Thứ Tư, 23 tháng 7, 2014

Lịch sử xung đột Israel và Palestine

Lịch sử xung đột Israel và Palestine

Giới thiệu

Cuộc xung đột giữa người Do Thái và người Palestine được coi là dai dẳng nhất và dễ bùng phát nhất thế giới. Căn nguyên của cuộc xung đột bắt nguồn từ sự tranh chấp dải đất nằm giữa Bờ đông Địa Trung Hải và sông Jordan.
Đối với người Palestine, trong suốt hơn 100 năm qua, họ đã phải gánh chịu hành động đánh chiếm thuộc địa, trục xuất và chiếm đóng quân sự, đồng thời cũng gian nan trong công cuộc kháng chiến giành quyền tự quyết và đồng tồn với chính nhà nước phải chịu trách nhiệm cho những đau thương mất mát của họ - Israel.
Đối với người Do Thái, sự trở lại miền đất của tổ tiên sau nhiều thế kỷ phiêu bạt và bị ngược đãi trên khắp thế giới không mang lại hoà bình, an ninh. Người Do Thái cũng đã phải đối mặt với vô số cuộc khủng hoảng, xung đột khi các nước lân bang muốn xoá bỏ mảng đất của họ trên bản đồ thế giới.
Sau đây chúng tôi muốn đưa ra một số mốc thời gian được đánh giá là quan trọng trong dòng lịch sử xung đột Trung Đông.
Thời cổ đại
Miền đất bao quanh Israel và các vùng lãnh thổ của Palestine đã nhiều lần bị đánh chiếm rồi lại tái chiếm. Những chi tiết về các nhà nước Do Thái thời cổ đại hết sức thô sơ, chủ yếu thông qua các ghi chép trong kinh thánh và lịch sử cổ điển. Một số sự kiện quan trọng:
Thời đại kinh thánh
    1250 trước CN: Người Do Thái bắt đầu chiếm đóng và định cư vùng đất Canaan bên bờ đông Địa Trung Hải.
    961-922 trước CN: Thời vua Solomon cai trị và xây dựng đền thờ tại Jerusalem. Trong thời kỳ Solomon trị vì, miền đất này được chia làm 2 vương quốc.
    586 trước CN: Vương quốc phía nam Judah đã bị người Babylon chiếm đóng. Người Do Thái bị đày ải và đền thờ Solomon bị tàn phá. 70 năm sau, người Do Thái mới trở về mảnh đất này và dần dần xây cất lại đền thờ.
Thời đại cổ điển
    333 trước CN: Alexander Đại Đế đã phát động chiến tranh chiếm đóng miền đất và đặt dưới sự cai trị của Hy Lạp.
    165 trước CN: Cuộc nổi dậy tại Judea đã dẫn tới sự thành lập nhà nước Do Thái độc lập cuối cùng trong thời cổ đại.
    63 trước CN: Nhà nước Do Thái, hay còn gọi là Judea, đã được hợp nhất với tỉnh Palestine do đế chế La Mã cai trị.
    70 sau CN: Một cuộc nổi dậy chống lại sự cai trị của đế chế La Mã đã bị Hoàng đế Titus đàn áp. Một lần nữa, đền thờ thứ hai bị tàn phá. Sự kiện này đánh dấu sự bắt đầu của Cộng đồng người Do Thái (Jewish Diaspora) hay còn gọi là sự phân tán.
    118-138 sau CN: Trong suốt thời cai trị của Hoàng đế La Mã Hadrian, người Do Thái mới đầu được phép trở lại Jerusalem. Tuy nhiên, cuộc nổi dậy của người Do Thái năm 133 đã khiến thành phố Jerusalem hoàn toàn bị tàn phá và người Do Thái trong thành đã bị trục xuất và bán làm nô lệ.
    638 sau CN: Người Hồi giáo Ảrập đã nổi dậy lật đổ sự thống trị của Byzantine (Chế độ trị vì miền Đông sau sự thống trị của La Mã). Quốc vương Hồi giáo đệ nhị Omar đã xây dựng 1 ngôi đền Hồi giáo, nay gọi là đền Al-Aqsa tại Jerusalem vào những năm đầy của thế kỷ 8. Ngoài thời kỳ Thập tự chinh (1099-1187), khu vực trên vẫn đặt dưới sự thống trị của người Hồi giáo cho đến khi Đế chế Ottoman bị sụp đổ trong thế kỷ 20.
1897- Đại hội phục quốc Do Thái thứ nhất
Đại hội phục quốc Do Thái lần thứ nhất được tổ chức tại Basle, Thuỵ Sĩ nhằm thảo luận các ý tưởng đặt ra trong cuốn sách của Theodor Herzl xuất bản năm 1896 có nhan đề Der Judenstaat (Nhà nước Do Thái). Herzl, một nhà báo người Do Thái, và là một nhà văn sinh sống tại Vienna, Áo. Ông Herzl muốn tất cả người Do Thái có một nhà nước riêng - chủ yếu nhằm đối phó với chủ nghĩa bài Do Thái tại châu Âu.
Đại hội đã đưa ra chương trình Basle nhằm thiết lập một cái gọi là ""ngôi nhà cho người Do Thái tại Palestine được bảo vệ bằng công luật, đồng thời thành lập Tổ chức Phục quốc Do Thái thế giới (WZO) để thực hiện mục tiêu và hoài bão trên.
Trước năm 1897, một số người Do Thái đã trở lại mảnh đất trên. Cho đến năm 1903, ước tính có khoảng 25.000 người Do Thái trở về, phần lớn từ Đông Âu. Người Do Thái sinh sống cùng với khoảng nửa triệu người Ảrập trong một phần khu vực sau đó thành đế quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ. Làn sóng thứ hai có khoảng 40.000 nhập cư Do Thái vào khu vực trên trong giai đoạn từ 1904 đến 1914.
1917 - Tuyên ngôn Balfour

Vào thời kỳ thế chiến thứ nhất, đế quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ đã thống trị khu vực này. Sự cai trị của Thổ Nhĩ Kỳ kết thúc khi các lực lượng Ảrập được sự ủng hộ của vương quốc Anh đánh bật người Ottoman ra khỏi khu vực.
Anh đã chiếm khi vực vào giai đoạn cuối thế chiến I, năm 1918 và trao quyền thông trị cho Liên đoàn các quốc gia (LN) vào 25/4/1920.
Năm 1916, Cao uỷ của Anh quốc tại Ai Cập, ngài Henry McMahon đã cam kết với lãnh đạo Ảrập sẽ trao độc lập cho các tỉnh Ảrập Ottoman cũ ngay sau khi thế chiến thứ nhất kết thúc.
Tuy nhiên, cùng thời điểm đó Hiệp định mật Sykes-Picot giữa Anh và Pháp đã chia cắt khu vực và đặt dưới sự kiểm soát chung của 2 nước.
Năm 1917, Ngoại trưởng Anh Arthur Balfour đã tích cực xúc tiến thành lập Palestine cho người Do Thái. Ông Arthur Balfour đã gửi bức thư vạch kế hoạch trên cho lãnh đạo phong trào phục quốc Do Thái Rothschild. Bức thư trên được coi là Tuyên ngôn Balfour.
1929-1936: Sự bất bình của người Ảrập
Trong khuôn khổ Chương trình phục quốc Do Thái trong thập kỷ 20 và 30, hàng trăm nghìn người Do Thái đã từ Anh trở về nhà nước Palestine do Anh uỷ nhiệm dành cho nguời Do Thái. Chương trình này đã làm cộng động người Ảrập hết sức bất bình.
Năm 1922, một cuộc điều tra dân số do Anh tiến hành cho thấy, số người Do Thái đã chiếm tới 11% trong tổng số 750.000 cư dân sống trong Palestine. Trong vòng 15 năm, đã có có tới hơn 300.000 người nhập cư Do Thái vào Palestine.
Sự xung đột giữa người Ảrập và Do Thái bắt đầu bằng các cuộc đụng độ xảy ra vào tháng 8/1929. Khoảng 133 người Do Thái bị người Palestine sát hại và 110 người Palestine bị cảnh sát Anh bắn chết.
Sự bất bình của người Ảrập một lần nữa đã làm dấy lên một cuộc biến động dân sự rộng khắp thông qua cuộc tổng đình công năm 1936. Vào thời điểm đó, nhóm vũ trang phục quốc Do Thái Irgun Zvai Leumi đã bắt đầu phát động các đợt tấn công nhằm vào các mục tiêu Palestine và Anh nhằm giải phóng Palestine và Transjordan (ngày nay là Jordan).
Tháng 7 năm 1937, Đặc phái viên Hoàng gia Anh do Huân tước Peel đã đề xuất chia cắt miền đất trên thành một nhà nước Do Thái (Khoảng 1/3 nhà nước Palestine, trong đó gồm đồng bằng Galilee và vùng duyên hải) và một nhà nước Ảrập.
Đại diện của Palestine và Ảrập đã bác bỏ đề xuất trên và chấm dứt các đợt nhập cư, đồng thời bảo vệ tính thống nhất của một nhà nước duy nhất trên cơ sở tôn trọng người thiểu số. Tuy nhiên, các cuộc xung đột vẫn liên tiếp xảy ra cho đến năm 1938, thời điểm Anh tăng cường điều động quân đội tới Palestine.
1947- LHQ phân tách Palestine
Anh, nước thống trị Palestine kể từ năm 1920, đã trao trách nhiệm giải quyết vấn đề tranh chấp giữa người Do Thái và Ảrập cho Liên hợp quốc LHQ năm 1947.
Trong nhiều năm trước đó, vùng lãnh thổ này đã trải qua vô vàn biến động và bạo lực khi người Ảrập phản đối người nhập cư Do Thái (cộng đồng chiếm 1/3 dân số và 6% lãnh thổ Palestine). Tình hình ngày càng trở nên xấu đi khi hàng trăm nghìn người Do Thái ồ ạt tràn vào Palestine nhằm trốn chạy sự đàn áp của Đức quốc xã tại châu Âu. Theo thống kê, khoảng 6 triệu người Do Thái bị sát hại do nạn tàn sát người Do Thái dưới thời Hitler (Holocaust) trong Đại chiến II.
LHQ đã quyết định thành lập Uỷ ban đặc biệt đề xuất chia lãnh thổ làm 2 nhà nước Palestine và Do Thái. Tuy nhiên, đại diện Palestine - Uỷ ban cao cấp Ảrập - đã bác bỏ đề xuất trên. Trong khi đó, Cơ quan Do Thái đã chấp nhận.
Kế hoạch chia lãnh thổ của LHQ như sau: trao 56,47% lãnh thổ Palestine thành lập nhà nước Do Thái và 43,53% để thành lập nhà nước Ảrập với một khu vực quốc tế bao quanh thành Jerusalem. Ngày 29/11/1947, 33 quốc gia thành viên Đại hội đồng LHQ đã bỏ phiếu thông qua kế hoạch trên. Trong khi đó, 13 nước bỏ phiếu chống và 10 nước bỏ phiếu trắng. Tuy nhiên, người Palestine đã bác bỏ kế hoạch trên và kế hoạch này không được thực hiện.
Anh đã công bố dự định chấm dứt sự cai trị của nước này đối với Palestine vào 15/5/1948. Tuy nhiên, bạo lực liên tiếp xảy ra trước thời điểm quyết định có hiệu lực.
Nhiều binh sĩ Anh đã thiệt mạng trong cuộc xung đột buộc chính phủ nước này quyết định tiếp tục duy trì sự hiện diện quân đội của mình tại Palestine. Ngoài ra, Anh hết sức tức giận khi Mỹ gây sức ép đòi cho phép người tị nạn Do Thái vào Palestine. Mỹ đã tỏ thái độ công khai ủng hộ chủ nghĩa phục quốc Do Thái.
Cả phía Ảrập và Do Thái đều ráo riết chuẩn bị lực lượng đối phó nhau. Tháng 12/1947 quân đội Do Thái đã thực hiện các chiến dịch ""quét sạch"" làng mạc của người Palestine.

1948-Thành lập nhà nước Israel
Nhà nước Israel, nhà nước Do Thái đầu tiên sau gần 2.000 năm, đã chính thức tuyên bố độc lập vào 16h (giờ GMT) ngày 14/5/1948 tại Tel Aviv. Bản tuyên ngôn trên có hiệu lực ngay ngày hôm sau khi số binh sĩ Anh cuối cùng rút khỏi. Còn người Palestine gọi ngày 15/5 là al-Nakba, nghĩa là thảm hoạ.
Trong năm 1948, lực lượng vũ trang Do Thái và Ảrập liên tục phát động các cuộc tấn công nhằm vào mục tiêu của nhau. Quân đội Do Thái, do nhóm vũ trang Irgun và Lehi đóng vai trò nòng cốt, đã giành được nhiều thắng lợi, chiếm cứ được thêm nhiều vùng đất mở rộng lãnh thổ nhà nước Do Thái, đồng thời chiếm cứ nhiều lãnh thổ của Palestine.
Ngày 9/4/1948, các tay súng Irgun và Lehi đã thảm sát rất nhiều người Palestine tại làng Deir Yassin, gần Jerusalem. Hàng trăm nghìn người Ảrập đã phải trốn chạy sang Lebanon, Ai Cập và khu vực Bờ Tây hiện nay.
Quân đội Do Thái đã liên tiếp giành được chiến thắng tại Negev, Galilee, Tây Jerusalem và phần lớn đồng bằng duyên hải.
Chỉ một ngày sau khi Israel tuyên bố độc lập, quân đội 5 quốc gia là Jordan, Ai Cập, Lebanon, Syria và Iraq đã phát động tấn công Israel, song đều bị đẩy lùi. Trong giai đoạn đình chiến, lãnh thổ của Israel đã trải rộng gần phủ kín Palestine dưới thời Uỷ trị của Anh trước đó.
Ai Cập giữ Dải Gaza. Trong khi đó, Jordan thôn tính khu vực xung quanh Đông Jerusalem và dải đất Bờ Tây hiện nay. Tất cả các khu vực trên chiếm khoảng 25% tổng diện tích Palestine dưới sự uỷ trị của Anh.
1964 - Thành lập Tổ chức giải phóng Palestine (PLO)
Kể từ năm 1948, các nước Ảrập lân bang liên tục cạnh tranh nhau trong thế dẫn đầu các cuộc phản đối sự ra đời của nhà nước Israel. Chính điều đó đã biến chính người Palestine trở thành ""kẻ bàng quan"".
Tháng 1/1964, các chính phủ Ảrập đã chính thức bỏ phiếu thông qua kế hoạch thành lập Tổ chức giải phóng Palestine (PLO). Tổ chức của người Palestine này được tạo ra dưới sự kiểm soát chặt chẽ của các nước trên.
Tuy nhiên, người Palestine muốn một tổ chức độc lập thực sự. Ông Yasser Arafat được tín nhiệm bầu giữ chức chủ tịch PLO năm 1969. Tổ chức Hồi giáo vũ trang Fatah của ông Arafat (được thành lập bí mật năm 1964) đã được quyền tiến hành các chiến dịch quân sự tấn công Israel.

Lực lượng Fatah đã giáng nhiều đòn nặng nề cho quân đội nhà nước Do Thái tại Karameh ở Jordan năm 1968.
Chiến tranh 1967
Căng thẳng ngày càng gia tăng giữa Israel và các nước Ảrập đã leo thang thành một cuộc chiến kéo dài 6 ngày, bắt đầu từ 5/6 và kết thúc vào 11/6/1967. Cuộc xung đột leo thang này đã hoàn toàn làm thay đổi cục diện xung đột Trung Đông.
Quân đội Israel đã chiếm đóng Gaza và vùng Sinai kéo dài từ miền Nam Ai Cập đến miền Bắc cao nguyên Golan của Syria. Ngoài ra, Israel còn đẩy lùi được lực lượng vũ trang Jordan ra khỏi Bờ Tây và Đông Jerusalem.
Không lực Ai Cập bị tê liệt hoàn toàn vào ngay ngày đầu tiên của cuộc chiến khi máy bay Israel tập trung ném bom phủ đầu. Lãnh thổ Israel chiếm được đã gấp đôi diện tích nhà nước Do Thái. Chiến thắng trên đã mở ra một kỷ nguyên mới và tăng cường lòng tin và lạc quan của Israel và các thế lực ủng hộ.
Hội đồng Bảo an LHQ đã ban hành nghị quyết 242 nhấn mạnh thái độ "không thể công nhận các vùng lãnh thổ chiếm được thông qua kênh chiến tranh" và kêu gọi "Israel rút quân đội khỏi các vùng đất chiếm đóng" trong cuộc xung đột gần đây.
Theo thống kê của LHQ, cuộc xung đột đã buộc khoảng 500.000 người Palestine phải di tản sang Ai Cập, Syria, Lebanon và Jordan.
1973 - Chiến tranh Yom Kippur
Không thể lấy lại các vùng đất mất trong cuộc xung đột năm 1967 thông qua kênh ngoại giao, Ai Cập và Syria đã phối hợp phát động tấn công tổng lực vào Israel đúng ngày Sám hối hay Yom Kippur. Cuộc chiến này được gọi là chiến tranh Ramadan.
Ban đầu, Ai Cập và Syria đã giành nhiều thắng lợi ở Sinai và cao nguyên Golan. Mặc dù đã chiếm đóng được nhiều khu vực tại cao nguyên Golan, quân đội Israel sau đó buộc phải từ bỏ. Tại Ai Cập, binh sĩ nhà nước Do Thái đã tái chiếm được một vùng lãnh thổ lớn và tiến dần tới mặt tây của Kênh đào Suez.
Trong giai đoạn này, Mỹ, LHQ và Liên Xô đã quyết định can thiệp ngoại giao nhằm tiến tới hiệp định ngừng bắn giữa các bên tham chiến. Kế quả thống kê cho thấy, Ai Cập và Syria đã mất tổng công 8.500 quân. Trong khi đó, riêng Israel cũng mất khoảng 6.000 quân.

Cuộc chiến này đã đẩy Israel ngày càng phụ thuộc hơn vào các nguồn tài trợ quân sự, kinh tế và ngoại giao của Mỹ. Ngay sau cuộc chiến, Ảrập Xêút đã quyết định áp đặt lệnh cấm vận dầu mỏ đối với các quốc gia đã từng ủng hộ Israel. Lệnh cấm vận dầu mỏ đã khiến giá dầu thế giới tăng đột biến vào kéo dài đến tận tháng 3/1974. Tháng 10/1973, Hội đồng Bảo an LHQ đã thông qua nghị quyết 338 yêu cầu các bên tham chiến ngừng bắn và chấm dứt ngay lập tức các hoạt động quân sự, đồng thời bắt đầu các cuộc đàm phán giữa các bên quan tâm nhằm đưa ra giải pháp kiến tạo hoà bình dài lâu tại Trung Đông.
1974 - Ông Arafat xuất hiện lần đầu tại LHQ
Trong những năm 70, dưới sự lãnh đạo của ông Yasser Arafat, các đơn vị PLO và nhiều nhóm vũ trang Palestine khác đã phát động hàng loạt vụ tấn công nhằm vào các mục tiêu của Israel và nhiều mục tiêu khác.
Tại Đại hội thể thao Olympic được tổ chức tại Munich năm 1972, 11 vận động viên Israel đã bị bắn chết.
Trong bối cảnh PLO tiếp tục theo đuổi cuộc chiến giải phóng hoàn toàn Palestine. Năm 1974, ông Arafat đã có bước nhảy vọt về ngoại giao khi tham gia vào LHQ thảo luận về giải pháp hoà bình Trung Đông.
Một năm sau đó, nhân viên Bộ Ngoại giao Mỹ Harold Saunders lần đầu tiên thừa nhận ""những lợi ích chính đáng của người Ảrập Palestine cần được đưa ra thảo thuận trong quá trình đàm phán hoà bình"".
1977 - Sự trỗi dậy của phe cánh hữu tại Israel
Các nhóm theo đường lối cứng rắn Irgun và Lehi có thể được coi là nhân tố quan trọng trong việc hình thành nhà nước Israel năm 1948. Tuy nhiên, chính đảng đại diện cho họ sau này là Herut (Likud) đã thất bại thảm hại trong cuộc bầu cử và mãi đến năm 1977 mới giành thắng lợi.
Kết quả bầu cử năm 1977 đã chấm dứt sự thống trị của Công đảng trên chính trường Israel. Tư tưởng Likud đã tập trung vào nỗ lực mở rộng chủ quyền của Israel, bao trùm toàn bộ nhà nước Palestine do Anh uỷ trị trước đó, đồng thời tuyên bố lãnh thổ Jordan là một bộ phận thuộc nhà nước ""Đại Israel"" trong thời kỳ kinh thánh.
Dưới sự lãnh đạo của cựu thủ lĩnh Irgun, Menachem Begin, Israel đã gia tăng các hoạt động định cư tại Bờ Tây và Dải Gaza. Bộ trưởng Nông nghiệp Israel Ariel Sharon được coi là người tiên phong với tư cách là Chủ tịch Uỷ ban định cư cho đến năm 1981.

1979 - Hiệp định hoà bình Israel - Ai Cập
Tổng thống Ai Cập Anwar Sadat đã có chuyến thăm lịch sử tới Israel và phát biểu trước nghị viện nước này tại Jerusalem vào ngày 19/11/1977.
Sadat đã trở thành nhà lãnh đạo Ảrập đầu tiên công nhận Israel, chỉ 4 năm sau cuộc chiến Yom Kippur tháng 10/1973. Quân đội Ai Cập và Syria đã phát động tấn công lực lượng vũ trang nhà nước Do Thái đang chiếm đóng tại Sinai và cao nguyên Golan. Cuộc chiến đã kết thúc sau khi LHQ ban hành nghị quyết 338 yêu cầu các bên tham chiến hợp tác thiết lập hoà bình lâu dài tại Trung Đông.

Ai Cập và Israel đã chính thức ký kết Hiệp định Camp David tháng 9/1978. Hiệp định này đã vạch cơ sở cho hoà bình Trung Đông, trong đó bao gồm cả khu vực tự trị giới hạn của người Palestine. Hiệp định hoà bình song phương giữa Ai Cập và Israel được ông Sadat và Thủ tướng Israel Menachem Begin chính thức ký kết vào 3/1979.
Bán đảo Sinai vốn bị Israel chiếm đóng từ cuộc chiến 1967 đã được trao trả cho Ai Cập. Các quốc gia Ảrập khác lập tức tẩy chay Ai Cập vì đã ký hiệp định riêng với Israel.
Ông Sadat bị các phần tử Hồi giáo trong quân đội ám sát năm 1981 trong buổi lễ kỷ niệm ngày giải phóng Ai Cập.
1982 - Israel tấn công Lebanon
Lực lượng quân đội Israel đã phát động chiến dịch quân sự quy mô lớn tấn công Lebanon vào mùa hè năm 1982. Chiến dịch ""Hoà bình cho Galilee"" nhằm quét sạch các căn cứ của lực lượng du kích Palestine đóng gần biên giới phía bắc Israel. Bộ trưởng Quốc phòng Ariel Sharon đã ra lệnh cho quân đội chặn mọi ngả đường tới Beirut và trục xuất PLO khỏi đất nước.
Cuộc tấn công bắt đầu ngày 6/6, chưa đầy 2 tháng sau khi quân đội Israel và thường dân nước này phải rời khỏi Sinai theo Hiệp định hoà bình năm 1979. Binh lính Israel đã tiến vào Beirut trong tháng 8/1982. Hiệp định ngừng bắn giữa Lebanon và israel đã buộc các tay súng PLO phải rời Lebanon và khiến các trại tị nạn của Palestine không có khả năng tự vệ.
Trong khi quân đội Israel bao vây Beirut, vào ngày 14/9 Bashir Gemayel, lãnh đạo nhóm vũ trang Christian Phalange đã bị thiệt mạng trong một vụ đánh bom ngay tại trụ sở ở Beirut. Ngay ngày hôm sau, quân đội Israel đã chiếm được Tây Beirut.
Từ 16-18/9, lực lượng Christian Phalange đã liên minh với Israel và phát động các chiến dịch tàn sát hành trăm người Palestine tại 2 trại tị nạn Sabra và Shatila. Ông Sharon đã phải từ chức khi cuộc điều tra do Israel tiến hành quyết định ông này đã không đưa ra hành động ngăn chặn vụ thảm sát được coi là tồi tệ nhất trong lịch sử Trung Đông trên.
1987 - Phong trào Intifada của Palestine
Cuộc nổi dậy rộng khắp của người Palestine - hay còn gọi chiến tranh ném đá intifada - chống lại sự chiếm đóng của quân đội nhà nước Do Thái bắt đầu bùng phát tại Gaza và nhanh chóng lan rộng khắp Bờ Tây.
Người Palestine phát động tổng đình công, tẩy chay các sản phẩm của Israel... Trong các cuộc bạo động, người biểu tình chủ yếu ném đá vào lực lượng quân đội Israel được trang bị tận răng. Chiến tranh Intifada đã thu hút được sự chú ý của cộng đồng quốc tế.
Lực lượng quốc phòng Israel đã nã đạn vào dòng người biểu tình Palestine. Ước tính cho đến năm 1993, có tới hơn 1.000 thường dân Palestine thiệt mạng trong các cuộc đụng độ.
1988 - PLO mở cánh cửa hướng tới hoà bình
Mặc dù nắm trong tay sức mạnh quân sự, Israel không thể dập tắt phong trào intifada bùng phát năm 1987. Đại bộ phận người Palestine sống tại các khu vực do Israel chiếm đóng đều tham gia phong trào này.
Đối với PLO - đóng đại bản doanh tại Tunis kể từ khi bị đẩy khỏi Lebanon năm 1982 - cuộc nổi dậy đã đe doạ nghiêm trọng tới vai trò của tổ chức này trong cuộc cách mạng của người Palestine nhằm lấy lại các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng và đẩy lùi được các khu định cư của người Do Thái.
Hội đồng dân tộc Palestine PLC (Chính phủ lưu vong của Palestine) đã triệu tập tại Algeria vào 11/1988 và bỏ phiếu thông qua giải pháp ""2 nhà nước"" dựa trên cơ sở Nghị quyết 181 của LHQ ban hành năm 1947. Ngoài ra, PLC còn tuyên bố từ bỏ các hoạt động bạo lực vào đề nghị tổ chức các cuộc đàm phán về các khu định cư lấy Nghị quyết 242 làm cơ sở. Nghị quyết này đã đề nghị Israel rút toàn bộ quân khỏi các khu vực chiếm đóng trong chiến tranh năm 1967.
Mỹ đã bắt đầu đối thoại với PLO. Trong khi đó, Israel vẫn coi PLO là một tổ chức khủng bố và không thể thương lượng. Tuy nhiên, Thủ tướng Israel Yitzhak Shamir đã đề xuất tổ chức bầu cử tại các khu vực chiếm đóng trước khi tiến hành đàm phán về hiệp định tự trị.


Trận chiến trên vòng cung Cuốc-xcơ

Trận chiến trên vòng cung Cuốc-xcơ
Trận đấu xe tăng vĩ đại nhất của chiến tranh
Cuộc tấn công cuối cùng của phát-xít Đức trên mặt trận phía Đông

Trong mùa đông và mùa xuân năm 1943, sau thất bại nặng nề ở Xta-lin-grát, với những thiệt hại không thể bù đắp nổi nhất là thế chủ động chiến lược đang bị mất dần, Hít-le và bộ chỉ huy của hắn đang cố tìm câu trả lời cho câu hỏi: phải làm gì để có thể đảo ngược tình thế?
Tháng Ba năm 1943, phát-xít Đức có trên mặt trận Xô - Đức 204 sư đoàn trong tổng số 298 sư đoàn. Điều đáng nói ở đây là, Bộ chỉ huy Hít-le đã phải đưa vào lục quân một số lượng đáng kể các sư đoàn không quân dã chiến, sư đoàn cảnh giới, sư đoàn dự bị và các sư đoàn “ngoại quốc” (68), mà sức chiến đấu đã sút kém rõ rệt. Tinh thần chiến đấu và trình độ huấn luyện của ngay cả các binh đoàn xe tăng cũng giảm sút.  Trong bản báo cáo ngày 9 tháng Ba năm 1943,  Thượng tướng Đức Gu-đe-ri-an, chuyên gia quân sự kinh nghiệm hàng đầu của Đức, thanh tra các lực lượng xe tăng Đức đã viết: “Tiếc rằng hiện giờ, chúng ta không còn một sư đoàn nào có đầy đủ sức chiến đấu”.
Tình hình không chỉ tồi ở mặt trận. Trong khi công nghiệp quốc phòng Liên Xô đã có những cố gắng phi thường trong sản xuất vũ khí cho chiến trường, nhất là xe tăng thì Hít-le cũng thúc giục các công trình sư, các nhà công nghiệp Đức tìm mọi cách trong thời hạn nhanh nhất chế tạo ra một loại vũ khí mới có thể làm xoay chuyển cục diện chiến trường Xô - Đức: các loại xe tăng hạng nặng Con báo và Con cọp, dù chưa thực sự hoàn thiện về thiết kế, bị thúc dục gấp rút sản xuất. Chính việc này đã làm giảm đi trông thấy sản lượng xe tăng của công nghiệp chiến tranh Đức. Thượng tướng Đức Gu-đe-ri-an viết tiếp: “Với những kế hoạch phát triển những loại xe tăng mới này, đã làm giảm đáng kể sản lượng xe tăng “Con báo IV” của ta, loại xe tăng Đức duy nhất thực sự hiệu quả cho đến nay ”. Trước khi diễn ra trận chiến Cuốc-xcơ một thời gian ngắn, Gu-đê-ri-an lại nói thêm về lính lái xe tăng Đức trên những chiếc xe tăng hạng nặng kiểu mới: “Họ vẫn chưa thực sự sẵn sàng cho chiến đấu”. Vào đầu năm 1943, Bộ chỉ huy Đức đã từng quyết định ngừng hẳn việc sản xuất Con báo IV để chuyển sang sản xuất 25 chiếc hạng nặng “Con Cọp” trong một tháng, nhưng sau đó việc Hít-le giao cho Gu-đe-ri-an quyền điều khiển công nghiệp xe tăng đã dừng ngay lập tức ý kiến đó.
Kế hoạch của Bộ chỉ huy Đức
Những cuộc tranh cãi trong Bộ chỉ huy Đức diễn ra giữa hai phe, về việc quân Đức phải làm gì trong mùa hè năm 1943:
Những người thực tế, trong đó có Gu-đê-ri-an và Man-sten, những chỉ huy có kinh nghiệm nhất của phát-xít Đức, và một số tướng lĩnh khác của Đức, cho rằng để có thể lấy lại được ưu thế trước đây, trong hoàn cảnh những cải thiện đáng kể tình hình của quân đội Liên Xô, chỉ có thể triệt để khai thác những ưu điểm của chỉ huy và binh lính Đức trong phòng ngự vận động, trong chiến thuật chỉ huy và chiến đấu; duy trì thế phòng ngự bằng hàng loạt những trận đánh nhỏ và trung bình, để dần dần làm suy yếu quân đội Liên Xô và tìm thời cơ đánh lớn để tìm lại thế chủ động chiến lược. Cốt lõi của chiến lược này là làm suy yếu một cách quyết định sức mạnh của cuộc tiến công của Hồng quân mà Bộ tư lệnh Đức dự đoán là sẽ vào khoảng mùa hè năm 1943, sau đó sẽ triển khai tấn công, giành thắng lợi và lấy lại thế tấn công chủ động chiến lược.
Nhóm những người lạc quan, cầm đầu là Tướng Zeitzler, tổng tham mưu trưởng quân đội Đức, cho rằng đồng ý là phải làm suy yếu toàn diện sức mạnh của quân đội Liên Xô như trên, ngoài ra hoàn toàn có thể tổ chức một chiến dịch chủ động tấn công lớn: trên hướng thành phố Cuốc-xcơ tập trung một lực lượng lớn nhiều xe tăng và chủ lực bộ đội Liên Xô đóng trên mỏm đất nhô về phía Đức. Thành phố này nằm ở điểm giữa Mát-xcơ-va và Biển Đen, nếu chiếm được thì sẽ tạo có được một bàn đạp tốt cho phép lại tiếp tục tấn công vu hồi Mát-xcơ-va từ phía nam. Điểm chốt của chiến dịch là tổ chức những cuộc tấn công lớn bằng xe tăng với chiến thuật chiến tranh chớp nhoáng kinh điển của quân đội Đức (Blitzkrieg), theo hai hướng Bắc và Nam vào hai bên sườn của mỏm đất nhô, cho phép chia cắt bao vây và tiêu diệt một bộ phận lớn quân đội Xô-viết ở đây. Chiến dịch được đặt tên mật là “Xi-ta-đen” (Thành trì).
Khi Hít-le thảo luận cùng với Bộ chỉ huy tối cao của hắn vào ngày 4 tháng Năm năm 1943, đúng hai tháng trước cuộc tấn công, thì có hai vấn đề lớn “nổi lên”:
Vấn đề lớn thứ nhất trong kế hoạch của Zeitzler, là theo kết quả trinh sát bằng máy bay, các bức không ảnh cho thấy tại khu vực này quân đội Liên Xô đã xây dựng một hệ thống phòng ngự nhiều tầng, sâu và trong tung thâm còn có rất nhiều xe tăng, có thể tập kích phản xung phong vào các mũi tấn công của xe tăng Đức bất cứ lúc nào. Trong trường hợp xe tăng Đức không chọc thủng được trận địa phòng ngự của đối phương và bị thiệt hại với số lượng lớn, thì thất bại của chiến dịch là khó tránh khỏi, như lo ngại của Gu-đê-ri-an.
Còn trong kế hoạch chiến lược của Gu-đê-ri-an, thì thiếu tính kiên quyết và mãnh liệt cần thiết để có thể thuyết phục được Hít-le.
Trong giai đoạn này, bản thân tinh thần của Hít-le cũng “dao động”, hắn cần những kế hoạch phi thực tế để tự huyền hoặc mình và của một số tướng lĩnh trong Bộ chỉ huy tối cao Đức. Chính vì thế, cuối cùng Hít-le đã lựa chọn phương án tiến hành chiến dịch “Thành trì”, nhưng để bớt những lo lắng trên, kế hoạch được thêm vào đó là chương trình gấp rút sản xuất số lượng lớn những xe tăng hạng nặng kiểu mới “Con cọp”, “Con báo”. Chiến dịch được hoãn lại, mà sau này mọi người đều  biết là hoãn hẳn hai tháng.
Ngày 13 tháng Ba, Bộ chỉ huy lục quân Đức đã ra bản mệnh lệnh tác chiến chiến do Hít-le ký, trong đó đề ra các chỉ thị về các hành động chiến đấu ở mặt trận phía Đông vào những tháng tới. Trong lệnh đó, có đề ra nhiệm vụ là sau khi kết thúc thời kỳ lầy lội của mùa xuân, chủ động tiến công các đơn vị bộ đội Liên Xô trước trên một số mặt trận, và nhờ đó bắt Hồng quân phải theo ý muốn của mình. Theo mệnh lệnh đó, Tập đoàn quân “Nam” dưới sự chỉ huy của Man-sten có nhiệm vụ vào giữa tháng Tư, hình thành một cánh quân xe tăng mạnh ở phía bắc Khác-cốp, còn cụm Tập đoàn quân “Trung tâm” do Cơ-luy-gơ chỉ huy, có nhiệm vụ tập trung một cánh quân xung kích ở phía Nam Ô-ri-ôn. Cả hai cánh quân đó phải từ hai phía đánh lại theo hướng chung đến Cuốc-xcơ để bao vây và tiêu diệt bộ đội Liên Xô đóng trong vòng cung Cuốc-xcơ.
Trong mệnh lệnh tác chiến số 6 do Hít-le ký ngày 15 tháng Tư năm 1942 có đoạn:
“Tôi đã quyết định, hễ điều kiện thời tiết cho phép, tiến hành cuộc tấn công “Thành trì”, cuộc tiến công đầu tiên trong năm nay. Cuộc tiến công này có một ý nghĩa quyết định. Cần phải giành được thắng lợi nhanh chóng và hoàn toàn. Cuộc tiến công này phải đem lại quyền chủ động cho chúng ta trong mùa xuân và mùa hè năm nay… Mỗi một cán bộ chỉ huy, mỗi một binh sỹ đều phải thấy triệt để ý nghĩa quyết định của cuộc tấn công này ”.
Để thực hiện kế hoạch, vấn đề cơ bản của Bộ chỉ huy Đức là bù đắp những tổn thất về người và khí tài để thành lập những cánh quân mạnh đủ sức để tấn công. Một cuộc tổng động viên được đẩy mạnh từ giữa tháng Giêng năm 1943, thậm chí cả những “ông già” 50 tuổi cũng bị gọi vào quân đội. Vào mùa hè năm 1943, quân số quân đội Đức tại mặt trận phía đông đã là 4,8 triệu quân, chiếm 71% quân tác chiến của quân đội Đức. Ngoài ra, quân đội các nước chư hầu của phát-xít Đức cũng có 525.000 quân. Trên mặt trận Xô - Đức lúc này phía Đức có 232 sư đoàn, trên 54.000 pháo và súng cối, trên 5.800 xe tăng và pháo tấn công, gần 3000 máy bay và 277 tàu chiến. Như vậy so với mùa thu năm 1942, là thời điểm trước trận Xta-lin-grát, thì quân đội Đức vẫn chưa đạt được mức cao nhất đó, mặc dù những binh đoàn lớn đã được rút từ phía tây và chiến trường bắc Phi (Mặt trận thứ hai vẫn chưa được mở). Bộ chỉ huy tối cao Đức đặc biệt chú trọng phục hồi sức mạnh của lực lượng tăng - thiết giáp – cơ giới khét tiếng trên chiến trường châu Âu bởi chiến thuật đánh nhanh thắng nhanh đã bị què quặt nhiều trên chiến trường nước Nga. Năm 1943, sản lượng xe tăng của những Đức phát-xít đã tăng gấp đôi so với năm 1942, quân đội Đức đang được cấp tốc trang bị các loại hạng nặng “Cọp”, ”Báo”, pháo tự hành tiến công “Phéc-đi-năng” mới. Đồng thời, “Lúp-oa-phơ” (lực lượng không quân Quốc xã) cũng nhận được từ nền công nghiệp chiến tranh các loại máy bay chiến đấu mới: “Phốc-cơ Un-phơ 190A” và “Hen-ken 129”.



Đặc điểm của Chiến dịch “Thành trì” là việc sử dụng ồ ạt các phương tiện kỹ thuật mới. Bộ chỉ huy Đức đã điều động những binh đoàn thiện chiến nhất: 50 sư đoàn tinh nhuệ, trong đó có 16 sư đoàn xe tăng và mô-tơ hoá, tập trung thành những cánh quân xung kích mạnh ở phía Bắc và Nam của mỏm đất nhô Cuốc-xcơ. Lực lượng trên hướng Cuốc-xcơ của Đức được tập trung so với tổng số lực lượng trên mặt trận Xô - Đức chiếm tới hơn 17% số sư đoàn bộ binh, gần 70% sư đoàn xe tăng và 30% số sư đoàn mô-tơ hoá. Số quân của Đức ở đây là vào khoảng 900.000 quân, 10.000 pháo và súng cối, 2.700 xe tăng ; tất cả được tập trung trên một khu vực 600 km, chiếm 14% tổng chiều dài mặt trận. Về không quân, bộ chỉ huy Đức có ở đây trên 2000 máy bay, chiếm 60% tổng số máy bay trên mặt trận phía đông. Trong các sư đoàn xe tăng Đức ở đây, có các sư đoàn đáng chú ý: “Đại Đức”, sư đoàn xe tăng SS Leibstandarte cận vệ riêng của Hít-le mang tên “A-đôn-phơ Hít-le”, sư đoàn xe tăng SS “Đầu lâu”, và Sư đoàn xe tăng “Đế chế”.
Tập trung nhiều lực lượng mạnh, lại tấn công vào mùa hè, nên Hít-le và Bộ chỉ huy Đức hết sức tự tin vào thắng lợi, hy vọng kế hoạch “Xi-ta-đen” sẽ là một trận “Xta-lin-grát Đức”!

Kế hoạch của Bộ tư lệnh tối cao Xô-viết
Nhờ có những hoạt động hữu hiệu của mạng lưới tình báo chiến lược và chiến dịch, như lưới tình báo “Lucy” hoạt động trong cơ quan đầu não Quốc xã tại Thụy Sỹ, Bộ tư lệnh tối cao Xô-viết đã biết và chủ động chuẩn bị cho kế hoạch phản công làm thất bại chiến dịch “Thành trì” của phát-xít Đức. Họ đã nhận được bản kế hoạch chi tiết và thậm chí tình báo quân sự Xô-viết còn tiến hành kiểm tra được tính xác thực của tài liệu. Thậm chí, một trong những chiếc xe tăng “cọp” mới nhất khi di chuyển từ Bắc Phi đến Nga, còn chưa được sơn lại từ màu cát sang màu ngụy trang mới, đã bị bắt sống để nghiên cứu. Kết quả là một loạt những cải tiến pháo chống tăng và pháo tự hành chống tăng đã được tiến hành… Sản xuất xe tăng được đẩy mạnh ngay trong nửa đầu năm 1943. Đồng thời là những nỗ lực to lớn của nền công nghiệp sản xuất và ngành hậu cần Hồng quân để tích luỹ đạn dược, nhiên liệu cho chiến dịch.
Mục tiêu của chiến cuộc mùa hè năm 1943 của Bộ tư lệnh tối cao Xô-viết không chỉ là làm thất bại chiến dịch “Thành trì” của Đức, mà còn là nhân việc đánh tan một lực lượng lớn của Đức, giành thế chủ động tiến công trên tất cả các mặt trận, mà trước hết là tiêu diệt các Cụm Tập đoàn quân “Trung tâm” và “Nam” của Đức, giải phóng vùng tả ngạn U-crai-na với cơ sở than đá và luyện kim ở Đôn-bát, các vùng Đông Bê-la-rút-xi-a, đẩy quân Đức về bên kia tuyến sông Xô-giơ, trung lưu và hạ lưu sông Đnépr.
Hồng quân chuẩn bị tám tuyến phòng ngự liên tiếp, nhiều tầng theo chiều sâu, và trong tung thâm là các đơn vị xe tăng cơ động mạnh để trong trường hợp xấu nhất, quân Đức chọc thủng được phòng tuyến vẫn có thể phản kích vào các mũi tấn công đó.
Kế hoạch của Bộ chỉ huy Xô-viết là rất đơn giản. Đối mặt với các mũi tấn công của phát-xít Đức tổ chức nhiều tuyến phòng ngự nhiều tầng liên hoàn, trong các công sự được xây dựng kiên cố, trang bị những vũ khí chống tăng mạnh. Sau khi đánh tê liệt các binh đoàn phát-xít đã bị mệt mỏi thì các binh đoàn xe tăng Xô-viết lớn sẽ được tung vào trận để phản kích đem lại bước ngoặt cho trận đánh. Một đặc điểm nữa của trận Cuốc-xcơ, là lần đầu tiên trong lịch sử quân sự, Hồng quân sẽ tiến hành một trận đánh phản chuẩn bị cực lớn. Chúng ta sẽ đề cập tới trận phản chuẩn bị này sau.
Phải nói rằng, thời gian ngừng bắn trong hai tháng đã được cả hai bên tận dụng triệt để để thực hiện mục tiêu của mình. Về phía Hồng quân, các Phương diện quân đã được chỉ thị lợi dụng thời gian ngừng bắn để củng cố các vị trí chiếm giữ, luyện tập về phòng ngự chống tăng… Đối với quân đội Xô-viết, bây giờ không còn là năm 1941 người chiến sỹ phải mang cả chai xăng (cocktail Mô-lô-tốp) hay lựu đạn chống tăng để lao vào xích xe tăng nữa…
Lực lượng của quân đội Xô-viết trong vùng mỏm đất nhô Cuốc-xcơ gồm chủ yếu hai Phương diện quân: Phương diện quân Trung ương của K.K. Rô-cô-xốp-xki (phía Bắc) và Phương diện quân Vô-rô-ne-giơ của N.Ph.Va-tu-tin (phía Nam). Đến tháng Tư, theo đề nghị của Bộ tổng tham mưu Xô-viết, Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh tối cao đã tiến hành bổ sung thêm cho các hướng Ô-ri-ôn, Cuốc-xcơ, Khác-cốp, Đôn-bát. Ngoài ra Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh tối cao còn thành lập thêm một Phương diện quân Dự bị mạnh: Phương diện quân Xtép. Cần ghi nhận những nỗ lực phi thường của lực lượng hậu cần Hồng quân, đã làm hết sức mình để chuẩn bị cho các đơn vị chiến đấu một lượng lớn đạn dược, vũ khí, nhu yếu phẩm khổng lồ. Cũng phải thừa nhận trình độ nghi binh, đánh lừa quân Đức của Hồng quân trong việc giấu kín ý đồ chiến dịch, chuẩn bị một trận địa tầm cỡ như vậy cũng như tập trung những lực lượng dự bị lớn và mạnh mà Bộ tư lệnh Đức không mảy may nghi ngờ về việc kế hoạch của họ đã bị lộ hoàn toàn ngay từ đầu.
Bên trong Bộ tư lệnh tối cao Xô-viết cũng có các đắn đo giữa hai chiều ý kiến. Một số ý kiến cho rằng, nên chủ động tấn công vào quân Đức đang chưa kịp chuẩn bị, ví dụ như ý kiến của K.K. Rô-cô-xốp-xki (Tư lệnh Phương diện quân Trung ương) cho rằng nên tấn công dùng lực lượng hợp nhất của các Phương diện quân Tây và Bri-an-xcơ để tấn công tiêu diệt cánh quân Đức ở Ô-ri-ôn khi chúng chưa sẵn sàng tấn công. N.Ph. Va-tu-tin (Tư lệnh Phương diện quân Vô-rô-ne-giơ) đề nghị Tổng tư lệnh tối cao mở trận tiến công phủ đầu vào cụm quân địch ở Ben-gô-rốt và Khác-cốp. N.X. Khơ-rút-xốp, ủy viên Hội đồng quân sự Phương diện quân cũng ủng hộ hoàn toàn đề nghị đó. Còn những người khác như G.K. Giu-cốp, A.M.Va-xi-lép-xki, A.I. An-tô-nốp và các cán bộ khác của Bộ Tổng tham mưu thì thống nhất quan điểm chuẩn bị cho một thế trận phòng ngự chủ động và tích cực, sau khi đánh tiêu hao và làm mệt mỏi các binh đoàn xe tăng của Đức sẽ tiến hành phản công. Trước khi quân Đức tấn công sẽ tiến hành một đòn đánh phản chuẩn bị bằng tất cả pháo binh và không quân của các Phương diện quân, có hỗ trợ thêm bằng lực lượng Dự bị của Đại bản doanh. Thời điểm và vị trí các mục tiêu để đánh đòn phản chuẩn bị sẽ căn cứ vào kết quả trinh sát mặt đất và trên không, kết hợp với các tin tức quân báo và tình báo thu thập được. Tổng tư lệnh tối cao Xta-lin lúc đầu cũng do dự vì lo các đơn vị Xô-viết không chống được đòn xung kích của kẻ địch (và cũng chưa tin rằng nếu tấn công trước thì liệu các đơn vị Xô-viết có tiêu diệt được quân địch hay không), nhưng sự tự tin của các tướng lĩnh Xô-viết vào khả năng tác chiến của Hồng quân đã thuyết phục được Ông…
“Chuyển bộ đội ta sang tiến công trong những ngày sắp tới nhằm đi trước quân địch, theo tôi là không có lợi. Tốt hơn là chúng ta làm mệt mỏi và tiêu hao địch trên tuyến phòng ngự của ta, tiêu diệt các xe tăng của chúng rồi sau đó, khi đưa thêm lực lượng bổ sung dự bị sung sức vào, chúng ta sẽ chuyển sang tổng tiến công để đập tan hoàn toàn cánh quân chủ yếu của địch ” (G.K. Giu-cốp - Nhớ lại và Suy nghĩ).
Chuẩn bị cho việc tiếp đón các đợt tấn công của quân Đức, Hồng quân đã chuẩn bị một thế trận phòng ngự chống tăng khổng lồ, chưa từng thấy, trên một chiều sâu mặt trận từ 200 đến 300 km. Tổng số quân của Hồng quân trong khu vực cung sông Cuốc-xcơ là vào khoảng 1,3 triệu người  với 3.600 chiếc xe tăng, 20.000 khẩu pháo, trong đó có tới 6.000 khẩu pháo chống tăng 76mm loại mới. Riêng trên khu vực này Bộ chỉ huy Xô-viết có 2.400 máy bay chiến đấu. Như vậy là ở đây tập trung tới 1/5 quân số bộ binh Hồng quân,  1/3 số xe tăng và ¼ tổng số máy bay. Các đơn vị đã đặt một số lượng mìn dày đặc, mật độ lên đến 3.400 quả trên một km chính diện mặt trận, một nửa là mìn chống tăng và một nửa là mìn chống bộ binh. Hơn 300.000 dân công ngày đêm đào được hàng ngàn km hào chống tăng, đặt các cự mã cản xe tăng. Các đơn vị pháo chống tăng Xô-viết được tổ chức theo đội cứ 10 khẩu pháo một đội dưới sự chỉ huy của một người, xác định mỗi lần ngắm bắn chỉ bắn vào một mục tiêu! Trình độ ngụy trang của các đơn vị Xô-viết cũng rất tuyệt vời, thậm chí sau này lính tăng Đức khai rằng khi các khẩu đội pháo chống tăng Xô-viết khai hoả vào xe tăng Đức, lính tăng Đức cũng chẳng nhìn thấy gì ngoài trận địa mìn chống tăng! Để giữ tuyệt đối bí mật kế hoạch, các đơn vị không quân Xô-viết đã án binh bất động, hoạt động chỉ bó hẹp trong các nhiệm vụ trinh sát, và chỉ tấn công khi cuộc tấn công của xe tăng Đức bắt đầu. Hồng quân đã sẵn sàng!
Trận chiến đấu ở vòng cung Cuốc-xcơ
Theo các kết quả trinh sát bằng mắt, bằng khí tài, bằng bắt tù binh để khai thác Bộ tư lệnh Xô-viết đã xác định được chính xác ngày tấn công của các đơn vị quân Đức là ngày 4 tháng Bảy, khoảng 5 giờ sáng. Và thế là, đòn đánh phản chuẩn bị được tiến hành. Vào lúc 2 giờ 20 phút sáng ngày 4 tháng Bảy năm 1943, tất cả các lực lượng pháo binh và không quân ném bom của Hồng quân trong khu vực Cuốc-xcơ tham gia bản “hợp xướng” vĩ đại nhất trong lịch sử. Tất cả các đơn vị Đức đã vào tuyến xuất phát hoàn toàn tê liệt, bị thiệt hại nặng, thông tin liên lạc bị cắt đứt. Chỉ sau khoảng 20 đến 30 phút pháo binh Đức mới cố gắng lên tiếng bằng một số đại đội pháo lẻ nhưng không thể lại được đành phải câm ngay.
Lúc 5 giờ 30 phút sáng, cuộc tấn công của quân Đức bắt đầu, tổ chức của cuộc tấn công không chặt chẽ và không đồng loạt đã nói lên thiệt hại nghiêm trọng của đòn phản chuẩn bị của pháo binh và không quân Xô-viết gây ra.
Bắt đầu trận không chiến vĩ đại trên bầu trời Cuốc-xcơ. Những chiếc Stu-ka Ju-87 (Máy bay cường kích ném bom bổ nhào) Đức thọc sâu tập kích vào những đơn vị xe tăng Xô-viết. Ngược lại những chiếc IL-2 Stur-mo-vik cũng tiến lên đánh vào đầu xe tăng Đức. Trên cao nữa là quay cuồng trận không chiến giữa một bên là Mét-xe-xmít, Phốc-cơ Un-phơ, Hen-ken, một bên là LA-5, Yak, Côbra… vừa quần nhau vừa tìm cách diệt máy bay ném bom và cường kích đối phương. Dưới mặt đất là những đợt tấn công không ngớt của xe tăng Đức vào các vị trí của hai Phương diện quân Trung ương và Vô-rô-ne-giơ. Đồng thời, cuộc đấu pháo của hai bên vẫn tiếp tục, ưu thế có thuộc về phía Liên Xô vì rất nhiều trận địa pháo của phát-xít Đức bị thiệt hại nặng sau đòn phản chuẩn bị.
Ngày tấn công đầu tiên, các lực lượng xe tăng Đức tấn công vào đội hình của Phương diện quân Trung ương vấp quá đau, bị thiệt hại nặng đành rút lui. Đến ngày hôm sau ở khu vực này lại tiếp tục diễn ra 7 đợt tấn công, và thu được rất ít kết quả. Các đơn vị Xô-viết phòng ngự như không có một sức mạnh nào nhổ được họ ra khỏi vị trí. Chỉ đến cuối ngày, xe tăng Đức mới tiến được từ 3 đến 6 km trên hướng Ôn-khô-vát-ca. Trong ngày đầu tiên này, quân Đức mất khoảng 200 xe tăng và 25.000 quân lính ở đây.
Ngày 6 tháng Bảy, sư đoàn xe tăng 2 và quân đoàn xe tăng 19 được đưa vào phản kích, cùng với Tập đoàn quân 13 đánh bật xe tăng Đức về điểm xuất phát, khôi phục trận địa phòng ngự của Tập đoàn quân 13.
Tại khu vực của Phương diện quân Vô-rô-ne-giơ chiến sự diễn ra ác liệt hơn nhiều. 16 giờ 40 phút ngày 4 tháng Bảy, quân Đức dưới sự chỉ huy của Thống chế Man-sten mới bắt đầu tiến công vào khu vực phòng ngự của Phương diện quân, nhưng mang tính chất trinh sát chiến đấu. Sang ngày 5 tháng Bảy, cuộc tấn công mới thực sự bắt đầu, có ít nhất 450 xe tăng tham gia tấn công. Đợt tấn công thứ nhất bị đẩy lùi. Chiều ngày hôm đó, sau khi tung các xe tăng “Cọp” vào trận, quân Đức đã đẩy lùi được các sư đoàn bộ binh cận vệ 52 (Sư đoàn trưởng Đại tá cận vệ I.M. Nhê-cra-xốp), chiếm được các khu dân cư: Bê-rê-dốp, Grê-mu-chi, Bư-cô-vô, Cô-dơ-ma, Đê-mi-a-nốp-ca, Vô-dơ-nê-xen-xki. Trong khu vực bên cạnh của Sư đoàn bộ binh cận vệ 67 (Sư đoàn trưởng Đại tá cận vệ A.I. Bắc-xốp) cũng bị quân Đức đánh mạnh, phải bỏ thị trấn Chéc-ca-xcôi-ê, rút về Cra-xnưi Pô-chi-nốc. Qua một ngày chiến đấu, quân phát xít Đức đã bị những thiệt hại rất lớn nhưng Phương diện quân Vô-rô-ne-giơ cũng mất đến 60 xe tăng, 78 máy bay và một bộ phận quân số đáng kể.
Về sau mới xác định được số lượng xe tăng đối diện với Phương diện quân Trung ương là vào khoảng 6 sư đoàn (1200 chiếc xe tăng), còn tấn công vào Phương diện quân Vô-rô-ne-giơ là 9 sư đoàn (1500 xe tăng). Chính vì lẽ đó mà ở phía bắc quân Đức không thể tiến được xa, còn phía Nam thì đã gây được khó khăn rất lớn cho bộ đội Xô-viết.
“Từ sáng ngày 7-7, quân giặc lại bắt đầu tiến công quyết hệt. Trên bầu trời và trên mặt đất, không lúc nào ngớt tiếng rền của trận chiến đấu, tiếng nghiền của xích xe tăng và tiếng nổ ầm ầm của máy.
Các đơn vị Phương diện quân Vô-rô-ne-giơ được sự yểm hộ mạnh mẽ của không quân đã không để cho địch chọc thủng dải phòng ngự thứ 2, tuy vậy ở một đôi chỗ, chúng đã lọt qua.
Lúc đó bộ tư lệnh phương diện quân liền cho các quân đoàn xe tăng 2 và 5, cả một vài sư đoàn bộ binh và đơn vị pháo binh rút từ các hướng khác bước vào chiến đấu trong những khu vực bị uy hiếp đó.
Trong 2 ngày, địch đã mất ít nhất 200 xe tăng và nhiều kỹ thuật khác. Các đơn vị bộ binh địch cũng chỉ còn dưới một nửa quân số so với lúc đầu trận đánh. Ngày 10-7, sau khi tập trung các lực lượng cơ bản của chúng lại trên một khu vực hẹp hơn, quân địch liền tung lực lượng đó vào hướng Prô-khô-rốp-ca với ý định đè bẹp các đơn vị đã mất sức của ta ở đây. Ngày 11-7, trên hướng Prô-khô-rốp-ca cuộc chiến đấu ác liệt tiếp tục.
Đến chiều ngày 11-7 ở khu vực Phương diện quân Vô-rô-ne-giơ, cuộc chiến đấu đã bước vào giây phút hiểm nghèo.
Theo kế hoạch sắp đặt từ trước, Đại bản doanh lấy trong lực lượng dự bị của mình và chuyển tới vùng Prô-khô-rốp-ca tập đoàn quân bộ đội hợp thành cận vệ 5 và tập đoàn quân xe tăng 5 để đến sáng ngày 12-7 đưa vào chiến đấu. Tập đoàn quân xe tăng có đến 800 chiếc T-34 và pháo tự hành. Về tổng số xe tăng, trên hướng Ô-bôi-an và Prô-khô-rốp-ca, địch không kém ta, nhưng tinh thần chiến đấu của chúng thì đã rã rời sau các trận đánh trước đây với các đơn vị của tập đoàn quân cận vệ 6, tập đoàn quân xe tăng 1 và tập đoàn quân cận vệ 7 của ta.

Suốt ngày 12-7, trên mặt trận Vô-rô-ne-giơ đã diễn ra một trận đánh lớn nhất của xe tăng, pháo binh, bộ binh và không quân, mà đặc biệt ác liệt là trên hướng Prô-khô-rốp-ca.” (G.K. Giu-cốp - Nhớ lại và Suy nghĩ).
Ngày 12 tháng Bảy, sau một tuần tấn công với thiệt hại nặng nề cho cả hai bên, Tướng Đức Hoth, tư lệnh lực lượng Đức ở phía Nam vòng cung Cuốc-xcơ, quyết định tập trung tất cả số xe tăng còn lại của hắn, 600 chiếc, như một con bạc khát nước quăng những con bài cuối cùng lên chiếu bạc, đột kích sâu vào trận địa phòng ngự của Phương diện quân Vô-rô-ne-giơ, và chính những chiếc xe tăng này đã giáp chiến trong trận đấu xe tăng lớn nhất trong lịch sử với sự tham gia của 1.200 chiếc cả hai bên tại làng Prô-khô-rốp-ca. Hoth không biết rằng Bộ tư lệnh Xô-viết đã chuẩn bị sẵn để đón số xe tăng này bằng lực lượng của Tập đoàn quân xe tăng Cận vệ số 5, đang tiến hết tốc lực đến làng Prô-khô-rốp-ca. Ngay lập tức các xe tăng của cả hai bên xông vào nhau tham chiến, trong đó số lượng xe tăng hạng nặng và trung của Đức là trội hơn. Bất chấp mọi quy tắc chiến tranh, không hề giống một trận chiến lớn như Bô-rô-đi-nô hay Véc-đen, nhưng trên suốt chiều dài 35km của trận đánh đã diễn ra vô số trận đấu tăng nhỏ. Quân Đức mất hơn một nửa số xe tăng còn lại đó, còn số thiệt hại của Hồng quân còn nhiều hơn. Tuy vậy, trận đánh đã được quyết định. Hít-le ra lệnh ngừng Chiến dịch “Xi-ta-đen”. Chiến dịch “Xi-ta-đen” như vậy đã thất bại thảm hại. Với phía Đức, như vậy là chiến dịch đã kết thúc. Nhưng về phía Hồng quân, mọi việc mới chỉ bắt đầu.
Nhìn chung, cuộc tấn công của phát-xít Đức diễn ra trong không đầy một tuần và ngày 12 tháng Bảy đã kết thúc thất bại. Do sự kháng cự vô cùng kiên cường của quân đội Liên Xô, quân Đức đã phải dừng lại và sau đó rút lui, sau khi chỉ tiến được 10km ở hướng bắc và 35 km ở hướng nam. Quan trọng nhất, là phát-xít Đức đã không bao vây được quân đội Xô-viết ở vòng cung Cuốc-xcơ, hơn thế nữa sau chiến đấu vài ngày, được sự hỗ trợ nhanh chóng của Đại bản doanh bằng các lực lượng dự bị, thế trận của quân đội Xô-viết còn vững mạnh hơn. Kết quả chủ yếu của các trận đánh phòng ngự làm thiệt hại một số lượng lớn xe tăng của Đức, và chính vì thế đem lại cho Hồng quân ưu thế hơn hẳn về binh chủng xe tăng làm tiền đề cho các hoạt động phản công của Hồng quân trong chiến dịch Cu-tu-dốp. Việc sử dụng khéo léo xe tăng và pháo tự hành trong phòng ngự chống tăng khiến phòng ngự chống tăng được vững chắc. Các binh đoàn có khả năng tổ chức các điểm tựa, các khu vực đề kháng chống tăng rất mạnh cũng như các lực lượng dự bị về chống tăng và dự bị về xe tăng để phản công đã đóng vai trong quan trọng trong chiến thắng Cuốc-xcơ.
Chiến dịch “Cu-tu-dốp” và “Ru-mi-an-txép”
Giai đoạn thứ hai của trận Cuốc-xcơ, bắt đầu từ ngày 12 tháng Bảy kéo dài đến ngày 23 tháng Tám.
Ngày 12 tháng Bảy, các Phương diện quân Bri-an-xcơ và Phương diện quân Tây tấn công vào cánh quân Đức trên hướng Ô-ri-ôn.
Ngày 15 tháng Bảy, Phương diện quân Trung ương cũng bước sang phản công.
Kết quả trận tấn công của ba Phương diện quân là đến ngày 18 tháng Tám đã thủ tiêu được bàn đạp của quân Đức tại Ô-ri-ôn, tiêu diệt cánh quân Đức ở đây.
Cuộc phản công của Hồng quân trên hướng Ben-gô-rốt – Khác-cốp bắt đầu ngày 3 tháng Tám, là một sự phối hợp tấn công của lực lượng ba Phương diện quân: Vô-rô-ne-giơ; Thảo nguyên và Phương diện quân Tây Nam trong khuôn khổ chiến dịch “Ru-mi-an-txép”. Ngày 5-8, bộ đội Phương diện quân Bri-an-xcơ giải phóng Ô-ri-ôn. Trong các trận chiến đấu để chiếm lại thành phố, đặc biệt xuất sắc có các sư đoàn 5, 129 và 380.
Tối ngày 5-8, Mát-xcơ-va bắn pháo hoa chào mừng các đơn vị vinh quang thuộc phương diện quân Bri-an-xcơ, miền Tây, Trung ương đã chiếm được Ô-ri-ôn và bộ đội thuộc Phương diện quân Xtép và Vô-gô-ne-giơ đã lấy lại được Ben-gô-rốt. Đó là những chùm pháo hoa đầu tiên trong cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại để chào mừng chiến thắng vẻ vang của các đơn vị Xô-viết.
Do triển khai tiến công thắng lợi trên hướng Khác-cốp, nên ngày 6 tháng Tám, Phương diện quân Tây – Nam được Đại bản doanh giao cho nhiệm vụ đánh tiếp một đòn chủ yếu về phía Nam, hiệp đồng với Phương diện quân Nam để tiêu diệt lực lượng quân Đức ở Đôn-bát, đánh chiếm Goóc-lốp-ca và Xta-li-nô (Đô-nét-xcơ). G.K. Giu-cốp đảm nhận phối hợp hành động giữa hai Phương diện quân Vô-rô-ne-giơ và Thảo nguyên. A.M.Va-xi-lép-xki được giao phối hợp hành động giữa hai Phương diện quân Tây – Nam và Nam.
Ngày 23 tháng Tám, Hồng quân đã chiếm Khác-cốp, đánh dấu sự kết thúc của trận chiến đấu vĩ đại nhất của cuộc Chiến tranh Giữ nước vĩ đại. Các đơn vị xuất sắc trong các trận chiến đấu để chiếm lại Khác-cốp là các sư đoàn cận vệ 28, bộ binh 84, 116, 252 và 299 thuộc tập đoàn quân 53, các sư đoàn cận vệ 89 và 93, các sư đoàn bộ binh 183 và 375 thuộc tập đoàn quân 69, sư đoàn cận vệ 15 thuộc tập đoàn quân cận vệ 7. Tất cả các sư đoàn đó đều được tặng danh hiệu vinh dự: Sư đoàn Khác-cốp.

Kết quả của trận Cuốc-xcơ đã được Nguyên soái G.K. Giu-cốp ghi lại trong hồi ký Nhớ lại và Suy nghĩ của mình:
“Sau 50 ngày đêm đã diễn ra cuộc chiến đấu vĩ đại nhất của quân ta với quân phát-xít Đức. Nó kết thúc bằng thắng lợi của Quân đội Xô-viết đánh tan 30 sư đoàn Đức tinh nhuệ, trong đó có sư đoàn tăng. Trên phần nửa quân số của mấy chục sư đoàn này đã bị tiêu diệt.
Thiệt hại chung của giặc trong thời gian đó là trên 50 vạn tên, gần 1.500 xe tăng, trong đó phần lớn là xe tăng “cọp”, “báo”, 3.000 đại bác và súng cối và một số lớn máy bay. Đó là những thiệt hại mà bọn cầm đầu phát-xít không thể dùng một biện pháp tổng hợp nào bù vào được.
Chiến thắng vĩ đại của quân ta ở Cuốc-xcơ đã chỉ rõ sức mạnh ngày càng to lớn của Nhà nước Xô-viết và lực lượng vũ trang Xô-viết. Thắng lợi ngoài mặt trận cũng như ở hậu phương giành được là do sự nỗ lực của tất cả mọi người Xô-viết dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Trong các trận chiến đấu ở Cuốc-xcơ, bộ đội ta đã tỏ ra có tinh thần cực kì dũng cảm, chủ nghĩa anh hùng tập thể và trình độ nắm vững tài nghệ quân sự. Đảng Cộng sản và Chính phủ đánh giá cao lòng dũng cảm của quân đội và đã thưởng trên 10 vạn huân chương và huy chương cho các chiến sĩ, sĩ quan và tướng lĩnh, nhiều người đã được tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô.
Bóng ma của thảm họa không thể tránh khỏi đã hiện lên trước mắt nước Đức phát -xít.
Những thua thiệt lớn của quân Đức đã bắt bọn Hít-le trong mùa hè năm 1942 phải rút từ các mặt trận khác để ném vào chiến trường Xô - Đức 14 sư đoàn, buộc chúng phải tập trung phần lớn các nỗ lực của chúng ở đây, nhưng chính vì thế mà các mặt trận ở Ý và Pháp lại yếu đi.
Âm mưu địch giành quyền chủ động về chiến lược từ tay Bộ tư lệnh Xô-viết đã hoàn toàn phá sản và từ đó đến lúc hết chiến tranh, quân Đức bắt buộc chỉ có phòng ngự mà thôi. Điều đó chứng minh, nước Đức đã bị tiêu hao. Bây giờ không còn lực lượng nào có thể cứu chúng được. Vấn đề chỉ còn ở thời gian mà thôi. ”
Trận Cuốc-xcơ đã đánh dấu sự chấm dứt các giai đoạn rút lui và cầm cự của Hồng quân. Từ đây Hồng quân bước vào giai đoạn phản công liên tục giải phóng hoàn toàn đất nước và Trung và Nam Âu, để kết thúc chiến tranh tại Thủ đô Béc-lin của phát-xít Đức.

Trận Cuốc-xcơ cũng đã chứng minh sự tiến bộ của nghệ thuật quân sự của các cấp chỉ huy Hồng quân. Hơn nữa, chiến thắng đã chứng minh quân đội Xô-viết có thể tấn công thắng lợi cả trong mùa hè, chứ không phải chỉ có trong mùa đông như trước đây Hít-le đã tin tưởng và tuyên truyền như thế.
Các nhà sử học phương Tây nhiều người cố gắng chứng minh chiến thắng Cuốc-xcơ của Nhân dân và Quân đội Xô-viết là do sức mạnh vũ khí viện trợ của Anh, Mỹ. Nhưng đó là những chứng minh khá buồn cười, vì không gì thay thế được sức mạnh tổng hợp của quốc gia Xô-viết trong giai đoạn này. Sự lớn mạnh của nền công nghiệp quốc phòng Liên Xô lúc đó là câu trả lời hùng hồn nhất. Đọc những tài liệu lịch sử của các nước Phương Tây về lịch sử cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai, người ta thấy nổi lên những trận đánh ở Bắc Phi, những trận trên chiến trường nước I-ta-li-a, còn trận Cuốc-xcơ chỉ là một trận đánh con con. Thực tế, kể cả trận đổ bộ lớn nhất của quân Đồng Minh là trận Noóc-măng-đi cũng không thể so sánh được với trận Cuốc-xcơ. Một phép suy luận đơn giản, là đại đa số lực lượng của phát-xít Đức đã tập trung ở mặt trận Xô - Đức, còn phía tây thì chỉ còn lại một lực lượng nhỏ hơn nhiều. Do đó công việc của Đồng Minh trong giai đoạn mở mặt trận thứ hai tuy quan trọng nhưng không phải là quyết định. Công lao của Nhà nước và Nhân dân Xô-viết sẽ không bao giờ bị quên lãng.  
Tổng hợp từ:
- Nhớ lại và suy nghĩ – Nguyên soái G.K. Giu-cốp. (Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Hải Sa, Lê Bá Phán, Trần Anh Tuấn) NXB Quân đội nhân dân.
-  Sự nghiệp cả cuộc đời – A.M. Va-xi-lép-xki. (NXB Tiến Bộ, Mát-xcơ-va)
- Và các tài liệu khác.

Thứ Hai, 14 tháng 7, 2014

CHỦ QUYỀN LÃNH THỔ CỦA VIỆT NAM TRÊN VÙNG ĐẤT NAM BỘ-GS.TSKH Vũ Minh Giang

Đôi điều về cái gọi là Kampuchea Krom hay cái chúng muốn là toàn bộ miền nam Việt Nam phải trả về cho Campuchia.
Thứ nhất Phù Nam, Chiêm Thành, An Nam xưa kia là 3 quốc gia. Miền Nam không phải của Chiêm Thành hay Cham Pa, mà là nước Phù Nam Cổ, nhưng tính từ thời cuối nhà Minh, Mạc Cửu lập ấp thì vùng đất từ Kiên Giang, Cà Mau lên Vĩnh Long là thuộc đất của Mạc Cửu, sau đó mới giao lại cho nhà Nguyễn. Điều này có nghĩa người Campuchia không có quyền sở hữu vùng đất miền Tây Nam Bộ từ lâu lắm rồi, chứ không phải thời Pháp. Khu vực miền Trung và Tây Nguyên là đất của Chăm Pa ngày xưa, còn khu vực Nam Bộ là đất của Chân Lạp nhưng dân cư thưa thớt mà kinh tế và quyền hành lại nằm trong tay người Tàu. Sau này Chúa Nguyễn vào khai khẩn đất hoang mở rộng lãnh thổ bọn Tàu sợ quá nên viết đơn xin sát nhập vào Đằng Trong. Chúng ta sát nhập đất của Chăm Pa và Chân Lạp chứ không chiếm đất của Campuchia. Dân Cam thích biểu tình thì sang cả đại sứ quán Tàu Khựa mà biểu tình chính bọn đó dâng đất cho Chúa Nguyễn.
Thứ hai đất Nam Bộ vốn là của nước Phù Nam nhưng bị đế chế Khơ Me, tức tiền thân của Campuchia đi xâm lược của họ. Sau đó Việt Nam mở mang bờ cõi thì Cam lần lượt dâng tặng Việt Nam mình vùng đấy này để mình giúp tay hoàng tử của họ lên ngôi. Mặt khác đây cũng chẳng phải là đất của Cam và sự kiện này xảy ra từ thời lãnh thổ các quốc gia chưa được công nhận. Do đó, không ai có quyền đòi vùng đất này của ta trừ khi dân ở miền Nam muốn (mấy tay phản động chắc muốn về Mĩ chứ về Cam để ăn cám =)) )

Thứ ba: Căn cứ lịch sử và căn cứ luật pháp quốc tế, từ thế kỉ 17 vùng Nam Bộ đã là đất của Việt Nam.

Căn cứ lịch sử:

1. Vùng Nam Bộ thuộc nước Phù Nam cổ. Sau khi Phù Nam bị đế quốc Khmer thôn tính, vùng Nam bộ thuộc về Khmer. Tuy nhiên, do vương triều Khmer không đủ nhân lực vật lực, nên vùng đất đó để hoang, không có người ở và không có sắp đặt bộ máy quản lý. Về sau, trong quá trình hình thành và phân chia quyền lực của nước Chân Lạp (là hậu sinh của đế quốc Khmer sau sự sụp đổ của đế quốc này - đánh dấu bằng việc vương quốc Ayutthaya đánh chiếm Angkor), thì các vua Chân Lạp đã dâng nạp (vùng đất bỏ hoang mà họ không quản lý nổi) cho các chúa Nguyễn để nhận được sự bảo hộ của các chúa Nguyễn. Các chúa Nguyễn đã cho tiến hành khẩn hoang và áp đặt bộ máy quản lý trên các vùng đất này.
2. Căn cứ pháp lý:
a. Vùng Nam Bộ bị bỏ hoang dưới thời đế quốc Khmer hàng thế kỉ, sau đó đế quốc Khmer sụp đổ. Vương quốc Ayuthaya, khi xâm chiếm Angkor, không tiếp quản vùng đất Nam bộ. Như vậy Nam bộ trở thành vùng đất vô chủ (terra nullis) trong hơn 50 năm. Các chúa Nguyễn khi cho tiến hành khẩn hoang, không hề bị sự phản đối của chính quyền Chân Lạp.
b. Có các thỏa thuận pháp lý thể hiện sự dâng nạp của chính vương triều Chân Lạp cho các chúa Nguyễn VN trong các TK 17-18.
c. Thỏa thuận về phân chia địa giới hành chính giữa VN và Campuchia dưới sự bảo hộ của Pháp, nước đang bảo hộ cả 2 quốc gia trên từ TK 19.
Tóm lại Campuchia không có lý do gì để đòi miền Tây Nam Nộ là của họ. Thực tế trẻ trâu Cam muốn đòi lại tất cả vùng đất mà Đế chế Khơ-Me chiếm như trong hình cơ. Nếu căn cứ kiểu này thì nước Anh phải đòi cả nửa thế giới còn Việt Nam đòi cả ĐNA.
---------------------------------------------------------------------------------------
CHỦ QUYỀN LÃNH THỔ CỦA VIỆT NAM

                                                         TRÊN VÙNG ĐẤT NAM BỘ
GS.TSKH Vũ Minh Giang

Từ lâu Nam Bộ đã là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Vịêt Nam, nhưng do tính chất phức tạp của lịch sử nên cho đến nay vấn đề chủ quyền lãnh thổ (territorial sovereignty) vẫn còn có những nhận thức chưa thật đầy đủ. Trên cơ sở trình bày một cách hệ thống diễn biến lịch sử và phân tích những yếu tố khẳng định tính chất chính đáng, phù hợp với thông lệ quốc tế của quá trình thụ đắc lãnh thổ phía nam của dân tộc ta, bài viết này hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học và nâng cao thêm hiểu biết về chủ quyền của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ.
Mặc dù những vướng mắc về biên giới giữa Việt Nam và Campuchia nhiều khi là những vấn đề cụ thể liên quan tới đường biên giới hiện tại, nhưng cội nguồn của những vướng mắc đó lại nảy sinh từ lịch sử, trong đó cơ bản nhất, sâu xa nhất là vấn đề lãnh thổ vùng Nam Bộ. Có một quan niệm cho rằng vùng đất Nam Bộ từ xưa vốn là lãnh thổ của Campuchia. Lập luận chủ yếu (mà không chứng minh) của quan niệm này là đồng nhất nước Phù Nam ở trung tâm của vung hạ lưu sông Mê Kông với nhà nước đầu tiên của người Khmer[1]. Trong một hội thảo về Bảo tồn di sản văn hoá tổ chức năm 1993 tại thành phố Nara (Nhật Bản), báo cáo chính thức của Campuchia do ông Vann Molivann, Bộ trưởng Quốc vụ khanh trình bày trước hội nghị cũng xếp văn minh Phù Nam vào nhóm “dạng thức đặc biệt của nhóm Khmer”[2]. Để giải quyết thoả đáng vấn đề này không thể không trở lại xem xét cụ thể nguồn gốc và diễn biến chủ quyền lãnh thổ đối với vùng đất này. Hiển nhiên, việc xem xét lịch sử chủ quyền phải bắt đầu từ nhà nước Phù Nam.
1. Vấn đề nước Phù Nam
Căn cứ vào những ghi chép trong các thư tịch cổ Trung Quốc thì Phù Nam là một quốc gia nằm ở phía nam của Lâm Ấp (Champa) nghĩa là tương đương với đất Nam Bộ ngày nay[3]. Cũng dựa vào các thư tịch cổ, các nhà khoa học đã thống nhất nhận định rằng nước Phù Nam xuất hiện vào khoảng đầu Công nguyên và biến mất vào khoảng thế kỷ thứ VII [4]. Mùa xuân năm 1944 nhà khảo cổ học Pháp Louis Malleret đã tiến hành một cuộc khai quật có ý nghiã lịch sử ở khu vực gần núi Ba Thê (nay thuộc địa phận xã Vọng Thê, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang). Từ sau cuộc khai quật này bắt đầu xuất hiện khái niệm văn hoá Ốc Eo và một cách tự nhiên các nhà khoa học đã dễ dàng đi tới nhận định rằng vấn đề Phù Nam không thể tách rời vấn đề Ốc Eo. Hay nói cách khác, hoàn toàn có cơ sở khoa học nếu đồng nhất những di vật thuộc văn hoá Ốc Eo là di tích văn hoá vật thể của nước Phù Nam. Vấn đề này đã được khắng định trong nhiều tác phẩm và hội thảo khoa học, đặc biệt là hội thảo về Văn hoá Ốc Eo - Phù Nam do Bộ KH-CN tổ chức tại Tp. Hồ Chí Minh năm 2004, nhân kỷ niệm 60 năm sự kiện phát hiện văn hoá ốc Eo. Các học giả cũng đã khẳng định Ốc Eo là một nền văn hoá có nguồn gốc bản địa, ít ra là từ thời đại kim khí và trong thời kỳ cường thịnh nhất, Phù Nam đã phát triển thành một đế chế rộng lớn bao gồm toàn bộ phần phía nam bán đảo Đông Dương (Nam Bộ của Việt Nam hiện nay, nước Campuchia, một phần nam Lào), một phần Thái Lan và bán đảo Malaca, nhưng trung tâm vẫn là vùng đất Nam Bộ.
Một vấn đề có ý nghĩa quan trọng là xác định chủ nhân của văn hoá ốc Eo. Trước đây, người ta thường nói mà không chứng minh rằng chủ nhân nền văn hoá này là tổ tiên của người Khmer. Nhưng dưới ánh sáng của những nghiên cứu mới thì vấn đề không phải như vậy. Trước hết, tất cả những di tích thuộc văn hóa Ốc Eo có thể dễ dàng nhận thấy là khác biệt với văn hóa Khmer. Những dấu vết của Chân Lạp trên đất Nam Bộ không thể hiện là sự phát triển liên tục của văn hóa Phù Nam[5]. Về phong tục tập quán, sử liệu Trung Quốc cũng cho biết rằng tang lễ và hôn nhân của Phù Nam gần giống với Lâm ấp (tức Champa).
Về mặt lịch sử, các tư liệu trong thư tịch cổ Trung Quốc cũng phân biệt rất rõ Phù Nam với Chân Lạp (quốc gia của người Khmer). Sử ký của nhà Tùy chép rằng nước Chân Lạp ở về phía tây nam Lâm ấp, nguyên là một chư hầu của Phù Nam. Vua nước ấy là Ksatriya Citrasena đã đánh chiếm và tiêu diệt Phù Nam [6]. Sử ký nhà Đường cũng chép: “Trong nước [Phù Nam] bấy giờ có thay đổi lớn. Nhà vua đóng đô ở thành Đặc Mục, thình lình bị nước Chân Lạp đánh chiếm, phải chạy trốn về miền nam, trú ở thị trấn Na Phất Na”[7]. Những sự kiện được chép trên đây diễn ra vào đầu thế kỷ VII. Căn cứ vào sự kiện 627 Phù Nam còn đến tiến cống nhà Đường lần cuối cùng, các học giả cho rằng đó có thể coi đó là năm sớm nhất nước Phù Nam bị tiêu diệt[8].
Như vậy Chân Lạp là một quốc gia xuất hiện ở vùng trung lưu sông Mê Kông, khu vực gần Biển Hồ, lấy nông nghiệp là nghề sống chính. Còn Phù Nam là một quốc gia ven biển có truyền thống hàng hải và thương nghiệp khá phát triển. Trong thời kỳ Phù Nam cường thịnh đã có nhiều nước nhỏ thần phục với tư cách là những thuộc quốc hoặc chư hầu, trong đó có Chân Lạp. Vào đầu thế kỷ VII, nhân lúc Phù Nam suy yếu, Chân Lạp đã tấn công và chiếm lấy. Lãnh thổ Phù Nam về tay Chân Lạp do kết quả của những cuộc chiến tranh.
2. Vùng đất Nam Bộ dưới thời Chân Lạp
Sau khi chiếm được Phù Nam, vùng đất này được gọi là Thuỷ Chân Lạp[9]. Việc cai quản vùng lãnh thổ mới đối với Chân Lạp hết sức khó khăn. Trước hết đây là một vùng đồng bằng mới bồi lấp còn ngập nước và sình lầy, người Khmer với dân số ít ỏi chưa thể tổ chức khai thác trên quy mô lớn. Hơn nữa, việc khai khẩn đất đai trên lãnh thổ của Lục Châu Lạp cũng còn đang đòi hỏi rất nhiều thời gian và sức lực. Vào nửa sau thế kỉ thứ VIII quân đội Srivijaya của người Java đã liên tục tiến công vào các quốc gia trên bán đảo Đông Dương. Kết cục là Thuỷ Chân Lạp bị quân Java chiếm. Cả vương quốc Chân Lạp gần như bị lệ thuộc vào Srivijaya. Cục diện này mãi đến năm 802 mới kết thúc. Tuy nhiên người Khmer lúc này muốn dồn sức phát triển các vùng trung tâm truyền thống của họ ở khu vực Biển Hồ, trung lưu sông Mê Kông và hướng nỗ lực bành trướng sang phía tây, vùng lưu vực sông Chao Phaya. Trong khoảng thời gian từ thế kỷ IX đến cuối thế kỷ XI, Chân Lạp trở thành một quốc gia cường thịnh, tạo dựng nên nền văn minh Angkor rực rỡ, đồng thời mở rộng lãnh thổ lên tận Nam Lào và trùm lên cả lưu vực sông Chao Phaya. Trong khi đó qua các di tích khảo cổ học, dấu tích của văn hoá Khmer và văn minh Angkor ở vùng Đồng Nai - Gia Định hết sức mờ nhạt[10].
Do chiến tranh và phải tập trung công sức phát triển các trung tâm ở vùng lục địa, sau mấy thế kỷ thuộc Chân Lạp, đến thế kỷ XIII theo Chu Đạt Quan, vùng đất Nam Bộ vẫn còn là một vùng đất hoang vu với những “bụi rậm của khu rừng thấp... tiếng chim hót và thú vật kêu vang dội khắp nơi… những cánh đồng bị bỏ hoang phế, không có một gốc cây nào. Xa hơn tầm mắt chỉ toàn là cỏ kê đầy dẫy, hàng trăm hàng ngàn con trâu rừng tụ họp thành từng bầy trong vùng này, tiếp đó là nhiều con đường dốc đầy tre chạy dài hàng trăm dặm…”[11].
Bắt đầu từ thế kỷ XIV Chân Lạp phải đối phó với sự bành trướng của các vương triều Thái từ phía tây, đặc biệt là từ sau khi vương quốc Ayuthaya hình thành. Trong gần một thế kỷ Chân Lạp liên tiếp phải đối phó với những cuộc tiến công từ phía người Thái, có lúc kinh thành Angkor đã bị quân đội Ayuthaya chiếm đóng.
3. Công cuộc khai phá vùng đất Nam Bộ
Từ thế kỉ XVI, do sự can thiệp của Xiêm, triều đình Chân Lạp bị chia rẽ sâu sắc và dần bước vào thời kì suy vong, hầu như không có điều kiện quan tâm đến vùng đất còn ngập nước ở phía đông và trên thực tế đã không đủ sức quản lý vùng đất này. Trong bối cảnh đó nhiều cư dân Việt từ đất Thuận Quảng đã vào vùng Mô Xoài, Đồng Nai (miền Đông Nam Bộ) khai khẩn đất hoang lập làng sinh sống.
Năm 1620 vua Chân Lạp Chey chetta II đã cưới con gái chúa Nguyễn Phúc Nguyên làm vợ. Đối với Chân Lạp, việc kết thân với chúa Nguyễn là để dựa vào lực lượng quân sự của người Việt lúc này đang rất mạnh nhằm làm giảm sức ép từ phía Xiêm. Với chúa Nguyễn, quan hệ hữu hảo này tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt, vốn đã có mặt từ trước, được tự do khai khẩn đất hoang và làm ăn sinh sống trên đất Thuỷ Chân Lạp và tăng cường ảnh hưởng của họ Nguyễn với triều đình Oudong.
Năm 1623 chúa Nguyễn chính tức yêu cầu triều đình Chân Lạp để cho dân Việt mở rộng địa bàn khai phá trên những vùng đất thưa dân và để quản lý, chúa Nguyễn lập ở Pray Kor (vùng Sài Gòn ngày nay) một trạm thu thuế. Vua Chân Lạp đã chấp thuận đề nghị này[12] . Vào thời điểm đó cư dân Việt đã có mặt ở hầu khắp miền Đông Nam Bộ và Sài Gòn.
Sau cái chết của Chey Chetta II vào năm 1628 nội bộ giới cầm quyền Chân Lạp bị chia rẽ sâu sắc. Nhiều cuộc chiến giữa các phe phái đã diễn ra với sự trợ giúp quân sự của một bên là quân Xiêm, một bên là quân Nguyễn. Những cuộc chiến ấy chẳng những không ảnh hưởng đến việc người Việt tiến hành khai phá những vùng đất hoang hóa ở đồng bằng sông Cửu Long, mà trái lại, còn tạo điều kiện thuận lợi cho chúa Nguyễn thiết lập quyền kiểm soát chính thức của mình trên những vùng đất cư dân Việt đã dựng nghiệp. Trong thời kỳ này sự thần phục của các nhóm di thần nhà Minh góp phần đã đẩy nhanh quá trình xác lập chủ quyền của chúa Nguyễn trên lãnh thổ Nam Bộ. Từ năm 1679 chúa Nguyễn Phúc Tần đã tạo điều kiện để nhóm Dương Ngạn Địch cùng nha môn, quân sĩ vùng Quảng Tây tổ chức việc khai phá và phát triển kinh tế vùng lưu vực sông Tiền Giang (Mỹ Tho), cho nhóm Trần Thượng Xuyên và những đồng hương Quảng Đông của ông chiêu dân tiếp tục mở mang vùng Biên Hòa - Đồng Nai. Trong vòng gần 20 năm, một vùng đất trải dài từ Bà Rịa đến sông Tiền Giang, vốn đã được cư dân Việt đến sinh cư lập nghiệp từ trước, nhanh chóng trở thành những trung tâm kinh tế quan trọng với nhiều làng mạc trù phú, phố phường sầm uất, hải cảng nhộn nhịp có thuyền buôn Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Dương, Bồ Bà (Java) tới buôn bán.
Trên cơ sở những đơn vị tụ cư đã trù mật những trung tâm kinh tế đã phát triển, năm 1698, chúa Nguyễn đã cử thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý vùng đất này và cho lập ra ở đây một đơn vị hành chính lớn là phủ Gia Định. Như vậy vào cuối thế kỷ XVII chúa Nguyễn đã xác lập được quyền lực của mình tại vùng trung tâm của Nam Bộ, khẳng định chủ quyền của người Việt trên vùng đất mà trên thực tế, chính quyền Chân Lạp chưa khi nào thực thi một cách đầy đủ chủ quyền của mình.
Sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là vào năm 1708 Mạc Cửu ở Hà Tiên xin quy phục chúa Nguyễn. Là một thương nhân Hoa kiều ở Lôi Châu, thường xuyên tới buôn bán ở vùng biển Đông Nam Á, Mạc Cửu đã sớm nhận ra vị trí địa lý thuận lợi của vùng đất Mang Khảm (sau đổi là Hà Tiên) nên đã lưu ngụ lại, chiêu mộ dân sửa sang bến thuyền, mở mang chợ búa, khai phá đất đai, biến một vùng đất còn hoang vu thành một nơi buôn bán sầm uất. Lúc đầu (vào khoảng năm 1680) Mạc Cửu đã từng xây dựng quan hệ thần phục với vua Chân Lạp, nhưng sau này thế lực Chân Lạp suy giảm, không đủ sức bảo vệ cho công việc làm ăn của cư dân vùng đất này khỏi sự tiến công cướp bóc của người Xiêm nên đã tìm đến chúa Nguyễn xin nội thuộc vào năm 1708. Năm 1757 khi đất Tầm Phong Long (tương đương với vùng tứ giác Long Xuyên) được vua Chân Lạp là Nặc Tôn dâng cho chúa Nguyễn để đền ơn cứu giúp trong lúc hoạn nạn và giành lại ngôi vua, quá trình xác lập chủ quyền lãnh thổ của người Việt trên đất Nam Bộ về cơ bản đã hoàn thành.
Từ quá trình lịch sử trên đây, không thể quan niệm một cách đơn giản rằng chủ quyền của người Việt trên vùng đất Nam Bộ là do chiếm của Chân Lạp. Chứng cứ lịch sử cho thấy quốc gia đầu tiên trên đất này là Phù Nam mà cư dân chủ yếu là người protomalais, đến đầu thế kỷ thứ VII mới bị Chân Lạp tiến công tiêu diệt. Tuy nhiên, Chân Lạp đã không có điều kiện để quản lý và khai thác vùng đất này. Sự sầm uất, trù phú của Nam Bộ là công lao khai phá của các nhóm cư dân chủ yếu là người Việt từ thế kỷ XVII. Chúa Nguyễn là người bảo hộ cho quá trình khai phá này và việc khẳng định quyền quản lý lãnh thổ là một hệ quả tự nhiên.
Quá trình thụ đắc vùng đất Nam Bộ của chúa Nguyễn chủ yếu thông qua khai phá hoà bình kết hợp với đàm phán ngoại giao để khẳng định chủ quyền. Đó là phương thức được thừa nhận là phù hợp với thông lệ lịch sử và các văn bản quốc tế hiện hành.
4. Thực thi và bảo vệ chủ quyền
Cùng với quá trình khai thác những vùng đất còn hoang vu ở Nam Bộ của cộng đồng cư dân, các chính quyền của người Việt đã liên tục thực hiện các chính sách quản lý lãnh thổ với tư cách là chủ nhân vùng đất này. Từ thế kỷ XVII để thực thi chủ quyền, các chúa Nguyễn đã tổ chức các đơn vị hành chính, sắp đặt quan cai trị, lập sổ sách quản lý dân đinh, ruộng đất và định ra các loại thuế. Phủ Gia Định thành lập năm 1698 gồm hai dinh Trấn Biên (Biên Hoà) và Phiên Trấn (Gia Định) quản lý hơn 4 vạn hộ. Sau năm 1774 vùng đất từ nam Hoành Sơn đến mũi Cà Mau được chia làm 12 dinh, trong đó vùng đất Nam Bộ chia thành 4 dinh (Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ và Hà Tiên). Trừ Hà Tiên lúc đầu còn là một dinh phụ thuộc, mỗi dinh quản hạt một phủ, dưới phủ có huyện, tổng hay xã. Từ đó, về cơ bản tổ chức hành chính trên vùng đất Nam Bộ đã được kiện toàn.
Triều Nguyễn thành lập vào năm 1802 tiếp tục sự nghiệp của các chúa Nguyễn đã hoàn thiện hệ thống hành chính và thống nhất quản lý trên quy mô cả nước. Năm 1836 vua Minh Mạng cho lập sổ địa bạ toàn bộ Lục tỉnh Nam Kỳ. Bên cạnh chính sách chính trị, quân sự, triều đình khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội, mở mang phát triển các dinh điền, đồn điền, xây dựng các công trình thuỷ lợi, phát triển giao thông thuỷ bộ. Năm 1817 vua Gia Long cho đào kênh Thoại Hà. Vào đầu những năm 20, vua Minh Mạng giao cho đào kênh Vĩnh Tế nối Châu Đốc với Hà Tiên dài trên 70km.
Ngay từ khi mới khẳng định quyền quản lý, các chính quyền người Việt đã ý thức sâu sắc về trách nhiệm đối với chủ quyền lãnh thổ. Chính quyền các chúa Nguyễn đã từng kiên quyết đánh bại các cuộc tiến công xâm phạm lãnh thổ của quân Xiêm vào các năm 1715,1771... Tiêu biểu cho ý chí bảo vệ chủ quyền là cuộc kháng chiến chống Xiêm với chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút vang dội của Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy vào năm 1785. Sang thế kỷ XIX, các Vua Nguyễn đã cho xây dựng hệ thống các trường luỹ và đồn bảo trấn thủ dọc theo biên giới để bảo vệ lãnh thổ. Trong suốt nửa đầu thế kỷ XIX cùng với xây dựng nước Đại Nam hùng cường, các vua Nguyễn đã bảo vệ vững chắc chủ quyền Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ.
Khi thực dân Pháp tấn công xâm lược, triều Nguyễn đã tổ chức kháng chiến chống lại. Đến khi triều đình tỏ rõ sự bất lực thì nhân dân Việt Nam đã không tiệc máu xương liên tục đứng lên đấu tranh anh dũng bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước của mình. Thắng lợi vẻ vang năm 1975 là đỉnh cao của quá trình chiến đấu hy sinh bền bỉ lâu dài vì lý tưởng cao đẹp đó.
5. Cơ sở pháp lý
Cơ sở pháp lý về chủ quyền của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ thể hiện ngay trong quá trình thụ đắc lãnh thổ bắt đầu từ thế kỷ XVII. Từ giữa thế kỷ XIX, chủ quyền này được chính thức ghi nhận trong văn bản các Hiệp ước quốc tế. Tháng 12 năm 1845 ba nước An Nam (Việt Nam), Xiêm (Thái Lan) và Miên (Cămpuchia) đã ký một Hiệp ước, trong đó thừa nhận 6 tỉnh Nam Kỳ thuộc Việt Nam. Năm sau, trriều Nguyễn và Xiêm lại ký một Hiệp ước có nhắc lại điều đó. Đây là Hiệp ước mà sau này Cao Miên cũng tham gia[13]. Như vậy muộn nhất là đến năm 1845 các nước láng giềng với Việt Nam, trong đó có cả Cămphuchia đã ký các văn bản pháp lý chính thức công nhận vùng đất Nam Bộ là của Việt Nam.
Pháp tấn công Nam Bộ rồi sau đó lần lượt chiếm 6 tỉnh Nam Kỳ là các sự kiện thể hiện rõ sự xâm hại đến chủ quyền lãnh thổ trên vùng đất Nam Bộ, nhưng Cămpuchia không có bất cứ một phản ứng gì. Trái lại, triều Nguyễn đã điều động quân đội tiến hành kháng Pháp và khi kháng chiến thất bại, đã đứng ra ký các Hiệp định nhượng cho Pháp 3 tỉnh miền Đông (năm 1862) và 3 tỉnh miền Tây (năm 1874). Đây là những chứng cớ và cơ sở pháp lý quan trọng khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất này.
Sau khi lập ra Liên bang Đông Dương, trên cơ sở nghiên cứu lịch sử thực thi chủ quyền trên vùng đất Nam Bộ, Pháp đã tiến hành hoạch định biên giới giữa Nam Kỳ và Cămpuchia theo luật của nước Pháp. Việc khảo sát, đo đạc trên thực địa được tiến hành bởi các chuyên gia Pháp và Cămpuchia. Năm 1889 giữa Pháp và Cămpuchia đã ký một loạt các văn bản pháp lý về hoạch định, phân giới cắm mốc biên giới giữa Nam Kỳ và Cămpuchia. Tất cả các văn bản pháp lý này đều khẳng định vùng đất Nam Kỳ hoàn toàn thuộc về Việt Nam.
Trước những thắng lợi liên tiếp của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ngày 4 tháng 6 năm1949 tổng thống Vincent Aurol ký Bộ luật số 49 - 733 trả lại Nam Kỳ cho chính quyền Bảo Đại. Trong Bộ luật còn có chữ ký của Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp.
Giải thích những thắc mắc của vương quốc Cămpuchia về quyết định này, ngày 8 tháng 6 năm 1949 Chính phủ Pháp đã có thư chính thức gửi quốc vương Sihanouk, trong đó có đoạn nói rõ: “Về pháp lý và lịch sử không cho phép Chính phủ Pháp trù tính các cuộc đàm phán song phương với Cămpuchia để sửa lại các đường biên giới của Nam Kỳ” vì “Nam Kỳ đã được An Nam nhượng cho Pháp theo các Hiệp ước năm1862 và 1874…. chính từ triều đình Huế mà Pháp nhận được toàn bộ miền Nam Việt Nam… về pháp lý, Pháp có đủ cơ sở để thoả thuận với Hoàng đế Bảo Đại việc sửa đổi quy chế chính trị của Nam Kỳ”. Trong bức thư đó Chính phủ Pháp còn khẳng định: “thực tế lịch sử ngược lại với luận thuyết cho rằng miền Tây Nam Kỳ vẫn còn phụ thuộc triều đình Khmer lúc Pháp tới ” và “Hà Tiên đã được đặt dưới quyền tôn chủ của Hoàng đế An Nam từ năm 1715 và kênh nối Hà Tiên với Châu Đốc được đào theo lệnh của các quan An Nam từ nửa thế kỷ trước khi chúng tôi đến” [14].
Vậy là đến năm 1949, vùng đất Nam Bộ vốn từng bị triều Nguyễn “bán” cho Pháp, đã được trả lại bằng một văn bản có giá trị pháp lý. Chính phủ Pháp còn khẳng định những cơ sở lịch sử và luật pháp của văn bản này với vương quốc Cămpuchia. Từ đó về sau chủ quyền Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ liên tục được tất cả các Hiệp định định có giá trị pháp lý quốc tế như Hiệp định Genève (1954), Hiệp định Paris (1973) công nhận.
Như vậy, chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ không chỉ được khẳng định bởi tính tính chính đáng trong quá trình thụ đắc lãnh thổ cũng như công lao của Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vùng lãnh thổ đó suốt từ thế kỷ XVII đến nay mà còn phù hợp với nguyên tắc uti possidetis (tôn trọng nguyên trạng), phù hợp thông lệ và các công ước quốc tế hiện hành.
Kết luận
Vùng đất Nam Bộ vốn là một địa bàn giao tiếp và đã từng có nhiều lớp cư dân đến khai phá. Vào khoảng đầu công nguyên, cư dân vùng đất này đã xây dựng nên nhà nước Phù Nam. Trong thời kỳ phát triển nhất vào khoảng thé kỷ V-VI, Phù Nam đã mở rộng ảnh hưởng và trở thành một đế chế rộng lớn với nhiều thuộc quốc phân bố ở phía nam bán đảo Đông Dương và bán đảo Malaca. Vào đầu thế kỷ VII đế chế Phù Nam tan rã, nước Chân Lạp của người Khmer, vốn là một trong những thuộc quốc của Phù Nam ở vùng Tongle Sap đã tấn công đánh chiếm vùng hạ lưu sông Mêkông (tương đương với vùng đất Nam Bộ ngày nay).
Tuy nhiên, trong suốt thời gian gần 10 thế kỷ vùng đất Nam Bộ không đựơc cai quản chặt chẽ và gần như bị bỏ hoang. Từ cuối thế kỷ XVI và đặc biệt là từ đầu thế kỷ XVII, dưới sự bảo hộ của các chúa Nguyễn người Việt đã từng bước khai phá vùng đất này. Người Việt đã nhành chóng hoà đồng với các cộng đồng cư dân tại chỗ và những cư dân mới đến (người Hoa) cùng nhau mở mang, phát triển Nam Bộ thành một vùng đất trù phú. Cũng từ đây người Việt là cư dân chủ thể và thực sự quản vùng đất này. Từ đó đến nay chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam đã được khẳng định không chỉ bằng thực tế lịch sử mà còn trên các văn bản có giá trị pháp lý được cộng đồng quốc tế thừa nhận.
Trong suốt hơn ba thế kỷ với biết bao thăng trầm của lịch sử, nhiều thế hệ người Việt Nam (với ý nghĩa cộng đồng cư dân đa dân tộc) đã đổ biết bao công sức để dựng xây và bảo vệ vùng đất Nam Bộ. Mỗi tấc đất nơi đây đều thấm đẫm mồ hôi và máu. Chính vì thế mà đối với mỗi người dân Việt Nam, Nam Bộ không đơn thuần chỉ là vấn đề chủ quyền lãnh thổ mà cao hơn thế, còn là vùng đất của những giá trị thiêng liêng.

[1] Bộ ngoại giao Campuchia: Sách đen. Phnom Penh, 1978
[2] Vann Molivann: Plan d’ urgence pour la réhabilitation des ressources culturelles, humaines et economiques des Sites d’Ankor, trong tập “Conservation of Cultural Heritage and International Assistance in Asian Countries”, Nara 1993, tr. 45.
[3] Lịch Đạo Nguyên: Thủy Kinh chú.
[4] Xem Lê Hương: Sử liệu Phù Nam, Sài Gòn 1974.
[5] ý kiến của các chuyên gia Ramesh, Raman (Ấn Độ) và N. Karashima (Nhật Bản).
[6] Tùy thư.
[7] Tân Đường thư.
[8] Lê Hương, sđd, tr. 93.
[9] Mã Đoan Lâm: Văn Hiến thông khảo
[10] Võ Sỹ Khải: Nghiên cứu văn hoá khảo cổ ốc Eo: mười năm nhìn lại, Khảo cổ học, số 4/1985.
[11] Chu Đạt Quan: Chân Lạp phong thổ kí (bản chữ Hán, mục Sơn xuyên)
[12] A. Dauphin Meunier: Le Cambodge, Paris 1965, tr.56.
[13] Raoul Marc Jennar, Les Frontières du Cambodge contemporain. INALCO, Paris 1998, tr. 89
[14] Dẫn theo Raoul Marc Jennar, sđd, tr. 97.
Sách dẫn
1. Bộ ngoại giao Campuchia: Sách đen.Phnom Penh, 1978
2. Christopho Borri: Xứ Đàng trong năm 1621, Hà Nội, 1998.
3. Cœdès G.: Deux inscriptions sanskrites du Fou-nan, BEFEO vol. XXXI, 1931.
4. Dauphin Meunier A.: Le Cambodge, Paris, 1965.
5. Lê Hương: Sử liệu Phù Nam, Sài Gòn, 1974
6. Hà Văn Tấn: Phù Nam và Óc Eo: ở đâu? Khi nào? và Ai? // Kỷ yếu Hội thảo khoa học Biên giới Tây Nam, ĐHQG HN, 1996.
7. Vũ Minh Giang: Quá trình xác lập chủ quyền lãnh thổ phía nam của Việt Nam // Kỷ yếu Hội thảo khoa học Biên giới Tây Nam, ĐHQG HN, 1996.
8. Malleret L.: L’Archeologie du Dellta du Mékong, BEFEO vol XL-IXI, Paris 1959 -1963.
9. Nguyễn Văn Hầu: Sự thôn thuộc và khai thác đất Tầm Phong Long, chặng cuối cùng của cuộc Nam tiến, Sử Địa, 1970 số 19 - 20.
10. Raoul Marc Jennar: Les Frontières du Cambodge contemporain. INALCO, Paris 1998.
11.Vann Molivann: Plan d’urgence pour la réhabilitation des ressources culturelles, humaines et economiques des Sites d’Angkor // Conservation of Cultural Heritage and International Assistance in Asian Countries, Nara 1993.
12. Võ Sỹ Khải: Nghiên cứu văn hoá khảo cổ Óc Eo: mười năm nhìn lại, Khảo cổ học, số 4/1985.