Trận chiến trên
vòng cung Cuốc-xcơ
Trận đấu xe tăng
vĩ đại nhất của chiến tranh
Cuộc tấn công cuối
cùng của phát-xít Đức trên mặt trận phía Đông
Trong mùa đông và mùa xuân năm 1943, sau thất bại nặng nề ở
Xta-lin-grát, với những thiệt hại không thể bù đắp nổi nhất là thế chủ động chiến
lược đang bị mất dần, Hít-le và bộ chỉ huy của hắn đang cố tìm câu trả lời cho
câu hỏi: phải làm gì để có thể đảo ngược tình thế?
Tháng Ba năm 1943, phát-xít Đức có trên mặt trận Xô - Đức
204 sư đoàn trong tổng số 298 sư đoàn. Điều đáng nói ở đây là, Bộ chỉ huy
Hít-le đã phải đưa vào lục quân một số lượng đáng kể các sư đoàn không quân dã
chiến, sư đoàn cảnh giới, sư đoàn dự bị và các sư đoàn “ngoại quốc” (68), mà sức
chiến đấu đã sút kém rõ rệt. Tinh thần chiến đấu và trình độ huấn luyện của
ngay cả các binh đoàn xe tăng cũng giảm sút.
Trong bản báo cáo ngày 9 tháng Ba năm 1943, Thượng tướng Đức Gu-đe-ri-an, chuyên gia quân
sự kinh nghiệm hàng đầu của Đức, thanh tra các lực lượng xe tăng Đức đã viết:
“Tiếc rằng hiện giờ, chúng ta không còn một sư đoàn nào có đầy đủ sức chiến đấu”.
Tình hình không chỉ tồi ở mặt trận. Trong khi công nghiệp quốc
phòng Liên Xô đã có những cố gắng phi thường trong sản xuất vũ khí cho chiến
trường, nhất là xe tăng thì Hít-le cũng thúc giục các công trình sư, các nhà
công nghiệp Đức tìm mọi cách trong thời hạn nhanh nhất chế tạo ra một loại vũ
khí mới có thể làm xoay chuyển cục diện chiến trường Xô - Đức: các loại xe tăng
hạng nặng Con báo và Con cọp, dù chưa thực sự hoàn thiện về thiết kế, bị thúc dục
gấp rút sản xuất. Chính việc này đã làm giảm đi trông thấy sản lượng xe tăng của
công nghiệp chiến tranh Đức. Thượng tướng Đức Gu-đe-ri-an viết tiếp: “Với những
kế hoạch phát triển những loại xe tăng mới này, đã làm giảm đáng kể sản lượng
xe tăng “Con báo IV” của ta, loại xe tăng Đức duy nhất thực sự hiệu quả cho đến
nay ”. Trước khi diễn ra trận chiến Cuốc-xcơ một thời gian ngắn, Gu-đê-ri-an lại
nói thêm về lính lái xe tăng Đức trên những chiếc xe tăng hạng nặng kiểu mới:
“Họ vẫn chưa thực sự sẵn sàng cho chiến đấu”. Vào đầu năm 1943, Bộ chỉ huy Đức
đã từng quyết định ngừng hẳn việc sản xuất Con báo IV để chuyển sang sản xuất
25 chiếc hạng nặng “Con Cọp” trong một tháng, nhưng sau đó việc Hít-le giao cho
Gu-đe-ri-an quyền điều khiển công nghiệp xe tăng đã dừng ngay lập tức ý kiến
đó.
Kế hoạch của Bộ chỉ huy Đức
Những cuộc tranh cãi trong Bộ chỉ huy Đức diễn ra giữa hai
phe, về việc quân Đức phải làm gì trong mùa hè năm 1943:
Những người thực tế, trong đó có Gu-đê-ri-an và Man-sten, những
chỉ huy có kinh nghiệm nhất của phát-xít Đức, và một số tướng lĩnh khác của Đức,
cho rằng để có thể lấy lại được ưu thế trước đây, trong hoàn cảnh những cải thiện
đáng kể tình hình của quân đội Liên Xô, chỉ có thể triệt để khai thác những ưu
điểm của chỉ huy và binh lính Đức trong phòng ngự vận động, trong chiến thuật
chỉ huy và chiến đấu; duy trì thế phòng ngự bằng hàng loạt những trận đánh nhỏ
và trung bình, để dần dần làm suy yếu quân đội Liên Xô và tìm thời cơ đánh lớn
để tìm lại thế chủ động chiến lược. Cốt lõi của chiến lược này là làm suy yếu một
cách quyết định sức mạnh của cuộc tiến công của Hồng quân mà Bộ tư lệnh Đức dự
đoán là sẽ vào khoảng mùa hè năm 1943, sau đó sẽ triển khai tấn công, giành thắng
lợi và lấy lại thế tấn công chủ động chiến lược.
Nhóm những người lạc quan, cầm đầu là Tướng Zeitzler, tổng
tham mưu trưởng quân đội Đức, cho rằng đồng ý là phải làm suy yếu toàn diện sức
mạnh của quân đội Liên Xô như trên, ngoài ra hoàn toàn có thể tổ chức một chiến
dịch chủ động tấn công lớn: trên hướng thành phố Cuốc-xcơ tập trung một lực lượng
lớn nhiều xe tăng và chủ lực bộ đội Liên Xô đóng trên mỏm đất nhô về phía Đức.
Thành phố này nằm ở điểm giữa Mát-xcơ-va và Biển Đen, nếu chiếm được thì sẽ tạo
có được một bàn đạp tốt cho phép lại tiếp tục tấn công vu hồi Mát-xcơ-va từ
phía nam. Điểm chốt của chiến dịch là tổ chức những cuộc tấn công lớn bằng xe
tăng với chiến thuật chiến tranh chớp nhoáng kinh điển của quân đội Đức
(Blitzkrieg), theo hai hướng Bắc và Nam vào hai bên sườn của mỏm đất nhô, cho
phép chia cắt bao vây và tiêu diệt một bộ phận lớn quân đội Xô-viết ở đây. Chiến
dịch được đặt tên mật là “Xi-ta-đen” (Thành trì).
Khi Hít-le thảo luận cùng với Bộ chỉ huy tối cao của hắn vào
ngày 4 tháng Năm năm 1943, đúng hai tháng trước cuộc tấn công, thì có hai vấn đề
lớn “nổi lên”:
Vấn đề lớn thứ nhất trong kế hoạch của Zeitzler, là theo kết
quả trinh sát bằng máy bay, các bức không ảnh cho thấy tại khu vực này quân đội
Liên Xô đã xây dựng một hệ thống phòng ngự nhiều tầng, sâu và trong tung thâm
còn có rất nhiều xe tăng, có thể tập kích phản xung phong vào các mũi tấn công
của xe tăng Đức bất cứ lúc nào. Trong trường hợp xe tăng Đức không chọc thủng
được trận địa phòng ngự của đối phương và bị thiệt hại với số lượng lớn, thì thất
bại của chiến dịch là khó tránh khỏi, như lo ngại của Gu-đê-ri-an.
Còn trong kế hoạch chiến lược của Gu-đê-ri-an, thì thiếu
tính kiên quyết và mãnh liệt cần thiết để có thể thuyết phục được Hít-le.
Trong giai đoạn này, bản thân tinh thần của Hít-le cũng “dao
động”, hắn cần những kế hoạch phi thực tế để tự huyền hoặc mình và của một số
tướng lĩnh trong Bộ chỉ huy tối cao Đức. Chính vì thế, cuối cùng Hít-le đã lựa
chọn phương án tiến hành chiến dịch “Thành trì”, nhưng để bớt những lo lắng
trên, kế hoạch được thêm vào đó là chương trình gấp rút sản xuất số lượng lớn
những xe tăng hạng nặng kiểu mới “Con cọp”, “Con báo”. Chiến dịch được hoãn lại,
mà sau này mọi người đều biết là hoãn hẳn
hai tháng.
Ngày 13 tháng Ba, Bộ chỉ huy lục quân Đức đã ra bản mệnh lệnh
tác chiến chiến do Hít-le ký, trong đó đề ra các chỉ thị về các hành động chiến
đấu ở mặt trận phía Đông vào những tháng tới. Trong lệnh đó, có đề ra nhiệm vụ
là sau khi kết thúc thời kỳ lầy lội của mùa xuân, chủ động tiến công các đơn vị
bộ đội Liên Xô trước trên một số mặt trận, và nhờ đó bắt Hồng quân phải theo ý
muốn của mình. Theo mệnh lệnh đó, Tập đoàn quân “Nam” dưới sự chỉ huy của
Man-sten có nhiệm vụ vào giữa tháng Tư, hình thành một cánh quân xe tăng mạnh ở
phía bắc Khác-cốp, còn cụm Tập đoàn quân “Trung tâm” do Cơ-luy-gơ chỉ huy, có
nhiệm vụ tập trung một cánh quân xung kích ở phía Nam Ô-ri-ôn. Cả hai cánh quân
đó phải từ hai phía đánh lại theo hướng chung đến Cuốc-xcơ để bao vây và tiêu
diệt bộ đội Liên Xô đóng trong vòng cung Cuốc-xcơ.
Trong mệnh lệnh tác chiến số 6 do Hít-le ký ngày 15 tháng Tư
năm 1942 có đoạn:
“Tôi đã quyết định, hễ điều kiện thời tiết cho phép, tiến
hành cuộc tấn công “Thành trì”, cuộc tiến công đầu tiên trong năm nay. Cuộc tiến
công này có một ý nghĩa quyết định. Cần phải giành được thắng lợi nhanh chóng
và hoàn toàn. Cuộc tiến công này phải đem lại quyền chủ động cho chúng ta trong
mùa xuân và mùa hè năm nay… Mỗi một cán bộ chỉ huy, mỗi một binh sỹ đều phải thấy
triệt để ý nghĩa quyết định của cuộc tấn công này ”.
Để thực hiện kế hoạch, vấn đề cơ bản của Bộ chỉ huy Đức là
bù đắp những tổn thất về người và khí tài để thành lập những cánh quân mạnh đủ
sức để tấn công. Một cuộc tổng động viên được đẩy mạnh từ giữa tháng Giêng năm
1943, thậm chí cả những “ông già” 50 tuổi cũng bị gọi vào quân đội. Vào mùa hè
năm 1943, quân số quân đội Đức tại mặt trận phía đông đã là 4,8 triệu quân, chiếm
71% quân tác chiến của quân đội Đức. Ngoài ra, quân đội các nước chư hầu của
phát-xít Đức cũng có 525.000 quân. Trên mặt trận Xô - Đức lúc này phía Đức có
232 sư đoàn, trên 54.000 pháo và súng cối, trên 5.800 xe tăng và pháo tấn công,
gần 3000 máy bay và 277 tàu chiến. Như vậy so với mùa thu năm 1942, là thời điểm
trước trận Xta-lin-grát, thì quân đội Đức vẫn chưa đạt được mức cao nhất đó, mặc
dù những binh đoàn lớn đã được rút từ phía tây và chiến trường bắc Phi (Mặt trận
thứ hai vẫn chưa được mở). Bộ chỉ huy tối cao Đức đặc biệt chú trọng phục hồi sức
mạnh của lực lượng tăng - thiết giáp – cơ giới khét tiếng trên chiến trường
châu Âu bởi chiến thuật đánh nhanh thắng nhanh đã bị què quặt nhiều trên chiến
trường nước Nga. Năm 1943, sản lượng xe tăng của những Đức phát-xít đã tăng gấp
đôi so với năm 1942, quân đội Đức đang được cấp tốc trang bị các loại hạng nặng
“Cọp”, ”Báo”, pháo tự hành tiến công “Phéc-đi-năng” mới. Đồng thời,
“Lúp-oa-phơ” (lực lượng không quân Quốc xã) cũng nhận được từ nền công nghiệp
chiến tranh các loại máy bay chiến đấu mới: “Phốc-cơ Un-phơ 190A” và “Hen-ken
129”.
Đặc điểm của Chiến dịch “Thành trì” là việc sử dụng ồ ạt các
phương tiện kỹ thuật mới. Bộ chỉ huy Đức đã điều động những binh đoàn thiện chiến
nhất: 50 sư đoàn tinh nhuệ, trong đó có 16 sư đoàn xe tăng và mô-tơ hoá, tập
trung thành những cánh quân xung kích mạnh ở phía Bắc và Nam của mỏm đất nhô Cuốc-xcơ.
Lực lượng trên hướng Cuốc-xcơ của Đức được tập trung so với tổng số lực lượng
trên mặt trận Xô - Đức chiếm tới hơn 17% số sư đoàn bộ binh, gần 70% sư đoàn xe
tăng và 30% số sư đoàn mô-tơ hoá. Số quân của Đức ở đây là vào khoảng 900.000
quân, 10.000 pháo và súng cối, 2.700 xe tăng ; tất cả được tập trung trên một
khu vực 600 km, chiếm 14% tổng chiều dài mặt trận. Về không quân, bộ chỉ huy Đức
có ở đây trên 2000 máy bay, chiếm 60% tổng số máy bay trên mặt trận phía đông.
Trong các sư đoàn xe tăng Đức ở đây, có các sư đoàn đáng chú ý: “Đại Đức”, sư
đoàn xe tăng SS Leibstandarte cận vệ riêng của Hít-le mang tên “A-đôn-phơ
Hít-le”, sư đoàn xe tăng SS “Đầu lâu”, và Sư đoàn xe tăng “Đế chế”.
Tập trung nhiều lực lượng mạnh, lại tấn công vào mùa hè, nên
Hít-le và Bộ chỉ huy Đức hết sức tự tin vào thắng lợi, hy vọng kế hoạch
“Xi-ta-đen” sẽ là một trận “Xta-lin-grát Đức”!
Kế hoạch của Bộ tư lệnh tối cao Xô-viết
Nhờ có những hoạt động hữu hiệu của mạng lưới tình báo chiến
lược và chiến dịch, như lưới tình báo “Lucy” hoạt động trong cơ quan đầu não Quốc
xã tại Thụy Sỹ, Bộ tư lệnh tối cao Xô-viết đã biết và chủ động chuẩn bị cho kế
hoạch phản công làm thất bại chiến dịch “Thành trì” của phát-xít Đức. Họ đã nhận
được bản kế hoạch chi tiết và thậm chí tình báo quân sự Xô-viết còn tiến hành
kiểm tra được tính xác thực của tài liệu. Thậm chí, một trong những chiếc xe
tăng “cọp” mới nhất khi di chuyển từ Bắc Phi đến Nga, còn chưa được sơn lại từ
màu cát sang màu ngụy trang mới, đã bị bắt sống để nghiên cứu. Kết quả là một
loạt những cải tiến pháo chống tăng và pháo tự hành chống tăng đã được tiến
hành… Sản xuất xe tăng được đẩy mạnh ngay trong nửa đầu năm 1943. Đồng thời là
những nỗ lực to lớn của nền công nghiệp sản xuất và ngành hậu cần Hồng quân để
tích luỹ đạn dược, nhiên liệu cho chiến dịch.
Mục tiêu của chiến cuộc mùa hè năm 1943 của Bộ tư lệnh tối
cao Xô-viết không chỉ là làm thất bại chiến dịch “Thành trì” của Đức, mà còn là
nhân việc đánh tan một lực lượng lớn của Đức, giành thế chủ động tiến công trên
tất cả các mặt trận, mà trước hết là tiêu diệt các Cụm Tập đoàn quân “Trung
tâm” và “Nam” của Đức, giải phóng vùng tả ngạn U-crai-na với cơ sở than đá và
luyện kim ở Đôn-bát, các vùng Đông Bê-la-rút-xi-a, đẩy quân Đức về bên kia tuyến
sông Xô-giơ, trung lưu và hạ lưu sông Đnépr.
Hồng quân chuẩn bị tám tuyến phòng ngự liên tiếp, nhiều tầng
theo chiều sâu, và trong tung thâm là các đơn vị xe tăng cơ động mạnh để trong
trường hợp xấu nhất, quân Đức chọc thủng được phòng tuyến vẫn có thể phản kích
vào các mũi tấn công đó.
Kế hoạch của Bộ chỉ huy Xô-viết là rất đơn giản. Đối mặt với
các mũi tấn công của phát-xít Đức tổ chức nhiều tuyến phòng ngự nhiều tầng liên
hoàn, trong các công sự được xây dựng kiên cố, trang bị những vũ khí chống tăng
mạnh. Sau khi đánh tê liệt các binh đoàn phát-xít đã bị mệt mỏi thì các binh
đoàn xe tăng Xô-viết lớn sẽ được tung vào trận để phản kích đem lại bước ngoặt
cho trận đánh. Một đặc điểm nữa của trận Cuốc-xcơ, là lần đầu tiên trong lịch sử
quân sự, Hồng quân sẽ tiến hành một trận đánh phản chuẩn bị cực lớn. Chúng ta sẽ
đề cập tới trận phản chuẩn bị này sau.
Phải nói rằng, thời gian ngừng bắn trong hai tháng đã được cả
hai bên tận dụng triệt để để thực hiện mục tiêu của mình. Về phía Hồng quân,
các Phương diện quân đã được chỉ thị lợi dụng thời gian ngừng bắn để củng cố
các vị trí chiếm giữ, luyện tập về phòng ngự chống tăng… Đối với quân đội Xô-viết,
bây giờ không còn là năm 1941 người chiến sỹ phải mang cả chai xăng (cocktail
Mô-lô-tốp) hay lựu đạn chống tăng để lao vào xích xe tăng nữa…
Lực lượng của quân đội Xô-viết trong vùng mỏm đất nhô Cuốc-xcơ
gồm chủ yếu hai Phương diện quân: Phương diện quân Trung ương của K.K. Rô-cô-xốp-xki
(phía Bắc) và Phương diện quân Vô-rô-ne-giơ của N.Ph.Va-tu-tin (phía Nam). Đến
tháng Tư, theo đề nghị của Bộ tổng tham mưu Xô-viết, Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh
tối cao đã tiến hành bổ sung thêm cho các hướng Ô-ri-ôn, Cuốc-xcơ, Khác-cốp,
Đôn-bát. Ngoài ra Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh tối cao còn thành lập thêm một
Phương diện quân Dự bị mạnh: Phương diện quân Xtép. Cần ghi nhận những nỗ lực
phi thường của lực lượng hậu cần Hồng quân, đã làm hết sức mình để chuẩn bị cho
các đơn vị chiến đấu một lượng lớn đạn dược, vũ khí, nhu yếu phẩm khổng lồ.
Cũng phải thừa nhận trình độ nghi binh, đánh lừa quân Đức của Hồng quân trong
việc giấu kín ý đồ chiến dịch, chuẩn bị một trận địa tầm cỡ như vậy cũng như tập
trung những lực lượng dự bị lớn và mạnh mà Bộ tư lệnh Đức không mảy may nghi ngờ
về việc kế hoạch của họ đã bị lộ hoàn toàn ngay từ đầu.
Bên trong Bộ tư lệnh tối cao Xô-viết cũng có các đắn đo giữa
hai chiều ý kiến. Một số ý kiến cho rằng, nên chủ động tấn công vào quân Đức
đang chưa kịp chuẩn bị, ví dụ như ý kiến của K.K. Rô-cô-xốp-xki (Tư lệnh Phương
diện quân Trung ương) cho rằng nên tấn công dùng lực lượng hợp nhất của các
Phương diện quân Tây và Bri-an-xcơ để tấn công tiêu diệt cánh quân Đức ở
Ô-ri-ôn khi chúng chưa sẵn sàng tấn công. N.Ph. Va-tu-tin (Tư lệnh Phương diện
quân Vô-rô-ne-giơ) đề nghị Tổng tư lệnh tối cao mở trận tiến công phủ đầu vào cụm
quân địch ở Ben-gô-rốt và Khác-cốp. N.X. Khơ-rút-xốp, ủy viên Hội đồng quân sự
Phương diện quân cũng ủng hộ hoàn toàn đề nghị đó. Còn những người khác như
G.K. Giu-cốp, A.M.Va-xi-lép-xki, A.I. An-tô-nốp và các cán bộ khác của Bộ Tổng
tham mưu thì thống nhất quan điểm chuẩn bị cho một thế trận phòng ngự chủ động
và tích cực, sau khi đánh tiêu hao và làm mệt mỏi các binh đoàn xe tăng của Đức
sẽ tiến hành phản công. Trước khi quân Đức tấn công sẽ tiến hành một đòn đánh
phản chuẩn bị bằng tất cả pháo binh và không quân của các Phương diện quân, có
hỗ trợ thêm bằng lực lượng Dự bị của Đại bản doanh. Thời điểm và vị trí các mục
tiêu để đánh đòn phản chuẩn bị sẽ căn cứ vào kết quả trinh sát mặt đất và trên
không, kết hợp với các tin tức quân báo và tình báo thu thập được. Tổng tư lệnh
tối cao Xta-lin lúc đầu cũng do dự vì lo các đơn vị Xô-viết không chống được
đòn xung kích của kẻ địch (và cũng chưa tin rằng nếu tấn công trước thì liệu
các đơn vị Xô-viết có tiêu diệt được quân địch hay không), nhưng sự tự tin của
các tướng lĩnh Xô-viết vào khả năng tác chiến của Hồng quân đã thuyết phục được
Ông…
“Chuyển bộ đội ta sang tiến công trong những ngày sắp tới nhằm
đi trước quân địch, theo tôi là không có lợi. Tốt hơn là chúng ta làm mệt mỏi
và tiêu hao địch trên tuyến phòng ngự của ta, tiêu diệt các xe tăng của chúng rồi
sau đó, khi đưa thêm lực lượng bổ sung dự bị sung sức vào, chúng ta sẽ chuyển
sang tổng tiến công để đập tan hoàn toàn cánh quân chủ yếu của địch ” (G.K.
Giu-cốp - Nhớ lại và Suy nghĩ).
Chuẩn bị cho việc tiếp đón các đợt tấn công của quân Đức, Hồng
quân đã chuẩn bị một thế trận phòng ngự chống tăng khổng lồ, chưa từng thấy,
trên một chiều sâu mặt trận từ 200 đến 300 km. Tổng số quân của Hồng quân trong
khu vực cung sông Cuốc-xcơ là vào khoảng 1,3 triệu người với 3.600 chiếc xe tăng, 20.000 khẩu pháo,
trong đó có tới 6.000 khẩu pháo chống tăng 76mm loại mới. Riêng trên khu vực
này Bộ chỉ huy Xô-viết có 2.400 máy bay chiến đấu. Như vậy là ở đây tập trung tới
1/5 quân số bộ binh Hồng quân, 1/3 số xe
tăng và ¼ tổng số máy bay. Các đơn vị đã đặt một số lượng mìn dày đặc, mật độ
lên đến 3.400 quả trên một km chính diện mặt trận, một nửa là mìn chống tăng và
một nửa là mìn chống bộ binh. Hơn 300.000 dân công ngày đêm đào được hàng ngàn
km hào chống tăng, đặt các cự mã cản xe tăng. Các đơn vị pháo chống tăng Xô-viết
được tổ chức theo đội cứ 10 khẩu pháo một đội dưới sự chỉ huy của một người,
xác định mỗi lần ngắm bắn chỉ bắn vào một mục tiêu! Trình độ ngụy trang của các
đơn vị Xô-viết cũng rất tuyệt vời, thậm chí sau này lính tăng Đức khai rằng khi
các khẩu đội pháo chống tăng Xô-viết khai hoả vào xe tăng Đức, lính tăng Đức
cũng chẳng nhìn thấy gì ngoài trận địa mìn chống tăng! Để giữ tuyệt đối bí mật
kế hoạch, các đơn vị không quân Xô-viết đã án binh bất động, hoạt động chỉ bó hẹp
trong các nhiệm vụ trinh sát, và chỉ tấn công khi cuộc tấn công của xe tăng Đức
bắt đầu. Hồng quân đã sẵn sàng!
Trận chiến đấu ở vòng cung Cuốc-xcơ
Theo các kết quả trinh sát bằng mắt, bằng khí tài, bằng bắt
tù binh để khai thác Bộ tư lệnh Xô-viết đã xác định được chính xác ngày tấn
công của các đơn vị quân Đức là ngày 4 tháng Bảy, khoảng 5 giờ sáng. Và thế là,
đòn đánh phản chuẩn bị được tiến hành. Vào lúc 2 giờ 20 phút sáng ngày 4 tháng
Bảy năm 1943, tất cả các lực lượng pháo binh và không quân ném bom của Hồng
quân trong khu vực Cuốc-xcơ tham gia bản “hợp xướng” vĩ đại nhất trong lịch sử.
Tất cả các đơn vị Đức đã vào tuyến xuất phát hoàn toàn tê liệt, bị thiệt hại nặng,
thông tin liên lạc bị cắt đứt. Chỉ sau khoảng 20 đến 30 phút pháo binh Đức mới
cố gắng lên tiếng bằng một số đại đội pháo lẻ nhưng không thể lại được đành phải
câm ngay.
Lúc 5 giờ 30 phút sáng, cuộc tấn công của quân Đức bắt đầu,
tổ chức của cuộc tấn công không chặt chẽ và không đồng loạt đã nói lên thiệt hại
nghiêm trọng của đòn phản chuẩn bị của pháo binh và không quân Xô-viết gây ra.
Bắt đầu trận không chiến vĩ đại trên bầu trời Cuốc-xcơ. Những
chiếc Stu-ka Ju-87 (Máy bay cường kích ném bom bổ nhào) Đức thọc sâu tập kích
vào những đơn vị xe tăng Xô-viết. Ngược lại những chiếc IL-2 Stur-mo-vik cũng
tiến lên đánh vào đầu xe tăng Đức. Trên cao nữa là quay cuồng trận không chiến
giữa một bên là Mét-xe-xmít, Phốc-cơ Un-phơ, Hen-ken, một bên là LA-5, Yak,
Côbra… vừa quần nhau vừa tìm cách diệt máy bay ném bom và cường kích đối
phương. Dưới mặt đất là những đợt tấn công không ngớt của xe tăng Đức vào các vị
trí của hai Phương diện quân Trung ương và Vô-rô-ne-giơ. Đồng thời, cuộc đấu
pháo của hai bên vẫn tiếp tục, ưu thế có thuộc về phía Liên Xô vì rất nhiều trận
địa pháo của phát-xít Đức bị thiệt hại nặng sau đòn phản chuẩn bị.
Ngày tấn công đầu tiên, các lực lượng xe tăng Đức tấn công
vào đội hình của Phương diện quân Trung ương vấp quá đau, bị thiệt hại nặng
đành rút lui. Đến ngày hôm sau ở khu vực này lại tiếp tục diễn ra 7 đợt tấn
công, và thu được rất ít kết quả. Các đơn vị Xô-viết phòng ngự như không có một
sức mạnh nào nhổ được họ ra khỏi vị trí. Chỉ đến cuối ngày, xe tăng Đức mới tiến
được từ 3 đến 6 km trên hướng Ôn-khô-vát-ca. Trong ngày đầu tiên này, quân Đức
mất khoảng 200 xe tăng và 25.000 quân lính ở đây.
Ngày 6 tháng Bảy, sư đoàn xe tăng 2 và quân đoàn xe tăng 19
được đưa vào phản kích, cùng với Tập đoàn quân 13 đánh bật xe tăng Đức về điểm
xuất phát, khôi phục trận địa phòng ngự của Tập đoàn quân 13.
Tại khu vực của Phương diện quân Vô-rô-ne-giơ chiến sự diễn
ra ác liệt hơn nhiều. 16 giờ 40 phút ngày 4 tháng Bảy, quân Đức dưới sự chỉ huy
của Thống chế Man-sten mới bắt đầu tiến công vào khu vực phòng ngự của Phương
diện quân, nhưng mang tính chất trinh sát chiến đấu. Sang ngày 5 tháng Bảy, cuộc
tấn công mới thực sự bắt đầu, có ít nhất 450 xe tăng tham gia tấn công. Đợt tấn
công thứ nhất bị đẩy lùi. Chiều ngày hôm đó, sau khi tung các xe tăng “Cọp” vào
trận, quân Đức đã đẩy lùi được các sư đoàn bộ binh cận vệ 52 (Sư đoàn trưởng Đại
tá cận vệ I.M. Nhê-cra-xốp), chiếm được các khu dân cư: Bê-rê-dốp, Grê-mu-chi,
Bư-cô-vô, Cô-dơ-ma, Đê-mi-a-nốp-ca, Vô-dơ-nê-xen-xki. Trong khu vực bên cạnh của
Sư đoàn bộ binh cận vệ 67 (Sư đoàn trưởng Đại tá cận vệ A.I. Bắc-xốp) cũng bị
quân Đức đánh mạnh, phải bỏ thị trấn Chéc-ca-xcôi-ê, rút về Cra-xnưi Pô-chi-nốc.
Qua một ngày chiến đấu, quân phát xít Đức đã bị những thiệt hại rất lớn nhưng
Phương diện quân Vô-rô-ne-giơ cũng mất đến 60 xe tăng, 78 máy bay và một bộ phận
quân số đáng kể.
Về sau mới xác định được số lượng xe tăng đối diện với
Phương diện quân Trung ương là vào khoảng 6 sư đoàn (1200 chiếc xe tăng), còn tấn
công vào Phương diện quân Vô-rô-ne-giơ là 9 sư đoàn (1500 xe tăng). Chính vì lẽ
đó mà ở phía bắc quân Đức không thể tiến được xa, còn phía Nam thì đã gây được
khó khăn rất lớn cho bộ đội Xô-viết.
“Từ sáng ngày 7-7, quân giặc lại bắt đầu tiến công quyết hệt.
Trên bầu trời và trên mặt đất, không lúc nào ngớt tiếng rền của trận chiến đấu,
tiếng nghiền của xích xe tăng và tiếng nổ ầm ầm của máy.
Các đơn vị Phương diện quân Vô-rô-ne-giơ được sự yểm hộ mạnh
mẽ của không quân đã không để cho địch chọc thủng dải phòng ngự thứ 2, tuy vậy ở
một đôi chỗ, chúng đã lọt qua.
Lúc đó bộ tư lệnh phương diện quân liền cho các quân đoàn xe
tăng 2 và 5, cả một vài sư đoàn bộ binh và đơn vị pháo binh rút từ các hướng
khác bước vào chiến đấu trong những khu vực bị uy hiếp đó.
Trong 2 ngày, địch đã mất ít nhất 200 xe tăng và nhiều kỹ
thuật khác. Các đơn vị bộ binh địch cũng chỉ còn dưới một nửa quân số so với
lúc đầu trận đánh. Ngày 10-7, sau khi tập trung các lực lượng cơ bản của chúng
lại trên một khu vực hẹp hơn, quân địch liền tung lực lượng đó vào hướng
Prô-khô-rốp-ca với ý định đè bẹp các đơn vị đã mất sức của ta ở đây. Ngày 11-7,
trên hướng Prô-khô-rốp-ca cuộc chiến đấu ác liệt tiếp tục.
Đến chiều ngày 11-7 ở khu vực Phương diện quân Vô-rô-ne-giơ,
cuộc chiến đấu đã bước vào giây phút hiểm nghèo.
Theo kế hoạch sắp đặt từ trước, Đại bản doanh lấy trong lực
lượng dự bị của mình và chuyển tới vùng Prô-khô-rốp-ca tập đoàn quân bộ đội hợp
thành cận vệ 5 và tập đoàn quân xe tăng 5 để đến sáng ngày 12-7 đưa vào chiến đấu.
Tập đoàn quân xe tăng có đến 800 chiếc T-34 và pháo tự hành. Về tổng số xe
tăng, trên hướng Ô-bôi-an và Prô-khô-rốp-ca, địch không kém ta, nhưng tinh thần
chiến đấu của chúng thì đã rã rời sau các trận đánh trước đây với các đơn vị của
tập đoàn quân cận vệ 6, tập đoàn quân xe tăng 1 và tập đoàn quân cận vệ 7 của
ta.
Suốt ngày 12-7, trên mặt trận Vô-rô-ne-giơ đã diễn ra một trận
đánh lớn nhất của xe tăng, pháo binh, bộ binh và không quân, mà đặc biệt ác liệt
là trên hướng Prô-khô-rốp-ca.” (G.K. Giu-cốp - Nhớ lại và Suy nghĩ).
Ngày 12 tháng Bảy, sau một tuần tấn công với thiệt hại nặng
nề cho cả hai bên, Tướng Đức Hoth, tư lệnh lực lượng Đức ở phía Nam vòng cung
Cuốc-xcơ, quyết định tập trung tất cả số xe tăng còn lại của hắn, 600 chiếc,
như một con bạc khát nước quăng những con bài cuối cùng lên chiếu bạc, đột kích
sâu vào trận địa phòng ngự của Phương diện quân Vô-rô-ne-giơ, và chính những
chiếc xe tăng này đã giáp chiến trong trận đấu xe tăng lớn nhất trong lịch sử với
sự tham gia của 1.200 chiếc cả hai bên tại làng Prô-khô-rốp-ca. Hoth không biết
rằng Bộ tư lệnh Xô-viết đã chuẩn bị sẵn để đón số xe tăng này bằng lực lượng của
Tập đoàn quân xe tăng Cận vệ số 5, đang tiến hết tốc lực đến làng Prô-khô-rốp-ca.
Ngay lập tức các xe tăng của cả hai bên xông vào nhau tham chiến, trong đó số
lượng xe tăng hạng nặng và trung của Đức là trội hơn. Bất chấp mọi quy tắc chiến
tranh, không hề giống một trận chiến lớn như Bô-rô-đi-nô hay Véc-đen, nhưng
trên suốt chiều dài 35km của trận đánh đã diễn ra vô số trận đấu tăng nhỏ. Quân
Đức mất hơn một nửa số xe tăng còn lại đó, còn số thiệt hại của Hồng quân còn
nhiều hơn. Tuy vậy, trận đánh đã được quyết định. Hít-le ra lệnh ngừng Chiến dịch
“Xi-ta-đen”. Chiến dịch “Xi-ta-đen” như vậy đã thất bại thảm hại. Với phía Đức,
như vậy là chiến dịch đã kết thúc. Nhưng về phía Hồng quân, mọi việc mới chỉ bắt
đầu.
Nhìn chung, cuộc tấn công của phát-xít Đức diễn ra trong
không đầy một tuần và ngày 12 tháng Bảy đã kết thúc thất bại. Do sự kháng cự vô
cùng kiên cường của quân đội Liên Xô, quân Đức đã phải dừng lại và sau đó rút
lui, sau khi chỉ tiến được 10km ở hướng bắc và 35 km ở hướng nam. Quan trọng nhất,
là phát-xít Đức đã không bao vây được quân đội Xô-viết ở vòng cung Cuốc-xcơ,
hơn thế nữa sau chiến đấu vài ngày, được sự hỗ trợ nhanh chóng của Đại bản
doanh bằng các lực lượng dự bị, thế trận của quân đội Xô-viết còn vững mạnh
hơn. Kết quả chủ yếu của các trận đánh phòng ngự làm thiệt hại một số lượng lớn
xe tăng của Đức, và chính vì thế đem lại cho Hồng quân ưu thế hơn hẳn về binh
chủng xe tăng làm tiền đề cho các hoạt động phản công của Hồng quân trong chiến
dịch Cu-tu-dốp. Việc sử dụng khéo léo xe tăng và pháo tự hành trong phòng ngự
chống tăng khiến phòng ngự chống tăng được vững chắc. Các binh đoàn có khả năng
tổ chức các điểm tựa, các khu vực đề kháng chống tăng rất mạnh cũng như các lực
lượng dự bị về chống tăng và dự bị về xe tăng để phản công đã đóng vai trong
quan trọng trong chiến thắng Cuốc-xcơ.
Chiến dịch “Cu-tu-dốp” và “Ru-mi-an-txép”
Giai đoạn thứ hai của trận Cuốc-xcơ, bắt đầu từ ngày 12
tháng Bảy kéo dài đến ngày 23 tháng Tám.
Ngày 12 tháng Bảy, các Phương diện quân Bri-an-xcơ và Phương
diện quân Tây tấn công vào cánh quân Đức trên hướng Ô-ri-ôn.
Ngày 15 tháng Bảy, Phương diện quân Trung ương cũng bước
sang phản công.
Kết quả trận tấn công của ba Phương diện quân là đến ngày 18
tháng Tám đã thủ tiêu được bàn đạp của quân Đức tại Ô-ri-ôn, tiêu diệt cánh
quân Đức ở đây.
Cuộc phản công của Hồng quân trên hướng Ben-gô-rốt – Khác-cốp
bắt đầu ngày 3 tháng Tám, là một sự phối hợp tấn công của lực lượng ba Phương
diện quân: Vô-rô-ne-giơ; Thảo nguyên và Phương diện quân Tây Nam trong khuôn khổ
chiến dịch “Ru-mi-an-txép”. Ngày 5-8, bộ đội Phương diện quân Bri-an-xcơ giải
phóng Ô-ri-ôn. Trong các trận chiến đấu để chiếm lại thành phố, đặc biệt xuất sắc
có các sư đoàn 5, 129 và 380.
Tối ngày 5-8, Mát-xcơ-va bắn pháo hoa chào mừng các đơn vị
vinh quang thuộc phương diện quân Bri-an-xcơ, miền Tây, Trung ương đã chiếm được
Ô-ri-ôn và bộ đội thuộc Phương diện quân Xtép và Vô-gô-ne-giơ đã lấy lại được
Ben-gô-rốt. Đó là những chùm pháo hoa đầu tiên trong cuộc Chiến tranh Vệ quốc
vĩ đại để chào mừng chiến thắng vẻ vang của các đơn vị Xô-viết.
Do triển khai tiến công thắng lợi trên hướng Khác-cốp, nên
ngày 6 tháng Tám, Phương diện quân Tây – Nam được Đại bản doanh giao cho nhiệm
vụ đánh tiếp một đòn chủ yếu về phía Nam, hiệp đồng với Phương diện quân Nam để
tiêu diệt lực lượng quân Đức ở Đôn-bát, đánh chiếm Goóc-lốp-ca và Xta-li-nô
(Đô-nét-xcơ). G.K. Giu-cốp đảm nhận phối hợp hành động giữa hai Phương diện
quân Vô-rô-ne-giơ và Thảo nguyên. A.M.Va-xi-lép-xki được giao phối hợp hành động
giữa hai Phương diện quân Tây – Nam và Nam.
Ngày 23 tháng Tám, Hồng quân đã chiếm Khác-cốp, đánh dấu sự
kết thúc của trận chiến đấu vĩ đại nhất của cuộc Chiến tranh Giữ nước vĩ đại.
Các đơn vị xuất sắc trong các trận chiến đấu để chiếm lại Khác-cốp là các sư
đoàn cận vệ 28, bộ binh 84, 116, 252 và 299 thuộc tập đoàn quân 53, các sư đoàn
cận vệ 89 và 93, các sư đoàn bộ binh 183 và 375 thuộc tập đoàn quân 69, sư đoàn
cận vệ 15 thuộc tập đoàn quân cận vệ 7. Tất cả các sư đoàn đó đều được tặng
danh hiệu vinh dự: Sư đoàn Khác-cốp.
Kết quả của trận Cuốc-xcơ đã được Nguyên soái G.K. Giu-cốp
ghi lại trong hồi ký Nhớ lại và Suy nghĩ của mình:
“Sau 50 ngày đêm đã diễn ra cuộc chiến đấu vĩ đại nhất của
quân ta với quân phát-xít Đức. Nó kết thúc bằng thắng lợi của Quân đội Xô-viết
đánh tan 30 sư đoàn Đức tinh nhuệ, trong đó có sư đoàn tăng. Trên phần nửa quân
số của mấy chục sư đoàn này đã bị tiêu diệt.
Thiệt hại chung của giặc trong thời gian đó là trên 50 vạn
tên, gần 1.500 xe tăng, trong đó phần lớn là xe tăng “cọp”, “báo”, 3.000 đại
bác và súng cối và một số lớn máy bay. Đó là những thiệt hại mà bọn cầm đầu
phát-xít không thể dùng một biện pháp tổng hợp nào bù vào được.
Chiến thắng vĩ đại của quân ta ở Cuốc-xcơ đã chỉ rõ sức mạnh
ngày càng to lớn của Nhà nước Xô-viết và lực lượng vũ trang Xô-viết. Thắng lợi
ngoài mặt trận cũng như ở hậu phương giành được là do sự nỗ lực của tất cả mọi
người Xô-viết dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Trong các trận chiến đấu ở Cuốc-xcơ,
bộ đội ta đã tỏ ra có tinh thần cực kì dũng cảm, chủ nghĩa anh hùng tập thể và
trình độ nắm vững tài nghệ quân sự. Đảng Cộng sản và Chính phủ đánh giá cao
lòng dũng cảm của quân đội và đã thưởng trên 10 vạn huân chương và huy chương
cho các chiến sĩ, sĩ quan và tướng lĩnh, nhiều người đã được tặng danh hiệu Anh
hùng Liên Xô.
Bóng ma của thảm họa không thể tránh khỏi đã hiện lên trước
mắt nước Đức phát -xít.
Những thua thiệt lớn của quân Đức đã bắt bọn Hít-le trong
mùa hè năm 1942 phải rút từ các mặt trận khác để ném vào chiến trường Xô - Đức
14 sư đoàn, buộc chúng phải tập trung phần lớn các nỗ lực của chúng ở đây,
nhưng chính vì thế mà các mặt trận ở Ý và Pháp lại yếu đi.
Âm mưu địch giành quyền chủ động về chiến lược từ tay Bộ tư
lệnh Xô-viết đã hoàn toàn phá sản và từ đó đến lúc hết chiến tranh, quân Đức bắt
buộc chỉ có phòng ngự mà thôi. Điều đó chứng minh, nước Đức đã bị tiêu hao. Bây
giờ không còn lực lượng nào có thể cứu chúng được. Vấn đề chỉ còn ở thời gian
mà thôi. ”
Trận Cuốc-xcơ đã đánh dấu sự chấm dứt các giai đoạn rút lui
và cầm cự của Hồng quân. Từ đây Hồng quân bước vào giai đoạn phản công liên tục
giải phóng hoàn toàn đất nước và Trung và Nam Âu, để kết thúc chiến tranh tại
Thủ đô Béc-lin của phát-xít Đức.
Trận Cuốc-xcơ cũng đã chứng minh sự tiến bộ của nghệ thuật
quân sự của các cấp chỉ huy Hồng quân. Hơn nữa, chiến thắng đã chứng minh quân
đội Xô-viết có thể tấn công thắng lợi cả trong mùa hè, chứ không phải chỉ có
trong mùa đông như trước đây Hít-le đã tin tưởng và tuyên truyền như thế.
Các nhà sử học phương Tây nhiều người cố gắng chứng minh chiến
thắng Cuốc-xcơ của Nhân dân và Quân đội Xô-viết là do sức mạnh vũ khí viện trợ
của Anh, Mỹ. Nhưng đó là những chứng minh khá buồn cười, vì không gì thay thế
được sức mạnh tổng hợp của quốc gia Xô-viết trong giai đoạn này. Sự lớn mạnh của
nền công nghiệp quốc phòng Liên Xô lúc đó là câu trả lời hùng hồn nhất. Đọc những
tài liệu lịch sử của các nước Phương Tây về lịch sử cuộc Chiến tranh thế giới lần
thứ hai, người ta thấy nổi lên những trận đánh ở Bắc Phi, những trận trên chiến
trường nước I-ta-li-a, còn trận Cuốc-xcơ chỉ là một trận đánh con con. Thực tế,
kể cả trận đổ bộ lớn nhất của quân Đồng Minh là trận Noóc-măng-đi cũng không thể
so sánh được với trận Cuốc-xcơ. Một phép suy luận đơn giản, là đại đa số lực lượng
của phát-xít Đức đã tập trung ở mặt trận Xô - Đức, còn phía tây thì chỉ còn lại
một lực lượng nhỏ hơn nhiều. Do đó công việc của Đồng Minh trong giai đoạn mở mặt
trận thứ hai tuy quan trọng nhưng không phải là quyết định. Công lao của Nhà nước
và Nhân dân Xô-viết sẽ không bao giờ bị quên lãng.
Tổng hợp
từ:
- Nhớ lại
và suy nghĩ – Nguyên soái G.K. Giu-cốp. (Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Hải Sa,
Lê Bá Phán, Trần Anh Tuấn) NXB Quân đội nhân dân.
- Sự nghiệp cả cuộc đời – A.M. Va-xi-lép-xki.
(NXB Tiến Bộ, Mát-xcơ-va)
- Và các tài liệu
khác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét