Thập tự chinh
Thập tự chinh là một
loạt các cuộc chiến tranh tôn giáo, được kêu gọi bởi Giáo hoàng và tiến hành
bởi các vị vua và quý tộc là những người tình nguyện cầm lấy cây thập giá với
mục tiêu chính là phục hồi sự kiểm soát của Kitô giáo với vùng Đất Thánh. Quân
thập tự đến từ khắp Tây Âu, và đã có một loạt các chiến dịch không liên tục
giữa năm 1095 và 1291. Các chiến dịch tương tự ở Tây Ban Nha và Đông Âu tiếp
tục vào thế kỷ 15. Các cuộc Thập Tự Chinh được chiến đấu chủ yếu giữa người
Công giáo La Mã chống lại người Hồi giáo và các tín hữu Kitô giáo theo Chính
Thống giáo Đông phương trong Byzantium, với các chiến dịch nhỏ hơn tiến hành
chống lại người Slav ngoại giáo, Balts ngoại giáo, Mông Cổ, và người Kitô giáo
ngoại đạo. Chính Thống giáo Đông phương cũng tham gia chiến đấu chống lại lực
lượng Hồi giáo trong một số cuộc Thập Tự Chinh. Thập tự chinh được thề và đã
được cấp một ơn toàn xá bởi Đức Giáo hoàng.
Các cuộc Thập Tự Chinh
ban đầu có mục tiêu thu hồi lại Giêrusalem và Đất Thánh khỏi ách thống trị của
Hồi giáo và các chiến dịch của họ đã được xuất phát từ lời kêu gọi của các nhà
lãnh đạo đế chế Byzantine để được sự giúp đỡ nhằm chống lại sự mở rộng của
người Thổ Seljuk theo đạo Hồi tới Anatolia. Thuật ngữ này cũng được sử dụng để
mô tả các chiến dịch đương thời và sau đó được thực hiện ở thế kỷ 16 ở vùng
lãnh thổ bên ngoài Levant, thường là để chống lại ngoại giáo, và nhân dân bị
khai trừ giáo tịch, cho một hỗn hợp của các lí do tôn giáo, kinh tế, và chính
trị. Sự kình địch giữa các quốc gia Kitô giáo và Hồi giáo đã dẫn liên minh giữa
các phe phái tôn giáo chống lại đối thủ của họ, chẳng hạn như liên minh Kitô
giáo với Vương quốc Hồi giáo của Rûm trong cuộc Thập Tự Chinh thứ năm.
Các cuộc Thập Tự Chinh
đã có một số thành công tạm thời, nhưng quân Thập tự cuối cùng bị buộc phải rời
khỏi Đất Thánh. Tuy nhiên các cuộc Thập Tự Chinh đều tác động từ chính trị,
kinh tế và xã hội sâu rộng ở châu Âu. Bởi vì các cuộc xung đột nội bộ giữa các
vương quốc Thiên chúa giáo và quyền lực chính trị, một số cuộc thám hiểm thập
tự chinh đã chuyển hướng từ mục tiêu ban đầu của họ, chẳng hạn như cuộc Thập Tự
Chinh thứ tư, dẫn đến sự chia cắt của Constantinopolis Thiên chúa giáo và sự
phân vùng của đế chế Byzantine giữa Venice và quân Thập tự. Cuộc Thập tự chinh
thứ sáu là cuộc thập tự chinh đầu tiên xuất phát mà không có sự cho phép chính
thức của Đức Giáo hoàng. Các cuộc Thập Tự Chinh thứ bảy, thứ tám và thứ chín đã
dẫn đến kết quả là chiến thắng của Mamluk và triều đại Hafsid, như cuộc Thập Tự
Chinh thứ chín đã đánh dấu sự kết thúc của cuộc Thập Tự Chinh ở Trung Đông.
Bối cảnh, nguyên
nhân, động cơ
Khoảng thế kỷ thứ 7,
những người đứng đầu đạo Hồi tiến hành các cuộc trường chinh xâm chiếm các vùng
đất mới. Từ năm 660 đến năm 710, các giáo sĩ Hồi giáo đã chiếm được một lãnh
thổ rộng lớn ở Bắc Phi, Thổ Nhĩ Kỳ. Đến năm 720, những kỵ binh Hồi giáo chiếm
Tây Ban Nha rồi thọc sâu vào đến tận lãnh thổ Pháp; từ năm 830 đến năm 976
Sicilia và miền nam Ý rơi vào tay người Hồi giáo. Lúc này, những đoàn hành
hương của tín đồ Kitô giáo về các miền Đất Thánh mà trong đó Palestine là nơi
thiêng liêng nhất bắt đầu phổ biến từ thế kỷ 4 và đến thế kỷ 11 đã trở nên rất
thịnh hành. Người Thổ Seljuk Hồi giáo không cố ý ngăn cản những đoàn hành hương
nhưng họ thu rất nhiều loại thuế, phí gây ra làn sóng phẫn nộ trong cộng đồng
Kitô giáo.
Cũng sang thế kỷ 11, Đế
quốc Byzantine (Đế quốc Đông La Mã) chỉ còn lại một vài vùng đất ở châu Âu. Lúc
này, nguy cơ người Hồi giáo tràn sang phía Tây đã hiện hữu đối với người Kitô
giáo đặc biệt là sau khi quân đội Seljuk đánh bại quân Byzantine trong trận
Manzikert năm 1071 và bắt được cả hoàng đế Romanus IV thì con đường tiến về
Constantinopolis đã được khai thông. Suleyman, một thủ lĩnh người Thổ Nhĩ Kỳ và
các chiến binh của ông thậm chí còn định cư ngay tại Niacea, chỉ cách
Constantinopolis vài dặm. Để giành lại các vùng đất đã mất ở Tiểu Á, Hoàng đế
Byzantine kêu gọi sự giúp đỡ từ phía Tây nhưng không có kết quả. Sau đó, họ kêu
gọi sự giúp đỡ từ Giáo hoàng và để đổi lại, họ hứa sẽ xóa bỏ sự phân ly giữa Chính
thống giáo Đông phương và Công giáo La Mã xảy ra năm 1054. Ngày 27 tháng 11 năm
1095 tại Hội nghị giám mục, Giáo hoàng Urban II (tại vị 1088-1099) kêu gọi các
hiệp sỹ, hoàng tử phương Tây và tín đồ Kitô giáo đến giúp đỡ tín hữu Kitô giáo
phương Đông đồng thời giành lại những vùng Đất Thánh đã mất. Mặc dù những cuộc
thánh chiến mang đậm màu sắc tôn giáo, nhưng giới sử học cho rằng bên trong nó
còn có các động cơ kinh tế, chính trị, xã hội:
Tôn giáo: việc thánh
chiến để bảo vệ và lấy lại những vùng đất của người Kitô giáo được hậu thuẫn
bởi thay đổi quan trọng trong phong trào cải cách Giáo hội đang diễn ra. Trước
khi Giáo hoàng Urban II phát ra lời kêu gọi, quan niệm Chúa sẽ thưởng công cho
những ai chiến đấu vì chính nghĩa đã rất thịnh hành. Công cuộc cải cách của
Giáo hội đã dẫn đến một thay đổi quan trọng: chính nghĩa là không chỉ là chịu
đựng tội lỗi trong thế giới mà phải là cố gắng chỉnh sửa chúng. Các đạo quân
thập tự chinh là tiêu biểu cho tinh thần ấy trong giai đoạn Giáo hội đang cải
tổ mạnh mẽ.
Kinh tế, chính trị:
những cuộc thập tự chinh diễn ra trong thời kỳ mà dân số châu Âu phát triển
mạnh mẽ và các học giả cho rằng trên khía cạnh này nó có động cơ tương tự như
cuộc tấn công của người Đức vào phương Đông cũng như cuộc xâm chiếm của người
Tây Ban Nha. Những cuộc thập tự chinh nhằm mục đích chiếm giữ những vùng đất
mới để mở rộng sự bành trướng của phương Tây với các quốc gia Địa Trung Hải.
Tuy nhiên thập tự chinh khác với những cuộc tấn công, xâm chiếm của người Đức
và người Tây Ban Nha ở chỗ nó chủ yếu dành cho tầng lớp hiệp sỹ và nông dân du
cư ở Palestine .
Xã hội: tầng lớp hiệp
sỹ đặc biệt nhạy cảm với sự tăng trưởng nhanh chóng của dân số châu Âu trong
giai đoạn này. Họ được đào tạo, huấn luyện để tiến hành chiến tranh và trong
bối cảnh dân số phát triển mạnh mẽ, những cuộc xung đột để giành đất đai đã xảy
ra. Giáo hoàng Urban II đã nói với các hiệp sỹ của nước Pháp như sau: "Đất
đai mà các bạn cư ngụ thì quá hẹp đối với một dân số lớn; nó cũng không thừa
của cải; và nó khó lòng cung cấp đủ thực phẩm cho những người trồng trọt trên
nó. Đây là lý do vì sao các bạn phải tàn sát và tàn phá lẫn nhau." Như
vậy, họ được khuyến khích đi viễn chinh để giành đất và trên góc độ nào đó các
cuộc thập tự chinh là phương tiện bạo lực nhằm rút bạo lực ra khỏi đời sống
thời Trung Cổ. cũng như đem lại lợi ích kép như lời Thánh Bernard thành
Clairvaux đã nói: "Sự ra đi của họ làm cho dân chúng hạnh phúc, và sự đến
của họ làm phấn khởi những người đang thúc giục họ giúp đỡ. Họ giúp cả hai
nhóm, không những bảo vệ nhóm này mà còn không áp bức nhóm kia.".
Các cuộc
Thập tự chinh
Về danh sách các cuộc
thập tự chinh, chưa có sự thống nhất cao trên thế giới, danh sách này có thể
lên đến 9 cuộc tùy quan điểm.
Thập tự chinh thứ
nhất (1095 - 1099)
Tháng 9 năm 1095, Giáo
hoàng Urban II đã có một bài thuyết giảng tại Clermont, miền nam nước Pháp kêu
gọi giới quý tộc đảm nhiệm cuộc viễn chinh vào Đất Thánh. Lời kêu gọi này đã
gây tác động đến mọi tầng lớp trong xã hội phương Tây và dẫn đến một cuộc thập
tự chinh mang tính đại chúng với sự tham gia đông đảo của nông dân và người
nghèo ở miền bắc Pháp và châu thổ sông Rhine cùng với một số hiệp sỹ và tu sỹ
vào tháng 2 năm 1096, được lãnh đạo bởi một thầy tu ẩn dật người Pháp tên là
Piere l'Ermite. Đội quân đông đảo nhưng trang bị thô sơ và không được tổ chức
tốt này tấn công người Do Thái, từ Cologne (Đức)
vượt qua Bulgaria , Hungary rồi kéo đến Constantinople .
Sau khi được hoàng đế Alexios I của Byzantine đưa qua eo Bosphorus, họ nhanh
chóng bị quân đội Thổ Nhĩ Kỳ đánh tan.
Ngay sau đó, một đội
quân thực sự được tổ chức tốt do giới quý tộc lãnh đạo đã lên đường tiến hành
cuộc thập tự chinh chính thức lần thứ nhất. Những chỉ huy gồm có: Robert xứ Normandy (con trai của William the Conqueror); Godfrey xứ
Bouillon cùng hai anh trai là Baldwin xứ Boulogne
và Robert xứ Flanders; Raymon IV xứ Toulouse ;
Bohemond I xứ Antioch , Tancred xứ Taranto ,... Họ dẫn đầu 4
đạo quân theo nhiều hành trình đường bộ và đường biển đến Constantinople năm
1096 và 1097 để từ đó tấn công nhà Seljuk ở Rum. Cuối tháng 4 năm 1097, đội
quân thập tự chinh tiến vào lãnh thổ của người Seljuk và giành được thắng lợi
đầu tiên trong trận Dorylaeum[10] ngày 1 tháng 7 năm 1097. Chiến thắng có tính
chất bước ngoặt của thập tự quân là việc đánh chiếm thành phố cảng Antioch [11] và đã giành được thắng lợi sau cuộc vây hãm
kéo dài 8 tháng, mở thông đường tiến về Jerusalem .
Ngày 7 tháng 6 năm 1099, Thập tự quân tới Jerusalem
và bắt đầu vây hãm thành phố. Ngày 15 tháng 7 năm 1099, thập tự quân đột kích
chiếm Jerusalem và tàn sát các tín đồ Hồi giáo, Do Thái giáo cũng như cả Chính
thống giáo Đông phương[12]. Trong khi đoàn quân chủ yếu tiến đến Antiochia và Jerusalem thì Baldwin xứ Boulogne
tách đội quân của mình ra để chiếm Edessa [13],
nơi ông thiết lập Công quốc thập tự quân đầu tiên ở phương Đông. Sau đó với sự
giúp đỡ của hạm đội của Venice và Genoa, Thập tự quân chiếm được toàn bộ bờ
Đông Địa Trung Hải và thiết lập bá quốc Tripoli và 1 số tiểu quốc khác.
Kết quả của Thập tự
chinh thứ nhất là đã lập ra một loạt những Công quốc Thập tự quân: Edessa , Antioch , Tripoli ... và đặc biệt là Jerusalem trải rộng trên khắp vùng Cận Đông.
Thập tự chinh thứ
hai (1147 - 1149)
Năm 1144, việc quân Hồi
giáo tái chiếm Edessa và uy hiếp Jerusalem đã dẫn đến cuộc
thập tự chinh thứ hai do Bernard thành Clairvaux tích cực phát động. Đoàn thập
tự chinh gồm hai đội quân, một do vua Louis VII của Pháp, một do vua Konrad III
(Hohenstaufen) của Đức chỉ huy lên đường chiếm Damascus
(Syria ) để tạo tiền đồn
phòng thủ tốt hơn cho Jerusalem .
Cuộc đột chiếm Damascus thất bại, thành phố này
rơi vào tay vua Nur ad-Din Zangi, vị tiểu vương Hồi giáo đã dẫn quân đến cứu
viện theo đề nghị của Damascus .
Đội quân thập tự chinh phải rút về nước mà không giành được một thành quả nào
ngoại trừ việc Thập tự quân Bắc Âu dừng lại ở Lisboa và cùng với người Bồ Đào
Nha chiếm lại thành phố này từ người Hồi giáo.
Thập tự chinh thứ ba
(1189 - 1192)
Sau khi Saladin chiếm
được Ai Cập, trở thành Sultan ở đây và thống nhất các tín đồ Hồi giáo, Syria bị
đe dọa nghiêm trọng, lãnh thổ của người Kitô giáo có thể bị xâm lấn bất cứ lúc
nào. Năm 1187, Saladin đánh bại quân Thập tự và chiếm lại Jerusalem nên nguy cơ công quốc thập tự quân
này bị xóa sổ đã hiện hữu. Trước tình hình đó, hoàng đế Friedrich I Barbarossa
của đế quốc La Mã thần thánh, vua Philippe II Auguste của Pháp cùng vua Richard
I tim Sư tử của Anh đồng loạt tiến quân về phương Đông, tiến hành cuộc Thập tự
chinh thứ ba. Ngày 10 tháng 6 năm 1190, Friedrich I Barbarossa chết đuối khi
đang vượt sông Saleph (nay là sông Goksu) ở xứ Tiểu Á, Thổ Nhĩ Kỳ và hầu hết
quân đội của ông quay trở về nước. Đội quân của Richard tim Sư tử và Philippe
II Auguste đã vây hãm và chiếm được Acre[14], đây là thắng lợi quan trọng nhất
của cuộc thập tự chinh này, nhưng do mâu thuẫn vốn có giữa 2 vương quốc nên
Philippe II Auguste bỏ về nước để thực hiện các kế hoạch thiết thân hơn ở Tây
Âu. Mặc dù vậy, thập tự chinh thứ ba kết thúc trong bế tắc, Richard phải kí hòa
ước với Saladin vào ngày 2 tháng 9 năm 1192, theo đó lãnh thổ của công quốc
Jerusalem vẫn nằm trong một phạm vi hẹp từ Acre đến Jaffa và việc người Kitô
giáo hành hương được quyền viếng thăm Jerusalem trong 3 năm là kết quả của cuộc
viễn chinh tốn kém này. Trên đường về nước năm 1192, con tàu của Richard tim Sư
tử bị hỏng ở Aquileia (Ý), ngay trước Giáng Sinh năm ấy, ông bị Leopold V (Công
tước Áo) bắt giữ rồi trao cho hoàng đế Heinrich VI (Đế quốc La Mã thần thánh).
Richard tim Sư tử bị cầm tù cho đến 4 tháng 2 năm 1194 mới được giải phóng sau
khi đã trả tiền chuộc.
Thập tự chinh thứ tư
(1202 - 1204)
Cuộc Thập tự chinh thứ
tư bắt đầu năm 1202 do Giáo hoàng Innocent III phát động với mục tiêu chiếm Ai
Cập để từ đó tấn công Jerusalem .
Thế nhưng do thiếu nguồn lực tài chính nên những người chỉ huy thập tự quân đã
thỏa thuận với Venezia nhằm có được phương tiện và hậu cần đảm bảo cho cuộc
hành quân sang Ai Cập, để đổi lại, người Venezia sẽ nhận một nửa đất chiếm được
và Thập tự quân phải trả 85000 đồng mác bằng bạc [15]. Sau đó, Venezia đề nghị
đội quân thập tự chinh đánh chiếm Zara, địch thủ thương nghiệp của Venezia
[16], một thành phố cũng của người Kitô giáo. Bởi còn thiếu 34000 mác, thập tự
quân đã tấn công và đánh chiếm Zara vào tháng 11 năm 1202. Kế tiếp, người
Venezia lại thuyết phục thập tự quân tấn công Constantinople ,
thủ đô của Đế quốc Byzantine theo Chính thống giáo Đông phương. Thành phố vốn
đang bị chia rẽ bởi mối bất hòa giữa các phe phái này nhanh chóng thất thủ ngày
12 tháng 4 năm 1204. Mặc dù Giáo hoàng Innocent III cố gắng ngăn chặn các đạo
quân thập tự, song chúng cũng cướp bóc và đốt cháy hết một phần thành phố[17].
Sau đó người Venezia và Thập tự quân phân chia đế quốc Byzantine thành các công
quốc và thống trị cho đến năm 1261. Cuộc Thập tự chinh chấm dứt mà Thập tự quân
không tiếp tục tiến về Đất Thánh.
Thập tự chinh thứ
năm (1217 - 1219)
Thập tự chinh thứ năm
do Giáo hoàng Honorius III tổ chức, Thập tự quân năm 1217 gồm các đạo quân do
Leopold VI (Công tước Áo) và András II của Hungary dẫn đầu, đến năm 1218, quân
đội của Oliver thành Cologne và một đội quân hỗn hợp của vua Hà Lan Willem I
cũng tham gia. Mục tiêu của Thập tự quân lần này là tấn công Ai Cập. Năm 1218,
John thành Brienne, vua Jerusalem
bị thay thế. Năm 1219, Thập tư quân công chiếm Damietta [18] và Giáo hoàng cử đại diện là
Pelagius[19] thống lĩnh cuộc Thập tự chinh. Người Hồi giáo đã đề nghị đổi quyền
kiểm soát giữa Damietta và Jerusalem nhưng Pelagius từ chối. Năm 1219,
Thập tự quân định tấn công Cairo
nhưng không vượt qua được sông Nin đang trong mùa nước lũ và buộc phải rút lui
do hậu cần không đảm bảo. Trên đường rút lui, những cuộc tấn công vào ban đêm
của quân đội Hồi giáo đã gây nhiều thiệt hại cho Thập tự quân và Damietta bị tái chiếm.
Thập tự chinh thứ
sáu (1228 - 1229)
Đoàn quân do hoàng đế
Friedrich II (Đế quốc La Mã thần thánh) đứng đầu tiến hành Thập tự chinh thứ
sáu năm 1228 nhưng nhanh chóng quay trở về và Friedrich II đã bị Giáo hoàng rút
phép thông công. Sau đó Friedrich II quay sang đàm phán, năm 1229 ông đạt được
với người Hồi giáo một hiệp ước hòa bình trong mười năm, khôi phục lại quyền
kiểm soát Jerusalem, Nazareth và Bethlehem cùng với một hành lang từ Jerusalem
ra biển cho những người Kitô giáo. Trước sự chống đối của các giáo trưởng ở Jerusalem , Friedrich II
đã tự phong mình làm vua ở đây năm 1229. Năm 1244, Jerusalem thất thủ trước sự tấn công ồ ạt của
lính đánh thuê Hồi giáo và người Kitô giáo chỉ trở lại kiểm soát được thành phố
này vào năm 1917.
Thập tự chinh thứ
bảy (1248 - 1254)
Sau khi Jerusalem bị
chiếm, vua Pháp Louis IX (Thánh Louis) đã chuẩn bị một cuộc Thập tự chinh vào
năm 1247, mục tiêu lần này vẫn là Ai Cập. Mặc dù đội quân không được tổ chức
tốt, năm 1248, ông vẫn chiếm được Damietta một cách dễ dàng và tiến quân về
Cairo năm 1249. Tuy nhiên, Thập tự quân nhanh chóng bị quân Hồi giáo của
Baybars I và Emir Fakr ed-Din đánh bại trong trận Mansoura[21] ngày 8 tháng 2
năm 1250, Damietta lại rơi vào tay người Hồi giáo. Vua Louis IX của Pháp bị bắt
làm tù binh và được thả sau khi đã trả tiền chuộc.
Thập tự chinh thứ
tám (1270)
Chiếm Constantinople
năm 1204
Các sự kiện Jaffa và Antioch
bị người Hồi giáo chiếm lại đã dẫn đến cuộc Thập tự chinh do Vua Louis IX tiến
hành. Cuộc viễn chinh lần này nhằm đến Tunisia, Thập tự quân tấn công Tunis
nhưng ngày 25 tháng 8 năm 1270, Louis IX chết ở gần Tunis vì bệnh dịch hạch.
Sau đó đội quân của Louis IX cùng với đoàn Thập tự quân do hoàng tử Anh Edward
tiếp tục tiến hành cuộc Thập tự chinh nhưng không đạt kết quả nào. Cuộc tấn
công Tunis ngừng lại còn hoàng tử Edward dẫn
quân tới Acre . Những hoạt động của đội quân do
hoàng tử Edward chỉ huy trong những năm 1271 - 1272 có tài liệu gọi là Thập tự
chinh thứ chín, có tài liệu lại ghép vào cùng với Thập tự chinh thứ tám. Trong
hai năm này, hoàng tử Edward cũng không đạt được kết quả nào đáng kể cho đến
khi ông đình chiến và quay trở về Anh để kế thừa ngôi báu sau cái chết của nhà
vua Henry III. Đây cũng là cuộc viễn chinh cuối cùng trong thời Trung Cổ của
người Kitô giáo tới miền Đất Thánh. Năm 1289, Tripoli
bị người Hồi giáo chiếm và tới năm 1291, khi Acre
cũng rơi vào tay họ thì giai đoạn của các cuộc Thập tự chinh thời trung cổ kết
thúc.
Thập tự chinh thứ
chín 1271–1272
Thập tự chinh phía
Bắc (Baltic và Đức)
Các cuộc thập tự
chinh khác
Ngoài những cuộc thập
tự chinh tới miền Đất Thánh, một số hoạt động quân sự khác trong giai đoạn này
cũng được gọi là Thập tự chinh như: chiến dịch quân sự chống lại giáo phái Albi
ở vùng Languedoc, Pháp từ năm 1209 đến năm 1229; sự kiện thực hư lẫn lộn xảy ra
năm 1212 khi hàng loạt trẻ em kéo tới Ý được gọi là Thập tự chinh của trẻ em;
hay các hoạt động quân sự chống lại người Tarta, những cuộc hành binh đến Thụy
Điển, vùng Balkan... cũng được coi là Thập tự chinh.
Các hiệp sỹ tham gia
thập tự chinh
Ngay sau cuộc Thập tự
chinh thứ nhất, các hiệp sỹ đã hình thành nên một tầng lớp mới, tầng lớp quân
đội-tôn giáo. Những phẩm chất như sự cống hiến, kỷ luật và kinh nghiệm tu hành
của họ được kết hợp vào mục đích quân sự của các cuộc thập tự chinh. Tầng lớp
này cung cấp các đội bảo vệ vũ trang cho những đoàn hành hương về Đất Thánh,
bảo vệ dân cư và trở nên rất cần thiết cho các vương triều phương Tây cũng như
đóng vai trò quan trọng trong xã hội châu Âu thời kỳ đó.
Hiệp sỹ dòng Đền (hay
Hiệp sỹ Đền thờ; Tiếng Pháp: Ordre du Temple )
do các hiệp sỹ Pháp thành lập đầu thế kỷ 12. Họ sống chung với nhau trong các
khu nhà hoặc cộng đồng riêng và tôn chỉ là 3 lời thề tu sỹ: nghèo khó, thanh
khiết và phục tùng. Họ tự ý thức trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ Công
quốc Jerusalem ,
đảm bảo sự an toàn cho các tuyến đường nối tây Âu với các Công quốc Thập tự
quân. Các Hiệp sỹ Đền thờ cũng đảm nhận việc vận chuyển, bảo vệ tiền bạc rất
cần thiết cho những cuộc thập tự chinh diễn ra liên tục và do vậy trở thành thể
chế ngân hàng quan trọng nhất của thời đại. Năm 1321, các hoạt động của Hiệp sỹ
Đền thờ bị Giáo hoàng ra lệnh cấm.
Hiệp sỹ Cứu tế Thánh
Gioan hay gọi ngắn gọn là Hiệp sỹ Cứu tế (Knights Hospitaller) do các
hiệp sỹ ở Jerusalem
thành lập vào khoảng năm 1103. Tuy quân số không đông bằng Hiệp sỹ Đền thờ
nhưng họ đã giữ vai trò quan trọng trong công cuộc bảo vệ Công quốc Jerusalem trong suốt thời
gian xảy ra những cuộc Thập tự chinh. Năm 1291, sau khi thành Acre thất thủ,
tổng hành dinh của Hiệp sỹ Cứu tế dời đến Cyprus
rồi sau đó đến đảo Rhodes và cuối cùng là đảo Malta . Cùng với các hiệp sỹ ở
Malta, họ cai trị hòn đảo này cho đến năm 1798 khi Napoléon Bonaparte chiếm
Malta trên con đường chinh phục Ai Cập. Các hiệp sỹ trở thành Giai cấp tối cao (Sovereign
order) ở Malta và còn tồn tại đến ngày nay như một nhóm chuyên làm các công
việc bác ái.
Hiệp sĩ Giéc-man (tiếng
Đức: Deutscher Orden): được thành lập vào khoảng năm 1190 ở Acre để bảo vệ các
đoàn hành hương người Đức đến Palestine .
Tổng hành dinh của họ sau được dời đến Venezia, rồi Transynvania năm 1211 và
cuối cùng là đến Phổ năm 1299. Các Hiệp sỹ Giécman đã trở thành đội quân tiên
phong của Đức mở rộng lãnh thổ về phía đông và chiếm được một vùng đất dọc theo
biển Baltic. Năm 1525, trong phong trào cải cách tôn giáo ở châu Âu, Albert
thành Brandenburg ,
một đại địa chủ theo học thuyết của Martin Luther đã nắm quyền kiểm soát ở đây
và giải trừ quyền hành của tầng lớp Hiệp sỹ Giécman.
Dấu ấn của Thập tự
chinh
Hai lực lượng chính đối
đầu nhau trong những cuộc thập tự chinh là những người Kitô giáo và Hồi giáo có
quan điểm đánh giá rất khác nhau về những cuộc Thập tự chinh. Đối với phương
Tây, Thập tự chinh là những cuộc viễn chinh mạo hiểm nhưng anh hùng, những
người tham gia thập tự chinh, dù rất nhiều trong số họ đã bỏ mình nơi chiến địa
được xem là tiêu biểu cho sự dũng cảm và tinh thần hiệp sỹ. Richard tim Sư tử
được xem là vị vua đắc thủ tất cả những đức tính của một hiệp sỹ kiểu mẫu - gan
dạ, thiện chiến, phong độ uy nghi, ngay cả sự nhạy bén để soạn những bài ca trữ
tình của giới ca sĩ hát rong. Louis IX, vị vua đã băng hà trong cuộc Thập tự
chinh ở Tunisia, với đức tính ngoan đạo, khổ hạnh cũng như công lý mà ông đem
lại cho nền quân chủ Pháp thậm chí trong suốt cuộc đời mình, vua Louis đã được
xem là bậc thánh. Cao lớn, đẹp trai, lịch thiệp và quả cảm, vua Friedrich I
Barbarossa, cũng giống như vị vua trước đó là Charlemagne, đã giành được vị trí
lâu dài trong ký ức và huyền thoại của thần dân. Godfrey xứ Bouillon, với chiến
công cùng với một nhóm hiệp sỹ của mình là những người đầu tiên vượt qua tường
thành để xâm nhập Jerusalem và chiếm lại Đất Thánh trong cuộc vây hãm ở Thập tự
chinh thứ nhất đã trở thành huyền thoại. Ông được người châu Âu thời ấy xếp vào
một trong số Chín biểu tượng của tinh thần hiệp sỹ trong mọi thời đại, được ca
ngợi trong những bản trường ca, một thể loại vốn phổ biến ở Pháp thời trung cổ.
Cuộc tấn công Antioch cũng là chủ đề của bản
Trường ca Antioch
dài hơn 9.000 câu thơ. Những bài hát của ca sĩ hát rong ở khắp châu Âu ca ngợi
những thủ lĩnh, những hiệp sỹ thập tự chinh và những mối tình lãng mạn của họ.
Dấu ấn lịch sử của Thập
tự chinh trong thế giới Hồi giáo không đậm nét bằng ở phương Tây mặc dù những
vị vua Hồi giáo chống lại người Kitô giáo như Nur ad-Din,...đặc biệt là Saladin
cũng rất được ngưỡng mộ và kính trọng. Đối với người Hồi giáo, Thập tự chinh là
những sự kiện đầy tàn bạo và dã man và những cuộc chiến đấu của họ chống lại
Thập tự quân được gọi là Thánh chiến.
Ảnh hưởng của Thập
tự chinh
Mặc dù các cuộc Thập tự
chinh không tạo ra sự hiện diện thường xuyên và vững chắc của phương Tây tại
Tiểu Á nhưng sự tiếp xúc giữa văn hóa phương Đông và phương Tây đã có ảnh hưởng
mạnh mẽ đến hai nền văn hóa này.
Kỹ thuật quân sự: sau
những cuộc Thập tự chinh đầu tiên, Thập tự quân đã phải tiến hành các chiến
dịch phòng thủ quy mô lớn ở những tiền đồn xa xôi và điều này khiến cho kỹ
thuật phòng vệ, đặc biệt là kỹ thuật xây dựng lâu đài phát triển. Các lâu đài
có thiết kế công sự tháp treo để thuận lợi cho việc bắn vũ khí, ném gỗ, đá,
dầu... vào những người tấn công; lối vào lâu đài được bố trí các góc, tường
ngăn không cho đối phương công phá trực tiếp. Các lâu đài Hồi giáo cũng có bước
phát triển tương tự. Cùng với kỹ thuật phòng thủ, các phương tiện công thành
như máy bắn đá, máy phá thành bằng những khúc gỗ lớn...trở nên tinh vi và hiệu
quả hơn; các kỹ thuật đào đất, đặt chất nổ...cũng có bước phát triển.
Kinh tế: mặc dù không
có số liệu thống kê tin cậy về thu nhập cũng như phí tổn của các cuộc Thập tự
chinh nhưng chắc chắn rằng chúng rất tốn kém, đặc biệt là đối với phương Tây do
họ phải tiến hành viễn chinh. Chiến tranh đã làm cạn kiệt dần nguồn lực của
phương Tây dẫn đến phải áp dụng thuế ở mức độ cao. Để tài trợ cho Thập tự chinh
thứ ba, năm 1188, với sự cho phép của Giáo hoàng, các vương công đã đánh thuế
trực thu 10% trên thu nhập của tất cả tu sỹ và người dân có thu nhập gọi là
Thuế thập phân Saladin. Thuế cũng kéo theo sự phát triển của các kỹ thuật quản
lý, thu thuế, chuyển tiền...Mặt khác, Thập tự chinh kích thích thương mại giữa
phương Đông và phương Tây: các sản phẩm như đường, gia vị,... từ phương Đông
được buôn bán rất mạnh; các mặt hàng xa xỉ như vải lụa...cũng được phát triển
sản xuất ngay tại châu Âu.
Các cuộc thăm dò: Thập
tự chinh đã kích thích những cuộc thăm dò của người phương Tây đến những nền
văn hóa phương Đông. Khởi phát là các công quốc có Thập tự quân, các tu sỹ rồi
đến thương gia; họ đã thâm nhập sâu vào lục địa châu Á và đầu thế kỷ 13 đã đến
Trung Hoa. Những chuyến đi của họ, đặc biệt là của Marco Polo đã cung cấp cho
châu Âu nguồn thông tin đa dạng và quý báu về Đông Á, tạo tiền đề cho những nhà
hàng hải tìm kiếm các lộ trình mới để buôn bán với Trung Hoa vào cuối thế kỷ 15
và thế kỷ 16. Khát vọng thăm dò, chiếm đoạt các nền văn hóa khác, và mở rộng
Kitô giáo là một phần mà các cuộc Thập tự chinh đã truyền cảm hứng cho chủ
nghĩa đế quốc sau này.
CÁC CUỘC THẬP TỰ CHINH CỦA CÔNG
GIÁO LA MÃ CHỐNG HỒI GIÁO
Tiếng La Tinh CRUX có nghĩa là Thánh Giá
hoặc Chữ Thập, biểu tượng của đạo Ki Tô. Từ chữ Crux phát sinh ra danh từ
CRUSADE có nghĩa là cuộc viễn chinh của đoàn quân Công Giáo từ Âu Châu kéo qua
các nước lân cận để tấn công những người Hồi Giáo trong thời Trung Cổ. Những
người lính trong đoàn quân viễn chinh Công Giáo này đều mang huy hiệu chữ thập
ở phía trước ngực và phía sau lưng nên được gọi là Thập Tự Quân (Crusaders).
Suốt trong hai thế kỷ từ 11 đến 13 (1096-1291) những đoàn quân thập tự này đã gieo
rắc biết bao kinh hoàng tang tóc cho những người Hồi Giáo Ả Rập. Hình ảnh tàn
bạo man rợ của đoàn quân Công Giáo Âu Châu đã in sâu vào tim óc của thế giới
Hồi Giáo nói chung và của những người Hồi Giáo Ả Rập nói riêng. Đến nỗi ngày
nay, người Hồi Giáo đã đồng hóa Công Giáo với chủ nghĩa thực dân đế quốc. Mỗi
khi lên án hành động bành trướng bá quyền của Tây Phương, họ thường tố cáo hành
vi đó là "Tân chiến tranh thập tự". (Neo-Crusade).
Cổ nhân thường nói "ôn cố tri
tân", chúng ta hãy coi lại lịch sử của hai thế kỷ chiến tranh đẫm máu do
những đoàn viễn chinh chữ thập Công Giáo La Mã phát động chống những người Hồi
Giáo ở Trung Đông trong hai thế kỷ từ 11 đến 13. Những bài học lịch sử sẽ soi
sáng cho chúng ta trong nhiều vấn đề của thời cuộc hôm nay và cũng để hiểu thêm
thực chất của một tôn giáo thường hay vỗ ngực tự xưng là đạo của Công bằng bác
ái!
Để trình
bày về đề tài này, chúng tôi tham khảo các tài liệu sau đây:
The
CRUSADES, by Brenda Staleup, Green Haven Press xuất bản 2000.
The Oxford Illustrated History of Medieval Europe, by George
Holmes, Oxford University Press 1986.
The
Cross and the Crescent, by Malcoms Billing, Sterling Publication 1988.
NGUYÊN NHÂN CHIẾN TRANH
Có hai nguyên nhân dẫn đến chiến tranh
thảm khốc giữa hai tôn giáo anh em (Fraternal faiths) kéo dài 195 năm là: sự
xung đột như nước với lửa về giáo lý và sự tranh chấp lãnh thổ giữa hai tôn
giáo (nhưng thực chất cả hai đều là đế quốc).
1. Sự xung đột về giáo lý
Mặc dầu kinh Koran là Kinh Thánh của đạo
Hồi (Koran: The Muslim Gospel) công nhận Jesus là vị tiên tri đứng hàng thứ hai
sau Muhammad, nhưng Koran phủ nhận tính cách thiêng liêng của Jessus. Koran gọi
các phép lạ của Jesus là những trò ảo thuật học mót ở Babylon
(Magic and such things as come down at Babylon
- Koran 2:102).
Kinh Koran hoàn toàn phủ nhận tội tổ tông,
hoàn toàn phủ nhận cái chết của Jesus trên thập giá. Koran khẳng định người Do
Thái không giết và không đóng đinh Jesus (The Jews killed him not, nor
cruxified him - Koran 4:157)
Muhammad thù ghét Công Giáo vì đạo này thờ
ảnh tượng, vi phạm điều răn thứ hai của Maisen. Một điều nữa mà Muhammad ghét
cay ghét đắng là thuyết Thiên Chúa Ba Ngôi của đạo Ki Tô. Đối với Muhammad, đạo
Ki Tô là Đa Thần Giáo, đi ngược lại chủ thuyết độc thần của tổ phụ Abraham. Hồi
Giáo và đạo Do Thái là hai đạo Độc Thần đúng nghĩa vì chỉ thờ một Thiên Chúa
Duy Nhất (Monotheist Religion = Only-One-God Religion). Công Giáo La Mã thờ ảnh
tượng, thờ ba Thiên Chúa, quá tôn sùng bà Maria và các thánh do họ tự phong...
do đó Công Giáo là một tà đạo đa thần chứ không phải là đạo Thiên Chúa đúng
nghĩa.
Muhammad cũng ghét đạo Do Thái vì Do Thái
gọi Thiên Chúa bằng số nhiều Elohim (số nhiều của El). Đạo Hồi gọi Thiên Chúa
bằng số ít. Danh từ El trong tiếng Ả Rập là Il. Đi liền với Il có chữ
"ah" là một mạo tự (article) trong ngôn ngữ Ả Rập. Vì thế Il thành
Il-ah. Khi chuyển sang Anh Ngữ, các chữ I đổi thành A, vì thế Il - ah thành
ALLAH (cũng như Ibrahim trong tiếng Ả Rập đổi thành Abraham trong tiếng Anh).
Muhammad gọi chung những người theo đạo Do
Thái và Ki Tô Giáo là "Những tín đồ của các sách thánh kinh" (The
People/The followers of the Books) hoặc gọi chung là "Những kẻ không tin
Thiên Chúa Allah" (The Unbelievers). Riêng đối với các tín đồ Công Giáo,
Muhammad gọi là "Những kẻ thờ thần tượng". (The Idolers).
Trong kinh Koran, Muhammad công khai kêu
gọi các tín đồ đạo Hồi Giáo phải chiến đấu chống lại những kẻ theo Do Thái, đạo
Ki Tô và tất cả những ai không tin theo đạo Hồi. Trong vùng kiểm soát của Hồi
Giáo, bất cứ một ai ngoại đạo đều phải nộp thuế thân và phải chấp nhận một địa
vị thấp kém trong xã hội. (Fight those who do not believe God and His
Messenger, those who among the People of the Books, fight them until they
personnally pay tax on non - Muslims adknowledging their inferiority - Koran, sura
9).
Những người Công Giáo thờ ảnh tượng bị coi
là hạng người dơ bẩn và bị cấm vào các đền thờ Hồi Giáo (The idolers are
nothing but unclean, so they shall not approach the sacred mosques - Koran
9:28).
Các người Do Thái và Ki Tô bị cấm không
được xây nhà thờ mới hay sửa chữa nhà thờ cũ, cấm đeo thánh giá trước ngực,
không được đọc kinh to tiếng và cấm ngặt rước kiệu trên đường phố. Người Ki Tô
Giáo bị coi là đa thần giáo có thể bị sát hại bất cứ lúc nào. Kinh Koran chương
9 câu 5 đã qui định: "Khi những tháng thánh qua đi, các ngươi hãy giết
những kẻ đa thần bất cứ nơi nào bắt gặp chúng, hãy phục kích để bắt chúng"
(When the sacred months have passed away then kill the polytheists wherever you
saw them, take them captives and wait for them in every ambush - Koran Sura 9:
verse 5).
Người Tây Phương gọi những câu thơ nói
trên là "Những câu thơ của đao binh" (The verses of the swords).
Trong thực tế, những câu thơ của kinh Koran đã tạo nên sự dũng mãnh của những
đoàn quân Hồi Giáo trong công cuộc mở mang nước Chúa Allah (The Kingdom of
Allah). Chỉ trong một thế kỷ, đoàn quân Hồi Giáo đã chiếm hết Bắc Phi, Trung
Đông, một phần Âu Châu và tràn tới Trung Á, tới tận biên giới Trung Quốc. Nhưng
đồng thời những câu thơ nói trên cũng đã gây hận thù sâu sắc giữa các tôn giáo
anh em và cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến các cuộc thánh chiến.
2. Sự tranh chấp lãnh thổ giữa hai
tôn giáo
Từ thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ thứ 6, toàn
vùng Bắc Phi và Trung Đông thuộc về lãnh thổ của các giáo phái Ki Tô. Nhưng đến
đầu thế kỷ thứ 7, đạo Hồi xuất hiện và bành trướng với tốc độ vũ bão chưa từng
thấy khiến cả thế giới phải ngạc nhiên.
Chỉ trong 10 năm kể từ khi Mohammad qua
đời, quân Hồi chiếm trọn bán đảo Ả Rập bao la (bằng 4 lần tiểu bang Texas hoặc
8 lần Việt Nam) chiếm các nước Iraq, Syria, Palestine, Ai Cập và phía tây của
nước Iran. Hai năm sau, quân Hồi chiếm Bắc Phi, Carthage và Hy Lạp.
Qua đầu thế kỷ 8 (711 - 716) quân Hồi dám
đánh chiếm một nước Âu Châu nổi tiếng sùng đạo Công Giáo, đó là nước Tây Ban
Nha. Trong thời gian đó, kỵ binh Hồi Giáo chiếm trọn Ba Tư (Iran) và từ đây
xuất quân chiếm hết các nước Trung Á ở phía Nam nước Nga, chiếm trọn vùng Bắc
Ấn (tức Pakistan và Afganistan ngày nay) đánh qua biên giới Trung Quốc và đụng trận với quân nhà Đường trên
sông Talas năm 751.)
Ki Tô giáo bị mất rất nhiều đất và đồng
thời cũng mất rất nhiều tín đồ. Tuy nhiên, trong thời gian đó đế quốc La Mã và
Ki Tô bị lâm vào tình trạng chia rẽ và suy yếu nên không dám thực hiện một hành
vi trả đũa nào cả!
Đến đầu thế kỷ 11, Ki Tô giáo chia thành
hai giáo phái với hai giáo đô thù nghịch nhau. Đó là Công Giáo La Mã (Roman
Catholic) đóng đô tại Vatican và Giáo Hội Chính Thống Giáo Đông Phương (The
Eastern Orthodox Church) đóng đô tại Byzantine, còn được gọi là Constantinople
tức Istambul, thủ đô của Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay.
Năm 1091, quân Hồi tấn công Byzantine.
Hoàng đế Alexius Comnenus đứng đầu Giáo Hội Chính Thống Giáo tuy không ưa Công
Giáo nhưng cũng đành phải gửi văn thư chính thức yêu cầu giáo hoàng La Mã đem
quân đến cứu giúp. Vatican lúc đó muốn giúp Byzantine thì ít nhưng điều quan
tâm hàng đầu là tái chiếm thánh địa Jerusalem
để giáo dân toàn Âu Châu được tự do đến đó hành hương. Mối thù lớn nhất của dân
Công Giáo Âu Châu đối với đạo Hồi là trong thời gian chiếm đóng Jerusalem , quân Hồi đã
triệt phá Nhà Thờ Kính Mộ Chúa (Church of the Holy Sepulchre). Tội triệt phá
nhà thờ Mộ Chúa trở thành lý do chính cho cuộc thánh chiến trả thù của Công
Giáo. Lý do thứ hai được nêu lên là vụ người Hồi Giáo hành hạ những người Công
Giáo Âu Châu đi hành hương ở Jerusalem
năm 1076. Những người hành hương sống sót trở về Âu Châu đã kể nhiều chuyện về
sự ngược đãi của người Hồi khiến cho dân Âu Châu rất phẫn nộ.
Tu sĩ Peter Hermit là người hết sức cuồng
nhiệt vận động quần chúng tín đồ Công Giáo ở các nước Âu Châu tham gia cuộc
thánh chiến chống Hồi Giáo. Các giáo dân Âu Châu vào thời đó đa số là những
nông dân thất học và cuồng tín, nhất là giới thanh thiếu niên, trong số đó có
rất nhiều trẻ vị thành niên đã mù quáng ghi tên tham gia vào đoàn quân chữ
thập. Lịch sử Âu Châu đã gọi đoàn quân chữ thập này là "Đoàn quân Nông
Dân" hoặc "Đoàn quân con nít" (Popular Crusade - The Children's
Crusade).
Vào thời đó, Âu Châu đang ở trong thời đại
bóng tối tinh thần (The Dark Age) nên từ vua tới dân, từ các tu sĩ đến các bổn
đạo, tất cả đều không có một chút hiểu biết nào về Hồi Giáo, không có một chút
kiến thức nào về tình hình chính trị xã hội và địa thế của các nước phương
Đông. Sự thiển cận về kiến thức và tinh thần cuồng tín tôn giáo đã mau chóng
biến việc tái chiếm Jerusalem
khỏi tay quân Hồi thành một khát vọng thiêng liêng vô cùng cuồng nhiệt. Chẳng
mấy chốc đã có hàng trăm ngàn nông dân ghi tên, trong số đó có ít nhất là
60.000 trẻ vị thành niên!
CUỘC THẬP TỰ CHINH THỨ NHẤT
(1096-1099)
Như
trên đã trình bày, sự vận động cho cuộc viễn chinh đầu tiên của đoàn quân Thập
Tự khởi đầu từ năm 1091 do sự cầu viện của hoàng đế Byzantine, nhưng mãi tới
năm 1096, tức 5 năm sau, mới thực hiện được.
Đoàn quân thập tự gồm hàng trăm ngàn người
được điều khiển bởi các hiệp sĩ chuyên nghiệp, xuất phát từ hai nước Ý và Pháp.
Đoàn quân của Pháp chia làm hai nhánh: nhánh quân ở miền Bắc tập trung tại
Normandie, nhánh quân ở miền Nam
tập trung tại Toulouse .
Cả hai nhánh này tiến quân thẳng tới Constantinople .
Trên đường hành quân, khi đi ngang qua
đồng bằng sông Rhin, đoàn quân thập tự của Pháp đã lùng bắt những người Do Thái
rồi đưa họ ra những bãi hoang chém giết tập thể. Hiện nay tại vùng đồng bằng
sông Rhin thuôc nước Đức có nhiều nơi vẫn còn ghi dấu bằng những bia đá ghi tên
những người Do Thái bị sát hại trong dịp này.
Vào mùa thu năm 1096, một đạo quân thứ ba
của Pháp tập trung tại Clairmont đi thẳng đến Rome để kết hợp với 50.000 quân
Ý. Sau đó liên quân Pháp-Ý cùng kéo đến Constantinople. Vua và triều đình
Byzantine vô cùng ngạc nhiên khi thấy đoàn quân thập tự chỉ là một đám nông dân
rách rưới bẩn thỉu và có quá nhiều trẻ vị thành niên ngơ ngác. Vua Byzantine
lập tức ra lịnh cho quân đội ngăn chặn không cho đoàn quân ô hợp này vào thành
phố. Tuy nhiên, nhà vua cung cấp cho đoàn quân này một số lương thực,thực phẩm
và cho quân đội áp tống đám thập tự quân này đến Boporus thuộc miền nam Thổ Nhĩ
Kỳ.
Trong lúc đoàn quân thập tự trú đóng tại
Boporus thì bị quân Hồi Giáo Thổ Nhĩ Kỳ bất thần tấn công giết chết rất nhiều.
Đoàn quân còn lại tiếp tục đi tới Anatolia, một thành phố thuộc phần đất Á Châu
của Thổ Nhĩ Kỳ rồi đến bao vây thành phố Hồi Giáo Antioch ở phía cực nam nước
Thổ.
Trong lúc đang bao vây thành Antioch , đoàn thập-tự-quân bất ngờ bị quân Hồi Giáo Iraq kéo đến
bao vây vòng ngoài từ ngày 21-10-1097 đến ngày 3-6-1098. Đoàn thập tự quân bị
kẹt ở giữa vì thành Antioch quá kiên cố không
thể xâm nhập, trong khi đó đoàn quân Iraq lại quá hùng hậu nên thập tự
quân không thể phá được vòng vây. Sau hơn 5 tháng bị vây hãm quá chặt, thập tự
quân cạn hết lương thực nên bị chết đói rất nhiều. Cuối cùng, ngày 3-6-1098,
đoàn quân thập tự buộc lòng phải chấp nhận một trận quyết tử để mở đường máu
phá vỡ vòng vây của quân Hồi Giáo Iraq .
Đoàn quân chữ thập tiếp tục lên đường trong
hơn một năm mới tới được Jerusalem .
Tại thành phố thánh địa này lúc đó có rất ít quân Hồi phòng thủ nên đoàn thập
tự quân đã chiếm thành phố thánh địa một cách dễ dàng vào ngày 15-7-1099. Sau
khi chiếm Jerusalem, thập tự quân ra lịnh cấm người Hồi Giáo không được leo lên
tháp cao ở đền thờ để kêu gọi mọi người đọc kinh, không được ăn chay trong
tháng Ramadan, không được xây đền thờ mới, cấm sửa chữa đền thờ cũ. Tất cả
những tín đồ Công Giáo cải sang đạo Hồi đều bị tử hình.
Chỉ trong vòng vài tuần lễ đầu chiếm đóng
Jerusalem, đoàn thập tự quân tàn sát những người đàn ông Do Thái và người Hồi
Giáo Ả Rập tổng cộng lên đến 30.000 người. Thánh địa của cả ba tôn giáo độc
thần biến thành một nhà xác khổng lồ. Lý do là vì số người chết nhiều hơn quân
số của thập tự quân tại Jerusalem
và không có ai lo chuyện chôn người chết cả. Cho tới năm tháng sau, các cống
rãnh và các thung lũng ở Jerusalem
vẫn còn sặc mùi hôi thối của các xác chết.
Cuộc chiến tranh thứ nhất của Thập Tự Quân
Công Giáo La Mã (The First Crusade) là một ấn tượng ghê tởm nhất đối với người
Hồi Giáo và Do Thái Giáo, và là một bài học kinh nghiệm nhớ đời cho toàn thế
giới Hồi Giáo về sự man rợ khủng khiếp của bọn tín đồ Công Giáo cuồng tín.
Tuy nhiên, cũng do cuộc chiến tranh này mà
người Âu Châu đã có cơ hội hiểu biết về thế giới Ả Rập và Hồi Giáo. Họ không
ngờ thế giới Hồi Giáo quá rộng lớn, bao trùm một vùng lãnh thổ từ Bắc Phi qua
Âu Châu tới tận Viễn Đông. Họ không ngờ Hồi Giáo cũng là một nền văn minh,
trong đó có nhiều bộ môn khoa học, toán học, triết học tiến bộ vượt xa Âu Châu.
Cũng từ đó, người Âu Châu đã dần dần tự giác ngộ để tự giải thoát ra khỏi thời
đại đen tối (The Dark Age).
Về thành tích giết người tàn bạo của thập
tự quân tại Jerusalem
trong những ngày đầu của cuộc thánh chiến hiện nay vẫn còn một chứng tích lịch
sử độc đáo. Đó là bức thư của vị tướng tổng-chỉ-huy thập tự quân gửi từ Jerusalem về Vatican để
báo cáo tin mừng chiến thắng lên Giáo Hoàng Urban II. Bức thư này hiện được lưu
trữ tại Văn khố của Tòa Thánh. Trong thư có đoạn viết như sau: "Đức Thánh
Cha có biết chúng con đã đối xử với kẻ thù của chúng ta ở Jerusalem ra sao không? Tại cổng thành
Solomon và trong Đền Thánh, đoàn kỵ binh của chúng con phải đi qua những vũng
máu dơ bẩn của quân Hồi Giáo Saracenes ngập cao đến đầu gối của những con
ngựa". (If You would know how we
treated our enemies at Jerusalem know that in the portico of Solomon and in the
Temple, our men rode through the unclean blood of Saracenes which came up to
the knees of the horses - Deceptions and Myths of the Bible, by Lloyd Graham,
p. 462)
Kết
quả lớn nhất của cuộc viễn chinh đầu tiên của đoàn quân chữ thập là sự hình
thành một vương quốc trực thuộc Vatican .
Vương quốc này trãi dài 800 km dọc theo bờ biển Địa Trung Hải mang tên
"Vương Quốc La Tinh Jerusalem" (Latin Kingdom of Jerusalem) bao gồm:
Hai tỉnh Antioch và Edessa ở phía đông nam Thổ Nhĩ Kỳ, nước Syria, nước Liban,
xứ Judia và xứ Gallilee, trong đó có thành phố thánh địa Jerusalem.
Tòa thánh Vatican
trực tiếp cai trị bằng cách phong vương cho người đứng đầu vương quốc này.
Nhưng thay vì gọi là "vua" của vương quốc, tòa thánh gọi là
"Người Bảo Vệ Mộ Chúa" (Protector of the Holy Sepulchre). Vương quốc
La Tinh Jerusalem tồn tại được 88 năm (từ 1099 đến 1187) qua 7 đời vua do Vatican chọn lựa và tấn phong. Trong 88 năm cai trị vương
quốc Jerusalem, quân thập tự đã tàn sát rất nhiều người Hồi Giáo và Do Thái
Giáo, bất kể họ là người già, phụ nữ hay trẻ em. Quân thập tự cũng xây cất rất
nhiều pháo đài và lâu đài phòng thủ kiên cố để bảo vệ vương quốc, đến nay vẫn
còn những di tích lịch sử để lại tại các nước Trung Đông dọc theo bờ biển Địa
Trung Hải.
CUỘC THẬP TỰ CHINH THỨ HAI
(1147-1149)
Nguyên nhân dẫn đến cuộc Thập Tự Chinh thứ
hai (The Second Crusade) là do biến cố quân Hồi Giáo thuộc giáo phái Sunni từ
các nước Ả Rập và Thổ Nhĩ Kỳ tấn công tái chiếm tỉnh Edessa thuộc Vương Quốc La
Tinh Jerusalem.
Để thực hiện quyết tâm phục thù, Vatican ra lệnh cho vua Pháp là Louis VII và vua Ý là
Courad III phối hợp với nhau tổ chức cuộc Thập Tự Chinh thứ hai. Năm 1147, liên
quân Pháp Ý trong đoàn quân chữ thập lên đường đến Thổ Nhĩ Kỳ để chiếm lại Edessa nhưng đã hoàn toàn
bị thất bại. Tàn quân rút chạy về phía nam thuộc lãnh thổ Liban và Syria . Đến năm
1949, toàn bộ đám tàn quân nầy bị quân Hồi tiêu diệt tại Damacus (thủ đô Syria ngày
nay).
CUỘC THẬP TỰ CHINH THỨ BA
(1190-1192)
Đối với Do Thái Giáo và Ki Tô Giáo thì Jerusalem là thánh địa
duy nhất của họ. Đối với Hồi Giáo thì thánh địa quan trọng nhất là Mecca (thủ đô của nước Ả
Rập Saudi). Thánh địa thứ hai là Medina, một thành phố cách thủ đô Mecca 250
dặm về phía Bắc. Và Jerusalem là thánh địa thứ ba của Hồi Giáo vì tương truyền
rằng Muhammad đã lên trời từ thành phố này.
Quân Thập Tự của Vatican chiếm Jerusalem
năm 1096 là một kỷ niệm ô nhục và đau đớn cho thế giới Hồi Giáo. Người Hồi Giáo
đã phải nuốt hận chịu đựng trong gần một thế kỷ mới có cơ hội phục thù. Cái
nhân của cơ hội phục thù là sự xuất hiện của một nhân vật lừng danh thế giới,
đó là vị tướng bách chiến bách thắng Saladin (1137-1193) gốc người Kurd theo giáo
phái Sunni. Ông được dân Ai Cập và Syria tôn lên làm vua (Sultan).
Nhân vật Saladin trở nên một nhân vật huyền thoại trong nhiều tác phẩm văn
chương của các nước Âu Châu thời đó. Quả thật, Saladin đã thu phục được nhân
tâm của nhiều dân tộc theo đạo Hồi. Dưới sự lãnh đạo của ông, quân Hồi đã tái
chiếm Jerusalem
và nhiều phần đất khác của vương quốc La Tinh vào năm 1187. Toàn thế giới Hồi
Giáo Ả Rập vui mừng vì thánh địa thứ ba đã được tái chiếm và danh dự của Hồi
Giáo đã được phục hồi.
Nỗi vui mừng chiến thắng của Hồi Giáo càng
lớn bao nhiêu thì nỗi đau của Vatican và Giáo
Hội Công Giáo càng thấm thía ê chề bấy nhiêu. Do rút tỉa kinh nghiệm của những
thất bại trước đây, lần này Vatican chuẩn bị chu đáo hơn với sự hội ý của ba
ông vua đầy quyền lực tại Âu Châu là vua Pháp, vua Đức và đặc biệt là vua Anh
Richard I - người được mệnh danh là "Richard Trái Tim Sư Tử" (Richard
The Lion - Hearted).
Cũng xin nói thêm ở đây là Giáo Hội Công
Giáo Anh tách rời khỏi giáo quyền của Vatican do vua Henri VIII chủ xướng
vào năm 1534. Trước đó, các vua Anh đều thần phục giáo quyền Vatican
như hầu hết các vua khác ở Âu Châu. Cuộc thập tự chinh thứ ba có tới 3 hoàng đế
Âu Châu điều khiển nên các sử gia thường gọi cuộc thập tự chinh này là
"Cuộc Thập Tự Chinh của các vua" (The Crusade of the kings).
Vua Anh Richard I đích thân điều khiển
cuộc viễn chinh từ 1190 cho đến khi chiến dịch kết thúc vào năm 1192. Trong hai
năm chinh chiến, đoàn quân chữ thập tái chiếm hầu hết lãnh thổ của Vương Quốc
La Tinh Jerusalem. Nhưng thành phố quan trọng nhất là thánh địa Jerusalem thì lại không
chiếm được. Quân Hồi chặn đứng đoàn quân chữ thập của Richard I tại thành phố
Acre ở phía bắc Jerusalem .
Trong thời gian trú đóng tại Acre (1191-1192) vua Anh Richard The Lion -
Hearted đã ra lệnh chém đầu tập thể trên 3000 người Hồi Giáo Ả Rập. Vụ này đã
đi vào lịch sử Hồi Giáo như một bằng chứng về tội ác diệt chủng của Giáo Hội
Công Giáo La Mã. (The Cross and The Crescent by Malcom Billing - page 116).
Hiện nay, tại Thư Viện Quốc Gia của Pháp (Bibliotheque Nationale) có lưu trữ
một bức họa thời Trung Cổ vẽ cảnh Vua Richard The Lion-Hearted ngồi trên khán
đài chứng kiến đoàn quân thập tự chém đầu tập thể những người Hồi Giáo.
CUỘC THẬP TỰ CHINH THỨ TƯ
(1201-1204)
Giáo
Hội Công Giáo La Mã rất thù ghét Giáo Hội Chính Thống là một giáo hội Ki
Tô tách rời khỏi giáo quyền Vatican vào giữa
thế kỷ 11. Trong thời gian thập tự quân chiếm đóng Jerusalem, các tín đồ đạo
Chính Thống ở Âu Châu bị cấm không được đến hành hương thánh địa. Các giáo dân
và tu sĩ đạo Chính Thống tại Jerusalem
đều bị ngược đãi tàn tệ. Đó là những lý do khiến cho hoàng đế Byzantine và giáo
hội Chính Thống không thể ngồi yên trước sự lộng hành của Vatican . Để
tránh bị lâm vào cái thế "lưỡng đầu thọ địch", hoàng đế Byzantine và
giáo hội Chính Thống thương thuyết với vua Hồi Giáo Thổ Nhĩ Kỳ, kết quả hai bên
đạt tới việc ký hòa ước cam kết không gây chiến tranh xâm chiếm lẫn nhau.
Hòa ước Byzantine - Thổ Nhĩ Kỳ làm cho mối
bất hòa giữa Vatican và Chính Thống Giáo càng
trở nên sâu sắc. Bọn diều hâu ở Âu Châu lúc đó là các hiệp sĩ (Knights) trong
những nước Công Giáo cuồng tín đã lập những kiến nghị yêu cầu tòa thánh Vatican
phát động cuộc Thập Tự Chinh Thứ Tư để tiêu diệt đế quốc Byzantine và Chính
Thống Giáo. Vatican lợi dụng dịp này ban hành
những thông điệp phổ biến cho giáo dân khắp Châu Âu về sự phản bội của
Byzantine và Chính Thống Giáo. Cuộc viễn chinh lần này được Vatican
ủy nhiệm cho các thủ lãnh hiệp sĩ Ý và Đức thực hiện.
Trên danh nghĩa, cuộc Thập Tự Chinh thứ tư
nhằm trừng phạt Byzantine và Chính Thống Giáo nhưng mục tiêu chính là để tiêu
diệt một đồng minh tương lai của Hồi Giáo. Cuộc chiến kéo dài trong 3 năm từ
1201 đến 1204, đoàn quân Thập Tự chiếm trọn lãnh thổ đế quốc Byzantine. Vatican đặt tên cho lãnh thổ này là "Đế Quốc La Tinh
Constantinople" (The Latin Empire of Constantinople). Vatican
chia đế quốc này thành nhiều thái ấp (feuds) và phong chức lãnh chúa cho các
hiệp sĩ có công để cai trị các thái ấp đó. Vatican
đã biến toàn vùng đế quốc Byzantine xưa kia thành một xã hội phong kiến. Các
lãnh chúa thu thuế của dân và trích ra một phần để nộp cho Vatican . Đế
quốc La Tinh Constantinople tồn tại được 57 năm (1204-1261).
CUỘC THẬP TỰ CHINH THỨ NĂM
(1217-1221)
Cuộc thập tự chinh thứ năm không có một nguyên
nhân chính trị hay tôn giáo nào mà hoàn toàn do sự bốc đồng của vua Andrew nước
Hungary .
Hungary
chỉ là một nước nhỏ nằm ở giữa Châu Âu. Vua Andrew là người cuồng tín và có quá
nhiều ảo vọng quyền lực. Ông ta đã không luờng sức của mình, tự ý thành lập một
đạo quân thập tự rồi kéo quân đến tấn công một nước xa xôi là Ai Cập. Ông ta
may mắn thành công trong việc chiếm thành phố Dannietta của Ai Cập. Người Ai
Cập nhân danh Hồi Giáo thương thuyết với Andrew là nếu nhà vua chịu trả lại
thành phố Dannietta cho Ai Cập thì Hồi Giáo sẽ trả lại Jerusalem cho Giáo Hội
Công Giáo. Vua Andrew đã kiêu hãnh bác bỏ đề nghị này và kéo quân tiến đánh thủ
đô Cairo của Ai Cập. Quân Hồi Giáo Ai Cập hết sức phẫn nộ đã mãnh liệt phản
công tiêu diệt hoàn toàn quân xâm lược của Andrew vào năm 1221.
CUỘC THẬP TỰ CHINH THỨ SÁU
(1228-1229)
Cuộc thập tự chinh lần này do Vatican giao cho vua Đức Frederic II thực hiện để trả thù
cho Andrew. Vatican đã cấp cho vua Frederic
một ngân khoản rất lớn để võ trang thật hùng hậu cho đoàn quân thập tự. Tuy
nhiên, vua Frederic là một nhà quân sự bất tài, đã phạm phải những lỗi lầm
nghiêm trọng về chiến thuật nên toàn bộ đoàn quân chữ thập mới đặt chân lên đất
Ai Cập đã bị tiêu diệt. Riêng bản thân vua Frederic II bị quân Hồi Giáo Ai Cập
bắt sống. Vatican đã phải trả một số tiền rất
lớn để chuộc mạng cho Frederic, y được quân Hồi phóng thích cho về nước an
toàn.
CUỘC THẬP TỰ CHINH CUỐI CÙNG
(1248-1254)
Lý
do dẫn đến cuộc Thập Tự Chinh thứ 7 là vụ quân Hồi đánh chiếm thánh địa Jerusalem vào năm 1244. Vatican trao nhiệm vụ tổ chức cuộc thánh chiến cho vua
Pháp Louis IX. Nhà vua tuân lệnh và nhận tiền của Vatican
chuẩn bị tổ chức cuộc viễn chinh thập tự lần thứ 7 trong vòng 4 năm.
Năm 1248, vua Louis IX đích thân chỉ huy
cuộc viễn chinh, kéo quân qua các nước Syria ,
Liban, Palestine ...
Đi tới đâu đều bị quân Hồi phục kích tấn công đến đó. Cuôc chiến dai dẳng không
phân thắng bại khiến cho binh sĩ vô cùng chán nản. Sáu năm sau, đoàn quân thập tự vẫn không tới
được Jerusalem .
Đến năm 1254, quân Hồi tổng phản công Louis IX phải bỏ chạy, những kẻ sống sót
tìm đường trở lại Âu Châu.
Đến năm 1291, quân Hồi chiếm lại tất cả
những phần đất đã mất về tay đoàn quân chữ thập trước đây, chấm dứt hoàn toàn
Vương Quốc La Tinh Jerusalem sau 195 năm tồn tại.
Cũng xin nói thêm ở đây là trong lịch sử
các cuộc viễn chinh thập tự có hai vua Pháp mang tên Louis tham dự. Vua Louis
VII bị thất bại nhục nhã trong cuộc thập tự chinh lần thứ hai (1147-1149) và
vua Louis IX bị thất bại trong cuộc thập tự chinh cuối cùng (1248-1254). Tuy
nhiên, Louis IX đã được lòng Vatican nên ông này đã được Vatican
phong thánh. Vì thế, người Pháp không còn gọi Louis IX là vua nữa mà gọi là Saint Louis . Tên của ông
đã được dùng để đặt tên cho một thành phố lớn tại Hoa Kỳ vì thành phố này có
nhiều người Mỹ gốc Pháp.
NHỮNG ĐIỀU ĐÁNG GHI VỀ CÁC
CUỘC THẬP TỰ CHINH
1. Vấn đề: có bao nhiêu cuộc thập tự
chinh?
Khi nghiên cứu về những cuộc viễn chinh
của đoàn quân chữ thập thời Trung Cổ, chúng ta sẽ gặp nhiều tài liệu sử học đưa
ra những con số khác nhau về những cuộc chiến tranh của thập tự quân. Có tài
liệu nói là 6 trận, có tài liệu nói 7, 8 hoặc nhiều hơn. Lý do chính yếu làm
cho các sử gia bối rối không thể nêu lên con số chính xác vì cuộc chiến của
thập tự quân kéo dài gần 2 thế kỷ (195 năm). Trong thời gian dài dằng dặc đó đã
xảy ra nhiều cuộc chuyển quân của thập tự quân giả dạng làm những đoàn người đi
hành hương hoặc đoàn người đi buôn bán... nhưng sau đó họ vẫn có thể thực hiện
được những cuộc tấn công vào quân Hồi Giáo.
Một điều phức tạp hơn nữa là sau thế kỷ
11, nhiều giáo hội Công Giáo Âu Châu tách rời khỏi giáo quyền Vatican như Chính
Thống, Anh Giáo và Tin Lành. Vatican tổ chức
những đoàn quân cũng mang danh là Thập Tự Quân đi đàn áp những kẻ ly khai đó.
Trường hợp rõ nét nhất là cuộc Thập Tự Chinh lần thứ tư (1201-1204) Vatican đánh chiếm hoàn toàn lãnh thổ đế quốc Byzantine
của Chính Thống Giáo. Vậy có nên coi cuộc thập tự chinh này là một trong những
cuộc Thập Tự Chinh chống Hồi Giáo hay không? Nhiều sử gia trả lời là có vì mục
tiêu chính của Vatican là triệt hạ một đồng
minh mới của Hồi Giáo.
2.
Nhiều con cháu của thập tự quân trở thành Hồi Giáo
Những thập tự quân Âu Châu đến Jerusalem
trong cuộc viễn chinh đầu tiên năm 1096, sau mấy chục năm định cư tại đây, họ
dần dần hiểu được thực tại và tỉnh ngộ chứ không còn cuồng tín như trước. Vì
tại Jerusalem
không có phụ nữ Âu Châu nên lính thập tự đều lấy vợ Ả Rập Hồi Giáo. Từ thế hệ
thứ hai, thứ ba trở đi, hầu hết con cháu của thập tự quân đều thành người Hồi
Giáo. Do đó, khi xảy ra cuộc thập tự chinh thứ hai (1147 tức sau 51 năm) và
thập tự chinh thứ ba (1190, tức sau lần thứ nhất gần một thế kỷ) những con cháu
của thập tự quân đợt đầu đều rất thù ghét những người Âu đến sau. Họ là những
chiến sĩ Hồi Giáo chống đối mãnh liệt nhất những đợt thập tự chinh 2 và 3.
3. Nạn buôn nô lệ:
Các cuộc chiến tranh của thập tự quân tại
Trung Đông đã làm cho tệ nạn buôn bán nô lệ trở thành một kỹ nghệ phát đạt. Cả
hai phe Hồi Giáo cũng như thập tự quân đều chú tâm bắt sống tù binh và bắt
thường dân ở các vùng chiếm đóng để đem bán tại các chợ ở khắp miền Trung Đông.
Các thiếu nữ đẹp luôn luôn là một món hàng đắt giá nhất được các nhà giàu hoặc
các quan quyền mua về làm tì thiếp hay nô lệ tình dục.
4. Giá máu quá đắt cho một chuyện
hoang đường.
Trong suốt năm 1095, Giáo Hoàng Urban II
đi khắp các nước Công Giáo Âu Châu kích động quần chúng tín đồ đầu quân tham
gia đoàn quân thập tự hoặc đóng góp tiền bạc để tài trợ cho cuộc chiến thần
thánh nhằm bảo vệ ngôi mộ của Chúa. Nhưng ngôi mộ của Chúa (The Holy Sepulchre)
chỉ là chuyện hão huyền vì nó chẳng bao giờ có. Nếu Chúa đã sống lại và lên
trời thì làm gì có mộ của Chúa? Còn nếu Chúa đã bị quân La Mã đóng đinh trên
thập giá thì theo luật của La Mã là mọi tử tội đã chết trên thập giá phải bị
vứt xác ra bãi hoang cho kên kên và chó hoang ăn thịt. Trong lịch sử La Mã
tuyệt đối không có chuyện xác tử tội được trao cho người nhà đem về chôn cất tử
tế ở trong mồ. Jesus bị quân La Mã xếp vào loại tử tội nguy hiểm chẳng lẽ lại
được La Mã dành cho một đặc ân ngoại lệ duy nhất là trao cho người nhà đem về chôn
trong mồ hay sao? Chuyện ngôi mộ của Jesus là một chuyện hão huyền của bọn đại
bịp. Nhưng câu chuyện hão huyền ấy đã làm đổ máu của ba triệu người, trong số
đó có ít nhất là 60.000 trẻ em.
Sử gia Lloyd M. Graham đã viết về vấn đề
này như sau: "Chúng ta hãy quan tâm đến những cuộc chiến tranh của Thập Tự
Quân, đó là những cuộc chiến tranh khủng khiếp nhằm bảo vệ "ngôi mộ của
thánh Chúa mà nó chẳng bao giờ có, thế mà ba triệu người đã bị giết một cách vô
ích, trong số đó có sáu mươi ngàn trẻ em".
(Consider the Crusades, those hellish wars
for a "holy sepulchre" that never existed, three million people
neeedlessly butchered, among them sixty thousand children - Deception and Myths
of the Bible, page 350).
Ba triệu sinh mạng là giá máu quá đắt mà
nhân loại đã phải trả cho một chuyện hoang đường của tà đạo đa thần Công Giáo
La Mã. Ba triệu người đã tức tưởi chui xuống những nấm mồ có thật chỉ vì một
nấm mồ không có thật của một người được mệnh danh là Chúa Cứu Thế!
Charlie Nguyễn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét