Khái quát chung về
lịch sử Kitô giáo
Sự ra đời Kitô giáo
- Kitô giáo xuất hiện vào thế kỷ thứ I ở
các tỉnh phía đông của đế quốc La Mã với chế độ chiếm hữu nô lệ. Đế chế La Mã
tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm lược tàn khốc, tạo ra nhiều mâu thuẫn và xung
đột gay gắt trong đời sống xã hội. Trong bối cảnh ấy đã làm nảy sinh những tư
tưởng được giải phóng và tự do. Bên cạnh đó, vùng Trung Cận đông là nơi tiếp
giáp 3 châu lục, dân cư ở đây vốn theo đa thần giáo, trong quá trình thống nhất
của đế chế đã xuất hiện yêu cầu thống nhất về tư tưởng, trong đó có nhu cầu về
tôn giáo độc thần, vì vậy Kitô giáo đã ra đời trên cơ sở của Do Thái giáo vốn
đang tồn tại ở vùng này
- Sự ra đời của Kitô giáo gắn với tên tuổi
của Giêsu Kitô. Ông sinh ra vào đầu Công nguyên, theo truyền thuyết, bà Maria
đã mang thai một cách màu nhiệm và sinh ra ông. Giêsu là người thông minh. Trên
cở sở kinh thánh và những nghiên cứu hiện có, ta có thể biết được vài điểm về
cuộc sống của Giêsu như sau:
+ Giêsu là người Do Thái.
+ Sống ở đầu thế kỷ I sau Công nguyên.
+ Khoảng 30 tuổi thì bắt đầu truyền, giảng
đạo khoảng 3 năm.
+ Thu nhận và đào tạo 12 người thành Thánh
tông đồ. Phêrô là Thánh tông đồ cả.
+ Bị sự ghen ghét của các phần tử Do Thái
giáo.
+ Sau khi bị kết tội “mưu phản La Mã”, bị
đóng đinh chết trên thập tự giá.
Sau khi Giêsu qua đời, Kitô giáo được hình
thành.
Sự phát triển của Kitô giáo
- Kitô giáo trong thời kỳ cổ đại:
Đây là thời kỳ Kitô giáo xuất hiện và hoạt
động trong cộng đồng người Do Thái nhưng bị những người theo Do Thái giáo đả
kích và chính quyền La Mã đàn áp. Sang thế kỷ II, tầng lớp quý tộc dần theo
Kitô giáo làm thay đổi vị trí và ảnh hưởng của nó, đến cuối thế kỷ II, Kitô
giáo trở thành quốc giáo của Đế chế La Mã.
- Kitô giáo trong thời trung cổ:
Kitô giáo chi phối mọi mặt đời sống kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nhiều nước phong kiến châu Âu. Quá trình mở
rộng ảnh hưởng của đạo Kitô đã gây ra nhiều cuộc xung đột, mâu thuẫn gay gắt
giữa Kitô giáo với Do Thái giáo và Hồi giáo với những cuộc Thập tự chinh tàn
khốc và đẫm máu. Ngay trong bản thân trong Kitô giáo cũng nảy sinh mâu thuẫn
gay gắt, quyết liệt dẫn đến sự phân hoá Kitô giáo lần thứ nhất vào năm 1054
thành 2 phái: Công giáo – thế lực lớn nhất ở phía Tây La Mã. Chính thống giáo ở
phía Đông La Mã.
- Kitô giáo trong thời kỳ cận – hiện đại:
Đến thế kỷ XVI, sự ra đời, phát triển của
giai cấp tư sản và phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện yêu cầu
cải cách Kitô giáo, Với những sự cải cách của Mactin Luthơ (1483 – 1546) và
Giăng Canvanh (1509 – 1546) đã làm xuất hiện Giáo hội cải cách gọi là Tin lành.
Cũng thời kỳ này vua Anh tách Công giáo ở Anh khỏi sự chỉ đạo của Giáo Hoàng và
lập ra Anh giáo. Ngày nay, Kitô giáo có hơn 400 dòng khác nhau trong đó có 4
nhánh lớn là Công giáo, Chính thống giáo, đạo Tin Lành và Anh giáo.
Nội dung cơ bản của giáo lý Công
giáo
Giáo lý Công giáo là một hệ thống từ giản
đơn cho tín đồ đến phức tạp của các học thuyết kinh viện với các quan điểm
triết học và thần học siêu hình, căn cứ vào kinh thánh nhưng phải dựa vào những
lời giải thích truyền thống và là thẩm quyền của Giáo hội. Tín đồ không có
quyền kê cứu kinh thánh. Luật lệ, lễ nghi của Công giáo rất phức tạp (12 tín
điều trong kinh tín kính,10 điều răn của Chúa, 6 điều răn của Hội thánh, 7 phép
bí tích, 1752 điều luật). Công giáo đề cao thuyết thần quyền tuyệt đối (mọi
việc do Chúa định) và thuyết giáo quyền tập trung (Giáo Hoàng là đại diện Thiên
chúa ở trần gian).
Kinh thánh
Kinh thánh theo quan niệm của giáo hội là
“lời Chúa truyền dạy đời đời” là một bộ sách gồm 73 quyển được chia làm 2 bộ
Tân ước và Cựu ước. Ban đầu Kinh thánh được truyền khẩu trong dân gian. Đến thế
kỷ II thì bắt đầu được viết trên da dê, từ thế kỷ IV – VI được viết trên giấy
Papêrút và đến thế kỷ VII mới viết thành sách. Kinh thánh là một kho tàng lịch
sử và điển tích văn học. Trong Kinh thánh bao gồm toàn bộ toàn bộ quan điểm, tư
tưởng của giáo lý và tín điều của các đạo Kitô. Tùy theo đạo mà số kinh này
được chấp nhận theo yêu cầu của giáo lý các đạo. Ví dụ Đạo Chính thống chú
trọng 5 cuốn đầu tiên của Kinh Cựu ước. Đạo Tin Lành lại lấy 4 cuốn Kinh Phúc
âm làm giáo nghĩa cơ bản….
- Kinh thánh chia làm 2 bộ:
+ Bộ Cựu ước: có 46 cuốn. Kể về những
chuyện trước khi Chúa Giê su ra đời. Bộ này chia làm 4 tập.
Tập 1: Bao gồm 5 cuốn đầu tiên (Ngũ kinh)
gồm Sáng thế ký, Xuất hành ký, Lê vi ký, Dân số ký, và Thân mệnh ký.
Tập 2: là bộ sử thư gồm 16 cuốn.
Tập 3:gồm 7 cuốn là những thi ca Triết
học.
Tập 4: gồm 14 cuốn sách Tiên tri.
+ Bộ Tân ước: có 27 cuốn chia làm 4 tập.
Tập 1: có 4 quyển sách nổi tiếng gọi là
sách Phúc âm. 4 cuốn sách này mô tả cuộc đời của Chúa Giêsu, nhất là 3 năm ông
đi truyền đạo.
Tập 2: bao gồm 15 cuốn nói về Công vụ tông
đồ. Ghi lại các tông đồ làm việc như thế nào khi Chúa về trời.
Tập 3: có 7 cuốn. Nói về hoạt động của 3
tông đồ giỏi nhất.
Tập 4: có tên là Khải huyền thư. Ghi lại
việc con người không nghe lời nên bị Chúa trừng phạt
Một số nội dung cơ bản -
Mười hai tín điều cơ bản:
Tín điều là 1 đoạn văn ngắn viết về các
giáo lý chủ yếu tạo ra cơ sở cho bất kỳ phong trào tôn giáo nào hay bất kỳ giáo
hội nào. Tín điều phải được chấp nhận không điều kiện (không chứng minh).
Đối với Công giáo trong kinh Tín kính có
12 tín điều cơ bản. Trong đó 8 tín điều nói về bản chất Thiên Chúa, sự hiện
thân của chúa Giêsu và ơn cứu độ, 4 tín điều còn lại nói về giáo hội, nhà thờ
và cuộc sống vĩnh hằng.
Tín điều căn bản đầu tiên là niềm tin vào
Thiên Chúa và sự màu nhiệm của Thiên Chúa. Thiên Chúa có ba ngôi: Đức Chúa Cha,
Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần nhưng cùng một bản thể. Ba ngôi “đồng vinh,
đồng đẳng, đồng quyền” nhưng có chức năng và vai trò khác nhau. Cha – tạo dựng,
Con – cứu chuộc, Thánh thần – thánh hoá....
- Bảy phép bí tích:
Phép Bí tích: Một nghi lễ của Thiên Chúa
giáo, theo đó ơn Chúa sẽ được đem đến cho các tín đồ.
Trong các nghi lễ, phép bí tích là quan
trọng nhất, thể hiện mối quan hệ giao tiếp giữa con người với Chúa. Có 7 bí
tích:
1. Bí tích rửa tội: nhằm xóa tội tổ tông
và các tội bản thân. Hình thức là lấy nước lã đổ lên đầu kẻ lãnh bí tích rửa
tội và đọc “(tên thánh) tôi rửa tội nhân danh cha, con và thánh thần” còn kẻ
lãnh bí tích thề hứa bỏ ma quỷ lánh tội lỗi, tin theo Chúa Kitô giữ lề luật của
Người.
2. Bí tích thêm sức : để củng cố đức tin
kính Chúa
3. Bí tích thánh thể: ăn bánh thánh, uống
rượu nho với ý nghĩa đó là mình và máu của Chúa Giêsu để được tha tội.
4. Bí tích giải tội: dành cho người sám
hối tội lỗi.
5. Bí tích truyền chức thánh: chỉ dành cho
giám mục và linh mục đã được tuyển chọn để họ có quyền tế lễ chăn dắt dân chúa.
6. Bí tích hôn phối: là bí tích kết hợp
hai tín hữu 1 nam, 1 nữ thành vợ chồng trước mặt Chúa.
7. Bí tích xức dầu bệnh nhân: là bí tích
nâng đỡ bệnh nhân về phần hồn và phần xác, giúp tín đồ chịu đựng đau khổ, dọn
mình trước cái chết.
- Mười điều răn của Chúa
1. Phải thờ kính Thiên Chúa trên hết mọi
sự.
2. Không được lấy danh Thiên Chúa để làm
những việc phàm tục, tầm thường.
3. Dành ngày Chúa Nhật để thờ phụng Thiên
Chúa
4. Thảo kính cha mẹ.
5. Không được giết người.
6. Không được dâm dục.
7. Không được tham lam lấy của người khác
8. Không được làm chứng dối, che dấu sự
giả dối.
9. Không được ham muốn vợ (hoặc chồng)
người khác.
10. Không được ham muốn của cải trái lẽ.
- Sáu điều răn của Hội Thánh
1. Xem lễ ngày Chúa Nhật và ngày lễ buộc.
2. Kiêng việc xác ngày Chúa Nhật.
3. Xưng tội một năm một lần.
4. Chịu lễ ngày phục sinh.
5. Giữ chay những ngày quy định.
6. Kiêng ăn thịt những ngày quy định.
Tổ chức của Công giáo
Quan niệm của Công giáo về Giáo hội
Giáo hội theo nghĩa thông thường là tổ
chức của tôn giáo bao gồm toàn thể các thành viên của một tôn giáo, có hệ thống
tổ chức từ trung ương đến cơ sở.
Trước đây, khi nhắc đến giáo hội, Công
giáo thường hiểu là một tổ chức mà chủ yếu nhấn mạnh đến chức năng lãnh đạo,
truyền giảng bao gồm các chức sắc từ Giáo Hoàng đến các hồng y, giám mục, linh
mục, tu sĩ… mà quên mất các tín đồ, các “con chiên”, cơ sở của công giáo. Ngày
nay giáo hội được Công giáo hiểu bao hàm các giáo phẩm, tu sĩ, giáo dân. Tức
vừa là tổ chức lãnh đạo, chế định ra các thể chế, truyền bá, giáo dục… vừa là
toàn thể cộng đồng tôn giáo – một cộng đồng mà Chúa là đấng tối cao.
Cơ quan lãnh đạo giáo hội công giáo thế
giới ở Toà thánh Vaticăng, do Giáo hoàng trực tiếp lãnh đạo, bên dưới là đoàn
Hồng y giáo chủ do chính Giáo hoàng bổ nhiệm. Cơ quan chủ yếu của Toà thánh gồm
có: Quốc vụ viện, Cục văn thư, Cục tài chính, Toà án, Thánh bộ và Ban bí thư...
Phẩm trật trong giáo hội Công giáo
- Giáo hoàng
Theo quan niệm của Công giáo. Giáo hoàng
là người kế vị Thánh Phêrô (Pierre) và thay mặt Đức Chúa Giêsu làm đầu Hội
thánh ở trần gian. Đức Giáo hoàng là biểu tượng và cơ sở của sự thống nhất
trong đức tin và sự hiệp thông của các tín đồ.
Giáo hoàng có quyền lực cao nhất và có
trách nhiệm điều khiển mọi công việc của Hội thánh
- Giám mục
Dưới Toà thánh Vaticăng là Hội thánh ở các
địa phận. Điều khiển các Toà thánh ở địa phận là các giám mục. Giám mục có
quyền lực tối cao trong địa phận mình cai quản và tuyệt đối tuân lệnh Giáo
hoàng. Giám mục điều hành mọi công việc của địa phận, mỗi năm không được vắng
quá 3 tháng ở các địa phận, không được cư ngụ ở nhà anh em
- Linh mục
Cơ sở thấp nhất của Hội thánh là Giáo xứ
(xứ đạo, họ đạo). Điều khiển giáo xứ và chăn dắt tín đồ là linh mục, linh mục
tuyệt đối tuân lệnh giám mục. Có hai loại linh mục: linh mục “Triều” là những
linh mục theo đơn vị hành chính từ xứ họ trở lên, linh mục “Dòng” là linh mục
làm chuyên môn. Các linh mục có nhiệm vụ chăm sóc giáo dân, không được rời xa
quá 2 tháng trong một năm, quyền lợi của các linh mục là quyền được làm các bí
tích và và giáo huấn cho các tín đồ.
Việc đào tạo một linh mục rất được coi
trọng. Linh mục “Triều” phải qua 7 năm ở chủng viện, 2 năm giúp xứ, 6 năm học ở
Đại chủng viện (học Triết học, tâm lý, ngoại ngữ, tâm lý, xã hội học, siêu hình
học giáo sử...). Sau đợt sát hạch về về tư cách, ý chí, sức khoẻ, thi cử... các
chủng sinh mới được thụ phong linh mục.
Việc thụ phong từ linh mục lên giám mục
cũng rất phức tạp: phải trên 30 tuổi, đã có 5 năm làm linh mục, có bằng cử nhân
hoặc tiến sĩ thần học. Việc thụ phong giám mục phải trải qua 3 giai đoạn: đề
nghị (hay tiến cử) của giáo dân, giai đoạn tuyên nhiệm (bổ nhiệm) của Giáo
hoàng, và cuối cùng là thụ phong.
Công giáo ở Việt Nam
Sự du nhập và phát triển của Công
giáo ở Việt Nam
- Vào thế kỷ XVI, Công giáo (Thiên chúa
giáo) truyền vào Việt Nam
do các giáo sĩ Bồ đào nha, Tây ban nha và sau là Pháp. Sự truyền đạo giai đoạn
đầu ít gặp trở ngại do tính khoan dung của người Việt Nam và tính
không đối dầu của tôn giáo bản địa nhưng sự truyền đạo đạt kết quả không cao.
Sau đó Pháp vận động Giáo Hoàng cho phép độc quyền truyền đạo tại Việt Nam . Hội truyền
giáo Pa-ri được thành lập năm 1660 cùng nhà nước Pháp tuyển chọn, đào tạo giáo
sĩ, cử sang hoạt động ở Việt Nam
và một số nước khác.
- Cuối thế kỷ XVIII, Giáo hội Công giáo
Việt Nam đã có ba địa phận (Đàng trong, Đàng ngoài và Tây đàng ngoài) với
khoảng 3 vạn giáo dân và 70 linh mục Việt Nam. Dưới triều Nguyễn, lúc đầu sự
truyền giáo được nhà Nguyễn tạo nhiều điều kiện thuận lợi, nhưng sau đó thấy
những hoạt động của giáo sĩ vừa truyền đạo vừa phục vụ cho âm mưu xâm lược của
thực dân Pháp nên nhà Nguyễn đã cấm đạo nhất là từ khi thực dân Pháp bộc lộ rõ
ý đồ thôn tính Việt Nam. Việc cấm đạo gay gắt tạo sự chia rẽ nhất định trong
nhân dân.
- Trong hơn 100 năm dưới chế độ thực dân,
chúng luôn lợi dụng Công giáo để xâm lược và duy trì sự thống trị. Chúng luôn
lợi dụng Công giáo để chèn ép các tôn giáo khác gây chia rẽ giữa các tín đồ
Công giáo với tín đồ các tôn giáo khác hoặc với người không có đạo. Dưới ách
thống trị của đế quốc, thực dân, Giáo hội Công giáo được nhiều đặc quyền đặc
lợi. Những tổ chức, giáo sĩ theo chúng được ưu đãi. Tuy thế, giáo hội Công giáo
ở Việt Nam
vẫn bị coi là giáo hội thuộc địa. Có thể thấy điều đó rất rõ sau gần 400 năm
truyền đạo vào nước ta, mãi đến năm 1933 mới có một giáo sĩ Việt Nam được phong
làm giám mục.
- Do sự thao túng bởi các thế lực bên
ngoài, trong cuộc kháng chiến đánh đuổi đế quốc, thực dân giáo hội đã đứng về
phía xâm lược. Năm 1951 Hội nghị các giám mục Đông dương đã họp và đã đưa ra
thư chung cấm người Công giáo tham gia kháng chiến. Năm 1960, Hội nghị các giám
mục miền Nam
ra thư mùa chay, nhắc lại thư chung năm 1951 ngăn cản đồng bào Công giáo tham
gia sự nghiệp giải phóng dân tộc. Mặc dù vậy, một bộ phận chức sắc đã dung hoà
được quyền lợi của dân tộc với tôn giáo và đông đảo tín đồ với ý thức dân tộc
và lòng yêu nước đã đứng về phía kháng chiến và đã đóng góp không chỉ vật chất,
tinh thần mà còn cả xương máu cho cách mạng
Tình hình Công giáo hiện nay ở Việt Nam
- Sau 1975, với thắng lợi vĩ đại của sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và những tác động của
sự chuyển đổi của Công đồng Vaticăng II từ sau năm 1975 Giáo hội Công giáo Việt
Nam có nhiều sự biến đổi. Năm 1976, Giáo hoàng phong chức Hồng y đầu tiên cho
một Giám mục Việt Nam .
Năm 1980, các Giám mục trong cả nước đã họp hội nghị để thống nhất đường lối
của giáo hội. Hội nghị đã thành lập Hội đồng giám mục Việt Nam và ra thư
chung 1980 với phương châm “sống phúc âm trong lòng dân tộc để phục vụ hạnh
phúc đồng bào”.
- Trong những năm gần đây Công giáo nước
ta có chiều hướng phát triển. Số lượng tín đồ tăng do sự gia tăng dân số tự
nhiên và một số tín đồ khô đạo, nhạt đạo trở lại sinh hoạt. Số tín đồ Công giáo
nước ta hiện nay khoảng 5 triệu, hiện nay đang có cuộc sống ổn định và phấn
khởi trước cuộc đổi mới và chính sách tôn giáo của Đảng đang chăm lo cải thiện
đời sống và tham gia vào các hoạt động xã hội nhân đạo, an ninh trật tự, phòng
chống các tệ nạn xã hội và thể hiện cuộc sống theo phương châm “tốt đời, đẹp
đạo”, “kính Chúa yêu nước”.
(ST)
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ
BẢN VỀ HỒI GIÁO
Hà Lê
Phần này trình bày
những vấn đề cơ bản về Hồi giáo, bao gồm khái quát về lịch sử ra đời và phát
triển của Hồi giáo và nội dung cơ bản của Hồi giáo.
Khái quát về lịch sử
ra đời và phát triển của Hồi giáo
Hoàn cảnh lịch sử
dẫn đến sự ra đời của hồi giáo
Hồi giáo (tôn giáo của
tộc người Hồi) là cách gọi của người Trung Quốc gọi đạo Islam (theo tiếng Ảrập
nghĩa là phục tùng theo ý chân chủ) xuất hiện ở bán đảo Ảrập vào khoảng thế kỷ
thứ VII. Ảrập Xêut là quê hương của Hồi giáo. Hồi giáo ra đời do hàng loạt
nguyên nhân kinh tế, xã hội, tư tưởng gắn liền với sự chuyển biến từ chế độ
công xã nguyên thủy sang xã hội có giai cấp của các tộc người vùng Trung cận
Đông và yêu cầu thống nhất các bộ lạc trong bán đảo Ảrập thành một nhà nước
phong kiến thần quyền do đó cần một tôn giáo độc thần để thay thế những tôn
giáo đa thần tồn tại ở đó từ trước.
Sự ra đời và phát
triển của Hồi giáo
Sự ra đời của Hồi giáo
gắn liền với tên tuổi một người nổi tiếng là giáo chủ Mohammed (Mahomet).
Mâohammed (570 – 632) là một người thuộc gia tộc Casimu ở Mecca .
Tục truyền rằng khi
Mohammed được 40 tuổi (năm 610) ông một mình vào trong một hang nhỏ ớ núi Xira,
ngoại thành Mecca để tu luyện và trầm ngâm suy tưởng. Trong một đêm thánh Allah
(Ala – Chân chủ) đã cử thiên sứ Gabrien đến truyền đạt Thần dụ và lần đầu tiên
“khải thị” cho ông chân lý của Kinh Coran khiến ông trở thành “Thánh thụ mệnh”
và ông tự xưng là đã tiếp thụ sứ mệnh của chân chủ trao cho và bắt đầu truyền
đạo. Đầu tiên ông bí mật truyền giáo trong số những bạn bè thân thiết và họ trở
thành những tín đồ đầu tiên, về sau sự truyền đạo trở nên công khai, đối tượng
mở rọâng tới quần chúng ở Mecca
nhưng bị giới quý tộc đả kích và bức hại. Môhamet đã trốn được đến Yathrib (sau
đổi thành Madinah - Thành phố tiên tri). Ơû đây ông phát động và tổ chức quần
chúng đấu tranh và cuộc cách mạng của ông giành được thắng lợi. Sau đó ông tổ
chức vũ trang cho các tín đồ (Muslim) và dùng khẩu hiệu “Chiến đấu vì Allah” và
đè bẹp được giới quý tộc ở Mecca.
Cùng với việc mở rộng
phạm vi truyền đạo Mohamet còn liên minh với các bộ tộc và dùng sức mạnh buộc
các thế lực còn lại phải quy thuận theo Hồi giáo. Có thể nói cuộc cách mạng do
Mohammed lãnh đạo là một cuộc cách mạng tôn giáo và cải cách xã hội kết hợp với
nhau. Sự ra đời của Hồi giáo đã mở ra một thời kỳ lịch sử mới thống nhất trên
bán đảo Ảrập.
Hiện nay trên thế giới
có khoảng 900 triệu tín đồ Hồi giáo có mặt ở hơn 50 quốc gia trên khắp các châu
lục nhưng tập trung chủ yếu ở các nước Ảrập (trừ Li băng và Ixraen) và chiếm
đại đa số ở các nước như Iran, Irắc, Pakistan, Apganistan, Thổ Nhĩ Kỳ… và một
số nước vùng Trung Á và cả ở Đông nam Á (chủ yếu ở Inđonesia). Một số quốc gia
tự coi mình là quốc gia Hồi giáo. Tuy nhiên Hồi giáo ở các quốc gia khác nhau
nên đã phân chia thành các hệ phái khác nhau nhưng về cơ bản không đối lập
nhau.
Nội dung
cơ bản của Hồi giáo
Giáo lý của Hồi
giáo
Đặc điểm giáo lý của
Hồi giáo là rất đơn giản nhưng luật lệ và lễ nghi rất phức tạp và nghiêm khắc
thậm chí đến mức khắt khe và nhiều khi nó vượt ra khỏi phạm vi tôn giáo và trở
thành một chuẩn mực pháp lý của xã hội. Trong Hồi giáo khó thấy ranh giới giữa
cái thiêng và cái tục.
Giáo lý cơ bản của Hồi giáo
là Kinh Coran (Coran theo nguyên nghĩa tiếng Ảrập là “tụng đọc”) vì đó là những
lời nói của Môhamet được ghi lại và những lời này do thánh Allah thông qua
thiên sứ Gabrien “khải thị” cho Mohammed. Kinh Coran tổng cộng có 30 quyển, 114
chương hơn 6200 tiết (là những đoạn thơ). Nội dung Kinh Coran vô cùng phong phú
đại thể bao gồm những tín ngưỡng cơ bản và chế độ tôn giáo của đạo Hồi và những
ghi chép về tình hình xã hội trên bán đảo Ảrập đương thời cùng với những chính
sách về chủ trương xã hội, quy phạm luân lý đạo đức… Giáo lý Hồi giáo gồm các
điểm cơ bản sau:
+ Allah là đấng tối cao
sinh ra trời đất.
+ Allah là đấng tối cao
sinh ra muôn loài trong đó có con người.
+ Con người là bình
đẳng trước Allah nhưng số phận và tài năng tạo nên sự khác nhau giữa những con
người .
+ Số phận con người có
tính định mệnh và do Allah sắp đặt.
+ Tín đồ Hồi giáo phải
luôn có thái độ đúng: trong cộng đồng (Hồi giáo) thì phải kiên nhẫn chịu đựng,
phục tùng Allah, đối với người ngoài thì phải kiên quyết bảo vệ mọi lợi ích của
Hồi giáo và phải có tinh thần thánh chiến.
+ Về y lý: khuyên bảo
con người phải giữ gìn sức khỏe.
+ Những lời khuyên về
đạo lý:
• Tôn thờ thần cao nhất
là Allah.
• Sống nhân từ độ
lượng.
• Thưởng phạt công
minh, trừng phạt chủ yếu đối với kẻ thù.
• Thánh chiến là thiêng
liêng và bắt buộc.
• Kiên định và nhẫn nại
trong mọi thử thách.
• Tin vào định mệnh và
sự công minh của Allah.
• Cấm một số thức ăn:
thịt heo, rượu bia và các chất có men. (Heo là con vật gắn với khởi nguyên:
phát triển là nhờ chăn nuôi).
• Trung thực.
• Không tham của trộm
cắp
• Làm lễ và tuân thủ
các nghi lễ Hồi giáo.
Tín ngưỡng Hồi
giáo
Xét về niềm tin, tín đồ
Hồi giáo tin vào Alah, sứ giả Mohammed, thiên sứ, thiên kinh, hậu thế.
- Tin vào Alah: Đây là
một nội dung quan trọng của tín điều cơ bản. Theo Hồi giáo, Alah là vị thần duy
nhất trong vũ trụ, tự sinh ra và bất tử. Alah sáng tạo thế giới, và là chúa tể.
Hồi giáo không thờ ảnh tượng của Alah vì họ quan niệm Alah toả khắp nơi, không
một hình tượng nào đủ để thể hiện Alah.
- Tin vào sứ giả
Mohammed: Giáo lý Hồi giáo cho rằng Allah từng cử nhiều sứ giả đến các dân tộc
khác nhau trong những thời kỳ nhất định để truyền đạt ngôn luận của Allah cho
con người. Có đến 5 sứ giả. Trong đó Mohammed là sứ giả cuối cùng mà Allah chọn
lựa. Đây cũng là sứ giả xuất sắc nhất. Chỉ có Mohammed là được nhận những ngôn
luận của Allah một cách đầy đủ nhất.
- Tin Thiên kinh: Allah
từng trao thiên kinh cho các sứ giả trước Mohammedû, mỗi người một bộ. Nhưng
những bộ ấy không đầy đủ, bị thất lạc hoặc bị người đời sau giải thích sai
lệch. Chỉ có bộ thiên kinh mà Allah truyền cho Mohammed là bộ kinh điển cuối
cùng nhưng đầy đủ nhất. Đó là kinh Coran. Vì vậy, kinh Coran dưới mắt người Hồi
giáo làø bộ kinh điển thần thánh duy nhất.
- Tin vào Thiên sứ:
Thiên sứ do Allah tạo ra, là một loại linh hồn, vô hình trước con người, không
có tính thần. Mỗi thiên sứ có một nhiệm vụ. Trong Thiên sứ cũng có sự phân chia
cao thấp. Cao nhất là thiên sứ Gabrien. Con người không phải phủ phục trước
thiên sứ.
- Tin vào hậu thế: Sẽ
có ngày tận thế. Trong ngày ấy, mọi sinh linh sẽ kết thúc để rồi tất cả sống
lại nhận sự phán xét của Allah. Dựa vào hành vi của mỗi người mà Allah quyết
định: thiên đường dành cho người thiện, địa ngục là nơi của kẻ ác.
Nghĩa vụ Hồi giáo
Hệ thống nghĩa vụ của
tín đồ Hồi giáo rất rộng và chi tiết, dựa trên cơ sở kinh Coran và sách Thánh
huấn.
Các tín đồ có 5 nghĩa
vụ chủ yếu. Đó là niệm, lễ, trai, khoá, triều. Đây là 5 trụ cột của Hồi giáo,
tạo nên sườn cốt cho đời sống của người Hồi giáo.
- Niệm: tín đồ phải
thường xuyên tụng niệm thành tiếng tín điều cơ bản (Vạn vật không phải là Chúa,
chỉ có Chân chúa; Mohammed là sứ giả của Chúa).
- Lễ: tức là lễ bái.
Các tín đồ mỗi ngày hành lễ 5 lần (sáng, trưa, chiều, tối, đêm). Thứ 6 hàng
tuần thì làm lễ tại thánh đường 1 lần vào buổi trưa. Trước khi làm lễ, tín đồ
phải rửa mặt, tay chân, quỳ xuống, hướng về đền Kabah để cầu nguyện.
- Trai: tức là trai
giới. Tháng 9 theo lịch Hồi là tháng trai giới của Hồi giáo. Trong tháng này
mọi tín đồ không ăn uống, quan hệ tính dục từ khi mặt trời mọc đến khi mặt trời
lặn, trừ một số trường hợp đặc biệt. Kết thúc tháng này là lễ Phá bỏ sự nhịn
đói, các tín đồ sẽ cùng nhau cầu nguyện, sau đó tặng quà cho nhau, và bố thí.
- Khoá: các tín đồ có
nghĩa vụ đóng góp cho các hoạt động từ thiện. Sự đóng góp đó có thể là tự
nguyện, nhưng cũng có khi là bắt buộc dựa vào tài sản của tín đồ (khoảng 1/40
tài sản).
- Triều: Các tín đồ có
nghĩa vụ hành hương về Mecca
ít nhất 1 lần trong cuộc đời, để triều bái Kabah trong tháng 12 theo lịch Hồi
(hành hương Haji). Cuộc lễ triều bái kéo dài trong 10 ngày. Ngày cuối cùng tín
đồ sẽ hiến lễ là một con cừu hoặc lạc đà, hoặc một con vật có sừng. Triều bái Mecca trong dịp này là
chính triều. Còn phó triều thì diễn ra trong thời gian bất kỳ của năm và ít
nghi lễ hơn.
Ngoài ra, Hồi giáo còn
có nhiều quy định cụ thể về hành vi của tín đồ trong các mối quan hệ xã hội.
Tổ chức Hồi giáo
- Thánh đường Hồi giáo
là nơi sinh hoạt tập thể và có tính thiêng với các tín đồ.
Thánh đường gồm có Đại
Thánh đường và Tiểu Thánh đường. Trong Thánh đường có bài trí đơn giản, không
bàn ghế, không có đồ thờ quý hay nhạc cụ, chỉ có chiếc gậy mà theo truyền
thuyết là của giáo chủ Môhammet đã dùng nó để đi truyền đạo.
- Hệ thống chức sắc gồm
có Giáo chủ (Mufty), phó giáo chủ (Naib Mufty), Giáo cả (Ha Kim), phó giáo cả
(Naib Ha Kim), Imân, Khatib, Tuan, Bilat, Slak, HaDji.
Hồi giáo ở Việt Nam - Sự du nhập Hồi giáo vào Việt Nam
- Người theo đạo Hồi ở
Việt Nam hầu hết là người dân tộc Chăm. Đạo Hồi du nhập vào Việt Nam vào khoảng
thế kỷ X – XIV bằng con đường hòa bình cùng với quá trình tan rã của quốc gia
Chiêm Thành (Chămpa) và sự suy giảm dần của đạo Hinđu - tôn giáo chính thống
của người Chăm. Hiện nay vấn đề thời điểm cụ thể Hồi giáo vào Việt Nam vẫn còn
nhiều ý kiến khác nhau.
- Theo kết quả nghiên
cứu của một số nhà nghiên cứu văn hóa Chăm thì khoảng từ thế kỷ X trở đi, vương
quốc Chăm với sự phát triển khá mạnh về hàng hải nên đã có sự tiếp xúc và giao
lưu văn hóa và buôn bán với người Indonesia và Malaysia là những nước đã có đạo
Hồi lan rộng. Do tình hình chiến tranh liên miên và thất bại, vương triều dần
suy yếu và niềm tin vào đạo Hinđu dần giảm sút nên đạo Hồi đã bám rễ được vào
một bộ phận người Chăm.
Vương quốc Chămpa (từ
Quảng Bình đến Bình Thuận) sau những cuộc giao tranh từ thế kỷ XI – XIII dần
dần bị suy yếu. Về sau bị lấn át bởi cuộc Nam tiến của người Việt. Năm 1471,
vua Lê Thánh Tôn đánh chiếm Vigiaya (Bình Định) và vua Chămpa bỏ chạy. Năm 1693
chúa Nguyễn tiến đánh và bắt được vua Chăm và cho làm quan ở vùng Bình Thuận
(lúc này vua Chăm chỉ còn trên danh nghĩa). Trong hai thời điểm này người Chăm
bỏ chạy vào miền Nam (An
Giang), chạy sang Campuchia (Công pông chàm) và sang Malaysia lập nên bang Ache. Đầu thế
kỷ XX, theo thống kê của người Pháp, người Chăm ở Việt Nam có khoảng
30.000 người. Hiện nay người Chăm có khoảng 200.000 người trong đó ở miền Trung
Việt Nam (Ninh thuận, Bình Thuận) là 50.000, miền Nam 50.000 (TP. Hồ Chí Minh,
Đồng Nai, Tây Ninh, An Giang), Ở Campuchia (Côngpôngchàm) 50.000 và ở Malaysia
30.000 người. Phần lớn người Chăm ở miền Trung theo đạo Hinđu, chỉ có một ít
theo đạo Hồi, người Chăm ở miền Nam gọi là Chăm Ixlam, theo Hồi giáo chính
thống, không bị pha trộn với phong tục tập quán, tín ngưỡng cũ và thường xuyên
liên hệ với thế giới Hồi giáo qua Hồi giáo Campuchia và Malaysia.
Hồi giáo ở Việt Nam hiện nay
- Do vị trí địa lý và
hoàn cảnh truyền đạo, điều kiện sống và sự giao lưu của đồng bào Chăm với bên
ngoài nhất là vơi thế giới Hồi giáo mà ở Việt Nam hình thành 2 khối Hồi giáo với
nhiều khác biệt đáng kể:
+ Hồi giáo vùng Ninh
Thuận, Bình Thuận là Hồi giáo không chính thống gọi là Chăm Bani, đượm sắc thái
của yếu tố sinh hoạt và tôn giáo bản địa. Các lễ thức được tiếp biến cho phù
hợp với chế độ gia đình mẫu hệ và các lễ liên quan đến chu kỳ đời sống của con
người và các lễ thức nông nghiệp, không có liên hệ với Hồi giáo thế giới.
+ Hồi giáo ở TP. Hồ Chí
Minh, An Giang, Đồng Nai, Tây Ninh gọi là Chăm Ixlam theo Hồi giáo chính thống,
không bị pha trộn với phong tục, tập quán, tín ngưỡng cũ và thường xuyên liên
hệ với thế giới Hồi giáo Campuchia và Malaysia.
Tuy có sự khác nhau
nhưng giữa hai khối Hồi giáo này không có sự kỳ thị mà hòa hợp với nhau.
- Về tổ chức, thời Pháp
thuộc có tổ chức Saykhon Ixlam đại diện cho người ChămXà và những người Mã Lai
theo Hồi giáo. Năm 1960 khối người Chăm Hồi giáo lập ra “Hiệp hội Chăm Hồi giáo
Việt Nam” có văn phòng đặt tại Sài Gòn. Năm 1966 có thêm tổ chức “Hội đồng giáo
cả các Thánh đường Hồi giáo Việt Nam” đặt văn phòng tại Châu Đốc và tồn tại cho
đến ngày nay.
- Hiện nay các tín đồ
Hồi giáo sinh hoạt bình thường, vừa tuân phục các giáo luật khắt khe vừa thực
hiện tốt các nghĩa vụ công dân, tôn trọng sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và sự
quản lý của chính quyền mong muốn được sinh hoạt tôn giáo hợp pháp, muốn duy
trì mối quan hệ với thánh địa Mecca. Nói chung trong những năm qua tín đồ Hồi
giáo tăng chậm do đồng bào Chăm thường sống ở những vùng có kinh tế khó khăn,
có thu nhập thấp, diện nghèo còn cao và rất cần có sự quan tâm hỗ trợ của các
cấp chính quyền để xây dựng cuộc sống mới tốt đẹp hơn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét