Một hơi gió tạt qua mát lạnh, gió sườn tây núi Ô răng thổi
từ vịnh Thái lan. Nghĩa là sắp đổ dốc xuống núi. Trời bắt đầu mưa lất phất. Thật
lạ lùng! Mới bên này cách mấy trăm mét khí hậu khô rang nóng kinh người mà sang
sườn bên này thời tiết quay ngược 180 độ. Lần đầu tiên tôi biết thế nào là mưa
địa hình. Bây giờ đọc thêm thì mới biết hiện tượng địa lý ấy nó gọi tên là thế,
chứ lúc đấy thì biết chó gì! Chỉ biết là rất mệt! Mệt đến há hốc mồm! Tôi chui
vào một bụi rậm vờ đi đái rồi tháo bao gạo đổ đi 1/3 ruột tượng. Trông kỹ ra
thì trong bụi ấy cũng trắng xoá gạo đổ của những thằng đi trước. Gạo nhẹ đi
nhưng nỗi nhọc ngày một tăng lên. Đôi chân dường như không phải của tôi nữa mà
như đi mượn. Trời tối đen. Cứ nghe tiếng vạch cây rào rào đằng trước mà chuệnh
choạng lần theo. Thỉnh thoảng lại vấp phải chân những thằng đang nằm ngủ, hoặc
nghỉ thò ra giữa lối, ngã lăn ra. Mồm vập vào súng đau điếng. Phát cáu lên bảo
chúng mày muốn ngủ thì cứ chui vào bụi mà nằm, sao lại ngáng chân bố mày. Về
sau mới biết có những thằng mệt quá ngồi nghỉ, sợ ngủ quên mất nên cứ thò chân
ra đường để có ai đi sau vấp vào đánh thức rồi lại lần theo, không có lạc mất
đơn vị. Mà lạc ở đây chắc chỉ có làm mồi cho hổ. Giờ thì chẳng còn phân biệt được
đơn vị nào vào đơn vị nào nữa! Cứ thằng khoẻ đi trước, thằng yếu đi sau, yếu nữa
thì đi sau rốt như bài ca con voi của bọn trẻ con. Giở nắm cơm vắt ra, nó đã
chua loét phần bên ngoài. Tôi bẻ đôi, cạp cạp mấy miếng phần lõi rồi lẳng vào bụi.
Nhai và nuốt với lý trí là để nạp thêm năng lượng thôi, chứ không hề có thấy
đói. Không phải cảm giác mệt nữa! Phải nói là cảm giác tuyệt vọng đôi khi trào
lên và dần dần chế ngự con người. Một cái đầu đờ đẫn trên một đôi chân rời rã,
lúc nào cũng chực gục xuống. Dần dần xung quanh chẳng còn ai. Khi tôi chợt nhận
ra điều ấy thì nỗi khiếp sợ bỗng ùa tới làm tỉnh cả người. Tôi dừng lại ghìm nhịp
thở, lấy lại bình tĩnh nghe ngóng. Chỉ có tiếng gió thổi trong lá. Xa phía dưới
kia, có tiếng lá rung ào ào từng nhịp ngắn. Chỉ có người vịn vào cây vít lại rồi
buông ra lá mới rung theo nhịp ấy. Tôi tháo ruột tượng gạo định lẳng vào rừng
cho nhẹ để đuổi theo, nhưng chợt nghĩ lại. Hệt truyện cổ tích của Grim, tôi mở
nút ruột tượng, thả gạo dần theo lối chạy để đánh dấu đường. Tiếng động lá ngày
càng gần. Lúc này không phải chỉ có chạy nữa, mà vừa chạy vừa ngồi phệt tụt dốc
xuống. Vừa hết ruột tượng gạo thì va phải một đám lốc nhốc. Chúng nó chửi ầm
lên. May quá! Khẩu DK.82 của đại đội 4 đây rồi! Hoá ra chúng nó cũng suýt lạc
đường. Lúc ấy đã là 2h30 sáng. Cả bọn đi thêm một đoạn nữa thì gặp anh Ninh đại
đội phó đại đội 4 hoả lực với thằng liên lạc đang ngồi nghỉ. Mừng vì đã gặp lại
đội hình, chúng tôi bước dấn qua. Đêm tối mịt mùng. Bọn DK82 rạch ống bảo quản,
tháo đạn cho vào ba lô rồi đốt ống nhựa tìm đường về đại đội 4, bất chấp lệnh cấm
đốt lửa. Nhựa cháy xèo xèo, rỏ cả xuống chân bỏng rẫy. Đi một lúc nữa, tôi về tới
đội hình tiểu đoàn. Chân núi chỉ còn một đoạn ngắn nữa. Võng chăng ngang chăng
dọc. Tôi cũng tìm vội hai cái cây mắc võng. Quăng ba lô cái huỵch rồi leo lên gần
như ngủ ngay tắp lự…
Không có khái niệm thời gian, thiếp đi được một lúc tất cả đều
choàng dậy. Trên núi, không thể xác định được khoảng cách, ba phát AK nổ đĩnh đạc,
kiểu bắn bắt liên lạc. Tiếng nổ hồi âm qua các sườn núi, các tàn cây vọng lại
ào ào rồi nhoè dần. Chúng nó nhỏm dậy, lào thào hỏi nhau :” Bọn nào bắn ấy nhỉ?”.
“ Chắc bọn lạc đường!”. Hai thằng trinh sát được cử quay lại tìm người bắn, xồng
xộc va vào võng tôi cũng hỏi câu y hệt :” Bọn nào bắn ấy nhỉ?”. Mé bụi bên kia có tiếng anh Nhương nhại đểu
:” Bọn nào bắn ấy nhỉ?”. Mấy thằng trinh sát thấy vô lý, im lặng luồn ngược
lên. Kiểu này thì lộ mất rồi…
Lúc này, phía thung
lũng dưới núi, tiếng động cơ ô tô, xe xích bỗng rộ lên, vọng lại ầm ì. Nhìn rõ
loáng thoáng những vệt đèn pha trong sương. Chúng nó đã chạy. Chắc chắn là lộ rồi!
DK.75 và một khẩu pháo 105mm của địch bắt đầu tương đạn lên núi. Bắn kiểu mù
thôi, đạn rơi cách chúng tôi rất xa. Bộ đội thu võng ào ào. Tiểu đoàn lệnh 2W
lên máy, để lại toàn bộ ba lô cho bộ phận thu gom quân lạc đường trông, còn tất
cả các đại đội lao xuống núi. Lúc bắt đầu vận động, toàn thân tôi đau điếng, cứng
đơ, tưởng chừng không cất mình lên nổi. Được một quãng thì ổn định dần dần. Trời
mờ sáng. Lội qua một hẻm nước tù sâu hoắm nước lạnh căm căm thì lên đến một cái
trảng rộng. Giữa trảng là con đường đất rộng rãi đầy vết xe cơ giới. Bên kia trảng,
một dãy nhà thấp lợp tranh nằm lẫn những chiếc xe vận tải, máy cẩu, máy xúc màu
vàng choé. Bộ binh dàn hàng ngang tiến lên. Lính đại đội 2 nổ súng ầm ầm rồi hô
xung phong. Đại đội 1 hưởng ứng rồi tiếng hô lan ra toàn đội hình tiểu đoàn.
Đây là lần đầu tiên tôi thấy tiểu đoàn hô xung phong khi đánh địch. Tiếng đạn
nhọn, tiếng hoả lực, tiếng hô phản hồi
giữa hai vách núi trộn lẫn rền rền không dứt. Khẩu 12.8 giá súng, bắn qua đầu bộ
binh đùng đùng. Cối 82 và DK quay nòng bắn theo hướng con đường chạy dọc thung
lũng. Bắn đuổi là chính chứ cơ giới nó đã chạy từ đời tám hoánh. Doạ thế xem có
thằng nào sợ, lạc tay lái đâm vào đâu không thôi chứ bắn thế nước mẹ gì ! Bộ đội
tiểu đoàn 4 đã làm chủ căn cứ. Không tiêu diệt được được bất cứ một thằng địch
nào. Thu một khẩu pháo 105mm, một khẩu DK.75mm và một số đạn cối 82. Số xe máy
địch bỏ lại, toàn đồ KOMATSU Nhật bản, đã bị bắn thủng gần hết lốp, đề phòng
quân ta dùng để đuổi theo truy kích. Riêng lố đạn cối 82 sản xuất tại Trung Quốc,
trung đoàn ra lệnh gom huỷ ngay. Trong trận Ô Đông hồi trước, trung đoàn 1 thu
được đạn cối 82 của địch mang ra xài. Khi thả đạn thì nổ ngay trong nòng súng.
Hy sinh hết sức đau xót gần hết một khẩu đội! Phải công nhận bọn này với thằng
thầy nó cực kỳ thâm độc! Bây giờ thì các bố mày không có dại!
Nắng lên được một lúc thì gặp lính trung đoàn 1 theo đường lớn
tiến vào thung lũng. Trung đoàn này cũng gần như phải hành quân suốt đêm hôm
qua. Đi đường bằng nên khoẻ quân hơn, theo đường lộ vượt qua chúng tôi, mải mốt
truy kích địch. Chúng tôi nghỉ lại một ngày, chờ công binh, vận tải sư đoàn lên
thu hồi chiến lợi phẩm. Chỉ vì ba phát súng vô kỷ luật ấy mà tất cả bao nhiêu
công giăng bẫy, leo núi vu hồi của cả ngàn con người trở thành công cốc. Về
sau, quân pháp, phòng chính trị quân đoàn xuống đơn vị tôi điều tra mãi nhưng
cũng không tìm ra người bắn. Âu cũng là số phận! Như Khổng Minh than với Khương
Duy :” Tiếc thay! Dùng mẹo to nhưng lại thành công nhỏ!”.
Hôm sau, cũng theo hướng tây bắc trong đội hình sư đoàn,
chúng tôi hành quân nhưng phát triển rộng hơn về hai bên đường. Phía trung đoàn
1 đi trước, tiếng súng nổ vọng lại ầm ầm. Trung đoàn 2, trung đoàn 3 mở rộng đội
hình, sục sạo sát chân núi nhằm phát hiện triệt phá những kho tàng, cơ sở hậu cần
của địch. Cứ thấy ngách núi nào có đường bò hoặc nghi có địch là đơn vị rẽ vào.
Đây đã là địa phận tỉnh Pursat, cách thị trấn Leach khoảng 45 km. Ngoài đường lớn
chạy giữa thung lũng, trung đoàn pháo 42 kéo pháo theo bộ binh. Cần chi viện hướng
nào đáp ứng hướng đó. Trong những ngày ấy, tiểu đoàn tôi tìm thấy khá nhiều những
những kho hậu cần nhỏ địch phân tán trong rừng, để tạm trong những căn lán nhỏ
cất vội. Kho gạo mang không hết thì đốt, vì số lượng nhỏ không bõ gọi xe sư
đoàn đến chở. Kho muối thì mang ra suối đổ rồi bắn vỡ hết chum. Nhưng may nhất
là vớ được một kho vải màu xanh sỹ lâm. Lính ta đang rách rưới. Quần áo đi trận
đánh nhau đã tơi tả cả mà quân nhu vẫn chưa phát kịp. Nay sục được kho này như
buồn ngủ gặp chiếu manh. Phải nói là trong lính có rất nhiều thằng có tài, rất
nhiều hoa tay trong nhiều lĩnh vực. Bây giờ tiểu đoàn lòi ra một tay thợ may
tay ngang là thằng Lễ đại liên. Với một cây kéo cùn không biết xuất xứ từ đâu,
nó cứ nhìn người đến nhờ một thoáng rồi hạ kéo cắt xoèn xoẹt, khỏi cần đo đạc mất
thì giờ. Thích quần ống loe hả? Có ngay! (Hồi ấy quần ống loe đang là mốt).
Đây! Xong rồi! Về mà khâu lấy! Tiền công là một điếu thuốc rê. Đường kim mũi chỉ
của mấy anh lính không được “mỹ thuật” cho lắm. Chỗ đột mau, chỗ đột thưa và
thường là ngoằn ngoèo nhưng cũng đủ giúp chúng tôi có tấm áo che thân lành lặn.
Thấy một thằng lính tử trận là điều bình thường. Nhưng nhìn một thằng lính buổi
trưa ngồi võng, tự khâu lấy quần áo cho mình thì lại là một điều bất bình thường.
Nghĩ lại thấy thương quá! Từ đó, cứ thấy sắc lính xanh rì sỹ lâm là trung đoàn
biết ngay lính tiểu đoàn 4 khỏi cần giới thiệu. Ngoài việc may quần áo, chúng
tôi còn mang vải ra đổi thuốc lá, đổi các nhu yếu phẩm cần thiết khác cho lính
pháo 42. Bọn này hành quân cơ giới, cái gì cũng mang đi được. Lại hay được hậu
cần tiếp tế nên cái gì cũng có, không khác gì cô hàng căng tin trong đội quân của
Bonaparte.
Vào một buổi chiều gần tối, trong một cái ngách núi heo hút
và ẩm ướt, tiểu đoàn 4 gặp lại “cố nhân” như một sự sắp đặt của định mệnh. Vừa ở
bìa rừng rúc ra mép trảng, chúng tôi bắt gặp mấy cái nhà nhỏ lợp gianh, lá còn
rất mới. Xin nói là ở Miên, dù cất nhà to hay làm nhà nhỏ, kể cả những cái chòi
con đều làm kiểu nhà sàn. Đại đội 1 đi đầu dừng lại ngay, chia mũi bí mật tiếp
cận. Dưới gầm nhà, quanh chân cột, gần hai chục thằng địch đứng ngồi lố nhố.
Chúng nó đang nấu cơm chiều. Bộ đội cứ bám từng bụi cây, lặng lẽ bò tới. Cách địch
khoảng 30m thì tự nhiên hai thằng trong đám đó đứng dậy, vác 4 ống DK.75 đi xăm
xăm thẳng về phía chúng tôi. Chắc chúng nó đi lấy nước ở cái suối mà chúng tôi
vừa đi qua. Chính ”tréc” đại trưởng vừa gí đầu nòng súng lính xuống, định ra hiệu
bắt sống nhưng không kịp. Thằng Trung B1 đã kéo một loạt AK. Hai thằng địch đổ
vật xuống ngay. Liền đó, hai phát B.41 thổi tung căn nhà, nhìn rõ cả cái nồi
gang với một cái đùi người bay lên không trung. Trong đám đó chỉ còn ba thằng
phía ngoài vùng chạy được. Trời nhoè nhoẹt tối. Lính đại 1 bắn đuổi theo ba thằng
chạy rầm rầm. Đứa quỳ bắn, đứa đứng bắn, có đứa kê súng vào chạc cây cẩn thận lấy
đường ngắm, điểm xạ mãi mà vẫn thấy chúng nó chạy nhanh như hoẵng. Thế mới biết
đôi khi chết được cũng khó! Trên cái nền trước kia là nhà, thịt người lẫn lòng
ruột văng tung toé. Vẫn còn hai thằng bị thương không chạy được kêu lên ồ ồ!
Trong mấy cái bồng rách hôi mù của bọn này, chúng tôi lôi ra được cuốn sổ ghi
bài hát nhăng cuội của thằng Tư hy sinh hôm đại đội 1 tan tác. Kẻ thù đây rồi!
Đời mày tàn rồi! Anh Thào nổi điên quát lính khử nốt hai thằng tù binh bị
thương. Thằng khẩu đội trưởng DK.75 đại đội 17 đi phối thuộc hô lên: “Để em!”.
Chúng tôi vội giạt ra khỏi hướng bắn của nó. Nhịp AK găm vào ngực và họng thằng
thứ nhất, nhưng nó không chết tốt lại còn khò khè lớn hơn. Thằng thứ 2 (chỉ chừng
16 tuổi) lăn đến ôm chân thằng bắn. Nó đạp ra, nhưng đã run tay lùi lại. Ông
Thào lườm nó một cái rồi rút K.59, phân phối đều vào sọ mỗi thằng hai phát vọt
óc. Thân người giật giật mấy cái rồi xuội lơ, môi vẫn còn run run. Thấy chúng
tôi nghệt mặt ra, anh ấy quay lại chửi: “Mẹ chúng mày! Lính với tráng!” rồi bỏ
đi. Tôi đá nốt cuốn sổ của thằng Tư vào trong đống than hồng. Trả mày cuốn sổ
xuống đấy mà hát vớ hát vẩn! Anh em đã thanh toán xong món nợ cho mày! Không biết
có phải cái thằng đã cầm xẻng băm mày không?
Cuối tháng 4 năm 79, các đơn vị địch đã tan rã gần hết. Tàn
quân địch rút về thị trấn Leach. Đại bộ phận sư đoàn 9 đã tiến về đó đánh địch
còn trung đoàn 2 vẫn dềnh dàng đi sau chặn hậu. Trong bản đồ quân sự, cái thung
lũng lớn mà trung đoàn tôi đang hoạt động, từ đó có đường rẽ đi nhà ga Bâmnak
(dân gọi là ga Bom nọ) được gọi là “mục tiêu A3”. Địa điểm này có vị trí cực kỳ
quan trọng, gần như là nơi tiếp giáp của bốn tỉnh Kampong Ch’nang, Pursat,
Kampong S’Peu và Kô công, nằm ở phía nam Leach theo đường chim bay chừng 25 km.
Tiểu đoàn tôi cứ đi quanh đi quẩn trong các hẻm núi dường như chưa bao giờ có dấu
chân người. Có những nơi vòng qua vòng lại mấy lần. Lính mà! Có lệnh đi thì cứ
đi, có lệnh nghỉ thì lại nghỉ. Tàn quân Pôn Pốt bấy giờ chưa kịp phục hồi như
sau năm 80. Kiếm ăn còn khó chứ đừng nói gì đến đánh đấm. Dân lành bị lùa theo
tìm cách tháo chạy trở về quê cũ, nhưng chưa hiểu nên cũng tránh bộ đội Việt
Nam. Thỉnh thoảng chúng tôi lại gặp một đám nhỏ ở trong rừng. Họ đói. Họ rách
rưới và hoang dại như một đám người rừng. Các bạn xem trên TV, thấy những em nhỏ
trong nạn đói ở Phi châu bụng ỏng đít beo, ruồi bâu đầy miệng không buồn đuổi hẳn
là thấy rất xúc động. Trong miền rừng sâu thăm thẳm này, chúng tôi đã gặp những
cảnh tương tự. Thậm chí còn thê thảm hơn thế nữa. Đơn vị gom lại, chia cho những
con người khốn khổ ấy những ruột tượng gạo bé nhỏ của người lính rồi chỉ lối
cho họ ra phía đường lớn. Vào một buổi trưa, khi đang cắt rừng tìm suối, chúng
tôi gặp một đám phụ nữ chừng bảy tám người nằm ngồi quanh một cái xe bò gẫy trục.
Thấy bọn tôi, hai người đàn ông trong nhóm chống hai con dao quắm run run đứng
dậy, chắc là để chuẩn bị chiến đấu (!). Xương sườn, xương bả, xương ống bọc dưới
lớp da đen nhờ, lộ như một tiêu bản thạch cao. Họ đã gần như lả đi. Không thể
nói tuổi của họ bao nhiêu khi mà tất cả sợ hãi, khổ đau, tuyệt vọng và đói khát
đã in hằn trên khuôn mặt. Những khuôn mặt không có tuổi! Không biểu cảm! Và dường
như ở một thế giới khác! Câu chào “Xamaki !” của cán bộ dân vận trở nên giống
như một lời xa xỉ giả dối! Anh Ky móc cóc ba lô chìa nắm cơm ra. Từng ấy cặp mắt
sáng lên nhìn vào. Thằng Phượng “bọ” y tá đại đội 1 (thay cho thằng Thư đi học)
giằng lấy nắm cơm ấn vào chỗ cũ, gọi anh nuôi nổi lửa nấu ngay nồi cháo loãng.
Cháo chín được chia ngay thành từng suất nhỏ. Lập cập giọt rơi giọt vãi, nồi
cháo cũng dần hết. Thằng Phượng giải thích là nhịn đói lâu, phải ăn hạn chế như
thế mới không bị sốc. Một bà mẹ cầm ca cháo đến chiếc xe hỏng, lật chiếu lá lên
định bón cho thằng bé con. Nhưng cháu bé đã chết. Bên cạnh nó là một cái gùi.
Trong gùi, một cẳng tay sấy khô nằm lăn lóc cạnh mấy nắm lá giang. Chứng kiến,
không ai nói được một lời nào. Tất cả đều im lặng quay đi. Không phải là vì sợ,
mà vì hình như thấy đau khổ quá! Một sự im lặng cùng cực…! Lúc ấy, tôi chỉ muốn
rống lên thôi!
Đơn vị lặng lẽ chôn cất cháu bé. Bà mẹ cũng không khóc một
tiếng nào. Thêm một mất mát trong cả ngàn vạn mất mát có ý nghĩa gì! Đến chiều,
cho ăn uống như bình thường xong, chúng tôi chia gạo rồi vừa dìu, vừa dẫn họ ra
tận sát mé đường, nơi đã nghe tiếng ầm ì của xe pháo của trung đoàn 42.
Đài kỹ thuật vô tuyến điện quân đoàn dò được tin Tà Môk, chỉ
huy quân khu Tây nam đang chạy về biên giới Thái lan qua nẻo “mục tiêu A3”,
phum Kâmnon. Thằng này nghe đồn bị thọt, từng gây rất nhiều tội ác đối với đồng
bào ta ở An giang, Bảy núi… Hổ thọt bao giờ cũng là hổ dữ và tinh quái. Thị trấn
Leach đã bị ta chiếm. Đường 56 tắc nên nó và bộ sậu cắt rừng đi đường này. Tiểu
đoàn 4 đang trong thung lũng A3 được lệnh lên đường giữa đêm khuya, nhằm phum
Kâmnon tiến gấp. Đơn vị bỏ đường bò, cắt rừng bí mật đến mục tiêu. Cũng may là
rừng quãng này thưa nên chúng tôi hành quân không đến nỗi vất vả lắm. Đi cả đêm
được gần 17 km, nhưng so với Ô Răng thì thấm tháp gì ! Đến gần vị trí xác định,
tiểu đoàn hành quân chậm lại, vừa đi vừa tìm dấu vết. Đến gần vị trí trên bản đồ
chỉ nơi con suối gặp đường bò, chúng tôi thận trọng cắt ra đường. Đây rồi! Vết
xích xe M.113 hằn trên triền rừng còn rất mới. Thằng này khôn thật ! cũng biết
bỏ đường bò để tránh tạo dấu vết. Cả đơn vị được lệnh cấp tốc đuổi theo. Đại đội
2 đi đầu, kế đến đại đội 1 rồi tiểu đoàn bộ…Đơn vị cứ theo dấu xích xe mà chạy
tới. Trong khi mũi mồm tranh nhau thở, đã thoảng thấy mùi dầu máy. Hết khoảng rừng,
chúng tôi ùa ra một bãi dốc thoai thoải mọc đầy cây dầu non. Cách khoảng 100m,
một chiếc xe M.113 đang đỗ. Quanh chiếc xe địch đứng ngồi lố nhố. Anh Quảng tiểu
đoàn trưởng định ra lệnh bí mật tiếp cận nhưng không kịp. Bọn nó đã phát hiện
tình thế. Hai đại đội đi đầu không chờ lệnh nổ súng, xung phong ngay. Địch có
chừng một trung đội, rẽ rừng chạy ào ào. Vừa chạy vừa quay lại bắn léc chéc.
Trong số đó nhìn thấy cả mấy bóng phụ nữ mặc váy (sà rông). Khẩu đại liên trên
xe không kịp bắn một phát nào. Lính đại 2 nhảy lên trên xe, quay nòng bắn rèn rẹt
theo hướng địch chạy. Đuổi thế quái nào được nữa! Suốt một đêm hành quân gần
hai chục cây số, lại vừa chạy vũ trang gằn một tiếng đồng hồ. Lính ta ngồi thở
dốc quanh cái xe M.113 vừa thu được. Một thằng bê thùng đại liên trong xe tính
thay băng đạn đang bắn sắp hết thì nặng quá trượt tay. Thùng đạn đại liên rơi bịch
xuống đất văng tung nắp. Cả một khoảng vàng lấp lánh xoà ra mặt đất. “Vàng! Vàng
chúng mày ơi!”. Lính ta đổ xô vào nhặt. Loáng cái đã sạch nhẵn. Anh Thào tiểu
đoàn phó đến nơi thì hầu như chẳng còn dấu vết gì. Anh ấy rút K.59 cầm tay, ra
lệnh những quân nhân nào đã nhặt được lập tức nộp, thu gom ngay về cán bộ chính
sách tiểu đoàn. Quân đội cách mạng hay là một lũ kẻ cướp hả? Thế là mấy thằng
“trúng mánh” lúc nãy ỉu xìu mang nộp lại. Cũng chẳng kê khai gì. Thì giờ đâu?
Tôi biết có những thằng chỉ nộp lấy lệ mà thôi chứ chúng nó vẫn còn găm đâu đó.
Thằng Cầm điếc anh nuôi nhặt một bộ vest đũi trắng mắc ngay vào người. Ai cũng
biết là nó chỉ nghịch thế thôi nhưng ông Thào đang cáu, bắt nó mặc nguyên bộ mồi
đó, khoác AK đứng nghiêm phơi nắng cạnh cái xe hơn 1h đồng hồ. Nhìn không ai nhịn
được cười. Chiến lợi phẩm thu được trên xe ngoài những thứ như tôi vừa kể trên
còn một số quần áo dân sự linh tinh, vài thùng các tông niêm phong đựng rất nhiều
tài liệu. Tôi đoán đó là những tài liệu hết sức quan trọng vì cán bộ quân báo
quân đoàn gần như xuống ngay lập tức hôm sau. Đơn vị có lệnh đứng chân ngay tại
vị trí đó. Chiều tối, tôi đang nằm võng thì tiếng AK nổ sát sạt. Dây võng đứt
đôi, đầu rơi xuống đập vào chân cọc phụ đau điếng. Thằng Hiệp híp hữu tuyến, mắc
võng nằm cạnh kêu rầm lên. Nó bị một viên xuyên qua tay, mỡ lòi ra vàng như mỡ
gà. Hoá ra Bình “vàng” trung đội vận tải xách súng đi bậy, thấy chúng tôi nằm
hơi xa đội hình, tưởng là địch nên bắn nhầm. Anh Nhương tức, sang vận tải chửi
cho một trận. “Địch đ…đâu mà địch? Địch nằm ngay đội hình tiểu đoàn bộ à? Cái
thằng dát đ…loại mày thì xung quanh toàn là địch…!”. Riêng thằng Hiệp có vẻ
khoái trá với cái vết thương phần mềm đó. Hôm sau theo xe quân đoàn về viện rồi
biệt tích luôn. Sau chiến tranh tôi mới gặp lại nó.
Sau này, chúng tôi mới biết là đã để xổng mất Tà Môk, Iêng
Thirit (vợ Iêng Sary) cùng toàn bộ BCH quân khu tây nam của địch. Quá là tiếc!
Giá như may mắn tóm sống được nó thì có lẽ đơn vị tôi không phải nằm đến gần 10
năm ròng rã bên đó. Và chắc chắn sẽ có Huân chương Quân công…
Và bây giờ, nếu "quý ông", "quý bà" chạy
re kèn trong cái ngày hôm đó, nếu như còn trên đời này hãy nhớ rằng chỉ chậm
thêm một phút nữa thôi thì tôi không dám chắc điều gì sẽ xảy ra đâu!
Cho đến bây giờ, chắc không chỉ mình tôi mà tất cả đồng đội
đều vẫn còn hậm hụi tiếc. Sau khi chạy thoát sang Thái lan, Tà Môk trở thành bộ
não tổ chức ”kháng chiến” của cái chính phủ lưu vong khốn nạn đó. Còn Iêng
Thirit bày đặt đi nước này nước nọ, lên đài xuyên tạc bá láp tình hình, kêu gọi
viện trợ hòng khôi phục cái thây ma thối rữa vất vưởng xứ người. Với đơn vị
tôi, chúng nó chỉ là một đám ma đói chạy tụt cả váy (theo nghĩa đen), không
hơn. Kinh tởm độc ác thế mà cũng có đứa tin, tuồn viện trợ cho nó. Có thể các bạn
nghĩ tôi thiếu kiềm chế hay cực đoan, nhưng chúng nó đã làm anh em chiến trường
K và cả đất nước Campuchia khốn khổ thêm chừng ấy năm trời. Phải chi lúc ấy chỉ
thêm một tiểu đoàn đón lõng thì bọn nó sẽ tha hồ được phát thanh trước tòa án quốc
tế, hoặc phát thanh trước Diêm vương.
Bây giờ nói sang
chuyện khác cho đỡ tức. Coi như xả stress! Dẫu có hơi lạc chủ đề nhưng nó cũng
là những kỷ niệm của đời lính chiến. Trong các bạn trên diễn đàn có ai quê ở Đồng
nai không? Đương nhiên, Đồng nai (ngày xưa) là một cánh đồng rất nhiều nai. Cái
tên thật là giản dị. Ở vùng tác chiến của đơn vị tôi cũng có những đồng nai như
thế. Đấy chính là cái thung lũng A3 và vùng phụ cận mà các bạn nhìn thấy trên bản
đồ đấy! Tháng 5 năm 79, mùa mưa đã bắt đầu. Trong khi trung đoàn truy quét
(lính gọi là đi càn) để làm trong sạch và củng cố địa bàn đứng chân qua mùa mưa
thì đàn nai cũng tràn ra những trảng cỏ trong thung lũng tìm gặm những ngọn cỏ
đầu mùa. Nai đi ăn lẫn với bò hoang. Chiến tranh liên miên, bò nhà hoặc xổng,
hoặc phá bầy lâu dần thành như hoang thú. Lắm con vẫn còn đeo cả mõ lốc ca lốc
cốc làm lính mình tưởng là bò của dân không dám bắn. Đến khi lại gần thì cả đàn
tháo chạy. Những anh lính quê thành phố hay đồng bằng ngẩn người ra nhìn mấy
con nai cao lớn nặng hàng tạ, nâu nhạt hoặc vàng hươm phi như tên bắn. Ban đêm
cứ phục gần vũng nước độc lập, rìa suối thoải mà le mọc thưa dứt khoát bắn được
nai. Những con nai bụng mang dạ chửa thèm muối, thường hay lần mò đến những
phum hoang cũ, nơi chúng tôi đổ vãi muối dự trữ của địch ra để liếm đất mặn.
Không chỉ nai, lợn rừng, mễn(hoẵng) mà thú rừng nào hầu như cũng thèm muối. Các
phum hoang trở thành những địa điểm săn bắn cải thiện lý tưởng cho chúng tôi,
khi mà tiếp liệu thực phẩm mùa mưa trở nên khó khăn. Có thú ăn cỏ chắc chắn có
thú ăn thịt. Tôi muốn nói đến hổ - chúa sơn lâm của rừng già. Những loại tẹp nhẹp
như sói, lang, beo thì không tính. Mặc dù con beo cũng rất nguy hiểm vì hành
tung của nó rất bí mật và leo cây phục kích rất giỏi. Hổ vùng này rất nhiều.
Chiến trường khốc liệt, xác lính địch, xác dân chết đói đầy rẫy. Thế là chúa
sơn lâm quay sang đổi món, thưởng thức thịt người như một món ăn khoái khẩu. Cứ
nghe tiếng súng trận, thay vì bỏ chạy cong đuôi, những con hổ tinh quái lại mò
mò đến, chờ đánh chén bữa tiệc thịnh soạn đã được dọn sẵn. Trong muà mưa năm
1979, trung đoàn 2 sư đoàn 9 lập cứ dừng chân ở nhà ga Bâmnak. Tiểu đoàn 4 đóng
quân trong cái phum hoang, gọi tên trên bản đồ là Kbal Tea Hean (lính phiên âm
là Ba tà hiên – nghĩa là ba “người lính” trong tiếng Việt). Đây là vị trí xa
trung đoàn bộ nhất, gần thung lũng A3. Rừng tự nhiên bao phủ rồi lấn cả vào những
cái phum không người. Tiểu đoàn 4 và trinh sát 21 trong trung đoàn có tiếng là
sát địch. Trong nhiều lần đi càn, có khi các tiểu đoàn bạn về không thì chúng
tôi ít nhất cũng xơi được vài thằng. Bộ đội ta săn địch sống, còn hổ thì săn địch
chết. Trong đợt truy quét địch ở phum Kà rọi (phum cam), Có hai con hổ cứ đi
theo tiểu đoàn lẽo đẽo. Lúc đi sau, lúc vượt trước ngoan như bọn chó con. Chúng
tôi nhận biết nó qua cái mùi khét đặc trưng và những vết chân to như cái bát ăn
B.52. Nước trong dấu chân ấy còn đang vẩn đục, nghĩa là bọn nó vừa đi trước đội
hình chừng 5 phút. Một lần đang ngược suối, trinh sát bỗng thấy dòng chảy đang
trong bỗng có vệt lởn vởn đục. Đơn vị thận trọng bám lên thì nhìn thấy hai ông
kễnh to tướng đang lon ton bì bõm vượt suối. Nhìn thấy chúng tôi, bọn nó khinh
khỉnh nhìn lại cứ như bố tướng rồi đủng đỉnh ngoắt đuôi tránh đường. Có thể
loài vật thông minh ấy cũng hiểu là không nên tấn công những kẻ luôn mang lại
những bữa ăn ngon lành cho mình. Ban đêm, đơn vị mắc võng ngủ rừng, nó cứ à uôm
xung quanh suốt. Nhưng hổ đã kêu như thế thì không đáng sợ. Lúc đấy nó đã no mồi
rồi. Hoặc đang tán tỉnh nhau. Còn thấy mùi hổ mà không thấy động tĩnh gì thì
hãy coi chừng. Những thằng tụt tạt phía sau đội hình hành quân bỗng trở nên mạnh
khỏe hơn bao giờ hết. Đi truy quét, chúng tôi gặp rất nhiều thú nhưng không dám
bắn vì sợ lộ đội hình. Ưu tiên diệt địch bao giờ cũng là số một. Những câu chuyện
về thú rừng, về những chuyến săn cải thiện sẽ trở lại xen lẫn trong bài viết
này.
Chúng ta đang ở thời điểm tháng 5 năm 1979, tại ga Bâmnak và
các vùng phụ cận quanh thung lũng A3. Kể từ đây, thời gian bị nhoè đi theo cuốn
nhật ký bởi những trận mưa rừng xối xả. Nhưng những câu chuyện của đời lính
không thể nào quên vẫn tươi nguyên trong ký ức, trong từng trang thiếu xé ra từ
cuốn sổ để hút thuốc rê. Đôi khi , một mảnh cỏ khô giắt lại, một vết cháy do
tàn thuốc cũng nhắc lại được rất nhiều điều…
Vào một ngày mưa
như thế, chúng tôi được lệnh hành quân ra Bâmnak. Suốt mấy tháng sống giữa rừng
già, nay được quay trở ra đường sắt nên ai cũng thấy phấn khởi. Tiểu đoàn 4
hành quân trước. Trung đoàn bộ và tiểu đoàn 5 đi sau. Tiểu đoàn 6 chốt ở phum
“Cà” (vì có một nương cà dái dê) sẽ rút ra sau cùng. Chúng tôi đi giữa rất nhiều
đám dân bạn được giải phóng, cũng đang lục tục trở ra đồng bằng. Rừng thưa dần.
Đã thấy những khung nhà sàn không có người ở cắm chân bên những ruộng lúa nước.
Gọi là ruộng lúa thôi chứ làm gì có lúa, toàn cỏ dại mọc lấn um tùm. Rừng chen
ruộng. Ruộng lại chen rừng. Địa hình thoải và tầm mắt được mở rộng dần. Lúc đó,
hướng phum “Cà” tiểu đoàn 6, tiếng hoả lực bỗng vọng lại rền rền. Tiểu đoàn 4
được lệnh dừng lại, bỏ trang bị nặng chuẩn bị đánh vận động. Đơn vị ngoặt hướng
chưa được nửa cây số lại có lệnh trở ra đường tiếp tục hành quân. Chuyện này
nghe thằng Bình “cáo” và thằng Bình “ghẻ” ở khẩu đội đại liên đại đội 12 kể lại
là khi toàn tiểu đoàn chuẩn bị lên đường thì địch đánh ập vào. Bọn này hẳn là rất
thiện chiến và giàu kinh nghiệm nên chọn thời điểm tấn công hết sức nham hiểm.
Khi chuẩn bị hành quân, đương nhiên các loại hoả lực sẽ phải tháo súng, bộ đội
sẽ rời công sự và tâm lý thường là mất cảnh giác hơn. Khẩu đại liên đại đội 12
vừa tháo xong thì chúng nó khai hoả. Quả B.40 dũi tung bờ công sự, kẹt vào cái
gốc cây hai chạc nhưng không nổ. Hai thằng trợn mắt nhìn cái đuôi đạn đen nhám
còn bốc khói, bỏ khẩu đại liên đang tháo dở rồi lăn ra quạt AK vào bựng khói
đen đầu nòng bên kia suối. Anh Thắng “chàm”,
tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 6 lệnh cho các đại đội từ phương án đánh địch
tại chỗ chuyển sang đánh vận động. Yếu tố bất ngờ không khai thác được, lại bị
đại đội 11 đánh bọc sườn nên bỏ chạy sau mươi phút giao tranh, bỏ lại xác 4 thằng.
Bên ta chỉ có một bị thương và thằng Kính, lính Hải phòng hy sinh. Tôi nhớ thằng
Kính hồi huấn luyện ở Phủ lý, Hà nam ninh nó là cán bộ khung - tiểu đội trưởng.
Vào đơn vị chiến đấu cùng đoàn, tuổi thì sàn sàn thì gặp nhau mới mày tao chứ
thời huấn luyện thì phải gọi bằng anh bỏ mẹ!
Ra đến đường, đi thêm quãng nữa, một cảnh tượng hết sức phẫn
uất bày ra ngay dưới mắt đơn vị. Một thằng lính B3 hậu cần trung đoàn bộ (không
biết tên) nằm trên một vũng máu, đầu lìa khỏi cổ. Nó bị một nhát chém chí tử từ
đằng sau bằng dao quắm vào gáy. Khi tiểu đoàn tư vận động đánh địch lúc nãy, đội
hình trung đoàn bộ đã vượt qua chúng tôi đi trước. Thằng này có lẽ mệt, vừa đi
vừa nghỉ, có ý chờ tiểu đoàn 4 nên bị mấy thằng địch trong dân xử ngọt. Nó
không còn gì trên người ngoài bộ quân phục đang mặc. Chết bom chết đạn thì
không sao chứ chơi nhau kiểu hèn hạ ấy làm lính tiểu đoàn 4 như phát cuồng.
Chúng nó cứ hằm hè nhìn đám dân, thấy người nào có vác dao quắm là xô lại túm
ngực lôi đến cái võng tử sỹ ấn đầu vào hỏi. Đoàn người khốn khổ sợ hãi xanh mét
cả mặt. Lúc nãy còn tử tế xin thuốc xin nước nhau là thế mà bây giờ tình thế đổi
khác hẳn. Cơn giận làm mờ mắt cả lương tri. Chính trị viên tiểu đoàn hò hét khản
cả giọng, rút K.59 ra bắn chỉ thiên mới dập nguội được những cái đầu nóng ấy. Từ
đó cho đến tối, vượt qua một đoàn dân bạn nào, tôi chỉ chăm chăm nhìn xuống
chân xem có ai đi đôi dép giống kiểu dép
mà hậu cần vừa phát cho đơn vị không? Tiếc thay! Hoặc may thay! Họ toàn đi đất.
Những người dân thoát từ rừng ra cũng không dám trụ lại những
phum bám quanh nhà ga Bâmnak vì nơi đây vẫn còn hoang vu và nằm trong vùng chiến
sự. Một cái nhà ga hoang, như ga Rômeas, đúng nghĩa. Ban đêm, lợn rừng vào ủi tận
những mảnh ruộng sát mép đường sắt. Còn ban ngày, vịt trời và các loài chim nước
tụ đàn trên những đầm nước ven đường. Cầu đường sắt bắc qua con suối Damrei
(trung đoàn gọi là suối tiểu đoàn 4) chưa bị địch phá nhưng cầu đường bộ, vốn
làm bằng những cây gỗ lớn, đã bị chúng nó đốt nham nhở. Trở lại cùng với mùa mưa
là các hoạt động tăng cường của địch. Những hoạt động tuy nhỏ lẻ nhưng thường
xuyên gây khó khăn cho chúng tôi. Công tác hậu cần bị chậm trễ. Từ Bâmnak ra lộ
5 chỉ có hai con lộ đất. Lộ 28 chạy từ ga Kâmrenh (ga phía trên Bâmnak), qua kẹp
núi Tuk S’ra, gặp lộ 5 tại Kra Ko. Lộ không tên, vốn là con đường bò lớn chạy từ
ga Th’may, ga dưới ga Bâmnak ra thị trấn Ponley. Đi đường nào lộ trình cũng
tương đương 30 km toàn rừng thưa và đồng hoang không một bóng người. Đường sắt
chưa khôi phục hoạt động. Tất cả trông chờ vào xe vận tải sư đoàn và trung
đoàn. Mỗi lần chốt đường thông xe là mỗi lần đổ máu. Tuy ít nhưng cứ lai nhai
kiểu “kê cân” rất khó chịu. Nước mưa xuống, rừng nhiệt đới sinh sôi phát triển
mãnh liệt. Có những khoảng rừng thưa khẳng khiu khi đơn vị đi qua mới non một
tháng. Khi trở lại vòm lá đã trở nên thẫm tối. Những con đường bò mùa khô đầy bụi.
Bây giờ cỏ dại đan ken che lấp hai vệt bánh, phải khó khăn lắm mới nhận ra. Còn
trên những bình độ dốc, nước mưa chảy ào ào trên đường bò, xói đi đất đá. Lúc
đó con đường bỗng trở thành con suối một mùa. Mùa mưa đến cũng có nghĩa mùa sốt
rét bắt đầu tác quái. Đơn vị bắt đầu có những thằng sốt nằm li bì. Quân số tác
chiến bắt đầu giảm đi. Riêng trung đội thông tin chưa bị dính ca nào. Y tá tiểu
đoàn và các đại đội bắt đầu phát thuốc Nivaquin, bắt phải uống trước mặt vì sợ
chúng nó vứt thuốc đi. Không hiểu sao hồi ấy lại có tin đồn là uống thuốc này
(lính gọi là viên phòng 3) thì sẽ chẳng thể có con được. Buổi sáng hoặc buổi
trưa những ngày nghỉ truy quét, chúng tôi thường ngủ lu bù trên võng. Anh
Nhương phải đến lùa từng thằng dậy, bắt vận động đi lại cho nó tỉnh người. Ngủ
nhiều rất dễ bị sốt rét.
Nhưng mà địch thì
không bị sốt rét (đó là do tôi nghĩ thế) vì nó bâu bám đơn vị rất sát. Tại bình
độ 100 trong kẹp núi Pean Sas, khi đại đội 1 rời đi lùng sục, địch mò hẳn vào
chỗ đóng quân lúc sáng. Có một cái chum sứt lớn, lính đại đội 1 thái măng ngâm
chua với ớt rừng để ăn dần. Bọn nó vớt hết sạch măng, sau đó cũng đập tan cái
chum, hệt như cách chúng tôi cư xử với những chum muối của chúng nó. Vừa tức vừa
buồn cười! Quân số hao hụt trong chiến đấu, nay càng hao hụt thêm vì sốt rét. Đại
đội 1 mà tôi đi máy lúc này chỉ còn khoảng gần 30 người, kể cả thông tin đi phối
thuộc. Có những trung đội chỉ còn 6 tay súng. Đại đội lại phải san bớt người ở
các trung đội khác sang. Ban đêm, mỗi B gác 2 vọng từ chập tối. Chỉ huy sở và cối
60 cũng phải gác, trừ cán bộ đại đội. Nhưng thấy anh em vất vả quá, các anh ấy
cũng chia phần thức đêm với lính. Đi truy quét, chúi rừng rậm ngủ thì ù xoẹ gác
thế nào cũng xong. Còn dừng chân tại các phum cũ, các giao lộ đường bò, không
thằng nào dám bỏ gác. Có buổi sáng thức dậy, đang lào xào thu võng thì chúng nó
bắn rát vào đơn vị. Đại đội chia cánh vận động lên thì địch đã chạy. Tại chỗ địch
bắn vào đội hình lúc nãy đếm được 12 cái cọc phụ mắc võng. Đêm hôm qua, đã có 6
thằng địch ngủ cạnh đại đội 1, cách có 40m, cứ như một B phối thuộc vậy. Anh
Chính “tréc” thè lưỡi trợn mắt, hất hàm dọa bọn tôi :”Thấy chưa?!”. Một đêm,
đúng ca gác của tôi, gần hết ca tự nhiên đau bụng quá. Tôi lần về võng, lục ba
lô lấy vội mấy cái phong bì thư. Để làm gì chắc các bạn đã biết. Bên phải là B2
, bên trái là B3. Lò mò sang hai hướng ấy chúng nó tưởng địch quất cho bỏ mẹ!
Thế là tôi cứ thẳng hướng gác của mình tiến lên. Qua khỏi đội hình chừng 15m,
nhớ lại chuyện ngủ chung với địch hôm trước. Tôi không dám mò lên nữa, ngồi
luôn xuống làm công việc giải thoát đại tràng. Xong xuôi khoan khoái, rờ quanh
thấy một nửa cái vỏ dừa tươi. Tôi vớ lấy, úp lên cái sản phẩm cuối cùng của bộ
máy tiêu hoá. Hết ca! Về bấu thằng Căn liên lạc dậy thay rồi chui vào võng. Nằm
được một lát, chưa kịp ngủ lại thấy thằng Căn mò về bấu anh Chính “tréc” đại đội
trưởng :” Anh ơi! Dậy! Địch ở rất gần!”. “Sao mày biết?”. “Có mùi phân tươi,
anh ạ!”. Quả đúng là trong không khí cuối gió, mùi phân người thoang thoảng.
Ông Chính dậy ngay, bảo thằng Căn luồn xuống các B báo động. Tôi nằm im re,
không dám nói gì! Đến sáng, đội hình thận trọng bung ra. Vẫn không thể phát hiện
được cái mùi đặc biệt ấy từ đâu? Dòm ngó loanh quanh một lúc, thằng Dung cối quả
quyết vung chân đá tung cái vỏ dừa. Nó vênh mặt nhìn quanh, đắc ý hệt Colombus
tìm ra châu Mỹ. Bên trong cái vỏ dừa, kèm theo những thứ không tiện nói là cả một
cái phong bì. Hàng chữ nắn nót trên đó tố cáo ngay chủ nhân của nó : “ To Xuân
Tùng – Hòm thư 4R……”. Vâng! Tôi tên là Tùng thưa các bạn! Phải giới thiệu tên
mình trong cái hoàn cảnh đặc biệt như thế này quả là không tiện lắm! Nhưng nó
cũng là sự thật, như tất cả những sự kiện tôi đã kể với các bạn trong trang viết
này! Cho đến tận bây giờ gặp nhau, bọn tôi vẫn nhắc lại rồi không nhịn được cười.
Một số thông tin nói rằng Kh'mer Đỏ xây dựng một xã hội
không trường học, sách báo, tiền tệ...
Trong khi đánh địch, tại Ph'nom Penh cũng như một số nơi
khác, chúng tôi đã nhặt được rất nhiều tiền do Kh'mer Đỏ in hoặc nhờ in song
chưa phát hành thì phải. Những hình vẽ trên đồng tiền thường phản ánh thực trạng
hoặc định hướng xã hội của một chế độ. Các bạn hãy nhận xét định hướng xã hội của
chế độ ấy qua hình ảnh những đồng tiền chưa bao giờ có cơ hội lưu thông này.
Xin chú ý những cái mũ lưỡi trai đội đầu của những nhân vật
được vẽ trên đồng tiền. Tôi thấy giống giống... cái mũ này trông quen quen!
Khẩu đại liên Kalinôp có bánh xe vẽ trong đồng tiền chính là
khẩu đại liên cùng loại của C1 trong các trận đánh. Mãi năm 1981 trung đoàn mới
đổi cho khẩu đại liên ba chân ( tên gọi là K.53 thì phải - cái này tôi không biết
tên) mới coong, bắn cùng loại đạn K.53
Còn tư thế bắn B.40 của "chị gái" trong hình rất Pờ
rồ !




Do địch chơi kiểu du kích như thế nên chúng tôi cũng thay đổi
cách đánh để chơi lại. Những trận đánh cấp tiểu đoàn, trung đoàn như hồi mùa
khô không còn nữa. Bây giờ chủ yếu là những trận phục kích, bao vây cấp đại đội.
Tiểu đoàn hành quân giải toả hoặc chốt đường xong, khi rút qua một địa điểm thuận
lợi đã chọn sẵn liền bí mật để lại một trung đội cứng và một máy 2W nằm phục.
Còn đơn vị cứ hành quân như không có chuyện gì xảy ra. Thậm chí đi được một lúc
còn bắn bậy sang hai bên đường, ra cái điều thông báo chúng ông đã về đến đây rồi.
Mấy thằng địch bâu bám tưởng bở, tênh tênh mò ra đường hoặc theo dấu đơn vị lập
tức ăn đòn đủ, thường là bị tiêu diệt gọn. Đơn vị về đến vị trí đứng chân, nghe
ở hướng trung đội phục kích rầm rầm B.40, B41 và đạn nhọn rộ lên là kể như chắc
ăn. Mấy thằng có võng cũ chạy ngay ra hóng để xin hoặc đổi võng. Bọn nằm phục về, lỉnh kỉnh súng đạn thu được,
còn trên tay thỉnh thoảng lại lấp lánh cái đồng hồ tự động chiến lợi phẩm hiệu
Orient, Rado…Nhưng chiến thắng nào mà chẳng có cái giá của nó! Tiểu đoàn 4 có
tiếng sát địch thì cán bộ tiểu đoàn và cán bộ đại đội cũng thay như thay áo. Mới
có 3 tháng đầu năm 1979, chỉ tính riêng hàng ngũ cán bộ đại đội trở lên đã hy
sinh và bị thương 5 người. Anh Thoan đại đội phó đại đội 3 hy sinh tháng 3. Đến
tháng 4 thì anh Sơn tiểu đoàn trưởng, anh Quang, anh Tuy đại đội 1, anh Đạt đại
đội 3 bị thương. Vào một buổi trưa, anh Tiến mới nhận tiểu đoàn trưởng tiểu
đoàn 4 thay anh Quảng (bệnh – đau dạ dày cấp), cùng tổ trinh sát 27 sư đoàn
trèo lên cái tháp nước trên sân ga. Cái tháp nước này cao khoảng 15m. Trong khi
đang quan sát địa hình bằng ống nhòm thì bị địch bắn tỉa. Phải nói thằng địch
này rất thiện xạ. Từ khoảng cách có đến vài trăm mét, viên đạn có lẽ bắn từ khẩu
K.63 xuyên qua bụng (chắc chắn hồi đó địch không có súng bắn tỉa ống ngắm quang
học dùng đạn K.53). Chúng tôi thấy anh ấy ôm bụng gục ngay trên tháp nước. Hai
thằng trinh sát 27 vội nằm ngay xuống kêu ầm lên. Anh Thào tiểu đoàn phó hô
lính vận động, chủ yếu là để đuổi địch thôi chứ biết nó bắn từ đâu trong cái
ngàn xanh bao bọc sân ga này. Mọi người đưa anh Tiến xuống. Cũng may là viên đạn
không phá nhiều. Khoảng 2h đồng hồ sau, trực thăng đáp xuống sân ga đưa anh ấy
cùng mấy thằng sốt rét ác tính đi viện luôn. Tôi bây giờ cũng không biết là có
qua khỏi hay không! Anh ấy là người thứ 6 trong danh sách cán bộ mà tôi vừa kể
trên. Từ đó, ngoài cái tiếng là sát địch, tiểu đoàn 4 còn có tiếng là sát cán bộ.
Lính nói nam nam, chuyện gẫu bá láp thế thôi chứ tôi chưa thấy ai từ chối nhiệm
vụ chỉ huy mà trung đoàn giao cho bao giờ.
Ngay chiều tối hôm ấy, theo lệnh trung đoàn, anh Thào dẫn tiểu
đoàn càn vào hướng địch bắn tỉa lúc trưa, tiến đến dãy núi “thằn lằn”- (tên
trên bản đồ là Ph’nom Lang T’beng). Đơn vị bỏ đường lớn, cặp theo suối Damrei rẽ
rừng tiến bước. Qua phum Th’may, trời đã nhập nhoạng tối. Phum Th’ may là một
phum lớn, còn nguyên vẹn nhưng cũng là một cái phum hoang như hầu hết các phum
trong khu vực. Những ngôi nhà sàn lừng lững, mái ngói đã lên rêu phủ bóng tối
xuống mảnh sân mà cỏ dại đã lấn vào. Trên sân, mấy cái cối, dùng để giã gạo hoặc
cốm dẹt trong Tết mừng cơm mới đã mục, nằm chỏng trơ. Xoài tượng rụng vàng cả gốc,
bốc lên mùi men rượu chua nồng. Khi ta bước lên thang, những bậc gỗ cũ kẽo kẹt như sẵn sàng rụng xuống. Trong
những ngôi nhà rộng rãi và tăm tối đó đầy mùi ẩm mốc và tử khí. Đôi khi gặp những
xác người đã phân huỷ, dưới lớp áo quần đã mủn là những bộ xương rã rời. Tóc rụng
quanh sọ không tiêu huỷ được, xếp thành một lớp chằn chặn dưới sàn. Và dơi! Dơi
quạ ở đây to khủng khiếp. Sải cánh mỗi con phải đến 1.2m. Cả đàn hàng trăm con
đến ăn xoài chín, quạt cánh phần phật tối cả hoàng hôn.
Những con dơi xao xác bay làm lộ vị trí nghỉ đêm của chúng
tôi. Địch nó tập kích ngay. Nó có chừng một tiểu đội với khẩu đại liên Mỹ, tha
đi hết góc này đến góc khác bắn vào đội hình. Đàn dơi hoảng sợ lại càng bay tợn.
Nghỉ đêm tại cái phum ma này quả là ngán! Bố trí đội hình xong, mấy thằng chúng
tôi lên mấy căn nhà, đạp vách gỗ xuống triển khai công sự nổi. Tôi vẫn đi với đại
đội 1 như truyền thống. Thằng Căn, thằng Đồng Huế xúc đất đắp vào các tấm ván
mà tôi với anh Lược chính trị viên phó xếp ốp vào các chân cột nhà sàn. Chỉ một
lát, cái “chiến luỹ” đã hoàn thành. Bọn thằng Tào, thằng Lại anh nuôi đại 1
cũng triển khai cơm nóng cho anh em trong cái công sự ấy. Địch bên ngoài thấy khói chỗ nào bắn bắn liên hồi vào chỗ
đó. Có những viên đạn xuyên trúng mép cột, tước gỗ xơ ra rồi văng lung tung. Bọn
tôi cứ phớt lờ. Kệ cụ mày! Bắn chán thì thôi! Đạn tiểu đoàn đang thiếu. Ăn cơm
xong thậm chí còn kịp uống ấm trà chót mà thằng Đồng ém được. Đội hình bố trí
hơi gom, gần như lọt thỏm giữa các B nên quan sát sở không cần gác. Bây giờ mắc
võng tụt xuống hơi thấp một chút là có thể ngủ ngon. Trời tối đen như mực rồi bắt
đầu đổ mưa. Phía dưới B2, thằng Tám khoẻ và Minh đen bò vận động lên cái bụi um
tùm có cây thốt nốt độc lập, trước trung đội chúng nó khoảng 30m. Rình thấy loé
lửa đầu nòng khẩu đại liên của địch rồi kéo một điểm xạ dài RPD. Sau đó lại rút
êm về đội hình trung đội. Đòn giang hồ kiểu dùng kỳ binh ấy của Tám khoẻ thì
tôi không có lạ. Bộc lộ lực lượng ở vị trí ảo để vị trí thật an toàn hơn. Đêm
đã về khuya. Trời vẫn cứ mưa, mỗi lúc một sậm hạt. Tiếng súng địch vẫn cứ oăng
oẳng hết hướng này đến hướng khác suốt. Vào thì chẳng dám vào, rút thì cũng
không chịu rút. Mưa rừng thế này sao không kiếm cái chỗ nào ngon mà mắc võng ngủ
đi con! Về nhà mà cày ruộng hay đánh cá. Kiếm một con vợ ngực đầy hông nở trong
cái đám gái phum vẫn múa lăm-thôn dưới trăng rằm hồi trước ấy. Rồi ghen tuông đấm
đá, rồi sinh con đẻ cái đi…! Theo ba cái thằng vác cuốc đập đầu ấy làm gì…? Mẹ
kiếp! Mưa đầu mùa cữ này cá rô đồng đang rạch lên phải biết! Tự nhiên, không biết
là có mất quan điểm hay không, tôi thấy ái ngại cho chúng nó. Giấc ngủ đến
trong tiếng súng địch và tiếng mưa rơi đều đều… Và trong giấc mơ đêm ấy, tôi
cũng mơ thấy tôi được trở về nhà.
Tháng 8/1979, tiểu đoàn 4 hành quân xuôi từ ga Bâmnak về ga
Th’may, sau đó rẽ ra thị trấn Ponley ngoài lộ 5. Địch có vẻ như đã xây dựng được
một tuyến giao liên tiếp vận từ biên giới Thailand vào các vùng sâu trong nội địa
ngoài biển Hồ. Nhiệm vụ của đơn vị là bước đầu hỗ trợ xây dựng chính quyền cơ sở
non trẻ của dân bạn, truy quét triệt phá các căn cứ nội địa ven biển Hồ. Dọc đường
hành quân cạp theo đường sắt trước khi rẽ trái sang lộ không tên, ở mấy chỗ đất
mới trên lộ, chúng tôi phát hiện mấy quả mìn chống tăng địch mới chôn. Bọn này
làm ăn cẩu thả. Cơn mưa lớn đêm qua đã rửa trôi đất cát, làm lộ ra cạnh mấy quả
mìn đĩa. Chúng tôi gỡ lên, lấp đất lại như cũ rồi kẹp thêm vào mấy quả mìn ấy
những trái lựu đạn tức thì M.26. Sau đó lại đem cài lại vào mấy lùm cây ven đường
tại đúng vị trí đó. Thằng địch nào đi kiểm tra mìn mà dính phải chưởng ấy thì
đơn vị nó chắc sẽ phải báo mất tích. Loại M.26 tức thì (có chấm đỏ) này lấy được
ở kho súng trong Ăm leng. Lính các C chịu khó tha đi để gài trước đội hình khi
nghỉ đêm. Sáng hôm sau lại ra thu về. Nói chung loại này dùng tiện hơn mìn, khi
cần có thể xài ném cá được. Có điều trước khi ném phải cuốn quanh mỏ vịt mấy
vòng dây nịt (cao su) cho nó nhả ra từ từ.
Ra đến cái đập nước lớn cách Ponley khoảng 15 km, tiểu đoàn
dừng chân nghỉ lại một ngày. Cái đập này nằm tại hợp lưu của gần chục con suối
lớn trong khu vực. Trên đập, nước tràn chảy ồ ồ. Cá trắng từng đàn lách phe
phé. Trên mặt hủm nước sâu xanh thẫm nơi chân đập, những con lóc bông lớn cả chục
ký thỉnh thoảng lại trồi lên ngáp bóng. Cái viền mép vàng nhạt ngoác ra, thân
mình chùn chũn vằn vện, oai vệ lắc khẽ một cái rồi lại từ từ chìm xuống. Bọn
lóc bông này hẳn là no mồi. (Sau này, tại tổ đánh cá cải thiện do trung đoàn tổ
chức đóng ở Sóc Tu ru - biển Hồ, tôi đã thấy những con cá lóc bông nặng hơn 20
kg). Ở rừng lâu toàn ăn măng muối, lâu lâu mới có miếng thịt rừng nên lính ta
không bỏ qua cơ hội cải thiện này. Đánh cá thì quá đơn giản rồi! Chỉ một loáng
là tất cả các món cá tươi chế biến theo truyền thống của từng vùng miền đã
xong. Nhưng ngon nhất vẫn phải kể đến canh chua cá lóc nấu kèm lá giang. Cây lá
giang là loại thân leo, lá hình trái tim, có vị chua rất thanh mà tôi tin là
các anh em chiến trường K không thể nào quên được. Cá lóc đen tầm ký rưỡi, hai
ký sau khi đánh sạch vảy, khía chéo thân, ướp bột gia vị, ớt giã và những thứ
lá lẩu gia vị gì đó kiếm được rồi để nguyên con. Bọc kín bằng bẹ chuối hột mọc
hoang đầy bờ đập. Tống vào giữa đống củi đang rừng rực. Bao giờ cháy đến hết lớp
bẹ chuối phía ngoài thì lôi ra. Vừa ăn vừa thổi phù phù. Những con cá lóc lớn
quá, chúng tôi quăng bỏ thịt đi, chỉ lấy mỗi bộ lòng. Những bộ lòng cá lớn như
lòng gà. Sau khi làm sạch lăng vào nồi canh đang sôi, vừa chín tới, vớt ra chấm
muối ớt, ăn nóng giòn tan thì thằng nào dẫu có hy sinh cũng phải sống lại…Suỵt…!
Gõ đến đây thì tự nhiên lại thấy đói !

Bản đồ vùng hoạt động E2, F9 thảng 8/1979. Mũi tên chỉ hướng
hành quân của tiểu đoàn 4. Các địa danh trận phục kích phum ChongLong ven thị
trấn Ponley ; Phum "rừng thị" được đánh dấu đỏ trên bản đồ.
Chiều tà, tiểu đoàn nhích đội hình lên khỏi đập nước 300m, bố
trí đội hình nghỉ đêm tại phum “rừng thị”. Một cái phum có đúng 3 cái khung
nhà. Cạnh phum là một rừng toàn cây thị đang mùa trái. Cây thị trong truyện cổ
tích Tấm Cám của bọn trẻ con đó, sinh sôi thành một quần thể xanh thẫm cao vọt
lên hẳn so với rừng chồi thấp phía dưới. Cây cao cây thấp chen nhau mọc. Có những
cây thị cổ thụ vòng gốc một người ôm mới hết. Trên vòm lá, đủ các loại chim to
chim nhỏ chòe choẹt kêu điếc hết cả tai. Kêu chưa tệ hại bằng việc chúng nó
oanh tạc vào đầu chúng tôi. Đi gần như chạy qua cái rừng chết tiệt ấy tới phum
nhưng thằng nào cũng bị dính vài bãi phân chim vào đầu. Còn dưới gốc, quả thị rụng
nhoe nhoét. Muỗi bọ bay vần vụ. Trong phum, trên nền vườn cũ, đậu đen cạnh
tranh với các loài cỏ dại, vươn dài thành ra giống như một loại thực vật thân
leo khác. Tuy vậy vẫn ra trái như thường. Thằng Căn và tôi chịu khó đi hái một
lúc, chà ra cũng được một ca inox để tối nấu chè. Nhưng chuyện đó không có gì đặc
biệt bằng những điều tôi thấy buổi đêm trong ca gác của mình. Đêm hôm ấy trăng
mờ vì mây vẫn chưa kịp tan sau cơn mưa buổi chiều. Đang ngồi ôm súng ngáp ngắn
ngáp dài vì đã gần hết ca của mình, tôi bỗng tỉnh cả ngủ khi thấy trên cây thị
gần vọng gác có mấy con chim lạ. Dứt khoát không phải dơi mà là chim đến ăn
trái vì tôi nhận ra cái đuôi của chúng rất dài. Sải cánh loài chim này rộng khoảng
0,4m, vẫy rất nhanh và êm ru, hầu như không phát ra tiếng vỗ gió. Ba bốn con quạt
cánh mềm mại, gần như bay đứng, lặng phắc giữa không trung. Chỉ thấy những đầu
cành cây thị nơi chúng đang rỉa quả (hay hút mật quả) khẽ rung rung. Tôi có đọc
trên một số tạp chí nghiên cứu tự nhiên
sau này. Trong đó các nhà khoa học khẳng định trên thế giới chỉ có loài chim ruồi
Nam Mỹ, với kích thước nhỏ bé mới có khả năng bay đứng và bay giật lùi. Tôi phản
đối cái kết luận này vì chính tôi đã chứng
kiến kiểu bay và hành tung lạ kỳ của loài chim đêm không biết tên kể trên. Nếu
ai không tin, xin mời đến vùng rừng ven biển Hồ kiểm chứng. Sáng hôm sau kể lại
câu chuyện hồi đêm. Ông Chính bình luôn một câu :” Đ…lo gác! Lo đi ngắm chim
thì có ngày nó vào oánh cho chạy tụt cả chim như hồi tháng tư đó!”. Riêng anh
Ky khẳng định đấy là chim bắt muỗi chứ không phải chim ăn trái. Trời đất! Với
kích cỡ thân hình như thế, mỗi đêm chắc nó phải xơi đến cả tỷ con muỗi mới tạm
lửng diều.
Hôm sau, đơn vị ra đến thị trấn Ponley. Dân bắt đầu định cư
tại thị trấn ven lộ 5 này. Lúa đã xanh đồng nhưng đang kỳ giáp hạt. Dân đói và
gạo thóc khan hiếm. Thị trấn bắt đầu họp chợ và vật ngang giá chung không phải
là tiền mà là gạo, thuốc chữa bệnh và vàng. Với năm kg gạo người ta có thể đổi
lấy một chỉ vàng. Một hộp nhỏ thuốc Sunfamit, Đa-zi-năng cũng có giá trị tương
đương. Một hai lon gạo bớt ra trong khẩu phần lính cũng đủ để đổi cá tươi ăn
thoải mái. Thậm chí có những em gái trẻ rao bán mình với cái giá ”pi loong”
(hai lon). Trong hoàn cảnh như thế, liệu có ai trong chúng ta chấp nhận cuộc
mua bán bi thương mà kẻ mua chắc chắn sẽ khốn nạn hơn người bán ấy không? Chiến
tranh, với những hệ lụy mà nó mang đến không chỉ là chết chóc hoang tàn. Tệ hại
hơn cả cái chết, nó giày xéo không thương tiếc lên nhân phẩm con người. Trong
đó, kể cả kẻ chiến thắng cũng phải ngậm ngùi. Đau xót lắm! Một lần khi ra chợ đổi
cá cho trung đội thông tin, tôi gặp một bà mẹ cứ xoắn lấy. Bà ấy đòi đổi vàng lấy
thuốc kháng sinh péniciline tiêm. Thuốc này chống nhiễm trùng cho các vết thương,
chỉ có trạm phẫu tiền phương mới có. Hỏi đổi làm gì thì trả lời ngay là con
trai bà ấy sắp chết. Rồi bà ấy khóc lóc gần như ăn vạ ngoài chợ. Quân y tiểu
đoàn mang túi thuốc đến túp lều nát sát rạch – nơi trú ngụ của hai mẹ con thì
đã thấy một mùi khẳn thối xộc lên. Trong lều, đứa con trai đi lính Pôn pốt (bà
mẹ nói rõ ràng như thế) đang nằm thiêm thiếp. Nó bị thương vào chân. Cái đùi
đang bị hoại thư sinh hơi, phồng lên như bắp chuối tỏa ra mùi xác chết. Vạch mắt
ra thấy đồng tử đã giãn đờ như mắt cá, thằng quân y lắc đẩu rồi tiêm cho nó một
liều giảm đau chiếu lệ. Chúng tôi để lại lều hai lon gạo rồi trở về...
Đến ngay cả bọn địch cũng đói, cứ đêm đêm mò vào các phum, sục
vào các nhà dân, vét đi những hột thóc cuối cùng. Chiến tranh giải phóng gì cái
bọn thổ phỉ ấy! Ngày thì chúng tôi vào phum dân vận. Nhưng đến đêm lại gom về
đóng độc lập gần phum như đội hình chiến đấu. Mấy đêm trước, tiếng chó sủa rộ
lên trong các phum Chay Rum, Khon Roong. Khả năng lần này sẽ đến lượt phum Cho
Long sát đội hình tiểu đoàn đóng quân. Thóc ở đâu mà vét mãi! Ngay từ buổi chiều
mấy hôm trước, tiểu đoàn đã triển khai mấy tổ phục kích ngoài rìa phum nhưng vẫn
chưa thấy chúng nó vào. Đến lần này, tổ phục của trung đội vận tải tiểu đoàn bộ
gặp may. Mới có sẩm tối, địch đã mò vào phum. Bảy tên địch nghênh ngang xếp
hàng một đi trên đường. Qua suối sát phum, chúng nó dừng lại kỳ cọ chân cẳng rồi
chụm lại hội ý. Gom quá! Chọn đúng thời điểm đó, thằng Nghĩa - Bạch Đại Nghĩa,
trung đội phó trung đội vận tải siết cò khẩu B.41. Quả đạn nổ quét bờ suối thoải,
hất ngược lên một vầng lửa da cam hình rẻ quạt. Sau tiếng nổ dữ dội nhưng trầm
vọng ấy là sự im lặng hoàn toàn. Chẳng còn gì trên bờ suối ngoài những mảnh thịt
người. Khẩu RPD và năm khẩu AK trung đội vận tải không có lý do khai hỏa. Chúng
nó ào lên thu súng nhưng hầu như cũng chẳng còn khẩu nào nguyên vẹn, toàn bị
cong queo vỡ báng gần hết. Lại còn phải lấy que gợt gợt đi những thứ dính vào rồi
mang xuống suối rửa. Hôm sau, trưởng phum Cho Long huy động bà con ra suối, đào
một hố lớn rồi gom tất cả những gì còn lại quy tập vào một hố chôn chung. Riêng
thằng Nghĩa đi báo cáo thành tích trên Quân đoàn rồi được thưởng phép. Mấy
tháng sau nó mới mò vào đơn vị.
Sau trận phục kích kinh hồn táng đởm đó, suốt một dải từ
Ponley lên đến K’ra Ko trên địa bàn hoạt động của trung đoàn 2, địch nín im
thin thít. Một số gia đình vào rừng vận động con em họ mang súng ra đầu hàng.
Chính quyền phum sóc do dân bầu bắt đầu hoạt động. Tất nhiên làm gì có trụ sở,
dấu má với xà cột. Ông trưởng phum hằng ngày vẫn đánh xe bò vào rừng đốn gỗ hay
ra ruộng làm cỏ lúa. Thỉnh thoảng tạt qua tiểu đoàn bộ đem cho mấy ống thốt nốt
chua. Trung đoàn tách ra một đơn vị giúp dân xây dựng chính quyền, lấy tên là
tiểu đoàn 4B do anh Lộc làm chính trị viên. Tiểu đoàn dân vận hỗ trợ dân bạn đủ
thứ, từ thuốc chữa bệnh đến lúa giống. Cho đến cả đẻ đái bệnh xá quân y K.23
cũng phải xắn tay vào…Thời gian này, hội Chữ thập đỏ quốc tế, Tổ chức Lương thực
thế giới (F.A.O) cũng đã bắt đầu nhảy vào viện trợ cứu đói cho nhân dân Campuchia,
bất kể thuộc phe nào. Tiếng là thế nhưng thực ra dân Kh’mer X’rây, Kh’mer Đỏ…
bên các trại tị nạn vùng biên giới Thailand mới hưởng phần lớn sự hỗ trợ đó chứ
còn trong nội địa, chúng tôi vẫn cứ phải san gạo cho dân. Nghĩ thấy tội! Hồi đó
nước mình cũng đói bỏ xừ. Trước khi đi bộ đội, tiêu chuẩn học sinh trung học
như tôi nhà nước cấp cho 17 kg lương thực cả gạo lẫn mỳ sợi trong sổ. Đấy là
còn được ưu tiên vì đang tuổi lớn, là tương lai đất nước đấy! Chứ còn bác sỹ
giáo viên như bố mẹ tôi mỗi tháng có 13 ký chẵn. Vào lính chiến mới được ăn gạo
không chứ lúc huấn luyện vẫn phải ăn kèm ngô, bo bo rát mồm. Ở đơn vị huấn luyện,
tôi đã từng bị phạt đi làm cỏ lúa giữa trưa nắng vì cái tội dám bịa lời bài hát
Hạ Trắng của cố nhạc sỹ Trịnh Công Sơn :” Tuyệt quá..! Bữa cơm chúng mình, toàn
rau muống xanh… bát cơm ngô vàng, đệm cho món canh… mắm khô hôi rình, ngửi sao
thấy tanh….”. Thôi thì con không chê cha mẹ khó, chó chẳng chê chủ nghèo! Đã khổ
đến như thế rồi lại phải san sẻ gánh thêm nỗi khổ của người khác nữa mà mấy thằng
thối mồm vẫn chõ vào bảo mình là tàn sát, là xâm lược. Nghĩ muốn điên cả ruột!
(Ngôn ngữ lính binh nhì bỗ bã tý! Anh em thông cảm! Mai tôi tự sửa bài mà!).
Nhưng chó cứ sủa, còn đoàn người thì cứ tiến!
Buổi tối hôm chính quyền phum Chay Rum ra mắt, dân tổ chức
múa lăm thôn. Trên khoảng đất rộng giữa phum, từ chập tối, tiếng trống đã vang
lên bập bùng. Rìa sân, ba chú nhỏ xếp bằng tròn trên nền đất ngồi vỗ trống. Những
chiếc trống dài chừng 40 cm, tiện hơi thắt ở đoạn giữa. Một đầu bịt da trăn, một
đầu hở để có thể xòe bàn tay bịt hơi vỗ, điều chỉnh sắc độ. Tiếng trống lúc đầu
còn rời rạc, nhưng càng về sau càng thôi thúc. Nào! Bắt đầu đến tiết tấu :”
Tình tinh, tạ, tinh-tinh-tình”. Một đen, một liên ba, lặng đơn…Hây! Lại tiếp một
đen- liên ba- lặng đơn… cứ thế mà giật boòng ơi! Như nhịp Chachacha điển hình.
Nào! Hai bước tiến, một bước lùi lại. Thế! Đúng rồi…! Các cháu nhỏ hồn nhiên nhất,
mình trần đen sạm, xương sườn phơi ra dưới ánh lửa, nhập vòng bằng những bước
linh hoạt đầy nhạc cảm. Cứ như thể chúng nó đã biết múa từ trong bụng mẹ vậy!
Ngập ngừng đôi chút, các chị, các em cũng bắt đầu bước vào. Những bước vũ thật
uyển chuyển, những cử động thật nhịp nhàng. Nhiều em gái với cái áo đen vá và
chiếc khăn cà ma duy nhất, còn ướt đẫm vì mới giặt ngoài suối, vừa múa vừa
nghiêng đầu làm duyên. “ Oh! S’vai chăn ti, nịa ri on ơi! Bê mêc xa kha…Cùm a
jô p’đây. Chằm boong thơ thây, boòng tinh lan c’bây oi s’rây bợ liêng…!” – Ôh
trái điều (đào lộn hột) đã chín kìa em gái!..Da thịt em trắng ngần. Đừng có lấy
chồng vội nhé! Chờ anh mua cái xe trâu anh đưa em đi chơi…! Lời bài dân vũ tuyệt
hay! Tiếng trống tan trong ánh lửa, trở thành một chất men thôi thúc xóa nhòa mọi
khoảng cách. Không hiểu tôi cũng đã vào vòng từ lúc nào. Ông trưởng phum ngồi vỗ
trống thay cho mấy cháu, nhe răng cười trắng lóa. Cả phum Chay Rum phần lớn là
gái góa (mêmai), gia đình đã tan nát hay thất lạc trong chiến tranh. Nhưng
trong đêm ấy, khổ đau, đói khát dường như không tồn tại. Những gương mặt ngời
lên trong ánh lửa, những cái lắc hông mềm mại, những đụng chạm cố tình…Phút
thăng hoa ấy, đã chắc gì một ông hoàng lưu vong hạnh phúc bằng một thằng bé
không áo cởi trần…
Mùa mưa đang độ sung mãn nhất. Ngày nào cũng mưa, triền miên
xối xả. Buổi sáng trời còn loe nắng, nhưng độ hai, ba giờ chiều là mây đen kéo
kín chân trời. Gió như ngựa lồng cuốn theo những cơn mưa trắng trời trắng đất.
Tấm nilon lính chỉ khoác lên mình cho chiếu lệ và ngăn gió quất thôi chứ nhằm
nhò gì! Áo quần hầu như lúc nào cũng ẩm ướt. Lại trộn lẫn mồ hôi, bùn đất lúc
hành quân tỏa ra cái mùi thật khó chịu. Tấm tăng, mà có nhà thơ ví như cái “bầu
trời vuông” của lính hồi đó cũng mỏng quẹt, gió giật một lúc là các tai buộc đứt
bung ra ngay. Chúng tôi lấy dây điện thoại hoặc dây rừng buộc túm lại những góc
đứt, chằng đụp cho xong chỗ nghỉ đêm. Tăng thiếu hay rách quá, có thằng sáng kiến
kiểu nằm chung. Tức là hai đứa mắc võng cùng một chỗ, thằng trên thằng dưới như
kiểu giường tầng của sinh viên nội trú. Một tấm tăng lành che chung. Còn tấm
tăng rách kia buộc che hướng gió tạt. Thằng trên đang nằm thì chép miệng, bảo
quê tao tháng này sắp đến cữ gặt. Tao với con em gái vác cái vợt nilon ra đồng,
cứ thấy thửa nào chưa gặt là nhào tới quơ ngang quơ dọc một lúc là đầy châu chấu.
Mang về rút đầu vặt cánh, thêm chút lá chanh thái chỉ, cho vào chảo mỡ rang
giòn nhậu hết sảy…Thằng nằm dưới im lặng thở dài. Nỗi nhớ dường như cũng ngấm
nước mưa, làm nhạt nhòa những gì xa xôi hoành tráng, nhưng làm hiển hiện long
lanh đến từng chi tiết những gì tưởng chừng bé nhỏ. Cái biển số nhà quăn mép của
cô bạn học chung một lớp, mảng tường tróc ngoài cổng do bọn trẻ con đánh đáo Tết
búng xu, cũng có thể là cái cành đa cụt đầu đình. ”Chiều chiều ra đứng lầu tây.
Thương cô gánh nước tưới cây ngô đồng…”. Bài dân ca quê Việt thiết tha từ cái
radio ngân lên nho nhỏ trong buổi phát thanh dân ca và nhạc cổ truyền như cào
thêm vào nỗi nhớ. Tôi bắt đầu yêu và cảm dân ca từ buổi chiều mưa xa nhà ấy.
Thương gì nữa, tưới gì nữa em? Mưa rừng đã tưới đẫm hồn bọn anh rồi…!
Thú thực với các bạn là hồi đó tôi cũng mong dính thương phần
mềm, như thằng Hiệp híp chẳng hạn. Bị thương nhẹ thôi, chứ đừng bị nặng, và nhất
là đừng có hy sinh! Sẽ được đưa đi viện, sẽ được nghỉ mấy tháng…Mưa sẽ bay
ngoài cửa kính. Còn trong phòng ấm áp, sẽ thoảng mùi thơm dịu của quả cam do cô
y tá xinh như mộng đang gọt dở…Nhưng như tôi đã nói với các bạn, đôi khi chết
được cũng khó, huống hồ bị thương. Trên đường vào Ăm leng, có lần quả cối 60 nổ
ngay trước mặt bọn tôi, cách có gần chục thước. Có bốn đứa thì ba đứa dính miểng.
Còn tôi cố vạch vòi sờ soạng nhưng cũng chẳng sơ sướt gì. Không phải chỉ vì muốn
bỏ đồng đội hay lui bước cầu an gì mà với cái tư tưởng của tôi lúc đó, một vết
sẹo chiến trường còn hơn tỷ lần một tấm huân chương. Các em gái thường muốn
khoe sự xinh đẹp kiều diễm hiểu (không hiểu lắm, chắc thế!), còn những thằng
trai lính như tôi thời đó, có nhu cầu phô trương sự dày dạn và lòng dũng cảm.
Mà chắc thời nào cũng vậy thôi, đấy là đặc thù giới tính mà! Một vết sẹo là một
khẳng định bằng vàng cho những câu chuyện chiến chinh mà chiến thắng phi thường
bao giờ cũng thuộc về người sở hữu tấm” huân chương” đó(!)
Cuối tháng chín năm 79, trung đoàn hoạt động ở khoảng giữa
Kra Ko và Ponley. Tiểu đoàn 4 truy quét địch phía tây đường 5. Có khi sục vào
sát chân sườn phía đông núi Tuk S’ra nằm kẹp giữa đường 5 và đường sắt. Cũng giống
như ta hồi kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ - Kh’mer Đỏ cũng triển khai trồng
trọt nương rẫy, giải quyết nhu cầu lương thực tại chỗ. Đơn vị càn rừng hôm ấy
phát hiện trong hốc một cây dầu lớn, lửa đốt cho dầu ra còn đang cháy. Vậy là
vùng rừng này có người ở. Tiểu đoàn lặng lẽ bám dần lên đến một khoảnh rừng
thưa. Một nương sắn rộng hiện ra, cây mới cao ngang tầm ngực. Hai mũi khép vào,
chuẩn bị xung phong…Rồi điều gì đến đã đến! Hoàn toàn chẳng giống như tôi hình
dung. Mà hầu như trong cuộc sống chẳng cái gì đến như tôi tưởng tượng cả. Thế mới
tệ hại! Kể cả trường hợp bị thương của tôi lần này nữa. Không có pha ngã xuống
tuyệt đẹp sau chớp lóe của đạn cầu vồng trong một trận tấn công cấp chiến dịch,
có xe tăng và không quân yểm trợ. Trong khi đang vận động cùng đơn vị đuổi theo
toán địch hủi (có cả phụ nữ nữa) tăng gia ở nương sắn này, tôi bị sụp hầm
chông. Thế mới bầy hầy! Ngã sấp mặt, mồm vập vào rễ cây giập cả môi, tôi vẫn kịp
ôm cái gốc cây đằng trước để khỏi bị tụt xuống. Thằng Phụng với anh Ky chạy đến
lôi lên. Một mũi chông tre xuyên rìa gót, chọc thẳng vào xương mắt cá rồi gãy gập
tại đó. Chúng nó rút mũi chông gãy ra, rửa qua quấn băng chặt lại, nhưng chưa đến
mức phải ga rô. Lúc ấy không thấy đau lắm, tại chỗ đó chỉ thấy nó giật giật tức
tức một chút. Chống gậy vẫn lết đi được chứ không cần cáng. Định thần lại, nhìn
xuống hố bây giờ mới thấy kinh. Toàn phân người nhoe nhoét quện lấy từng mũi
chông tua tủa. May mà tôi bám kịp cái gốc cây chứ còn rơi hẳn xuống, chưa nói
dính bao nhiêu mũi, chỉ cần dầm mình trong cái hố đấy cũng đủ ốm ba tháng.
Chúng nó dùng “vũ khí sinh học” tự nghiên cứu, tự sản xuất ghê quá! Thằng Quỳnh
“xe lôi” và thằng Thống truyền đạt võng tôi về phía sau. Ra đến đường bò lớn gần
lộ 5, gặp xe bò của dân đi rẫy về, chúng nó tống tôi lên xe rồi theo đi luôn. Đến
cứ tạm thời của tiểu đoàn ở gần thị trấn Ponley, hai đứa rẽ vào rồi gửi tôi
theo xe bò về trạm phẫu K.23 của trung đoàn.
Đúng là đồ vô trách nhiệm! Khi còn lại một mình giữa đám dân tôi mới nhận
ra tình thế của mình và rủa thầm chúng nó như thế. Cả đoàn xe chừng hơn chục
chiếc vẫn lọc cọc chậm rãi lăn bánh trên đường. Các lão nông dân bạn đen trũi,
kẻ ngồi trên xe im lặng rít thuốc rê, người vác dao quắm lừ lừ đi bộ. Từ cứ tiểu
đoàn đến trạm phẫu khoảng 1,2 km, hai bên cũng toàn rừng thưa. Nhớ lại chuyện
thằng lính B3 bị chém bay đầu mấy tháng trước trên đường ra Bâmnak. Tôi không
dám nằm nữa mà ngồi nhỏm dậy trên xe. Nỗi sợ làm cảm giác đau dưới chân tan biến.
Dưới gót, máu lại thấm qua lớp băng chảy nhều nhệu. Tôi mặc kệ, mải nhìn quanh
quất kiếm cái gì phòng thân hoặc ước lượng đường chạy khi có biến. Mà làm gì có
cái gì? Chân cẳng thế này chạy đi đâu? Thấy tôi máu chảy nhiều và không chịu nằm,
mấy người đàn ông đi bộ vác dao quắm xúm lại. Thôi lần này mình tong rồi! Lúc
đó tôi choáng thực sự. Hoa hết cả mắt nhưng vẫn còn kịp thấy hai người quay lại
chiếc xe cuối rút một cây tầm vông rồi trở lại. Một người tháo chiếc võng nilon
đen đeo ở thắt lưng (đúng loại võng địch hay dùng) buộc vào cây tầm vông làm
đòn khiêng. Họ đỡ tôi sang võng rồi cáng thẳng đến trạm phẫu. Khi nhìn thấy mấy
thằng lính thông tin trung đoàn bộ đi nối dây trên đường, tôi mới dám thở phào!
Thì ra thấy tôi ngồi dậy, mặt thì tái mét, họ tưởng xe xóc làm tôi đau nên mới
chuyển phương tiện cho êm. Đến nơi, giao tôi cho quân y xong, người đàn ông còn
nhe răng cười với tôi rồi đi giặt máu dính vào võng. Một cái võng nilon hồi đó
đổi được một chỉ vàng.
Thời gian nằm ở K.23 là khoảng nghỉ ngơi thật dễ chịu. Ở đây
toàn những thằng bị thương nhẹ, bị sốt rét chưa đến mức phải chuyển lên quân y
tuyến trên. Sau khi điều trị hơn chục ngày, vết thương của tôi đã khép miệng và
có thể đi lại được. Anh em đại đội phẫu có một cây guitar còn khá tốt. Đúng là
tuyến sau có khác! Hồi còn đi học ở nhà, giống như nhiều chàng trai Hà nội hay
Sài gòn khác, tôi cũng khoái tập guitar. Trình độ còi nhưng cũng đủ chơi những
bản nhạc thịnh hành thời ấy ở mức phổ thông. Cũng có thể so hợp âm đệm theo nhiều
bài hát, thỉnh thoảng máu lên còn chêm vào một đoạn list học mót…Tự nhiên xuất
hiện một “nhạc công” sạch nước cản tại đơn vị nên lính chuyên môn ở K.23 rất
khoái. Cứ sau bữa cơm chiều là chúng nó xúm lại, pha một ấm trà thật se lưỡi rồi
hát nghêu ngao. Thôi thì đủ các loại trên trời dưới bể. Hết nhạc Nga ra nhạc Trịnh.
Sau nhạc trẻ lại lạng quạng bẻ sang nhạc “vàng”. Những bài hát truyền thống của
quân ta như “Vì nhân dân quên mình”, “Tiến bước dưới quân kỳ”…chắc chỉ được hát
chính thức khi hội họp. Còn những buổi sinh hoạt “văn hoá văn nghệ” như thế này
thì nhạc “vàng” chiếm đa số. Mấy cha lính cũ thời đánh Mỹ trên trung đoàn bộ là
cả một kho tàng phong phú về thể loại nhạc này. Thằng em đệm cho anh bài “Xuân
này con không về”, thằng em cho anh bài “Anh nằm xuống…”… “ Thành phố buồn đi
mày!”… Đôi khi mấy anh trợ lý chính trị bên ban 2 cũng sang bên phẫu chơi. Ngồi
uống trà nghe lính tráng hát những bài như thế cũng chẳng nói năng gì. Thây kệ,
hồn ai nấy giữ! Mai về lại đơn vị đánh nhau ngón tay hẳn vẫn quen hơi cò súng,
lại lội rừng băng ruộng tăm tối mặt mày…Thế thì cứ hát đi! Cao trào nhất phải kể
đến bài “Thư của lính”. Hai cái thìa nhôm được mang ra. “Nghệ sĩ” phụ trách bộ
gõ kẹp đôi thìa giữa hai ngón tay, miết xuống mặt bàn. Tiếng phách giòn tan, hoạt
như những bước claket điêu luyện. Ba bốn cái miệng gào lên: “Từ khi anh thôi học,
và từ khi anh khoác áo t’râyzi…Từ khi anh xa nhà, một ngàn đêm nhung nhớ giữa
trời mây…Uh oa ùh oà…”. Có tốp vocal cẩn thận, Thanh Lam có khi phải gọi bằng cụ.
- Dừng lại! Chúng
mày hát bài gì lạ thế các em? Ai sáng tác?
- Báo cáo anh! Bài
“Tình thư của lính” của nhạc sỹ Xuân Hồng ạ!
- Ừ! Ngon heng! Ta
sáng tác thì được! Đừng có hát tầm bậy mấy bài lá xa cành anh xa em! Nghe hông!
Thủ trưởng đi khỏi, cuộc vui lại tiếp tục. Ngày xưa cối nhỏ
chày to, bây giờ cải tiến cối to hơn chày – Mời các bạn thưởng thức bài Tiếng
chày trên sóc Bom Bo do Vũ Hựu biên soạn lại : “Lấy xà beng đập đầu con cá lóc,
nấu canh chua bỏ ớt cho thật cay…”. Lúc này, các em-xi (MC) thi nhau thể hiện.
Đảm bảo Long Vũ, Diễm Quỳnh bây giờ chạy mất dép! Hai con dê cùng qua một chiếc
cầu hẹp. Chẳng con nào chịu nhường con nào. Chúng húc nhau, cả hai đều lăn tòm
xuống…Nhưng may mà :” Con kênh ta đào chưa có nước chảy qua…”. Trường sơn sớm nắng
mưa chiều, anh đi nhớ chị Vân kiều… ấy…to. Sau đây là bài Tiếng đàn ta lư :” Đi
chiến trường, mùa khô năm 71. Vào trong Vinh, mới biết cấp trên đưa mình sang
Lào. Hành quân bằng xe hơi…Hú…!”. Cứ thế! Hầu như các bài hát của các nhạc sĩ đều
bị biên tập lại. Chắc để cho vừa với kích cỡ tâm hồn giản dị và tếu táo của người
lính. Chiến trường ác liệt và nhọc nhằn, có vẻ các món ăn tinh thần nhẹ và vui
được tiêu hoá nhanh hơn.

Ảnh chụp
ngày nhập ngũ 17/08/1978 tại sân kho Khuyến lương, xã Trần phú, Thanh trì, Hà nội.
Từ trái sang
phải:
1- Ngô Đức
Bình - Bình cáo. Xạ thủ đại liên c12 d6 e2
2- Đặng Công
Hiệp - Xạ thủ B.41 c11d6. Bị thương ngày 8/4/79 do bị nó phản B.41 trên đường
vào Ămleng
3- Nguyễn
Trường Thọ - A trưởng cối 60 c12 d6. Sau sang làm B trưởng trinh sát d4b.
4- Nguyễn Tuấn
Anh - Chiến sĩ c1 d4.
5- Xuân Tùng (trungsy1) - Thông tin tiểu đoàn 4.
Tất cả các
anh em này là toàn dân "Hà Nội Hàng" phố cổ hẳn hoi. Học chung một lớp,
vào cùng một trung đoàn chiến đấu.

Trung đội trinh sát D4b. Người đứng ngoài cùng bên tay phải
là Nguyến Trường Thọ - Trung đội trưởng.
Điện của Pol Pot
VP 870 gửi 12:
Đề nghị đồng chí hướng dẫn các nơi về
cách đánh địch.
1, Đánh địch về quân sự: ....
Như vậy, ta phải tìm hiểu chỗ yếu của
địch. Trong khi địch đang rải quân theo đường, ta có khả năng đánh địch cho đứt
từng đoạn một, cắt đường giao thông vận chuyển, bao vây địch và đánh liên tục,
đánh từng tổ.
Cách đánh có 2 phần:
a, Nếu nó dùng xe tăng đánh ta mạnh
quá, ta đánh lại một phần ít nào thôi, ta trốn vào chỗ nào đó, khi nó đi qua
(vào) ta bắt đầu phải đánh lại. Đó là cách đánh "ao bèo".
b, Cách đánh "rãi như ốc"
(phục đánh nối với nhau): Bố trí cho chỉ huy nắm từng đường một và bố trí lực
lượng nhiều cho liên tiếp với nhau từng nhóm, từng tổ. Khi địch đi theo đường,
các nhóm (1-2 người một nhóm) bắn vào địch làm cho nó tan tác hết, song song đó
ta dùng mìn. Mìn ta không rải nhiều lắm, chỉ cần gài 1-2 chỗ. Nhưng một chỗ có
từ 6 đến 10 hố mìn cả hai bên đường quốc lộ. Nếu xe tăng nó tránh đườngthì bị
mìn ta gài hai bên. Song song đó, chỗ nào ta gài mìn phải có 1 tiểu đội hoặc 1
nhóm phục ngay đó, khi có ô tô hoặc xe tăng đi, ta bắn vào nó, khi bị bắn nó phải
xuống xe sẽ đạp mìn của ta gài bên đường. Nhưng nếu nó gỡ mìn, ta bắn vào nó.
Cách đánh này ta tiết kiệm được B-40 rất nhiều, nếu thiếu mìn ta dùng lựu đạn bổ
sung.
Sau hơn một tháng nằm viện, tôi trở về đơn vị. Đấy là đã được
anh em trạm phẫu ưu tiên nghỉ ngơi thêm một tuần. Tiểu đoàn 4, trong thời gian
tôi nằm viện vẫn đứng chân gần thị trấn Ponley. Tôi vừa về được một hôm là có lệnh
hành quân ngay. Cứ như là đơn vị chỉ chờ mỗi tôi lành là lên đường. Lại vào ga Bâmnak,
nhưng lần này không theo lộ 28, cũng chẳng theo lộ không tên qua phum “rừng thị”.
Nhằm thẳng hướng dãy núi Tuk S’Ra, đơn vị cắt rừng tiến bước. Dãy núi này điểm
cao nhất chỉ khoảng 400m, còn toàn bình độ 200,300 nên vượt qua nó chẳng khó
khăn gì. Địa bàn hoạt động quen thuộc đây rồi. Qua phum Chùa, phum Th’may, những
cái công sự nổi của chúng tôi mấy tháng trước chỉ còn những đống đất. Ván
thành, kể cả các vách gỗ trên các nhà sàn trong phum đã biến đi đâu gần hết. Có
thể là dân ngoài lộ 5 đánh xe bò vào lấy, cũng có thể là địch lấy. Những lốt xe
bò rất mới lăn ngang lăn dọc ven rừng. Vào đến ga Bâmnak, nhìn thấy ngay cây cầu
gỗ trên con lộ song song với đường sắt dã bị địch phá hủy hoàn toàn. Chúng nó đốt
quãng giữa cho cháy sập xuống. Đại đội công binh 19 phải hì hụi mấy ngày liền mới
làm xong một cái cầu tạm tại vị trí cũ. Trong khi khắc phục nối liền giao
thông, đại đội công binh này đã phát hiện và gỡ được rất nhiều mìn. Ban Tác chiến
phổ biến xuống các đơn vị loại mìn kiểu
mới của địch tên gọi là K.58. Mìn này có vỏ cấu tạo bằng chất dẻo để chống máy
dò mìn. Hình dạng giống như một hộp nhựa vá ruột xe đạp. Chỉ cần một lực rất nhẹ
tác dụng lên bề mặt là mìn phát nổ. Hơi nổ sẽ tuốt đi bàn chân vô tình dẫm phải.
Nếu ga rô tốt, cấp cứu kịp thời thì cũng coi như đi đứt một giò. Ý tưởng của kẻ
phát minh ra loại mìn này rất thâm độc. Nó làm cho người lính không chết, nhưng
đương nhiên bị loại khỏi vòng chiến đấu. Khi trở về hậu phương có thể sẽ gây
hoang mang, chán nản cho cộng đồng. Xã hội sẽ phải gánh thêm cái gánh nặng vật
chất lẫn tâm lý ấy…Chúng tôi đặt tên cho loại mìn này là mìn “xin một chân!”.
Bên tiểu đoàn 5 đã có hai trường hợp dính phải loại mìn này. Đã có tư tưởng ngại
đi đầu vì sợ dính mìn. Các đại đội thì không có chuyện đó, chứ dưới các trung đội
bắt đầu tị nạnh nhau về việc đi đầu đi cuối. Một hai lần được chỉ định đi trước
thì không sao chứ đến lần thứ ba thể nào trung đội đó cũng thắc mắc thẳng thừng
rằng tại sao đại đội cứ ”gí” trung đội em thế? Biết là quân lệnh như sơn, nhưng
dần dần cán bộ đại đội cũng phải sử dụng chính sách xoay vòng. Còn lính ta thằng
đi sau cố đặt bàn chân vào vết chân thằng đi trước. “Sao y bản chính không có
đùng rầm!” là một câu nói vui phổ biến thời đó, nhưng nó cũng thể hiện tư tưởng
ngại mìn địch trong bộ đội. Để tránh mìn, đơn vị hành quân truy quét thường phải
né đường bò, cắt rừng đến mục tiêu quy định. Nhiều thằng đi đầu một lúc, thấy
quãng nào nghi nghi liền đứng lại tạt vào bụi mặc dù không mót đái. Thằng đi
sau kế bên vượt qua một tẹo rồi cũng dừng lại làm cái công việc y hệt. Dần dần
cả tiểu đội, trung đội thực hành bài “đái cuốn chiếu”. Tốc độ hành quân chậm,
nhiều lần Chính “tréc” đại đội trưởng phát khùng, cứ băng băng vượt trước đội
hình đại đội 1. Mặt mũi cứ hầm hầm không thèm nói câu nào. Các trung đội và anh
em thấy thế cũng ngượng nên cố gắng hơn. Quả tình cán bộ nói được làm được thì
đơn vị mới mạnh được…
Đại đội 1 đặt chỉ huy sở ở căn nhà gác ghi đường sắt đầu ga.
Ban ngày bung đội hình đi sục từ sáng sớm, ban đêm lại co về. Mé trong núi, đôi
lúc nghe tiếng mìn nổ vọng lại. Có thể là thú rừng vướng mìn địch cài. Tôi mới
đi viện về nên anh em cũng ưu tiên cho được nghỉ ngơi. Trời đang chuyển mùa.
Mưa nhỏ hơn và thường xuất hiện vào nửa đêm về sáng. Gần sớm thức giấc, còn nửa
mơ nửa tỉnh, nghe đơn vị lịch kịch súng đạn trở dậy đi càn. Còn mình thì kéo
cái tấm đắp trùm qua đầu co mình trên võng. Ngoài trời đang mưa lắc rắc…Cái cảm
giác được nghỉ trong khi những người khác vẫn phải làm việc thực thà mà nói
cũng dễ chịu. Bảnh mắt ra mới lò dò trở dậy, mấy thằng ốm dở xuống bếp anh
nuôi. Nếu còn dầu ăn thì rang cơm cho thật săn. Chén xong rồi tổ chức đi kiếm
cá cải thiện cho anh em tối về có cái ăn tươi. Hai thằng anh nuôi ở lại trông cứ.
Ba bốn đứa còn lại vác súng đi loanh quanh. Tìm được một đoạn suối nhỏ nước chảy
chậm một chút là cả nhóm bắt tay ngay vào việc. Cành cây và đất lấp ngay dòng
chảy ở chỗ lòng suối hẹp nhất. Lúc này mé trên “đập”, nước không còn chảy nữa.
Chúng tôi mang hàng bó cây “say”- một loại cây rừng có vỏ nhiều nhựa màu đỏ ra
đập vào đá cho xơ ra. Hai thằng đập, một thằng mang xơ vỏ và cả lá loại cây đó
vò nát, khỏa đều khắp. Một lát sau, cá bị say bắt đầu ngoi lên mặt nước lờ đờ
ngáp. Cá ngựa là yếu nhất, gần như ngoi ngay lập tức. Giống cá này trông như
con cá chép. Đuôi cũng đỏ như thế nhưng nhỏ hơn, mình thuôn và tròn hơn và
không có đôi râu. Tiếp đến là cá mè vinh đuôi vàng. Những con yếu thì không nói
làm gì. Chỉ việc bụm tay hất lên trên bờ. Còn những con to và còn khỏe thì
chúng tôi lấy cây nhè đầu mà đập rồi vớt. Cá lăng, cá kết (giống cá thác lác),
cá bò bị say luồn ra khỏi hang trú ngụ. Vây ngạnh vây lưng duỗi ra đờ đẫn. cứng
đơ rất nguy hiểm. Lúc này phải thật khéo, lội suối bao giờ cũng phải đưa ngón
chân xuống trước để thăm dò chỗ đặt bàn chân nếu không muốn ăn cả cái ngạnh
trên kỳ lưng nó. Thủng chân vì ngạnh cá này thì sưng và phát sốt ngay. Trơn
trơn, mềm mềm, dài dài đây rồi! Nào, từ từ luồn hai bàn tay xuống. Tránh cái
vây ra. Và cả bộ râu đẹp của nó nữa! Thật nhẹ nhàng vừa phải tha thiết thôi, đẩy
nó dần dần cặp bờ thoải. Đã thấy cái lưng cá bóng nhẫy. A lê hấp! Hất thẳng lên
bờ. Có những con cá lăng dài đến nửa mét. Cá bò lên bờ đổi màu vàng ươm hoặc
loang lổ trông như bộ ngụy trang của cánh đặc công nhà ta. Lên bờ rồi mà răng vẫn
nghiến kèn kẹt èn ẹt nghe rất vui tai. Mỗi chuyến như thế bắt được cả tạ cá là
chuyện bình thường. Trên đường khiêng về tiện tay hái nắm lá giang hay lá bứa nữa
là kể như đủ vị. Những chuyện bắt cá bên này có thể kể cả ngày không hết. Còn
cái loại cây say ấy là cây gì? Tên latinh, tên khoa học là gì anh em nào trên
diễn đàn biết nên phổ biến trên trang kinh nghiệm để lính ta cải thiện. Tôi chỉ
biết Toàn cồ người Thái gọi nó là cây say thôi!
Tháng 11 năm 1979, không quân trinh sát báo phát hiện địch tại
vùng núi phía nam ga Th’May . Ga này nằm dưới ga Bâmnak 12 km về hướng Ph’nom
Penh, nơi con lộ không tên cắt từ đường sắt ra thị trấn Ponley. Vùng núi này
cũng thuộc hệ thống Ủrăng S’vai nhưng có độ cao thấp hơn. Trên các đỉnh với
bình độ tương đối bằng phẳng như một cao nguyên nhỏ, địch phá rừng làm rẫy, xây
dựng lán trại. Tham mưu trung đoàn gọi tên khu vực đó là cao điểm 701. Lại lên
đường! Thấm thoắt bây giờ đã là những tháng cuối năm. Một năm có lẽ đáng nhớ nhất,
gian khổ nhất và cũng vinh quang nhất trong thời gian tác chiến bên K của đơn vị.
Đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi…! Trong năm đó, không kể hàng trăm trận
đánh lớn nhỏ, chỉ tính riêng quãng đường hành quân, những người lính trung đoàn
đã vượt quãng đường hàng ngàn cây số, chủ yếu là đi bộ…Đã đi qua biết bao những
đồng rộng sông dài, những đỉnh núi mịt mờ mây phủ, những thành phố thị xã hoang
tàn lửa khói, những nẻo rừng heo hút không một dấu chân người…Nhưng những con
đường vô định của chiến tranh vẫn cứ còn thăm thẳm. Để rồi một chiều cuối năm
như chiều nay, ngồi thõng chân bên bờ suối hoang vu… Nghe bản tin đài báo gió
mùa đông bắc, lòng lại cồn lên nỗi nhớ nhà. Như con ngựa xứ rợ Hồ, chợt phồng
mũi lên ngửi thấy mùi cỏ quê hương cách xa hàng ngàn dặm qua hơi gió Bấc. Đi
ngược lại những hành trình cơ học, hành trình tác chiến trên bản đồ là hành
trình của trái tim người lính viễn chinh. Hoặc còn sống, hoặc đã tử trận nhưng
luôn trở về với những mái nhà xưa cũ, với mẹ hiền… Ơi Nước Việt thương yêu của
chúng tôi ơi!
Càng vào đến chân cụm cao điểm 701, rừng càng rậm rạp và ẩm
ướt. Trong những quãng rừng le, vắt nâu, vắt xanh quăng mình theo bước chúng
tôi rào rào. Đi một lúc, thấy trầy trượt dưới chân. Cúi xuống nhìn thấy dép
mình đã nhoe nhoét máu. Vén ống quần lên, ba bốn con vắt to kềnh no máu rời ra.
Trong các loại hút máu người thì tôi kinh con này nhất. Cũng như mìn của địch vậy!
Cái gì ta không biết, không phát hiện được thì lại càng đáng sợ. Sợ hơn cả đỉa
trâu, đỉa hẹ đồng trũng ở Hà nam thời huấn luyện. Đặt một cành le khô cho con vắt
bám vào rồi quan sát. Nó lập tức biến thành một màu vàng cùng với cành khô bạn
đang cầm. Giác chân quặp chắc vào cái que. Còn cái đầu huơ đi huơ lại cuống
quít đánh hơi người trông rất hung hãn. Tăm tối và háu ăn một cách kỳ dị, bị một
nhát kéo cắt đôi người mà phần đầu vẫn bám chặt lấy cẳng chân thằng Thư quân y.
Qua được quãng rừng vắt ấy, tiểu đoàn dừng chân tại khoảng rừng thưa hơn, nơi
có một vệt đường mòn cắt qua để chờ tiểu đoàn 5 lên kịp mũi hiệp đồng. Ngày hôm
đó sẽ là một ngày bình thường nếu như không xảy ra chuyện có 5 tên địch nữ đi xồng
xộc thẳng vào đội hình của đại đội 2. Lính ta phát hiện thì nó đã vào rất gần.
Thậm chí vừa đi vừa nói chuyện rất to. Cho dù là địch đi chăng nữa thì phụ nữ vẫn
có nhu cầu buôn chuyện. Tài thật! Đến khi cả năm đứa nhìn thấy mấy cái võng
không của lính mình, đờ người ra định quay đầu chạy thì đã nghe tiếng hô bắt sống
và những nòng súng chĩa xung quanh. Đồ đạc phụ tùng trên người rơi lịch bịch xuống
khi tay đưa lên trời. Kiểm tra “quân tư trang” thì thấy không có gì đặc biệt.
Vài củ mì, vài quả bí ngô non, võng, với mấy thứ đồ lặt vặt khác… Hoàn toàn
không có vũ khí. Tù binh lập tức được đưa ngay về tiểu đoàn bộ. Cái vốn tiếng K
bập bẹ của Bình “cháo’’ chỉ để hiểu được rằng các “chị ấy” thuộc một đơn vị
tăng gia của địch. Đêm ấy, tiểu đoàn giao họ cho trung đội vận tải canh gác. Họ
cũng căng võng ngủ như lính ta và hoàn toàn không bị trói.
Sớm hôm sau, tiểu đoàn 4 lại tiếp tục hành quân, mang theo cả
tù binh. Rừng thì chỗ nào chả giống chỗ nào? Nhưng khi đi được khoảng gần 4 tiếng
đồng hồ vã mồ hôi hột, tôi thấy khu rừng này là lạ. Nó là lạ ở chỗ trông
nó…quen quen (!) Hình như tiểu đoàn đã trở về đúng vị trí dừng chân đêm qua.
Tôi đưa cái nhận xét này ra và anh Ky cũng đồng tình ngay lập tức. Anh Thào tiểu
đoàn trưởng mắng át đi :”Mẹ chúng mày! Lệnh đi thì cứ biết đi! Kêu ca gì? Đi đến
đâu chả là đi?” Quá chí lý! Đang nghỉ giải lao, tôi quyết tìm ra chứng cứ chứng
minh cho nhận xét của mình. Tất nhiên không phải chống lại anh Thào nhưng cái ý
muốn biết mình đang ở đâu thôi thúc tôi lò dò tìm quanh. Đây rồi! Cái bếp anh
nuôi đại đội 1 nấu cơm ban sáng lù lù cạnh cái gốc cây mục rành rành. Tôi kêu
toáng lên và chúng nó đổ xô lại. Có đứa còn nhận ra mình vừa dẫm phải cái “hố
mèo” của chính mình ban sáng. Không cái dại nào giống cái dại nào! Lập tức tôi
ăn hai cái đá đít của ông Thào vì cái phát hiện vừa rồi. Bọn tù binh dường như
cũng nhận ra tình thế. Chúng nó là ma xó vùng rừng này nên lạ gì! Đã thế lại
còn bụm miệng cười khúc khích khiến ông Thào càng cáu tợn. Tiểu đoàn phó của
tôi đánh nhau thì không thể chê được nhưng khoản tham mưu bản đồ có vẻ có vấn đề.
Sau hai chưởng mà anh ấy giành cho tôi, không thằng nào dám ý kiến ý cò gì nữa.
Mẹ đời! Đúng là dây phải “giặc cái” thì đen thế đấy!
Mà đúng là đen thật! Chiều tối, tiểu đoàn 5 đã đến điểm hẹn
trên núi mà chúng tôi vẫn loanh quanh dưới chân. Cả một rừng dây mây giăng
thành chắn mất lối lên. Còn con đường bò lớn vẽ trong bản đồ lúc nãy vẫn thấp
thoáng bên cạnh (chúng tôi không dám đi trên đường) bây giờ tự nhiên mất tích.
Lên sóng 2W nghe tiếng tiểu đoàn bạn rất rõ, chứng tỏ cự ly thật gần mà mãi vẫn
chưa đến được vị trí hiệp đồng. Tham mưu trung đoàn khỏi dùng bảng mật danh
luôn. Cứ cầm trực tiếp tổ hợp nói chuyện thẳng với tiểu đoàn hỏi rằng có thấy
cái đỉnh núi nhọn độc lập nào bên tay trái không? Cho trinh sát cắt hướng 45
xem có gặp cái đìa nước nào không??? Có đến một tá câu hỏi, gấp hai lần như thế
để hướng dẫn nhưng mò vẫn hoàn mò. Sọt sẹt một lúc thì gần hết pin, phải lắp lố
pin dự trữ. Tối mù thế này thì trông thấy cái gì? Lại nói chuyện ban sáng. Anh
Sơn trung đội trưởng trinh sát (không phải anh Sơn “big” D trưởng đang đi viện)
cũng là một tay kỳ cựu đi đầu đội hình. Địa bàn cầm tay, hướng cắt đúng, các vật
chuẩn địa hình lần lượt xuất hiện như dự tính. Ấy thế mà đi cả buổi lại lộn về
vị trí cũ. Điều này không giải thích được! Cứ như bị ma làm. Một con cú lớn đến
giờ kiếm ăn, lừ lừ liệng qua đầu chúng tôi lặng phắc, không một tiếng động, để
lại một mùi hôi tanh lợm giọng. Tướng với quân lúng túng như gà mắc tóc, lao
xao hết cả lên. Trung đoàn sốt ruột không chờ nữa, lệnh tiểu đoàn 5 đụng địch
thì đánh ngay. Vừa dứt câu lệnh thì tất cả giật mình vì tiếng súng 12,8 nổ ầm ầm.
Đạn vạch đường, chớp B.40 nhoang nhoáng sáng một góc rừng. Tiểu đoàn 5 đã nổ
súng. Chúng nó ở ngay trên đỉnh đầu chúng tôi, hai đơn vị chỉ cách nhau chưa đầy
một km. Một thằng ngu nào đó không chờ lệnh thống nhất qua thông tin, bắn ba
phát đạn vạch đường lên núi bắt liên lạc. Do quá gần nhau nên bọn tiểu đoàn 5
tưởng chúng tôi là địch đánh từ dưới lên. Lập tức, hai khẩu 12,8 quay nòng bắn
thốc xuống chân núi. Đạn lửa chớp cứ giần giật. Có những viên xuyên qua cây
văng lung tung hình chữ chi phụt lửa lằng ngoằng Cũng may là sườn dốc, chúng
tôi chúi cả vào sát chân nên không ai bị dính. Lính tiểu đoàn 4 hét lên như di
nhưng mấy thằng điếc ấy đâu có nghe tiếng. Bọn DK đại đội 4 nổi xung đòi giá
súng bắn “bắt liên lạc” lại vài trái chắc chắn bọn trên núi nhận ra ngay! Ai
còn lạ gì tính khùng của thằng Mẫn A trưởng khẩu đội này. Không can có khi nó
làm thật! Đã có lần ở phum dừa cụt nó đã định ăn thua đủ với thằng Dung cối
cũng vì chuyện bắn nhầm. Ta với ta mà còn điên với nhau như thế huống chi là địch.
Trong chiến trận, đôi khi bản năng mách bảo hành động. Thế đấy! Được trung đoàn
thông báo, bọn tiểu đoàn 5 thôi bắn xuống. Nhưng tiếng súng trên đỉnh núi vẫn
đùng đùng đến khuya.
Mọi vật trở nên rõ ràng sáng sủa trong ánh ban mai. Khi được
mở đáp án thì bài tập nào cũng dễ. Nấu cơm sáng ăn xong, quay trở lại hướng đi
hôm qua chừng nửa cây số, chúng tôi thoát qua được cánh rừng mây và bắt đầu leo
lên. Mấy cô tù binh (bây giờ chẳng biết gọi họ thế nào) vác đạn và gánh cối đỡ
cho bọn vận tải. Vừa đi vừa chí chóe với mấy thằng lính ta cứ như dân công hỏa
tuyến thời kháng chiến. Bố Thành chính trị viên tiểu đoàn (thay anh Thưởng)
trông thấy chướng mắt quá gọi lính lại càu nhàu một lúc nên chúng nó mới thôi.
Đang leo thì mấy chị ấy dừng lại, bỏ gánh cối tạt vào bụi. Mấy đứa được giao
nhiệm vụ trông coi tù binh không biết làm thế nào cũng đành phải rúc theo, sợ
chúng nó chuồn mất. Khi tất cả quay lại đội hình thì bị mấy cha lính cũ đã có vợ
rồi phỏng vấn sát sạt. Bôi bác đùa dai quá đến mức bọn kia tức quá suýt đánh
nhau…Gần trưa thì chúng tôi lên đến mỏm 2. Một vùng quang đãng với bình độ thoải
nằm gọn trong tầm mắt. Mỏm 2 và mỏm 1 nơi tiểu đoàn 5 đánh vào đêm qua chỉ cách nhau 1,5 km, với
đường tụ thủy là một khe suối hẹp. Hơn chục xác địch nằm rải rác trong các lán
lá, cạnh nguồn nước…Đêm qua tiểu đoàn 5 đã đánh tràn qua đây. Trong một cái lán
có cả một cặp ngà voi to tướng. Của này mà tha về được cho ông già tiện một bộ
quân cờ đánh chơi thì vô địch.
Tiểu đoàn 4 dừng chân tại đây để mở rộng truy quét sang các
mỏm lân cận cùng tiểu đoàn 5. Đại đội 1 đóng quân ở mấy cái lán cạnh suối nhỏ.
Lính ta phải khiêng mấy cái xác địch dọn ra chỗ khác chôn vì sợ ô nhiễm nguồn
nước ăn duy nhất. Trên đường từ đại đội một về tiểu đoàn bộ cũng có hai cái xác
địch nằm chình ình nằm gần trung đội 2. Bọn này lười không chịu lấp. Mấy ngày
hôm sau nó sình lên hôi không chịu được đành mang xẻng ra vừa bịt mũi vừa chôn.
Dưới tiểu đoàn bộ, mấy thằng lính vận tải cứ nhấm nha nhấm nháy với bọn tù binh
suốt. “Đơn vị phối thuộc” bất đắc dĩ này
ở với lính ta thành quen, hoàn toàn không có ý định bỏ trốn. Mặt mũi cùng các
chỉ số hình thể cũng không đến nỗi nào nếu như không muốn nói là trông được. Thế
mới bỏ mẹ! Thành ra trung đội vận tải thì canh tù binh. Còn chính trị viên tiểu
đoàn thì canh lính vận tải. Mệt với mấy ông tướng ấy quá!
Đêm cuối mùa mưa trên độ cao này rất lạnh. Tôi với thằng Căn
nằm úp thìa trên sạp tre trong lán địch, đắp chung cả hai tấm đắp nhưng cũng
không ngủ được. Gió và hơi lạnh luồn qua những khe hở dưới sạp cù vào sườn buốt
giá. Dưới các trung đội lính không ngủ được vì rét, phải đốt lửa sưởi sát võng
nằm cho ấm. Một lần, đang thiu thiu ngủ thì phía dưới trung đội 2, tiếng thằng
Minh đen kêu toáng lên :”Địch vào! Em trúng đạn bắn tỉa rồi!”. Cả đại đội nổ
súng ầm ầm. Tôi ôm máy chạy như biến ra khỏi lán đang đốt lửa vì sợ nó thổi
B.40. Thằng Phượng bọ y tá chạy xuống b2 thấy Minh đen ôm ngực quằn quại đau đớn
lắm. Nó hỏi bị thương chỗ nào thì thằng này thều thào chỉ ngay vào ngực. Đêm tối,
không rõ vết thương ra sao. Phượng bọ cuốn băng thật chặt vào ngực nó rồi hô
anh em cáng xuống quân y tiểu đoàn bộ. Đến nơi, lấy kéo cắt băng, bấm đèn pin
soi kiểm tra mãi không thấy vết thương đâu. Chỉ có một chỗ tấy và hơi rớm máu.
Thì ra chúng nó bẻ đạn nhóm lửa sưởi,vất cả cát tut vào trong đống than. Chắc
cái hạt nẻ nó nổ văng vào. Lúc trở về đại đội, nó bị mấy thằng khiêng chửi quá
trời. Gặp nhau bây giờ chúng tôi nhắc lại vẫn còn quê độ. Hôm sau lại xảy ra một
chuyện ly kỳ không kém. Lúc buổi chiều tối, đại đội 1 bắn thử đạn cối. Thằng
Dung cầm quả đạn thả vào nòng. Tiếng đề pa nghe “phọp” một cái. Quả đạn cối 60
vọt ra khỏi nòng, bay cao khoảng 20m, lúc lắc cái đuôi rồi cắm xuống đúng vị
trí trung đội 3. Bọn này vừa ăn cơm vừa nhìn xem bắn thử thấy thế quăng bát chạy
tóe ra. Quả đạn nổ cái “rầm!”. Thằng Thành bị một miểng trúng mông mừng hơn cưới
vợ. Mọi người xúm lại khẩu cối xem xét. Đứa thì đổ cho đạn, đứa đổ cho liều…Anh
Lược lẳng lặng đến xách khẩu cối dốc ngược xuống. Nước trong nòng đổ ra òng ọc,
đen sì. Cơn mưa ban sáng không đứa nào đậy nòng mới đến nông nỗi đấy. Riêng cái
thằng Dung này cực kỳ vô duyên, toàn chơi quân mình vố nào ra vố đấy. Gọi là
Dung “kỳ đà” cũng chẳng oan!
Nằm tại núi 701 gần một tuần, sau khi tổ chức lùng sục thêm
không có kết quả, tiểu đoàn 4 rút quân sau khi đốt sạch những thứ gì đốt được của
địch trên đỉnh núi. Kết thúc một cuộc hành quân toàn những chuyện vớ vẩn và vô
duyên. Sớm tinh mơ ngày lên đường, trong khi tiểu đoàn cùng các đại đội chuẩn bị
hành quân thì một tiếng nổ thật căng xé tan sự tĩnh lặng của rừng núi. Anh Thào
lập tức kêu 2w gọi ngay xuống các đại đội. Tất cả đều nghe tốt. Chỉ có đại đội
1 là không trả lời. Một linh cảm xấu làm tim tôi thắt lại. Mày làm sao thế Tuý
ơi? Chiều hôm qua, lúc thu dây về tiểu đoàn bộ, tôi và anh Ky còn gặp nó ở chỗ
hai thằng địch chết đầu b2. Nó đi lĩnh pin về đại đội, gặp chúng tôi còn nhe
răng cười…Anh Nhương giằng lấy tổ hợp máy tiểu đoàn của thằng Mạnh. Hết gọi “Bến
Cầu- Bến Cát 01 !” lại gào lên trực tiếp :”Tuý đâu? Tuý đâu? Tuý ơi…!”. Truyền đạt vừa kịp chạy đã thấy lính đại đội
1 võng hai võng đẫm máu về tiểu đoàn. Thằng Tuý và anh Quang râu chính trị viên
đã hy sinh. Hai anh em đi tè chuẩn bị lên đường thì thằng Tuý đá mìn. Quả mìn
KP.2 địch gài từ trước, sau khung nhà cháy, cạnh hòn đá lớn bìa rừng cách chỉ
huy sở đại đội 1 chỉ khoảng gần 10m. Tôi và anh Ky cũng thường xuyên ra đấy tè
bậy khi trực máy hữu tuyến ở đại đội 1, nhưng chẳng hiểu sao lại không vướng.
Anh Quang bị thương hôm đại 1 mất chốt hồi tháng tư, đi viện rồi được giải quyết
về phép, mới cưới vợ xong. Còn thằng Tuý người huyện Ý Yên, Hà nam ninh, học
sinh chuyên văn hẳn hoi. Nó có thể đọc thuộc lòng từng trích đoạn “Đi săn”
trong “ Chiến tranh và Hoà bình” không hề vấp váp. Bảng mật danh mới trong khi
chúng nó ôm đầu vã mồ hôi hột cố mà thuộc thì nó chỉ vài hôm là làu làu…Quả mìn
quá ác nghiệt! Những người anh, người đồng đội quá thân thương! Thằng Đồng Huế
liên lạc khóc ồ ồ như cha chết, ôm khư khư cái túi mìn đựng đồ của anh Quang.
Tôi nghiến răng lại nhưng nước mắt vẫn cứ giàn giụa…Chỉ còn anh Thành chính trị
viên tiểu đoàn là còn bình tĩnh, bảo anh em lau mặt rồi quấn băng lại cho liệt
sĩ thật cẩn thận, đừng để máu chảy ra nữa...
Bầu trời cao điểm 701 có xanh như bầu trời Austerlitz không
Tuý ơi…!???
Trở về ga Bâmnak, tôi lên cơn sốt. Chỉ thấy lúc nóng điên
người, lúc thì lại gai gai lạnh nhưng không thấy run cầm cập rung cả võng như
chúng nó. Hai hôm đầu được nghỉ truy quét, tôi còn cố gắng gượng dậy lần ra con
đập nhỏ ngay cạnh chỗ dừng chân tạm của tiểu đoàn bộ xem thằng Hải cụt câu chạch.
Đến hôm thứ ba, tôi quỵ hẳn. Nằm li bì trên võng từ sáng đến đêm, người nóng hầm
hập. Khi lấy cơm về trung đội, anh Nhương hết dỗ lại chửi giục tôi xuống ăn.
Nhưng ngồi dậy với tôi lúc đó cũng còn khó chứ nói gì đến ăn uống. Thằng Tuý hy
sinh, tôi lăn đùng ra ốm, trung đội thông tin thiếu người nghiêm trọng. Bấy giờ
anh ấy lùa thằng Mạnh tiểu đội trưởng 2W xuống đi với đại đội 1. Còn chính anh ấy
phải khoác máy đi theo chỉ huy tiểu đoàn. Lâu không làm máy, mật danh thì không
thuộc, tậm tà tậm tịt nên nghe ông Thào chửi thả dàn. Anh ấy sinh ra bẳn gắt
như mắm tôm. Cứ chiều tối, sau khi đi càn về là anh ấy lại ngồi ngay đầu võng
tôi. Hỏi thăm hỏi nom thì ít, càu nhàu than vãn thì nhiều. Mà tôi có nghe thấy
anh ấy nói cái gì đâu! Cái võng tôi mắc hơi chùng cạnh bờ suối, nằm rất khó chịu
nhưng chẳng còn hơi đâu mà mắc lại. Tôi
đùn ra cả cõng cũng chỉ đủ sức nhỏm dậy lấy cái quần đùi bẩn lau qua rồi thả nó
trôi luôn theo suối. Mọi giác quan, mọi xúc cảm gần như tê liệt. Cứ nằm thiêm
thiếp, mắt thì he hé lúc nhắm lúc mở nhìn vào một điểm vô định. Chẳng thấy
thương cha, không thấy nhớ mẹ gì hết nữa! Địch giá có đánh vào tận nơi có khi
tôi cũng mặc mẹ nó…Thành thử anh ấy có lầu bầu cáu kỉnh thì tôi cũng chỉ coi
như con nhện con ruồi cáu mà thôi!
Sau ba ngày sốt (bây giờ tôi vẫn nghĩ là không phải sốt rét.
Vì sốt rét thì tôi lại bị ngay tại nhà mình, lên cơn ngay giữa lòng Thủ đô nên
không lạ. Chuyện này nói sau!), tôi hoàn toàn không ăn được gì, chỉ uống nước
cháo cầm hơi. Sáng ngày thứ tư, thằng quân y tiểu đoàn (quên tên – đang hỏi lại)
xuống kiểm tra giật mình thấy tay tôi thõng ra khỏi võng. Trên mặt đất là những
viên thuốc nó phát cho tôi chiều hôm trước chưa kịp uống rơi tung toé. Bấu vào
người gần như không có phản ứng. Hoảng hồn! Nó chạy sang vận tải hô cáng tôi
lên bệnh xá trung đoàn.
Đêm hôm ấy ở K.23, tôi lơ mơ cảm thấy có người đo huyết áp
cho mình. Một lát sau lại có thêm người đến nữa. Huyết áp tụt không đo được.
Các anh ấy lấy ven truyền nước. Huyết thanh làm tôi cũng tỉnh táo dễ chịu hơn.
Sáng hôm sau, tôi được đưa lên xe tải, cùng với mấy thương bệnh binh nữa về viện
97 của sư đoàn. Một trung đội công binh của đại đội 19 tháp tùng xe ra đến phum
“rừng thị” rồi lại đi bộ trở về.
Sư đoàn bộ sư đoàn
9 thời gian này đóng ở sân bay Kampong Ch’nang. Viện 97 nằm sát ngay thị xã,
trong một cái phum cũ phía đông sư bộ. Tuổi còn trẻ nên tôi phục hồi sức khoẻ
nhanh chóng. Dứt đợt sốt, đến kỳ ăn trả bữa. Lúc nào tôi cũng thấy đói. Tôi với
thằng Trung - dân Sơn Tây, lính trung đoàn 3- cứ lân la xuống bếp nhặt rau mổ
cá giúp bọn anh nuôi để được chúng nó chia thêm cơm hoặc cháy. Thị xã Kampong
Ch’nang nằm ngay bờ Tonle Sap nên cá là thực phẩm chủ yếu. Chiều thì leo mấy
cây lêkima quanh chỗ ở, hái những quả vàng gần chín. Lấy dao nhọn khoét những lỗ
nhỏ gần cuống quả xong, nhét vào mấy hạt muối, quả sẽ rất mau chín. Sau những bữa
cơm, chúng tôi dessert bằng thứ quả đã qua xử lý đó. Tuy mồm miệng lúc chén
xong dính bột quả có hơi giống vừa ăn…lòng đỏ trứng gà thật. Nhưng hề gì! Rất
ngọt và ngậy bùi. Với lại việc lấp đầy cái dạ dày hình như lúc nào cũng rỗng mới
là việc quan trọng nhất.
Đôi khi chúng tôi
đi nhờ xe bò của dân ra thị xã chơi. Cuộc sống hậu phương bình thường đã dần dần
trở lại. Tiền Riel của chính phủ mới đã được phát hành nhưng tiền Việt cũng rất
thông dụng. Rõ ràng lính Việt cũng là một bộ phận của xã hội mới. Kampong
Ch’nang nhỏ nhắn và yên tĩnh, khiêm nhường nép mình dưới những hàng phượng tây
xanh mát. Kiến trúc nhiệt đới của các công thự theo phong cách Pháp còn chưa bị
lai căng. Trên những đường phố lớn, hàng đoàn xe bò đủng đỉnh lăn bánh về phía
chợ bờ sông. Những cặp bò vừa đi vừa bĩnh phùm phụp ra đại lộ, vừa khinh khỉnh
nhìn những chiếc xe Renaul, Peugeot hay Citroen nước sơn còn khá tươm, nhưng bị
tháo tiệt cả đệm lẫn bánh, nằm gí bên đường. Hẳn là chúng nó bằng lòng với sự độc
quyền của mình nên thỉnh thoảng lại rống lên rất hãnh tiến. Đúng là ngu như bò!
Hàng chùm ống nước thốt nốt ngọt, nước thốt nốt chua treo lủng lẳng trên cột
đèn cao áp, trên những hàng rào gang đúc. Bằng cách nào đó, hàng tiêu dùng
Thailand theo chân những thương lái người Tàu đã bắt đầu xuất hiện. Thuốc lá
Samit, thuốc lá Ba con một, kem đánh răng Hynos, vải vóc. Nhưng đắt hàng nhất
phải kể đến đủ loại dép tông. Tông hai quai đế dày, tông màu gan gà xỏ ngón…Các
cô gái mới từ phum ra thử dép, ngón chân cái toè ra đen sì, ngượng ngập kẹp vào
cái cuống quai lắc lắc. Thấy chúng tôi ngắm, họ đẩy vai nhau cười rũ rượi rất hồn
nhiên. Tôi kéo thằng Trung lại gian hàng mơ ước của tôi. Một tủ kính sáng trưng
bày đủ các loại đồng hồ đeo tay các nhãn Rado, Citizen, Orient hoặc Seiko…Giá mỗi
chiếc là 3 chỉ vàng. Giá hồi đó tôi không nộp lại vàng cho cán bộ chính sách
trong trận bắt hụt Tàmok thì bây giờ có phải đã đổi được cái đồng hồ nữ xinh xắn
kia, làm quà cho con em gái. Khi trở về còn có cơ hội nói phét rằng tao đã
tránh được nhát lê của địch trong một trận giáp lá cà. Khử nó xong thu được cái
đồng hồ chiến lợi phẩm này…Than ôi! Vét sạch tiền Việt trong túi, hai thằng chỉ
đủ mỗi đứa một ly đá bào trộn đường thốt nốt và hạt é pha màu xanh đỏ.
Một chiếc xe vận tải cỡ nhỏ màu trắng in hình biểu tượng của
Tổ chức Lương thực Thế giới (FAO) đậu ở gần chợ. Trên thùng xe chở gạo và các
cô gái rất xinh đang cười đùa như nắc nẻ. Có lẽ họ là người nước ngoài đến đây
làm công tác tình nguyện cứu trợ. Trông thấy hai thằng tôi họ im bặt, cứ như
nhìn thấy quái vật. Họ hiểu bọn tôi như một lũ xâm lược hoặc người rừng chăng?
Tôi nhìn lại mình qua tấm kính hàng xe nước đá. Một mớ tóc lưa thưa do rụng gần
hết vì sốt, úp lên một gương mặt dãi dầu xanh tái. Bộ quần áo màu xanh sỹ lâm tự
khâu lấy thật vụng về và đã toả mùi mồ hôi chua chua do lười giặt. Tôi nhìn vào
đôi mắt tôi trong tấm kính ấy! Thấy gì đâu hả anh lính tình nguyện? Một nỗi hờn
giận điên cuồng vô cớ bùng lên. Tôi bật đứng dậy, thẳng tay đập tan cái ly xuống
vỉa hè. Tất cả xung quanh đều im phăng phắc. Tôi ném tất tiền vào cái khay rồi
kéo thằng Trung về.
Có những vỉa hè, như vỉa hè này đã cách đây không lâu, chúng
tôi đi học giữa hai hàng sấu rắc đầy hoa trắng.
Tại vườn hoa cạnh sân vận động thị xã Kampong Ch’nang buổi
sáng hôm ấy có hai người lính ngồi chờ xe để trở về đơn vị. Chẳng nói thì các bạn
cũng biết. Đấy là tôi và thằng Trung. Hai thằng cùng được ra viện một ngày. Chờ
suốt từ sáng đến gần trưa mà chỉ thấy xe xuôi Ph’nom Penh, không thấy xe ngược.
Bụng đã hơi ngon ngót. Tôi quay sang bảo thằng Trung :”Lần này mà lại gặp xe
xuôi nữa thì tao với mày đi về nhà!”. Rất tự nhiên, nó đồng ý cái rụp. Cứ như
là nếu không ăn cơm thì ăn cháo vậy! Thế đấy! Có những quyết định quan trọng
thì tôi lại xử lý rất bản năng và nhanh chóng.
Và lần này thì lại thấy xe xuôi. Tiếng động cơ rền rền như tấu
lên Symphony số 5 của Beethoven. Đúng là Định Mệnh rồi! Vì nếu có xe ngược thì
chắc chắn chúng tôi sẽ trở về đơn vị. Có một xúc cảm hồi hương mơ hồ rộn ràng
thoảng qua trong trí não. Nào! Bây giờ thì mình đi về nhà! Không một chút lưỡng
lự, tôi giơ tay vẫy. Đoàn xe ba chiếc dừng lại ngay. Anh lái xe đứng tuổi chạy
xe đầu thò cổ ra hỏi giọng Quảng Ngãi hơi khó nghe :” Các em đi đâu?”. “Về Việt
nam!”. “Lính sư mấy?”. “Sư 9!”.” Ra viện à? Chơi nhau được không?”. Chẳng ai bảo
ai, tôi với thằng Trung cùng thè lưỡi ra. Tôi chỉ tay xuống vết sẹo dưới
chân. Anh lái xe bật cười, mở ca bin lấy
hai khẩu AK đầy nhóc 2 băng đạn, vứt cho bọn tôi rồi chỉ tay lên thùng. Chúng
tôi leo lên ngay không khách khí. Các bố này thấy có lính chiến đi nhờ xe thì rất
khoái, yên tâm hơn hẳn trong trường hợp bị phục kích. Mấy chiếc xe chạy lòng vòng rồi đỗ lại một
quán ăn ba Tàu gần chợ. Anh tài xế nhe răng cười :” Ăn đã chú em!” rồi lôi bọn
tôi vào quán. Mấy thằng thương binh chưa ra viện đi chợ thị xã chơi thấy thế
xúm vào nhao nhao hỏi :”Phé à?”. Tôi gật đầu xác nhận. Thế là thằng Nghĩa Hải
Hưng d5 trung đoàn 2, thằng Đực và mấy thằng lính Bến Tre bên trung đoàn 1
(không còn nhớ nổi tên) lộn túi còn bao nhiêu tiền gom vét lại đưa cả cho tôi.
Anh Tư tài xế Thấy vậy thương quá kéo tuốt cả bọn vào trong quán chiêu đãi mỗi
thằng một đĩa cơm chiên to sụ. Lại thêm hai lit rượu nữa. Cơm rượu xong xuôi
lúc anh Tư đứng dậy thanh toán thì bị thằng Đực kéo tay lại. Nó móc ở bụng ra
quả da láng loại tức thì đặt cái cốp lên mặt bàn rồi bảo cha chủ quán ba Tàu
:”Các anh đây bỏ xương bỏ máu mà chưa có dịp tính tiền. Bây giờ các anh ấy vội
về. Tui cứ đặt tạm trái da láng này ở đây làm tin! Thanh toán sau!”. Mẹ cái thằng
Lỗ Trí Đực này uống vào bầy hầy quá! Trò xưa như Trái Đất! Thấy cha chủ quán mặt
xanh như đít ếch, nó càng sấn lại làm già. Tay nó rút chốt cái phựt rồi quăng
sang bên kia đường. Tay kia bóp cái mỏ vịt cứ dúi vào bụng chủ quán. “Này! Cầm
lấy!”. Cha này lạy như tế sao. Lúc đó nó mới cười hề hề rồi thò tay vào túi,
móc ra một cái chốt khác cắm vào chỗ cũ. Kiểu đùa quá trớn kinh chết mẹ! Đến
lúc này, khi anh Tư đưa tiền cha chủ quán cũng dứt khoát không nhận nữa, với lý
do ủng hộ bộ đội Việt nam. Thằng này lại trừng mắt lên doạ, cha ấy lại vội vàng
cầm lấy tiền.
Bỡn cợt nhau như thế để làm gì hả mày? Với người này nó chỉ
là trò đùa vô thưởng vô phạt. Với kẻ khác nó là sự tổn thương khó mà xoá bỏ.
Chiến tranh chẳng phải trò đùa! Chua chát lắm…!
Và bây gìờ thì lên đường. Đã gần một năm trôi qua, trở lại
con đường này với biết bao điều thay đổi.
Con đường vẫn thế, đầy những ổ gà ổ trâu nên xe chạy chậm. Hành trình trở về
khiến chúng tôi hưng phấn. Hai thằng cứ đứng bám thành xe háo hức ngó quanh.
Đây ngã ba lộ 27 rẽ vào ga Rômeas, điểm đầu tiên của một đường khép kín với chu
vi hàng trăm km mà tôi đã đi qua và bây giờ gặp lại. Cung đường đó đã thấm biết
bao mồ hôi và máu của những người lính cùng đơn vị. Phía xa xanh trong rừng núi
kia, trung đoàn tôi đang hành quân về đâu? Đánh địch ở nơi nào? Anh Nhương, anh
Ky, thằng Mạnh, thằng Ban trố…đang làm gì? Đeo máy đi với đại đội hai hay đại đội
một? Những ai còn và ai đã mất? Một cảm giác ân hận khiến tôi cúi đầu xuống vuốt
ve khẩu súng. Mùi thép lạnh, mùi dầu luyn và hơi thuốc súng vẫn còn như phảng
phất ở đầu nòng. Bỗng dưng, tôi thấy nhớ đơn vị. Nhớ cái “gia đình” của toàn những
thằng đực rựa đôi khi chẳng tiếc nhau gì mạng sống. Đôi khi lại lao vào tẩn
nhau chí tử chỉ vì một câu bôi bác quá lời…Đến đây chắc sẽ có bạn bảo tôi là thằng
nói láo! Nhưng nó thế đấy! Không giải thích được vì tôi không phải chuyên gia
tâm lý. Chó chết thật! Nhớ nốt cả cái mùi ngòn ngọt đăng đắng của liều phóng,
mùi thơm hắc của thùng đạn mới khui. Nhớ tuốt…! Nhưng nỗi nhớ mẹ, nhớ em còn lớn
hơn. Bây giờ lớn “nhơ nhỡ” rồi, không biết “nếu thời gian có quay trở lại” thời
đó thì tôi sẽ xử lý như thế nào?
Đến Ô Đôngk, chiếc
xe ngoặt vào một con đường nhỏ rồi dừng lại trước một cái quán. Phụ xe nhảy
lên, nhờ chúng tôi giúp một tay lăn xuống phuy dầu. Thùng dầu nhanh chóng mất
hút trong gầm sàn quán. Đây là mánh của mấy ông tài xế. Chắc đây là mối ruột của
anh Tư nên mọi sự không cần nhiều lời. Chỉ một loáng, đoàn xe lại lên đường. Đến
Ph’nom Pênh thì trời đã tối. Thủ đô lác đác có những đường phố có điện. Những
hàng ăn bơm đèn măng sông sáng trưng. Anh Tư lại kéo cả đoàn đi ăn. Chúng tôi
chén xong, mắc màn ngay trên thùng xe đi ngủ ngay. Đội tài xế kéo nhau đi uống
cà phê sau khi thảy cho hai thằng tôi gói Samit. Nằm duỗi dài khoan khoái phì
phà khói thuốc, tôi thầm tự bằng lòng với cung Di trong bảng tử vi của mình. Đi
đâu cũng có quý nhân phù trợ.
Đoàn xe vượt cầu Sài gòn (Mô ni vông) lúc mờ sáng. Chú lính
kiểm soát quân sự ngái ngủ chống cằm trong trạm nhìn theo chúng tôi. Thế là
thóat một trạm! Đây rồi khu vườn sabôchê nơi tiểu đoàn 4 chốt gần Tết năm
ngoái. Những ngôi nhà sàn cắm chân trên những đìa nước sâu hoắm không bao giờ cạn
nước kể cả mùa khô. Phà Niek Luong dào dạt sóng, Kampong T’ra Bêch xanh mát và
trù phú. Kia là cái nhà sàn buổi trưa chờ xe sư đoàn năm ngoái tôi đã leo lên
đánh một giấc…S’vây riêng, cầu Prasaut, ngã ba Chi phu…Càng gần về đến Việt
nam, chúng tôi càng sốt ruột. Mà xe thì cứ chạy chậm như rùa bò. Cuối cùng thì
trạm kiểm soát biên giới cũng hiện ra. Lúc đó đã quá trưa một chút. Tôi hồi hộp
quá. Nếu quân cảnh có kiểm tra thì tôi sẽ trình giấy ra viện, giấy cung cấp tài
chính. Thời hạn còn những hơn một tháng nữa cơ mà! Cứ bình tĩnh nào! Anh Tư xuống
trình giấy tờ gì đó. Người lính gác biên nhìn giấy, nhìn lên hai thằng lính
khoác súng đứng trên thùng xe rồi khoát tay cho đi. Ôi trời…! Thoát rồi! Còn mỗi
trạm Suối Sâu nữa thôi!
Bốn giờ rưỡi chiều hôm đó, chúng tôi chia tay anh Tư ở ngã
tư Bảy Hiền. Đã hàng chục năm trôi qua, nhưng tôi vẫn nhớ như in gương mặt và
giọng nói của anh. Có những con người chỉ gặp một lần thoáng qua, thậm chí còn
chưa hề nói chuyện nhưng đôi khi ta vẫn nhớ mãi cái khoảnh khắc ấy, đôi mắt ấy.
Huống chi là đã là ân nhân, đã đi chung với nhau một quãng đường dằng dặc. Chẳng
biết bao giờ mới gặp lại nhau!
Chúng tôi nhảy xe
lam về nhà bác thằng Trung ở cư xá Lữ gia quận 11. Hai thằng lính ở rừng về
chìm ngỉm trong cái tấp nập nao nức chuẩn bị đón Tết Nguyên đán của một thành
phố sầm uất nhất nhì Đông nam Á. Hai bác đón chúng tôi với sự điềm tĩnh và phải
phép của dân miền Bắc đặc trưng. Nhà có hai cô con gái trạc tuổi nhưng tôi vẫn
gọi bằng chị theo thằng Trung. Các chị ấy vừa đi họp Đoàn phường về. Cứ ríu ra
ríu rít hỏi chuyện bọn tôi suốt. Tiếng Bắc pha tiếng Nam nghe hay đáo để. Lâu
không nghe tiếng con gái Việt nên tôi mặc kệ thằng Trung thao thao bất tuyệt.
Còn tôi thì im lặng nghe các chị ấy nói. Sau khi biết lý do chúng tôi về Sài
gòn và dự định ra Bắc, các bà đoàn viên kiểu mới này lập tức lôi bài Tây ra
bói. Quẻ hiện ra lồ lộ trên mặt bàn. Con K pích và con 7 pích này không hứa hẹn
điều gì tốt lành cả. Còn Q rô đây sót lại một niềm vui nho nhỏ. Thế thôi! Tóm lại
là chuyến đi lành ít dữ nhiều. Tốt nhất là chờ đợi đã! Cũng nhanh chóng như khi
theo tôi về nước, thằng Trung đồng ý ở lại chơi Saigon vài bữa để đi sau. Đúng
là đồ điên! Vừa mới về được vài tiếng đồng hồ đã dở chứng. Quyết định của nó
càng củng cố quyết tâm của tôi. Và tôi sẽ lên đường, càng sớm càng tốt. Buổi tối
hôm đó ăn cơm xong, tôi lảng ra phố một mình để cho gia đình nó nói chuyện
riêng với nhau. Ngồi uống một ly rau má năm hào, tôi vừa nhẩm tính số tiền còn
lại trong túi. Có tám mươi đồng tất cả. Nếu chia đôi tôi sẽ chỉ còn bốn mươi đồng.
Không đủ tiền mua vé tàu Thống nhất là đương nhiên. Lại còn tiền ăn uống trên
tàu ba ngày ba đêm hành trình nữa (hồi đó tàu hỏa Nam Bắc chạy mất bảy hai tiếng).
Tôi thở dài…Chỉ có thể khởi hành càng sớm càng tốt. Tình thế không cho phép trì
hoãn thêm nữa. Tết đã đến sát sau lưng rồi!
Nghĩ là làm! Thằng Trung để hết tiền cho tôi rồi hẹn đi sau.
Tôi ra chợ mua một cái áo thun dân sự mất hai chục đồng. Mặc luôn để tránh kiểm
soát quân sự. Còn lại sáu chục đồng. Nói qua để các bạn dễ hình dung là sáu chục
đồng hồi đó tương đương với 120 cái bánh mỳ không người lái (không có nhân) hoặc
45 bát phở. Tối hôm sau, tôi bắt xe lam ra ga Bình Triệu rồi nhảy lên tàu đi lậu
vé. Chọn một chỗ trống gần toilet, tôi đặt ba lô lên giá rồi quan sát xung
quanh. Dưới gầm ghế, những sọt trái cây, những kiện hàng vải lấp đầy không có
chỗ đặt chân. Bên cạnh tôi, chủ nhân của những kiện hàng xuyên Việt là mấy chị
tuổi đã sồn sồn chuyện trò như pháo rang. Tàu rùng mình chuyển bánh rồi tăng dần
tốc độ. Đường ke, nhà chờ, phố xá lùi lại loang loáng. Đúng là “đưa nhau lên
tàu về quê em thấy vui hơn” thật! Chỉ còn bảy mươi hai tiếng đồng hồ nữa là tôi
sẽ gặp lại Hà nội, gặp lại những người thân yêu của tôi. Rình rình…! Kịch kịch…!
Tiếng bánh sắt reo lên ù ù giữa hai làn ray, điểm nhịp đều đều những khi vượt
qua những đoạn nối. Lập lách, tà vẹt, bù loong đinh ốc… tất thảy cùng ca lên
bài hát hồi hương.
Có gì để nhớ về chuyến tàu này? Mấy lần trốn vào cái toilet
hôi khủng khiếp để trốn nhân viên soát vé? Những suất ăn ngon lành do các chị,
các dì buôn chuyến bao thằng em bộ đội khi nghe tôi kể hết sự tình? Phố biển
Nha trang im vắng ngủ quên trong ánh đèn vàng vọt? Vầng trăng hạ tuần quạnh quẽ
trên đỉnh Tháp Chàm đang trôi theo người khách độc hành lặng lẽ? Hay ga Sông
lòng Sông, ga Mường Mán mưa đêm…?
Tàu vượt đèo Hải Vân một buổi sớm sương mù. Có cái gì đó thật
thân quen như khẽ chạm vào da thịt khiến tôi rùng mình nhìn quanh. Thật dịu
dàng lan tỏa, như là đã đến từ trong cảm thức sâu thẳm, rồi tràn ngập xâm chiếm
không gian và xúc cảm… Tôi đã nhận ra rồi
! Xin chào người! Không khí quê hương Bắc Việt của tôi! Gió Mùa Đông bắc của
tôi! Tôi nâng cửa sổ lên, hít một hơi thật sâu đầy lồng ngực bầu không khí lạnh
ban mai còn đẫm hương rừng…Gió lùa vào trong cổ, gió lùa vào trong tóc, rồi vào
trong mắt khiến tôi phải đưa tay lên dụi… Hâm thật đấy! Chẳng nhớ gì lại đi nhớ
gió! Chẳng hiểu các bạn có bao giờ nhớ gió hay không?



Trungsy1 hồi đó tập tọng làm thơ:
Suốt từ ga Nam Định về đến ga Hàng Cỏ, tôi cứ nghển cổ ngó
ra ngoài. Đồng đã cấy xong gần hết. Sương chiều mùa đông mỏng và nhẹ như tấm
voan trắng đục, dịu dàng quấn chân những rặng tre. Đây ga Bình Lục, nơi chúng
tôi tắt đồng từ đơn vị huấn luyện ra, nhảy lên toa chở đá trốn về nhà ba ngày
sau khi được phát quân trang. Mặc trên người bộ quần áo lính hồi đó về để lấy
le với mấy đứa bạn gái cùng lớp. Bộ quân phục (dù mới tinh) giống như một khẳng
định rằng anh đã có một cuộc đời phong trần và lãng mạn lắm! Khổ thân! Mới 18
tuổi đầu đã biết chó gì đâu? Ở nhà có khi mẹ vẫn phải giặt quần đùi hộ. Thế mà
ra đường vào quán ngênh ngáo bất cần lắm! Rút điếu thuốc đang cắm ở miệng ra, vảy
tàn thật điệu nghệ, viết vào không gian hai chữ: ”…Biển … Nhớ …” rồi quay sang
hỏi cô bạn gái đang mắt tròn mắt dẹt bên cạnh rằng đấy là chữ gì? Còn mồm miệng
cố giữ vì suýt chết sặc khói thuốc…Đây ga Phủ Lý, nơi buổi chiều ngày
18/11/1978, chúng tôi lên tàu vào Nam đi chiến đấu giữa hai hàng vệ binh lê tuốt
trần. Bố Trung (lạy trời người vẫn mạnh khoẻ!) - bố của Tuấn Anh (c1-d4-e2) vốn
làm tại phòng điều độ ga Hà Nội biết có đoàn tàu quân sự đón quân ở ga này, nên
theo tàu vào tận nơi để kịp giúi cho mỗi thằng thêm ít tiền lộ phí. Và cũng để
lần cuối cùng trông thấy những đứa con có thể không bao giờ gặp lại nữa… Những
ga xép, những cột tín hiệu đường sắt, con đường nhựa loáng nước vùn vụt trôi
qua. Đã giăng giăng cả một trời mưa bụi, Lửa đèn, bếp đỏ nhoè dần trong buổi
chiều ướt, trôi trong màn mưa mênh mông…
9 giờ 30 tối, con
tàu mệt mỏi lừ đừ trườn vào ga Hàng Cỏ rồi dừng lại. Tôi xuống tàu, đi ngược lại
phía hẻm phố Sinh Từ tránh cửa soát vé. Con hẻm này rất nguy hiểm vì nó cực hẹp,
nơi bất cứ lúc nào cũng có thể có tàu chạy qua. Lúc đó kể như rồi đời! Chỉ có dân
buôn lậu thông thuộc giờ tàu mới biết được đường này. Thoát ra khỏi con hẻm tăm
tối đó, tôi đặt chân lên vỉa hè Hà nội, ngửa mặt nhìn ngọn đèn đường giăng mờ
mưa bụi rồi ngơ ngẩn cười. Hẳn là nụ cười của tôi lúc đó ngô nghê giống hệt nụ
cười của thằng Nhạ đại liên, khi nó sờ sờ tay vào cái lỗ thủng trên vành mũ bị
đạn xuyên qua! À ra không thể tin được thì người ta cười! Mọi sự cứ như mơ!
Cách đây đúng một tuần, tôi đang còn nện “dép” trên vỉa hè Kampong Ch’nang, chờ
xe trở về đơn vị…
Phố mùa đông buổi khuya vắng vẻ. Dưới một gốc cây bàng, bà
hàng ngô nướng đang nhanh tay quạt. Mấy người khách bu quanh hơ tay trên ngọn
than hồng. Mùi thơm thật quen lan toả trong không gian tịch lặng. Lạnh run cầm
cập, tôi kéo dựng cổ áo lên, khoác ba lô đi men theo cầu đá Phùng Hưng. Trèo
đèo lội suối đã quen, bước chân anh lính chiến trên vỉa hè quê hương sao chuệnh
choạng như say thế này? Phố vẫn phố, cây vẫn cây mà sao như nhỏ bé hơn? Hay bởi
anh nhìn không gian rộng đã quen? Hay bởi thành phố đang thu chật lại, ôm lấy đứa
con phiêu linh trở về?
Cổng nhà mình đây rồi! Ánh đèn ấm áp hắt mấy vệt qua khe cửa.
Tôi đặt ba lô xuống bậc tam cấp, ngồi phịch xuống rút một điếu thuốc ra hút, lặng
lẽ so vai chống cằm nghe tiếng giọt gianh tí tách. Hết điếu thuốc, tôi đứng dậy,
sờ sờ cái nút đến chừng nửa phút trước khi bấm chuông.
Và vỡ oà trong nước mắt…!
Một cái Tết hậu phương thật đầm ấm. Tôi đến thăm nhà từng
người đồng đội cùng đơn vị kể chuyện, thông báo tình hình. Tất nhiên là thằng
nào cũng khoẻ như trâu cả! Mọi người mừng hú! Đến nhà nào các cụ cũng giữ lại
ăn cơm, chiêu đãi thằng con (chắc là đói khát - trông mặt thì biết!) vừa ở chiến
trường ra. Có những câu chuyện có khi phải kể lại đến cả chục lần, hôm sau vẫn
bị gọi đến hỏi lại :”Mày thấy nó như thế nào? Gặp ở đâu?”. Có bác gái còn hỏi
:“ Thế các con ăn bằng thìa hay bằng đũa?”,”Có xà phòng giặt không?”, thậm chí:
“Đi đồng khi đang đánh nhau thì chúng mày làm thế nào?”. Tôi phải trả lời cả tỷ
bài sát hạch như thế. Lần nào cũng như lần nào, các bà mẹ cũng đưa tay chấm mắt.
Khổ quá! Mới rời tí mẹ, ở nhà còn tranh ăn với em mà bây giờ đang giữa trời đạn
lửa, xa lắc xa lơ tận u tì quốc thế kia..!
Rồi Tết cũng nhanh
chóng trôi qua. Cái gì ngon cũng thường nhanh hết! Thế mới lạ ! Lông bông mãi rồi
cũng chán. Ở hẳn nhà thì biết làm gì? Gạo và thực phẩm thì ăn ké gia đình. Hồi
đó thời bao cấp, toàn dân ăn gạo sổ, thịt phiếu, nước mắm bìa… Chẳng có một đơn
vị kinh tế hay xã hội nào chấp nhận một thằng lính tuột xích hết. Ông tổ trưởng
dân phố và công an khu vực thỉnh thoảng lại sang thăm, hỏi sao cháu về phép lâu
thế? Xỏ xiên phết! Thực ra thì họ biết tỏng! Đấy là họ còn nể gia đình truyền
thống Cách mạng của tôi lắm đấy! Chứ không thì gọi lên tiểu khu (phường bây giờ)
làm việc lâu rồi. Phải lên đường thôi!
Tháng 4, khi đang
chuẩn bị trở về đơn vị thì tôi lên cơn sốt rét. Lần này thì đúng là sốt rét thực
sự. Buổi chiều, tự nhiên người thấy ngây ngấy rồi ớn lạnh. Cơn rét kéo đến rất
nhanh, người cứ run cầm cập. Tôi lôi tất hai cái chăn bông ra quấn vào người mà
vẫn rung bần bật trên giường. Cô em út mới mười tuổi, cùng bạn nó đến chơi thấy
thế cuống quýt chạy quanh, không biết làm gì. Tôi ra hiệu cho chúng nó ngồi đè
cả lên người mà vẫn không hết run. Một lúc sau, cơn run hết dần, nhường chỗ cho
cơn sốt nóng. Nóng từ trong nóng ra, nóng vã mồ hôi hột. Trán bỏng cứ như lò
than hồng. Lúc này chúng nó phải lấy cả chậu nước lạnh, dấp khăn mặt vào đấy,
thay liên tục đắp lên trán tôi. Nhìn mặt thằng anh tái dại, con này cũng xanh
xám mặt mày rồi khóc. Nó chưa từng thấy sốt rét bao giờ. Nay được chứng kiến
con bệnh điển hình, khỏi cần tưởng tượng qua Giáo khoa thư lớp 4. Sau khoảng
hai tiếng đồng hồ chui qua “nước lạnh và lửa đỏ” tôi thẫn thờ ngồi dậy. Người tỉnh
táo dần, tôi thay cái áo ướt đẫm, lau qua người rồi tót ra ngoài đường. Mấy thằng
cùng lớp, chẳng hiểu sao lại không phải đi bộ đội đang ghếch chân trên xe đạp,
huýt sáo chờ ngoài cổng. Lại đi chơi như không có chuyện gì xảy ra…
Cứ cách một ngày, tôi lại lên cơn sốt một lần, vào đúng cái
giờ ấy buổi chiều. Dứt cơn lại có thể đi chơi được ngay, cứ như là giả vờ vậy!
Bố tôi bảo tôi bị sốt cách nhật. Không nguy hiểm gì lắm, chỉ là sốt “nhớ”, sốt
phản xạ thôi! Tôi lại phải uống Nivaquin như hồi trong đơn vị. Trận sốt này kéo
dài thêm thời gian ở nhà của tôi thêm một tháng nữa. Rồi thời điểm lên đường
cũng đã đến. Mẹ tôi bán cái xe đạp nam Thống Nhất, tiêu chuẩn của người do gắp
thăm được, lấy 245 đồng cho tôi làm lộ phí. Bố tôi nhờ một đồng nghiệp ở quân y
viện 108 lấy cho tôi một giấy cung cấp tài chính, một giấy ra viện. Có hai cái “bổi”
đại tướng này, tôi ung dung theo đoàn sỹ quan công binh của Bộ tư lệnh tiền
phương mặt trận do chú Vĩnh dẫn đầu (trung tá Vĩnh - giờ làm hiệu trưởng trường
dân lập Nguyễn Siêu tại Hà nội) lên đường sang Ph’nom Penh.
Lại một hành trình thiên lý nữa trong coupé toa quân sự mà
trong đó, các trung tá, thiếu tá luôn hỏi han những chuyện chiến trường K của
chú lính binh nhất là tôi. Có gì tôi kể hết. Rằng đơn vị cháu đánh thế này, chạy
thế này, chúng cháu núp ụ mối nhưng vẫn hô xung phong thế này…Thỉnh thoảng các
chú ấy lại cười ầm lên. Tôi thấy chẳng có gì đáng cười ở đây cả. Chỉ thấy quãng
đường đi lâu quá. Thậm chí nằm ở Sài gòn mấy hôm tôi còn rất sốt ruột chỉ muốn
khởi hành sang Campuchia ngay. Không biết trung đoàn tôi bây giờ tác chiến ở
đâu? Đã gần năm tháng trời rồi! Tình hình chiến sự không biết thế nào? Chẳng nhớ
gì về cái quãng đường này cả. Khi đã quá bình yên và ổn thoả thì người ta lại
chẳng nhớ gì hết nữa hay sao ấy? Cuối cùng cũng sang đến Ph’nom Penh. Bộ Tư lệnh
Công binh đóng ở khu điện Chămcamon, cùng khu vực với Bộ chỉ huy tiền phương mặt
trận. Đây là nơi bố trí chỗ ở cho các đoàn ngoại giao, các đoàn khách của chính
phủ cũ nên tuyệt đẹp và sang trọng về kiến trúc. Các biệt thự hai tầng ngói đỏ
xinh xắn với tầng hầm chứa rượu vang ốp đá tự nhiên, nằm xen kẽ giữa những vườn
cây trái xanh mát. Những lối đi trải sỏi trắng duyên dáng ẩn mình trong hương
xoài, hương vú sữa chín. Trong phòng, máy điều hoà nhiệt độ chạy êm ru. Đây là
lần đầu tiên trong đời tôi mới biết thế nào là máy lạnh. Ở Bộ tư lệnh Công binh
cũng có hai thằng lính thông tin người Nghệ an, nhưng là thông tin 15W. Mấy
ngày ở đấy, tôi ăn cùng mâm, ngủ cùng phòng với chúng nó nhưng chẳng nói chuyện
gì nhiều. Có lẽ bởi tôi thấy chúng nó sướng quá! Cứ nhìn thấy chúng nó gửi những
bộ quân phục mới tinh cho người quen mang về nước do mặc không hết thì đủ biết.
Có đánh nhau chó bao giờ đâu mà rách áo! Tôi nhớ những bộ áo trận sỹ lâm trứ
danh của tiểu đoàn 4 mà không khỏi chạnh lòng. Cảm giác ghen tỵ là có thật. Mẹ
kiếp! Cùng là lính như nhau sao có thằng sướng thế? Có thằng khổ thế? Giải
thích bằng sự phân công của xã hội, như con Mèo phòng Khách với con Mèo nhà Bếp
trong câu chuyện của Anderxen chăng? Tôi thì tôi cho rằng mặt mũi cũng như những
câu chuyện của ông này nghe thì có vẻ hiền hậu, nhưng thực ra cũng thâm nho nhọ
đít ra phết! Ph’nom Penh đang đổ mưa chiều. Tôi vén rèm cửa, nhìn ra khu vườn đẫm
nước. Chỉ vài hôm nữa thôi, những giọt nước kia sẽ dội lên vai tôi trong những
cánh rừng nào?
Sau khi hỏi thông tin ở
Bộ tư lệnh mặt trận, chú Vĩnh cho tôi biết sư đoàn 9 vẫn đứng chân tại
sân bay Kampong Ch’nang. (Nói thêm một chút cho rõ - chú ấy là một người bạn của
gia đình tôi). Thế là tốt rồi! Ngày lên đường đã đến. Tôi đi cùng đoàn BTL công
binh đến bến phà P’reck Dam thì chú cháu chia tay nhau. Các chú ấy qua sông,
theo đường 6 đi P’ret Vihia. Nghe nói ở đó có cái đền gì trên núi to lắm mà ta
với địch đang choảng nhau dữ dội. Còn tôi theo lộ 5, con đường cũ quen thuộc để
trở về đơn vị. Con đường này trước kia hoang vắng là thế nhưng bây giờ đã có rất
nhiều xe qua lại. Xe hậu cần của bộ đội mình, xe khách của dân bạn…Những chiếc
xe dân sự lèn chặt người. Trong xe không còn thở được nữa thì người ta trèo lên
nóc. Các bạn xem TV, thấy những chuyến xe đò ở
Phi châu thế nào thì ở đây cũng tùy tiện, bản năng và đầy màu sắc như thế.
Hành khách, hàng hóa, thùng can ngất ngưởng lắc lư, kẽo kẹt suốt hành trình như
say rượu. Mà dân bạn sống cũng hồn hậu và thực thà. Ai vẫy xe cũng dừng, trừ
khi không chở thêm được nữa thì thôi. Ai đưa chừng nào tiền cũng được, và hầu
như không có chuyện lẩn trốn quỵt tiền vé. Hoàn toàn không giống cách ứng xử của
các quái khách cũng như mấy chú phụ xe nhà mình. Trên một chuyến xe như thế,
tôi về đến thị xã Kampong Ch’nang vào lúc 2 giờ chiều. Tất nhiên là miễn phí tiền
vé! Ai lại đi thu tiền của bộ đội Việt nam bao giờ?
Lần về đến cứ Sư
đoàn tại sân bay thị xã, tôi lại gặp may. Đang ngáo ngơ tìm về T9 (trạm tiếp
đón) thì nghe tiếng gọi rất quen trong một cái lán. Sục vào, gặp ngay anh Lược
chính trị viên đại đội 1. Anh ấy đang dự lớp tập huấn chính trị, vừa kết thúc
thời gian, mai trở về trung đoàn. Anh em gặp nhau mừng quá! Anh ấy kéo tôi đi
ăn cơm ở bếp tập huấn rồi về lán mắc võng nói chyện gần như suốt cả đêm. Qua
câu chuyện, tôi được biết anh Sơn tiểu đoàn trưởng đã trở về đơn vị. Tiểu đoàn
tôi vào phum Kbal Tea Héal, đang xây dựng doanh trại nơi trú quân để đứng chân
lâu dài. Nhiệm vụ của Trung đoàn là đứng chân tại vùng đệm Bâmnak, làm lực lượng
cơ động sẵn sàng chi viện cho mặt trận Tây Biển Hồ khi cần. Về phần mình, tôi
nói đại là nằm viện sốt lâu quá nên được chuyển về viện Quân y 108. Anh ấy nhìn
tôi từ đầu đến chân, rồi bật cười bảo rằng mày chắc phải được lên tướng rồi mới
có tiêu chuẩn vượt cấp ấy. Chứ còn sốt ác tính kịch liệt lắm thì cũng chỉ đi đến
viện quân y 175 là kịch trần. Tôi cười trừ, thôi anh muốn hiểu thế nào thì hiểu!
Chứ còn em đã về đây rồi! Em lại đi với đại đội 1 của anh như truyền thống.
Cũng như khi trở về nhà, tôi sốt ruột ghê gớm, chỉ mong sao trời mau sáng. Đêm
đó là đêm đầu tiên sau 5 tháng, tôi lại bắt đầu ngủ võng. Nhưng nào có ngủ được
đâu? Nằm thao thức bồn chồn suốt. Chỉ tối ngày mai thôi, là tôi sẽ gặp trung đội
thông tin của mình, tiểu đoàn 4 của mình. Trên cái xứ sở xa lạ này, đơn vị
chính là gia đình tôi, ngôi nhà thân thương của tôi.
Sáng hôm sau, trừ những đơn vị trực thuộc đóng quanh Sư đoàn
bộ thì cán bộ chính trị tự túc phương tiện. Số còn lại lên tất thùng mấy chiếc
xe tải, theo lộ 27 chạy vào ga Rômeas. Các trung đoàn bộ binh e1, e2, e3 đóng dọc
đường sắt - như một vành đai an toàn ngăn giữa dãy núi Ô Răng và đồng bằng ven
biển Hồ. Mới có một năm trời mà đã biết bao điều thay đổi trên đất nước này.
Dân đã về sống quanh những phum dọc theo lộ 27. Đồng ruộng xanh mát một màu
xanh của lúa. Đường sắt đã bắt đầu hoạt
động tuyến Ph’nom Penh – Battambang, nối liền thủ đô với thành phố miền biên viễn.
Thật không thể tưởng tượng sao đất nước này lại có thể đổi thay với tốc độ
nhanh chóng đến như thế! Cứ như rừng nhiệt đới gặp lại mùa mưa vậy! Đây trận địa
pháo của trung đoàn 42 cũ. Các hầm pháo đã xập xệ, các chiến hào sụt đất cỏ phủ
xanh um. Nhà ga Rômeas vẫn thế. Trên các bức tường, trên các thân cây keo cổ thụ
vẫn lỗ chỗ vết đạn, tứa nhựa vàng quánh. Vài mảng tường thủng toang hoác do bị
B.41 hoặc DKZ của Trung đoàn 1 tương vào trong trận tiến công đánh chiếm năm
ngoái. Chóp ngọn núi thấp phía tây vẫn trọc tếch trên đỉnh vì bị pháo ta dội
vào. Ở đấy, rừng vẫn chưa kịp tái sinh. Chỉ có mỗi điều khác là nhiều người
quá. Dân nắm ngồi vạ vật chờ tàu đi buôn. Trong số đó rất nhiều phụ nữ nữa. Phải
là những kẻ bạt mạng lắm mới có thể dám đi buôn trên tuyến đường sắt này vì địch
vẫn đánh cắt, phục kích liên tục. Nhưng hàng tiêu dùng Thailand đang hút. Mấy
năm trời cúi mặt xuống đất ruộng làm thuỷ lợi công xã, làm cỏ lúa…Lúc nào cũng
chuẩn bị đón nhận một nhát cuốc gọi hồn đập vào gáy. Bây giờ tự do thoải mái
quá! Hàng hoá của một thời thanh bình tràn ngập nên ai cũng háo hức muốn mua một
chút gì đấy. Như là muốn sở hữu, muốn khẳng định cuộc sống mới của mình qua món
hàng bé nhỏ cầm trên tay. Sướng nhé! Cứ vô tư đi!
Giữa trưa thì tàu đến. Có khoảng gần chục toa đen (không có
các toa hành khách) chật cứng người. Chúng tôi nhảy đại lên một toa, kiếm cho
mình một chỗ, ngồi phệt xuống sàn tàu. Mấy em, mấy chị đi buôn giạt ra, nhường
thêm một khoảng nhỏ cho lính. Trong đám đó có một cô khá xinh. Gặp ánh mắt của
tôi, em gái ấy vội lảng nhìn sang chỗ khác rồi kín đáo thu cái túi xách nhỏ vào
trong lòng. Tôi thấy hơi chạnh lòng vì cái hành động cảnh giác ấy. Nhưng theo
anh Lược, hành động đấy có lý do của nó. Tầu đã chạy từ tháng ba. Trong khoảng
thời gian vừa rồi, trên những chuyến tàu ngược Battambang này có những kẻ mặc
quân phục bộ đội Việt nam với đầy đủ súng ống. Đến một địa điểm thuận lợi nào
đó, sau khi đã quan sát, đánh giá con mồi, chúng liền ra tay cướp sạch tiền,
vàng của dân buôn trong những chuyến tàu ngược. Hành động mau lẹ xong xuôi, bọn
cướp ấy nhanh chóng biến mất trong những khu rừng ven đường sắt sau những cú
phi thân nhảy tàu điệu nghệ. Tôi nghiêng về giả thiết đấy là những thằng lính
đào ngũ của quân ta hơn là địch đóng giả. Vì thủ đoạn như thế, những cú nhảy
tàu “lá vàng rơi” như thế thì chỉ có dân Việt ta thôi. Dân buôn Ph’nom Penh nhiều
nhà đã mất sạch vàng, sạt nghiệp trong những chuyến buôn đánh đu với tử thần
như thế này. Nhưng vì lãi lớn quá, kiếm dễ quá nên người ta cứ lao vào như
thiêu thân, bất chấp mạng sống. Thôi có gan thì làm giàu!
Khoảng 3h, chúng tôi xuống ga Bâmnak. Mấy anh em cán bộ tiểu
đoàn 4 gom nhau lại cùng về đơn vị. Từ ga vào đến căn cứ tiểu đoàn 4 phum K’bal
Tea heal mất 7 km. Tôi cứ xăm xăm rảo bước đi trước. Đây kẹp núi Pean Sas, chỗ
ngủ chung với địch năm ngoái. Bây giờ là doanh trại của đại đội 3. Những ngôi
nhà do lính ta dựng nằm thấp thoáng trong rừng dầu. Mái lợp gianh còn mới, vàng
hươm. Đại đội này được bố trí phía sau, nằm chẹn giữa con đường từ trung đoàn bộ
xuống tiểu đoàn 4. Qua khỏi đại đội 3 một đoạn, các anh ấy dẫn tôi tạt sang
trái, qua phum hoang “nhà dài” theo đường mòn vào suối Damrey. Đội hình tiểu
đoàn đóng dọc theo bờ suối. Khẩu DK .82 đại đội 4 nằm ở ngay khúc quanh đầu
tiên. Chúng tôi vào sát tận công sự pháo cũng chẳng thấy ai hỏi han phát hiện
gì. Điều này chứng tỏ tình hình cũng đã yên bình trở lại. Thôi thế là mừng rồi!
Mấy anh em tạt vào lán DK ngồi uống nước nghỉ chân. Đây là vị trí “tiền tiêu”
trên con đường giao thông giữa tiểu đoàn- trung đoàn. Như một cái trạm tiếp
đón, ai đi qua cũng tạt vào làm hớp nước, điếu thuốc rê. Không thấy thằng Mẫn
tiểu đội trưởng đâu vì lúc đó nó đi thăm bẫy thú. Thằng Hùng lé- nhà ở Ái mộ,
Gia lâm đang nằm võng thấy tôi vùng dậy. Thằng này có ngón đàn bầu tuyệt hay, về
sau được móc lên đội văn nghệ Sư đoàn. Tiêu chuẩn đặc biệt được dọn ra ngay. Nước
lá và dây đồng tiền lông chúng nó cô đặc lại, trữ trong bi đông bây giờ mới được
mang ra. Thóc đâu mà đãi gà rừng? Ai đi qua “trạm” này cũng có tiêu chuẩn thế
này thì “sạt nghiệp” kiếm củi kiếm lá đun nước hầu hạ à? Tôi móc ba lô, để lại
vài ba ấm chè, mấy điếu thuốc Tam Đảo gọi là chút quà quê miền Bắc rồi đi ngay.
Anh Lược, anh Bình cò với mấy ông chính trị viên nữa thì ở lại chờ xem thằng Mẫn
có vớ được con gì hay hay không để gây độ nhậu. Đường trong đội hình quanh co
nhưng được làm lan can dẫn hướng bằng những thân cây le nên rất dễ tìm. Doanh
trại đang trong thời kỳ củng cố nên khá khang trang. Các lối đi cỏ đã được dọn
sạch. Tiếp một cái lán nữa. Đây là khẩu 12.8mm đại đội 4, nòng quay ra hướng
bìa rừng. Từ khi mất súng trong trận đại đội 1 tan tác, trung đoàn cũng không bổ
sung cho tiểu đoàn 4 thêm khẩu 12.8mm nào thêm nữa. Với lại cũng không còn đủ
người. Chúng nó lôi tôi vào uống nước, hỏi han cả nghìn tỷ câu chuyện. Lại mấy
thằng bên cối 82mm thấy thế cũng lội suối mò sang. Trời ạ! Mấy cái lán của tiểu
đoàn bộ kia rồi! Sốt ruột bỏ mẹ! Hỏi gì mà hỏi lắm thế? Tôi để lại thêm mấy ấm
trà, nửa bao thuốc còn dở rôi đánh bài chuồn, nửa đi nửa chạy về trung đội.
Tiểu đoàn bộ đóng quân ven suối, dưới một cây xoài mút cổ thụ.
Những ngôi nhà nhỏ nằm rải rác ôm lấy một sân bóng chuyền tự tạo. Lưới vẫn còn
căng trên cột. Trung đội thông tin nằm mé trái, sát rặng le bên con suối nước
tù nhưng rất sâu. Tả qua về những cái nhà, nơi chúng tôi sống suốt 2 năm trời một
chút để các bạn hình dung. Nhà thường ba gian, chiều ngang hơn 3m, dài 7m là tối
đa. Cột nhà thì ra rừng dầu chặt những cây thẳng, đường kính chừng 15 cm là
ngon. Vì kèo cùng loại gỗ đó nhưng nhỏ hơn, Cũng thượng thu hạ thách, cũng chống
đứng, chống xiên, mộng mẹo cẩn thận. Rui, mè bằng tre tầm vông loại như cổ tay
là vừa. Còn lá lợp thì ra ruộng xen rừng, bắt chước dân bạn làm thang leo bằng
thân tre, leo lên những cây thốt nốt chặt lá. Mang về đan thành từng tấm, chèn
đá ngâm suối chống mọt hẳn hoi rồi mới lợp. Vách cũng bằng lá thốt nốt hoặc
đánh gianh thưng, kiểu như vách những ngôi nhà nhỏ miền quê đồng bằng sông Tiền
sông Hậu. Sang hơn nữa thì được ốp ván dầu, vản thông do lính ta kỳ công vào những
phum không người ở dỡ ra mang về. Hình thức những căn nhà này nói chung phụ thuộc
trình độ khéo tay, trình độ “thẩm mỹ” của các “kiến trúc sư”. Các căn nhà trong
đội hình được nối với nhau bằng những lối đi rẫy cỏ sạch sẽ. Hai bên lối đi,
hai hàng lan can làm bằng những cây le chạy song song trông rất đẹp mắt. Cũng cầu
tắm suối với các bậc lên xuống được lát thân gỗ. Cũng vườn rau cải, rau muống
xanh um. Phía lán anh nuôi sát bờ suối, khói bếp vấn vít quanh bụi tre trong buổi
chiều tà. Nước mình đã ba mươi năm chiến tranh. Những người lính quen chiến trận
đã đành. Họ còn rất tháo vát trong việc tổ chức cuộc sống. Thằng anh dạy thằng
em, thằng lính cũ dạy thằng lính mới…Cứ thế, cả cái “quần thể kiến trúc” này mọc
lên mà tình quê hương quấn quít hiển hiện trên từng múi lạt buộc. Trông chẳng
khác như một cái xóm nước Việt ấm áp nằm giữa đại ngàn.
Anh Nhương với thằng Ban trố đang ngồi cởi trần chẻ lạt le,
thấy tôi liền quăng con dao đứng dậy lôi sềnh sệch vào trong “nhà”. Câu đầu
tiên cha ấy hỏi tôi không phải hỏi thăm sức khoẻ hay giấy tờ mà là :”Có trà bắc,
thuốc lá bắc không? Đưa đây!”. Tất nhiên là có, dù ít. Thế là anh ấy móc cái
gói ấy ra, đưa cho thằng Ban trố cất đi. Buổi tối, trung đội thông tin vui như
tết. Bọn nó kéo đến đầy nhà uống hớp trà, làm hơi thuốc thơm hỏi chuyện Việt
nam tào lao. Anh Bình cháo quân lực cũng sang chơi. Tiện thể tôi nộp luôn giấy
ra viện, giấy cung cấp tài chính. Anh ấy chỉ xem qua rồi cất đi, chẳng thèm hỏi
han thêm một câu nào. Tôi được biết anh Sơn tiểu đoàn trưởng sau thời gian đi
viện đã trở về đơn vị. Anh Được - người Hà Bắc về thay anh Thành làm chính trị
viên tiểu đoàn. Dưới đại đội 1, đại đội mà tôi hay đi máy, cán bộ vẫn là anh
Chính tréc, anh Bình cò…Từ khi có tàu chạy ngoài Bâmnak, do đi lại thuận tiện
hơn nên đơn vị đã có một số thằng đào ngũ. Lạ lùng thật! Mới nửa năm trước đánh
nhau ác liệt như thế mà chẳng có thằng nào bùng. Bây giờ tình hình tạm êm êm rồi
lại thi nhau chuồn. Có đứa ra đi lại còn chôm sạch đồ của anh em nữa. Chả hiểu
ra làm sao cả? Nhưng những thắc mắc ấy cũng nhanh chóng chìm đi trong cơn buồn
ngủ đang đến sau một chặng đường mệt nhọc. Đêm ấy, tôi đã ngủ một giấc thật
ngon!
Tôi được anh Nhương cho nghỉ ba hôm rồi lại xuống phối thuộc
dưới đại đội 2. Bây giờ là tháng 6 năm 1980, đang mùa mưa. Một buổi chiều, đang
chuẩn bị mưa thì từ phía đường sắt dội lên những tiếng nổ rất lớn. Chỉ có thể
là tiếng DK thôi, tôi nghĩ thế! Những tiếng nổ lẫn trong tiếng sấm ầm ì nhưng vẫn
phân biệt được rất rõ. Chưa kịp nấu xong nồi nước hà thủ ô thì tiểu đoàn gọi xuống
kêu đại đội 2 vận động ngay. Trung đoàn thông báo địch đánh cắt đường tàu tại kẹp
núi tiểu đoàn 5. Đại đội 2 gần nơi xảy ra chiến sự nhất, có trách nhiệm vận động
theo hướng tây bắc, phía sau lưng đường sắt, chẹn đường rút của địch vào trong
núi. Cả đại đội lao đi trong trời mưa bắt đầu nặng hạt. Chúng tôi đến điểm quy
định sau đúng 1 tiếng rưỡi đồng hồ. Mưa sầm trời tối đất. Mới ba bốn giờ chiều
mà trời đen kịt cứ như sắp sửa vào đêm. Đường bò ngang dọc, nhưng nào thấy có
bóng thằng địch nào? Mưa đã xoá hết những dấu vết trên đường. Lại có lệnh cắt
vuông góc với đường sắt, đến thẳng điểm phục kích của địch. Đến gần đường sắt,
cả đại đội triển khai thành ba mũi cứ thế song song tiến lên. Vừa ra đến cửa rừng,
đại đội 2 bắn bắt liên lạc với tiểu đoàn 5 đã vận động lên dọc đường sắt theo
hiệp đồng. Dân buôn sống sót nghe tiếng súng, tưởng địch tấn công một lần nữa
liền quăng hết đồ, nhao hết sang phía bên kia đường sắt, kêu khóc như di. Một
khung cảnh tan hoang hiện ra. Đoàn tàu nằm chết gí trên đường ray nhưng không đổ.
Hai toa sát đầu máy trúng đạn DK.82 của địch thủng sườn toang hoác. Thịt xương,
nội tạng, máu me nhoè nhoẹt trong nước mưa, lê lết theo quán tính tàu chạy
thành một vệt đỏ thẫm trên đường. Như tôi đã kể với các bạn ở phần trước - những
chuyến tàu, chuyến xe trên đất bạn trong thời gian này thường lèn chặt người.
Nhiều người trong số đó do quá sợ hãi, ngã xuống từ trên nóc toa, từ các chỗ nối
khi trận phục kích xảy ra. Thân thể bị cán đứt đôi, đứt ba. Hàng hoá quăng la
liệt tung toé. Nhiều thằng lính cúi xuống tháo trộm nhẫn, đồng hồ trên những
cánh tay người chết. Quẹt qua quẹt lại cho sạch máu rồi đút vào túi quần. Chết
rồi thì dùng làm gì cho mệt? Tôi cũng để ý nhưng chẳng nhặt được chiếc đồng hồ
nào. Phải nói bọn chó Pôn Pốt này khốn nạn thật! Dùng pháo chống tăng tương thẳng
vào đồng bào mình thì không biết bài này chúng nó học được từ đâu?
Kể từ đó, tiểu đoàn 5 có thêm nhiệm vụ rải quân chốt đường sắt,
đoạn từ ga Bâmnak đến ga Kâm rênh. Còn các cung khác thuộc đơn vị bạn. Các tổ
chốt mỗi tổ ba người cách nhau khoảng 250m, trên đoạn đường dài 6 km. Đến khi
nào tàu chạy qua mới được rút quân. Tiểu đoàn 4 ở sâu trong núi, hằng ngày đưa
một trung đội bộ binh nằm phục ở những điểm nghi địch sẽ đi qua để mò ra đường
sắt. Địch thì không thấy. Chỉ thấy dân sống quanh ga đánh xe bò vào rừng lấy gỗ.
Trung đội phục lộ vị trí, đành xua họ về vì sợ địch trong dân liên lạc với bọn
ngoài rừng. Có vẻ như có nội gián vì suốt hơn một tháng trời địch ngừng hoạt động.
Dường như mọi thủ đoạn đánh địch của ta nó đều nắm được. Các trung đội phục
thay nhau, ngày nào cũng dầm mưa bợt bạt hết người mà vẫn không có kết quả. Nản
chí, nhiều bọn đi phục chỉ ra khỏi đội hình hai ba cây số, tìm chỗ nào đẹp đẹp,
có suối là dừng lại. Chúng nó tổ chức đánh cá, nấu cơm ăn với nhau rồi rúc bụi
căng võng ngủ khò khò. Tiểu đoàn có điện hỏi thì thằng thông tin đi theo trung
đội vẫn cứ leo lẻo rằng đang nằm ở đây, ở đó theo ý đồ tác chiến. Nói thể để thấy
rằng thời đó ý thức tác chiến của một số cán bộ cấp trung đội còn kém, a dua
theo mấy ông lính cũ nhập ngũ năm 74, năm 75. Các cha lính cũ này không nhận
nhiệm vụ. Giao tiểu đội trưởng không nhận. Trung đội trưởng cũng không nốt. Chỉ
suốt đời đòi làm lính trơn mong phục một suất ra quân. Cứ đủng đà đủng đỉnh. Đi
càn thì trận đi trận không, toàn đùn cho đàn em vì cứ cáo ốm suốt. Lên quân hàm
theo năm nên rất nhiều thượng sĩ “già” làm lính trơn hoặc làm anh nuôi. Đơn vị
đánh nhau, quân số hao mòn nghiêm trọng mà chưa kịp bổ sung. Thành ra có cán bộ
trung đội có khi mới chỉ là trung sỹ phải chỉ huy các bác thượng sỹ này đâm ra
khó ăn khó nói. Cán bộ đại đội cũng nhập ngũ vào khoảng những năm ấy. Và thường
là cùng đoàn nên nể nang, mặc kệ. Các bác này tụ tập với nhau trong cái xã hội
của lính. Khoẻ thì cùng khoẻ trong những đợt truy quét ngắn. Ốm cùng ốm (tất
nhiên mỗi người một bệnh) trong những đợt truy quét dài Ấy thế mà hôm nào có thằng em dại săn được
con gì ngon ngon (mặc dù đang ốm liệt giường liệt chiếu?) là mắt sáng trưng như
đèn pha. Lập tức tung tấm đắp vùng dậy chạy xuống tận nơi chỉ bảo là em phải cạo
lông như thế này, làm lòng như thế kia! Tôi khó chịu với mấy cha này nhất. Mẹ
kiếp! Đã là lính tráng thì phải bình đẳng như nhau chứ! Đừng có chơi trèo!
Đến cuối tháng 8, đầu tháng 9, địch lại đánh đường sắt, kết
hợp quấy rối trên lộ 28. Con lộ này từ ga Kâm rênh đi ra thị trấn K’ra Ko ngoài
đường 5. Quy mô chiến sự nhỏ lẻ, không có quy luật nào hết. Kiểu đó chỉ có thể
là bọn địch trong dân hoạt động chiến tranh du kích. Trung đoàn rút đại đội 2
tiểu đoàn 4 do anh Hải đại đội trưởng chỉ huy, đi hoạt động độc lập dọc tuyến lộ
này. Anh Hải quê Quảng ninh, dân vùng than thứ thiệt. To, cao, tất nhiên là đen
và cằm vuông như Từ Hải. Rất đào hoa và thương lính! Nhậu và đánh nhau thì rất
lỳ. Hồi ở ven Tôn lê Sáp, trước khi ra Ô đôngk phối thuộc với trung đoàn 3 đánh
địch thông lộ 5, tôi với anh Ky vẫn đi máy theo đại đội 2. Chúng tôi ở trong một
cái phum toàn là phụ nữ với gái goá, như cái phum Chay Rum sau này ngoài thị trấn
Pon Ley. Trong đó có nhiều cô rất xinh gái. Một buổi trưa, tôi mò ra chỗ con lạch
nhỏ kín đáo, trèo lên cái cây me to rậm lá. Chỗ này là chỗ yêu thích của tôi để
sử dụng nó, như sử dụng cái cầu cá, cầu tõm Hà nam ninh hay Nam bộ vậy. Chưa dứt
cơn sướng đứng hàng thứ nhì sau cái sướng của ông quận công, mặt nước lạch bỗng
dưng cồn sóng. Một cái xuồng nhỏ do một cô gái chèo tấp vào trong bụi cây thấp,
gần sát dưới cái cây chỗ tôi đang ngồi. Trên xuồng, anh Hải và cái cô da bánh mật
hay đến giặt đồ cho anh ấy thay thằng kiên lạc lập tức quấn lấy nhau. Họ đam mê
cuồng nhiệt quá nên không biết giời đất quỷ thần là gì nữa! Cái xuồng nửa trên
mặt bùn nửa dưới nước cứ lắc lư, dập dềnh tôm cá suốt. Tôi năm đó mới 19 tuổi.
Chỉ mới thấy người ta hôn nhau trên phim Liên xô xem trong các rạp Đại Đồng, Bắc
Đô mà thôi, chứ có biết yêu đương tán tỉnh là cái quái gì đâu? Nay bất ngờ chứng
kiến cảnh này nên mồm cứ há hốc. Vừa thích, vừa sợ và xấu hổ nữa! Nỗi buồn từ rốn
trở xuống biến đâu mất. Cũng không dám kéo thắt lưng lên vì sợ bị lộ. Thành ra
cả ba đều ở trong cái tư thế lộ thiên rất trớ trêu. Mà trong tình thế đó, tôi
là thằng trớ trêu nhất! Khó chịu nhất! Khổ cái thân tôi quá! Cơn “địa chấn” qua
đi, chị chàng đờ người ra, ngửa cổ mỉm cười hạnh phúc thì trông thấy tôi trên
cành me liền kêu rú lên. Anh Hải quay ngoắt lại, nhặt khẩu K.54 lăn lóc trên
sàn xuồng, lăn ra định thực hành động tác nằm bắn. Tôi hoảng quá la lên :”Em
đây mà! Em đây!”. Anh ấy định thần, nhận ra tình thế của tôi thì bật cười lớn,
trùm cái áo lính lên cô nàng đang run cầm cập rồi cứ thế nhảy tót xuống nước,
chổng mông đẩy xuồng đưa nàng phóng chạy. Từ đó, dù không nói gì về chuyện này
nhưng hai anh em cứ nhìn thấy nhau là bật cười. Kể cả đang lúc họp quân chính
hay phổ biến nhiệm vụ rất nghiêm trang.
Bây giờ thì anh ấy
hy sinh rồi các bạn ạ! Hy sinh đúng vào cái trận thông đường 28 này. Lúc đại đội
2 trở về qua cái kẹp núi Tuk S’ra vào buổi chiều gần tối. Một viên đạn bắn tỉa
- viên duy nhất của địch bắn từ sườn núi đi qua phần trên bụng anh ấy. Chúng nó
nhằm vào người không mang súng dài. Một trung đội lao lên như điên cuồng nhưng
nào thấy gì nữa! Băng bó xong, Tất cả anh em thay phiên nhau võng anh ấy chạy gằn,
cắt chéo đường về thẳng trung đoàn bộ. Nhưng muộn mất rồi! Đến gần phum Tà-chét
thì anh ấy tắt thở. Cả đại đội dừng lại chút xíu rồi lững thững, vật vờ đi
trong đêm. Một thằng nào đó chĩa súng lên trời kéo một điểm xạ hết trọn băng đạn.
Một số khác bắn theo. Xin đừng hiểu đấy là lời vĩnh biệt đồng đội như trong
phim. Đơn giản do uất quá, hận quá thôi! Như là vừa bị vả trộm một cái hộc máu
mồm, nhưng không biết thằng vả mình là đứa nào? Đêm hôm ấy, khi biết tin anh Hải
hy sinh, dày dạn như anh Sơn tiểu đoàn cũng phải bật khóc!
Anh Hải hy sinh rồi. Cán bộ đại đội thiếu nghiêm trọng.
Không hiểu sao Ban cán bộ trung đoàn chưa chuẩn bị được người thay thế. Hoặc
cũng có thể vì mọi người ngán cái tiếng “sát cán bộ” của tiểu đoàn 4 chăng? Anh
Sơn, anh Được chính trị viên phải động viên mãi, Cáp đen - đương nhiệm anh nuôi
đại đội 2, quân hàm thượng sỹ mới nhận chức vụ đại đội phó. Anh Cáp vào cùng
đoàn Quảng ninh, lính 74 như anh Hải. Trong trận thông đường ở Ô Đôngk, khi đi
đưa cơm cho đại đội 2 từ hồ “Thiên nga” về. Thấy lính tiểu đoàn 8 cứ lom khom
bò dưới chân lộ khi địch bắn rát, trong khi cán bộ trung đoàn thì vẫn đứng trực
tiếp chỉ huy mấy khẩu đội DKZ.75 ngay trên mặt lộ. Bố này ngứa mắt quá, tự
nhiên nổi hứng mới quát :” Lính tráng cà chớn? Mới thế mà đã chúi thì đánh đấm
gì?”. Bộ dạng cao lớn lòng khòng trong bộ quần áo vàng đất còn dính nhọ nồi.
Tóc tai thì dài cợp, bờm xờm phủ xuống trùm gáy. Cứ như một nhân vật từ “Thuỷ Hử”
từ rừng xanh vừa bước ra đường. Bộ đội tiểu đoàn 8 lúc đấy mới nhổm hết cả dậy.
Bên trung đoàn 3 xì xào hỏi nhau đấy là ai thì nhận được câu trả lời luôn :” Nó
là thằng anh nuôi tiểu đoàn 4 ấy mà!”. Câu chuyện thủ trưởng trung đoàn 3 mắng
lính. Lấy câu chuyện đại đội 2 đánh rẽ vây mấy lượt cho d8 để làm gương và chuyện
hôm ấy của Cáp đen về sau trở thành giai thoại. Mỗi một đơn vị đều có một
“thương hiệu” riêng đấy các bạn ạ! Có thể địch cũng biết rõ “thương hiệu“ lỳ của
trung đoàn tôi từ hồi chiến tranh biên giới kia. Nên khi trung đoàn tôi đứng
chân ở đâu, chúng nó cũng ít tập kích hơn các đơn vị khác.
HẾT PHẦN 1
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét