Lịch sử xung đột
Israel và Palestine
Giới thiệu
Cuộc xung đột giữa người Do Thái và người Palestine được coi
là dai dẳng nhất và dễ bùng phát nhất thế giới. Căn nguyên của cuộc xung đột bắt
nguồn từ sự tranh chấp dải đất nằm giữa Bờ đông Địa Trung Hải và sông Jordan.
Đối với người Palestine, trong suốt hơn 100 năm qua, họ đã
phải gánh chịu hành động đánh chiếm thuộc địa, trục xuất và chiếm đóng quân sự,
đồng thời cũng gian nan trong công cuộc kháng chiến giành quyền tự quyết và đồng
tồn với chính nhà nước phải chịu trách nhiệm cho những đau thương mất mát của họ
- Israel.
Đối với người Do Thái, sự trở lại miền đất của tổ tiên sau
nhiều thế kỷ phiêu bạt và bị ngược đãi trên khắp thế giới không mang lại hoà
bình, an ninh. Người Do Thái cũng đã phải đối mặt với vô số cuộc khủng hoảng,
xung đột khi các nước lân bang muốn xoá bỏ mảng đất của họ trên bản đồ thế giới.
Sau đây chúng tôi muốn đưa ra một số mốc thời gian được đánh
giá là quan trọng trong dòng lịch sử xung đột Trung Đông.
Thời cổ đại
Miền đất bao quanh Israel và các vùng lãnh thổ của Palestine
đã nhiều lần bị đánh chiếm rồi lại tái chiếm. Những chi tiết về các nhà nước Do
Thái thời cổ đại hết sức thô sơ, chủ yếu thông qua các ghi chép trong kinh
thánh và lịch sử cổ điển. Một số sự kiện quan trọng:
Thời đại kinh thánh
1250 trước CN: Người
Do Thái bắt đầu chiếm đóng và định cư vùng đất Canaan bên bờ đông Địa Trung Hải.
961-922 trước CN:
Thời vua Solomon cai trị và xây dựng đền thờ tại Jerusalem. Trong thời kỳ
Solomon trị vì, miền đất này được chia làm 2 vương quốc.
586 trước CN:
Vương quốc phía nam Judah đã bị người Babylon chiếm đóng. Người Do Thái bị đày ải
và đền thờ Solomon bị tàn phá. 70 năm sau, người Do Thái mới trở về mảnh đất
này và dần dần xây cất lại đền thờ.
Thời đại cổ điển
333 trước CN:
Alexander Đại Đế đã phát động chiến tranh chiếm đóng miền đất và đặt dưới sự
cai trị của Hy Lạp.
165 trước CN: Cuộc
nổi dậy tại Judea đã dẫn tới sự thành lập nhà nước Do Thái độc lập cuối cùng
trong thời cổ đại.
63 trước CN: Nhà
nước Do Thái, hay còn gọi là Judea, đã được hợp nhất với tỉnh Palestine do đế
chế La Mã cai trị.
70 sau CN: Một cuộc
nổi dậy chống lại sự cai trị của đế chế La Mã đã bị Hoàng đế Titus đàn áp. Một
lần nữa, đền thờ thứ hai bị tàn phá. Sự kiện này đánh dấu sự bắt đầu của Cộng đồng
người Do Thái (Jewish Diaspora) hay còn gọi là sự phân tán.
118-138 sau CN:
Trong suốt thời cai trị của Hoàng đế La Mã Hadrian, người Do Thái mới đầu được
phép trở lại Jerusalem. Tuy nhiên, cuộc nổi dậy của người Do Thái năm 133 đã
khiến thành phố Jerusalem hoàn toàn bị tàn phá và người Do Thái trong thành đã
bị trục xuất và bán làm nô lệ.
638 sau CN: Người
Hồi giáo Ảrập đã nổi dậy lật đổ sự thống trị của Byzantine (Chế độ trị vì miền
Đông sau sự thống trị của La Mã). Quốc vương Hồi giáo đệ nhị Omar đã xây dựng 1
ngôi đền Hồi giáo, nay gọi là đền Al-Aqsa tại Jerusalem vào những năm đầy của
thế kỷ 8. Ngoài thời kỳ Thập tự chinh (1099-1187), khu vực trên vẫn đặt dưới sự
thống trị của người Hồi giáo cho đến khi Đế chế Ottoman bị sụp đổ trong thế kỷ
20.
1897- Đại hội phục quốc Do Thái thứ nhất
Đại hội phục quốc Do Thái lần thứ nhất được tổ chức tại
Basle, Thuỵ Sĩ nhằm thảo luận các ý tưởng đặt ra trong cuốn sách của Theodor
Herzl xuất bản năm 1896 có nhan đề Der Judenstaat (Nhà nước Do Thái). Herzl, một
nhà báo người Do Thái, và là một nhà văn sinh sống tại Vienna, Áo. Ông Herzl muốn
tất cả người Do Thái có một nhà nước riêng - chủ yếu nhằm đối phó với chủ nghĩa
bài Do Thái tại châu Âu.
Đại hội đã đưa ra chương trình Basle nhằm thiết lập một cái
gọi là ""ngôi nhà cho người Do Thái tại Palestine được bảo vệ bằng
công luật, đồng thời thành lập Tổ chức Phục quốc Do Thái thế giới (WZO) để thực
hiện mục tiêu và hoài bão trên.
Trước năm 1897, một số người Do Thái đã trở lại mảnh đất
trên. Cho đến năm 1903, ước tính có khoảng 25.000 người Do Thái trở về, phần lớn
từ Đông Âu. Người Do Thái sinh sống cùng với khoảng nửa triệu người Ảrập trong
một phần khu vực sau đó thành đế quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ. Làn sóng thứ hai có
khoảng 40.000 nhập cư Do Thái vào khu vực trên trong giai đoạn từ 1904 đến
1914.
1917 - Tuyên ngôn Balfour
Vào thời kỳ thế chiến thứ nhất, đế quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ
đã thống trị khu vực này. Sự cai trị của Thổ Nhĩ Kỳ kết thúc khi các lực lượng Ảrập
được sự ủng hộ của vương quốc Anh đánh bật người Ottoman ra khỏi khu vực.
Anh đã chiếm khi vực vào giai đoạn cuối thế chiến I, năm
1918 và trao quyền thông trị cho Liên đoàn các quốc gia (LN) vào 25/4/1920.
Năm 1916, Cao uỷ của Anh quốc tại Ai Cập, ngài Henry McMahon
đã cam kết với lãnh đạo Ảrập sẽ trao độc lập cho các tỉnh Ảrập Ottoman cũ ngay
sau khi thế chiến thứ nhất kết thúc.
Tuy nhiên, cùng thời điểm đó Hiệp định mật Sykes-Picot giữa
Anh và Pháp đã chia cắt khu vực và đặt dưới sự kiểm soát chung của 2 nước.
Năm 1917, Ngoại trưởng Anh Arthur Balfour đã tích cực xúc tiến
thành lập Palestine cho người Do Thái. Ông Arthur Balfour đã gửi bức thư vạch kế
hoạch trên cho lãnh đạo phong trào phục quốc Do Thái Rothschild. Bức thư trên
được coi là Tuyên ngôn Balfour.
1929-1936: Sự bất bình của người Ảrập
Trong khuôn khổ Chương trình phục quốc Do Thái trong thập kỷ
20 và 30, hàng trăm nghìn người Do Thái đã từ Anh trở về nhà nước Palestine do
Anh uỷ nhiệm dành cho nguời Do Thái. Chương trình này đã làm cộng động người Ảrập
hết sức bất bình.
Năm 1922, một cuộc điều tra dân số do Anh tiến hành cho thấy,
số người Do Thái đã chiếm tới 11% trong tổng số 750.000 cư dân sống trong
Palestine. Trong vòng 15 năm, đã có có tới hơn 300.000 người nhập cư Do Thái
vào Palestine.
Sự xung đột giữa người Ảrập và Do Thái bắt đầu bằng các cuộc
đụng độ xảy ra vào tháng 8/1929. Khoảng 133 người Do Thái bị người Palestine
sát hại và 110 người Palestine bị cảnh sát Anh bắn chết.
Sự bất bình của người Ảrập một lần nữa đã làm dấy lên một cuộc
biến động dân sự rộng khắp thông qua cuộc tổng đình công năm 1936. Vào thời điểm
đó, nhóm vũ trang phục quốc Do Thái Irgun Zvai Leumi đã bắt đầu phát động các đợt
tấn công nhằm vào các mục tiêu Palestine và Anh nhằm giải phóng Palestine và
Transjordan (ngày nay là Jordan).
Tháng 7 năm 1937, Đặc phái viên Hoàng gia Anh do Huân tước
Peel đã đề xuất chia cắt miền đất trên thành một nhà nước Do Thái (Khoảng 1/3
nhà nước Palestine, trong đó gồm đồng bằng Galilee và vùng duyên hải) và một
nhà nước Ảrập.
Đại diện của Palestine và Ảrập đã bác bỏ đề xuất trên và chấm
dứt các đợt nhập cư, đồng thời bảo vệ tính thống nhất của một nhà nước duy nhất
trên cơ sở tôn trọng người thiểu số. Tuy nhiên, các cuộc xung đột vẫn liên tiếp
xảy ra cho đến năm 1938, thời điểm Anh tăng cường điều động quân đội tới Palestine.
1947- LHQ phân tách Palestine
Anh, nước thống trị Palestine kể từ năm 1920, đã trao trách
nhiệm giải quyết vấn đề tranh chấp giữa người Do Thái và Ảrập cho Liên hợp quốc
LHQ năm 1947.
Trong nhiều năm trước đó, vùng lãnh thổ này đã trải qua vô
vàn biến động và bạo lực khi người Ảrập phản đối người nhập cư Do Thái (cộng đồng
chiếm 1/3 dân số và 6% lãnh thổ Palestine). Tình hình ngày càng trở nên xấu đi
khi hàng trăm nghìn người Do Thái ồ ạt tràn vào Palestine nhằm trốn chạy sự đàn
áp của Đức quốc xã tại châu Âu. Theo thống kê, khoảng 6 triệu người Do Thái bị
sát hại do nạn tàn sát người Do Thái dưới thời Hitler (Holocaust) trong Đại chiến
II.
LHQ đã quyết định thành lập Uỷ ban đặc biệt đề xuất chia
lãnh thổ làm 2 nhà nước Palestine và Do Thái. Tuy nhiên, đại diện Palestine - Uỷ
ban cao cấp Ảrập - đã bác bỏ đề xuất trên. Trong khi đó, Cơ quan Do Thái đã chấp
nhận.
Kế hoạch chia lãnh thổ của LHQ như sau: trao 56,47% lãnh thổ
Palestine thành lập nhà nước Do Thái và 43,53% để thành lập nhà nước Ảrập với một
khu vực quốc tế bao quanh thành Jerusalem. Ngày 29/11/1947, 33 quốc gia thành
viên Đại hội đồng LHQ đã bỏ phiếu thông qua kế hoạch trên. Trong khi đó, 13 nước
bỏ phiếu chống và 10 nước bỏ phiếu trắng. Tuy nhiên, người Palestine đã bác bỏ
kế hoạch trên và kế hoạch này không được thực hiện.
Anh đã công bố dự định chấm dứt sự cai trị của nước này đối
với Palestine vào 15/5/1948. Tuy nhiên, bạo lực liên tiếp xảy ra trước thời điểm
quyết định có hiệu lực.
Nhiều binh sĩ Anh đã thiệt mạng trong cuộc xung đột buộc chính
phủ nước này quyết định tiếp tục duy trì sự hiện diện quân đội của mình tại
Palestine. Ngoài ra, Anh hết sức tức giận khi Mỹ gây sức ép đòi cho phép người
tị nạn Do Thái vào Palestine. Mỹ đã tỏ thái độ công khai ủng hộ chủ nghĩa phục
quốc Do Thái.
Cả phía Ảrập và Do Thái đều ráo riết chuẩn bị lực lượng đối
phó nhau. Tháng 12/1947 quân đội Do Thái đã thực hiện các chiến dịch
""quét sạch"" làng mạc của người Palestine.
1948-Thành lập nhà nước Israel
Nhà nước Israel, nhà nước Do Thái đầu tiên sau gần 2.000
năm, đã chính thức tuyên bố độc lập vào 16h (giờ GMT) ngày 14/5/1948 tại Tel
Aviv. Bản tuyên ngôn trên có hiệu lực ngay ngày hôm sau khi số binh sĩ Anh cuối
cùng rút khỏi. Còn người Palestine gọi ngày 15/5 là al-Nakba, nghĩa là thảm hoạ.
Trong năm 1948, lực lượng vũ trang Do Thái và Ảrập liên tục
phát động các cuộc tấn công nhằm vào mục tiêu của nhau. Quân đội Do Thái, do
nhóm vũ trang Irgun và Lehi đóng vai trò nòng cốt, đã giành được nhiều thắng lợi,
chiếm cứ được thêm nhiều vùng đất mở rộng lãnh thổ nhà nước Do Thái, đồng thời
chiếm cứ nhiều lãnh thổ của Palestine.
Ngày 9/4/1948, các tay súng Irgun và Lehi đã thảm sát rất
nhiều người Palestine tại làng Deir Yassin, gần Jerusalem. Hàng trăm nghìn người
Ảrập đã phải trốn chạy sang Lebanon, Ai Cập và khu vực Bờ Tây hiện nay.
Quân đội Do Thái đã liên tiếp giành được chiến thắng tại
Negev, Galilee, Tây Jerusalem và phần lớn đồng bằng duyên hải.
Chỉ một ngày sau khi Israel tuyên bố độc lập, quân đội 5 quốc
gia là Jordan, Ai Cập, Lebanon, Syria và Iraq đã phát động tấn công Israel,
song đều bị đẩy lùi. Trong giai đoạn đình chiến, lãnh thổ của Israel đã trải rộng
gần phủ kín Palestine dưới thời Uỷ trị của Anh trước đó.
Ai Cập giữ Dải Gaza. Trong khi đó, Jordan thôn tính khu vực
xung quanh Đông Jerusalem và dải đất Bờ Tây hiện nay. Tất cả các khu vực trên
chiếm khoảng 25% tổng diện tích Palestine dưới sự uỷ trị của Anh.
1964 - Thành lập Tổ chức giải phóng Palestine (PLO)
Kể từ năm 1948, các nước Ảrập lân bang liên tục cạnh tranh
nhau trong thế dẫn đầu các cuộc phản đối sự ra đời của nhà nước Israel. Chính
điều đó đã biến chính người Palestine trở thành ""kẻ bàng
quan"".
Tháng 1/1964, các chính phủ Ảrập đã chính thức bỏ phiếu
thông qua kế hoạch thành lập Tổ chức giải phóng Palestine (PLO). Tổ chức của
người Palestine này được tạo ra dưới sự kiểm soát chặt chẽ của các nước trên.
Tuy nhiên, người Palestine muốn một tổ chức độc lập thực sự.
Ông Yasser Arafat được tín nhiệm bầu giữ chức chủ tịch PLO năm 1969. Tổ chức Hồi
giáo vũ trang Fatah của ông Arafat (được thành lập bí mật năm 1964) đã được quyền
tiến hành các chiến dịch quân sự tấn công Israel.
Lực lượng Fatah đã giáng nhiều đòn nặng nề cho quân đội nhà
nước Do Thái tại Karameh ở Jordan năm 1968.
Chiến tranh 1967
Căng thẳng ngày càng gia tăng giữa Israel và các nước Ảrập
đã leo thang thành một cuộc chiến kéo dài 6 ngày, bắt đầu từ 5/6 và kết thúc
vào 11/6/1967. Cuộc xung đột leo thang này đã hoàn toàn làm thay đổi cục diện
xung đột Trung Đông.
Quân đội Israel đã chiếm đóng Gaza và vùng Sinai kéo dài từ
miền Nam Ai Cập đến miền Bắc cao nguyên Golan của Syria. Ngoài ra, Israel còn đẩy
lùi được lực lượng vũ trang Jordan ra khỏi Bờ Tây và Đông Jerusalem.
Không lực Ai Cập bị tê liệt hoàn toàn vào ngay ngày đầu tiên
của cuộc chiến khi máy bay Israel tập trung ném bom phủ đầu. Lãnh thổ Israel
chiếm được đã gấp đôi diện tích nhà nước Do Thái. Chiến thắng trên đã mở ra một
kỷ nguyên mới và tăng cường lòng tin và lạc quan của Israel và các thế lực ủng
hộ.
Hội đồng Bảo an LHQ đã ban hành nghị quyết 242 nhấn mạnh
thái độ "không thể công nhận các vùng lãnh thổ chiếm được thông qua kênh
chiến tranh" và kêu gọi "Israel rút quân đội khỏi các vùng đất chiếm
đóng" trong cuộc xung đột gần đây.
Theo thống kê của LHQ, cuộc xung đột đã buộc khoảng 500.000
người Palestine phải di tản sang Ai Cập, Syria, Lebanon và Jordan.
1973 - Chiến tranh Yom Kippur
Không thể lấy lại các vùng đất mất trong cuộc xung đột năm
1967 thông qua kênh ngoại giao, Ai Cập và Syria đã phối hợp phát động tấn công
tổng lực vào Israel đúng ngày Sám hối hay Yom Kippur. Cuộc chiến này được gọi
là chiến tranh Ramadan.
Ban đầu, Ai Cập và Syria đã giành nhiều thắng lợi ở Sinai và
cao nguyên Golan. Mặc dù đã chiếm đóng được nhiều khu vực tại cao nguyên Golan,
quân đội Israel sau đó buộc phải từ bỏ. Tại Ai Cập, binh sĩ nhà nước Do Thái đã
tái chiếm được một vùng lãnh thổ lớn và tiến dần tới mặt tây của Kênh đào Suez.
Trong giai đoạn này, Mỹ, LHQ và Liên Xô đã quyết định can
thiệp ngoại giao nhằm tiến tới hiệp định ngừng bắn giữa các bên tham chiến. Kế
quả thống kê cho thấy, Ai Cập và Syria đã mất tổng công 8.500 quân. Trong khi
đó, riêng Israel cũng mất khoảng 6.000 quân.
Cuộc chiến này đã đẩy Israel ngày càng phụ thuộc hơn vào các
nguồn tài trợ quân sự, kinh tế và ngoại giao của Mỹ. Ngay sau cuộc chiến, Ảrập
Xêút đã quyết định áp đặt lệnh cấm vận dầu mỏ đối với các quốc gia đã từng ủng
hộ Israel. Lệnh cấm vận dầu mỏ đã khiến giá dầu thế giới tăng đột biến vào kéo
dài đến tận tháng 3/1974. Tháng 10/1973, Hội đồng Bảo an LHQ đã thông qua nghị
quyết 338 yêu cầu các bên tham chiến ngừng bắn và chấm dứt ngay lập tức các hoạt
động quân sự, đồng thời bắt đầu các cuộc đàm phán giữa các bên quan tâm nhằm
đưa ra giải pháp kiến tạo hoà bình dài lâu tại Trung Đông.
1974 - Ông Arafat xuất hiện lần đầu tại LHQ
Trong những năm 70, dưới sự lãnh đạo của ông Yasser Arafat,
các đơn vị PLO và nhiều nhóm vũ trang Palestine khác đã phát động hàng loạt vụ
tấn công nhằm vào các mục tiêu của Israel và nhiều mục tiêu khác.
Tại Đại hội thể thao Olympic được tổ chức tại Munich năm
1972, 11 vận động viên Israel đã bị bắn chết.
Trong bối cảnh PLO tiếp tục theo đuổi cuộc chiến giải phóng
hoàn toàn Palestine. Năm 1974, ông Arafat đã có bước nhảy vọt về ngoại giao khi
tham gia vào LHQ thảo luận về giải pháp hoà bình Trung Đông.
Một năm sau đó, nhân viên Bộ Ngoại giao Mỹ Harold Saunders lần
đầu tiên thừa nhận ""những lợi ích chính đáng của người Ảrập
Palestine cần được đưa ra thảo thuận trong quá trình đàm phán hoà
bình"".
1977 - Sự trỗi dậy của phe cánh hữu tại Israel
Các nhóm theo đường lối cứng rắn Irgun và Lehi có thể được
coi là nhân tố quan trọng trong việc hình thành nhà nước Israel năm 1948. Tuy
nhiên, chính đảng đại diện cho họ sau này là Herut (Likud) đã thất bại thảm hại
trong cuộc bầu cử và mãi đến năm 1977 mới giành thắng lợi.
Kết quả bầu cử năm 1977 đã chấm dứt sự thống trị của Công đảng
trên chính trường Israel. Tư tưởng Likud đã tập trung vào nỗ lực mở rộng chủ
quyền của Israel, bao trùm toàn bộ nhà nước Palestine do Anh uỷ trị trước đó, đồng
thời tuyên bố lãnh thổ Jordan là một bộ phận thuộc nhà nước ""Đại
Israel"" trong thời kỳ kinh thánh.
Dưới sự lãnh đạo của cựu thủ lĩnh Irgun, Menachem Begin,
Israel đã gia tăng các hoạt động định cư tại Bờ Tây và Dải Gaza. Bộ trưởng Nông
nghiệp Israel Ariel Sharon được coi là người tiên phong với tư cách là Chủ tịch
Uỷ ban định cư cho đến năm 1981.
1979 - Hiệp định hoà bình Israel - Ai Cập
Tổng thống Ai Cập Anwar Sadat đã có chuyến thăm lịch sử tới
Israel và phát biểu trước nghị viện nước này tại Jerusalem vào ngày 19/11/1977.
Sadat đã trở thành nhà lãnh đạo Ảrập đầu tiên công nhận
Israel, chỉ 4 năm sau cuộc chiến Yom Kippur tháng 10/1973. Quân đội Ai Cập và
Syria đã phát động tấn công lực lượng vũ trang nhà nước Do Thái đang chiếm đóng
tại Sinai và cao nguyên Golan. Cuộc chiến đã kết thúc sau khi LHQ ban hành nghị
quyết 338 yêu cầu các bên tham chiến hợp tác thiết lập hoà bình lâu dài tại
Trung Đông.
Ai Cập và Israel đã chính thức ký kết Hiệp định Camp David
tháng 9/1978. Hiệp định này đã vạch cơ sở cho hoà bình Trung Đông, trong đó bao
gồm cả khu vực tự trị giới hạn của người Palestine. Hiệp định hoà bình song
phương giữa Ai Cập và Israel được ông Sadat và Thủ tướng Israel Menachem Begin
chính thức ký kết vào 3/1979.
Bán đảo Sinai vốn bị Israel chiếm đóng từ cuộc chiến 1967 đã
được trao trả cho Ai Cập. Các quốc gia Ảrập khác lập tức tẩy chay Ai Cập vì đã
ký hiệp định riêng với Israel.
Ông Sadat bị các phần tử Hồi giáo trong quân đội ám sát năm
1981 trong buổi lễ kỷ niệm ngày giải phóng Ai Cập.
1982 - Israel tấn công Lebanon
Lực lượng quân đội Israel đã phát động chiến dịch quân sự
quy mô lớn tấn công Lebanon vào mùa hè năm 1982. Chiến dịch ""Hoà
bình cho Galilee"" nhằm quét sạch các căn cứ của lực lượng du kích
Palestine đóng gần biên giới phía bắc Israel. Bộ trưởng Quốc phòng Ariel Sharon
đã ra lệnh cho quân đội chặn mọi ngả đường tới Beirut và trục xuất PLO khỏi đất
nước.
Cuộc tấn công bắt đầu ngày 6/6, chưa đầy 2 tháng sau khi
quân đội Israel và thường dân nước này phải rời khỏi Sinai theo Hiệp định hoà
bình năm 1979. Binh lính Israel đã tiến vào Beirut trong tháng 8/1982. Hiệp định
ngừng bắn giữa Lebanon và israel đã buộc các tay súng PLO phải rời Lebanon và
khiến các trại tị nạn của Palestine không có khả năng tự vệ.
Trong khi quân đội Israel bao vây Beirut, vào ngày 14/9
Bashir Gemayel, lãnh đạo nhóm vũ trang Christian Phalange đã bị thiệt mạng
trong một vụ đánh bom ngay tại trụ sở ở Beirut. Ngay ngày hôm sau, quân đội
Israel đã chiếm được Tây Beirut.
Từ 16-18/9, lực lượng Christian Phalange đã liên minh với
Israel và phát động các chiến dịch tàn sát hành trăm người Palestine tại 2 trại
tị nạn Sabra và Shatila. Ông Sharon đã phải từ chức khi cuộc điều tra do Israel
tiến hành quyết định ông này đã không đưa ra hành động ngăn chặn vụ thảm sát được
coi là tồi tệ nhất trong lịch sử Trung Đông trên.
1987 - Phong trào Intifada của Palestine
Cuộc nổi dậy rộng khắp của người Palestine - hay còn gọi chiến
tranh ném đá intifada - chống lại sự chiếm đóng của quân đội nhà nước Do Thái bắt
đầu bùng phát tại Gaza và nhanh chóng lan rộng khắp Bờ Tây.
Người Palestine phát động tổng đình công, tẩy chay các sản
phẩm của Israel... Trong các cuộc bạo động, người biểu tình chủ yếu ném đá vào
lực lượng quân đội Israel được trang bị tận răng. Chiến tranh Intifada đã thu
hút được sự chú ý của cộng đồng quốc tế.
Lực lượng quốc phòng Israel đã nã đạn vào dòng người biểu
tình Palestine. Ước tính cho đến năm 1993, có tới hơn 1.000 thường dân
Palestine thiệt mạng trong các cuộc đụng độ.
1988 - PLO mở cánh cửa hướng tới hoà bình
Mặc dù nắm trong tay sức mạnh quân sự, Israel không thể dập
tắt phong trào intifada bùng phát năm 1987. Đại bộ phận người Palestine sống tại
các khu vực do Israel chiếm đóng đều tham gia phong trào này.
Đối với PLO - đóng đại bản doanh tại Tunis kể từ khi bị đẩy
khỏi Lebanon năm 1982 - cuộc nổi dậy đã đe doạ nghiêm trọng tới vai trò của tổ
chức này trong cuộc cách mạng của người Palestine nhằm lấy lại các vùng lãnh thổ
bị chiếm đóng và đẩy lùi được các khu định cư của người Do Thái.
Hội đồng dân tộc Palestine PLC (Chính phủ lưu vong của
Palestine) đã triệu tập tại Algeria vào 11/1988 và bỏ phiếu thông qua giải pháp
""2 nhà nước"" dựa trên cơ sở Nghị quyết 181 của LHQ ban
hành năm 1947. Ngoài ra, PLC còn tuyên bố từ bỏ các hoạt động bạo lực vào đề
nghị tổ chức các cuộc đàm phán về các khu định cư lấy Nghị quyết 242 làm cơ sở.
Nghị quyết này đã đề nghị Israel rút toàn bộ quân khỏi các khu vực chiếm đóng
trong chiến tranh năm 1967.
Mỹ đã bắt đầu đối thoại với PLO. Trong khi đó, Israel vẫn
coi PLO là một tổ chức khủng bố và không thể thương lượng. Tuy nhiên, Thủ tướng
Israel Yitzhak Shamir đã đề xuất tổ chức bầu cử tại các khu vực chiếm đóng trước
khi tiến hành đàm phán về hiệp định tự trị.