Thứ Bảy, 17 tháng 9, 2016

Chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trên vùng đất Nam bộ- GS.TSKH Vũ Minh Giang

Chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trên vùng đất Nam bộ

GS.TSKH Vũ Minh Giang

Từ lâu Nam Bộ đã là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Vịêt Nam, nhưng do tính chất phức tạp của lịch sử nên cho đến nay vấn đề chủ quyền lãnh thổ (territorial sovereignty) vẫn còn có những nhận thức chưa thật đầy đủ. Trên cơ sở trình bày một cách hệ thống diễn biến lịch sử và phân tích những yếu tố khẳng định tính chất chính đáng, phù hợp với thông lệ quốc tế của quá trình thụ đắc lãnh thổ phía nam của dân tộc ta, bài viết này hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học và nâng cao thêm hiểu biết về chủ quyền của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ.
Mặc dù những vướng mắc về biên giới giữa Việt Nam và Campuchia nhiều khi là những vấn đề cụ thể liên quan tới đường biên giới hiện tại, nhưng cội nguồn của những vướng mắc đó lại nảy sinh từ lịch sử, trong đó cơ bản nhất, sâu xa nhất là vấn đề lãnh thổ vùng Nam Bộ. Có một quan niệm cho rằng vùng đất Nam Bộ từ xưa vốn là lãnh thổ của Campuchia. Lập luận chủ yếu (mà không chứng minh) của quan niệm này là đồng nhất nước Phù Nam ở trung tâm của vung hạ lưu sông Mê Kông với nhà nước đầu tiên của người Khmer[1]. Trong một hội thảo về Bảo tồn di sản văn hoá tổ chức năm 1993 tại thành phố Nara (Nhật Bản), báo cáo chính thức của Campuchia do ông Vann Molivann, Bộ trưởng Quốc vụ khanh trình bày trước hội nghị cũng xếp văn minh Phù Nam vào nhóm “dạng thức đặc biệt của nhóm Khmer”[2]. Để giải quyết thoả đáng vấn đề này không thể không trở lại xem xét cụ thể nguồn gốc và diễn biến chủ quyền lãnh thổ đối với vùng đất này. Hiển nhiên, việc xem xét lịch sử chủ quyền phải bắt đầu từ nhà nước Phù Nam.
1. Vấn đề nước Phù Nam
Căn cứ vào những ghi chép trong các thư tịch cổ Trung Quốc thì Phù Nam là một quốc gia nằm ở phía nam của Lâm Ấp (Champa) nghĩa là tương đương với đất Nam Bộ ngày nay[3]. Cũng dựa vào các thư tịch cổ, các nhà khoa học đã thống nhất nhận định rằng nước Phù Nam xuất hiện vào khoảng đầu Công nguyên và biến mất vào khoảng thế kỷ thứ VII [4]. Mùa xuân năm 1944 nhà khảo cổ học Pháp Louis Malleret đã tiến hành một cuộc khai quật có ý nghiã lịch sử ở khu vực gần núi Ba Thê (nay thuộc địa phận xã Vọng Thê, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang). Từ sau cuộc khai quật này bắt đầu xuất hiện khái niệm văn hoá Ốc Eo và một cách tự nhiên các nhà khoa học đã dễ dàng đi tới nhận định rằng vấn đề Phù Nam không thể tách rời vấn đề Ốc Eo. Hay nói cách khác, hoàn toàn có cơ sở khoa học nếu đồng nhất những di vật thuộc văn hoá Ốc Eo là di tích văn hoá vật thể của nước Phù Nam. Vấn đề này đã được khắng định trong nhiều tác phẩm và hội thảo khoa học, đặc biệt là hội thảo về Văn hoá Ốc Eo – Phù Nam do Bộ KH-CN tổ chức tại Tp. Hồ Chí Minh năm 2004, nhân kỷ niệm 60 năm sự kiện phát hiện văn hoá ốc Eo. Các học giả cũng đã khẳng định Ốc Eo là một nền văn hoá có nguồn gốc bản địa, ít ra là từ thời đại kim khí và trong thời kỳ cường thịnh nhất, Phù Nam đã phát triển thành một đế chế rộng lớn bao gồm toàn bộ phần phía nam bán đảo Đông Dương (Nam Bộ của Việt Nam hiện nay, nước Campuchia, một phần nam Lào), một phần Thái Lan và bán đảo Malaca, nhưng trung tâm vẫn là vùng đất Nam Bộ.
Một vấn đề có ý nghĩa quan trọng là xác định chủ nhân của văn hoá ốc Eo. Trước đây, người ta thường nói mà không chứng minh rằng chủ nhân nền văn hoá này là tổ tiên của người Khmer. Nhưng dưới ánh sáng của những nghiên cứu mới thì vấn đề không phải như vậy. Trước hết, tất cả những di tích thuộc văn hóa Ốc Eo có thể dễ dàng nhận thấy là khác biệt với văn hóa Khmer. Những dấu vết của Chân Lạp trên đất Nam Bộ không thể hiện là sự phát triển liên tục của văn hóa Phù Nam[5]. Về phong tục tập quán, sử liệu Trung Quốc cũng cho biết rằng tang lễ và hôn nhân của Phù Nam gần giống với Lâm ấp (tức Champa).
Về mặt lịch sử, các tư liệu trong thư tịch cổ Trung Quốc cũng phân biệt rất rõ Phù Nam với Chân Lạp (quốc gia của người Khmer). Sử ký của nhà Tùy chép rằng nước Chân Lạp ở về phía tây nam Lâm ấp, nguyên là một chư hầu của Phù Nam. Vua nước ấy là Ksatriya Citrasena đã đánh chiếm và tiêu diệt Phù Nam [6]. Sử ký nhà Đường cũng chép: “Trong nước [Phù Nam] bấy giờ có thay đổi lớn. Nhà vua đóng đô ở thành Đặc Mục, thình lình bị nước Chân Lạp đánh chiếm, phải chạy trốn về miền nam, trú ở thị trấn Na Phất Na”[7]. Những sự kiện được chép trên đây diễn ra vào đầu thế kỷ VII. Căn cứ vào sự kiện 627 Phù Nam còn đến tiến cống nhà Đường lần cuối cùng, các học giả cho rằng đó có thể coi đó là năm sớm nhất nước Phù Nam bị tiêu diệt[8].
Như vậy Chân Lạp là một quốc gia xuất hiện ở vùng trung lưu sông Mê Kông, khu vực gần Biển Hồ, lấy nông nghiệp là nghề sống chính. Còn Phù Nam là một quốc gia ven biển có truyền thống hàng hải và thương nghiệp khá phát triển. Trong thời kỳ Phù Nam cường thịnh đã có nhiều nước nhỏ thần phục với tư cách là những thuộc quốc hoặc chư hầu, trong đó có Chân Lạp. Vào đầu thế kỷ VII, nhân lúc Phù Nam suy yếu, Chân Lạp đã tấn công và chiếm lấy. Lãnh thổ Phù Nam về tay Chân Lạp do kết quả của những cuộc chiến tranh.
2. Vùng đất Nam Bộ dưới thời Chân Lạp
Sau khi chiếm được Phù Nam, vùng đất này được gọi là Thuỷ Chân Lạp[9]. Việc cai quản vùng lãnh thổ mới đối với Chân Lạp hết sức khó khăn. Trước hết đây là một vùng đồng bằng mới bồi lấp còn ngập nước và sình lầy, người Khmer với dân số ít ỏi chưa thể tổ chức khai thác trên quy mô lớn. Hơn nữa, việc khai khẩn đất đai trên lãnh thổ của Lục Châu Lạp cũng còn đang đòi hỏi rất nhiều thời gian và sức lực. Vào nửa sau thế kỉ thứ VIII quân đội Srivijaya của người Java đã liên tục tiến công vào các quốc gia trên bán đảo Đông Dương. Kết cục là Thuỷ Chân Lạp bị quân Java chiếm. Cả vương quốc Chân Lạp gần như bị lệ thuộc vào Srivijaya. Cục diện này mãi đến năm 802 mới kết thúc. Tuy nhiên người Khmer lúc này muốn dồn sức phát triển các vùng trung tâm truyền thống của họ ở khu vực Biển Hồ, trung lưu sông Mê Kông và hướng nỗ lực bành trướng sang phía tây, vùng lưu vực sông Chao Phaya. Trong khoảng thời gian từ thế kỷ IX đến cuối thế kỷ XI, Chân Lạp trở thành một quốc gia cường thịnh, tạo dựng nên nền văn minh Angkor rực rỡ, đồng thời mở rộng lãnh thổ lên tận Nam Lào và trùm lên cả lưu vực sông Chao Phaya. Trong khi đó qua các di tích khảo cổ học, dấu tích của văn hoá Khmer và văn minh Angkor ở vùng Đồng Nai – Gia Định hết sức mờ nhạt[10].
Do chiến tranh và phải tập trung công sức phát triển các trung tâm ở vùng lục địa, sau mấy thế kỷ thuộc Chân Lạp, đến thế kỷ XIII theo Chu Đạt Quan, vùng đất Nam Bộ vẫn còn là một vùng đất hoang vu với những “bụi rậm của khu rừng thấp… tiếng chim hót và thú vật kêu vang dội khắp nơi… những cánh đồng bị bỏ hoang phế, không có một gốc cây nào. Xa hơn tầm mắt chỉ toàn là cỏ kê đầy dẫy, hàng trăm hàng ngàn con trâu rừng tụ họp thành từng bầy trong vùng này, tiếp đó là nhiều con đường dốc đầy tre chạy dài hàng trăm dặm…”[11].
Bắt đầu từ thế kỷ XIV Chân Lạp phải đối phó với sự bành trướng của các vương triều Thái từ phía tây, đặc biệt là từ sau khi vương quốc Ayuthaya hình thành. Trong gần một thế kỷ Chân Lạp liên tiếp phải đối phó với những cuộc tiến công từ phía người Thái, có lúc kinh thành Angkor đã bị quân đội Ayuthaya chiếm đóng.
3. Công cuộc khai phá vùng đất Nam Bộ
Từ thế kỉ XVI, do sự can thiệp của Xiêm, triều đình Chân Lạp bị chia rẽ sâu sắc và dần bước vào thời kì suy vong, hầu như không có điều kiện quan tâm đến vùng đất còn ngập nước ở phía đông và trên thực tế đã không đủ sức quản lý vùng đất này. Trong bối cảnh đó nhiều cư dân Việt từ đất Thuận Quảng đã vào vùng Mô Xoài, Đồng Nai (miền Đông Nam Bộ) khai khẩn đất hoang lập làng sinh sống.
Năm 1620 vua Chân Lạp Chey chetta II đã cưới con gái chúa Nguyễn Phúc Nguyên làm vợ. Đối với Chân Lạp, việc kết thân với chúa Nguyễn là để dựa vào lực lượng quân sự của người Việt lúc này đang rất mạnh nhằm làm giảm sức ép từ phía Xiêm. Với chúa Nguyễn, quan hệ hữu hảo này tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt, vốn đã có mặt từ trước, được tự do khai khẩn đất hoang và làm ăn sinh sống trên đất Thuỷ Chân Lạp và tăng cường ảnh hưởng của họ Nguyễn với triều đình Oudong.
Năm 1623 chúa Nguyễn chính tức yêu cầu triều đình Chân Lạp để cho dân Việt mở rộng địa bàn khai phá trên những vùng đất thưa dân và để quản lý, chúa Nguyễn lập ở Pray Kor (vùng Sài Gòn ngày nay) một trạm thu thuế. Vua Chân Lạp đã chấp thuận đề nghị này[12] . Vào thời điểm đó cư dân Việt đã có mặt ở hầu khắp miền Đông Nam Bộ và Sài Gòn.
Sau cái chết của Chey Chetta II vào năm 1628 nội bộ giới cầm quyền Chân Lạp bị chia rẽ sâu sắc. Nhiều cuộc chiến giữa các phe phái đã diễn ra với sự trợ giúp quân sự của một bên là quân Xiêm, một bên là quân Nguyễn. Những cuộc chiến ấy chẳng những không ảnh hưởng đến việc người Việt tiến hành khai phá những vùng đất hoang hóa ở đồng bằng sông Cửu Long, mà trái lại, còn tạo điều kiện thuận lợi cho chúa Nguyễn thiết lập quyền kiểm soát chính thức của mình trên những vùng đất cư dân Việt đã dựng nghiệp. Trong thời kỳ này sự thần phục của các nhóm di thần nhà Minh góp phần đã đẩy nhanh quá trình xác lập chủ quyền của chúa Nguyễn trên lãnh thổ Nam Bộ. Từ năm 1679 chúa Nguyễn Phúc Tần đã tạo điều kiện để nhóm Dương Ngạn Địch cùng nha môn, quân sĩ vùng Quảng Tây tổ chức việc khai phá và phát triển kinh tế vùng lưu vực sông Tiền Giang (Mỹ Tho), cho nhóm Trần Thượng Xuyên và những đồng hương Quảng Đông của ông chiêu dân tiếp tục mở mang vùng Biên Hòa – Đồng Nai. Trong vòng gần 20 năm, một vùng đất trải dài từ Bà Rịa đến sông Tiền Giang, vốn đã được cư dân Việt đến sinh cư lập nghiệp từ trước, nhanh chóng trở thành những trung tâm kinh tế quan trọng với nhiều làng mạc trù phú, phố phường sầm uất, hải cảng nhộn nhịp có thuyền buôn Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Dương, Bồ Bà (Java) tới buôn bán.
Trên cơ sở những đơn vị tụ cư đã trù mật những trung tâm kinh tế đã phát triển, năm 1698, chúa Nguyễn đã cử thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý vùng đất này và cho lập ra ở đây một đơn vị hành chính lớn là phủ Gia Định. Như vậy vào cuối thế kỷ XVII chúa Nguyễn đã xác lập được quyền lực của mình tại vùng trung tâm của Nam Bộ, khẳng định chủ quyền của người Việt trên vùng đất mà trên thực tế, chính quyền Chân Lạp chưa khi nào thực thi một cách đầy đủ chủ quyền của mình.
Sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là vào năm 1708 Mạc Cửu ở Hà Tiên xin quy phục chúa Nguyễn. Là một thương nhân Hoa kiều ở Lôi Châu, thường xuyên tới buôn bán ở vùng biển Đông Nam Á, Mạc Cửu đã sớm nhận ra vị trí địa lý thuận lợi của vùng đất Mang Khảm (sau đổi là Hà Tiên) nên đã lưu ngụ lại, chiêu mộ dân sửa sang bến thuyền, mở mang chợ búa, khai phá đất đai, biến một vùng đất còn hoang vu thành một nơi buôn bán sầm uất. Lúc đầu (vào khoảng năm 1680) Mạc Cửu đã từng xây dựng quan hệ thần phục với vua Chân Lạp, nhưng sau này thế lực Chân Lạp suy giảm, không đủ sức bảo vệ cho công việc làm ăn của cư dân vùng đất này khỏi sự tiến công cướp bóc của người Xiêm nên đã tìm đến chúa Nguyễn xin nội thuộc vào năm 1708. Năm 1757 khi đất Tầm Phong Long (tương đương với vùng tứ giác Long Xuyên) được vua Chân Lạp là Nặc Tôn dâng cho chúa Nguyễn để đền ơn cứu giúp trong lúc hoạn nạn và giành lại ngôi vua, quá trình xác lập chủ quyền lãnh thổ của người Việt trên đất Nam Bộ về cơ bản đã hoàn thành.
Từ quá trình lịch sử trên đây, không thể quan niệm một cách đơn giản rằng chủ quyền của người Việt trên vùng đất Nam Bộ là do chiếm của Chân Lạp. Chứng cứ lịch sử cho thấy quốc gia đầu tiên trên đất này là Phù Nam mà cư dân chủ yếu là người protomalais, đến đầu thế kỷ thứ VII mới bị Chân Lạp tiến công tiêu diệt. Tuy nhiên, Chân Lạp đã không có điều kiện để quản lý và khai thác vùng đất này. Sự sầm uất, trù phú của Nam Bộ là công lao khai phá của các nhóm cư dân chủ yếu là người Việt từ thế kỷ XVII. Chúa Nguyễn là người bảo hộ cho quá trình khai phá này và việc khẳng định quyền quản lý lãnh thổ là một hệ quả tự nhiên.
Quá trình thụ đắc vùng đất Nam Bộ của chúa Nguyễn chủ yếu thông qua khai phá hoà bình kết hợp với đàm phán ngoại giao để khẳng định chủ quyền. Đó là phương thức được thừa nhận là phù hợp với thông lệ lịch sử và các văn bản quốc tế hiện hành.
4. Thực thi và bảo vệ chủ quyền
Cùng với quá trình khai thác những vùng đất còn hoang vu ở Nam Bộ của cộng đồng cư dân, các chính quyền của người Việt đã liên tục thực hiện các chính sách quản lý lãnh thổ với tư cách là chủ nhân vùng đất này. Từ thế kỷ XVII để thực thi chủ quyền, các chúa Nguyễn đã tổ chức các đơn vị hành chính, sắp đặt quan cai trị, lập sổ sách quản lý dân đinh, ruộng đất và định ra các loại thuế. Phủ Gia Định thành lập năm 1698 gồm hai dinh Trấn Biên (Biên Hoà) và Phiên Trấn (Gia Định) quản lý hơn 4 vạn hộ. Sau năm 1774 vùng đất từ nam Hoành Sơn đến mũi Cà Mau được chia làm 12 dinh, trong đó vùng đất Nam Bộ chia thành 4 dinh (Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ và Hà Tiên). Trừ Hà Tiên lúc đầu còn là một dinh phụ thuộc, mỗi dinh quản hạt một phủ, dưới phủ có huyện, tổng hay xã. Từ đó, về cơ bản tổ chức hành chính trên vùng đất Nam Bộ đã được kiện toàn.
Triều Nguyễn thành lập vào năm 1802 tiếp tục sự nghiệp của các chúa Nguyễn đã hoàn thiện hệ thống hành chính và thống nhất quản lý trên quy mô cả nước. Năm 1836 vua Minh Mạng cho lập sổ địa bạ toàn bộ Lục tỉnh Nam Kỳ. Bên cạnh chính sách chính trị, quân sự, triều đình khuyến khích phát triển kinh tế – xã hội, mở mang phát triển các dinh điền, đồn điền, xây dựng các công trình thuỷ lợi, phát triển giao thông thuỷ bộ. Năm 1817 vua Gia Long cho đào kênh Thoại Hà. Vào đầu những năm 20, vua Minh Mạng giao cho đào kênh Vĩnh Tế nối Châu Đốc với Hà Tiên dài trên 70km.
Ngay từ khi mới khẳng định quyền quản lý, các chính quyền người Việt đã ý thức sâu sắc về trách nhiệm đối với chủ quyền lãnh thổ. Chính quyền các chúa Nguyễn đã từng kiên quyết đánh bại các cuộc tiến công xâm phạm lãnh thổ của quân Xiêm vào các năm 1715,1771… Tiêu biểu cho ý chí bảo vệ chủ quyền là cuộc kháng chiến chống Xiêm với chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút vang dội của Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy vào năm 1785. Sang thế kỷ XIX, các Vua Nguyễn đã cho xây dựng hệ thống các trường luỹ và đồn bảo trấn thủ dọc theo biên giới để bảo vệ lãnh thổ. Trong suốt nửa đầu thế kỷ XIX cùng với xây dựng nước Đại Nam hùng cường, các vua Nguyễn đã bảo vệ vững chắc chủ quyền Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ.
Khi thực dân Pháp tấn công xâm lược, triều Nguyễn đã tổ chức kháng chiến chống lại. Đến khi triều đình tỏ rõ sự bất lực thì nhân dân Việt Nam đã không tiệc máu xương liên tục đứng lên đấu tranh anh dũng bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước của mình. Thắng lợi vẻ vang năm 1975 là đỉnh cao của quá trình chiến đấu hy sinh bền bỉ lâu dài vì lý tưởng cao đẹp đó.
5. Cơ sở pháp lý
Cơ sở pháp lý về chủ quyền của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ thể hiện ngay trong quá trình thụ đắc lãnh thổ bắt đầu từ thế kỷ XVII. Từ giữa thế kỷ XIX, chủ quyền này được chính thức ghi nhận trong văn bản các Hiệp ước quốc tế. Tháng 12 năm 1845 ba nước An Nam (Việt Nam), Xiêm (Thái Lan) và Miên (Cămpuchia) đã ký một Hiệp ước, trong đó thừa nhận 6 tỉnh Nam Kỳ thuộc Việt Nam. Năm sau, trriều Nguyễn và Xiêm lại ký một Hiệp ước có nhắc lại điều đó. Đây là Hiệp ước mà sau này Cao Miên cũng tham gia[13]. Như vậy muộn nhất là đến năm 1845 các nước láng giềng với Việt Nam, trong đó có cả Cămphuchia đã ký các văn bản pháp lý chính thức công nhận vùng đất Nam Bộ là của Việt Nam.
Pháp tấn công Nam Bộ rồi sau đó lần lượt chiếm 6 tỉnh Nam Kỳ là các sự kiện thể hiện rõ sự xâm hại đến chủ quyền lãnh thổ trên vùng đất Nam Bộ, nhưng Cămpuchia không có bất cứ một phản ứng gì. Trái lại, triều Nguyễn đã điều động quân đội tiến hành kháng Pháp và khi kháng chiến thất bại, đã đứng ra ký các Hiệp định nhượng cho Pháp 3 tỉnh miền Đông (năm 1862) và 3 tỉnh miền Tây (năm 1874). Đây là những chứng cớ và cơ sở pháp lý quan trọng khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất này.
Sau khi lập ra Liên bang Đông Dương, trên cơ sở nghiên cứu lịch sử thực thi chủ quyền trên vùng đất Nam Bộ, Pháp đã tiến hành hoạch định biên giới giữa Nam Kỳ và Cămpuchia theo luật của nước Pháp. Việc khảo sát, đo đạc trên thực địa được tiến hành bởi các chuyên gia Pháp và Cămpuchia. Năm 1889 giữa Pháp và Cămpuchia đã ký một loạt các văn bản pháp lý về hoạch định, phân giới cắm mốc biên giới giữa Nam Kỳ và Cămpuchia. Tất cả các văn bản pháp lý này đều khẳng định vùng đất Nam Kỳ hoàn toàn thuộc về Việt Nam.
Trước những thắng lợi liên tiếp của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ngày 4 tháng 6 năm1949 tổng thống Vincent Aurol ký Bộ luật số 49 – 733 trả lại Nam Kỳ cho chính quyền Bảo Đại. Trong Bộ luật còn có chữ ký của Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp.
Giải thích những thắc mắc của vương quốc Cămpuchia về quyết định này, ngày 8 tháng 6 năm 1949 Chính phủ Pháp đã có thư chính thức gửi quốc vương Sihanouk, trong đó có đoạn nói rõ: “Về pháp lý và lịch sử không cho phép Chính phủ Pháp trù tính các cuộc đàm phán song phương với Cămpuchia để sửa lại các đường biên giới của Nam Kỳ” vì “Nam Kỳ đã được An Nam nhượng cho Pháp theo các Hiệp ước năm1862 và 1874…. chính từ triều đình Huế mà Pháp nhận được toàn bộ miền Nam Việt Nam… về pháp lý, Pháp có đủ cơ sở để thoả thuận với Hoàng đế Bảo Đại việc sửa đổi quy chế chính trị của Nam Kỳ”. Trong bức thư đó Chính phủ Pháp còn khẳng định: “thực tế lịch sử ngược lại với luận thuyết cho rằng miền Tây Nam Kỳ vẫn còn phụ thuộc triều đình Khmer lúc Pháp tới ” và “Hà Tiên đã được đặt dưới quyền tôn chủ của Hoàng đế An Nam từ năm 1715 và kênh nối Hà Tiên với Châu Đốc được đào theo lệnh của các quan An Nam từ nửa thế kỷ trước khi chúng tôi đến” [14].
Vậy là đến năm 1949, vùng đất Nam Bộ vốn từng bị triều Nguyễn “bán” cho Pháp, đã được trả lại bằng một văn bản có giá trị pháp lý. Chính phủ Pháp còn khẳng định những cơ sở lịch sử và luật pháp của văn bản này với vương quốc Cămpuchia. Từ đó về sau chủ quyền Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ liên tục được tất cả các Hiệp định định có giá trị pháp lý quốc tế như Hiệp định Genève (1954), Hiệp định Paris (1973) công nhận.
Như vậy, chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ không chỉ được khẳng định bởi tính tính chính đáng trong quá trình thụ đắc lãnh thổ cũng như công lao của Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vùng lãnh thổ đó suốt từ thế kỷ XVII đến nay mà còn phù hợp với nguyên tắc uti possidetis (tôn trọng nguyên trạng), phù hợp thông lệ và các công ước quốc tế hiện hành.
Kết luận
Vùng đất Nam Bộ vốn là một địa bàn giao tiếp và đã từng có nhiều lớp cư dân đến khai phá. Vào khoảng đầu công nguyên, cư dân vùng đất này đã xây dựng nên nhà nước Phù Nam. Trong thời kỳ phát triển nhất vào khoảng thé kỷ V-VI, Phù Nam đã mở rộng ảnh hưởng và trở thành một đế chế rộng lớn với nhiều thuộc quốc phân bố ở phía nam bán đảo Đông Dương và bán đảo Malaca. Vào đầu thế kỷ VII đế chế Phù Nam tan rã, nước Chân Lạp của người Khmer, vốn là một trong những thuộc quốc của Phù Nam ở vùng Tongle Sap đã tấn công đánh chiếm vùng hạ lưu sông Mêkông (tương đương với vùng đất Nam Bộ ngày nay).
Tuy nhiên, trong suốt thời gian gần 10 thế kỷ vùng đất Nam Bộ không đựơc cai quản chặt chẽ và gần như bị bỏ hoang. Từ cuối thế kỷ XVI và đặc biệt là từ đầu thế kỷ XVII, dưới sự bảo hộ của các chúa Nguyễn người Việt đã từng bước khai phá vùng đất này. Người Việt đã nhành chóng hoà đồng với các cộng đồng cư dân tại chỗ và những cư dân mới đến (người Hoa) cùng nhau mở mang, phát triển Nam Bộ thành một vùng đất trù phú. Cũng từ đây người Việt là cư dân chủ thể và thực sự quản vùng đất này. Từ đó đến nay chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam đã được khẳng định không chỉ bằng thực tế lịch sử mà còn trên các văn bản có giá trị pháp lý được cộng đồng quốc tế thừa nhận.
Trong suốt hơn ba thế kỷ với biết bao thăng trầm của lịch sử, nhiều thế hệ người Việt Nam (với ý nghĩa cộng đồng cư dân đa dân tộc) đã đổ biết bao công sức để dựng xây và bảo vệ vùng đất Nam Bộ. Mỗi tấc đất nơi đây đều thấm đẫm mồ hôi và máu. Chính vì thế mà đối với mỗi người dân Việt Nam, Nam Bộ không đơn thuần chỉ là vấn đề chủ quyền lãnh thổ mà cao hơn thế, còn là vùng đất của những giá trị thiêng liêng./.
[1] Bộ ngoại giao Campuchia: Sách đen. Phnom Penh, 1978
[2] Vann Molivann: Plan d’ urgence pour la réhabilitation des ressources culturelles, humaines et economiques des Sites d’Ankor, trong tập “Conservation of Cultural Heritage and International Assistance in Asian Countries”, Nara 1993, tr. 45.
[3] Lịch Đạo Nguyên: Thủy Kinh chú.
[4] Xem Lê Hương: Sử liệu Phù Nam, Sài Gòn 1974.
[5] ý kiến của các chuyên gia Ramesh, Raman (Ấn Độ) và N. Karashima (Nhật Bản).
[6] Tùy thư.
[7] Tân Đường thư.
[8] Lê Hương, sđd, tr. 93.
[9] Mã Đoan Lâm: Văn Hiến thông khảo
[10] Võ Sỹ Khải: Nghiên cứu văn hoá khảo cổ ốc Eo: mười năm nhìn lại, Khảo cổ học, số 4/1985.
[11] Chu Đạt Quan: Chân Lạp phong thổ kí (bản chữ Hán, mục Sơn xuyên)
[12] A. Dauphin Meunier: Le Cambodge, Paris 1965, tr.56.
[13] Raoul Marc Jennar, Les Frontières du Cambodge contemporain. INALCO, Paris 1998, tr. 89
[14] Dẫn theo Raoul Marc Jennar, sđd, tr. 97.

Sách dẫn
1. Bộ ngoại giao Campuchia: Sách đen.Phnom Penh, 1978
2. Christopho Borri: Xứ Đàng trong năm 1621, Hà Nội, 1998.
3. Cœdès G.: Deux inscriptions sanskrites du Fou-nan, BEFEO vol. XXXI, 1931.
4. Dauphin Meunier A.: Le Cambodge, Paris, 1965.
5. Lê Hương: Sử liệu Phù Nam, Sài Gòn, 1974
6. Hà Văn Tấn: Phù Nam và Óc Eo: ở đâu? Khi nào? và Ai? // Kỷ yếu Hội thảo khoa học Biên giới Tây Nam, ĐHQG HN, 1996.
7. Vũ Minh Giang: Quá trình xác lập chủ quyền lãnh thổ phía nam của Việt Nam // Kỷ yếu Hội thảo khoa học Biên giới Tây Nam, ĐHQG HN, 1996.
8. Malleret L.: L’Archeologie du Dellta du Mékong, BEFEO vol XL-IXI, Paris 1959 -1963.
9. Nguyễn Văn Hầu: Sự thôn thuộc và khai thác đất Tầm Phong Long, chặng cuối cùng của cuộc Nam tiến, Sử Địa, 1970 số 19 – 20.
10. Raoul Marc Jennar: Les Frontières du Cambodge contemporain. INALCO, Paris 1998.
11.Vann Molivann: Plan d’urgence pour la réhabilitation des ressources culturelles, humaines et economiques des Sites d’Angkor // Conservation of Cultural Heritage and International Assistance in Asian Countries, Nara 1993.
12. Võ Sỹ Khải: Nghiên cứu văn hoá khảo cổ Óc Eo: mười năm nhìn lại, Khảo cổ học, số 4/1985.
Bài in trong: Một chặng đường nghiên cứu lịch sử (2001 – 2006), Nxb Thế giới, Hà Nội, 2006

Đảng CNRP chống phá Việt Nam và lịch sử vùng đất Nam Bộ

10471231_10203736339523682_2762295201001969330_n
Cùng với chiến dịch “bản đồ” và các hoạt động tuyên truyền rầm rộ chống Việt Nam của đảng “Cứu nguy dân tộc Campuchia” do Sam Rainsy cầm đầu, ngày 19/7/2015, hàng ngàn người Campuchia lại bị kích động, lôi kéo, tạo ra vụ lộn xộn ở vùng biên giới Long An
Việt Nguyễn
Những năm gần đây, Đảng Cứu nguy dân tộc Campuchia (CNRP) đã tiến hành nhiều hoạt động chống phá Việt Nam như đốt cờ Tổ quốc trước Đại sứ quán Việt Nam tại Campuchia, kỳ thị người Việt, gây rối khu vực biên giới. Hành động của các nghị sĩ đảng CNRP là không thể chấp nhận được. Các nghị sĩ CNRP luôn lấy lý do “Việt Nam cướp đất của người Khmer” hay “trả lại đất Nam bộ cho người Khmer’….
Để giúp người đọc có cái nhìn toàn diện, khách quan về nguyên nhân sâu xa của các hoạt động này. Tác giả xin tổng hợp các tài liệu nói về lịch sử của vùng đất Nam Bộ để người Việt Nam ở trong và ngoài nước đồng lòng, chung sức đoàn kết giữ vững biên cương của Tổ quốc…
Từ lâu Nam Bộ đã là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Vịêt Nam, nhưng do tính chất phức tạp của lịch sử nên cho đến nay vấn đề chủ quyền lãnh thổ (territorial sovereignty) vẫn còn có những nhận thức chưa thật đầy đủ. Để giải quyết thoả đáng vấn đề này không thể không trở lại xem xét cụ thể nguồn gốc và diễn biến chủ quyền lãnh thổ đối với vùng đất này. Hiển nhiên, việc xem xét lịch sử chủ quyền phải bắt đầu từ nhà nước Phù Nam.
Căn cứ vào những ghi chép trong các thư tịch cổ Trung Quốc thì Phù Nam là một quốc gia nằm ở phía nam của Lâm Ấp (Champa) nghĩa là tương đương với đất Nam Bộ ngày nay.
Cũng dựa vào các thư tịch cổ, các nhà khoa học đã thống nhất nhận định rằng nước Phù Nam xuất hiện vào khoảng đầu Công nguyên và biến mất vào khoảng thế kỷ thứ VII. Mùa xuân năm 1944 nhà khảo cổ học Pháp Louis Malleret đã tiến hành một cuộc khai quật có ý nghiã lịch sử ở khu vực gần núi Ba Thê (nay thuộc địa phận xã Vọng Thê, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang). Từ sau cuộc khai quật này bắt đầu xuất hiện khái niệm văn hoá Ốc Eo và một cách tự nhiên các nhà khoa học đã dễ dàng đi tới nhận định rằng vấn đề Phù Nam không thể tách rời vấn đề Ốc Eo. Hay nói cách khác, hoàn toàn có cơ sở khoa học nếu đồng nhất những di vật thuộc văn hoá Ốc Eo là di tích văn hoá vật thể của nước Phù Nam. Vấn đề này đã được khắng định trong nhiều tác phẩm và hội thảo khoa học, đặc biệt là hội thảo về Văn hoá Ốc Eo – Phù Nam do Bộ KH-CN tổ chức tại Tp. Hồ Chí Minh năm 2004, nhân kỷ niệm 60 năm sự kiện phát hiện văn hoá ốc Eo. Các học giả cũng đã khẳng định Ốc Eo là một nền văn hoá có nguồn gốc bản địa, ít ra là từ thời đại kim khí và trong thời kỳ cường thịnh nhất, Phù Nam đã phát triển thành một đế chế rộng lớn bao gồm toàn bộ phần phía nam bán đảo Đông Dương (Nam Bộ của Việt Nam hiện nay, nước Campuchia, một phần nam Lào), một phần Thái Lan và bán đảo Malaca, nhưng trung tâm vẫn là vùng đất Nam Bộ.
Một vấn đề có ý nghĩa quan trọng là xác định chủ nhân của văn hoá ốc Eo. Trước đây, người ta thường nói mà không chứng minh rằng chủ nhân nền văn hoá này là tổ tiên của người Khmer. Nhưng dưới ánh sáng của những nghiên cứu mới thì vấn đề không phải như vậy. Trước hết, tất cả những di tích thuộc văn hóa Ốc Eo có thể dễ dàng nhận thấy là khác biệt với văn hóa Khmer. Những dấu vết của Chân Lạp trên đất Nam Bộ không thể hiện là sự phát triển liên tục của văn hóa Phù Nam. Về phong tục tập quán, sử liệu Trung Quốc cũng cho biết rằng tang lễ và hôn nhân của Phù Nam gần giống với Lâm ấp (tức Champa).
Về mặt lịch sử, các tư liệu trong thư tịch cổ Trung Quốc cũng phân biệt rất rõ Phù Nam với Chân Lạp (quốc gia của người Khmer). Sử ký của nhà Tùy chép rằng nước Chân Lạp ở về phía tây nam Lâm ấp, nguyên là một chư hầu của Phù Nam. Vua nước ấy là Ksatriya Citrasena đã đánh chiếm và tiêu diệt Phù Nam. Sử ký nhà Đường cũng chép: “Trong nước [Phù Nam] bấy giờ có thay đổi lớn. Nhà vua đóng đô ở thành Đặc Mục, thình lình bị nước Chân Lạp đánh chiếm, phải chạy trốn về miền nam, trú ở thị trấn Na Phất Na”. Những sự kiện được chép trên đây diễn ra vào đầu thế kỷ VII. Căn cứ vào sự kiện 627 Phù Nam còn đến tiến cống nhà Đường lần cuối cùng, các học giả cho rằng đó có thể coi đó là năm sớm nhất nước Phù Nam bị tiêu diệt.
Sau khi chiếm được Phù Nam, vùng đất này được gọi là Thuỷ Chân Lạp. Việc cai quản vùng lãnh thổ mới đối với Chân Lạp hết sức khó khăn. Trước hết đây là một vùng đồng bằng mới bồi lấp còn ngập nước và sình lầy, người Khmer với dân số ít ỏi chưa thể tổ chức khai thác trên quy mô lớn. Hơn nữa, việc khai khẩn đất đai trên lãnh thổ của Lục Châu Lạp cũng còn đang đòi hỏi rất nhiều thời gian và sức lực. Vào nửa sau thế kỉ thứ VIII quân đội Srivijaya của người Java đã liên tục tiến công vào các quốc gia trên bán đảo Đông Dương. Kết cục là Thuỷ Chân Lạp bị quân Java chiếm. Cả vương quốc Chân Lạp gần như bị lệ thuộc vào Srivijaya. Cục diện này mãi đến năm 802 mới kết thúc.
Tuy nhiên người Khmer lúc này muốn dồn sức phát triển các vùng trung tâm truyền thống của họ ở khu vực Biển Hồ, trung lưu sông Mê Kông và hướng nỗ lực bành trướng sang phía tây, vùng lưu vực sông Chao Phaya. Trong khoảng thời gian từ thế kỷ IX đến cuối thế kỷ XI, Chân Lạp trở thành một quốc gia cường thịnh, tạo dựng nên nền văn minh Angkor rực rỡ, đồng thời mở rộng lãnh thổ lên tận Nam Lào và trùm lên cả lưu vực sông Chao Phaya.
Trong khi đó qua các di tích khảo cổ học, dấu tích của văn hoá Khmer và văn minh Angkor ở vùng Đồng Nai – Gia Định hết sức mờ nhạt.
Do chiến tranh và phải tập trung công sức phát triển các trung tâm ở vùng lục địa, sau mấy thế kỷ thuộc Chân Lạp, đến thế kỷ XIII theo Chu Đạt Quan, vùng đất Nam Bộ vẫn còn là một vùng đất hoang vu với những “bụi rậm của khu rừng thấp… tiếng chim hót và thú vật kêu vang dội khắp nơi… những cánh đồng bị bỏ hoang phế, không có một gốc cây nào. Xa hơn tầm mắt chỉ toàn là cỏ kê đầy dẫy, hàng trăm hàng ngàn con trâu rừng tụ họp thành từng bầy trong vùng này, tiếp đó là nhiều con đường dốc đầy tre chạy dài hàng trăm dặm…”.
Bắt đầu từ thế kỷ XIV Chân Lạp phải đối phó với sự bành trướng của các vương triều Thái từ phía tây, đặc biệt là từ sau khi vương quốc Ayuthaya hình thành. Trong gần một thế kỷ Chân Lạp liên tiếp phải đối phó với những cuộc tiến công từ phía người Thái, có lúc kinh thành Angkor đã bị quân đội Ayuthaya chiếm đóng.
Từ thế kỉ XVI, do sự can thiệp của Xiêm, triều đình Chân Lạp bị chia rẽ sâu sắc và dần bước vào thời kì suy vong, hầu như không có điều kiện quan tâm đến vùng đất còn ngập nước ở phía đông và trên thực tế đã không đủ sức quản lý vùng đất này. Trong bối cảnh đó nhiều cư dân Việt từ đất Thuận Quảng đã vào vùng Mô Xoài, Đồng Nai (miền Đông Nam Bộ) khai khẩn đất hoang lập làng sinh sống.
Năm 1620 vua Chân Lạp Chey chetta II đã cưới con gái chúa Nguyễn Phúc Nguyên làm vợ. Đối với Chân Lạp, việc kết thân với chúa Nguyễn là để dựa vào lực lượng quân sự của người Việt lúc này đang rất mạnh nhằm làm giảm sức ép từ phía Xiêm. Với chúa Nguyễn, quan hệ hữu hảo này tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt, vốn đã có mặt từ trước, được tự do khai khẩn đất hoang và làm ăn sinh sống trên đất Thuỷ Chân Lạp và tăng cường ảnh hưởng của họ Nguyễn với triều đình Oudong.
Năm 1623 chúa Nguyễn chính tức yêu cầu triều đình Chân Lạp để cho dân Việt mở rộng địa bàn khai phá trên những vùng đất thưa dân và để quản lý, chúa Nguyễn lập ở Pray Kor (vùng Sài Gòn ngày nay) một trạm thu thuế. Vua Chân Lạp đã chấp thuận đề nghị này. Vào thời điểm đó cư dân Việt đã có mặt ở hầu khắp miền Đông Nam Bộ và Sài Gòn.
Sau cái chết của Chey Chetta II vào năm 1628 nội bộ giới cầm quyền Chân Lạp bị chia rẽ sâu sắc. Nhiều cuộc chiến giữa các phe phái đã diễn ra với sự trợ giúp quân sự của một bên là quân Xiêm, một bên là quân Nguyễn. Những cuộc chiến ấy chẳng những không ảnh hưởng đến việc người Việt tiến hành khai phá những vùng đất hoang hóa ở đồng bằng sông Cửu Long, mà trái lại, còn tạo điều kiện thuận lợi cho chúa Nguyễn thiết lập quyền kiểm soát chính thức của mình trên những vùng đất cư dân Việt đã dựng nghiệp. Trong thời kỳ này sự thần phục của các nhóm di thần nhà Minh góp phần đã đẩy nhanh quá trình xác lập chủ quyền của chúa Nguyễn trên lãnh thổ Nam Bộ. Từ năm 1679 chúa Nguyễn Phúc Tần đã tạo điều kiện để nhóm Dương Ngạn Địch cùng nha môn, quân sĩ vùng Quảng Tây tổ chức việc khai phá và phát triển kinh tế vùng lưu vực sông Tiền Giang (Mỹ Tho), cho nhóm Trần Thượng Xuyên và những đồng hương Quảng Đông của ông chiêu dân tiếp tục mở mang vùng Biên Hòa – Đồng Nai. Trong vòng gần 20 năm, một vùng đất trải dài từ Bà Rịa đến sông Tiền Giang, vốn đã được cư dân Việt đến sinh cư lập nghiệp từ trước, nhanh chóng trở thành những trung tâm kinh tế quan trọng với nhiều làng mạc trù phú, phố phường sầm uất, hải cảng nhộn nhịp có thuyền buôn Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Dương, Bồ Bà (Java) tới buôn bán.
Trên cơ sở những đơn vị tụ cư đã trù mật những trung tâm kinh tế đã phát triển, năm 1698, chúa Nguyễn đã cử thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý vùng đất này và cho lập ra ở đây một đơn vị hành chính lớn là phủ Gia Định. Như vậy vào cuối thế kỷ XVII chúa Nguyễn đã xác lập được quyền lực của mình tại vùng trung tâm của Nam Bộ, khẳng định chủ quyền của người Việt trên vùng đất mà trên thực tế, chính quyền Chân Lạp chưa khi nào thực thi một cách đầy đủ chủ quyền của mình.
an-giang-ha-tien-trong-ban-do-nam-ky-luc-tinh-thoi-1836
Sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là vào năm 1708 Mạc Cửu ở Hà Tiên xin quy phục chúa Nguyễn. Là một thương nhân Hoa kiều ở Lôi Châu, thường xuyên tới buôn bán ở vùng biển Đông Nam Á, Mạc Cửu đã sớm nhận ra vị trí địa lý thuận lợi của vùng đất Mang Khảm (sau đổi là Hà Tiên) nên đã lưu ngụ lại, chiêu mộ dân sửa sang bến thuyền, mở mang chợ búa, khai phá đất đai, biến một vùng đất còn hoang vu thành một nơi buôn bán sầm uất. Lúc đầu (vào khoảng năm 1680) Mạc Cửu đã từng xây dựng quan hệ thần phục với vua Chân Lạp, nhưng sau này thế lực Chân Lạp suy giảm, không đủ sức bảo vệ cho công việc làm ăn của cư dân vùng đất này khỏi sự tiến công cướp bóc của người Xiêm nên đã tìm đến chúa Nguyễn xin nội thuộc vào năm 1708. Năm 1757 khi đất Tầm Phong Long (tương đương với vùng tứ giác Long Xuyên) được vua Chân Lạp là Nặc Tôn dâng cho chúa Nguyễn để đền ơn cứu giúp trong lúc hoạn nạn và giành lại ngôi vua, quá trình xác lập chủ quyền lãnh thổ của người Việt trên đất Nam Bộ về cơ bản đã hoàn thành.
Từ quá trình lịch sử trên đây, không thể quan niệm một cách đơn giản rằng chủ quyền của người Việt trên vùng đất Nam Bộ là do chiếm của Chân Lạp. Chứng cứ lịch sử cho thấy quốc gia đầu tiên trên đất này là Phù Nam mà cư dân chủ yếu là người protomalais, đến đầu thế kỷ thứ VII mới bị Chân Lạp tiến công tiêu diệt. Tuy nhiên, Chân Lạp đã không có điều kiện để quản lý và khai thác vùng đất này. Sự sầm uất, trù phú của Nam Bộ là công lao khai phá của các nhóm cư dân chủ yếu là người Việt từ thế kỷ XVII. Chúa Nguyễn là người bảo hộ cho quá trình khai phá này và việc khẳng định quyền quản lý lãnh thổ là một hệ quả tự nhiên.
Quá trình thụ đắc vùng đất Nam Bộ của chúa Nguyễn chủ yếu thông qua khai phá hoà bình kết hợp với đàm phán ngoại giao để khẳng định chủ quyền. Đó là phương thức được thừa nhận là phù hợp với thông lệ lịch sử và các văn bản quốc tế hiện hành.

Nỗi ám ảnh Bài-Việt tại Cambodia

thediplomat_2016-09-06_14-52-54-386x257
Nhà sư đốt cờ Việt Nam bằng giấy trong cuộc biểu tình trước đại sứ quán Việt Nam tại Phnom Penh (8/10/ 2014)
Tác giả Tim Frewer*
Đàm Hà Khánh dịch
Tại sao Campuchia nhỏ? Bọn Yuon!
Tại sao Campuchia nghèo? Bọn Yuon!
Tại sao rừng và tài nguyên thiên nhiên bị quản lý yếu kém? Là bọn Yuon!
… Tại sao tôi phải đau dạ dày? Cũng tại bọn Yuon!
Xu hướng bài Việt đang thống trị đất nước Cambodia, ngay cả giữa những nhóm NGO (Tổ chức phi chính phủvà các tổ chức chính trị khác nhau
Vào ngày 21/6/2015 một lực lượng quân đội và cảnh sát ập vào làng Areyksat tại tỉnh lị Kandal cưỡng chế tháo dỡ 55 nhà thuyền và 10 nhà dân khỏi bờ sông. Không giống như những đợt cưỡng chế khác vốn không hiếm gặp ở Cambodia, lý do đưa ra không phải để phát triển hạ tầng mà vì “lý do môi trường”. Những người bị cưỡng chế là cư dân gốc Việt được xem là “làm ô nhiễm khu vực” theo giới chức địa phương và ảnh hưởng đến “vẻ đẹp địa phương” và “du lịch trong nước và quốc tế”. Trên một trong số những kênh tin tức của Đảng Nhân Dân Cambodia đưa tin  , người dẫn chương trình hân hoan công bố”dân nhập cư phải tuân thủ luật pháp” và giới chức địa phương nên “bảo vệ môi trường”. Những người dẫn chương trình thâm chí còn thêm vào (một cách thiếu nghiêm túc) rằng “dân nhập cư đã bị trục xuất về Việt Nam” và kết thúc với nụ cười hân hoan.
Hai tuần sau đó nhóm cư dân gốc Việt này hoang man không biết sẽ đi về đâu khi một nhóm đông đảo sinh viên được hộ tống bởi cảnh sát tiến vào khu vực tiến hành dọn dẹp. Họ hô hào việc cần thiết phải bảo vệ và làm sạch môi trường. Bối cảnh kì quái diễn ra với đám đông sinh viên kết hợp cùng binh lính hô hào việc phải ” dọn sạch” môi trường địa phương trước con mắt ngỡ ngàng của những cư dân bị trục xuất.
Đây không phải lần đầu cư dân gốc Việt bị quét khỏi vùng đất mà họ xem như quê nhà- kể từ thập niên 90 họ đã bị cưỡng chế di dời mấy lần. Cho dù cộng đồng này sinh trưởng ngay tại Cambodia, việc không được hòa nhập làm họ ít có cơ hội chống lại việc bị trục xuất.
Tại Chong Kneas tỉnh Siem Reap, những làng nổi của cư dân gốc Việt đã bị giải tỏa khỏi đất liền để làm cảng Sou Ching, dự kiến phục vụ từ 3000-4000 lượt du khách hàng tháng đến viếng thăm hồ Tonle Sap nổi tiếng. Kể từ khi tiến hành xây dựng càng này vào 2008, các làng nổi của dân gốc việc bị loại trừ một cách có hệ thống khỏi việc tiếp cận nguồn phúc lợi do du khách mang đến. Khu cảng mới được dự kiến sẽ làm sạch và phát triển khu vực. Khu làng nổi vốn bị ngành công nghiệp du lịch tô vẽ như một trải nghiệm đời sống cộng sinh sông nước lạ lùng và ngoại lai có thể gây tổn hại, thật ra là một nhóm cư dân không tổ quốc lênh đênh vì bị trục xuất khỏi đất liền.
Tại Kompong Chnang, giới chức đặt mục tiêu “làm sạch” thành phố, tiến hành trục xuất 1000 cư dân gốc Việt vì cho rằng họ làm “tổn hại và ô nhiễm” khu vực bờ sông. Kể từ năm 2000 những làng nổi của dân gốc Việt dọc dòng sông Tonle Sap đã bị trục xuất và tháo dỡ dưới chiêu bài “bảo vệ môi trường”.
Vào tháng tám, đài Tự Do Á Châu tường thuật giới chức tại Kratie đã hoàn tất kế hoạch làm sạch khu bờ sông Mekong tập trung vào việc cưỡng chế gia cư của dân gốc Việt dọc theo bờ sông. (Thật ra những làng này bao gồm cả cư dân người Khmer và người di cư  gốc Chăm.  Một sốlàng, chẳng hạn như tại Kompong Luong ở Pursat là nhóm cư dân  hỗn hợp, trong khi những người ở Kampong Chhnang và Siem Reap có xu hướng tách biệt hơn.)
Rõ ràng có sự tương đồng giữa những câu chuyện này. Người gốc Việt đang phải sinh sống trên mặt nước ở một vị trí mong manh nhất bởi tình trạng vô thừa nhận, sự phụ thuộc sinh kế vào đánh bắt cá, sự thiếu hụt tính chất hợp pháp tại những nơi họ cư trú, sự tăng cường quản lý nhà nước tại những nơi vốn trước đây không có sự kiểm kiểm soát, và cuối cùng là sự lan tỏa của làn sóng trỉ trích vào khu vực sinh sống của riêng cư dân gốc Việt đang sinh sống trên lãnh thổ Cambodia
Không giống những vụ cưỡng chếtrong môi trường đô thị, hoặc của người nghèo ở nông thôn, những vụ cưỡng chế phần lớn không được chú ý và không có sự cảm thông nào. Các nhóm NGO không đổ xô đến truy tìm nguyên nhân cư dân gốc Việt bị trục xuất. Không có cuộc biểu tình đầy màu sắc nào được thực hiện, không có truyền thông quốc tế đến ghi chép hoàn cảnh của họ. Những người trên đài phát thanh tiếng Khmer không giận dữ đòi công lý. Giới học giả làm việc về giải tỏa phớt lờ những vụ việc như vậy . Người Việt nếu phát ngôn sẽ không được công nhận là tên chủ hộ gia đình. Trong hầu hết các trường hợp, họ lặng lẽ đồng ý theo yêu cầu và buộc phải di dời.
Mục tiêu của tôi khi đưa ra những ý trên – tất nhiên chưa phản ánh hết sự phức tạp của những vụ việc- không phải để thử khắc họa ra rằng nhóm  dân Cambodia gốc Việt là nhóm dễ bị tổn thương nhất như là nạn nhân giành cho các nhóm NGO và các nhà nghiên cứu (bổ sung vào danh sách các nhóm “dễ bị tổn thương” dường như không bao giờ kết thúc của đất nước Cambodia). Thay vào đó, tôi muốn thu hút sự chú ý đến biểu hiện của trục trung tâm của nền chính trị Campuchia mà phần lớn vẫn chưa được nghiên cứu và thảo luận – luận điệu về người Việt như là mối đe dọa lãnh thổ đối với tương lai của cộng đồng người Khmer. Mục tiêu của tôi trong việc đưa ra vấn đề này tại thời điểm Campuchia đang trầm mình trong những  vấn đề lớn hơn nhiều là để nêu bật đến cách thức mà các sự việc tiếp nối cho thấy đất nước Cambodia vẫn duy trì mối nghi ngờ sâu sắc và lòng căm thù đối với người Việt. Campuchia hiện đang ở một thời điểm tối quan trọng khi chuẩn bị đến cuộc bầu cử 2018 và trong khi dân chủ, nhân quyền, quốc sách, và tính hợp pháp sẽ là những khía cạnh trung tâm của việc phân tích và vận động, ít người sẵn sàng chấp nhận cái nhìn sâu sắc về tâm lý bài Việt đã và đang chi phối nền chính trị Campodia .
Nếu so sánh một quốc gia thuộc địa và một quốc gia hậu thuộc địa, một trong những yếu tốchủ chốt là quyền đối xử tàn bạo của chính quyền hay vương quyền đối với cư dân không mong muốn vốn  nằm ngoài cộng đồng chính trị tùy thuộc hoàn toàn vào nhà nước hậu thuộc địa. Các quốc gia nhỏ như Campuchia có thể phải chịu áp lực rất lớn để tham gia vào giao dịch thương mại song phương và đa phương, vốn phải từ bỏ nghiêm trọng khái niệm về chủ quyền; họ có thể bị buộc phải tham gia vào các chương trình lâu dài và mơ hồ để xây dựng nền dân chủ và nền quản trị tốt; họ phải xây dựng  bộ máy công chức đan chéo với các nhóm NGO nước ngoài, các chuyên gia phát triển và chuyên gia tư vấn; họ có thể phải chịu áp lực phải cấp những khu vực đất đai rộng lớn cho nhà đầu tư nước ngoài; để tái xây dựng các khu vực của đất nước thành những công viên giải trí lớn phục vụ du khách; phải chào mừng làn sóng các nhóm NGO và các nhóm nhân đạo đổ vào tham gia thực hiện các dự án phát triển; thậm chí phải chấp nhận người tị nạn không mong muốn từ các nước lớn. Nhưng có một điều không bao giờ mất đi là chủ nghĩa dân tộc và giấc mơ về chủ quyền. Campuchia có thể là một quốc gia  nghèo, phụ thuộc về kinh tế và chính trị và đã từng là thuộc địa của người Thái, người Việt, và người Pháp (và cả các phe cánh quốc tế thông qua các nhóm NGO và các nhà tài trợ), nhưng vẫn nằm trong hệ thống mà các quốc gia nhỏ vẫn điều hành một cách chuyên chế cư dân và lãnh thổ của nó thông qua việc đề cao chủ quyền.
Mọi người đều dính líu ít nhiều đến chủ nghĩa phát xít
Giấc mơ thuộc địa hồi sinh một nền văn hóa cổ đại suy tàn , khôi phục lại biên giới lãnh thổ cũ, quyền kiểm soát tuyệt đối rằng ai (và ai không được phép) di chuyển qua biên giới, khôi phục lại quyền lực chính trị cho giai cấp cầm quyền người Khmer  vẫn còn tồn tại trong lòng đất nước Cambodia ngày nay. Mặc dù người Cambodia thường được xem trên truyền thông quốc tế và trong giới nghiên cứu khoa học như là những nạn nhân – của Khmer Đỏ, của một chế độ suy đồi, lạm dụng đất đai, bất bình đẳng giới, và biến đổi khí hậu- Cambodia, giống như bất kỳ quốc gia thực sự nào, cũng là nơi tồn tại xu hướng chống di dân, phân biệt chủng tộc, và sự cuồng tín. Một trong những nét nổi bật nhất của chủ nghĩa dân tộc cực đoan là- những người có thể không biết chữ và bị loại khỏi một nền giáo dục đàng hoàng, không chăm sóc y tế, không công việc đàng hoàng, không phúc lợi xã hội, nhưng có một thứ mà bất cứ ai cũng có thể tham gia vào là chủ nghĩa dân tộc. Bạn không cần phải có giáo dục hoặc thuộc thành phần thượng lưu để tham gia vào phong trào bài Việt.
Những khu rừng có thể mất đi, số dân không có đất có thể tăng lên từng ngày, người dân bị bỏ rơi bởi nhà nước có thể phải lao vào những công việc lao động bấp bênh và nguy hiểm, nhưng  vấn đề về di dân và loại bỏ ảnh hưởng của người Việt trong cấu trúc chính phủ luôn tồn tại và gắn kết sự quan tâm của mọi người. Vì vậy, một ý tưởng lan truyền và phổ biến  rằng Việt Nam – đặc biệt là người Việt – là nguyên nhân gốc rễ mang đến tai ương cho Campodia và quan niệm đó có thể được tìm thấy trong ngay cả các tổ chức NGO cấp tiến, các nhà hoạt động rừng, các cấp chính quyền địa phương, các nhà hoạt động đất đai, những người giàu có, cũng như trong tầng lớp tinh hoa nắm quyền.
Khi nhà phân tích chính trị nổi tiếng Kem Lay bị bắn chết thê thảm tại Phnom Penh vào tháng trước, đám đông dân chúng đề phòng cảnh sát can thiệp vào bằng chứng, đã cố gắng ngăn chặn nhà chức trách di chuyển thi thể. Thật quái lạ khi đám đông giận dữ hét lên “youn” (một thuật ngữ ám chỉ một cách xúc phạm người Việt Nam) vào cảnh sát, buộc tội họ là người Việt Nam. Làm thế nào họ có thể đồng thanh và nhất trí  – khi  không có bất kỳ cơ sở nào- xem viên sĩ quan là người Việt chỉ vì hành động của anh này được có thể phương hại đến một vị anh hùng Khmer vốn tuyên truyền rất nhiều những ý tưởng về Việt Nam. Những lời cáo buộc kiểu đó chẳng mấy xa lạ – trong  các cuộc biểu tình năm 2014 , những người biểu tình tại Freedom Park đã chế giễu nhân viên bảo vệ bằng cách gọi họ là “Yuon” vì một lý do tương tự (mặc dù họ thực sự là người Khmer) – do đó đã nảy sinh phản ứng bạo lực. Trong một số trường hợp lời lăng mạ như vậy có thể dẫn tới đám đông đánh chết nạn nhân rồi bu vào hôi của chỉ vì nạn nhân là người Việt. 
Điều đáng ngại nhất là,  không chỉ đám đông giận dữ hay các nhóm biểu tình giữ quan điểm như vậy. Sự nghi kị – và cả hận thù -đối với người Việt không phải hiếm gặp trong giới hoạt động và các tổ chức NGO cấp tiến. Nhiều lần tôi đã chứng kiến các nhân viên người Khmer trong các nhóm NGO vềđất đai, tài nguyên thiên nhiên, và các vấn đề quyền con người tham gia vào luận điệu bài Việt mà không bị chất vấn. Hoặc gần đây, trong một chuyến đi đến Prey Lang với các nhà hoạt động rừng, tôi đã buộc phải chịu đựng một bài diễn văn khoa trương lê thê vô cùng tẻ nhạt của một nhà hoạt động rừng trẻ tuổi có liên hệ với tổ chức Mother Nature  đồng thời là thành viên của cái gọi là “nhóm phân tích chính trị trẻ” của Kem Ley  về đề tài người Việt là nguyên nhân gây nên tình trạng quản lý rừng yếu kém của Campodia. Ngay cả tại Politikocoffee, một diễn đàn hàng tuần thành lập bởi các nhà hoạt động tự do Campuchia và các bloger,  gần như không thể có một cuộc trò chuyện về các vấn đề của người Việt ở Campuchia mà không gợi lên chủ nghĩa dân tộc và những cảm xúc mạnh mẽ về vấn đề người Việt “vượt biên trái phép.”
Vấn đề ở đây là chủ nghĩa dân tộc cực đoan đã âm thầm thống trị trong các phe cảnh đối lập với  chế độ hiện hành. Vì vậy, tồn tại ý tưởng cố hữu rằng chế độ hiện hành là một con rối của người Việt (trái ngược với tinh thần Khmer) gây nên tình trạng đồng nhất giữa việc chống đối chế độ Hun Sen và tình cảm bài Việt. Việc xoay trục của Campuchia sang phía Trung Quốc – chẳng màn đến chế độ thực dân Pháp, chủ nghĩa thực dân mới của các nhóm NGO, vai trò của Trung Quốc trong thời kỳ Khmer Đỏ, cuộc xâm lược của người Thái trong lịch sử, và thực tế là Campuchia đã chiếm nhiều đất của vương quốc Champassak ở Nam Lào – tất cả đều được bỏ lơ. Thay vào đó, là một bài giảng chính trị dai dẳng khắc họa mối liên hệ không thể phủ nhận giữa việc mất đất Khmer cổ xưa  (vùng Kampuchea Krom ở đồng bằng Nam Bộ Việt Nam, đảo Koh Tral ngoài khơi  thuộc tỉnh Kampot, và gần đây hơn là một khu vực tranh chấp nhỏ hơn nhiều dọc theo phía đông biên giới) với  chế độ hậu Khmer Đỏ được Việt Nam hậu thuẫn cùng  nhiều vấn đề đương đại do tham nhũng và quản lý yếu kém tài nguyên thiên nhiên. Luận điệu đơn giản này dường như luôn luôn được ẩn bên dưới tâm lý phổ biến – tại sao Cambodia nhỏ? Bọn Yuon! Tại sao Cambodia nghèo? Bọn Yuon! Tại sao rừng và tài nguyên thiên nhiên bị quản lý yếu kém? Là bọn Yuon!  … Tại sao tôi phải đau dạ dày? Cũng tại bọn Yuon!
Có phải người Việt là vấn đề?
Hiện đã có một số phương tiện truyền thông bằng tiếng Anh thuộc Đảng Cứu quốc Campuchia (CNRP) đặc biệt được Sam Rainsy và Kem Sokh dùng để khai thác tâm lý chống Việt Nam. Nhưng điều quan trọng phải lưu ý rằng tình cảm chống Việt phổ biến hơn và vượt hẳn tầm CNRP. Lãnh đạo của Đảng Liên đoàn Dân chủ Khem Veasna (vốn chỉ giành được hơn 1% số phiếu trong cuộc bầu cử năm 2013, để thành đảng phái lớn thứ tư) nổi tiếng với luận điệu huênh hoang chống nhập cư kì quái (luôn nhằm duy nhất vào Yuon) có thể làm ngay cả Donald Trump phải cảm thấy  xấu hổ. Sự phát triển gần đây của đảng Sức mạnh Khmer của Soun Serey Ratha cũng dựa hoàn toàn vào luận điệu tương tự, rằng phải “tống cổ bọn Youn khỏi đất Campodia” – Một cựu lính RCAF lưu vong từ Canada, người đã kêu gọi một cuộc đảo chánh của quân đội  – luôn luôn nhấn mạnh tính cấp bách của việc “giải phóng Campodia khỏi chế độ bù nhìn của Việt Nam.”
Chẳng có gì mới trong những luận điệu này, chính sách khủng bố và ngược đãi người Việt đã là chủ thuyết chính trị chính kể từ thời chính phủ Lon Nol thập niên 70. Những vụ thảm sát bạo lực nhắm vào người Campuchia gốc Việt năm 1970 dưới bàn tay của Lon Nol – vốn bị số đông dân chúng Campuchia gần như hoàn toàn quên lãng – báo động một thực tế là tướng Lon Nol đã có thể khai thác tình cảm chống Việt để giảm bớt sự bất bình của quần chúng về thực tế là chế độ quân chủ được yêu quý đã bị xóa bỏ lần đầu tiên sau 1000 năm. Vì vậy, một nghiên cứu mới – cùng với bằng chứng đặc biệt mới xuất hiện tại tòa án Khmer Đỏ – cho thấy chế độ Khmer Đỏ không chỉ là một cỗ máy giết người hoang tưởng tự hủy diệt, một chế độ giết người hàng loạt dẫn đến sụp đổ là mà còn là kết quả của một mục tiêu địa chính trị sâu thẳm nhằm của loại trừ một cách có hệ thống ảnh hưởng của Việt Nam ra khỏi cộng đồng chính trị Campuchia . Không một người Việt Nam nào ở lại Campuchia trong chế độ Democratic Kampuchea được cho là đã sống sót và vì lý do này mà từ “diệt chủng” được sử dụng trong phương cách chính quyền này thanh tẩy người Việt. 
Rõ ràng rằng mặc dù dư luận quần chúng Cambodia – được hỗ trợ bởi các phương tiện truyền thông quốc tế – đang đấu tranh để thừa nhận sự đau khổ của các nhóm phi-Khmer trong thời gian này và vai trò của chủ nghĩa dân tộc cực đoan trong việc cổ vũ bạo lực. Cách thức dân chúng bị cuốn vào sự tuyên truyền rằng sự dã man của Khmer Đỏ là để chống lại  sự xâm nhập của Việt Nam rất  vô lý – không chỉ vì đây là luận điệu được KR sử dụng để loại bỏ “yếu tố nước ngoài”, mà bởi vì nó hoàn toàn chối bỏ bạo lực chống lại người Việt Nam.
Trái ngược với tâm lý phổ biến, có thể nói rằng rằng thập niên 1990 là một thời kỳ quan trọng có tính chất bản lề gây nên sự thù ghét người Việt trong nền chính trị Cambodia.  Một ngụ ý phổ biến của các chính trị gia đối lập và các nhà phân tích chính trị là chế độ hậu KR mở ra sự nhập cư hàng loạt của người Việt dưới sự giám sát ban đầu của quân đội Việt Nam và sau đó chế độ là dưới chế độ Hun Sen. Đây không phải là nơi để tranh luận những tuyên bố này – mà thường đi kèm với sự phóng đại, cảm xúc hung hăng, nhiệt tình dân tộc, nói thẳng ra là sự phân biệt chủng tộc (xem thêm ở đây, để thảo luận). Giống như hầu hết các vấn đề khác ở Campuchia, đảng CPP của Hun Sen có sự quan tâm chính trị yếu kém và không thúc đẩy bất kỳ cuộc thảo luận hoặc các chính sách hợp lý về người Cambodia gốc Việt, như vậy  mặc tình cho phép tất cả những người phản đối CPP độc chiếm các chủ đề. Rồi sau đó chính phủ lại ban hành một số luật ngày càng loại trừ người Campuchia gốc Việt, tước quốc tịch và tước quyền bầu cử của họ. Lại thêm một vài nhà lãnh đạo nỗ lực đến “trấn áp” người nhập cư Việt trong và xung quanh thủ đô Phnom Penh, dẫn đến thêm nhiều vụ trục xuất người Cambodia gốc Việt. 
Trong sự hỗn loạn và bạo lực của những năm 90, khi các lực lượng Liên hiệp quốc (UNTAC)  cố gắng vụng về nối lại thỏa thuận hòa bình và thiết lập nền dân chủ, ở Campuchia, vấn đề  bạo lực đối với người Việt và loại trừ ảnh hưởng chính trị của họ đã trở thành bình thường trong sốcác quan điểm chống Việt trở nên ngày càng cực đoan. Không chỉ Khmer Đỏ, mà còn bao gồm các lực lượng phi chính phủ khác, chẳng hạn như FUNCINPEC và KPLNF, những nhóm  chống Việt dữ tợn nhất. Vào năm 1993 , vụ thảm sát   33 người Việt ở Chong Kneas tỉnh Siem Reap do Khmer Đỏ thực hiện không chỉ đáng chú ý bởi sự tàn bạo (giết hại đàn ông không vũ trang, phụ nữ và cả trẻ em), mà bởi thực tế là không có ai trong số các phe phái chính trị thể hiện bất kỳ thông cảm cho các nạn nhân mà còn kêu gào chấm dứt việc người Việt Nam nhập cư trong những ngày sau đó (mặc dù tất cả các nạn nhân đều được sinh ra tại Campuchia). Tương tự,  cuộc tấn công dã man nhằm vào ngôi làng nổi của dân gốc Việt ở Kompong Chnang vào cuối năm 1998,  các nạn nhân của vụ thảm sát sẽ không bao giờ tìm thấy công lý (mặc dù thủ phạm công khai thừa nhận sự tham gia của họ – họ hiện tham gia vào nhóm RCAF) và sự kiện này cũng nhanh chóng bị công chúng lãng quên. So sánh với cuộc tấn công năm 1997 nhắm vào buổi mittin của Đảng Quốc Gia  Khmer của Sam Rainsy, kết quả dẫn đến cái chết của 16 đến 20 người, đã được công chúng xem như một sự kiện bất tử.
Nhà nghiên cứu độc lập và phân tích chính trị nổi tiếng Kem Lay, người đã bị bắn chết ở trung tâm Phnom Penh vào tháng trước, có lẽ là một thước đo tốt về quan điểm chính trị đương đại tại Campuchia về Việt Nam. Các phân tích của Kem Lay, vốn thường xuyên được phát sóng trên Đài phát thanh Á Châu Tự Do và đài Tiếng nói Hoa Kỳ, gây chú ý bỏi chúng quy kết hầu hết mọi  vấn đề với người Việt – và trong thực tế cho thấy hiếm có cuộc nói chuyện nào của Kem Lay không đề cập tới người Việt. Mặc dù dũng cảm, nói thẳng vào vấn đề, có cách tiếp cận mới mẻ so với cách  tiếp cận quan liêu truyền thông chính phủ vốn hay thống trị các cuộc thảo luận về các vấn đề chính ở Campuchia, các nghiên cứu của ông này hầu như chẳng tuân thủ cấu trúc nào hoặc nêu được vấn đề nào chủ chốt. Trong một số trường hợp, ông này đơn giản chỉ đi dạo quanh hồ Tonle Sap hay khu Chbar Apov ở Phnom Penh, ghi chép về những người nói tiếng Việt như thể hiển nhiên khám phá ra là họ đang cư trú bất hợp pháp ở Campuchia và cần thiết bị trục xuất. Ông thường nói về người nhập cư Việt Nam là “một căn bệnh” gây tác hại cho Campuchia. Luận chứng năm điểm của ông về cách mà người Việt đang phá hủy Campuchia là những luận điệu chán ngắt và hoàn toàn sai sư thật, vốn chỉ để kích động tâm lý phân biệt chủng tộc hoang đường. Tương tự, Chiến dịch Vận động 100 ngày của ông này cũng được cấu trúc  xung quanh việc khuyến khích người dân Campuchia quan sát và ghi nhớ những trường hợp Việt nam đã “thuộc địa hóa Campuchia”. Những bịa đặt trong những buổi nói chuyện với nông dân được che đậy khéo léo- rõ ràng nhắm vào số dân chúng nói tiếng Khmer – luôn ám chỉ đến vấn đề Việt Nam đang cố gắng nuốt trọn Campuchia và bằng cách như vậy ông này khắc sâu và khai thác sự thiếu hiểu biết rộng rãi về phía người Việt (và rộng hơn là những quan niệm sai lầm về mối quan hệ hiện đại giữa Việt Nam và Cambodia).
Thế mà di sản nghiên cứu của ông này  hiện được lưu giữ như một ví dụ cho giới trẻ Campuchia, điều này cho thấy vấn đề hết sức báo động và có lẽ sẽ mất rất nhiều thời gian nữa  trước khi có thêm các cuộc trò chuyện hợp tình hợp lý  về vấn đề này có thể được tổ chức công khai. Cũng cần lưu ý rằng các phương tiện truyền thông tiếng Anh đã hoàn toàn thất bại trong việc ghi nhận các sắc thái của thứ di sản này, và cả nỗi ám ảnh chống Việt trắng trợn của ông ta . Trong khi đó, các đài phát thanh phổ biến như Đài Châu Á Tự do và Đài Tiếng nói Dân chủ ngang nhiên thúc đẩy quan điểm chống Việt Nam của ông ta, mặc dù,  sự xuất hiện của những nhà phân tích mới có phương pháp như Meas Ny là một dấu hiệu tích cực. 
Quay lại vấn đề trục xuất người gốc Việt ở trên, có thể đặt câu hỏi, ở mức độ nào mà các tổ chức phi chính phủ, các nhà tài trợ, và các chuyên gia tư vấn và chuyên gia nước ngoài – vốn hiện diện rất nhiều tại Campuchia –  đã bỏ qua  vấn đề người gốc Việt bị thanh tẩy. Trong suốt thời kỳ UNTAC, Liên Hiệp Quốc  ngoài vấn đề hậu cần, đã không thể cung cấp sự bảo vệ cho người gốc Việt mà còn không thật sự muốn giải quyết vấn đề bạo lực nhằm vào người gốc Việt. Ngày càng có một sự im lặng cố tình từ phía các tổ chức NGO lớn và các nhà tài trợ, những người sẵn sàng tham gia trực tiếp trong gần như mọi khía cạnh phát triển của Campuchia, từ cách người nông thôn đi phóng uế tới  những gì họ suy nghĩ về sự thay đổi khí hậu. 
Trở lại những vụ trục xuất người Việt  xung quanh hồ Tonle Sap và sông Mekong. Các tổ chức NGO nhân quyền hàng đầu của Campuchia như – CCHR, LICHADO, và AD HOC – đã giữ im lặng một cách kỳ lạ. Đối với hầu hết Các tổ chức NGO và cộng đồng phát triển quốc tế hoạt động tại Campuchia, vấn đề mà cư dân gốc Việt vô tổ quốc phải đối mặt-  khả năng xảy ra bạo lực thật sự nhắm vào họ  – chỉ đơn giản là vì họ đã không đăng ký với chính quyền. Song, như nhà phân tích chính trị Ou Virak, là một trong số ít người công khai chỉ trích thái độ chống Việt trong nền chính trị Campuchia, đã chỉ ra rằng “luận điệu chống Việt” là phổ biến “trong dân chúng, và tất cả mọi người biết điều đó.”
Rõ ràng xuất hiện những căng thẳng hướng đến  cuộc bầu cử năm 2018 tại Cambodia. Có nhiều khả năng chính quyền CPP sẽ không thể đảm bảo đủ sự ủng hộ cần thiết của cử tri để giành chiến thắng trong cuộc bầu cử. Câu hỏi đặt ra là CPP sẽ phản ứng như thế nào? Thật khó để không nhìn thấy những vụ giết người chính trị chẳng hạn như vụ Kem Ley là một thông điệp rõ ràng giành cho dân chúng, ở nơi mà sợ hãi và bạo lực vẫn còn là cơ chế quan trọng để giành kiểm soát. Những vụ án Kiểu Kafka gần đây, sử dụng tòa án và luật pháp để đàn áp bất đồng chính kiến cũng cho thấy sự phụ thuộc liên tục của CPP trong việc sử dụng bộ máy nhà nước để dập tắt sự phản đối.  Ngoài ra còn có những chỉ báo đáng lo ngại về việc lực lượng RCAF có thể được sử dụng để “bảo vệ chống lại” những gì được xem như là mối đe dọa tới chính phủ và CPP – điều chắc chắn không phải là chưa từng xảy ra. 
Một nguy cơ khác mà chưa ai nhắc đến, rằng là,  việc gia tăng bất mãn và chống đối chế độ sẽ được thể hiện qua các lời lẽ bài Việt – như nó đã luôn diễn ra trong suốt các cuộc bầu cử kể từ năm 1993 đến nay. Việc không có ai sẵn sàng đứng lên bảo vệ cho những nạn nhân gốc Việt- cho thấy phong trào bài Việt hệt như  một khuynh hướng phát xít, lan tràn trên Facebook và các phương tiện truyền thông trực tuyến, được cổ võ bởi một thế hệ mới những nhà hoạt động Khmer – là dấu hiệu của bạo lực sẽ xảy đến trong tương lai. Việc các thành viên ủng hộ CNRP rà soát các khu vực bỏ phiếu phi Khmer, và các nhóm khác tự tổ chức những cách thức để đảm bảo rằng “dân gốc Việt” không đi bỏ phiếu bất hợp pháp (mà chắc chắn sẽ bầu cho đảng CPP), cho thấy khả năng khuynh hướng cực đoan sẽ bùng phát trong thời gian bầu cử và người gốc Việt sẽ phải gánh chịu hậu quả. 
Bi kịch ở chỗ, trong thực tế hàng trăm ngàn người gốc Việt đã bị tước quyền bầu cử và với rất ít không gian chính trị để đưa vấn đề ra công luận, bất kỳ giải pháp công bằng nào đều nằm xa trong tương lai. Một câu hỏi quan trọng đặt ra là đều gì sẽ xảy ra cho cư dân Cambodia gốc Việt nếu CNRP nắm được quyền lực. Chính quyền đó sẽ mang áp lực phải đưa các biện pháp hà khắc và cực đoan để loại trừ người Cambodia gốc Việt? Tình hình Myanmar gần đây nên được xem như một lời cảnh báo. Điều xảy ra với người Rohingya là một ví dụ rõ ràng về những gì sẽ xảy ra khi một nhà nước khai thác chủ nghĩa phát xít nhằm phục vụ lợi ích chính trị – mặc dù không phải lần đầu tiên điều này xảy ra tại Cambodia.

*Tim Frewer là một nhà nghiên cứu và nghiên cứu sinh tại Đại học Sydney ,đã làm việc và nghiên cứu tại Campuchia trong hơn thập kỷ qua.

Thứ Sáu, 2 tháng 9, 2016

Hồi ký anh Hai Ruộng



Hai Ruong

Mình là hai ruộng lính D7 , E 747 , F 317. Ngày 17 tháng 03 năm 1979 đơn vị mình hành quân vượt biên giới theo ngỏ Sa Mát . Lúc các bạn giải phóng K , thì sư Đoàn mình chưa kịp thành lập. Lúc nầy E747 là E Quyết Thắng thuộc BTL Thành cùng với E Gia Định. Thời điểm nầy E mình có hai D làm nhiệm vụ chiến đấu ở Cà Tum  và Sa Mát còn một D làm nhiệm vụ huấn luyện tại 2 bis Xô Viết Nghệ Tỉnh. Sau đó toàn E làm nhiệm vụ truy quét tàn quân và Ful rô ở khu vực dọc theo sông La Ngà . Đến ngày 17 tháng 03 năm 79 mới thành lập F 317 và hành quân trong đêm vượt biên giới.
Sau bốn ngày hành quân E747 đến huyện XTUNG phía tây bắc tỉnh Kampongthom, đến một hồ nước rất lớn, bờ đê cao gần nóc nhà, xe din ba cầu leo không nổi. Sau khi vượt bờ đê E 747 hành quân về phía Khum Cadia, D bộ dóng tại khum Cadia, còn C9 hành quân thêm một đoạn đường nữa để xuống phum Thơ mây cách D bộ 15km. Sau khi đóng quân khoảng một tuần thì  D6 bắt đầu đụng địch. đụng với sư 517 của Pốt. Chuyện chinh chiến hên xui may rủi còn dài, xin dừng lại đây để hôm sau mình kể tiếp.
Cảm ơn các bạn. Hôm nay 2 ruộng rất vui vì bắt được làn sóng của các bạn sau 30 năm. Mình có mặt ở F317 ,e747 d7. ngay từ đầu làm sao quên được 02 trận đánh lịch sử của E747 (15/4 và 26/5) mà mình trực tiếp tham gia có thể nói là trung đội nổ súng đầu tiên trong trận 15/4 nở hoa trong lòng địch (thực sự là đi lạc đường vào giửa cứ của địch, lúc đó mình sợ gần chết). Nhưng chuyện chinh chiến mình xin tạm ngừng đi để hôm khác kể. Bửa nay mình kễ chuyên nầy cho vui xem các bạn có còn nhớ không ? Nếu nhớ thì các bạn chính là anh em trong đại đội của mình. Đó là câu chuyện đại đội bị mang danh là đại đội phục kích, một trận phục kích hoàn hảo, tuyệt đẹp , không đổ máu. Chuyện như vầy :
Lúc E747 còn làm nhiệm vụ đánh FULRO ở khu vực sông La Ngà. D7 hầu hết là sv và CN thế hệ thứ tư còn mới nên coi như là D đàn em vì vậy được dùng để khua chiêng giống trống để 02 D đàn anh đánh bọc hậu. D7 chia ra 02 hay 03 cánh gì đó. Đại đội 2 ruộng đi một cánh  đi hai ngày luồn rừng  thì có lệnh hành quân đến điểm qui định  nhưng tụi nầy đi lạc đường ra bờ sông La Ngà, khi đến bờ sông thì ui cha, không thể nào tưởng tượng nổi. Đó là đoạn sông chính là nơi <<ngút tất của kôn srây >>Thanh Niên XP tỉnh Thuận HẢI. Quá bất ngờ cả đại đội bèn chịu nhịn đói, nhịn khát, để nằm dài theo bờ sông mà phục kích, mục tiêu trắng toát, lồ lộ trước đường ngắm (ngắm thôi chứ không được bắn), cho đến tối khi mục tiêu biến mất rối mới xuống sông lấy nước nấu cơm. Sáng hôm sau, sau khi báo cáo với Tiểu đoàn, tiểu đoản ra lệnh cho C hành quân về tiểu đoàn tiếp tục. Thế là C lại hành quân đi lòng vòng lại lạc đường và về ngay chổ củ ngày hôm qua, đại đội lại tiếp tục phục kích. Kỳ nầy tiểu đoàn nghi ngờ, vì liên lạc bằng máy PRC 25 với ăng ten lá lúa được, mà sao hành quân cả ngày không đến. Chính trị viên D đ/c Mai cùng với liên lạc chống gậy đi dọc theo bờ sông để tìm. Thế là cả C đang nằm phục kích bị thủ trưởng bắt gặp tại trân, lúc đó cũng gần 4 giờ chiều, trận phục kích bị bại lộ. Nhưng cũng rất tâm lý, thủ trưởng bảo lở phục kích rồi thì ở lại phục kích luôn sáng mai hành quân về. Từ đó đại đội bị mang tên là đại đội <<phục kích>> . Nào có bạn nào còn nhớ trận phục kích có một không hai trong lịch sử nầy không ?
@ bác 2 ruộng: Đợt truy quét FULRO từ cuối tháng 12-78 đến tháng 2-79 của E747 tại khu vực La Ngà-Định Quán, em không đi cùng E747 được, em đang "được" đơn vị cho đi học TS pháo tại BTL TP.HCM.Lúc đó E747 chỉ có dàn cán bộ khung cấp A/B là lính cũ của D1 Gia Định và D4 Quyết Thắng, còn lại toàn lính mới ken, còn chưa được bắn bài số 4, từ quân trường thống Nhất -Dương Minh Châu bổ sung về. Đợt truy quyét FULRO đó là đợt "diễn tập thực địa" đầu tiên của trung đoàn 747 đó anh à. D trường D7 khi qua K là chú 3 Xường phải không "đồng hương" ?
Chào Ang ko krao. Hai ruộng đây. Đúng rồi đấy D trưởng là đ/c Đàm văn Xường, tụi nầy gọi là bố Xường, nhưng D7 lúc đó là D4 sau đổi tên lại là D7, còn ngoài lính mới ở Dương Minh Châu về, còn có lính từ hssv được huấn luyện tại hai bis được biên chế vào D4 cã . Đối với D4 thì đây là đợt <<diễn tập thực địa >> .Vì vậy mình mới bảo là khua chiên giống trống từ Phương Lâm vào dọc theo bờ sông La Ngà, có phát hiện dấu vết đóng quân của địch, trên ngọn núi toàn cây tre, quân số khoảng 1 đại đội. Còn hai D đàn anh thì có nổ súng, một D quyét từ Bảo Lộc xuống, Một D quyét từ Thuận Hải lên, có tiêu diệt địch nhưng bao nhiêu thì mình không nhớ. Còn << ngút tất của kôn sray>> , dịch ra là << bãi tiến tăm, lúc đó có khoảng sáu - bảy mươi nàng tăm đang tiến thuộc đơn vị TNXP tỉnh Thuận Hải >> . Vì vậy mình mới bảo là mục tiêu trắng toát lồ lộ ra trên đường ngắm đấy. Đùa tý cho vui đồng thời để hăm lại bộ nhớ, giờ mình phải đi công việc, tối nay mình sẽ bắt đầu kễ nghiêm chỉnh từng trận đánh ở K nhé.
Hai ruộng xin chào các bạn . Nhờ các bạn đưa ký ức trở về với mình , mình sẽ kể tiếp những hoạt động của D4(D7) mà mình nhớ được, vì không có ghi nhật ký nên những con số mình không nhớ mà chỉ nhớ nội dung, các bạn thông cảm nhé.
Sau khi ổn định nơi đóng quân ở phum thơ mây cách khum Ca dia khoảng 15km về phía tây (huyện XTUNG). C tổ chức lùng sục và nắm địa hình xung quanh phum, chỉ phát hiện dấu vết nơi đóng quân thôi cứ không phát hiện địch. khoảng tuần sau D tổ chức đánh cá ở suối để lấy lương thực cho các C, Riêng C của mình còn cử một B sang đóng ở phum khác cách C 5km. Sau đó vài ngày vào một buổi chiều, thông tin nhận được tin D6 phát hiện địch khoảng 20 tên và xin lệnh E tổ chức đánh địch, một giờ sau đó thông tin lại báo cáo D6 phát hiện khoảng 100 tên địch, rồi 200 tên. sau đó nghe tiếng B40 nổ rền hướng D6, và D6 mất liên lạc. Mười giờ đêm trung đoàn ra lệnh thu quân. liên lạc phải chạy lên B độc lập để truyền lệnh thu quân, sau đó rút ngay về tiểu đoàn, đến sáng rút ngay về Trung đoàn, D thành lập B cơ động để bổ xung cho B trinh sát va B mình được chọn làm B cơ động, 3 người nhận ngay nhiệm vụ bổ xung đi cùng với trinh sát trong đó có mình để trinh sát địch tại phum La Ót cách phum D đang đóng 5km phát hiện địch khoảng 300 tên đang giết bò làm thịt. Về báo cáo D chuẩn bị đánh, lúc nầy Sư điện về là đã xác định địch quân số 01 sư đoàn đó là sư đoàn 515 của Pốt được mệnh danh là sư đoàn thép. Đêm sau hành quân tiếp cận, đến tờ mờ sáng nổ súng lệnh tấn công vào thì địch đã rút mất. B cơ động cùng với B trinh sát đi cặp với bố Xường xông vào giữa phum thì bị một quả cối rớt phía sau lưng, nhưng không ai bị thương, bố Xường ra lệnh bắt hết mấy tay đang leo lên cây thốt nốt, về giao cho thủ trưởng Mai (thượng úy Phạm Thanh Mai chính trị viên D, quê ở Cái Tắc hay chương Thiện - Hậu Giang). Rồi tiếp tục đi bắt thêm vài tay nữa, khi về đến thì thủ trưởng Mai đã thả hết những người bị bắt trước. Bố Xường giậm chân kêu << Anh Mai ơi là anh Mai ơi, mấy thằng đó nó chỉ điểm cho cối bắn vào đội hình ta đó. Thủ trưởng Mai cự lại: anh bắt toàn là dân, chứ địch đâu mà địch. Tôi mới thấy thủ trưởng Mai là người rất nhân hậu, hiền lành. sau nầy xác định lại là cối do D5 bắn vì D4 vào phum sớm quá, D5 phát hiện D4 tưởng đâu là địch . Thế là bố XƯỜNG hết nói.
Nói về D6 (Chuyện của D6 tôi chỉ nghe kễ chứ không trực tiếp chứng kiến), sau khi D bộ được dân báo có địch, tưởng địch ít D bộ điều B trinh sát và thông tin đi đánh địch, bị trúng kế địch. Địch điều quân đánh vào D bộ, lúc nầy chỉ còn có mấy anh thông tin và D bộ giữ cứ làm sao chống lại, thông tin ôm máy chạy chỉ mặc quần đùi, còn các đại đội đóng theo đội hình về tiếp cứu thì đều bị phục cã. Địch vào chiếm cứ  lấy cã ba lô nón cối (mình kễ chuyện D6 vì ở chi tiết nầy nó có liên quan đến trận đánh nở hoa trong lòng địch của D4 sau nầy). Còn D6 sau khi bị trận nầy quá nặng, thương vong cũng khá nhưng chưa đến nổi phải bố trí lại đội hình, sức chiến đấu giảm là chuyện đương nhiên.
Giai đoạn đầu so kè giữa 317 và 515 chỉ có vậy thôi, tuy trận đầu thất bại nhưng quân ta vẫn ở thế thắng và tinh thần quân ta vẫn còn cao chưa có gì nao núng. Sau đợt so kè đó địch rút ta đuổi theo. Lúc nầy địch và ta hành quân theo đội hình cấp Sư đoàn, mình nhớ có lần hành quân đến phum mà đội hình địch vừa đi qua, phum nầy có 5 giếng nước địch múc cạn hết cã nước, khi ta đến không còn nước uống. Rừng nguyên thủy sau khi địch đi qua theo dấu chân lá vụn ra như bột. Cuộc truy đuổi hai bên đều kiệt sức, có lần C mình đang hành quân gặp xe bò của dân đi cùng chiều, anh em mang ba lô nồi vì mỏi quá nên máng vào xe bò, đi một hồi quên xe bò rẽ vào đường khác, thế là cã đại đội không có nồi nấu cơm, đến suối đánh cá  chỉ có nướng ăn mà thôi, đến ngán ăn không nổi, có người nghĩ ra lấy bình ton treo làm nồi nấu cháo, tội cho mấy anh bỏ gạo hơi nhiều nấu xong gạo nở trút không ra, phải lấy que cây thục gần té khói. 317 và 515 vờn nhau như vậy thời gian gần một tháng trời, có khi đôi ba lần tổ chức đánh, ban đêm tiếp cận mục tiêu, gần sáng xung phong thì địch rút mất . Cuối cùng không hẹn mà ta và địch đều gặp nhau ở khu vực gần khum Ca Dia lúc đầu va việc gì đến nó sẽ đến.
Khi hành quân gần đến Ca Dia có lúc có một bộ phận nhỏ của quân ta hành quân dọc bên nây suối thí bên kia suối cũng có một bộ phận quân địch hành quân ban ngày. Quân ta nhìn thấy bên kia suối có toán quân đội nón cối tưởng quân mình, sát vào thí bị bắn. Té ra quân địch sau khi tập kích D6 thu được chiến lợi phẩm của quân ta hắn tận dụng luôn. Chính chổ nầy là điểm chết của địch sau nầy. Gần đến Ca dia D4 (D7) vào một đêm trăng sáng khoảng 10 giờ đã đụng địch, địch mệt quá không chạy nổi nữa nên ngủ lại trên đồi sau ụ mối, ta đuổi kịp nhưng địch nổ súng trước vào bốn anh em chúng tôi đi đầu nhưng không trúng vào ai , tôi bóp cò 02 lần nhưng B40 lại lép, sau khi thay quả đạn khác thì địch đã bỏ chạy để lại 01 xác chết và 02 khẩu súng, bỏ cã máy ngắm cối 82 và mìn kp2.
Khi đến lại Ca dia E747 tiền phương đóng tại Cadia D4 đóng sát bên E. Địch đóng tại phum bên bờ suối cách quân ta 3km cã hai bên đều mỏi mệt, lúc nầy là gần giữa tháng tư trinh sát ta khẫn trương đeo bám địch và trinh sát địch cũng đeo bám ta không kém, chúng bò khi nào vào đến công sự quân ta mới chịu ra (đúng là sư thép). Nghe nói Lục Thum của địch đóng giả làm dân ở ngay nhà đối diện với BCH E để nắm bắt tình hình của ta. Hai bên đều đi đến quyết định đánh không chạy nữa.
Lúc 0 giờ ngày 15/4 D4 bắt đầu hành quân đi đánh địch, khoảng cách chỉ 3km nhưng vì quân ta chưa quen địa hình bằng địch nên đi sớm và đám mưa lắc rắc đầu mùa cũng bắt đầu rơi lên nón lên áo đễ làm dịu đi cái nóng mùa hè oi bức cho người chiến sỹ. Trên bầu trời sau khi qua cơn mưa trăng vẫn sáng, D sắp hàng một hành quân, đi đầu là trinh sát, vừa đi vừa nhắm mắt ngủ (mắt nhắm, mắt mở vì mấy ngày có được ngủ đâu). Đến 4 giờ sáng, đội hình D đi vào một trảng trống hẹp nằm kẹp giữa một bên là phum, một bên là con suối lớn nhưng lòng suối thì cạn. Trăng vẫn sáng vằn vặt ở trên đầu. Khi đến bờ suối thì trinh sát phát hiện địch. Hết sức bất ngờ ở bờ suối bên kia cao hơn bờ suối bên nây, địch đang tập trung để xuất phát hành quân đong như kiến. Ở bờ suối bên nây nơi con đường băng qua suối cạn có một đám địch đang ngồi đúa giởn với nhau trinh sát dừng lại báo cáo cáo lên bố Xường, ở đội hình đằng sau bộ đội không hề hay biết thấy dừng quân tranh thủ nằm ngủ, không hề hay biết đội hình của D4 đang bị kẹp giữa hai cụm quân của sư 515.
Đến đây mới thấy hết tài cầm quân của bố XƯỜNG, mới thấy hết sự bình tỉnh gan dạ  phi thường của bố đã được tôi luyện trong thời đánh Mỹ. Trăng sáng tỏ hai bên đều phát hiện ra nhau rõ ràng, nhưng địch thì chưa biết ta, vì chúng có nhiều điểm bất ngờ lớn. Cái bất ngờ thứ nhất là địch không nghĩ rằng một D của ta mà dám chui vào đội hình sư đoàn của chúng. Cái bất ngờ thứ hai là địch cũng bắt đầu tập trung đễ hành quân đi đánh ta, lúc quân đông như vậy chúng không biết ta là đơn vị nào. Cái bất ngờ thứ ba là ta thì đội nón cối, còn địch thì đội nón mềm của TQ, nhưng vì trước đây một đơn vị của chúng tập kích vào D6 của ta, chúng cũng lấy quân trang của ta đội, cái điểm nhằm lẫn nầy ban ngày ta còn nhìn không ra ở trận bờ suối trước đây vài ngày huống chi bây giờ lại là ban đêm dù cho trăng có sáng, gậy ông lại đập lưng ông. Lợi dụng ba điều bất ngờ đó, bố Xường bình tỉnh ra lệnh đội hình đứng im, đợi phía bên bờ suối cao địch hành quân vừa đi hết, ta lại nối đuôi theo đội hình của địch, khi đi đến mép suối, toán địch ngồi đùa giởn khi nẩy chúng dạt ra hai bên nhường đường cho ta qua suối. Khi qua bờ suối cao trên đó là ruộng thuốc lá, nơi bọn kia vừa đi khỏi thì nơi đó quá trời hầm chữ Z địch đã đào sẫn. Bố Xường hết sức bình tỉnh và sáng suốt bố trí B trinh sát chốt lại bên phải, B cơ động của chúng tôi chốt bên trái tiếp nữa là khẩu đội 12ly 8 và dặn khi nào quân ta qua hết, địch nối đuôi theo thì nổ súng. Bố theo đội hình bố trí các C còn lại. Mấy ông nội đi sau chưa biết gì cã đi qua suối còn thủng thỉnh cởi giầy. Khi quân ta vừa qua hết bên nây suối thì một đám địch đong như kiến nối đuôi theo, chúng đi thành đám vừa cười, vừa nói, vừa hút thuốc đỏ trời, chúng bắt đầu lội qua suối rồi trèo lên bờ suối bên nây dốc thoai thoải, nhờ vậy mà chúng tôi bắn xuống thì dễ trúng còn địch bắn lên thì khỏi đầu chúng tôi không trúng được. Tên đi đầu cách chúng tôi khoảng hai mét thì anh Nguyễn Văn Mót (ngày xưa từng là du kích Củ Chi đã từng bắn cháy xe tăng Mỹ). Anh Mót nện cho địch một quả B41 hết sức điệu nghệ để mở đầu cho trận đánh (tôi dùng từ điệu nghệ là vì B41 ở trên cao bắn xuống thấp rất khó, khi bạn trút nòng xuống chưa kịp bắn đạn B41 đã rơi ra khỏi nòng nếu bạn không rành bắn). Anh Mót ở tư thế quì bắn, nòng B41 hướng lên trời khi đám địch đến gần tên đi đầu cách chừng hai mét, nhìn thấy nòng B41 của anh vừa gật xuống là phụt ra một luồn lửa xanh lè bắn dọng vào đám đông bên kia bờ suối, địch vừa ngã vừa lăn như lá rụng, cùng lúc đó tiếng súng nổ ran, tiếng địch rên la inh ỏi, sau đợt nổ súng đó, bố Xường ra lệnh cho chúng tôi rút nhanh khỏi bờ suối để vào công sự, chúng tôi vừa chạy khỏi bờ suối chừng 10m, chưa tìm được công sự để vào thì cối 82 của ta và địch thi nhau nhả vào hai bên bờ suối, lúc nầy chúng tôi đã lên được trên lùm cây.
Sau khi B trinh sát và B cơ động nổ loạt súng mở màng, 12ly8 khạc cũng được gần 01 thùng. Bố Xường cho liên lạc ra truyền lệnh 02 B rút nhanh vào, tụi mình vừa chạy khỏi là trận mưa cối trút xuống trận địa. Như vậy trong lúc 2 B ở lại chận đường thì bố Xường vừa bố trí đội hình cho 3C bộ binh , đồng thời ra lệnh tập trung 03 khẩu cối 61 ở 03 đại đội kết hợp với 02 khẩu cối 82 của C hỏa lực nơi khoảng trống nằm giữa đội hình với cơ số đạn tương đối khá (ngoài cơ số đạn do khẩu gánh theo, còn số đạn do bộ binh mang, mỗi anh được phân công mang 02 trái và đã dội kịp thời, đúng lúc vào đội hình khoảng trên 100 tên địch đang dồn cục đông như kiến. Còn khẩu đội 12ly 8 vì đặt trên địa hình không có vật che chắn (trên ruộng thuốc lá). Sau khi bị đánh bất ngờ, chúng bắt đầu tỉnh hồn trở lại và phang cho 12ly8 01 quả B40, đuôi quả đạn văng vào súng, không bị thương vong nhưng 12,8 phải dẹp ngay sau đó. Sau trận mở màng đó cối của D4 hết đạn (còn số ít bố X ra lệnh giữ lại để đề phòng không bắn nữa), nhờ vào cối chi viện của E). Lúc nầy địch cũng vừa tỉnh hồn chúng huy động lực lượng trở lại, bao vây D4, chúng đã khép chặt vòng vây, tổ chức tấn công đánh trả vào đội hình của ta. Chúng tập trung cối 6, cối 8, DKZ, số lượng cối chúng rót vào đội hình của ta nhiều gắp mấy lần ta rót vào chúng. Hơn nữa nơi ta đang chiếm là cứ củ của chúng, nên chúng biết rất rỏ địa hình, chỉ có một khoảng đất trống duy nhất để ta đặt cối chúng đã tập trung phản pháo vào đó vì vậy anh em bắn cối bị thương vong nhiều, tạm thời phải bỏ cối lại đó chạy vào nấp, khi cối chúng im ta lại ra dựng lại cối bắn tiếp, bắn xong lại chạy chờ nó bắn trả, ta bắn nó một quả nó trả lại ta mấy quả, cứ như vậy đánh cù cưa với nó cho đến hơn tám giờ sáng.
Bên ngoài chúng bắt đầu hò hét xung phong << chôi , chôi ,....>> . Hầu hết quân ta đã rút vào hầm chữ Z của chúng. Chúng hô vang dội khắp cả rừng, sung bộ binh của chúng nổ vào đội hình ta nghe như tiếng mưa rào. Nhờ công sự của chúng mà quân ta được an toàn, thương vong không đáng kể. Chúng xung phong làm hai đợt, đợt đầu hô xung phong mục đích để chúng lòn vào suối lấy thây. Lần hai chúng hò hét xung phong, bắn như mưa vào đội hình ta.
Lần tấn công thứ hai: Như vậy sau khi tấn công ta lần thứ nhất, (chỉ hô thôi chứ không dám tràn lên) ngừng một lát chúng lại hò hét <<chôi, chôi >>, bắn vào đội hình của ta như mưa. Ở trong công sự của chúng vừa chiếm được, quân ta sẳn sàng chào đón chúngđợi hòai không thấy chúng xung phong, nhưng sau đó chúng lại rút lui, lúc nầy là khỏang chin giờ sáng. Vậy là sư thép 515 PP đã sợ D4 của E747, các bạn có thể ghi thêm vào tự điển của F515, từ <<chôi>> còn có thêm một nghĩa nữa là: rút lui có trật tự.Một sư đòan đã vây kín được một tiểu đòan vào trong mà không dám đánh tiêu diệt, khi rút lui lại ra oai, âm thầm rút lui khi ra khỏi tầm súng của bộ binh ta, biết ta không còn đạn cối, chúng lại sắp hàng đi để chọc tức, chúng tôi chạy vào báo cáo bố Xường, bố ra xem chúng sắp thành hàng đi đen kịt, bố tắt lưỡi (tiếc quá mình không còn đạn cối, mà E tiền phương cũng đã hết). Quân ta đợi chúng đi xa một chút rồi cũng tổ chức rút lui (không rút lui ngay là vì sợ chúng nhử mình ra khỏi công sự sau đó quay lại đánh, ta chỉ có khỏang họn 200 tay súng, còn chúng một sư đòan dù có thiếu đi nữa cũng hơn 1000 tay súng, nếu ta không có công sự phòng thủ thì chúng đã nuốt ta từ lâu. Bây giờ đến giai đọan ta rút lui.
Tiếng súng tạm yên, liên lạc D ra truyền lênhcho B cơ động chuẩn bị đánh mở đường máu băng qua suối để D đưa thương binh, tử sỹ về cứ tiền phương E. Anh Mót nhìn mặt anh em rồi bảo lấy gói thịt trâu kho khô ra ăn cho hết và lấy mấy gói thuốc vàm cỏ mới lãnh hôm qua ra hút cho hết, để chút nữa có chết cũng không thành ma đói. Khi ăn xong chúng tôi thận trọng tiến từ từ ra phía bờ suối, đến rẩy thuốc lá nơi chúng tôi trụ lại để đánh lúc đầu, nhìn thấy ruộng thuốc bị đạn cối cày nát như đất vừa mới xới. Khi đến bờ suối cảnh tượng hải hùng hiện ra, bờ cát bên bờ suối đẩm máu, chằn chịt những vệt cát được tạo nên do lúc chúng kéo thây, đoạn suối rộng chừng 10 mét, sâu quá gối, dài khỏang gần 100 mét, nước đỏ ngầu máu tươi. Nhưng chúng không bỏ lại một xác, hay một khẩu súng nào cã, trận địa chỉ còn rơi vải lại mủ nón, quần áo, thắt lưng (dây tê bê) thắm đẩm máu. Như vậy chúng ta đã rỏ. Ở đợt hò hét xung phong lấn thứ nhất, chúng áp đảo ta để chúng lòn theo suối lấy thây, lợi dụng lúc đó trời chưa sáng, quân ta lại rút vào trong công sự của chúng để phòng thủ, bờ suối lại cao nên khi chúng lòn theo suối để lấy thây quân ta không nhìn thấy. Khi qua khỏi bờ suối bên kia chúng tôi bắt tay được với D5 vừa mới đến để chi viện cho D4. Khi đi được một đọan đội hình chúng tôi lại bị mấy phát đạn cối bắn suýt trúng đội hình, anh em vội tách khỏi đội hình để tìm chổ nấp, vậy mà bố Xường đứng thẳng người rút súng ngắn ra hướng lên trời đồng thời hô to ra lệnh <<không được chạy, đứa nào chưa bị thương ở lại chuẩn bị đánh tiếp, anh em trở lại đội hình. Lúc sau biết đươc hai quả cối vứa rồi là do E 775 hay (E 115) bắn lầm vì trên đường chi viện cho 747, vừa mới đến, phát hiện từ xa có đám người hành quân lúc ẩn lúc hiện nên tưởng lầm là địch.
Khi đến phum, nhân dân Kam Pu chia túa ra đón chào. Thanh niên còn có cã phụ nữ tự nguyện ra cáng thương thay cho anh em mình, các mẹ  mang cơm nước  dừa, nước thốt nốt, trái cây, mít chuối đãi anh em chúng tôi. Chúng tôi hết sức cảm động và nhận thấy rằng bà mẹ, nhân dân nước bạn cũng thương chúng tôi như các bà mẹ và nhân dân nước mình. Trận đánh nầy đến đây là kết thúc. Tiếp tục mình sẽ viết bài  tóm tắt, rút kinh nghiệm trong trận đánh  và nêu những tấm gương hy sinh dũng cảm của đồng đội đồng chí  mà tôi cũng như tất cả anh em tham gia trận đánh nầy không bao giờ quên.
(Tên phum mình nhớ không sai mình đã kiểm tra kỹ lại bộ nhớ của mình rối. Đầu tiên là hành quân theo lộ số 6, gần đến thị trấn XTUNG  có ngã ba đường  cạnh trường học đi về phía đông bắc, gần đến chiếc cầu  có phum đội hình dừng quân lại tắm rửa và ngủ tại đây, sáng hôm sau lên xe đi tiếp  đến khỏang 10 giờ đến đập nước rất lớn, cũng gần như hồ nước barai ở siem riệp)  xe trèo lên bờ đập không nổi  tụi mình phải xuống đẩy xe lên  rồi đi tiếp gần 11 giờ trưa là đến phum Ca Dia khỏang 12 giờ.  D4 đóng quân ban đầu tại đây, còn C chúng tôi sau khi nghỉ trưa tiếp tục hành quân bộ  về phía tây bắc khỏang 15km để đến phum Thơ mây và đóng quân tại đó, nhờ các bạn gửi giúp bản đồ, ta tìm được  hồ nươc  là sẽ tìm đươc phum. SOM LIA  sà ma mít – mít tèng lai.
Mấy bữa nay "lu bu" quá, không chi viện cho bác 2 ruộng được gì cả 
Mượn tấm bản đồ của bác tuaans hôm bữa gởi lên, để tôi kể trận đánh khi vượt sông Chi Nít. Bác 2 và các bác nhìn 2 hình ôvan em đánh dấu trên bản đồ: Phum Krava là hậu cứ của E747-F317 khi mới qua tháng 3-79, phum Krâyéa là phum Cà dia mà bác 2 ruộng nói đó. Con suối trong chuyện là sông Chi Nít (thuộc huyện Ba Rài-CP Thom ).
@bác tai-lienson: trận này do D4 ( sau này đổi là D7-E747) đi lạc, nhưng vẫn đánh, D trưởng ba Xường "lì lợm" như vậy đấy. Đúng ý đồ tác chiến của E 747, sau khi trinh sát bộ binh và TS pháo đi bám, là tổ chức "chiến" cấp E. Lúc đó hỏa lực của E khi mới qua rất yếu, C17 cối 82 của E chỉ có 2 khẩu cối 82, 1 khẩu tăng cường cho D4 và cây 12,8 ly cũng của E điều xuống tăng cường.
@ bác hai ruộng: sau khi đi bám cùng TS E, em dẫn khẩu Cối 82 của B1-C17 dự trận này với bác đó. Khi nổ súng, bộ phận cối vừa ngóc lên khỏi taluy, chưa kịp chuẩn bị gì cả, 3 trái cối đầu tiên em dựng nòng bắn ứng dụng luôn đấy ! Bác thấy cối bắn "ác" không ? ::) Phải đạp ngả nòng cối mới kéo nó "lủi" nổi.
Mình tìm ra rồi. Đó là phum CRAYA, các bạn có thấy phía đông bắc có đoạn sông rộng ra không  bên kia sông có cái đồi thấp  không, đối diện với đoạn sông rộng ra đó là một cụm rừng chồi nhỏ. Trận đánh xảy ra ngay tại bờ suối rộng, sau đó anh em mình chạy lên đồi trên đó đã có công sự sẳn của nó. lúc đó mới qua, trận đó là trận lớn đầu tiên, và C của mình quân số là gần 70 người cả C bộ.  Lúc đó địch còn mạnh lắm. Khi chúng đánh D6 rất bài bản, nó dụ D bộ ra khỏi địa điểm đóng quân  rồi mới đánh, đồng thời đánh chiếm vào D bộ D6, khi D bộ lâm nguy gọi 3 C đến chi viện, đều bị phục trên đường,  D6 tan tác  mất liên lạc với trung đoàn vì  anh thông tin E bổ xung xuống phải mặc quần đùi ôm máy chạy không kịp nhổ ăng ten mấy ngày sau mới về được trung đoàn, còn quân tướng lạc lung tung, gần một tuần lễ mới thu quân lại được mất hết gần hai mươi em.  D6 là lính đàn anh  từ E Quyết Thắng  vì vậy mà quen cắt rừng  nên thiệt hại như vậy là ít đó. Để mình kể chuyện trung đoàn bộ cho nghe khi D6 bị đánh (đây là chuyện kể truyền miệng từ lính thông tin E chứ mình không trưc tiếp thấy). Như vầy: Khi thủ trưởng E chú Tư Đáp nhận đươc điện của D6, do dân báo phát hiện địch 20 tên cách D6 2km, D6 xin lệnh E cho  D bộ cử trinh sát đi đánh, khi ra đến thì nó đông quá. Ở trung đoàn bộ, chú Tư nghe B40 nổ rền, bèn vổ đùi bảo : << ngon à, kỳ nầy D6 làm ăn ngon rồi,  đâu thông tin tụi bây mở máy liên lạc coi >>.  Một anh lên máy hoài không đươc, Thú tư cằn nhằn mầy tệ quá cho đứa khác lên  liên lạc coi, rốt cuộc hai, ba đứa, không đứa nào liên lạc được, vì thông tin E bổ xung cho D6 ôm máy chạy rồi. Sau đó là tin kêu cứu từ các đại đội của D6 trực tiếp lên E. Vì vậy mà E ra lệnh thu quân lúc 10 giờ đêm mà mình đã nói ở bài trước, ngày sau sư đoàn thu quân về hẹp lại. Ngày mai mình sẽ phân tích kỹ hơn.
Nếu so về kinh nghiệm chiến trường, thông thuộc địa bàn hoạt động và trang bị vũ khí, E747-F317 (tháng 3-79)...thua xa đối thủ lúc đó là đám tàn quân Pốt  (các bác QĐ4 và các đơn vị chủ lực lo chiếm P.Pêng để.... lên đài mà  ): Chiến sĩ 90% là tân binh dân TP, từ Tp.HCM " lao thằng" qua xứ người, vứa hành quân từ VN sang vừa trang bị hỏa lực+quân trang chiến đấu!? Anh lính thông tin của E tăng cường cho D6 mang PRC25 mà bác 2 ruộng nhắc tới ở trên, khi tìm ra AE sau 3 ngày đi lạc: 1 tay cầm trái M67 đã rút chốt nhưng lưng vẫn mang máy, không dám bỏ.
Qua "hồi ức" của bác 2 ruộng, tôi mới biết mình là 1 phần của lực lượng tiền trạm E747-F317 qua K năm 79, lính mà ... có lệnh là đi thôi !
@ bác 2 ruộng: trận đánh bác vừa nhắc tới khi vượt suối/sông ...!? có 1 tổn thất "khó quên" đó ! Bác  nhớ không ?
TÓM TẮT TRẬN ĐÁNH – RÚT KINH NGHIỆM – NHỮNG TẤM GƯƠNG DŨNG CẢM KHÔNG THỂ NÀO QUÊN
Xin phép các đồng chí Thủ Trưởng đã từng là lãnh đạo các cấp của đơn vị trong F 317. Nội dung trong bài viết nầy theo tầm nhìn của một chiến sỹ có mặt trong trận đánh và cùng theo đơn vị cho đến giữa năm 1982, được về để tiếp tục học ĐH. Vì vậy kinh nghiệm và tầm hiểu biết về quân sự rất có giới hạn, càng thấp hơn rất nhiều so với các chú, các bác thủ trưởng đã trưởng thành trong thời gian chống Pháp – chống Mỹ. Nhất là các chú các bác đã trưởng thành từ các trung đòan Đồng Xòai – Bình Gĩa  .v.v… Tuy nhiên tầm nhìn của một chiến sỹ trực tiếp trong trận đánh cũng hết sức cần thiết để chúng ta ôn lại, bàn luận và rút ra kinh nghiệm cho đàn em sau nầy, làm hành trang cho các em trong sứ mạng bảo vệ tổ quốc VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA vững bền mãi mãi. Bài viết có chổ nào không phù hợp, xin các chú các bác và các bạn góp ý.
I – TÌNH HÌNH -TƯƠNG QUAN GIỮA F317 VÀ F515 (F515 của quân Pôn Pốt).
Vào thời điểm đó  QĐ 4 và các đơn vị chủ lực mạnh của ta đã giải phóng PHNOM PÊNH và thọc sau vào vùng giáp biên giới Thái, như Bát Tam Boon v.v... Các đơn vị chủ lực của địch bị đánh bại nhưng không bị tiêu diệt và thực tế nhiều sư đòan của địch còn rất mạnh, sư 515 cũng là một trong các trường hợp đó, (bằng chứng cụ thể là TƯỚNG KIM TUẤN sau khi đánh thắng, giải phóng Bat Tam Bon rồi khi về Kam Pong Chàm thì bị phục kích và hy sinh  dù đòan xe có xe thiết giáp theo bảo vệ). Sư 515 của địch  tuy là tàn quân nhưng quân số còn rất đông, dấu vết để lại trên đường hành quân của chúng đã chứng minh cho điều đó (khi chúng băng qua rừng nguyên thủy cành lá trên đường chúng đi, bị đạp nát vụn ra, khi qua phum chúng uống cạn 4, 5 cái giếng nước trong phum, đi đến đâu chúng cướp sạch lúa thóc, lương thực đến đó, chúng giết một lần cã trăm con bò để lấy thịt.
Về trình độ chuyên môn của địch (F515) được mệnh danh là sư đòan thép, qua trận tập kích vào D6 của E747, chúng ta thấy chúng tổ cức trận đánh và đánh hết sức bài bản, chúng biết nhử D6 ra khỏi công sự để mà đánh, qua nhiều lần chạm địch lẻ tẻ thể hiện được bản lĩnh thiện chiến của chúng, trinh sát của chúng khi nào mò đến công sự của quân ta mới chịu trở ra. Chúng hết sức ranh ma cã tháng trời chúng cơ động liên tục, nhiều lần ta tổ chức đánh, từ cấp trung đòan đến cấp sư đòan có pháo 105 yểm trợ, nhưng đếu đánh hụt, chúng buộc chúng ta phải chơi trò mèo vờn chuột với  chúng trong đó chuột có thể trở thành mèo, mèo cũng có thể trở thành chuột, bình thường thì chúng chạy ta đuổi, nhưng nếu ta sơ hở chúng quay lại tập kích.
Lãnh đạo của chúng cũng gan lỳ mưu mô (nghe nói trước trận đánh của D4, chỉ huy cở lớn của chúng dã dạng dân thường ở ngay trước nhà của BCH tiền phương E747 khi hắn đi rồi dân mới dám báo cho ta. Tóm lại sư 515 được mệnh danh là sư thép là đúng, ranh ma, thiện chiến.  Còn thế yếu của chúng là : Cục diện chiến trường chúng đã thua bị coi là tàn quân, không dám đóng quân lâu ở bất cứ chổ nào sợ quân ta bao vây tiêu diệt (mà quân ta cũng đuổi chúng liên tục kiên quyết không để cho chúng lập cứ trong rừng). Đi đến đâu chúng cướp bóc đến đó  nên dân chúng đã ghét rồi càng thêm ghét, Khi tập kích nếu tiêu diệt được ta thì chúng tiêu diệt nhanh sau đó rút, nếu tiêu diệt không được thì chúng cũng phải rút chạy không dám ở lâu. Chính vì biết được yếu điểm nầy của địch nên khi D4 chúng tôi sau khi chui vào giữa cứ sư đòan của địch  vào được trong công sự của địch rồi chúng tôi yên tâm không sợ gì hết dù cho cã sư đòan của chúng  bắn như mưa  la ó rền trời chúng tôi cũng không sợ, chúng tôi đợi chúng tràn lên mà đánh, chúng đã không dám tràn lên. Bao vây chúng ta lâu chúng cũng không dám vì chúng sợ chúng ta điều quân đến bao vây lại, hôm đó nếu chúng ở lâu thêm 1tiếng đồng hồ nữa  chúng sẽ bị bao vây ngược lai vì các đơn vị chi viện đã đến.
VỀ PHÍA TA
Hầu hết các đơn vị đã qua chiến đấu đều có nhiều kinh nghiệm, (duy chỉ có lính D4 là mới hòan tòan chưa qua chiến đấu kể cả chiến sỹ trinh sát). Các cấp lãnh đạo từ C trở lên đều là những cán bộ dũng cảm nhiều kinh nghiệm như bố Sườn, chú tư Đáp, chú Năm Mân và nhiều người khác v.v…Cấp trung đội thì có người đã qua thời chống Mỹ khi còn du kích, sau đó đôn lên chủ lực. Còn D4 thì có nhiều cán bộ B chưa qua chiến đấu. Điểm mạnh nữa là quân ta đang ở thế thắng và được nhân dân bạn ủng hộ, chúng tôi đi đến đâu cũng có nhân dân bạn tự nguyện giúp đở.
Riêng về D4 : Tuy là lính mới, nhưng hầu hết là tình nguyện  và được chọn lọc kỹ từ quân địa phương, từ TNXP, từ học sinh sinh viên. Tất cả đều có nhận thức, có lòng yêu nước có quyết tâm (các bạn có còn nhớ bài hát <<chưa yên vui trong trọn ngày …… tiếng kêu núi sông vội đáp ngay …vv   , chính là bài ca bắt đầu từ lúc đó). (Riêng trường hợp của anh MÓT, người bắn quả đạn B41 điệu nghệ mình sẽ nói sau).
Điểm yếu:  Chiến sỹ D4 đông quân nhất nhưng kinh nghiệm lại ít nhất so với hai D đàn anh, chính vì thế mà khâu truyền lệnh khi hành quân chưa được chấp hành nghiêm chỉnh. Đa số là con em thành phố, nhất là giới HSSV như tôi, chưa quen vất vả (mấy ngày đầu hành quân đôi chân phòng rộp đi không nổi, phải lê lếch theo đội hình đau đến muốn khóc. Có nhiều lần đánh địch nhưng đánh hụt, đâm ra chủ quan, anh  em gọi là đi đóng phim nhiều tập (đến khi đụng thật thì quá bất ngờ). Bệnh chủ quan đến mức độ như thế nầy: - Khi hành quân thì nồi nấu cơm xúm nhau  máng theo xe bò, thấy anh nầy máng anh kia máng theo, đến khi xe bò đi mất cả đại đôi không có nối nấu cơm cho đến khi C trưởng biết thì chỉ có nước dậm chân kêu trời –Truyền lệnh hành quân càng chủ quan nữa , truyền không hết lệnh, thậm chí có lần hành quân đêm quá mỏi mệt, một đ/c chỉ huy đi phía trước đội hình, một đ/c chỉ huy đi phía sau đội hình , khúc đầu đội hình thì có lệnh truyền nghỉ giải lao từ phía sau lên, khúc  đuôi đội hình thì có lệnh truyền nghỉ giải lao từ đầu truyền xuống, hai đ/c chỉ huy cũng tham gia truyền lệnh luôn  vì ông nầy cứ tưởng ông kia ra lệnh, đến nhiều lần mới thấy tại sau cứ nghỉ giải lao hòai.  Ông chỉ huy đằng trước mới lội ra đằng sau  mới té ra là không ông nào ra lệnh cả, lệnh từ các ông lính mệt mỏi của mình truyền ra lệnh cho chỉ huy (khi biết chuyện nầy chắc các bạn ôm bụng mà cười như chuyện tếu, nhưng lại có thật 100%, đó cũng là sáng kiến của con nhà lính đấy. Một cái chủ quan đáng sợ nữa là khi đã quá mệt mỏi càng mất cảnh giác, khi dừng quân là cứ tưởng là nghỉ giải lao, ai cũng tranh thủ ngủ, cộng thêm với nhiều lần đánh hụt( đóng phim) anh  em càng chủ quan hơn nữa, trận đó thú thật mình cũng ngủ guc, vì mình thuộc B cơ động của D khi cần thì D gọi lên, còn bình thường thì thuộc về đội hình C, hôm đó  C mình đi đọan giữa đội hình, nên khi trinh sát đi đầu phát hiện địch truyền đội hình dừng lại cảnh giác thì cũng truyền đàng hòang, nhưng sau đó ai cũng nằm lăn ra ngủ. Đến khi D ra lệnh diều B cơ động lên thì anh trước phải nắm chân anh sau giật dậy, đến khi hành quân ra phía trước đội hình mới giật mình khi thấy bên kia bờ suối địch đang di chuyển quân đông nghet. Phía đằng sau quân ta vẫn đang ngủ gục không hề hay biết. (để minh chứng bệnh củ quan chết người mình xin nhắc lại đọan nầy một tý các bạn đừng chán nhé). Lúc đó bố Sườn đã có mặt ở trước  và ra lệnh cho anh  em bình tỉnh (vì biết địch tưởng ta là một đơn vị của chúng) và lội qua suối nối đuôi theo chúng khi chúng vừa đi khỏi. Khi chúng tôi đã qua bên kia bờ suối bố cũng qua suối theo trinh sát  và ra lệnh trinh sát dừng lại  bố trí đội hình bên phải sẳn sàng chiến đấu  khi quân ta qua hết bên nây sông. Còn B cơ động thì bố trí bên trái, sau đó bố theo các C còn lại lên phía ngọn đồi để chọn địa hình bố trí quân, mình cùng với trinh sát chốt ở lại thấy quân mình khi qua suối còn ngồi xuống cởi giầy ra , hết sức sốt ruột mà không dám nói sợ  địch nó hay, Anh  em đi sau  nhờ ngủ gục mà hòan tòan không biết địch  nhờ vậy mà cả D bình tỉnh qua suối, chiếm địa hình thuận lợi có hầm hố của địch vứa mới bỏ đi còn nóng hổi, chúng  đào sẳn  để cho quân mình nấp  (THẬT LÀ THÁNH NHÂ N ƯU ĐÃI KẼ KHÙ KHỜ). Cái thứ hai mà trời ưu đải cho D4 là, lúc đội hình dừng quân  bên kia suối thì tòan bộ đội hình của D  bị kẹp giữa hai đội hình đóng quân của địch, ta không hay mà địch cũng không hay, đến khi nổ súng rồi mình mới biết  nơi đó có đơn vị của địch đóng có cã DKZ, chính khẩu DK đó bắn qua đội hình mình từ khi nổ súng cho đến sáng. Khi nhìn thấy rỏ, mới biết khẩu DK  do phụ nữ bắn sau đó bị trinh sát bắn một quả B41 và câm luôn từ đó, khi quân mình rút lui qua vị trí đó còn thấy bỏ lại, cái áo đầy máu và cái xà rong còn đang phơi (chạy bỏ cả xà rong).
II – RÚT KINH NGHIỆM TRONG TRẬN ĐÁNH :
- Nhờ sự bình tỉnh, dũng cảm, thông minh của cấp chỉ huy và của cả anh  em chiến sỹ  mà đơn vị đã lợi dụng thời cơ, cơ hội hết sức đặc biệt - may mắn để nhanh chóng bố trí đội hình một cách vô cùng sáng suốt,  BCH D4 kịp thời, chớp nhóang thiết kế trận đánh,  qui tụ hỏa lực cối tại chổ  để thay đổi tình thế chuyễn đơn vị từ vị trí hết sức bất lợi, nguy hiểm  đến tình thế vô cùng thuận lợi, để đơn vị bất ngờ đánh cho địch một trân chóang váng, dù địch không để lại xác nào, nhưng chúng thiệt hại rất lớn và sau đó là địch hoang mang  mỗi khi đụng với E747 và nhất là D4. Đây là kinh nghiệm theo tôi nghĩ là hết sức quí báo cho các thế hệ sau nầy.
- Khuyết điểm cần tránh :
- Chủ quan  từ khâu truyền lệnh cho đến khâu cảnh giác.
- Liều mạng : Tổ chức đánh trong khi ta chưa nắm rõ về địch. Hai bệnh chủ quan nầy nếu quân ta đến đó không ngay lúc địch đang chuyển quân  mà ngay lúc chúng gác sách cẩn thận thì D4 đã bị xóa sổ khi lọt vào vị trí ở bờ suối.
- Phối hợp - hợp đồng tác chiến các đơn vị chưa chặc chẻ, từ lúc nổ súng 4 giờ 30 sáng, cho đến khi địch rút, lúc 9 giờ sáng, mà không có đơn vị nào chi viện kịp thời cho D4, chỉ có D5  đến thì địch đã rút.
- chưa kết hợp dược pháo 105 của sư
Nếu ta phối hợp tốt các đơn vị đến kịp thời từ trong đánh ra từ ngòai đánh vô, có chi viện của pháo 105 thì chiến thắng sẽ lớn hơn.
Nói thì như vậy chứ làm thì rất khó vì  địch cũng hết sức ranh ma, chúng luôn cơ động  khi thì phân tán khi thì tập trung vừa né tránh ta nhưng nếu ta sơ hở thì chúng  tập trung lực lượng đánh ta ngay. Mấy lần ta chuẩn bị chu đáo thì địch đã chạy mất  ta kéo pháo 105 theo lòng vòng có khi mất pháo với chúng. Cho đến giờ phút nầy tôi vẫn hết sức kính trọng các cấp chỉ huy của đơn vị tôi  từ đại đội cho đến sư đòan  và tin tưởng vào tài ba và khinh nghiệm dày dặn của các đ/c cấp trên của mình. Vào bối cảnh đó nếu D4 không liều mạng thì chưa chắc đánh được địch, mà có khi chính sáng hôm đó địch hành quân để tập kích Trung Đòan 747 vì chính tay chỉ huy của địch đã dả dạng dân ở ngay trước mặt E tiền phương. Mong các bạn xem và góp ý.
II – THIỆT HẠI CỦA TA VÀ ĐỊCH :
Tuy không bỏ lại xác nào nhưng ngày hôm sau dân báo chúng đem chôn ở phum kế bên  khỏang 78 hay 70  - 80 cái mã. 
Phía D4 :  bị thương  khỏang trên 20 đ/c. Bcơ động chỉ một đ/c bị thương nhẹ. B trinh sát không ai bị thương. Đau buồn nhất là đ/c Thượng Uý chính trị viên tiểu đòan  PHẠM THANH MAI  hy sinh khi bắt đầu nổ súng .
III – TẤM GƯƠNG HY SINH CỦA đ/c P T MAI :
Đồng chí Phạm Thanh Mai  người cao to, nước da ngâm đen, quê gốc Miền Tây, (Hậu Giang  cùng quê với hai ruộng). Tính tình hiền lành như cục đất, các bạn có nhớ ở tập trước không ? Bố Sườn  bắt bao nhiêu người về  vì tinh nghi, họ khóc lóc, thủ trưởng Mai thả hết. Thương lính vô cùng, anh em ai cũng thương mến đ/c. Khi đ/c Sườn vào trong bố trí đội hình thì đ/c Mai ở lại chỉ huy bên ngòai, khi chúng tôi nổ súng  thì địch bắn trả lại chúng tôi, vì chúng tôi nằm ở mép bờ suối, còn đich thì ở dưới suối hoặc ở bên bờ bên kia thấp hơn nên bắn không trúng chúng tôi được mà đạn bay vào ngọn đồi thủ trưởng Mai đang đứng cùng với anh liên lạc trước công sự chữ z của địch. Khi nghe súng nổ, thay vì đ/c nhảy xuống hầm trước thì đ/c sẽ không sao, nhưng vì thương  anh chiến sỹ liên lạc của mình còn trẻ tuổi, đ/c đứng lại xô liên lạc của mình té xuống hầm trước , anh liên lạc cắm đầu xuống hầm chân còn ló trên miệng hầm  thì  trái đạn cối nổ ngay miệng hầm, anh liên lạc chỉ bị thương ở chân, còn đ/c Mai ở ngòai hầm nên hy sinh (đây chính là lời kể lại của chính anh liên lạc). Tôi  viết dòng nầy biết đâu thân nhân, hoặc chính vợ con đ/c  đọc được, cũng bớt đi nỗi  đau mất mát của gia đình đã 30 năm nay và đó cũng là thông tin đáng tự hào cho gia đình. Khi chúng tôi rút vào trong  đứng trước thi hài đ/c tại trận địa ai cũng đứng nghiêm chào vĩnh biệt đ/c. Một lần nữa xin chào đ/c MAI và chúng tôi không bao giờ quên tấm gương của đ/c.
Hai ruộng xin tạm biệt các bạn. Tiếp tục mình sẽ vẽ sơ đồ trận đánh có chú thích từng vị trí. Mình đã nhận được bản đồ từ bạn Rồng Xanh  xin cảm ơn Rồng Xanh. Đó chính là  Phum KRÂYA  vì mới qua khó phát âm nên lính ta goi là Ca Dia cho dể gọi. Nếu còn thời gian thì mình sẽ kễ về anh Mót, không biết giờ nầy anh Mót đang ở đâu. Anh có đọc được dòng chữ nầy không. Xin cảm ơn các bạn quan tâm đến bài viết nầy.
SƠ ĐỒ TRẬN ĐÁNH
Hai ruộng xin chào các bạn! (pi sre, chứ không phải pi sra đâu nhé)  Các bạn trở về trang 17 lật bản đồ của bác Rồng Xanh. Tìm phum KRÂYA, phum lớn có nhiều dãy nhà sát nhau, hướng đông bắc phum có con đường  đi về phía đông bắc. con đường nầy đi về phía suối, đến gặp con suối ở đọan nở rộng ra, con đường mòn đó tiếp tục băng qua suối (trận đánh đẳm máu diển ra tại đọan suối nầy) rồi đi tiếp lên đồi băng qua đồi, rồi đi đâu nữa mình không biết.  Bây giờ chúng ta trở về sơ đồ vẽ bằng tay ở phía trên trang nầy nhé :
•   Khu vực nầy cách phum KRÂYA  3km đường chim bay, có bốn ngọn đồi, ngọn đồi số 3 nhỏ nhưng cao hơn cã, trên các ngọn đối có rừng cây, còn đối số 1 chỉ là lùm cây cao hơn trảng trống số 5 một tý thôi, trên phía ngọn đồi số 3 có nhánh suối khi vòng lên ngọn đồi số 3 nó chỉ cỏn là con suối cạn, cạnh đó là lỏm trống có, nơi D4 tập trung cối để bắn địch, khi bắn xong  thì bỏ súng chạy về suối cạn mà núp, khi cối địch ngưng, anh em ra bắn tiếp. bBây giờ ta trở lại địa hình.
•   Địch đóng cả 4 ngọn đồi  số 1,2,3,4 . . D4 hành quân từ phum ra theo con đường màu đỏ. khi đội hình đến vị trí số 5 thì trinh sát đã đến gần đọan suối rộng. Lúc đó phát hiện ở bên nây suối có 6,7 tên địch đang ngồi mép suối, bên kia bờ suối là ruộng thuốc lá, bờ đất cao hơn bên nây khỏang 2, 3mét, bằng phẳng trống trải, rồi mới đến ngọn đồi số 3. Ở đám rẩy nảy  một tóan địch rất đông, sắp thành hàng, xuất phát từ khu rừng số 4, đang hành quân đi lên đồi số 3.
•   Vị trí số 5 là vị trí lính D4 tranh thủ ngủ gục (ví lúc đó quá mệt mỏi, do hành quân liên tục gần tháng trời), khi B cơ động của chúng tôi được điểu lên đầu đội hình, khi đến thì  thấy bên ruộng thuốc lá địch vẫn còn đang hành quân vừa đi vừa đùa giởn, và tốp 6,7 tên vẫn còn ngồi ở bên nây suối, lúc nầy gần 4giờ 30 sáng, trên đầu trăng rất sáng, nên hai bên đều nhìn thấy nhau rỏ mồn một.
•   Khi bên kia suối địch vừa đi hết, trinh sát bắt đầu băng qua suối 6,7 tên địch dạt ra hai bên nhường đường cho ta đi, có một tên địch đùa giởn nó lấy họng súng ak thọc vào hông một trinh sát của ta, lính ta không nói tiếng nào lấy tay gạt ra rồi đi tiếp (có lẽ vì run quá nói không ra tiếng, sau đó mấy tên nầy đ lên phía đồi số 2. Tiếp theo trinh sát là B cơ động và bộ binh nối theo sau.
•   Khi khi vừa leo lên khỏi bờ suối bố Sườn bố trí B TS ở phía nam con đường mòn, rối kế đến là B cơ động, rồi tới 12ly 8 do E tăng cường. sau đó bố cùng các C bộ binh đi lên đồi theo con đường mòn mà địch hành quân, đồi cách bờ suối khỏang 30 đến 50 mét, trên đó có nhiều  công sự tòan chữ z rất chắc chắn do địch đào vừa mới bỏ đi.
•   Khi quân ta qua hết bên nây suối  thì từ hướng đồi số 1 một đám địch rất đông  kéo nhau ra về phía suối, vừa đi vừa nói chuyện, vừa giởn vừa hút thuốc đỏ trời. Bts và Bcđ, lúc đầu đều ở tư thế quì bắn, vì địa hình trống trải không hòan tòan không có vật che đở hai bên đều nhìn thấy nhau rỏ ràng, chúng bắt đầu qua suối  khi đến bên nây suối, chúng lại tiếp tục đi lên theo đường mòn, tóan địch nầy đi không có hàng lối gì hết. Lúc đó anh em lính mới gần như là ngồi chết trân, đến khi mấy tên đi đầu còn cách chúng tôi khỏang 2mét (nhưng chúng chưa leo lên được bờ dốc, thì anh Mót  tự động khai hỏa phát B41 đầu tiên, lúc đó chưa có lệnh của ai cả  (sau nầy  khi rút kinh nghiệm trận đánh, thủ trưởng D, thủ trưởng E và thủ trưởng F đều khen là phát súng nổ rất đúng lúc, khi anh Mót nổ súng  thì anh em mới tỉnh hồn nổ luôn. Như vậy bọn địch chết nhiều là bọn đóng quân ở đồi số 2, cã hai B ts và cđ  diệt tối đa chưa đến 20 tên. Nhưng chúng chết nhiều là do đạn cối ta  bắn rất kịp thời. Anh em chúng tôi chỉ bắn  mỗi người chừng một băng đạn, anh Mót cũng chỉ bắn có một trái B41, ngay sau đó bố Sườn ra lệnh cho chúng tôi chạy nhanh vào khu vực đồi số 3 tìm công sự ẩn nấp, chúng tôi vừa chạy vào đến đồi là cối ta nổ ngay trận địa rồi.  Khi chúng tôi lên đồi thì phát hiện thủ trưởng Mai hy sinh ngay vị trí số 7, ở mép công sự đầu tiên cạnh đường mòn, bên trong công sự là anh liên lạc chân còn bị thương, chưa ai băng bó, B tôi có một anh bị thương cũng đưa vào hầm đó. Chúng tôi tìm được công sự và cố thủ cho đến khi địch rút.
Hai ruộng xin chào tạm biệt các bạn. Xin cảm ơ n quí vị theo dõi trang viết nầy. Tiếp theo mình sẽ kễ về bố Sườn  và anh Mót . . Pi srẹ  khơ nhum sum lia. Lúc súng nổ, không kịp nghĩ tới cái "truyền... " gì đâu bác ạ  . Bác 2 ruộng "tả" chính xác trận này rồi các bác:.... Pốt la " chô...." 2 đợt và lần nào cũng thấy quân TNVN đáp trả bằng AK, M60, M79, 12ly7 bắn nghe như cối 6 bắn raphan, và cối 82 nổ "đĩnh đạc" dằn mặt tụi nó.... A Mai (thượng úy CTV D sau khi hy sinh thăng đại úy) hy sinh trong trận đánh này, qua AE tôi có nghe A Mai đạp "tay lính mới" mang PRC25 xuống hầm, trước khi dính đạn. Trận đánh này, A Mai đi theo mũi hỏa lực gồm bb +1 cối 82 và 1 khẩu đội 12,7 của E tăng cường.... trước khi rút chạy, Pốt còn cảnh cáo bộ đội VN bằng mấy trái DK82 bắn hết tầm nổ trên trời mà.
Trận đánh này ngoài dự kiến của trung đoàn 747 (lúc đó AE tui chưa biết mình ...là lính sư 317 nữa ). Trước đó mấy ngày TS E đi bám, bị mất 1 chiếc dép râu của TMT trung đoàn đi cùng, có "lịnh" phải trở lại lấy cho được chiếc dép đó mà!
@ bác 2 ruộng: trận này em ờ cách cây 12,7 khoàng 10m về phía bờ sông Chinít, nện xong 3 trái 82, đạp nòng cối 82 lôi đi chờ số 3 ( Mai đen đang ở gần  ngã 5 Bình Hòa, thằng số 1 mang nòng run như "mèo" giờ ở Q10) mang bàn đế lên để giá pháo.  em đang ở GV-TP.HCM, hẹn gặp anh để 2 AE ôn lại "kỷ niệm xưa", mẹ con tụi nhỏ hổng biết gì đâu !( em có nói bao giờ đâu mà biết  )
Đã PM cho bác 2 ruộng, nếu bác ấy ở SG và đồng ý họp mặt, chắc phải mời bác tuaans (TMT qsvn nhánh QK7) mang theo bản đồ, xác định lại vị trí trận đánh của D4-E747 bị hy sinh CTV Mai khi E747 vừa sang K. Đang chờ tin bác 2  . Trong thời gian chờ đợi bác 2 ruộng cứ "chiến" tiếp nha ! Các chi tiết trận đánh, bác tả chính xác, tôi chỉ thắc mắc về vị trí xảy ra. 30 năm rồi chớ ít đâu    Tôi  nhớ khi đội hình vượt sông/suối đi từ phải qua trái và nổ súng khi cái nòng cối 82 vừa ngóc được lên khỏi bờ dốc, phải bắn ứng dụng 3 trái trước khi chân cối lên kịp, khẩu 12ly8 nổ súng bên tay trái cái lỏm suối cụt mà AE cối núp khi nó phản cối và trong chớp đạn B, M-79 tôi còn  thấy AE 12,8 lom khom khiên cả chân súng giá nằm khi vận động lùi về sau, sợ Pốt "chô" cướp súng. Bây giờ nhớ lại còn "ớn" cái cảm giác nằm bẹp trên mặt đất mỗi khi nghe tiếng "xạch..xạch" xé gió ngay trên đỉnh đầu của đạn cối 82 rơi, lúc đó chỉ kịp nghĩ: má ơi! đừng rớt trúng lưng con
Trước khi Pốt rút chạy nó còn bắn "cảnh cáo" mấy trái DK82 bay hết tầm nổ trên không, sau lưng khẩu cối 82.
Sau khi ngừng tiếng súng,tôi không có dịp quay lại nơi vượt sông vì có lệnh tăng cường tiếp cho D5 truy kích Pốt sau khi gom được cơ số đạn cối nhờ AE bộ binh mang dùm còn khoảng 20 trái, đi qua trận địa của Pốt còn thấy 1 xác nằm ngay kế cái đuôi cối 82, vương vãi máu thịt và mấy tụm lá thốt nốt đựng cơm và bò hóc.... ; Trước Tết AL đầu năm 80 khoảng 1 tháng, khi E bộ 747 đóng tại phum Krava-huyện Ba Rài, đội văn công QK7 và đoàn TP.HCM có qua thăm và diễn văn nghệ cho dân K ngay ngôi chùa lớn phía bắc phum (bệnh xá E747 đóng cạnh chùa này). Tụi tôi phải bung ra gác, bắn đạn chiếu sáng cối 81 Mỹ, vừa chiếu sáng cho dân coi văn nghệ VN-vừa dọa P.Pốt, chứ có được coi đâu. Hôm đó em gặp lại cô bạn gái "lùn tịt" học cùng trường PT thuộc Ban CT sư 317 xuống thăm và chị Phan Việt Nga, phóng viên đài tiếng nói ND TP.HCM đi cùng, ăn chung cơm trưa với B cối trong vườn xoài mà. Qua chị PV Nga , em cũng được "lên đài" gởi lời chúc Tết bà con TP đầu năm 80 đó. Chị Phan Việt Nga (dân Hà Nội vào làm tại TP.HCM) sau khi về TP đã viết thêm 3-4 lá thư động viên em...
@ bác tai_liénon:  Chính xác như bác mô tả: từ trong phum Krava - huyện Ba Rài-CP Thom (hậu cứ đầu tiên của E747 năm 79), đi theo đường đất đỏ tới ngã 3 lộ 21 có mấy dãy nhà sàn lớn, lợp ngói dọc 2 bên đường. Ngã 3 này tới cuối 79, hình thành 1 khu chợ họp vào buổi sáng, tụi em lâu lâu vẫn phải ra tới đó mua bột ngọt và thuốc rê từ VN mang sang bán. Lúc này hàng Thái chưa qua đến đây. Dám khi đi tiền trạm qua, em nhận bàn giao địa bàn từ đơn vị của bác quá !
Hôm đánh trận đó bố Sườn vì quá cấp bách cho nên bảo thông tin đưa ống nói để bố nói trực tiếp không cần mã và bảo thông tin mở to máy vì vậy Tuy ở ngoài nhưng lúc đó mình đã rút vào nằm kế chổ đ/c Mai , nên mình nghe rất rỏ và nhớ đến bây giờ, ngày mai mình sẽ viết tiếp về bố Sườn và anh Mót cho cac bạn xem. Xin cảm ơn rồng xanh, RX rất thông minh, đánh dấu lên bản đồ đúng rồi đó, nhưng chưa chính xác lắm, do bản đồ nầy vẽ lại, không phải bản đồ chụp nê có sai lệch với thực địa. Mình tả lại để nhờ RX chỉnh lại cho đúng nhé : Rừng chuối (1): sửa lại là rừng chồi, nó nối liền từ đồi số 2 đến gần chổ điểm cua của đường mòn giữa trảng. Lúc hành quân vào mình tưởng đó là phum, khi rút quân về thì mình rút dôc theo đường mòn trên đó, phát hiện được chổ đặt DKZ, còn bỏ lại mấy trái đạn dính máu. Ngọn đồi số 3 vị trí sửa lại lệch về phía nam, vì trên thực địa con đường mòn từ phum KRAYA ra băng qua suối ngay đoạn giữa chổ con suối phình to ra và đi thẳng lên đồi số 3 luôn, từ mép suối lên đến chân đồi khoảng 15 mét ,đến 20 mét là cùng. Thứ tự bố trí Bts, B cđ, 12ly 8 là đúng, nhưng 12ly 8 cách xa đội hình Bcđ khoảng 10 mét do đ/c Mơ (lúc đó là thiếu úy tham mưu chỉ huy trực tiếp). Còn nhánh suối phía bắc vòng lên đến đồi số 3 nó thành suối cạn, khi mình cỏng  hai anh bị thương vào nơi suối đó chổ đặt súng cối cũng gần đó  và D bộ cũng ở gần đó. Còn khi rút, địch ở cụm rừng số 1, rút theo đường mòn  lúc ta đi vào.
Trận địa thì trận địa chính ở chỗ con suối phình ra, nơi nổ súng đầu tiên, cối ta bắn vào đó đầu tiên và nhiều nhất. Còn đạn cối rơi trên rẩy thuốc lá là do địch bắn (vì lúc đầu khi nổ súng thì 02 B ở đó, vì vậy nó dâp cối vào đó thì anh  em mình nhanh chân hơn  đã chạy lên chân đồi số 3, anh Hòa chạy sau nên bị một mảnh vào lưng, 12ly tám thì ở sâu hơn, nên lúc chạy lên thì không thấy 12ly 8. vì ở sâu hơn nên 12ly 8 không rơi vào tầm cối của địch. Còn cối ta thì bắn vào giữa suối và bên kia bờ suối rất chính xác, khi chúng tôi chúng tôi chạy vào đến chân đồi, quay mật lại thì thấy trận địa như chảo lửa ánh chớp liên tục do cối của ta cã cối của địch. Loạt cối đầu tiên chúng dập vào bờ suối. Loạt thứ hai chúng chuyển mục tiêu dâp vào vị trí cối ta bắn ra, khi chúng đã xác định chỉ có điểm đó ta mới có thể đặc cối. DKZ nó cũng hướng về giữa đồi số 3 mà nổ. Khi bao vây ta thì xung quanh đồi số 3 nơi nào cũng nghe tiếng hô của địch. Chỉnh xong bản đồ Ang ko krao sẽ thấy đúng.
Hai ruộng đây ! Đúng rồi đó Ăng Ko krao.Vì 12ly 8 bố trí hơi xa đội hình B cơ động, địa hình trống trải, không kịp đào công sự cho 12ly 8, địch thì quá gần, chúng ở bên kia bờ suối vị trí số 2. Vì vậy sau khi khạc được một thùng, lộ địa điểm, bị chúng phang cho một trái B40, cũng may là không bị gì, sau đó sợ chúng cướp súng mới khiêng chạy tắt lên gần chỗ bắn cối vì vậy mà khi mình vận động lên thì không thấy 12ly8 rút theo cùng. Rút là đúng ở lại là nó lấy thật đấy chứ. Cho mình hỏi chổ nầy một tý, có phải khẩu đội đó của anh Hùng và anh Thành (anh em thường gọi là 5 eo có phải không ? (lúc đó còn quá mới nên mình cưa biết được). Nếu đúng thì hai ruộng có nhiều kỹ niệm trong trận đánh sau nầy với khẩu đội đó. Sau mình nhìn thấy hình đ/c Đại Biểu Quốc Hội và đọc tiểu sử của vị đại biểu nầy thấy hơi giống anh Hùng 12ly8 không biết có phải vậy không ? Mình đang viết bài về bố Sườn và anh Mót lúc đang nghỉ trưa đễ tối nay gữi lên. Thôi sum lia. Xumaki xi bò hóc xóc xà bai bị B40 bắn hoài ót ngọp.
Hai Ruộng xin chào các bạn ! Hôm nay mình sẽ viết về bố Sườn và anh Mót. Trong D4 hầu hết cán bộ từ B trở lên đều là lính củ xuất thân từ E Gia Định, E 4 Quyết Thắng, nhiều người có thành tích trong thời chống Mỹ như bố Sườn, Thủ Trưởng Mai, anh Mơ, anh Quảng B Trưởng TS . v.v…. Riêng đại đội mình thì có anh Phương xuất thân từ lính đặc công, B Trưởng  B1, B Trưởng B2 là anh Thanh, anh Thủy  cũng từ du kích đánh Mỹ đôn lên bộ đội. Riêng B Trưởng B mình là chưa qua chiến đấu, nhưng bù lại thì có anh Mót, tuy là chiến sỹ  nhưng anh Mót lại là con chim đầu đàn ở trong B.
Riêng bố Sườn thì cã D ai cũng kính nễ, thương yêu, lính lác coi bố như người cha vì vậy nên mới gọi quen là Bố Gìa. Bố gọi lính là mấy đứa nhóc, bố cưng nhất là lính trinh sát. Bố cao vừa người, đen, quê Bình Đại Bến Tre. Tính tình hiền lành, chất phác, trung thực một là một mà hai là hai, gần gũi với cấp dưới, đậm chất người  Miền Tây Nam Bộ. Nhưng nóng tánh,  hơi thô lỗ.  Khác với Thủ Trưởng Mai, Thủ trưởng Mai mẫu mực bấy nhiêu thì bố Sườn đơn giản bấy nhiêu vì vây mà lính gọi là bố già chứ không gọi Thủ Trưởng, còn Thủ Trưởng Mai thì lính gọi Thủ Trưởng chứ không dám gọi là bố Mai. Trung Đòan  thật khéo léo chọn cán bộ để hai ông bổ xung cho nhau. Có lúc Thủ Trưởng Mai dùng tính ĐẢNG  để chỉnh tính thô lỗ của bố, bố cười hề hề chứ không giận. Những mẫu chuyện dưới đây sẽ minh chứng cho tính tình của bố :
Trong trận đánh nói trên khi D4 bị địch bao vây đông nghịt, đóng gần chỗ D bộ chúng tôi nghe rõ mồn một từ máy PRC 25 mở hết cở  << Từ E gọi xuống : Anh bình tỉnh, Anh bình tỉnh. chúng tôi nghe bố quát ngay: Bình tỉnh cái con …(cà đo), nếu tôi sợ chết tôi không dắt anh  em vô đây đâu, các anh chi viện chậm chúng tôi chết hết bây giờ >>. Chúng tôi không bào chữa cho cái tính hơi thô lỗ của bố, nhưng những ai đã từng có mặt ở trận đánh đó rồi mới thấy nó khẩn cấp như thế nào, tình thế hết  sức cấp bách mà anh thông tin cứ << tư tưởng o tròn đội mủ I tờ -đóng đa an châu nam định hà nội  - bắc cạn  I tờ  nặng bắc cạn an châu  o tròn – việt trì an châu đội mũ yên bái  …. >> . cứ như vậy dịch xong mật mã thí biết bao giờ, vì vậy nên bố chụp lấy tổ hợp nói luôn, không nói được cứ bị E động viên  nên nổi nóng lên, sẳn tính hơi lỗ mảng bố mới văng tục luôn cho E. Nhưng  khi được  anh em báo Thủ Trưởng Mai hy sinh, bố giậm chân rơi nước mắt những trận đánh sau nầy cũng vậy khi hay Minh TS hy sinh (từ phum Bec Sa Na, phum mà có trưởng phum là  anh Hốt là Việt Kiều gốc dân Hải Phòng  lúc đánh Mỹ bị thương cụt một tay sau đó ở lại thành dân K) bố rơi nước mắt vì bố rất thương anh Minh là trinh sát rất giỏi của D4…
Khi chúng tôi đánh chiếm cao điểm 75 ở gần phum TU BI (Ba Rầy). Sau khi đánh chiếm cứ của địch, chúng tôi dừng quân tại đó ba ngày,  anh em ở B2 bỏ gác (lúc nầy tôi phụ trách B1) đóng sát B2, bố đi kiễm tra phát hiện, bố vào lôi ngay anh B trưởng đang nằm ngủ trên vỏng, dựng dậy và tát vào mặt nẩy lữa xong quát : << cha mẹ nuôi con từ nhỏ đến lớn giao con cho Đảng, Đảng giao cho đ/c chỉ huy, đ/c để anh  em bỏ gác, địch tập kích vào anh  em hy sinh oan uổng anh trả lời như thế nào với gia đình , với Đảng …..
Khi đánh trên núi Hồng (phnum Cu Lên)  ở gần thác nước, trinh sát hy sinh, bố bảo thủ Trưởng Quyền (Ngô Xuân Quyền) CTV D : <<mấy đứa nhỏ nó mệt, đứa nào gác xong để cho nó ngủ, tôi với anh già  khó ngủ mình thức canh xác đốt nhang cho anh em (nhang lấy được trong cứ của địch), đừng để cho xác anh em lạnh lẽo. Chúng tôi hiếm thấy cấp chỉ huy nào thương lính đến như vậy. Khi đơn vị về nước, tôi đang học ĐHBK, vừa ra khỏi cổng trường gặp bố đang ngồi  trên xe lam đi từ hướng Bảy Hiền về hướng đường 3/2. Tôi gọi theo mà không kịp, từ đó đến giờ lo vật lộn với cuộc sống, nên mất liên lạc với bố luôn. Người chỉ huy, dũng cảm, bình tỉnh  mưu trí, thương lính như con mà chúng tôi không bao giờ quên. Đã 30 năm anh  em chúng tôi mong F317 có cơ hội nào đó tổ chức họp mặt để chúng ta có cơ hôi để cán bộ chiến sỹ gặp lại nhau.
Còn anh Nguyễn văn Mót: (người bắn quả đạn B41 khơi màn trận đánh). Anh Mót lớn hơn hẳn chúng tôi đến 4 – 5 tuổi, quê ở Phú Mỹ Hưng, Củ Chi Đất Thép Thành Đồng, đã từng là du kích và đã từng tham gia đánh và diệt xe tăng Mỹ, sau đó chuyển qua bộ đội Biên Phòng, là trung úy đồn phó đồn Sa Mát, cho đến khi địch tấn công vào biên giới  trụ lại đánh cho đến khi đồn bị địch san bằng, anh thóat chết,  vẫn ở lại đơn vị không bị bể chiến đấu, nhưng vì gia đình có hòan cảnh éo le (việc riêng của gia đình nên không tiện nói), buộc anh phải tạm thời bỏ ngủ. Sau  khi giải quyết việc gia đình anh tình nguyện đăng ký trở lại NVQS và được chuyển sang TK, sau đó chuyển về D4, chính vì quá trình thành tích như vậy mà anh em B chúng tôi coi như là anh cả dù là chiến sỹ, Anh em đã thấy qua trận đó đã thể hiện bản lĩnh của anh Mót như thế nào.  Trận tiếp sau ngày 26/5, cũng hết sức gan lỳ, anh bị thương. Sau đó về nằm ở Quân Y sư Đòan tại ngôi chùa ở gần thị xã Kam Pong Thom (đối diện bên kia đường là ao nước lớn), Sau khi chạm súng với ta hai trận, F515 của địch bị thương vong nhiều nên chúng  liều mạng tổ chức tập kích vào Quân Y để cướp thuốc men, nhưng bị anh  em thương binh đánh trả  và anh Mót cũng tham gia. Khi lành vết thương anh được về đơn vị. Lúc nầy D4 về đóng dọc theo đường 6 phía tây cách thị xã 15km ngay tại con suối rộng có chiếc cầu dài. Anh Mót được bình chọn về Thành Phố báo Công, Về thăm gia đình thì Gia đình lại tiếp tục gặp hòan cảnh éo le tiếp, nhưng anh vẫn trở về đơn vị, để trao quà của anh  em do gia đình gữi lên và chia tay với anh em, rồi anh lên D4 trình bày xin D4 cho đảo ngủ thêm một lần nữa. Đơn vị rất tiếc nhưng đành phải chấp nhận để anh về tiếp tục giải quyết việc gia đình. Anh em nấu nồi chè đêm đó chia tay. Cho đến bây giờ không gặp lại. Không biết anh  và gia đình anh như thế nào. Hiện nay anh  em rất mong gặp lại anh. Chúng ta đã từng là người lính , đơn vị nào cũng vậy  không biết bao nhiêu là kỹ niệm , bao nhiêu là tình cảm không thể nào quên phải không các bạn.
Hai ruộng xin chào tạm biệt các bạn. Cảm ơn các bạn theo dõi bài viết nầy. Nếu các bạn cảm thấy không chán thì lần sau mình sẽ viết về D4 và khẩu đội 12LY 8  tăng cường.
Sau trận đánh ngày 15/4 nở hoa trong lòng địch. D4 rút về lại phum KRÂY A. Còn địch rút về phía đông vào sâu trong rừng. Ngày hôm sau C9 ( đại đội của hai ruộng), được chuyển về đóng phía tây bắc của phum thay vì đóng phía đông nam. D4 bổ xung lại một số cán bộ mất mát (đ/c Thiều về phụ trách CTV D4 , đ/c MƠ điều về làm C trưởng C9 của mình (thay cho đ/c Phương, điều lên làm quân lực E, đ/c Chiến CTV C9 E điều lên Ban CT E, hai đ/c Phương và Chiến không có tham gia trận 15/4). Đ /C An  C phó C9  của hai ruộng bị thương nặng khi đánh trận 15/4. Như vậy BCH C9 chỉ còn hai đ/c, đ/c Mơ C trưởng và đ/c Phạm An Long lên CTV trưởng đại đội. Anh Kiệt B trưởng  B mình rút lên E, sau đó đi học nay không biết có còn  trong quân đội hay không ? . Anh Mót lên Btrưởng B cơ động, vẫn vác cây B41.
Còn một đ/c cán bộ đại đội bị thương nữa ,mình không nhớ ở C nào. Lúc nầy nhân dân K tại phum KRA YA, bắt đầu ăn Tết (Chôi snăm thmây), dân ở đây ăn tết trễ hai, ba ngày vì chiến tranh. Đơn vị chúng tôi cũng được đón cái tết đầu tiên của nhân dân nước bạn  và rút kinh nghiệm trận đánh ngày 15/5. Sau đó hạ quyết tâm truy kích địch tiếp tục, không để cho chúng lập căn cứ. Sau khi lãnh gạo thóc, gạo cho vào ruột tượng, mỗi anh mang theo 6kg, để chuẩn bị cho trận đánh một tuần. Sau đó nấu cơm vắt và đâm muối trộn với bột ngọt  cho ba ngày ăn. Sáng sớm hôm sau hành quân đi về phía đông phum, qua cây cầu đựợc bắt bằng cây độc môc qua suối  Xtung. Lần nầy hành quân cấp Trung Đòan đi thành hàng một, có cả đ/c Ba Thắng đi cùng, đến khỏang 8giờ đội hình đi cắt ngang mép  trảng trống, vùng đất có màu đỏ đậm không có cây cỏ gì mọc được trên vùng đất nầy, máy thông tin cũng bị nhiểu sóng khó liên lạc (vùng có khóang sản kim lọai). Chúng tôi tiếp tục băng qua rừng già một đọan thì phát hiện dấu vết của địch. Chúng vứt lại dần dần đồ đạc chúng mang theo, bỏ cã cối giã gạo, đến khỏang 4 giờ chiều thì chúng tôi phát hiện cứ của chúng  dọc theo bờ suối có hướng nước chảy từ bắc xuống phía nam, nơi đây chúng chưa kịp đào công sự, dấu vết cho thấy địch vừa rút khỏi không bao lâu, chúng đào những cái lỗ bằng chiếc nón xuống dưới đất, xung quanh chúng chặt cây đóng ken dầy đặc  để chúng bỏ lúa vào trong đó và giã thành gạo để nấu cơm ăn. Chúng không biết đào bếp Hòang Cầm như anh em bộ đội mình, mà chúng dùng ba cọc bằng cây tươi đóng xuống đất để nấu cơm. Chứng tỏ chúng đã biết sợ ta sau trận đánh không còn ngạo mạn  như lúc đầu nữa. Chúng tôi ở lại cứ của chúng, đào bếp nấu cơm ăn, không ai đào công sự vì quá mệt mỏi. Đêm đến một đám mưa rừng thật to, quân ta ướt cả đêm, trong rừng chỉ cần một đám mưa chừng một tiếng đồng hố là nước mưa đọng lại trên lá và rơi ướt cã đêm, cã D 4 chỉ có hai ba tấm tăng che mưa mà thôi. Vì khi bắt đầu mở màn chiến dịch vào cuối tháng ba, trời khô ráo  trên chỉ phổ biến đánh ở phum La – ót chỉ có ba ngày  không ai nghĩ là chiến dịch kéo đến mùa mưa,  rồi sau đó liên tục không về lấy được ba lô, anh  em chúng tôi mỗi người chỉ mang theo một quần đùi cho gọn nhẹ và một bộ quân phục đang mặc trên người, cả tháng trời mặc từ ướt đến khô, tôi còn không mang theo kem và bàn chải răng. Cả C tôi chỉ có hai tấm tăng che mưa một của anh Dũng y tá (chúng tôi gọi là sáu Quăn từ D6 mới chuyển qua sau trận 15/4) và một của anh Long CTV C (anh Long tánh tình rất cẩn thận). Mưa suốt đêm, anh nào sức khỏe yếu chui vào tăng che mưa mắc bốn năm tầng võng. Một số anh em  quá lạnh không chịu nổi  bắt đầu đốt lửa giữa rừng (khổ quá nên không còn sợ chết). Chúng tôi đóng quân tại đó vài ba ngày, tổ chức lùng  sục xung quanh suối. Ruột tượng đựng gạo ướt sủng công thêm mổ hôi chiến sỹ thấm vào khi hành quân gần một tuần gạo đã thàng màu vàng và hôi mùi mốc, anh em  cũng phải ăn, thức ăn thì có thịt cọp (tức là muối bỏ vào ca nhôm làm cối, lấy trái lựu đạn làm chài  trộn vào chút bột ngọt,  giã nghe cọp cọp, anh  em gọi là thịt cọp cho oai. Suốt bao năm làm nhiệm vụ quốc tế đó là món thức ăn thường xuyên của bộ đội ta, con đường gian nan sau nầy còn nhiều hơn nữa  đang chờ đợi anh  em ta phía trước. Như vậy đó các bạn, để xóa bỏ chế độ diệt chủng tàn ác và xây dựng cho bạn chính quyền vững mạnh như ngày nay, anh  em bộ đội chúng ta không những góp máu mà còn góp bao nhiêu mồ hôi khổ cực của cả bộ đội  ta và  bộ đội bạn thì nhân dân bạn mới được như ngày hôm nay. Vậy mà cách đây một năm (2008) một lần lên nhà sách  FAHASA, tôi có đọc cuốn sách  được xuất bản từ Mỹ được dịch sang nhiều thứ tiếng trong có có tiếng Việt, nội dung kể về hồi ký của một cô gái KAM PU CHIA được thóat khỏi bàn tay quân Pôn Pốt  khi có bộ đội Việt Nam đánh cho tan tác, đơn vị Pôn Pốt đó, nhờ vậy mà cô ta chạy được sang Thái Lan, sau đó gặp được lính mặc áo quần rằng ri  của Lâm nol, cuối cùng thì cô ta cám ơn, người Mỹ, cám ơn lính Lâm Nôl đã ban cho cô ta tự do (trong cuốn hồi ký về cánh đồng chết). Thật là buồn cười phải không các bạn.
Sau gần một tuần lùng sục suốt cũng không thấy địch, ăn hết gạo ta lại hành quân về. Lần nầy C9 đóng ở bên bờ phía đông con suối Xtung (ngay ngã ba nhánh suối phía đông phum KRAYA, trên bản đồ quân sự không có phum, nhưng ở đó có xóm nhà cũng gọi là phum thmây (xóm mới) chứ không về phum KRAYA nữa, nghỉ chân được hai ba ngày chưa hết mệt lại hành quân tiếp theo đội hình D, từ phum C9 đóng quân, hành quân về phía bằc đi về phía hồ nước lớn cách đường mòn khỏang 500 mét. Bắt đầu hành quân từ khi trời còn tối, đi qua trảng trống lớn sau đó tới cánh rừng mai, mai vàng nở rộ vàng rực cả cánh rừng xa mút tầm mắt, khi đến ngang hồ nước khỏang 11 giờ trưa, triển khai đội hình sẵn sàng chiến đấu, bộ phận trinh sát bám vào, phát hiện địch đã rút đi. Quân ta ăn cơm vắt xong lại hành quân về, khi về ngang cánh rừng mai, D dừng quân giải lao 5phút . Đất rừng phì nhiêu hoang dại, những cành mai nẵng trĩu cánh mai vàng, tôi ngồi tựa lưng vào gốc mai cổ thụ gốc mai to như bắp đùi. Nhìn lên bầu trời trong xanh, chim đại bàng đang chao lượn, tâm hồn tôi dần dần chìm vào trong ký ức tạm quên đi nổi hiểm nguy của chiến tranh đang rình rập từng phút  từng giờ, có gì đó quen quen  .. Á nhớ ra rồi <<…Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi ….>> . Một câu thơ của bà Huyện Thanh Quan, lúc còn ngồi ở ghế nhà trường phổ thông, chúng tôi tranh luận với nhau về câu thơ nầy, các bạn cho rằng, sách giáo khoa in sai, đúng ra phải là ngàn mây mới phù hợp với bài thơ hay như vậy, còn ngàn mai là cái gì - vô nghĩa . Tôi mĩm cười một mình vì đã tìm ra lời giải đáp, ngàn mai đây rồi chẳng phải là rừng mai đang trước mặt mình đó hay sao? Câu thơ đó tức là << rừng mai gió cuốn chim bay mõi >> Ồ ! hay quá …. Cảnh đẹp thiên nhiên , ký ức và thơ đang hòa quyện vào nhau, tâm hồn tôi đang chìm trong say đắm . << ĐÒANG >>  một tiếng nổ xé tai, vang dội trong cánh rừng làm những cánh mai vàng rơi rụng tôi giật thót người. Ồ ! <<Bòn Dân, đã trúng mìn chết rồi >> ! . Bòn Dân là người du kích bạn đầu tiên tự nguyện tham gia chiến đấu cùng với D4  từ lúc chúng tôi rút khỏi KRAYA lần đầu tiên (lúc D6 bị tập kích), đi theo suốt chúng tôi qua bao nhiêu trận và cũng là người du kích đầu tiên hy sinh ở đơn vị chúng tôi. chúng tôi chặt cây rừng làm cán để khiên xác của Bòn Dân trên chiếc võng. Người du kích hiền hậu vui tính lúc nào cũng cười. Để tỏ lòng thương mến, anh  em hái nhánh hoa mai vàng rực đậy lên xác Bòn Dân. Khiêng về  đến phum thmây (nơi C9 chúng tôi đóng quân) , làm công tác tẩn liệm và trả về gia đình.
Xin tạm biệt các bạn . Ngày mai tiếp tục trận đánh ngày 26/5 . ( hai trận đánh có tên trong bái hát truyền thống củ a Trung Đòan 747   ….<< 15- 26 oai hùng ghi đậm truyền thống  Trung Đòan >> …
Hai Ruộng xin chào các bạn . Hôm nay mình sẽ kễ về trận đánh ngày 26 tháng 05 năm 1979  của E 747. Sau  khi hành quân truy lùng địch ở bào nước nằm phía đông bắc phum KRÂY A bên bờ phía đông con suối XTung  cách phum 15km- 20km. Khi rút về thì Bòn Dân trúng mìn và hy sinh. D4 về nơi đóng quân mới, nằm phía bờ đông con suối Xtung, nơi có chiếc cầu bằng cây độc mộc, phía sau sát phum về phía nam là nhánh suối của suối xtung. Sau khi bố trí đội hình, cơm nước xong. D4 ra lệnh mỗi C cữ vài ba đ/c lên D làm công tác tẩn liệm cho Bòn Dân ngay trong đêm hôm đó. Còn lại bố trí canh gác cẩn thận  và tạm dừng quân ba ngày. Sáng hôm sau chúng tôi, tắm giặt quần áo, võng. Sau đó ăn cơm và tổ chức ra suối đánh cá, để cải thiện bửa ăn cho anh  em, suối cá nhiều lắm. Mình và anh Bữu thông tin D cùng với một số anh em đi đánh cá. Nhân Dân đi theo chọn khúc sông có nhiều cá, vừa đánh xong trái lựu đạn, cá nổi trắng khúc sông, bộ đội và nhân dân cùng nhau vớt cá, anh  em mới vớt chưa được bao nhiêu thì đơn vị chạy ra bảo về gắp hành quân ngay. Chúng tôi về chuẩn bị hành quân, cũng cơm vắt và thịt cọp, cá chưa kịp ăn. Bắt đầu hành quân lúc khỏang 01 giờ chiều, khẩu đội 12ly8 vẫn tăng cường cho D4 như từ đầu chiến dịch đến giờ. Tiếp tục hành quân về nơi bàu nước ngày hôm qua. Ba giờ chiều trời đổ cơn mưa thật lớn, cả đơn vị ai cũng ướt như là nhúng nước, cơn mưa kéo dài lắc rắc suốt đêm tận đến 3giờ sáng. Trong rừng ban đêm trời  mưa, tối đen như mực, chúng tôi phải đi sát lại mới không bị lạc đội hình. Tội cho những anh hành quân sau mấy anh vác B40, B41 cứ mỗi lần người trứớc đứng lại  là người sau bị đụng đầu vào đầu nhọn của quả đạn, thọc ngay nón cối còn đở , thọc ngay mặt sưng bầm. Đến khuya, cã đơn vị đều mệt mỏi  nên tạm dừng quân nơi trảng trống, mưa vẫn cứ rơi, anh  em vẫn cứ ướt. Quần nhau liên tục bao nhiêu ngày ai cũng đừ ra cã,vì vậy dù trời đang mưa ngập đất khi chúng tôi đặt lưng nằm đại xuống đất  lấy nón cối che mặt lại đừng cho mưa bắn vào mặt, dưới lưng nước lắp sắp, vừa lạnh vừa đói. Rồi cứ mặc cho mưa chúng tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay (những người chưa trải qua không thể nào tin được, nhưng đối với anh em D4 thì đó là sự thật. Tôi tỉnh giấc khi nghe tiếng gà rừng gáy rộ, ngồi dậy thấy tòan thân tê cóng. khỏang 5giờ sáng đơn vị lại gọi dậy chuẩn bị hành quân, lại nấu cơm sáng, vắt cơm trưa. Hứng chịu trận mưa rừng từ 3giờ chiều cho đến gần sáng, cã đơn vị không có tăng che, không có tấm áo mưa (vì tất cả đều bỏ ở cứ), một vài anh em không chịu nổi, không ngồi dậy được hoặc không còn nói nổi, đơn vị phải đốt lửa hơ cho ấm mới tỉnh lại được. Mùa nắng tìm nước nấu cơm thì khó, tìm củi thì dễ, còn mùa mưa thì ngược lại, tìm nước thì dễ còn tìm củi khô thì khó. Nhờ kinh nghiệm của anh  em thời chống Mỹ mà chúng tôi tìm được củi, cũng nấu được cơm  và lại tiếp tục hành quân (những kinh nghiệm nầy ở quân trường không bao giờ có). Khi đến điểm thì địch lại chạy mất. Lại tiếp tục truy đuổi, cũng hành quân luôn cã ban đêm. Sau cơn mưa ngày hôm qua trời đã hết nước, đêm nay khô ráo, nhưng lại hết nổi khổ nầy thì lại  gặp nổi khổ khác. Ban đêm chúng tôi phải cắt rừng, đi qua khu rừng tòan cây mây nước, những ngọn mây gai mọc đầy hai bên cong và bén như những cái lưỡi câu chờ sẳn trong đêm tối  móc vào mặt anh  em tóe máu, quần áo rách càng rách thêm. Tội nhất là anh em hỏa lực, cối 82ly và 12ly 8, vừa khiêng vác súng nặng vừa phải lom khom chui rừng, càng nặng thêm. Cuối cùng chúng tôi cũng đến nơi tập kết với Trung Đòan. Sáng hôm sau lại tiếp tục truy kích, sau khi Bòn Dân trúng mìn của địch, chúng tôi thận trong hơn, chúng tôi đi chận đầu hướng rút lui của địch, chứ không bám theo đường chúng đi nữa, vì vậy hành quân phải càng vất vả hơn.
Chúng tôi đi về hướng, ranh giói tỉnh PREY VI HIA, đến vùng rừng thưa có, đầm nước cạn có trảng cỏ, chúng tôi phát hiện dấu chân voi rừng,  sau đó băng qua rừng già  gặp con suối. Đến đây D4 chia làm hai cánh, C9 chúng tôi cùng khẩu đội 12ly 8 làm một cánh đi bên nây suối do đ/c CTV  Thiều chỉ huy. Còn lại Tiểu đòan thành một cánh đi bên kia suối do bố Sườn chỉ huy. Chúng tôi đi khỏang 1km thì nghe phía cánh bên kia nổ súng  chạm địch. Khi đó thông tin bật máy liên lạc, thì có lệnh cho chúng tôi vận động nhanh theo hướng suối, chúng tôi càng vận động thì tiếng súng nghe càng nhỏ, sau đó xác định lại bản đồ, thì C9 chúng tôi lầm đường  vì gặp nhánh suối nhỏ không có trong bản đồ chúng tôi tửong đâu là suối chính nên chúng tôi đi càng lúc càng xa trận địa, khi phát hiện được nhầm lẫn chúng tôi nhanh chóng trở về. Tiểu Đòan điều khẩu 12ly8 sang cánh Tiểu Đòan. C9 vẫn ở bên nây suối. khi có súng nổ thông tin bật luôn máy liên lạc,  nghe bố Sườn ra lệnh, chuẩn bị khi nào 12ly tám nổ thì xung phong,  chuẩn bị mãi không nghe thấy 12ly 8 nổ. Khỏang 10 phút sau, bố Sườn lệnh cho C9 khẩn trương về phía tiểu đòan để yểm trợ cho 12ly8. Khi đến nơi chúng tôi thấy 12ly8 đã bị địch khống chế, khẩu súng nằm trên bải cỏ trống anh  em khẩu đội mấy người hy sinh, còn nằm gục trên súng. Trận địa xảy ra nơi ngã ba suối, rừng nơi đây tòan là cây sim ổi mọc ken dầy với nhau,  Khi B của anh Thanh  cùng với khẩu đội 12ly8  chui luồn trong rừng sim để đến điểm bố trí, B bộ binh  đi trước còn khẩu đội 12ly8  khó chui rừng  vì phải vác súng nặng  cồng kềnh cho nên khi thấy bải đất trống 12ly8 bèn vận động tắt khiêng súng ra bải trống  bị lộ chưa kịp đặt súng đã bị địch bắn. (Đọan nầy mình nghe anh  em kễ lại). khi anh vác chân súng đi trước bị địch bắn gục  nhưng  khẩu đội vẫn quyết tâm lắp cho được súng, khẩu đội trưởng hô: chuẩn bị xung phong lắp súng  … 1…2….3..Xung phong. cả khẩu đội lại xung phong. Một lần nữa tiếng súng địch lại ran lên, anh em hy sinh và bị thương thêm vài người nữa nhưng súng cũng được lắp xong, Anh Thành (anh  em thường gọi là năm Eo là khẩu đội trưởng hay khẩu đội phó gì đó tôi chưa nhớ ra) bị thương nằm sau khẩu súng, anh cố nhòai người lên  bóp cò nhưng súng chưa lên đạn kịp và chúng lại ran thêm một lọat nữa, anh Thành hy sinh, gục trên giá súng ... Khẩu đội 12ly 8 hy sinh và thương vong gần hết, cả thương binh và tử sỹ nằm la liệt trên bải cỏ, phía sau khẩu 12ly 8 là con suối cạn C9 được điều về nằm dưới đó. Cối 82 cối 60 của địch bắt đầu rót vào đội hình ta, anh Mót bị một quả cối 60 rớt rất gần, ba quả đạn B41 mang sau lưng bị cháy liều phóng, phải nhanh chóng cởi giá đạn ra, anh bị thương do mảnh đạn và cháy cả tóc do cháy liều phóng. Ta phản pháo lại địch, hai bên đấu cối liên tục. Anh  em bắn yểm trợ để xung phong lên kéo thương binh về, nhưng không hiệu quả, khi xông lên bị thương thêm nữa, bố Sườn cấm không ai được xung phong. Sau đó anh Thanh BTrưởng B2, từ từ bò lên và phát hiện trên nhánh cây cổ thụ sau  lùm cây sim có một tên địch ngồi trên đó phía dưới là công sự có một tên  giữ khẩu RPD, khi tên ở trên cây phất tay thì tên ở dưới hầm ngóc lên bắn, khẩu trung liên nầy cách vị trí 12ly8 chưa đầy 7mét . Anh Thanh quất một lọat ak tên ở trên cây nhảy xuống tên ở bên dưới chưa kịp chạy thì bị quả lựu đạn chết gục ở trong hầm  . Bọn địch còn lại trong hầm chữ Z  theo đội hình của chúng vẫn còn cố thủ. Lúc nầy quân ta lợi dụng địa hình có cây sim dầy đặc tiếp cận sát công sự của chúng, nên súng cối của chúng không còn tác dụng.  Sau khi tiêu diệt được tên khống chế 12ly8, bố Sườn truyền lệnh bắn đồng lọat áp đảo tinh thần địch  để một B xung phong lên đưa anh  em thương binh tử sỹ về, con suối cạn băng bó. Đợt bắn áp đảo lần nầy anh  em đã đưa thương binh tử sỹ về được nơi suối cạn. Sau đó tổ chức bắn áp đảo để xung phong lên lấy khẩu 12ly8 về gần sát con suối cạn. Khi lấy được khẩu 12ly8 về rồi bố Sườn ra lệnh bắn áp đảo và xung phong ngay sau khi 12ly8 nổ dòn lọat đạn đầu. Lần nầy khi nghe 12ly8 ta nổ địch bật khỏi công sự bỏ chạy, bỏ lại nhiều quả mìn chưa kịp gài. Anh Thanh thu được khẩu RPD.
Sau khi chiếm được vị trí đó vừa xong thì trời cũng gần tối. Trận đánh nầy tuy lúc đầu có khó khăn, nhưng nhìn chung quân ta có kinh nghiệm và trưởng thành hơn, Cấp Trung Đòan phối hợp kịp thời vì lúc D4 bên nây đụng địch thì D5 bên kia suối (phía đông con suối) cũng vận động kịp thời và chận đánh đươc địch đang bỏ chạy. D4 khiên thương binh tử sỹ qua bên kia bờ suối phía D5  để nghỉ đêm, rừng dầy đậc không thể đánh ban đêm được. Sau mấy ngày đêm dầm mưa, đêm nay lại mưa tiếp, đến chin giờ tối anh nuôi chuyển cơm vắt lên, chúng tôi chia nhau từng nắm cơm vắt và thịt cọp. Bên kia bờ suối vẫn nghe tiếng địch đang đào công sự. Chúng nằm im re không dám đánh nữa (bể chiến đấu). Có một số anh  em  hút thuốc, bố Sườn biết lính đã quá cực khổ cho nên cũng không rầy la, mà chỉ khe khẻ khuyên “tụi bây đừng hút thuốc, tụi bây không sợ chết hay sau” . Mệt quá chúng tôi bỏ gác và ngủ một giấc cho đến khi nghe gà rừng gáy rộ. Quân địch cũng  như con cua bị ê càng không còn dám kẹp. Tờ mờ sáng Tiểu Đòan tổ chức tấn công qua bên kia bờ suối, thì địch đã rút chạy hết, chúng tôi thu được ăng ten ba đọt của máy điện đài, ban đêm chúng dìm dưới nước không kỹ nên còn lòi ra một đọan, tiến sâu vô nữa là bệnh xá, bông băng còn bỏ lại trên những chiếc giường bện bằng cây rừng, mái che được lợp bằng lá dây mây nước được bện lại hết sức công phu. Tiếp nữa là kho hậu cần của chúng, chúng lấy đi cũng chưa hết. Vì anh  em chúng tôi cũng thương vong nhiều nên đành phải rút nhanh về. Trung Đòan thu được H12 và bắt được một con ngựa của địch. Về phía tiểu Đòan chỉ thu được vài khẩu súng  trong đó có khẩu RPD. Địch cũng chỉ bỏ lại vài ba xác. Về chiến lợi phẩm thì chỉ có bấy nhiêu, có sao chúng tôi nói vậy, không phô trương thành tích. Nhưng về ý nghĩa của trận đành thì rất lớn, chúng tôi đã không để cho chúng thành lập được căn cứ ở tận trong rừng sâu, từ ở vị trí lúc đầu gần như mất khẩu 12ly8 nhưng sau đó giành lại được. Từ chỗ ta và địch còn ngang ngữa với nhau, nhưng sau đó ta đã khôn ngoan, dũng cảm giành lại vị trí chiến thắng dù phải hy sinh.  địch đã vô cùng khiếp sợ. Rút lui : Sau khi giết ngựa làm thịt chia cho các đơn vị. E Tiếp tục truy đuổi địch, còn C9 làm công tác  cán thương về phía đường 12. Hành quân đã vất vã rồi khi cán thương, cán tử sỹ còn khổ hơn gấp trăm lần. Ba anh em 12ly 8 hy sinh từ lúc nổ súng đến lúc cán thương đã trên 24 giờ, xác anh em nằm giữa rừng được đậy bằng lá cây, lại phơi mưa suốt đêm, đã bắt đầu trương lên, ruồi nhặng bu quanh, giòi bọ đã bắt đầu sinh sôi. Chúng tôi cán thương một ngày đường, chiều  lại bị mưa cho đến tối  mệt quá chúng tôi dừng quân nghỉ đêm tại trảng rừng dầu, mưa vẫn cứ rĩ rã, anh em nằm phơi mưa cùng xác anh  em, chỉ có ba tấm tăng che mưa dùng che cho thương binh  vì sợ vết thương anh em bị nhiễm trùng.  Tờ mờ sáng hôm sau lại tiếp tục cáng thương. Xác anh  em qua hai ngày hai đêm phơi mưa đã bắt đầu nặng mùi. Vì vậy C quyết định dùng tấm tăng che mưa cho thương binh đem bó xác, khi anh em khiêng xác một đọan đường giòi bọ bò theo dây võng bò cã lên áo lên đầu anh em khiêng xác. Nhưng anh em chúng tôi vẫn một lòng cắn răng chịu đựng vất vã đễ đưa xác anh em về đến cứ, khỏang 10 giờ trưa, chúng tôi nhờ được một chiếc xe bò của dân chở xác,  qua nhánh suối nhỏ rối sau đó đến phum ở giữa rừng. Nghỉ trưa ăn cơm xong lại tiếp tục đi tiếp  trời lại mưa to. Lúc nầy dân giúp chúng tôi thêm hay chiếc xe bò nữa để chở thương binh, chúng tôi không phải cán nữa. Đến 8giờ tối  bắt đầu qua con suối. Vì mấy ngày mưa liên tục nên con suối nước chảy siết, nhưng cũng băng qua được. Khi đi đến gần con suối  chúng tôi nghe tiếng máy xe của Trung Đòan ra đón chúng tôi bên bờ suối , nhưng vì đợi lâu quá, trời lại tối  xe lại quay về. khi nghe tiếng xe chúng tôi bắn ba phát ra hiệu xe cũng không nghe, chúng tôi bắn luôn một băng đạn nghe tiếng xe càng chạy nhanh hơn, lúc nầy trời mưa lại bắt đầu to, sấm chớp nên thông tin không liên lạc được. Đến khi lên lạc được xe mới vòng trở lại, chở thương binh, tử sỹ về trung đòan, C9 chúng tôi hòan thành nhiệm vụ.  Tiếp tục hành quân đến khỏang 10 giờ thì đến phum nằm theo dọc đường 12, tôi cũng không nhớ rỏ tên phum. Sau đó anh em mới nấu cơm ăn và hơ quần áo cho khô. Phum nầy có rất nhiều vườn trồng thơm. chúng tôi nghỉ chân ở đây hai ngày, sau đó lên xe cùng với D trở về đóng quân ở phum có cái cầu dài cách thị trấn KPThom khỏang 10km về phía tây (không biết có phải là phum Prey pro  không), thế là hết một mùa chiến dịch.  Chiến dịch bắt đầu từ cuối tháng 03 cho đến hết tháng 05 ,từ mùa khô cho đến mùa mưa. Hơn hai tháng trời quần nhau với địch, râu tóc anh em chúng tôi rậm rạp, quần áo rách nát  hầu hết áo không ai còn tay và vai áo lành lặn, quần chỉ còn ngang gối, giầy có người còn một chiếc có người đi chân không. Đơn vị cũng hao hớt. Nhưng bù lại chúng tôi đã gây nhiều thiệt hại cho đich  nhất là trận 15/4, sau thêm một trận 26/5 nữa địch đã biết thế nào là bộ đội Việt Nam. Từ bây giờ trở đi cứ gặp E747 là chúng bỏ chạy không dám đánh. Đơn vị tôi bắt đầu  cắt tóc cạo râu lãnh quân trang, dưỡng quân để bước vào chiến dịch, dọc theo bờ sông SAIN (qua cã bên kia sông SAIN  từ Xung túc cho đến qua một Phần Xăng Đal). Hai ruộng xin chào các bạn. Cảm ơn các bạn theo dỏi bài viết nầy.
Sau  khi đánh xong trận ngày 26 tháng 5 năm 1979, D4 rút về dưỡng quân tại phum có chiếc cầu sắt dài ở trên đường số 6 cách thị xã về phía tây 12km, (trận đánh 26 tháng 5 ở trên thượng nguồn con suối nầy). Nơi đây lúc nầy có một đại đội TNXP làm nhiệm vụ giữ cầu có cã nam và nữ. D4 tổ chức cắt tóc, giặt giủ, đào công sự, cũng cố lại đội ngũ. Ngày hôm sau E cho xe chở ba lô của anh  em về từ cứ của Sư (vì khi vào chiến dịch, hậu cần của D gom về Sư hết vì sợ địch tập kích). Anh em đựơc lãnh bổ xung thêm một bộ quân trang (có cái để đô xke). Sau đó rút kinh nghiệm trận đánh. Nhìn chung trận đánh, có khi ta thiệt hại nhiều hơn địch (khẩu đội 12ly 8 hy sinh 3 đ/c bị thương 4, 5 đ/c, khẩu đội gần hết, một số anh  em bộ binh bị thương do bò lên kéo anh  em 12ly 8, một số bị thương do cối địch lúc mới triển khai đội hình. Nhưng khi quân ta lợi dụng địa hình có nhiều rừng cây, trườn sát công sự của địch thì không bị cối nữa, cối chúng sau nầy đều bắn đuổi ruồi sau đội hình quân ta. Phía địch  phía cánh D4, địch chỉ bỏ lại hai xác, một do trinh sát diệt khi mới chạm địch, một do anh Thanh đánh trái lựu đạn vào công sự (tên nầy bắn khẩu RPD vào đội hình 12ly. Còn bên trong cứ của chúng cũng có những vết máu do cối ta bắn nhưng không bỏ lại xác nào. D4 cũng không kịp lùng sục kỹ vì khi chiếm xong trận địa thì trời sắp tối. Hơn nữa cứ cũa chúng rộng mênh mông, có cã công sự của điên đài 15wátt, D4 thu được ăng ten, có cã trạm xá tất cã các công sự dài gần 2km dọc theo bờ suối. Khi ta lấy lại được khẩu 12ly8 và nổ súng xung phong thì chúng tróc công sự bỏ chạy.  Đội hình ta chỉ có 01 E nên không thể nào bao vây chúng được. Nhưng nếu hôm đó, khi B2 của C9  dùng lựu đạn đánh tróc công sự của chúng rồi, sau đó  tổ chức một mũi thọc sâu vào đội hình địch đánh từ trong ra  thì sẽ diệt địch được nhiều hơn. (Có lẽ vì lúc đó ta bị thương vong cũng nhiều, hơn nữa trời cũng sắp tối, rừng thì dầy đặc, ban đêm đưa bàn tay ra nhìn không thấy, quá mệt mỏi thêm đói nữa. Vì vậy giải quyết cho dứt điểm, sau đó D4 rút qua bên kia suối tạm dừng quân qua đêm, sáng hôm sau đánh tiếp thì địch đã chạy mất.
Qua thời gian hơn hai tháng truy đuổi địch, D4 đánh được hai trận, trận đầu ngày 15 tháng tư. D4 hành quân lọt vào giữa cứ Sư Đòan của địch, lợi dụng lúc địch đang chuyển quân, nên địch thấy ta mà địch không biết tưởng là một đơn vị của chúng, dù trời đang có trăng sáng. D4 chớp lấy thời cơ chọn địa hình cao, có sẳn công sự của địch, để bố trí đội hình, bất ngờ đánh vào chúng gây thiệt hại nặng cho chúng. Sau đó truy đủôi địch, sau hai lần đánh hụt, lần thứ ba là trận 26 tháng 5, gặp là nhào vô đánh luôn. Sau hai trận nầy địch không dám đương đầu với  E747 nữa.
Sau khi dưỡng quân một tháng, C9 và B trinh sát  lại nhận nhiệm vụ trực tiếp từ Trung Đòan, hành quân lên phía bắc dọc theo bờ sông Sain, huyện XUNG TÚC. Vùng nầy có rrất nhiều cây mã tiền (một lọai trái dùng trong đông dược, dân địa phương  dùng chữa bệnh sốt rét, có vị rất đắng. Dân ở đây rất ít trồng lúa mà trồng cây mè (vừng). Vừa hành quân vừa bám địch, vừa thăm dò, ngày đi đêm nghỉ, mặc dù vất vả và hiểm nguy lúc nào cũng rình rập nhưng anh  em cứ rảnh ra là kể chuyện tếu  nhất là anh Mơ C trưởng, anh  em  mê anh Mơ vì anh kể chuyện Bác Ba Phi rất có duyên, có lần anh đang kể, anh  em hỏi Bác Ba Phi  quê ở đâu vậy anh Mơ anh Mơ bảo ở Cà Mau chứ còn ở đâu nữa,  lính ta bảo rằng  không phải đâu. Vậy mầy biết ở đâu mầy nói nghe coi, lính ta mới kể bác Ba Phi quê ở Củ Chi,  khi đào địa đạo gia đình ổng đào sâu quá  khi chui lên thì trúng ở vùng rừng tòan sình lầy, cho nên sình tràn xuống che mất địa đạo, nên về không được, sau nầy mới biết đó là rừng U minh. Lính ta cười ồ C Trưởng bèn lắc đầu chịu thua. Còn CTV trưởng là anh Long, dân Bách Khoa Hà Nội trúng tuyển rồi  tự nguyện nhập ngủ đi B, cũng là một cây lý luận của đại đội, khi nào buồn lính ta cứ kích cho anh Long kễ chuyện  quê ngòai Bắc, sau đó kích cho anh Mơ  kê, hai ông kê nhau, lính lại cười ồ. Tuy vậy chứ anh em rất gắn bó với nhau. Cho đến bây giờ tình cảm anh em trong chiến đấu vẫn rất là thiêng liêng, tốt đẹp, ngày nay tôi viết dòng chữ nầy cũng vì  cái nghĩa đồng chí, đồng đội ấy.
Hành quân  khỏang gần một tuần, chúng tôi  đến phum CHA TEAR (có nghĩa là phum Cây Dầu). Chúng tôi nhận được tin dân báo, phum phía tây nơi tôi đang dừng quân có 4, 5 tên địch xuất hiện, Cã đại đội đến đánh nhưng chúng đã chạy mất. Chúng tôi nghỉ chân tại đây. Đầu hôm du kích bạn đến báo, phum của họ bị địch bao vây cướp lương thực, C điều một B và có 3 trinh sát đi cùng.  Vừa xuất phát đã nghe  súng địch nổ tấn công vào du kích,  chúng tôi vận động đến, nổ súng chi viện, dù đông hơn rất nhiều, nhưng chúng cũng bỏ chạy luôn, sau khi cướp bóc hết mấy kho lúa của dân, nơi đây cách thị xã Kam pong thom 50km, nằm trong khu rừng già gần sông SAIN. Dấu vết để lại cho thấy địch khỏang hai trăm tên. E tức tốc điều D4 lên chi viện cho C. Sau đó cã D lùng sục mãi cũng tìm không thấy, chúng trốn mất dạng. Chúng tôi tìm thấy nguyên một đòan xe quân sự của địch mười mấy chiếc bỏ lại trong rừng vì chiếc đầu qua suối nước ngập sâu quá chết máy, vì thế cã đòan xe kẹt lại (có lẽ do Quân Đòan 4 đánh). Sau khi lùng sục chán tìm không thấy địch  E lệnh cho D4 vượt sông SAIN về phía đông,  chúng tôi lúng sục lên tận Săn Đan, cũng không gặp, sau đó chúng tôi bắt tay với E775 và lại rút về  đường số 6.  Anh em lại tiếp tục lấy lựu đạn thả cho cá ăn. Thỉnh thỏang đi lùng theo hai bên suối  15- 20 km rồi về. Ở địa bàn nầy chúng tôi có đánh hụt một tóan quân không rỏ đơn vị nào của địch khi chúng vào cướp lương thực của dân ở phum cách xa  chúng tôi khỏang 3km, nhưng muốn đến phum nầy phải đi đường vòng qua hồ nước hơn 10km, tên chỉ huy của chúng cụt một chân và luôn cưỡi ngựa khi chúng hành quân. Khỏang tháng 10 chúng tôi hành quân về huyện Ba Rai, huyện phía nam của tỉnh Kampongthom, phía bắc giáp tỉnh Kra Chê, phía nam giáp Kampong chàm. D4 cũng đóng tại phum mà lính ta hay gọi là khum Ca Dia (gần trùng tên với phum ở huyện Xtung). Trung Đòan nằm ở khum KAVA, nơi đây sau nầy E tổ chức lớp đào tạo HSQ, cán bộ Trung đội, tiểu đội. Từ phum nầy đi về phía bắc khỏi ngọn đồi là đến khum Ca Dia nơi D4 đóng quân, Còn C9 chúng tôi đóng tận phum Tà Pu nằm phía nam, cách D bộ khỏang 5km. Nơi đây sau nầy đơn vị chia lẽ ra đánh du kích với địch, kỹ thuật gài mìn và phát hiện mìn được nâng cao. Cán bộ tiểu đội và trung đội được học bổ xung khóa gài, gở mìn do đ/c Mỵ trung úy công binh trung Đòan hướng dẫn. Nơi đây là chiến trường gian khổ nhất và hao quân nhiều nhất, sốt rét cũng nhiều nhất.
Sư bộ 317, hiện nay đóng tại thành Ông Năm (Hóc Môn), cách đây 4-5 năm tôi và 4 Ae cựu binh E747 có lên thăm và uống vài lon 33 với anh Khải là sư phó CT (khi ở K rút về là trung úy phó CT C17-E747). Có người còn biết mình là lính cũ, nhưng không nghĩ ra chuyện xin copy các tư liệu về E747 (lúc đó chưa có và chưa biết QSVN mà ! ). Bây giờ thì anh ấy đã "hưu non" và về Hà Nội rồi (huyện Từ Liêm, lục hoài không biết bỏ địa chỉ ở đâu). Nên không biết lên F317 để gặp ai nữa. Khi ở K, Ban CT E747 cũng được cấp 1 máy chụp hình và giao cho anh Mẫn (từ C trinh sát rút về làm trợ lý TN) giữ và theo tôi biết lúc đó Ban CT E cũng đã chuẩn bị 1 số tư liệu để viết truyền thống E747. Không biết số tư liệu đó có được bàn giao và sử dụng hay không ? Vì khi đơn vị về VN, anh Mẫn về tỉnh đội Đồng Nai (gia đình anh Mẫn ở TP. Biên Hòa). Cách đây 3-4 năm nghe tin anh Ngô Minh Mẫn khi đó khoảng 45-46 tuổi là trung tá phó CT tỉnh đội ĐN đã mất vì bệnh.
bác 2 ruộng: công nhận là bác nhớ tên AE mình và các cán bộ hồi đó hay thiệt ! Anh Thiều trước khi về D4 thay anh Mai hy sinh là CTV C17 cối 82. Và những cái tên anh Mỵ C công binh, anh Mơ ở D4, anh Thế C trinh sát,... cứ nhắc đến là "nao nao" trong ký ức 1 thời trai oanh liệt đã qua!!!.
Đêm đánh trận "xém mất" cây 12 ly 8, ở cánh của bác 2 ruộng không biết sao, cánh bên tôi AE hết nước, phải đái ra để uống, dù chỉ cách suối không đầy 100m. Tới khuya trời đổ vài hạt mưa, AE lấy cái ca nhôm TQ chắt nước đọng trên tấm tăng che đạn cối, được ít nước chia nhau uống, đắng nghét khói súng, tôi uống sau cùng lạo xạo đất cát do đạn nổ văng lên, vì tối thui có thấy gì đâu, mà sao ngon thế ! Tuấn "mực" TS pháo bị thương nhẹ ở tay do miểng B trong trận này... bây giờ đang ở Đức, không biết có đọc QSVN hay không ?
Sau khi nhấp được miếng nước cùng AE cối, tôi được gọi lên cùng chú 3 Hòa chủ nhiệm pháo binh và chú 3 Thắng TMT kiêm chính ủy xác định tọa độ báo về pháo 105 của Sư, pháo 105 đã bắn 1 trái pháo sáng nổ trên trời tuốt sau lưng đội hình, báo chỉnh đạn về Sư, bắn thêm trái nữa cũng vậy, do E747 đã đụng địch ngoài tầm pháo 105 chi viện vì hết tầm. Đêm đó E 747 có lẽ không nằm chịu trận bên bờ suối đó, nếu có pháo 105 chi viện và D6 không đi lạc (không hiểu sao D6 của E747 hay đi lạc thế).
Thịt con ngựa của thằng CH Pốt lúc chia cho AE, mỗi người được vài miếng để ăn, sao nó ngon thế, nước thịt nấu với muối không mà cũng ngọt ngay. Tôi chưa được ăn lại miếng thịt ngựa nào ngon bằng miếng thịt con ngựa đó. Mấy trái H12 tịch thu, trước khi rút E cho đóng chạc, dùng pin PRC25 chích, phóng theo hướng Pốt chạy.....
Ang KO krao nhắc mình mới nhớ. Chính đêm trước trận 26/5, tức là ngày 25/5 khí D4 hành quân đêm băng rừng về hợp quân với E ở bàu nước cạn. để lấy nước nấu cơm, đến tờ mờ sáng mình mới nhận thấy điều hết sức kỳ diệu là trong đội hình hành quân có 6, 7 nàng tiên. Sau đó tranh thủ nấu cơm sáng, vắt cơm trưa  rồi hành quân qua vùng gặp dấu chân voi. Sau đó D4 tách đội hình đi cắt rừng về phía suối và sau đó gặp địch. Rất nhiều kỹ niệm đậm dấu ấn chiến trường nhưng mính cũng không nhớ hết. Nhưng mình sẽ cố gắng quay phim lại còn đoạn nào hay đoạn đó. Có gì anh em giúp đở mình nhé. Còn anh Ngô Minh Mẫn đệ tử của Ông Lan, tối ngày chỉ ở quanh quẩn chân ông Lan, ở Ban CT E có chứng kiến được gì đâu mà nhớ.
Còn chuyện thịt ngựa thì Ăng KO KRAO có biết không, mình ăn không nổi vì, lúc đó mình nhận cáng anh Thành (năm eo) gần hai ngày hai đêm. Đến khi về đến phum thì anh em đến gần mình còn chịu không nổi vì còn thấy nặng mùi tử sỹ, dù mình tắm giặt rất kỹ đến hai ba ngày sau vẫn còn, thì mình làm sao ăn nổi thịt ngựa. Còn những bài học kinh nghiệm trong thưc tế chiến trường, mình muốn viết lên nhưng đắn đo mãi, xem có nên hay không. Mình muốn giữ những kinh nghiêm quí báu đó để dành riêng cho các anh em sỹ quan trẻ sau nầy vì vậy mà mình không viết vì sợ lộ bí mật quân sự .
Trước khi hành quân chúng tôi được tin  đại đội trưởng C Trinh sát của E 747 bị hy sinh trên đường đi tiền trạm do địch phục kích bắn vào xe đang lúc hành quân ngay gần ngã ba  vào khum KAVA. Vì vậy C9 được lệnh chốt ngay cánh rừng đó  ba ngày để cho E hành quân. Đang mùa mưa lớn cánh rừng ngập nước ngang mắt cá chân. Con đường lầy lội sình bùn. Xong nhiệm vụ C9 lại về với  D4, sau đó hành quân về phía đông, đi ngang hồ nước lớn, rồi băng qua con suối nứớc ngập ngang rốn, đi về phum Tà Pu, còn  C10 thì về phum Liu, phía bắc cách phum Tà Pu 3km, còn C11 nằm ở phum phía nam phum Tà Pu cách phum tà Pu cũng khỏang 1 hoặc 2 km (mình không còn nhớ tên phum). C12 hỏa lực ở lại với D bộ.  Hành quân đến địa bàn  khỏang 10 giờ sáng, các C bố trí đội hình, đào công sự đất ở đây chỉ cần đào sâu hai ba len là có nước, vì vậy công sự ngập nước, chỉ có công sự cối 61 ly là không ngập nước.
Địch ở đây là Sư 517, chúng không thiện chiến bằng sư 515, nhưng nghe nói chúng đã đánh cho một đơn vị tỉnh đội nào đó phải bể chiến đấu bỏ về nước chịu kỹ luật (tin nầy các bạn kiễm tra lại). Cách đánh của chúng là bao vây phum  từ xa bắn nhữ vào, quân ta sợ, bắn đại ra, thế là lộ điểm, sau đó chúng câu hỏa lực vào, vì vậy mà bộ đội địa phương không chịu nổi.
Đêm đầu tiên chúng tôi chưa kịp hành quân nắm địa hình,  cũng thủ đọan như nêu ở trên, chúng tập kích hai lần, lần đầu chúng tôi ra công sự, chờ chúng bò lên cách 1 mét hoặc 2mét mới thịt (đây là lối đánh của E747 được truyền lại qua các đ/c từ thời đánh Mỹ). Chúng tôi nằm yên không bắn phát nào vì vậy không lộ công sự. Không làm ăn được chúng im, nữa giờ sau chúng tôi thay quần áo đi ngủ, vì công sự ngập nước. Khỏang hai giờ sáng chúng làm thêm một trận nữa cũng bỗn củ sọan lại. kỳ nầy cối 61 chúng tôi đã canh kỹ, hầm cối lại đào sâu, khuất trong lùm, chúng tôi cối cho ba trái, thế là chúng câm luôn, bị ta nện cối mà lại không phát hiện được mục tiêu của ta. Đêm đó chúng tôi cũng khỏi ngủ. Đêm sau cũng bổn củ sọan lại, nhưng kỳ nấy chúng ở xa hơn không dám đến gần như hôm trước  và chỉ bắn được vài lọat, chúng tôi cũng không thèm ra công sự. Lúc nầy chúng tôi chưa đi đánh chúng là vì đang học chính trị, ba  C cùng học tai phum Tà PU vì ở đây có trường học (phổ biến dự thảo luật do quốc hội sấp ban hành , thời gian học hơn một tuần). Đêm nay chúng tôi sách trái ra gài, sau khi ban ngày phát hiện dấu chân của chúng để lại. Tối trái của C tôi  và C11 đều nổ, C tôi không thấy gì nhưng C11 (C trưởng là anh Đấu) thì địch để lại nhiều dấu máu. Đêm sau chúng cho công binh của chúng đến gở trái, sáng ra anh Năm (dân Bà Điểm) Btrưởng B3 ra gở trái, thì địch đã gở sẳn, chúng để trái giửa đường, dây gài thì hắn quấn lại bỏ trên trái, còn viết chữ ngoằn nghòeo, để cảnh cáo ta.
Học chính trị xong chúng tôi bắt đầu đi trinh sát. Anh em Btrinh sát lại rất khóai Hai Ruộng, cứ đi trinh sát là đề nghị với D cho Hai Ruộng đi cùng, xin chuyển mình qua Trinh Sát luôn thì C lại không cho chuyển, vì vậy mà mình cứ chạy qua chạy lại, mình biết nhiều chuyện cũng nhờ đó. Đợt nầy đi một Tiểu đội với Hai R, một y tá hai thông tin. Vừa Ra khỏi nơi đóng quân khỏang 2km là chúng tôi đã phát hiện địch, chúng tôi vừa len lỏi không cho chúng nhìn thấy  cho đến trưa, chẳng may ta vướng phải trái của chúng, bị thương hai chiến sỹ, may là vướng trái lựu đạn chài TQ (lọai ném cá,  cá không chết), nên chỉ bị thương nhẹ (anh đi trước bị vào mông,  anh đi sau bị vào má) bị lộ nên rút về. Cách hai ba ngày lại mò vô tiếp, lượt nầy chúng đã cảnh giác, chúng đi tuần liên tục. Sau khi vượt được vùng nguy hiểm (tuyến canh gác kỹ của chúng). Vì quá mệt cho nên khi qua tuyến cảnh giới của địch chúng tôi lười xóa dấu (lọai cỏ giống như cây trúc cao ngang bụng, mọc xen kẻ trong rừng dầu nên khó xóa dấu), thế là chúng đi săn vô tình phát hiện dấu chân, chúng  bám theo. Đợi anh  em chuẩn bị qua trảng cỏ  chúng tấn công, từ sau tới. Trên đồi bên hông trảng cỏ, chúng đánh xuống, anh  em chúng tôi nhanh chân, luồn qua trảng cỏ vòng lại phía sau lưng chúng bình tỉnh rút về. Chú tư Đáp phê bình chúng tôi chưa hòan thành nhiệm vụ, nhưng chú không la mắng gì bảo thôi không đi nữa vì bị lộ rồi chúng đã cảnh giác.  Sau đó ra lệnh cho cã E bỏ cứ rút về phía  lộ số 7 sáng hôm sau. Khi D4 rút về đến gần lộ số 7 cho dừng quân  nấu sẵn cơm vắt. Nữa đêm lại hành quân đi ngược trở vô, kỳ nầy đi cắt rừng luôn không đi theo phum nữa  vừa đi vừa bám địch, gặp tổ chức đánh luôn  như trận ngày 26/5. Như vậy bất ngờ chúng tôi vào thẳng vùng địch đóng quân, nhưng vì rừng quá rộng chúng tôi chia nhiều cánh, cứ ba anh trinh sát dẫn một đại đội, C cối đi cùng D bộ, nhưng chỉ chạm địch lẻ tẻ. Đặc biệt bọn nầy ít đóng quân tập trung, mà chúng xé lẽ ra . Chúng tôi đi chổ nào cũng gặp rẩy bắp, rẩy lúa của chúng, cứ của chúng rải rác khắp nơi. Vì vậy khi ta tập trung quân cũng không đánh được chỉ chạm súng lẻ tẻ mà thôi, hiệu quả không cao. Vùng nầy đất đỏ quạch  cây cối tươi tốt, chỗ nào cũng có mướp, có chuối, có mía,  rừng chuối xiêm rộng mênh mông Trung đòan thả vào quần cã tháng  không thấm vào đâu, cây chuối xanh tốt đến nổi anh  em chúng tôi  mắc vỏng ngủ không gảy. Vùng nầy thật lý tưởng cho việc lâp cứ,  vừa tự túc được lương thực, vừa đảm bảo được bí mật.  khi ta hết gạo thì chúng phục đánh đường tiếp tế của ta. Vì vậy E ra lệnh rút quân về nơi đóng quân lúc trước, chúng tôi lại về phum Tà Pu cũng cố lại. Riêng C9 anh Mơ được điều về giử chức D phó. Anh Nguyễn Viết Xuân về C9  thay anh Mơ. Bố Sườn Về nước tập huấn. Đ/ C Thành lên thay. Đơn vị chuẩn bị mở chiến dịch đợt hai. Ngày mai tiếp nha các bạn.
Ta và địch cứ quần nhau suốt , khi đánh khi rút thắm thóat mùa mưa đã qua, mùa khô lại đến (mùa chiến dịch bắt đầu). Đợt nầy E747 tổ chức đánh qui mô cho tòan E có huy động du kích bạn và huy động dân công bạn tải đạn tải lương thực, tải thương. Riêng D4 thì bố Sườn và anh Mơ đều về nước chưa qua, cuộc hành quân do Thủ trưởng  Thành chỉ Huy. Theo đánh giá chung của anh  em thì ông nầy chỉ huy yếu,  quá sợ chết, tánh tình thì nghĩ đến mình nhiều hơn. vì vậy mà anh em lính lác không có cảm tình lắm. Nhắc lại hồi còn hành quân ở dọc sông Sain (Sung Túc), anh  em biết tánh ông nầy, có gì thì hay dấu anh em, còn anh em có gì thì ổng hay xin (chỉa) , cho nên lúc đang tạm dừng quân để ăn cơm vắt với muối, anh Dũng Ytá (sáu Quăn hay là Dũng Tà Nong) mới đầu têu, anh Dũng  khều anh em, bây giờ tụi mình giả bộ hô lên đang ăn cơm với thịt gà, để dụ ổng qua đây chơi. Thế là, anh Dũng lấy lá chuối gói cơm lên ôm khư khư làm như gói thịt gà, mấy anh  em xúm lại, a! thằng nầy có thịt gà, cho tao một miếng, bốn năm đứa nhau nhau lên làm như tranh nhau thịt gà, thế là bố cũng chạy qua, cho tao miếng với, mở ra cục muối  anh em xúm nhau cuời ồ. (Vụ nầy chỉ có lính lác ở chiến trường thôi mới dám trác CTV phó của D như vậy phải không các bạn, lính ở quân trường đố dám). Còn lúc Sếp chỉ huy đánh nhau thì nhiều chuyện buồn cười sảy ra.
D4 bắt đầu hành quân theo kế họach phân công của E, điểm đến là phum KAKI THUM. Cũng  trinh sát đi đầu, rồi đến 3c bộ binh, đến Dbộ sau cùng là C -hỏa lực. Bọn 517 nầy nó rất khôn, khi ta vào thì nó không đánh, chủ yếu là nó né. khi quân ta rút ra thì chúng mới đánh. Khi hành quân dưới sự chỉ huy của bố Sườn  nếu trinh sát dẩn đội hình băng qua trảng trống thì phải báo, bằng cách truyền lệnh lại cho bố, bố đi lên phía trước xem xét, nếu cần thiết bố Sườn  ra lệnh cảnh giác trước sau, sau đó cho trinh sát bọc vòng hai bên trảng quan sát xem có địch phục kích hay không. khi đi tới đầu trảng bên kia thì chốt lại và ra hiệu cho D hành quân qua trảng. Còn Sếp nầy khi trinh sát báo, Sếp ra lệnh cứ đi luôn vì Sếp không dám ra phía trước. Đi một ngày  đến rừng chuối nơi ngã ba đường rẻ vào phum TU BI thì dừng lại  ngủ đêm tại rừng chuối. Sáng hôm sau tiếp tục khi  hành quân qua khỏi phum ĂNG TE  một đọan  gặp dấu mòn của địch còn rất mới địch thường xuyên qua lại trên con đường nầy. Nếu gặp bố SƯỜN thì chắc chắn bố sẽ xin lệnh E cho D4 bám tiếp theo dấu chân của địch, Đằng nầy Sếp ra lệnh bỏ qua đi thẳng luôn chủ yếu là đi cho đến phum KAKI THUM (điểm đến của E giao cho), cũng không cho cử hai tổ cảnh giác hai bên đường mòn để cho đội hình ta đi qua (anh  em thấy càng không tin tưởng vào tài chỉ huy của ổng nhưng không nói ra, cũng may là không có địch lúc đó). Khi đến phum KAKI THUM, điện báo cáo lên E là không có địch, rồi nhanh chóng, xin lệnh  hành quân về (Sau nầy khi bố Sườn về đơn vị rồi D4 đánh không biết bao nhiêu là căn cứ địch ở xung quanh các phum TU BI, ĂNG TE, KAKI THOM, SVAI CHÊK  đánh đến nổi anh  em chúng tôi đặt lại tên các phum nầy cho ấn tượng là : << Tắp Bi , Anh Tè , Xa Muốn  Chết>>). Khi về chúng  tôi linh cảm là thế nào cũng bị địch đánh.
Khi về đến ngang phum Ăng Te, tự nhiên du kích tróc một trái M79 vào phum. (Chúng tôi không vừa ý cho việc bắn trái đạn nầy vì bắn tùy tiện như vậy vô tình báo động cho địch biết, nhưng vì là du kích bạn nên họ không có kỹ luật nghiêm như quân ta). D vẫn tiếp tục hành quân về đến ngã rẻ vào phum TU BI nơi có một cây to cao thẳng đứng, thì có lệnh dừng quân giải lao,  một số anh em vào dưới cây to trú nắng, thấy D bộ dừng quân nơi không có bóng cây, Sếp ra lệnh đội hình nhích lên thêm chút nữa, sau đó Sếp cùng liên lạc vào trú nắng ở dưới bóng cây,  lúc nầy địch bắn cho một quả B41 trúng ngay cành cây,  thế là Sếp bò càng, lính lác ôm bụng cười, sau đó ra lệnh cho D hành quân  đi về theo con đường củ lúc hành quân đi vào, đi hơn 100mét  bị địch chặng đầu đánh, trinh sát dạt hai bên  không ai bị thương, còn lại B bộ binh đi đầu, sẳn cây M60, anh Thương C10 làm tới tắp một dây, thêm cối ta phản ứng cũng nhanh nên chúng bỏ chạy.  Sau đó Sếp điều quân  lung tung hết, chúng tôi chấp hành lệnh mà đi, trinh sát chia ra  dẫn 3C bộ binh  C thì đánh thẳng, C thì Bên trái C thì bên phải. Chẳng biết  đánh vào đâu, nên các C khi đi một đọan bèn hè nhau tắt máy  ngồi im luôn trong rừng chuối. Sau khi điều quân đi hết, sếp mới giật mình vì không còn ai bảo vệ D bộ  ngòai vài ba anh liên lạc và mấy anh thông tin vận động. Cuối cùng sếp phải lệnh cho thông tin vận động bám theo dấu chân tìm các C  năn nỉ các Cvề.  Sếp không dám đi về phía đó nữa, bèn ra lệnh cho quay ngược đầu đội hình lại lại rút về theo ngã phum TU BI,  khi vừa đến đầu phum Tu BI thì bị phục tiếp, trinh sát nhanh chân dạt vào nên không ai bị thương, cối ta bắn ứng dụng tức thời ngay đội hình phục kích của địch, chúng lại bỏ chạy. Không còn đường nào nữa chúng tôi hành quân đánh  trực diện  qua nơi địch phục kích để đi  về cứ . (có lẽ chúng tôi đi đường nầy hơi bất ngờ nên không có mìn) .
Sau nầy cấp trên điều Sếp đi đâu chúng tôi cũng không biết. Sau nầy khi học lớp hạ sỹ quan, chú tư Đáp nhắc nhở: làm cán bộ không được quên ba nhiệm vụ quan trọng của mình. Đó là nuôi quân – dạy quân – rồi mới sử dụng quân. Nuôi quân không chỉ có cho quân ăn no không, mà phải nuôi tinh thần của anh em, làm sao cho anh em tin tưởng vào cấp chỉ huy, nuôi tình cảm gắn bó của anh em, không phải chỉ xây dựng mối quan hệ giữa chỉ huy và binh lính chỉ là mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới mà phải xây dựng tình cảm  trên dưới thân mật như là cha, con, anh, em một lòng đánh giặc. Còn dạy quân thì phải rèn quân, đơn vị nào mà kỹ luật không nghiêm thì đơn vị đó không thể nào đánh thắng. Qủa đúng như vậy thật. Cũng là D4 nhưng khi Bố Sừơn Chỉ huy thì khác. Còn người khác chỉ huy thì lại khác. Đây cũng là một trong những kinh nghiệm quý báu mong các anh  em sỹ quan trẻ tiếp thu để ra sức rèn luyện bản thân xây dựng  đơn vị của mình ngày càng vững mạnh thực sự. Xây dựng như thế nào để mối quan hệ anh  em trong đơn vị như bài hát << năm anh em  trên một chiếc xe tăng >> . có như vậy thì đơn vị mới vững mạnh được. Đừng để xảy ra cảnh, khi rời quân ngủ rồi, lính gặp Sếp không thèm chào, còn Sếp gặp lính không dám ngó.
Cách bắn nầy của khẩu đội trưởng Trần Hoàng Nam, hiện nay đang ở Trần Quang Diệu Quận 3. (yêu cầu phải có kinh nghiệm mới bắn được). Khi hành quân anh Nam chỉ vác theo có nòng cối, còn bàn đế, chân, máy ngắm đều bỏ lại cứ, bao xe đạn ak mang trức ngực, rọc bỏ đường chỉ may thì sẽ bỏ được ba trái cối đã lắp sẳn liều chính, lắp sẳn đầu ngòi nổ. Còn nòng cối thì lấy bao quân dụng bỏ nòng cối vào, có thể bỏ luôn cả nồi nấu cơm vào đó (vừa mang súng cối vừa mang nồi nấu cơm. Nhờ vậy mà khi hành quân dân chúng chỉ nhìn thấy anh  em gánh đạn cối mà không thấy súng để ở đâu. Khi chạm địch nổ súng, anh Nam ngồi bẹp xuống đất, gót chân phải chịu vào cùi súng cối. Chân trái đầu gối co lên góc 90 độ (khi co như vậy thì mặt phẳng được tạo bởi ba điểm: đầu gối, bàn chân và khớp đùi trái tạo thành mặt phẳng thẳng về hướng mục tiêu để làm chuẩn cho hướng bắn, còn tầm bắn thì canh theo đùi trái, góc tạo bởi khớp đùi trái và đầu gối sẽ tạo thành góc 45 độ so với mặt phẳng nằm ngang (mặt đất), dựa vào góc nầy mà canh góc bắn của súng (canh tầm). Còn tay trái thì cầm chặt nòng cối, nhờ bao quân dụng bọc bên ngoài nòng súng mà khi bắn không bị nóng tay. còn tay phải vạch miệng bao quân dụng ra để nòng cối ló ra ngoài. có sẳn ba trái trong bao xe trước ngực đã lắp sẳn liều, ngòi chỉ cần dùng miệng cắn giữ chốt an toàn tay phải giật quả đạn ra thế là nắp an toàn rơi xuống, ba quả đạn tha hồ mà bắn, nhanh như chớp, bắn vừa hết ba quả đạn thì anh em gánh đạn đã đủ thời giờ chuyển đạn lên cho bắn tiếp. Với cách bắn như vậy cho nên khi vừa nổ súng là nghe tiếng cối đề ba liền. Anh Nam đã từng bắn trúng tên địch đang chạy với cách bắn như vậy tai phum TUBI. ĂNG KO KRAO cũng là dân bắn cối nghiên cứu xem có đúng không ? Muốn bắn được chính xác như vậy thì anh Nam phải tập luyện thuần thục, cứ ngồi bẹp xuống là góc chân trái phải tạo góc 90 độ so với mặt đất .
Hai Ruộng xin chào Rồng Xanh. Cảm ơn RX gữi bản đồ qua nhìn sướng thật. Tuy bản đồ hơi củ, nhưng vết tích vẫn còn đó mình sẽ lần lần tìm lại. Hồi lúc đánh nhau cũng vậy, bản đồ cũng không đúng với thực địa lắm đâu, anhem mình đi trinh sát phải mò mẫm giữ lắm. Một số con đường mòn trong rừng có trong bản đồ, trên thực địa lại không còn chỉ còn lại dấu mòn trên rừng, cây cối đã mọc trên lối đi. Có những con đường mới có trên thực địa nhưng trên bản đồ không có. Bây giờ anh em mình đi tìm lại dấu vết trên bản đồ nhé !
Ta lấy phum KRAVA , nơi đóng quân của D4 làm chuẩn. Ta tìm 03 phum mà C9, C10, C11 của D4 đóng và tất cã các phum nầy đều nằm trong tầm cối 82 chi viện của D (đối với bản đồ 1/250.000, thì khoảng cách 01 ô trên bản đồ là 12,5km). Như vậy ta đã xác định được các phum nằm trong tầm cối rồi đúng chưa. Bây giờ ta nhìn từ KRAVA về phía đông nam, ta gặp một cụm có 04 phum trên bản đồ ghi chung là Rôbaeuk, như vậy trong cũm bốn phum nầy, phum hướng đông gần nhánh suối là phum Tà pu, nơi C9 tụi mình đóng quân, phum rôbaeuk chính là phum phía tây sát với phum Tà pu, phía bắc của phum Tà pu là phum LIÊU (C11 đóng quân, sau nầy C9 cũng về đây đóng và có đánh nhau một trận tại đây), phía nam của phum Tàpu qua con suối chính là phum của C10 đóng , mình quên mất tên phum . Còn E thì đóng gần phum Punnareay.
Phía địch (chúng không đóng trong phum sau nầy dần dần ta mới mò ra các nơi đóng quân của chúng và tổ chức đánh, thường chúng đóng cách phum 500 mét cho đến 1km, Trong vùng chúng đóng hoàn toàn là phum hoang không có dân chúng ở).
Các bạn đã xác định được phum Tà pu chưa. Ta lại lấy phum Tà pu làm chuẩn, đi về phía đông, nhìn thấy cao điểm 318, bên cạnh có hồ nước can, lấy cao điểm 318 làm tâm, các bạn có nhìn thấy đường nét thể hiện cao độ bao quanh một vùng rộng lớn mà tâm là cao điểm 318 chưa, hầu hết các cứ địch đều đóng trên vùng đất cao nầy.
Vùng đất cao nầy còn nhiều cao điểm khác , nữa mà bản đồ nầy chưa thể hiện hết, trong đó cao điểm 318 là một cao điểm cao nhất.
Gần với cao điểm 318 có hồ nước cạn, đối diện với hồ nầy qua đường mòn trên bản đồ có thể hiện dấu tròn, đó chính là phum TU BI (lính D4 đặt tên là Tắp Bi, có nghĩa là vào đến đây là có đánh nhau). Từ phum TuBi theo đường mòn đi về phía đông hơn 1km là phum ÂN TÊ (anh em gọi là phum Ăng Te, sau nầy nơi đây, mìn chúng gài lởm ngỡm nên lính ta gọi là phum Anh tè. Từ phum ÂN TÊ (Ăng te) đi theo đường mòn về phía đông đến gần con suối có phum đó chính là phum KOKI THOM (Kakithum).
Từ phum KOKITHOM theo đường mòn đi về phía bắc có 02 phum hoang, một trong hai phum đó có một phum là Capong krà bây. Bây giờ từ phum TAPU nhìn về phía nam, gần cao điêm 312 (ở phía tây cao điểm 312, có cái phum chính là phum SAVAI CHÊK (D4 gọi là xa muốn chết). Các phum nầy lúc đó hoàn toàn là phum hoang, trong phum chỉ còn lại bốn năm cái nhà thôi, chỉ có phum Ân tê, Tu Bi, savai chêk là tương đối còn gần 10 cái nhà, có cây dừa cây chuối, cây thốt nốt, giếng nước uống được vì địch chừa lại để chúng lấy nước. Còn đường đi thì chỉ có trong phum là còn đường đi tương đối rộng (chứng tỏ địch rất thường xuyên lui tới), còn hấu hết các con đường trên bản đồ thì cỏ mọc cao quá đầu người um tùm chỉ còn lối vừa một người đi bộ , nhiều lần trinh sát ta và địch khi chạm nhau chỉ cách nhau có vài mét.
Về đường mòn. Có nhiều thay đổi nhiều so với bản đồ, ngay từ lúc đó khi đi trinh sát mình đã gặp nhiều bở ngở. Đặc biệt rừng vùng nầy trên bản đồ thể hiện trảng trống màu xanh nhạt, nhưng trên thực địa hầu hết là gai mắc cở tây, cao khỏi đầu, chui cũng không được, mà càng lên cũng không được, anh  em cắt rừng rất khổ sở. Sau nầy lợi dụng mùa khô chúng tôi đốt cháy, bị nóng mìn nó nổ lốp đốp. Còn đường đi Hai Ruộng chỉ còn nhớ những con đường ghi nhiều kỹ niệm mà thôi. Bây giờ cũng từ phum TÀ pu, có con đường mòn về phía đông sau khi đi cặp theo trảng cây mắc cở, vượt nhánh suối cạn (nhánh suối dọc theo con đường khi gần lên vùng đất cao con suối lại quẹo lên phía bắc cắt ngang đường mòn), tiếp tục đi lên đến ngã ba. (Ngã ba nầy dân K gọi là Đôn bây, có nghĩa là giếng nước số 3, có lẽ Ăng te có một giếng, TuBi có một giếng, còn nơi đây có một giếng, giếng nước sâu có cây gổ to đóng lại làm thành giếng cao gần một mét, phía đông giếng nước là một rẩy mía do địch trồng, một rẩy mướp. Nơi đây Nguyễn Xuân Hậu C9, quê Mõ Cày Bến Tre trong lúc ngồi gác phát hiện một tốp địch khoảng 7 tên lần mò theo đường mòn từ hướng bắc xuống, có hai tên đi đầu cách đội hình khoảng 10 mét, lợi dụng chổ gác kính đáo, anh hậu bình tỉnh đợi đến khi tên tên đi đầu vừa qua khỏi nơi mình ngồi gác, tên thứ hai vừa tới sát, anh Hậu mới nổ súng vào tên thứ hai, tên nầy chết gục xuống, sau đó anh quay lại bắn tên đi trước còn đang ngơ ngác. cã hai tên đổ gục cách anh hậu chưa đầy hai mét, dù súng của chúng đã mở khóa an toàn sẳn, nhưng chúng không bắn kịp phát nào, mấy tên đi sau tróc đại một trái M79 rồi chạy mất dạng. Nơi đây cũng là nơi đ/c PHẠM AN LONG Thiếu Úy CTV C9 hy sinh (sẽ nói rỏ hơn ở phần sau). Bây giờ ta trở lại địa hình. Con đường mòn trên bản đồ đi về TUBI .....(mình phải đi nấu cơm cho vợ  sẽ tiếp tục sau khi xong nhiệm vụ). Chắc nhờ RX chỉ cho mình cách vẽ lên bản đồ thì tiện hơn.
Rồng Xanh ơi!! Hai Ruộng vẽ được rồi, mò ra rồi. để mình gửi qua luôn. Những tên phum mình viết chữ màu đỏ. 3 con đường màu đỏ là con đường mòn sau nầy. Dưới sự chỉ huy của Sếp Thành D4 hành quân từ TU BI, đến ĐÔN BÂY sau đó đi theo con đường màu đỏ số 1. Đến ngả ba đường số 1 và đường số 2 thì nghỉ đêm tại đó, sáng hôm sau hành quân theo đường số 2 tới ngả ba vào (TUBI ) thì quẹo trái lên ÂN TÊ (Ăng te), không vào phum Ăng te, cũng như Tubi, mà đi thẳng lên KOkithom. sau đó vòng về theo đường củ, về tới ngang Ăng te thì du kích tróc vào phum 1 trái m79. D4 đi thẳng đến ngả 3 vào TUBI nơi có cây cổ thụ to, thì bị địch bắn B41 vào cành cây, D4, tới gần ngã ba đường số 1 thì bị chặn đánh, sau đó thì lệnh quay về đường số 2. Khi đến đầu phum TUBI thì bị chặn đánh tiếp (chỗ ngã tư TU BI mà mình gọi là ngã ba vì đoạn đường có nét vẽ màu đen đã bị địch làm cho mất dấu hai đầu đoạn đường, một đầu ở TUBI một đầu ở Đôn Bây. Sau nầy HR mới tìm ra con đường đó.

Bản đồ tỷ lệ 1:50.000 khu bác Hai Ruộng đóng quân. Bác nhớ tên phum đúng đấy  . Phum Liu thực tế tên là Leav (Phiên âm tiếng Anh)

Sau hai trận thăm dò. D4 cũng chưa đánh được địch. Sự hiễu biết địch còn quá ít. Trinh sát D lại tiếp tục đi bám địch. tôi cũng được bổ xung đi cùng anh  em trinh sát.  Đi theo ngỏ phum Tàpu, khi qua khỏi trảng cây mắc cở chúng tôi cắt rừng đi về phía phum TuBi, đi theo kiểu sâu đo. Khoảng  một giờ trưa thì đến gần phum TuBi  gần hồ nước khô cạn ở phía Bắc, từ trong đám sậy cao khỏi đầu  chúng tôi vượt đường mòn, anh đi đầu vừa bước lên đường mòn thì gặp phải một tên địch từ hướng phum Tu Bi ra, chỉ còn cách ta có vài ba thước, tên địch cũng nhìn thấy ta, nó quay đầu bỏ chạy, anh đi đầu tróc cho một trái M79 đạn chài vào lưng, nhưng tên nầy vẫn còn chạy, bị thương nó vừa chạy vừa la hét om xòm. Sau đó chúng tôi bám sát vào bìa phum, phát hiện trong phum có địch  chúng tôi  cắt rừng theo hướng khác để tiếp tục đến phum  Ăng Te, Phát hiện Phum Ăng te cũng có địch, sau đó chúng tôi cắt rừng về. Sau đó D4 tổ chức đánh địch ở phum TUBI và ĂNG TE, kỳ nầy hình như do anh Mơ chỉ huy (không biết có đúng không). D4 bí mật hành quân cắt rừng đến điểm tập kết. C9 đánh vào phum Tu Bi, khi vào không đụng địch, sau đó rút ra rìa phum đóng quân, còn C 10, C11 đánh vào phum Ăng Te cũng không đụng địch, chuẩn bị rút ra rừng bìa phum đề đóng quân thì bị chúng tập kích bằng mấy trái B40, không ai thương vong. Sáng hôm sau lại tiếp tục truy lùng  địch cũng không phát hiện căn cứ của chúng ở nơi nào, sau đó có một số anh  em  bị đạp mìn và đạp chông của địch. D4 lại rút về.
Nghỉ mệt vài hôm trinh sát lại đi bám tiếp, kỳ nầy lên tận phum Kô Ki Thom. Tiểu Đòan lại tổ chức hành quân đi đánh địch (kỳ nầy có bố Sườn), cũng hành quân bí mật cắt rừng hòan tòan không ra đường mòn, khi khỏi Ăng Te thì phát hiện địch, tốp nhỏ vài ba tên cũng đang cắt rừng, trinh sát ta phát hiện trước ta bắn một trái B40 chúng bị thương, để lại vết máu, nhưng chạy mất, ta theo vết máu được một đọan mất dấu. Đến KOKI THOM,  cũng không phát hiện địch trong phum. D4 tổ chức truy lùng xung quanh phum cũng không phát hiện dấu tích gì, chỉ có dấu chân lẻ tẻ. Sau đó rút quân về, kỳ nầy khi D4 về đến khỏi phum TUBI  thì bố Sườn cho C11 cài lại bí mật đóng quân tại ngã ba đường tắt về Đôn Bây (trong rừng chuối, cách Tubi chưa đầy 1km, nơi trước kia khi hành quân cùng Sếp Thành về đến đó D4 bị phục kích. Còn C9 thì về đến Đôn Bây bố Sường cũng cắm cho C9 chốt lại đó luôn, C10  về phum TaPu, D bộ C12 về Krava. Chúng tôi đào công sự cá nhân, làm đường chuột chạy  quanh vị trí đóng quân.  Chúng tôi nằm im nghe tiếng súng địch đi săn bắn khắp rừng, chúng tôi chờ chúng đến nạp mạng. Anh Mơ ở lại với C9.
Khoảng một tuần sau, E giao cho D4 một tù binh  để D4 khai thác,  anh Mơ giao cho Hai Ruộng quản lý, chúng tôi đối xử tốt với tù binh, không trói và thuyết phục hắn đồng ý chỉ đường  cho ta vào cứ của chúng. Tôi cho hắn mượn tấm ny long che mưa để lót chổ ngủ gần vỏng của tôi, giả vờ không cảnh giác, đợi hắn ngủ, tôi mới nhè nhẹ rút từ từ viên đạn trong nòng súng của tôi ra, trước khi tôi ngủ và khẩu súng luôn đặt trên bụng của tôi, sau khi thử thách một tuần thì thấy tin tưởng được, sau đó báo cáo anh Mơ cho phép đưa ta  đi đến cứ của chúng. Bốn giờ sáng chúng tôi lên đường, gồm Atrinh sát D, tù binh và tôi. Đi đến chổ C11 đóng quân, rẻ về hướng Bắc, qua rẩy bắp, nhờ tù binh mà chúng tôi không lọt hầm chông, qua khỏi khu vực hầm chông, ở rẩy bắp, phía ngọn con suối bên kia đồi là cứ của chúng.  Tới đây trời đã tờ mờ sáng, lợi dụng địa hình, chúng tôi bí mật bò vào. Khi đến bờ trảng cỏ rộng chừng trăm thước, chúng tôi bố trí một khẩu RPD và một khẩu B40 chốt lại cảnh giới để hai trinh sát trường qua trảng cỏ ngang đầu gối (anh Ngọc đen và một anh nữa tôi quên  tên). Nhìn kỹ lại trảng cỏ đầy chông, anh  em vừa nhổ chông vừa trườn vào, đến được giáp rừng chồi thì đã gần trưa. Sau đó gở mìn bò vào cho đến khi thấy chúng đang nằm trên võng  thì mới trở ra. Khi trườn ra đến chổ chúng tôi thì đã 05 giờ chiều. Sau đó chúng tôi khai thác tù binh tại chổ để tìm xem vật chuẩn chúng đóng quân từ đâu đến đâu  xong thì trời đã tối, không kịp xóa dấu. Chúng tôi hành quân về  gặp anh Mơ  cùng với BCH C9, anh Đức B trưởng TS và Hai Ruộng cùng lên kế họach tấn công. Chúng tôi đề nghị lên kế họach tấn công vào 5 giờ sáng hôm sau, vì nếu để qua ngày chúng sẽ kiểm tra và phát hiện dấu do chúng tôi không kịp xóa dấu. Một là chúng sẽ chạy, hai là chúng sẽ tăng cường cảnh giác, hoặc gài mìn. Vì vậy anh Mơ đồng ý và báo về trên. Hai giờ sáng chúng tôi hành quân, kế họach đến C11 điều luôn C11 tham gia đánh luôn. Kế họach bàn xong chúng tôi chưa kiệp ăn uống gì thì C11 bị chúng cối hơn 10 trái vào đội hình, nhưng không có ai bị thương vong, tất  cả anh  em C11 đã vào công sự (kiểu cối như vậy bố Sườn gọi là cò ỉa miệng ve). Đúng hai giờ sáng chúng tôi hành quân,  bàn giao vật chuẩn và ém quân xong thì đúng như kế họach trời tờ mờ sáng, tiếng gà rừng vẫn gáy rộ, địch không hề hay biết. Sau khi bàn giao trận địa chúng tôi được anh anh Mơ cho rút lên đồi ngồi nhìn anh em đánh. Đúng 5giờ 30 sáng tiếng súng nổ giòn nơi cứ địch trên đồi cối chúng tôi bắn qua.  Anh em reo hò chiến thắng (lần đầu tiên D4 reo hò chiến thắng tại khu vực nầy).  Diệt tại chổ khỏang 7 tên địch (kết quả như vậy là nhiều rồi, vì địa hình rất khó đánh, xung quanh chúng gài mìn, chông, cứ lại rộng.  Hai C, lúc nầy mỗi C còn chưa tới 30 quân, làm sao bao vây được, chỉ đánh làm hai mũi  hai bên bờ suối, luồn vào cứ địch mà đánh tiếp. Hơn nữa bọn nầy hể bị đánh là chạy nhanh không dám chống cự. Trận đánh nầy cũng chưa vừa lòng E lắm vì chưa diệt gọn địch. Anh tù binh được ta đưa về và làm tốt chính sách địch vận. Đơn vị qua những trận đánh như vậy  cũng thăm dò biết được phần nào thói quen, mạnh yếu của địch.
Khác với bọn địch ở Sư 515, bọn nầy không thiện chiến và cũng không có gan như bọn 515. Nhưng ngược lại bọn chúng khôn hơn. Căn cứ của chúng đóng có sự chuẩn bị chu đáo hơn, có dự trữ lương thực, được che dấu rất kỹ, chúng thường đốt trống xung quanh khu vực chúng đóng quân, để khi quân ta tiếp cận thì chúng dễ phát hiện, còn chốt gác chúng ngụy trang rất khéo, nhiều khi ta đứng sát bên còn chưa phát hiện được chốt gác. Chúng chia ra từng đại đội, trung đội đóng rải rác khắp rừng. Chúng không đóng trong phum, dù là phum hoang, chúng chỉ thường xuyên lui tới nơi đó để trồng và tiếp tế lương thực. Cứ của chúng đóng cánh xa phum hoang khỏang 1km, nơi kín đáo hiểm trở. Xung quanh chúng đào nhiều hố chông, gài mìn trái. Nếu ta không mở chiến dịch thì chúng tăng gia sản xuất, trồng bắp, trồng  lúa, trồng mướp, trồng mía, thu họach chuối (nơi đây là vườn chuối xiêm bạt ngàn). Đồng thời chúng phục kích quân ta nếu thấy có lợi cho chúng. Vì đội hình chúng xé lẻ nên chúng không có trận phục kích, hay tập kích lớn vào ta. Chúng dùng tóan nhỏ tập kích ta dù ta có đông hơn nhiều lần cũng không làm gì được chúng. Vì khi đội hình ta đang hành quân bị tập kích bất ngờ, phản xạ tự nhiên là quân ta phải ngồi xuống trước đã. Sau đó phải chờ cấp chỉ huy nhận định xem, địch đông hay ít, tập kích hướng nào, rồi sau đó tùy theo tình hình mới triển khai bao nhiêu quân  để đánh trả. Cấp chỉ huy nào phản ứng nhanh lắm cũng phải bốn năm phút. Trong thời gian đó chúng đã chạy xa hơn trăm mét, có xui lắm mới trúng vài trái cối mồ côi. Lối đánh nầy sau khi đã thông thuộc địa hình chúng tôi được đ/c Tư Đáp phổ biến cho quân ta áp dụng để đánh lại địch (gọi là đánh vuốt đít). Quân ta chia ra nhiều nhóm nhỏ khỏang một tiểu đội, mang theo cơm vắt , gạo rang (khi đi vào không nấu cơm nước gì cả, cơm vắt ăn khỏang ba, bốn ngày hết cơm vắt, phải ăn gạo rang) , có thương vong phải tự giải quyết. Từng tóan nhỏ như vậy cắt rừng đi sâu hai ba mươi cây số  vào gần cứ địch, nằm phục kích theo đường mòn, nếu gặp địch ít thì đánh luôn, nếu địch đông thì để cho chúng đi đến cuối đội hình, ta  nhảy ra đường  bắn vuốt đít, sau đó nhanh chóng thu vũ khí nếu được, xong rồi nhanh chóng rút chạy. Nhiều khi chúng không kịp bắn cối, cùng lắm một vài trái B bắn hú họa là cùng. E747 áp dụng cách đánh nầy gần một năm thì chúng không chịu nổi. Những tên sống sót còn lại  phải bỏ cứ rút khỏi địa bàn. Nhờ cách đánh du kích nầy mà trình độ đánh giặc của anh em được nâng lên, bộ binh cũng cắt rừng không thua gì trinh sát. Vì phải tự đánh độc lập cho nên bình tỉnh hơn, lanh lợi hơn. Tuy nhiên ta hao quân cũng nhiều do đạp mìn, trái, do sốt rét rừng. Nhiều khi ta đi phục địch thì bị địch phục lại ta. Có vườn mướp hai bên ta và địch cùng nhau ra hái, Cứ mỗi lần hái mướp ăn là phải cử ba anh, hai anh cảnh giới ở  ụ mối bìa rừng, súng mở sẳn an tòan, còn một anh mang bao quân dụng bò lê ra hái mướp, có khi đang hái bị địch tập kích chạy bỏ cã mướp. Có khi ra hái mướp gặp địch đang hái sẳn, ta tập kích địch lại lấy mướp địch vừa hái mang về. Rẩy mướp nầy rộng khỏang trăm mét lại nhiều gò mối, nên B40 bắn không ăn thua gì hết. B40 đạn bay rất chậm nhìn thấy rỏ viên đạn nó bay, cho nên chừng 10 thước trở lại thì nó bắn ta chạy không kịp, còn trăm thước nghe nó bắn ta nhìn thấy đạn bay từ từ dư sức để tìm chổ nấp.
Đúng như Haanh nói đấy B40 bắn cách 100 mét không ăn thua gì , nhưng B41 thì HR cũng thua luôn, nó nhanh lắm, xẹt một cái là tới liền. Nó bay qua khỏi đầu nghe giống như DKZ 82. Còn cối 61 hay 82 gì khi rớt gần đều nghe tiếng cánh đuôi cuốn gió nghe xè xè, lúc đó là phải nằm xuống ngay. Còn lúc đánh nhau thì cặp mắt là quan trọng, đừng để địch phát hiện ta trước.  Khi bị địch đánh thì phải bình tỉnh. Nếu mới nghe B hoặc cối mà nó vừa bắn mà mình rúc đầu vào công sự thì càng dễ chết. Nếu nó bắn ở cự ly xa thì ngay người nào người đó nấp hoặc chạy ra chổ khác, còn người khác phải đánh lại nó, nếu ta nấp hết còn ai đánh. Còn nếu địch bắn rất gần nghe (bùng bình) thì khỏi nấp, ai có chúa cũng khỏi cầu chúa, đi đầu thai kiếp khác chắc ăn hơn. Đánh nhau tụi nầy sợ nhất là M79 và AT Tăng (ANTI TANK) hai loại nầy khi nổ không hề nghe tiếng gió hay tiếng xè gì cã, bay tới là làm cái rầm luôn. Vì vậy lính cũ có kinh nghiệm đang đánh nhau mà nghe địch tróc 79 hay đề ba AT Tăng là tự nhiên ai cũng lũi vào nấp hết, vì không biết nó bắn ai, nấp trước chắc ăn (xin tỳ tạm nghỉ đánh), khi nào nghe cái oành rồi mới biết không phải nó bắn mình và ngóc đầu lên đánh tiếp.
Còn mảnh đạn thì B40, B41 mãnh ít vì vỏ đạn mỏng nên mảnh nhẹ bay không xa, có bị thương cũng xuyên không sâu, ít nhiểm trùng  như đạn cối. Đạn cối do vỏ dầy, khi nổ miểng nặng nên mang động năng lớn, hơn nữa  đạn cối của mình sét nghẹt do không có sơn, nên khi bị thương do mảnh cối rất nguy hiểm, vừa xuyên thủng mạnh vừa tạo bệnh phong đòn gánh.
Các bạn có phân biệt được ánh chớp nổ nào do khi quả đạn được bắn đi, còn ánh chớp nào do quả đạn chạm nổ không. Còn khi xem phim nhìn tia lửa chớp có phân biệt được, ánh chớp nào do đóng phim, ánh chớp nào là đạn thật không ? Bửa nay bận đi họp về trể, ngày mai mình sẽ viết tiếp (những ngày truy đuổi địch). Chào các bạn.
Sau trận đánh vào căn cứ do tù binh dẩn đường. C11 rút về phum LIÊU,  còn C9 vẫn nhận nhiệm vụ  chốt tại ngã ba ĐÔN BÂY. C9 lặng lẽ ở tại đây một tuần, vẫn chưa thấy địch mò tới, nhưng nghe tiếng súng của bọn chúng đi săn, lẫn quẩn gần đây. Đợi mãi không thấy anh em có tư tưởng chủ quan. Phía B1 bố trí hướng về phía đông, từ hướng TUBI ra. Bố trí công sự gác không được kín đáo lắm, trong khi ngồi gác một chiến sỹ của ta (mình đã quên mất tên), ngồi trên bờ công sự, súng mở khóa an tòan sẳn nhưng lại, bỏ súng bờ. Địch đi vào rất êm, khi người gác phát hiện được, tay chưa sờ tới súng thì đã bị chúng bắn bị thương vào vai phải thế là không nâng nổi khẩu súng để bắn trả lại được phát nào. May nhờ anh  em ở trong, nghe súng nổ vận động ra kịp nên chúng bỏ chạy. (cũng giống như trinh sát mình, khi đi vào vùng địch là súng lăm lăm trong tay, người đi đầu luôn mở khóa an tòan ngón tay đã ở vòng cò, gặp địch chỉ cần nhít nòng súng ngay là bắn thôi, sấu số cho những thằng địch nào mà gặp phải trinh sát. càng vào sâu địch càng chủ quan, gặp trinh sát chúng càng dễ chết). Sau vụ nầy chúng tôi rút kinh nghiệm, các chốt gác phải đào công sự giữa bụi cây rậm rạp cách đường mòn chừng một mét, sau đó ngụy trang thật khéo, chúng tôi ở trong nhìn ra thì thấy, còn địch ở ngòai nhìn vào không thấy chúng tôi được dù chúng đi sát công sự.  Tuy nhiên chúng cũng đã biết vị trí chúng tôi đóng quân. Ngày nào chúng cũng  đến thăm chúng tôi bằng một hai quả, có khi thì M79, có khi thì B 40, có khi thì AT, có khi thì cối, Cbộ đóng dưới cụm ba cây sòai to, lại có cây ăng ten của máy PRC 25, nên làm mục tiêu cho chúng gửi quà. Anh nuôi cũng phải đào công sự và bếp Hòang Cầm,  bụi chuối bốn năm cây chuối cạnh  bếp bị một trái cối 81 bay mất tiêu chỉ còn lại đất trống. Nơi đây có cái giếng nước. Cạnh giếng nước là gốc cây to (đường kính khỏang gần một mét)  ngã nằm ngang canh giếng.  Chiều bốn năm anh em chúng tôi ra tắm, có cã Hai R và C trưởng là anh Xuân (Nguyễn Viết Xuân, quê ở Thái Bình hay Nam Định gì đó). đang tắm và đùa giởn thì bị chúng bắn tỉa sớt qua đầu, anh em mính còn chọc quê chúng (banh đốt cà đo). Từ đó chúng cứ canh giếng nước, chúng tôi phân công mỗi ngày một anh ra lấy nước nấu cơm, cứ ôm thùng chạy ra giếng nước ngồi sụp xuống gốc cây là có vài ba phát, sau đó quăng thùng xuống giếng, lấy tay giựt thấy nặng nặng là nhanh chóng đứng dậy giật mạnh một phát rồi chụp luôn thùng nước rồi nhanh chóng núp vào gốc cây, (có khi không còn được nữa thùng), vậy mà bị hai ba phát nữa rồi đấy. Sau đó chạy ù ra khỏi giếng trống, thêm một vài phát nữa. Cứ như vậy chúng tôi đùa giỡn với chúng vài ba ngày mà không ai bị thương hết. Chẳng lẽ để chúng bắn hoài, HR mới dẫn một tổ cắt rừng về phía chúng tổ chức bắn lén thì phát hiện được đường mòn, chính là con đường có trong bản đồ, chúng trồng mía để che khuất đầu con đường. Con đường nầy cũng chính là con đường chúng ra rẩy lấy mướp mà quân ta và bọn nó có khi giành nhau  lấy mướp mà mình đã kể ở phần trên. Sáng sớm hôm sau C cho ba anh  em vác cây M60 ra phục, anh  em vừa bám ra đến đó bố trí M60 nằm sau bụi chuối bắn dọc theo đường, hai khẩu ak  kèm theo.  Chưa đến nữa giờ y như rằng, ăn quen bọn chúng mò đến. Anh bắn M60 khai hỏa (anh Từ Tho nhà ở Quận 4). M60 nổ đúng được một phát, súng bị hóc, may nhờ hai anh AK bắn  một loạt  hổ trợ, nên địch chạy mất tiêu (chúng chưa tới số), sau khi chúng nhã lại cho ta một lọat. Sau khi bị chết hụt khỏang một tuần chúng tôi không thấy chúng đến thăm nữa. Lúc nầy là vào khỏang tháng 10 năm 1980, mưa tương đối nhiều. Vắng chúng đến thăm anh  em lại chủ quan,  phía A cối bắt đầu tụm ba tụm bốn lại nói chuyện tếu, cười rôm rã, trời mưa vừa mới tạnh dưới võng bùn đỏ quạch. Nghe anh em  cười nói. HR chơi  cắt cớ, lượm trái mướp ném cầu vòng qua kẻ lá về phía A cối (tiểu đội cối), trái mướp rơi xọat từ trên ngọn xòai xuống. Tiếng cười nói im bặt, sau đó là tiếng lạch bạch lăn từ trên võng xuống đất, thấy im re không có tiếng nổ, nhìn lại là trái mướp rơi. Quần áo anh nào cũng đầy bùn. Nhìn thấy HR ôm bụng cười, anh  em bu tới trét bùn vào HR để trả đủa (đúng là bộ đội ở đâu cũng đùa được, có vậy nó mới bớt căng thẳng phải không các bạn).
Sau đợt mưa dầm trời lại nắng ráo. Anh PHẠM  AN  LONG  thiếu úy CTV đại đội, quê ngòai Bắc, gần Hà Nội, vùng trồng nhiều rau xanh (có lẽ vùng Gia Lâm hay Phố Nối gì đó). Anh Long có giấy báo trúng tuyển vào ĐHBK Hà Nội, nhưng tình nguyện đi bộ đội chống Mỹ, sau đó biên chế về làm CTV C9 từ đầu đến giờ, hay lý luận nhưng vui vẻ, anh em ai cũng mến. Anh Long rất chu đáo, hành quân mệt nhọc như vậy mà anh còn mang theo cây kéo, thấy trời nắng ráo, hơn nữa cã tuần nay sau khi bị ta bắn hụt không thấy chúng đến khuấy rối nữa. Anh Long tổ chức cắt tóc cho anh em, lúc đó khòang hơn 03 giờ chiều. Hai Ruộng dẫn một tổ cắt rừng đi vòng phía đông bắc cách vị trí đóng quân từ 1km trở lại, không phát hiện gì, khi về  gần nơi đóng quân chừng 200 mét, có cây me sai trái, bèn trèo lên hái về nơi đóng quân để anh   em nấu canh chua  bắp chuối, nhìn thấy phía C bộ làn khói trắng tỏa lên khỏi ngọn xòai. Về đến Cbộ mình vào ngay nơi anh  em đang nấu cơm  khói tỏa mù mịt, mình mới bảo anh Minh văn thư sang B2 mượn cây búa về chẻ củi thật nhỏ để nấu bớt khói vì mấy ngày mưa củi ướt. Lúc nầy C bộ còn lại anh Long đang cắt tóc cho anh Ngọc, anh Dũng Ytá đang nằm trên võng đọc truyện, anh Tùng đang nấu cơm, Anh Xuân  C trưởng cùng với một A về Dbộ công tác, HR cũng đứng gần công sự của Anh Long.  Bổng nghe một tiếng nổ ở cự ly hơi xa giống như tiếng cối 82 đề ba, chưa  nghe tiếng hú nên chưa xuống công sự, mà đứng nhìn xem chúng bắn vào đâu, vừa nghe tiếng xọet một phát là ầm nổ chệch phía sau lưng cách mình khòang chưa tới 3mét, mãnh văng túa ra như những cục than hồng, cảm thấy rát lưng và tay phải, lấy tay quệt sau lưng có ít máu, tay phải thì bị ba nơi. Xoay lại thấy khói mịt mù, đuôi B40 còn cắm đất, chúng bắn một trái B40 hết tầm, đứng trong tán cây xòai nên nhìn không thấy đạn bay, mình cũng không nghỉ là nó bắn trúng Cbộ. Anh Long bị thương nặng nhất, kế đến là anh Tùng, rối đến Dũng Ytá  lũng phổi, rồi anh Ngọc, HR nhẹ nhất tay phải bị thương nhưng vẫn còn cử động được, chiếc võng của anh Minh văn thư gần đứt làm đôi, Minh thóat chết vì mình sai anh ta đi mượn búa bữa củi. Liền Sau đó hướng B1 anh Na bắn trả 01 quả B41 trúng vào nơi chúng vừa bắn ra (anh Na trèo lên cây nên nhìn thấy khói nơi chúng bắn ra). Mình lập tức bồng anh Long ra khỏi nơi đó vì sợ chúng bắn bồi thêm nữa. Sau đó, băng bó cho anh em bị thương, vì y tá cũng bị. Lúc nầy là khỏang 4 giờ chiều ngày 03 tháng 10 năm 1980. Tổ chức cáng thương về D4, tất cã bốn cáng, về gần đến cứ anh Long hy sinh.
Không được bỏ chốt, nên Hai Ruộng cùng hai  anh  em nữa ở lại giữ chốt gồm anh Minh cối và anh Bữu thông tin, máy thông tin phải ở lại để lại một khẩu súng cối 61, một khẩu M60, 01 B40, 03 Ak. Đêm đó chúng lãng vãng nhưng không dám mò vào. Đến 02 giờ sáng thì D4 chi viện lên.
Ngày hôm sau cánh tay bị thương của mình sưng to lên co không vào, nhưng sờ thử thì xương không bị gì, ngày sau nữa D bổ xung Ytá mới, cho mình uống vài viên thuốc lại hết , tiếp tục chiến đấu, nay mãnh B40 vẫn còn trong, rờ vẫn thấy (làm kỹ niệm).
Anh Long HY SINH là một mất mát lớn đối với anh em C9. Anh đễ lại cho anh  em hai câu thơ khắc trên nón cối của anh << Hơn người đâu ở đế vương – Hơn người ở chốn trăm đường  gian nan >>. Xin vĩnh biệt đồng chí và không bao giờ quên anh.
C9 vẫn tiếp tục trở lên làm nhiệm vụ chót chặn nơi ngã ba Đôn Bây nầy. Sau khi anh Long hy sinh C9 mới học được một bài học quí giá, trước kia nhắc nhở anh em không nghe, nhắc nhở nhiều anh em bảo chết nhác, sợ chết, từ vụ  ta ngồi gác để địch bắn trước, cho đến  phục kích  súng lại lép, đóng quân không giữ được bí mật cho đến cách bố trí chốt gác quá lộ liễu anh  Xuân mới chấn chỉnh lại. Khỏang một tuần, ở Hướng B2, một tốp địch mò vào (có lẻ tốp nầy chúng chưa biết quân ta đóng ở đây). Khi lọt vào chốt gác, anh Nguyễn Xuân Hậu diệt luôn hai tên đi đầu, mà tôi đã nói ở phần bài viết trên. Ta bố trí công sự gác sát bên đường đi, bí mật đào công sự trong lùm, ngụy trang khéo léo bên ngòai, nhìn vào không thấy, bên trong ta nhìn ra thì thấy địch, đường đổi gác làm theo cách làm đường chuột chạy, lá cây rừng quét sạch vì vậy ta có vận động bên trong, địch cũng không nghe được. Bố trí bên phải con đường, vì thường nhiều người thuận tay phải, cho nên ta bố trí bên phải con đường khi địch đi vào thì nòng súng của chúng thường chếch về tay trái , tức là nòng súng của chúng không hướng về phía ta. Nhưng tốp địch nầy vào thì tên đi đầu lại thuận tay trái , nên  nòng súng của chúng chỉa sát anh Hậu khi chúng đi qua chổ gác. Vì vậy anh Hâu mới để cho tên đi đầu đi qua khỏi, khi tên thứ hai vừa đến anh bắn gục tên thứ hai, sau đó mới quay lại bắn tên đi đầu.
Hai ruộng xin chào anh  em ! Hôm lính ta phục kích  khi địch lọt vào mà M60 chỉ nổ được 01 viên, đó là do mình chủ quan chưa  phổ biến kỹ càng về súng M60, chỉ nghĩ anh  em biết bắn là được.  Mình chỉ dẫn anh em đi đến chỗ phục kích, bố trí đội hình xong rồi về , vì biết địch cũng vài ba thằng là cùng. Cây súng M60 là loại súng của con nhà giàu, bắn nó nổ rất nhanh, đạn rất gom (không tản mát như AK) , nhưng rất khó bảo quản. Mình bố trí chổ đường cong để khẩu súng bắn dọc theo đường mòn là hết ý. Nhưng vì anh em vô ý khi luồn rừng, để khỏi vướng víu, lính ta mới quấn dây đạn xung quanh khẩu súng, khi bố trí đội hình phục kích xong thì quên không gở dây đạn ra, vì vậy chỉ nổ được một phát là đứt dây đạn. M60 rất khó tính, loại nầy bọn Mỹ trang bị trên xe, trên máy bay trực thăng, ở lô cốt khi bắn đạn phải mới, phải có thùng đạn và biết cách xếp đạn thì bắn mới không bị kẹt đạn. Nếu đánh vận động thì phải hai người, một xạ thủ, một mang theo thùng đạn. Còn bộ đội ta khi lấy được thì mang chỉ có dây đạn không theo người cho nhẹ không mang cã thùng, rồi hành quân năm tháng, lớp thì nước mưa, lớp thì mồ hôi đổ xuống, dây đạn bị rỉ sét, bắn bị kẹt là phải. Sau nầy để bắn nhanh anh  em mình chỉ lắp trên súng khoảng 50 viên thôi, hành  quân cũng gọn không phải quấn quanh súng, dây đạn nhẹ, bắn không kẹt. Khi nào bắn hết loạt đạn đầu rồi mới lắp thêm. Nhưng mà suy đi tính lại súng RPD của ta vẫn hơn, cứ mỗi nồi 100 viên, có nằm trên bải cát bắn cũng không bị kẹt. Còn M60 mà để dây đạn trên bãi cát thì khỏi bắn.
Vài hôm sau khi C9 diệt được 02 tên địch, tại ngã ba Đôn Bây. D4 ra lệnh cho trinh sát bám theo con đường củ về phía Tu Bi,  đi sâu về phía gần KOKI THOM, và Bố Sườn dẩn thêm C10 hành quân đến Đôn Bây. Ba ngày sau  Trinh sát về, báo phía KOKI THOM không phát hiện địch, nhưng khi về gần Ăng Te (ÂNTE) thì vô tình lọt vào cứ của địch, chúng đi đâu cả chỉ còn lại một tên vừa lững thửng đi từ trong cứ ra, súng AK vác trên vai, nòng súng  máng cái sô nhựa quảy tòn ten sau lưng, Trinh sát hô đứng lại định bắt sống, nhưng tên nầy bỏ chạy, Trinh sát nổ súng tiêu diệt thu vũ khí và nhanh chóng rút khỏi chỗ đó, vì vậy chưa xác định chính xác nơi nào. Bố Sườn quyết định dùng 02 C  vào lùng sục vùng Ăng te – Tu Bi. Chúng tôi hành quân bằng con đường từ Đôn Bây đến Tu Bi. Vừa đi vừa bám địch, vừa lùng sục. Đến Tu bi giải lao năm phút , sau đó tiếp tục hành quân, anh Phan Đình Du trinh sát D đi đầu, anh Du mang khẩu M79 với ba dây đạn vừa ra khỏi phum chừng trăm mét, bị chúng bắn tỉa một phát trúng vào dây đạn mang trên ngực xuyên vào vỏ đạn M79 nổ một trái, đầu đạn bay xuống đất quay vòng vòng không nổ, anh  em kè anh Du vào bên tronh áo còn bốc đầy khói, cởi áo ra, không sao cã, chỉ bị phỏng chút ít. Anh Du thóat chết trong gang tấc, sau đó theo đội hình tiếp tục bám tiếp. Khi đến cao điểm 75,  nằm giữa  hai phum Ăng Te và Tu Bi, chúng tôi phát hiện cứ của địch (cứ nầy chính là cứ của địch mà anh em trinh sát lạc vào)  chúng cũng ở khỏang hai ba chục tên. D4 tổ chức đánh ngay, diệt được vài tên chúng bỏ chạy, anh em thu được một khẩu RPD.  Bố Sườn ra lệnh đóng quân luôn tại cứ của chúng 03 ngày  và tổ chức phục kích tại chổ.
Vào thời điểm nầy đất nước ta tình hình kinh tế rất khó khăn, bị các thế lực thù địch bao vây cấm vận thiếu thốn đủ mọi bề, quần áo anh em cũng thiếu quân trang may bằng lọai vải thô mặc vài hôm là bạc trắng, để khỏi lộ mục tiêu  anh em phải lấy trái (mật nưa), mọc rất nhiều ở vùng nấy giả ra để nhuộm áo, vì vậy áo anh em cũng màu đen thui như là quân Pôn Pốt. Chúng tôi ở cứ của chúng vào ngày thứ hai khỏang chín giờ sáng, ở hướng C11, địch mò vào ngay chốt gác của anh Bảnh (không biết có đúng tên không, lâu quá sợ HR nhớ lầm). Anh Bảnh cũng mất cảnh giác (có ngủ  gục không thì mình không biết), địch đến vổ vai, lính ta giật mình điểm xạ luôn hai phát, tên địch bị thương vào bụng, miệng vẫn còn kêu ta bắn lầm, vì thấy anh lính của ta mặc áo đen  lại đội chiếc nón của quân Pôn Pốt. Tên nầy bị ta bắt sống, y tá ta băng bó vết thương cho hắn,  hắn chỉ khai hắn là trung đội trưởng, ngòai ra hắn không khai gì hết. Vì vết thương quá nặng, ngày hôm sau anh em cáng hắn về E tiền phương (lúc nầy Etiền phương đóng ở Đôn Bây), khi gần đến E tiền phương thì hắn chết. Ngày hôm sau trinh sát phục quân nơi cách cao điểm 75 khỏang 1km cũng diệt được hai tên. (Chính cao điểm 75 nầy là nơi bố Sườn tát tai một anh Trung đội trưởng vì để anh em bỏ gác ban ngày mà HR đã từng kễ ở trang 17).
Chúng tôi quần khắp nơi thêm vài ngày nữa cũng không phát hiện gì . Sau đó rút về C9 lại về Kra va. Nghỉ được khỏang một tuần, thì Trinh Sát E phối hợp với Trinh sát D4, nhận nhiệm vụ đi bám địch ở phía đông nam, Phum Svai chêk, vòng lên phum Veal Thom. kỳ nầy có HR đi, chúng tôi cắt rừng về phía phum Svai Chêk, cũng cơm vắt chấm  muối bột ngọt, vắt ăn ba ngày, đi không dấu nấu không ra khói, nói không ra tiếng (chỉ ra ám hiệu, truyền lệnh khe khẻ), những động tác nầy bây giờ đối với anh em đã quá thuần thục. Chúng tôi cắt rừng một buổi đến gần đầu phum Svai Chêk, đang ngồi nghỉ ăn cơm vắt  thì nghe tiếng đào đất. HR cùng anh Đức (B Trưởng Btrinh sát D) bám vào, khi đến con  suối, nơi đây rừng dây leo và tre rất đầy, không cắt rừng được, muốn đến nơi phát ra tiếng động, anh em chúng tôi phải bám theo hai bên bờ suối, mỗi người một bên, tôi nhè nhẹ lội qua suối bên kia, rồi hai anh em âm thầm bò về phía phát ra tiếng động, Chẳng may tôi đụng phải ổ con heo rừng, nó vừa chạy rầm rầm vừa học. Lúc đó phía mục tiêu có ba người đứng lên một nam khỏang 40 tuổi và hai nữ khỏang trên hai mươi tuổi, phát hiện hai chúng tôi đang bò theo suối, còn khỏang 7 mét tôi chong súng chạy thẳng vào, bắt tất cã đứng im và  dơ tay lên, anh Đức cũng chạy đến sau đó, chúng tôi lục sóat không phát hiện vũ khí, hai chúng tôi nghỉ họ là thường dân nên thả ra cho họ đi. Chúng tôi trở về đội hình và hành quân tiếp, băng qua nhánh suối cách đó chừng 100 mét, chúng tôi bắt gặp một tóan con gái khỏang 10 đứa đang gọt cũ nầng (lọai củ rừng lúc đó dân K cũng thường xuyên vào rừng lấy để cứu đói). Không thấy có vũ khí chúng tôi cũng bỏ qua. Đi một đọan gặp một tóan  thanh niên cũng khỏang 10 tên, đang vác chuối đi lên phía đổi, cũng không có vũ khí, chúng tôi cũng bỏ qua. Chúng tôi tiếp tục đi khỏang 500 mét thì Trinh Sát E bảo là  TS E  đã đến vị trí, sau đó TS Edừng lại, còn chúng tôi phải đi tiếp về phía Veal Thom, khỏang 20 phút sau chúng tôi đang tìm cách vượt qua trảng dây mắc cở tây, thì nghe phía sau lưng có nổ súng. Theo hợp đồng chúng tôi quay lại. Đến nơi TS E ngồi nghỉ thấy có dấu máu, và dấu chân anh em cắt về hướng tây bắc.  Chúng tôi về theo đường cũ , phát hiện vỏ đạn của địch vừa mới bắn. Chúng tôi đi đến tối thì tạm dừng văng võng ngũ lại. Gần năm giờ sáng nghe tiếng chim te te quạch kêu báo động, chúng tôi mò ra xem, thấy có tóan người chúng tôi nghi là TS E, sau đó phát ra ám hiệu chúng tôi nhận ra nhau. Trinh sát E đang cán hai cáng thương, anh Muốn TS E và một anh du kích bạn bị thương, anh Muốn bị nặng, rách bụng nhưng anh còn rất tỉnh. Chúng tôi lập tức cuốn võng cùng với TS E cán thương về, chúng tôi chạy đại theo đường mòn, không cắt rừng nữa vì thấy anh Muốn đang đau quoằn ọai , rất tội anh Muốn cắn răng chịu đau vì thấy anh em nóng lòng cán chạy trên đường mòn, sợ lại trúng mìn của địch hy sinh thêm nữa. Nhưng cũng may là về đến cứ của E không sau cã. Nhưng cũng hết sức đau buồn vì anh Muốn hy sinh khi về vừa đến cứ.
Sau nầy tôi và anh Đức gặp lại nhau, cã hai đều xác nhận. Chúng tôi đã thả nhầm địch, đó là bộ phận hậu cần của chúng chứ không phải là dân vì tên nào cũng nhìn chúng tôi với cặp mắt lắm lét, lúc đó chúng tôi chưa đủ kinh nghiệm để nhận thấy. Hơn nữa dân không ai dám có mặt ở khu đó. Một cái sai lầm nữa là cho dù họ là dân, chúng tôi cũng phải không để họ thấy (cũng vì tại con heo rừng). Chúng đã phát hiện rồi, nếu bắt cũng bắt không hết, khỏang một chục đứa con gái, thêm gần một chục thanh niên, dây đâu chúng tôi trói). Lần đầu tiên chúng tôi cảm thấy lúng túng khi không rỏ họ là địch hay dân.
Về cứ nghỉ vài hôm, chúng tôi được lệnh, dẫn D4 hành quân đến đánh vào phum Svai Chêk, vì nhận được tin nơi đó có địch.  chúng tôi đến điểm tập kết và theo hợp đồng thì 5giờ sáng nổ súng vào phum hoang. D4 chia làm ba cánh một chính diện, hai bọc hai bên sườn. Đại đội đặc công của E  bọc hậu, đúng giờ chúng tôi tiến vào phum, vào hơn nửa phum thì hướng chính diện nổ súng, cối 61 của C9 nổ ngay lập tức ba phát  bắn vào phum. Sau đó các C và C đặc công gọi cối 82 bắn chi viện. Bố Sườn phát hiện ra C đặc công gọi cối bắn vào vị trí  mũi chính diện, còn mũi chính diện gọi cối bắn vào vị trí Cđặc công. Sau đó hai bên bắt liên lạc với nhau thì quân ta đánh quân mình. Cuối cùng lỗi do Cđặc công, vì đợi lâu quá nên nóng lòng vận động vào phum cũng vì lính Cđặc công cũng có người nhuộm quần áo màu đen, nên mới nhìn thóang qua, mũi chính diện tưởng đâu là địch, vớt một lọat AK. Cđặc công trả lại một quả B40, may là chưa có bên nào thương vong.
Cũng chiều hôm đó lại đành nhầm một trận nữa, kỳ nầy C9  đánh nhầm C11. Khi vừa chuẩn bị qua suối bên kia là trảng trống từ phía đồi đối diện xuống. chúng tôi nhìn thấy có hai người mặc áo đen mang bình ton đi xuống suối, chúng tôi chờ đến khi nào còn vài ba mét mới bắn, nhưng cũng rất may. Còn cách chúng tôi 100 mét tự nhiên hai người dừng lại rối đổi hướng đi, thấy vậy anh Xuân ra lệnh bắn đi, một trái B40 khai hỏa và gần mười khẩu AK tiếp theo. Nhờ cự ly xa nên hai anh chỉ bị thương nhẹ do B40, khi nghe bắn hai anh dạt ra hai bên B40 nổ ở giữa.  C9 lập tức bắn hai phát cối lên đội hình C11, sau đó hô xung phong. C11 nhận biết, hô xung phong trở lại để hai bên nhận ra nhau. Đúng là cái ngày sui thật. Chuyện thật giống như đùa, không biết các đơn vị của các bạn có từng đánh lầm nhau chưa.
Đọc bài bác hai ruộng viết bài mà tôi cứ nổi gai ốc .... Những trận đánh, những địa danh, những đồng đội cũ, những kỷ niệm 1 thời trai trẻ cứ như mới xảy ra hôm qua !
Khi ở khu vực TUP PI - AMTE bọn em nằm ở hướng bắc, có 1 khu rừng toàn chuối xem kẽ những cây cầy cao vút. Tối gác, heo rừng ra ủi tìm hạt cây cầy, nhai lạo xạo thấy ớn óc luôn. Võng mắc phải chằng vào 2 ba thân chuối mỗi đầu mà nằm cũng bị chùng xuống sát đất, bộ đội "sạch" đến độ heo rừng ủi vào tới đầu võng luôn, những con ve như con ve chó từ heo rừng ra bu cắn vào chỗ nào có lông trên người, đến khi mưng mủ rồi mới biết, bắt nó đi rồi, ngứa cả vài năm....Anh Muôn TS E747 (bác nhắc em mới nhớ tên), nhập ngũ từ 75-76, là 1 TS rất lỳ, lúc nào cũng nhận nhiệm vụ đi trước cắt đường cho đội hình và cũng rất ba gai với xếp nào "chết nhát", nói chuyện là đệm liên tục, nhưng chơi với anh em như 1 người anh. Nghe nói anh ấy mồ côi, dân thiếu sinh quân ở chiến khu. Anh Muôn dính trái KP2, dù đã phát hiện ra nó !!!... thế mới đau . Tuần sau, bữa nào bác rảnh, AE mình họp tí đi bác . Số DT em đã PM cho bác rồi đó. Em lang thang trên mạng, thấy và đọc QSVN cũng nhiều bài, nhưng thấy ít nhắc tới F317 và E747, nên nhào vào thành viên luôn. Có bác tham chiến ác liệt, em mừng lắm đấy.
Bản đồ 1:250.000 có các địa danh Krava, Ante, VealThom

Hai RUỘNG ĐÂY ! Ăng kokrao ơi. Anh MUỐN TS E không phải hy sinh vì KP2, mà lúc khi qua khỏi suối, TS E bảo là đã đến vị trí nên nghỉ ở lại, lúc đó tụi mình lại đi tiếp về phía phum Veal Thom. Khi TS E vừa ngồi nghỉ lại một lát thì bọn địch mà anh em TS D4 và cã HR vừa mới thả ra (tưởng là dân), chúng bám theo đuôi và bắn vào đội hình TSE đang ngồi nghỉ giải lao. Anh Muốn và thêm một du kích bạn bị thương. Như mình đã nói ở trên. Mình đang viết tiếp (kỹ niệm 30 năm .....). có nhiều trận đánh khi viết rồi mình mới thấy còn sót lại. Số liên lạc của mình đây (ót - pràm buôn - ót - bây - pràm mui - pràm buôn - prạm - prạm - buôn - pram). Ăng KO KRAO  sđắp ban tê ?
Hai Ruộng xin chào các bạn !
Sau chiến dịch đánh vào phum Svai chếk , chúng tôi lại rút về Kra VA. Nghỉ được vài hôm TS D4 lại nhận nhiệm vụ đi trinh sát về phía đông nam từ phum Kra Va  và có cã Hai Ruộng đi, chúng tôi đi một buổi cắt rừng đi qua khu vực bàu nước, gặp một đàn chim, con nào con nấy rất to lông màu xám, đi khỏang 2km nghe hai trái M79 nổ về phía sau lưng, chúng tôi tiếp tục đi đến vùng có đất có đặc tính thổ nhưỡng giống như vùng Định Quán, đất đỏ đậm có những hòn đá ong  lồi lên trên mặt đất, nơi đây cũng có nhiều vườn cây mảng cầu (quả na) giống như vùng Định Qúan của ta , phum nầy rất trù phú. Chúng tôi nghỉ giải lao một tý thì bắt được liên lạc với anh em F 302, từ phía Kam Pong Chàm lùng sục qua, hai phát M79 do anh  em F302 bắn. Sau đó chúng tôi hành quân về báo cáo D4 không phát hiện địch.  Một hai ngày sau D4 được lệnh hành quân 3C về hướng lộ 7 , gồm C9, C11, C12 (hỏa lực, một khẩu cối 82 và một khẩu đại liên có hai bánh xe karinớp). Cắt rừng ra chúng tôi đụng phum Srâlau Tong. Sau đó đóng quân dọc theo lộ 7.  Chốt đường cho Bộ chỉ Huy Mặt Trận hành quân về phía Kam pong Chàm. Đòan xe có M113 đi đầu vừa chạy vừa bắn đại liên 50 thị uy. (Đọan nầy trước đây đã từng bị địch phục kích bắn cháy một đòan xe quân sự của ta còn bỏ lại bên đường  5, 6 chiếc.  C9 đóng quân  bên khu rừng  đối diện phum. Vùng nầy nước giếng màu đen đen. Khi đòan xe đi qua, chúng tôi hành quân về phum Sralau Tong, thì phát hiện bải đất hết sức khủng khiếp. Một khu vườn khỏang nữa mẩu đất đầy xương người, xương  người chất chồng trong 6- 7 cái giếng nước, chính vì vậy mà nước giếng xung quanh đây đều có màu đen đen. Trong khu vườn đó ta không thể nào đi mà không đạp lên xương người được, xương đầu lâu rãi rác như gáo dừa bên trong còn chất màu trắng nhão như đất sét, ở những giếng nước, đống xương chất chồng lên cã miệng giếng còn cã quần áo, còn cã lớp da thịt bầy nhầy màu trăng trắng . Lúc nầy chúng tôi đã trở thành những người lính dạn dày kinh nghiệm mà nhìn thấy vẫn còn xởn gai óc, nổi da gà. Đó là dấu tích diệt chủng còn để lại. Đóng quân ở đó vài ngày chúng tôi hỏi thăm những người dân họ kễ rằng: << Đầu tiên  bọn lính Pôn Pốt bắt dân vùng đó đào giếng, mỗi giếng sâu 6-7 mét cho đến khi có nước. Sau đó ban đêm chúng đưa máy phát điện đến, rồi mắc đèn pha trên miệng giếng làm sao cho bị chói đèn không nhìn thấy miệng giếng, đồng thời cho loa phát thanh mở nhạc inh ỏi . Sau đó chúng dùng xe cam nhông lọai dùng chở đất ben thùng xe lên được. Không biết chúng chở từ đâu tới, một đêm sáu  bảy xe chở đầy ắp người  bị trói dính chùm lại với nhau  trên xe. Chúng cho xe lùi tới miệng giếng, chúng ben thùng xe lên, thế là người trên xe rơi xuống giếng, hết xe nầy đến xe khác, khi nào đầy giếng, chúng dùng cuốc đập đầu những người trên cùng chết, đè những người bên dưới chết theo. những người đã rơi xuống giếng rồi chưa chết ngay có khóc than  những người ở xe sau cũng không nghe được vì chúng mở loa phát ra tiếng nhạc át cã tiếng rên la của nạn nhân >> .  Đúng là kiểu giết người man rợ nhất trên lịch sữ nhân lọai ở thế kỹ nầy.
Như vậy mà khi bộ đội ta đánh sụp đổ chế độ nầy, khi chúng đã tàn hơi lại có những  nước, những thế lực bênh vực, giúp đở, chi viện  mong cho chúng hồi sinh, trong đó có những nước những thế lực  mà ngày nay họ đang lớn tiếng đòi bênh vực Tự Do, Nhân Quyền cho thế giới. Vì vậy cho nên họ lơ là đối với phiên tòa Quốc Tế  để sử tội ác diệt chủng  tại Kam BoDia vừa qua. Đó là chuyện hết sức dễ hiễu.
Sau khi ở đây vài ngày chúng tôi hành quân vượt qua cây cầu sắt  ranh giới Kam pong Chàm  và hành quân lùng sục phía nam lộ 7 vùng đồn điền cao su có cã đường băng sân bay nhỏ trong đồn điền. Các bạn nhìn vào hình chụp từ vệ tinh vẫn còn nhìn thấy đó là PHUMI CHÂM KAR CAOUT CHOUC (Tên phum nầy đọc theo âm của tiếng Pháp có nghĩa là phum vườn cao su).  Nơi đây nhân dân bạn trồng rất nhiều đậu xanh, bộ đội mang gạo đổi đậu xanh, lúc đầu ăn thấy ngon. Sau đó hậu cần thấy đậu rẻ hơn gạo bèn đổi 01 tháng gạo lấy đậu cho anh  em ăn. Ăn được vài hôm thấy ngon, sau đó là ngán, rồi đến sợ luôn món cơm độn đậu xanh.
Chiến dịch kéo dài gần nữa tháng không đụng địch. Sau đó chúng tôi bắt đầu hành quân về lại Kra Va. Chúng tôi lại bắt đầu tiếp tục quần nát khu vực Ăng te, Tu bi, Koki Thom, vv… Trong D4 lúc nầy anh em bị sốt rét trầm trọng, có những chiến sỹ bị sốt ác tính đang nằm phục kích gần cứ địch đột nhiên  lên cơn sốt mê sản la hét om sòm, đơn vị phải bắt đưa về bệnh xá ngay. Cã D4 không còn một ai là không bị sốt rét, sốt đến nổi nằm trên võng ói liên tục, ói ra cã mật xanh. Trong rừng thì mìn lỡm ngỡm, E ra lệnh cấm tất cã các đơn vị hành quân trên đường mòn. đi đâu cũng phải cắt rừng, đi đường nầy về đường khác. Nếu đơn vị nào để anh  em hy sinh trên đường mòn thì thủ trưởng đơn vị đó phải chịu kỹ luật.
Trình độ phát hiện mìn của anh em cũng nâng lên, khi đi đến vùng cỏ cao ngã qua ngã lại thì chú ý mìn gài dây (mìn vướng) khi ta lấy tay vạch cây ra để bước là sẽ bị nổ, còn vùng có vũng nước, cát mịn, cây ngã ngang đường thường có mìn đạp, khi ta bước qua cây ngã, vì chúng rào hết chướng ngại vật chỉ còn một chổ để ta bước qua, đi theo đường mà gặp cây to cạnh đường hoặc nơi có dấu vết đặc biệt, nơi đó thường có mìn (vì chúng gài rồi chúng cũng phải nhớ chổ để chúng tránh và chúng còn trở lại để gở lên nữa chứ). Còn nơi đất thịt, đất dẻ không có dấu hiệu đào xới dứt khóat chỗ đó không có mìn  được. Trinh Sát chúng tôi khi đi thì sắn cao quần lên đến đùi, tay áo sắn sát lên  gần đến nách, có như vậy thì nhờ lớp da của mình khi vướn dây mìn ta có cảm giác, còn nếu mặc quần dài ống thì làm sao có cảm giác được, nón mềm đội quay lưỡi trai về phía sau  để tầm nhìn được rộng, nhiều anh còn quấn thêm chiếc khăn cà ma lên đầu. Vì vậy khi bất ngờ địch chạm trinh sát chúng tôi, chúng còn đang ngơ ngác thì đã bị chúng tôi tiêu diệt rồi.
Trình độ gài mìn của địch cũng phát triển không thua kém gì trình độ phát hiện mìn của ta. Sau nầy khi gài mìn vướng, chúng kéo lọai cỏ cao, đan qua đan lại một khỏang đường rồi mới gài mìn , để khi ta vạch đường mệt chán không thấy gì sau đó đi ẩu sẽ dính. Chúng lấy dây kẻm xỏ vào giữa ống cọng cỏ rồi sau đó mới gài, ta chỉ phát hiện thấy cọng cỏ chứ không phát hiện thấy dây mìn, khi lấy tay gạt cọng cỏ thấy vướng vướng nhìn kỹ xuống bụi cỏ mới thấy mìn, nếu rừng già thì chúng dùng luôn dây leo. Còn mín đạp sau nhiều lần bị ta phát hiện chúng cũng thay đổi cách gài. Chúng lựa nơi đất thịt khéo léo khét một lỗ vừa bằng trái mìn KP2 nhỏ hơn lon sửa bò một tý , sau đó đặt trái mìn vào, lắp đất lại nếu để không như vậy ta sẽ phát hiện dấu đào đất và sẽ phát hiện mìn ngay, chúng mới lấy chỉ một lá cây thôi đậy lại để che lên chổ đất đào và che luôn ngòi mìn, sau đó bẻ gai rừng ghim lá xuống đất không cho gió bay chiếc lá. Anh em ta vô tình đạp lên chiếc lá là dính mìn chết ngay đâu có còn phổ biến kinh nghiệm cho người sau. Chúng tôi phát hiện được cách gài mìn nầy do tình cờ khi ngồi giải lao ở đọan đường gần Ăng Te, anh em nhìn thấy chiếc lá tự nhiên trong rừng không biết có ai đó bẻ cây gai ghim chiếc lá vào đất, tò mò anh em nhè nhẹ gở chiếc lá ra  mới nhìn thấy ngòi trái mìn KP2. Từ đó chúng tôi không đi đạp trên một chiếc lá rơi cho đến khi E ra lệnh cấm đi trên đường mòn.
Sau đó D4 bố trí C9 sang đóng quân ở phum Liêu, ở đây đánh một trận.  Sau đó qua Bac Sa Na. Bắt đầu áp dụng chiến thuật đánh du kích, ta rải quân khắp rừng  từng trung đội xen kẽ với địch.
Gần một năm quần nhau với địch, tinh thần bọn chúng sa sút rất nhiều, chúng  từ chổ mang quân vây đánh quân ta ở phum (hồi còn một D tỉnh đội ĐN), sau một năm E747 về đây họat động, căn cứ của chúng cũng không còn, vùng ngày xưa chúng cho là bất khả xâm phạm thì nay E747 đã quần nát, đâu đâu cũng có dấu chân bộ đội E747. Chúng phải xé lẽ.  Một số bị tiêu diệt, một số mất tinh thần bỏ ra hàng, một số không còn tinh thần chiến đấu, gặp ta đánh là nhanh chân chạy. Vì vậy E thay đổi cách đánh cho bộ đội  chuyển sang đánh du kích. E cho trinh sát E cùng trinh sát D cứ cử ra một hai anh trinh sát về phối hợp dẫn đường cho một B bộ binh rải ra khắp rừng, tìm nơi có nước, tìm nơi có lương thực mà vừa đóng quân, vừa phục kích đánh địch. Nếu phát hiện chúng đông thì điều quân đến đánh. E còn có một đại đội đặc công, quần nhau suốt với địch ở trong khu vực nầy và đã đánh nhiều trận, diệt nhiều tên (đại đội đặc công nầy được tuyển chọn từ các C bộ binh ở các D, C9 có hai anh, anh Đức Định (An Nhơn Gò Vấp) và anh Trung cũng là sv con của phó Gíam Đốc VIKIMCO (nghe nói thôi không biết có đúng không). Kết hợp với lối đánh hiểm truyền thống của E do các đồng chí chỉ huy có nhiều kinh nghiệm từ thời chống Mỹ truyền lại, đó là đợi địch đến thật gần  vài ba mét rồi mới bắn. Xạ thủ B40 đứng lên bắn cắm ghim xuống đất phía trước địch cách đội hình chúng khỏang 2mét và B40 chỉ bắn ở cự ly 7 mét đến 10 mét.  Áp dụng cách đánh nầy mà anh Định (C đặc công) đã bắn một tên cũng cở chỉ huy cấp lớn của địch một quả B41 sau khi tiếp cận mục tiêu chỉ còn sáu bảy mét tên nầy gần như đứt làm đôi. Anh em chúng tôi phục kích cũng vậy, đợi khi chúng đến thật gần B40 khai hỏa trước rồi AK, sau đó xung phong lên lấy súng và rút nhanh khỏi trận địa. Anh  em quen bắn ở cự ly gần đến nổi  một anh Trinh Sát E (tôi đã quên tên) sau khi bắn một phát B40 xong, anh em nổ súng rồi rút nhanh chóng khi kiểm tra lại thấy mất một người, sau đó anh em nhanh chóng trở lại nơi đánh thấy anh xạ thủ B40 nằm gục đầu trên súng, xem lại anh hy sinh do mãnh đạn chính là hạt nổ của quả đạn B40 do anh bắn ra ở cự ly quá gần  hạt nổ văng ngược lại trúng ngay giữa trán va hy sinh.
Cứ với cách đánh như vậy mà các Bthay phiên nhau, B nầy đi thì Bkia nghĩ.  Lương thực của anh em chúng tôi cũng chẵng có gì mới lạ ngòai  cơm vắt  chấm múôi, ăn được hai ba ngày sau đó là ăn gạo rang (gạo đem ngâm nước cho mềm sau đó rang cho vàng, xin thêm một tý đường thốt nốt ngào vào thành cốm, khi ăn hết cơm vắt rồi thì ngậm lọai lương thực đó. Cứ như vậy mà đi sâu vào nơi phát hiện dấu vết địch hoặc sát cứ địch mà nằm phục kích, anh em mài lưỡi lê cho thật bén rồi một tay nắm chặt cành cây tay kia  xắng dao xuống cho đứt êm ru không hề gây ra tiếng động để cắm ngụy trang nơi phục kích ( vì chặt cây sẽ gây tiếng động địch sẽ hay). Nằm phục như vậy có khi ba bốn ngày địch mới ra. Bắn xong là rút chạy về  ngay. Chính cách đánh nầy của E đề ra mà chúng phải bỏ vùng Ba Rài  rút chạy đi nơi khác. Một số ra đầu hàng.
Cách đánh nầy anh em ta cũng hết sức hao mòn sức khỏe, chỉ nằm tại chổ như con ốc, gậm cơm vắt, rồi gạo rang  vài ba ngày, anh em phải thò tay bứt lá vang mọc xung quanh vị trí phục kích mà nhai cho mát ruột. Cách đánh nầy chỉ có bộ đội ta mới đủ kiên nhẩn để thực hiện nổi mà thôi. Vừa đánh du kích như vậy, nhưng nếu phát hiện địch tập trung là huy động quân sẳn sàng vận động đi đánh ngay, lúc chúng tôi đang đóng quân ở Bacsana. thì C đặc công E phát hiện được một căn cứ của chúng gần capong Kràbây và tổ chức đánh tiêu diệt được vài tên, chúng bỏ chạy, sau đó anh em xung phong vào chiếm cứ, gặp một tên địch (nữ) đang nằm thoi thóp trên giường bệnh, anh em ta không nở hạ sát bèn bỏ đi , vừa mới quay mặt ra  thì bị đánh một trái lựu đạn, anh Định và anh Trung bị thương, phải khiêng về cứ. C9 chúng tôi được lệnh của E vào ngay nơi ấy để tiếp tục truy đuổi. Khi đi ngang đội hình cáng thương chúng tôi chỉ kịp nhận ra hai anh, chia tay chúc anh mau bình phục rồi lại tiếp tục đi ngược về phía địch, đến nơi thì chúng cũng đã mất dấu, lùng sục một buổi không thấy chúng tôi về lại Bac sa na.
Với lối đánh nầy được khỏang vài ba tháng, tinh thần của địch đã sa sút rồi cang thêm sa sút  địch ra hàng rất nhiều, nhưng chúng chủ yếu ra hàng với lực lượng du kích bạn, có lần chúng mang cã khẩu 12ly8 ra hàng du kích. Sau khi anh Muốn TS E hy sinh vài tháng sau thì chúng tôi nhận được tin E thông báo có mười một, hay mười hai cô nữ Pôn Pốt ra đầu hàng đầu tiên ở phum của E đóng quân. không biết có phải mười hai cô nầy chúng tôi đã bắt gặp khi đang ngồi gọt củ nầng hay không ? Khi chúng tôi đi trinh sát ở vùng gần nơi đó (phum Svai chêk, mà tôi đã kễ ở trang trước ).
Một lần nữa khi C11 đánh vào cứ gần phum TUBI khi chiếm cứ cũng bắt gặp một bệnh binh nữ của Pôn Pốt sắp chết đang nằm thoi thóp trên giường, chỉ còn da bọc xương, kiến bu đầy người (đồng đội họ đã bỏ họ lại khi bỏ chạy) đang nhắm mắt, khi anh em đến đứng  nhìn thì cô ta mở mắt ra thấy bộ đội, cô vội nhắm mắt lại. Bộ đội mình bỏ đi không nở sát hại  để lại cho họ đến lấy, nhưng vài ngày sau trinh sát trở lại thì thấy cô ta đã chết.
Như vậy không phải một lần mà hai ba lần, anh em ta gặp kẽ thù khi chúng không có súng trong tay, anh em ta không nở bắn. Một lần gặp cã nam lẫn nữ gần 15 – 16 tên, anh em tôi không bắn vì sợ rủi lầm nhầm dân vì lúc đó họ không có súng, cuối cùng anh Muốn phải hy sinh. Lần thứ hai gặp nữ bệnh nhân nằm thoi thóp sắp chết, hai anh đặc công không nở bắn, cuối cùng bị ném quả lựu đạn. Một lần chúng tôi để lại người bệnh sắp chết cho đồng đội chúng đến lấy đi để cứu chữa, nhưng chúng không lấy để chết nơi cứ hoang. Các bạn đọc đến đây chắc các bạn sẽ thắc mắc  tại sao lại có chuyện như vậy. Chuyện rất khó tin nhưng có thật, những nhân chứng nầy đều còn sống và hiện đang ở TP HCM cã.
Chúng tôi hầu hết là học sinh sinh viên và tình nguyện ra mặt trận khi nhìn thấy quân thù  vượt qua biên giới, tàn sát nhân dân đồng bào mình từ già đến trẻ, phụ nữ chúng hãm hiếp xong rồi giết, trẻ con chúng chẻ làm đôi. Lòng căm thù giặc khiến chúng tôi phải xếp bút nghiêng  tình nguyện lên đường ra mặt trận, thế nhưng tại sao khi đứng trước kẽ thù đã từng tàn sát đồng bào mình, khi chúng không còn khả năng tàn ác, không còn vũ khí trong tay, chúng tôi lại yếu mềm, tha thứ cho chúng. Đó là vì chúng tôi là người  << VIỆT NAM>> , một dân tộc có dòng máu hiền hòa  yêu lẽ sống. HR còn nhớ lại khi tình nguyên đi bộ đội phải dấu gia đình vì sợ má không cho đi, đến khi gần sang K chiến đấu thì HR trốn đơn vị về cho má hay. Mình cũng không ngờ má mình nói chỉ một câu mà mình nhớ mãi (dù bà chỉ biết đọc biết viết chứ không có học như anh em mình) : << Má đẻ ra con từ còn đỏ hỏn, một con kiến cắn con má cũng đau lòng, bây giờ con lớn làm trai, nhiệm vụ đối với đất nước con phải đi, trước làn tên mũi đạn, má lo lắm. Má chỉ dặn con một điều, khi cầm súng trong tay, làm gì con cũng phải giữ lấy lòng nhân đạo >>. Má tôi hiền hòa chất phác như vậy đó. Sau đó tôi từ giã má tôi lên đường về đơn vị. Theo tôi đó  cũng là một bản chất chung của QĐNDVIỆT NAM.
HR đã nhìn thấy tấm ảnh của khẩu đội Ăng co krao chụp ở phum Ăng co krao. Lúc mới lên nhận nhiệm vụ ở Siêm Riệp. Mình có đánh một trận tại cuối phum Ăng co krao ngay ở đập nước. Hai B (B1 B2 đi phía Nam con suối,  B3 đi phía bắc con suối. Mình đi đến nhà cuối phum dừng lại đó chờ B3 bên kia đi lên. Lúc đó, B trưởng B1 (Cao Tài Thơi) đi ra khoảng đất trống phía bên đập nước, thì bị bọn địch nằm ở hàng cây bờ đập bên kia bắn cho một loạt cày tung đất, anh Thơi nhà ta nhảy lưng tưng như con khỉ, không trúng viên nào. Lúc đó mình B trưởng B2, vác cây M60 vòng theo bờ đất vận động đến đầu bờ đập, thấy chúng đang chạy cách 200m  vớt cho một loạt, chúng chạy mất tiêu. B3 vòng lên chưa kịp. Ta và địch vô sự. Đánh xong cho anh em nấu cơm trưa ăn rồi về phum Cô Bên (lúc nầy C9 đang đóng tại đó còn E 747 hình như đóng ở cầu đá, hay ở đâu đó mình cũng chưa rõ)  Đễ lần lần mình sẽ viết đến đó, cho đến khi lên núi Hồng rồi về khum Péc sa Neng, rồi lên phum Cà Tin, phum Trúp. Sau cùng là rút về phum Pênh thơ mây, lúc nầy mình được gọi về Phum Fluông (cứ E dời về đây) giải quyết chính sách để về tiếp tục học ĐH, trước khi về hai ngày tại phum Pênh thơ mây, mình còn dẫn hai anh em với mình là ba người vận động cắt rừng đi theo đường tắt bắt sống được một tên nộp cho Trung Đoàn, khi bọn nầy vừa tập kích bằng B40 và AK vào B của mình làm một chiến sỹ mới (Con Cuông Hà Tỉnh) bị thương ..
Như vây là từ mùa mưa năm trước cho đến bắt đầu mùa khô thứ hai, gần hai năm máu và mồ hôi của anh  em E747, cùng với anh  em du kích bạn (sau nầy du kích của bạn đánh cũng rất nhiệt tình), đã đổ xuống vùng Ba Rài. Nhân dân nơi đây đã có dấu hiệu hồi sinh, những đêm trăng sáng, đâu đó đã bắt đầu vang lên tiếng trống Lâm Thôn, rộn rã. Bóng dáng địch đã xa dần, rồi không còn nữa.  Một C của D4, hành quân từ KraVa băng qua vùng Tu Bi – Ăng Te – Koki thom (vùng mà anh em E747 gọi là <<Tấp bi – Anh tè .. . Bây giờ mà gặp mấy anh em đào ngũ mà nhắc đến vùng nầy có khi còn rởn tóc gáy) – chúng tôi qua tận Băng La Via bắt tay với F310, rồi trở về không phát hiện dấu vết gì  của địch. Chúng tôi đóng ở phum Bac Sa Na, 03 anh em chúng tôi ban đêm mang đèn đi săn thỏ, đi sâu về hướng đông, dọc theo sông Chi Nít, vào tận gần phum hoang (trước kia mà vào vùng nầy địch sẽ bắt sống chúng tôi ngay). Như vây F517 của địch buộc lòng phải  bỏ vùng họat động nầy. Sau nầy D4 còn đánh tập kích vào cứ Trung đòan bộ của địch gần phum Đôn Kđa, phía bên kia sông Chi Nít, gần đường lên múi Chi. Tin tức do E khai thác từ hàng binh (tham mưu phó trung đòan của địch), cuộc tập kích thành công lớn (trận nầy HR bị sốt rét nặng không có tham gia).
Sau một vài tuần dưỡng quân và bổ xung quân mới (bổ xung lần thứ hai từ khi sang k). Chúng tôi chuẩn bị hành quân lên vùng núi Chi. Đánh núi Chi lần này lực lượng du kích bạn tham gia cũng rất đông. Lúc nầy gần mùa đông vùng núi Chi rất lạnh, chúng tôi được lệnh phải mang theo áo trấn thủ. Sau đó bắt đầu hành quân  về phía Bắc, đến phum Cong pong Sđách, chúng tôi vượt sông bằng xuồng độc mộc. Sau khi vượt sông chúng tôi dừng quân ban đêm tại khu rừng lớn  sát bờ sông Chi Nít, dù là cán bộ B nhưng tôi vẫn gác cùng anh em vì B chỉ có bảy tám người thôi. Tôi bố trí chốt gác dọc theo đường mòn, khỏang chín giờ tối đang ngồi im bất động để quan sát, tôi còn nhớ đêm nay trăng rất sáng, ánh trăng xuyên qua khỏang trống  của tán rừng, rọi trên đường mòn  một bóng trăng  to bằng  mịêng giếng. Ở bóng trăng, một chú thỏ rừng hiện ra, sau khi ngó quanh quất thăm dò động tịnh, thấy an tòan, chú ta bắt đầu nhảy múa, sau đó một đàn bốn năm con lần lượt bước ra nơi có bóng trăng, cã đàn dựng hai chân trước lên ngắm trăng mà nhảy múa. Tôi ngồi lặng im thưởng thức vẽ đẹp sân khấu thiên nhiên của núi rừng. Một lát sau tôi cựa mình thấy động tỉnh, cã đàn biến mất trong nháy mắt (tôi lẩm bẩm “ồ ! thỏ giởn trăng”).  Sau hai ba ngày hành quân bộ hết đường mòn rồi lại băng rừng, vượt sông Chi Nít. Sau nầy nơi đây công binh bắt chiếc cầu vượt sông bằng bốn cây rừng mà xe Din có thể qua được. Vừa đi vừa dò mìn. Đến một phum hoang nằm ở chân phia nam ngọn núi cạnh bên bàu nước nằm ở phía đông phum. Nơi đây rất nhiều thú hoang như trâu rừng, nai, heo rừng, mễn vv. Vùng nầy lạnh còn hơn ở Đà Lạt. Chúng tôi mặc áo trấn thủ, rồi phải quấn thêm tấm ca su để ngồi gác mà vẫn lạnh buốt. Về võng nằm ngủ phải đốt lữa bên dưới võng mới ngũ được, có vài anh em ngũ quên đã bị cháy võng. Ngày hôm sau khi đi lùng sục xung quanh vị trí đóng quân chúng tôi săn được một con trâu rừng rất to. Mỗi B một cái đùi to tướng, bù lại những tháng ngày ăn cơm muối. Bộ lòng anh nuôi đại đội (anh Hường, ở Thị Nghè, nhỏ con anh em thường gọi là Văn Hường vì anh hay ca vọng cổ) nấu cho một nồi cháo, cã C ăn không hết (C khỏang 30 anh em). Có đại đội không cần đi săn, tới giếng nước là đã gặp heo rừng rớt xuống giếng.
Một vài ngày sau D4 hành quân qua bàu nước, đến bờ sông ở phía đông và tổ chức bơi vũ trang qua sông  sông đọan nầy tương đối sâu ngập đầu. Khi D4 vừa qua hết bên kia sông, mới bắt đầu hành quân là bị địch nổ súng trước, chúng bắn một lọat vào đội hình trinh sát đi đầu nhưng không trúng ai. Sau đó chúng tôi nhanh chóng truy đuổi chúng, chúng tôi hành quân lùng sục về hướng Đông, vượt qua thêm vài nhánh suối nhỏ, rồi đến con suối lớn, sau đó đi dọc theo suối, phát hiện cứ địch vừa bỏ chạy, chúng tôi đóng lại cứ của chúng mấy ngày, chia nhiều cánh đi lùng sục xung quanh nhưng cũng không gặp địch. Khi hành quân qua suối nước ngập ngang ngực xảy ra chuyện anh em phải ôm bụng cười. C9 có anh Thanh B trưởng B2 (người mà từng đánh trái lựu đạn vào công sự địch để cứu lấy khẩu 12ly , anh nầy lùn quá cở, khi hành quân trong rừng anh em phải chui khom cã người vô cùng vất vả, thì anh Thanh cười tụi bây coi tao nè << ẻn , chui qua cây không cần phải khom>> , đến khi qua suối trinh sát đi đầu nước chỉ ngập ngang ngực nên không cần phải truyền lệnh tháo súng ống đạn dược để bơi vũ trang, anh Thanh cũng không tháo bao xe đạn, đến khi qua giữa suối, mọi người chỉ ngập ngang ngực còn anh Thanh ngập lút đầu, vì không tháo đạn nên bơi không nổi, uống nước suối chỉ còn cái chóp nón cối thụt lên thụt xuống . Bố Sườn bảo đứa nào ở gần đó kéo nó lên, anh em để cho uống thêm vài ngụm nữa mới kéo lên theo luật bù trừ).  Ở lại vài ngày nữa sau đó D4 rút về lại phum ban đầu nằm dưới chân núi Chi. Khi hành quân về tôi lại lên cơn sốt mảnh liệt, bước lê từng bước, chân nặng trịch, có cảm giác như bước qua dây rừng  nhưng khi bước qua lại vướng té  rối lại đứng lên đi tiếp, lần lần tôi rớt lại đội hình lúc nào không biết, chỉ còn anh Nam Khẩu đội trưởng cối  còn ở lại theo dìu tôi đi, hai chúng tôi thụt lại đội hình  hai ba cây số  lần theo dấu mòn mà về. Chúng tôi người nào cũng chừa lại cho mình một quả lựu đạn da láng, đường cùng thì cưa quyết không để cho chúng bắt sống, nhưng rất may là chúng không dám bám theo đội hình ta.  Chiều tối chúng tôi cũng về kịp với anh em. Đơn vị định đi tím chúng tôi. Chúng tôi đóng quân ở đây khỏang 10 ngày. Vài ngày sau địch ra hàng rất đông ở bên D5 hay D6 gì đó (tôi quên mất). Hàng binh đi sắp hàng lũ lượt đi qua vị trí đóng quân của chúng tôi để về thị trấn (khỏang vài trăm tên). Sau đó chúng tôi rút về  phum Kra Va. Chuẩn bị chiến dịch khác. Hai ruộng xin có vài lời với các bạn trẻ.
Thời chinh chiến của chúng tôi đã qua 30 năm đến bây giờ các bạn trẻ sẽ không biết được trước đây không có Inter net, các bạn thêm mù tịt thông tin, nhưng khi có mạng, một số ít người  sống ở nuớc ngòai thay gì chung tay góp sức để cùng nhau xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng giàu đẹp. Thì họ lại có thái độ hằn học  như một số bài tôi đọc được từ nước ngòai, họ ngồi bên kia để tưởng tượng để xuyên tạc sự thật. Họ cho rằng Bộ đội Việt Nam xâm lược Kam pu Chia. Nếu các bạn theo dõi những bài viết của chúng tôi các bạn sẽ thấy thành quả mà anh em bộ đội chúng ta đổi bằng xương máu và mồ hôi, gíup cho nhân dân Cam Pu Chia hồi sinh như thế nào. Các bạn có nhận thấy không ? trong cuộc chiến nầy không có việc trao trả tù binh như các cuộc chiến tranh khác khi quân đội chúng ta rút về nước và chiến tranh kết thúc. Điều nầy nói lên sự tàn ác của kẽ thù, khi bắt được quân ta, chúng tàn sát hết sức dã man, không tha cho một người nào cã, anh em ở D6 E747  khi bị chúng tập kích vào bắt được chúng chặt làm hai làm ba khúc  vùi xuống bãi bùn  sau nầy khi chiếm lại anh em ta phải đi tìm từng khúc một. Còn quân ta sau khi bắt được tù binh hoặc hàng binh đều chuyển qua cho chính quyền bạn để giải quyết.
Tranh thủ lúc hàng binh địch ngồi nghỉ giải lao khi họ đi ngang nơi chúng tôi đóng quân, tôi hỏi một người hàng binh lớn tuổi. << Vì sau các anh ra hàng trể như vậy ? Họ trả lời rằng vì họ không biết, họ tưởng ra hàng là bị quân ta giết, họ bảo năm 1969, quân đội của tướng Đỗ Cao Trí   trong cuộc hành quân Lam Sơn gì  đó) gặp người dân Kam pu chia ở đâu là bắn giết ở đó để trả thù cho Việt kiều chúng ta bị giết  tại Kam Pu Chia >> (Tướng Đỗ Cao Trí là tướng của quân đội Chính quyền Sài Gòn cũ, chỉ huy cuộc hành quân Càn quét sang Kam Pu  Chia, các bạn xem trang web của các cựu chiến bịnh thời đánh Mỹ sẽ rỏ). Sau nầy dần dần chính họ thấy bộ đội chúng ta hiền khô, họ mới ra hàng. Đầu tiên họ cho đàn bà trẻ con ra hàng trước, sau đó mới lính tráng của họ ra hàng sau. Khi chính quyền của bạn vững mạnh, quân ta rút về nước không hề mang theo một tài sản gì quí báu.   Như vậy các bạn tự suy nghĩ xem ta có xâm lược Kam pu Chia hay không ?
Hai Ruộng xin chào các bạn . Xin cảm ơn các bạn theo dõi bài viết nầy . Ngày mai D4 theo Trung Đòan  về truy quét quân Xê ri Ka ở vùng sát biên giới Việt Nam.
Hai Ruộng tìm ra vị trí D4 đóng quân ở tọa độ (21, 70). Dọc hai bên con đường mòn cạnh hồ nước cạn (đầu mùa khô không có nước là không đóng quân được). Xung quanh bàu nước là trảng cỏ xen lẫn bụi cây sim kéo rộng ra cho đến đầu nhánh suối phía đông nam, nơi anh em săn được con trâu rừng. Hai ngày sau hành quân cặp theo suối đi về phía nam một đoạn, sau đó bơi vũ trang vượt suối (đoạn suối nầy nước không chảy , sâu ngập đầu, rộng khoảng 7 mét, suối nước đục rất nhiều cá. Sau đó hành quân về phía đông bắc chủ yếu tìm các ngã ba suối để tìm cứ của địch (vì chúng cũng phải đóng quân gần nơi có nước). Lùng sục đến ngã ba suối lớn tọa độ ô (22,79). con suối nầy lớn nhưng cạn, nước trong chảy về phía đông. sau đó vượt suối đi dọc một đoạn khoảng một km  về phía đông phát hiện cứ địch đã bỏ đi khoảng vài ngày . Sau đó D4 rút về ngã ba suối  và lùng sục sang con suối nhỏ khác ở phía Nam, đóng bên bờ con suối nhỏ có thể phóng bước chân từ bờ bên nầy sang bờ bên kia được, nước toàn phèn đỏ hoạch không có một con cá, hai bên toàn cây mật cật, vùng rất khó xác định tọa độ trên bản đồ, vì có nhiều ngã ba suối dễ nhầm lẫn, trinh sát phải mò mẩm hai ba ngày sang các khu vực xung quanh, mới chấm được tọa độ. D4 nghỉ mát ở đó vài hôm rối về chân núi chi (phum hoan ban đầu). Đợt hành quân nầy mình đang bị sốt rét, nên không tham gia cùng anh em trinh sát, nên cũng không nắm rỏ kế hoạch hành quân cho lắm, chỉ nhớ loáng thoáng như vậy thôi. Cám ơn RX chi viện bản đồ cho mình kịp thời.
Sau gần hai năm E747 truy quét khu vực Ba Rài và khu vực núi Chi, bọn địch ra đầu hàng rất nhiều, một số bị tiêu diệt tại chổ, một số không chịu nổi rút chạy về phía bên kia biên giới Thái Lan, trả lại sự bình yên cho phum xóm. Quân ta cũng hao hụt không kém, một số các đ/c hy sinh, một số bị thương do mìn, trái  mất sức chiến đấu, một số sốt rét nặng rụng gần hết tóc, một số không chịu được khó khăn gian khổ và hiểm ngu , phần thì không biết làm nhiệm vụ đến bao giờ mới được về nước, vì khi mới vào trận trên phổ biến chỉ kéo dài chiến dịch chừng vài ba tháng, thế mà đã hơn hai năm  nên đơn vị đã có hiện tượng đào, bỏ ngũ. Tuy nhiên đa số anh em cốt cán đã vững niềm tin và trụ lại với đơn vị. Trung Đòan nhận nhiệm vụ tiếp tục hành quân vượt sông Mê Kông về phía biên giới Việt Nam để truy quét bọn phản bội XêRi Ka. Bọn nầy họat động khu vực các tỉnh Sòai Riêng, Prey Ven, Căn Đan,vv… Về hình thức họat động bọn nầy thường đóng quân trong các vùng rừng tràm gần biên giới Việt Nam, khu vực thượng nguồn sông vàm cỏ (bên đất K, sát vùng Gò Dầu, Mộc Hóa,  gần biên giới tỉnh Long An), ở vùng xa sôi hẻo lánh. Sau đó thường xuyên tập kích vào các đơn vị chính quyền bạn và bộ đội địa phương  của bạn còn non trẻ. Tập kích thường xuyên các đơn vị của ta thuộc quân khu 9 làm nhiệm vụ bảo vệ cho chính quyền bạn (có nhiều lần chúng dùng xe ngựa mặc quân phục bộ đội K tập kích cã ban ngày vào các lực lượng của ta và bạn). Khiến các đơn vị của ta phải kêu cứu. Về nguồn gốc, bọn nầy có khỏang vài ba trăm tên, tên cầm đầu tên là <<Chanh Sao>>.  Được ta cho học ở Hà Nội  về làm bí thư tỉnh ủy Sòai Riêng, có lẽ tư tưởng chao đảo do cuộc chiến kéo dài, phần thì do các thế lực thù địch tuyên truyền  nên nghĩ rằng Việt Nam ta xâm lược và phản lại chúng ta. Họ chỉ thấy vùng nầy yên ổn không còn quân Pôn Pốt, nhưng họ không biết rằng bộ đội Việt Nam còn đang đổ máu ở các vùng phía bắc Kam pu Chia và các tỉnh giáp biên giới Thái. E 747 mà về đánh bọn nầy thì quá nhàn, hơn nữa hành quân về đồng bằng trù phú là cơ hội để cho anh em phục hồi sức khỏe, tránh khỏi bệnh sốt rét rừng quái ác. Vì vậy bài viết nầy mình xin phép Ban Quản Lý Mạn, cho phép Hai Ruộng nói lên tâm tư  tình cảm của anh em bộ đội lúc bấy giờ (Đề tài ngòai trận đánh)
E747 bắt đầu lên xe hành quân từ khi mờ sáng, đòan xe lăn bánh rời khỏi vùng rừng núi đi về phía lộ số 6 sau đó rẽ về phía Cam Pong Chàm. Sau hai năm lặn lội trong rừng sâu núi thẳm quang cảnh sầm uất dần dần hiện ra, cảnh chợ búa, cảnh học sinh cắp sách đến trường, loang lóang hiện dần ra rồi lùi xa khuất, Đòan quân xa tung bụi mù. Xa xa trong tầm mắt thành phố Kam pong Chàm hiện ra. Từ những chấm đỏ thắm điểm trong làn cây màu xanh mát, như những bông hoa, giờ đã hiện ra là những mái ngói của căn nhà sàn xinh đẹp và ấm cúng. Những thanh niên nam, nữ của nước bạn, giờ cũng đã lột xác, các chàng trai bạn rất thích áo mầu xanh đậm hay đỏ đậm, quần tây dài, chân mang dép Thái, nhiều anh còn mang cã đồng hồ sáng bóng. Có anh còn tậu được cã chiếc xe bò đễ đi ra chợ, chiếc xe bò phải có càng xe cong vút lên phía trước, có chạm trổ hình đầu rắn, cuối cùng là sợi dây căn từ cáng xe cho đến mui chiếc xe bò, trên dây đính những tấm vải màu xanh, đỏ hình tam giác  như những lá cờ đuôi nheo. Cổ xe được đánh dầu sơn bóng láng, xung quanh mui xe treo rèm xanh đỏ,  nhiều chiếc xe có cã Rađiô treo lũng lẵng. Cặp bò thì phải to con, lông vàng óng, xung quanh cổ treo đủ lọai lục lạc, khi đi trên đường khua leng keng. Cây roi quất bò cũng thế, cán roi bịt đồng,  nhôm trông rất đẹp mắt , ngọn roi có thắt miếng vải màu. Người thanh niên làm chủ xe bò rất hãnh diện đội chiếc nón  đang bằng lá thốt nốt, xung quanh được viền vải màu đậm cã quai nón cũng phải  vải màu đậm làm viền nón nổi bật lên . Ở nước bạn phụ nữ cưới nam giới cho nên anh nào không lo sắm xe bò là anh đó ế vợ. Còn phụ nữ thì bây giờ xinh xắn hơn nhiều. Các cô vận xà rông màu sặc sở, có cã dây thắt lưng bằng kim lọai sáng lóang, có những cô lai dân tộc chàm nước da trắng mịn, thon thả, dịu dàng làm anh em bộ đội ta nhìn say đắm (nhìn thôi chứ rớ vào là bị kỹ luật). Chẳng mấy chốc đòan xe đã vào thành phố, đi về hướng bến phà. Chúng tôi xuống xe, cơm nước chúng tôi đã mang theo, hơn nữa chiến tranh vẫn còn phía trước, chúng tôi cũng chẵng biết mua cái gì ngòai thuốc hút, vài cái bánh chia nhau ăn cho vui hoặc là cùng nhau uống vài ly nước mía. khi chưa kịp uống xong ly nước chiếc xe phía trước chúng tôi đã xuống phà , một số anh em đi trên xe đó phải chạy xuống theo xe, có người chưa kịp trả tiền. Người chủ bán nước mía đếm lại thấy không đủ tiền , lúc đó chiếc xe jeép của chú Tư Đáp (Trung Đòan Trưởng vừa dừng lại) . Thấy chú Tư mang súng ngắn, ông ta đến đòi tiền, người phiên dịch nói cho chú Tư nghe. Chúng tôi nhìn thấy chú Tư mò túi không đủ tiền, chú liền tháo chiếc nhẫn đang đeo ở nơi tay ra đễ trả cho họ. Trung đòan trưởng của chúng tôi thương lính và chấp hành tốt chính sách dân vận  như vậy đó.
Chúng tôi xuống phà vuợt sông Mê Kông, tôi nhìn về phía thành phố Kam pong Chàm  soi bóng dọc theo bờ sông xanh biếc êm đềm , mới thấy hết vẽ đẹp của nó . Tôi nhớ lại ngày 17 tháng 03 năm 1979, Sư Đòan 317 hành quân qua đây, khói chiến tranh còn bao trùm mù mịt, bên kia sông kho lúa cao như núi còn nghi ngút cháy và nồng nặc mùi thuốc sâu do địch hủy họai lương thực trước  khi chúng bỏ chạy. Trong thành phố không một bóng người, rãi rác là xác chết của địch,  khu chợ trung tâm bị bom đánh sập, nhưng dòng sông vẫn cứ êm đềm và thơ mộng. Thành phố Kam pong Chàm như nàng công chúa lọ lem mặt còn bám đầy khói súng, nay mới có hai năm bình yên mà thành phố xinh đẹp như nàng ÁPSARA hồi sinh.
Tiếp tục lên xe và hành quân về phía Sòai Riêng. Tôi lại thả hồn vào ký ức. Nhớ ngày nào còn ở Thành Phố Hồ Chí Minh, còn đang ngồi ghế nhà trường. Nhớ lại bài hát << Chia Tay >> .
<< Chưa yên vui trong trọn ngày, áo lính vội khóac vào ngay. Chưa xây xong lâu đài, súng thép vội vã cầm tay. Tiếng kêu núi sông vội đáp ngay. Trong bao nhiêu năm học trò, chưa bao nhiêu lần hẹn hò. Kẽ thù tràn qua biên giới , hòng giềm đời mình trong tăm tối. hãy bước mau ra chiến trường….>> .
Ngồi trên xe ngẫm nghĩ sao bài hát quá hay, nó nói lên hòan cảnh và tâm tư người lính. Những chàng trai đang ngồi ghế nhà trường, đang ngồi trên giảng đường đại học. Ước mơ chưa trọn vẹn, niềm vui hòa bình chưa hưỡng được bao nhiêu, lại phải cầm súng
<< Đêm nay mình chia tay bóng đêm dài vô tận, ngày mai đường chia hai, hậu phương và Mặt Trận, ước gì có hình em trong ba lô anh mang nặng, ước gì có tình em theo bàn chân anh bước … Anh ơi cứ đi đi chiến trường đang vẫy gọi, anh ơi cứ đi đi ở nhà em vẫn đợi …>> .
Đêm chia tay của người lính bình thường, dãn dị, người lính ra đi vội vã tấm hình người yêu cũng không kịp chụp mà sao lắng động mãi trong tâm tư, của người đi ra nơi trận địa lẫn người ở lại hậu phương
<< Đường dài vượt ngàn khe trăm suối, đường dài vượt qua biên giới, có bóng em sánh cùng …>> . Trách nhiệm làm trai ra mặt trận là chuyện bình thường khi thời chiến, nhưng còn lại những người em gái ở hậu phương, dù chưa bao lần hẹn hò, nhưng em vẫn đợi ….. Bài hát sao quá tuyệt vời. Lời bài hát theo chúng tôi theo mỗi bước hành quân. Cho đến bây giờ mình vẫn còn nhớ từng lời từng chữ.
Đòan xe đã bắt đầu đến nơi rải quân, E747 bắt đầu bố trí đội hình, riêng D4 thì đến tỉnh Prey veng  thì mới xuống xe và tiếp tục hành quân trong đêm đến điểm tập kết. Đợt chiến dịch nầy, C9 không có nổ súng, suốt chiến dịch chỉ có bắn mấy phát ak bắt liên lạc mà thôi. Cho nên mình cũng không nhớ hết tên phum, gần như không còn nhớ tên một phum nào cã. Chỉ nhớ là đi truy quét sát biên giới Việt  Nam  từ giáp Sòai Riêng về phía nam, khu vực nầy đồng trống nhiều chỉ có rừng tràm sát biên giới ta mà thôi. Phum sóc trù phú, thịt gà rẽ như gạo (1kg gà ngang giá một kg gạo), nhiều đầm nước, vì là vùng thượng nguồn của con sông Vàm Cỏ Tây. Chỉ có khổ một nổi là mùa khô nên thiếu rau xanh. Còn cá thì rất nhiều dễ đánh. Nhờ vậy mà chiến dịch kéo dài hơn một tháng  anh em ta phục hồi sức khỏe rất nhiều.  Sốt rét thì chưa khỏi hẳn nhưng lâu lâu mới lên cơn sốt một lần. Từ lúc sang K làm nhiệm vụ đến nay tiền trợ cấp anh em đến giờ mới được lãnh bù, nhờ vậy mà anh em ta mua gà bồi dưỡng thỏai mái. Mình nhớ một nồi quân dụng mà nấu đến bốn năm con gà, mỗi con gần một kg . Để nấu cháo. Ở đây có lọai tôm (giống như con ruốc) họ đem muối chua ăn rất ngon, nhà nào cũng chứa năm sáu lu to hơn 100lít. Còn nước thốt nốt thì khỏi chê. Ở Kampu Chia  họ không làm đường mía như VN ta, mà họ làm đường từ cây thốt nốt (mình kễ đễ cho các bạn trẻ biết, anh em mình thì quá rành), một lọai cây giống như cây cọ, ở lăng Ông Bà Chiểu có mấy cây. Họ trồng khỏang sáu năm thì bắt đầu khai thác lấy đường, thời gian khai thác có khi đến gần 40 năm, mỗi năm khai thác vào mùa khô. Mùa mưa vì có nước mưa vào nên nước thốt nốt không ngưyên chất, vì vậy họ tạm ngưng để dưỡng sức cho cây. Họ trồng từng cụm, hoặc từng hàng sát nhau . Sau đó dùng cây tre chặt cành chừa gần gang tay để làm thang leo. Sau đó cột chặt cây tre vào cây thốt nốt là thành thang leo  từ cây nầy họ bắt cầu bằng tre ở trên ngọn cây, có thể chuyền từ cây nọ sang cây kia không cần phải leo xuống. Đến mùa lấy nước họ dùng cây kẹp tre để kẹp cho dập cuống hoa của cây  sau đó dùng dao thật bén cắt ngang cuốn hoa treo ống tre vào đó  để hứng nước, một đêm có thể gần đầy ống tre gần hai lít  nước, cứ mỗi ngày phải leo lên lấy và cắt bỏ vết cắt củ, để tạo thành vết cắt mới. Nếu muốn làm rượu thì bỏ men vào thế là thành rượu thốt nốt (thanót chu), còn để làm đường thì họ chặt một lọai cây có vị đắng bỏ vào, bỏ nhiều thì đường càng trắng, nhưng không ngon bằng đường màu mở gà vì càng trắng càng có vị đắng tăng. Đường thốt nốt mà nấu chè hoặc uống trà thì khỏi chê vào đâu được.
Nước Thốt nốt uống cũng rất ngon, ai chưa quen lần đầu khó uống vì hôi mùi khói, do họ dùng lá thốt nốt khô để xông khói vào ống tre, nhờ có mùi khói mà ruồi hay côn trùng không bu vào ống nuớc. Đang hành quân mệt lã người mà uống đựơc một ngụm nước thốt nốt thì khỏe lại ngay. Nhất là nước đã nấu gần thành mật, ngon tuyệt. Anh em ta gặp xin nước thốt nốt bỏ vào bình toon, vặn chặt nắp lại đi một đọan đường là bình toon phình tròn vo, do nước thốt nốt có sẳn ga  bốc lên làm căng tròn bình toon nhôm. Hầu hết lính ta anh nào cũng có cái bình toon tròn vo cã. Còn nước thotnot chu (rượu thốt nốt) thì khỏi chê, không có lọai bia nào sánh bằng, nhất là rượu thốt nốt mà nhậu với thịt chó thì không còn gì bằng, Ngọc Hòang còn phải ngây ngất  (Ăng koKrao mà đọc đến đây thì chắc nuốt nước miếng ừng ực rồi đấy). Ở C9 có anh Nam (tay cối cừ khôi của D4) đã từng thắng cá độ với  anh em là anh ta uống nước thốt nốt đúng một tháng trời không ăn cơm, cũng tại khu vực nầy. Cứ mỗi lần anh em ăn cơm là anh ta uống một ca nước thốt nốt. Thốt nốt còn có nhiều công dụng khác, cây thốt nốt già thân cây được đẽo làm thuyền độc mộc. Lá thốt nốt dùng để lợp nhà, làm nón, đan chiếu (đệm). Đến nổi trái thốt nốt già rụng xuống họ đem làm bánh có mùi vị rất thơm. Trái non thì sắt nấu canh, vừa thì chặt lấy cơm như cơm dừa  (chỉ có cây không lấy nước mới có trái). Chính vì công dụng nhiều và mọc khắp nơi  như vậy mà cây Thốt Nốt được coi  là biểu tượng của đất nước chùa Tháp.
Còn cá thì vùng nầy cá nhiều lắm, vì vậy mà có bao nhiêu lựu đạn đều thả cho cá ăn hết. Chỉ có điều là hơi khó đánh vì đầm nước nó cứ lài lài không giống như ở sông hay suối, muốn đánh có nhiều cá thì phải lội ra nơi sâu, mà nước sâu thì ném lựu đạn không xa, nhiều khi chỉ đánh cách mình khỏang bốn năm thước, đánh xong quay mặt lại đưa lưng về phía trái nổ, nổ rầm ê lưng một cái là xong. Có lần mình và anh Nam gặp trái cối 120mm lép nằm bên lề đường từ thới chống Mỹ (không rỏ của bên nào). Hai đứa chúng tôi thay phiên nhau vác mỗi người một hơi về nơi phum đang đóng quân, sau đó vác ra ngòai đồng vắng, hai đứa tháo kíp, mình ngồi lên trái cối, dùng búa và khúc gổ để gỏ nhẹ tháo kíp ra , anh Nam tưới nước vào kíp không cho nóng, tháo xong kíp nổ to bằng nắm tay, dài gần một tấc. Tháo xong kíp mất gần  một buổi sáng. Sau đó mượn cây sà beng đục thuốc TNT ra  đục được nữa trái,  nữa trái còn lại đốt bỏ, cháy gần một buổi mới hết. Thuốc đục ra xin hai ống thốt nốt dồn chặt vào  nối hai ống lại cột chặt như bọc phá sào, khoan lỗ tra kíp số 8 vào, đem ra đầm đánh cá. Mình bơi ra gần giữa đầm , gài trái nổ xuống đáy hồ  sau đó lên chỗ nước cạn dật dây, dây bị đứt, không nổ. Đinh bỏ nhưng lại sợ dân không biết vào đầm lưới cá  rũi vướn nổ thì nguy. Nên mình phải đi vòng phía trên sóng lặn từ từ để tiếp cận. May là mình nhớ cũng tốt, mò vào đúng nơi gài trái, thế là bóp luôn chốt giật, cắn đứt dây lôi lên bờ làm lại. Sau khi thấy chắc ăn đem gài lại. Lúc nầy có mấy người dân bạn đi theo, thấy bộ đội đánh cá, họ xin văng lưới bén  để khi cá chết trôi xuống vào lưới của họ. Mình cho họ giăng cách trái nổ chừng sáu bảy mét. Khi xong lên bờ, mình giật một phát, nổ ầm, cột nước to như cái nhà. Anh em mình ào vào vớt cá. Tội cho mấy ông nông dân bạn, vì giăng lưới quá gần, nên khi giở lưới lên thì chỉ còn sợi dây cước phía trên lưới mà thôi, còn lưới thì không biết bay mất đi đâu. Tay vừa giở lưới miệng vừa mếu <<O- hơi, O – hơi >>. Lúc đó lưới bén phải đổi bằng vàng.
Còn địch thì quân ta cứ dí cho chúng chạy, bọn địch nầy nó chỉ quen đóng ở nhà dân, chứ đóng trong rừng chúng cũng không quen và không chịu nổi, phía bên kia là biên giới Việt Nam, tha hồ cho nó chạy. Quân ta cứ thủng thẳng đuổi. Đến lúc sát biên giới ta rồi (nay mình cũng không nhớ là vùng nào), nơi đó có dảy rừng tràm  cao khỏang hơn hai mét, mọc xen lẫn với bụi tre. C9 được lệnh chặn hướng Nam, còn các C còn lại chặn các hướng khác. Một C luồn vào phía Việt Nam (hướng trên gió), đốt rừng tràm. Vì là lọai cây có dầu, gặp mùa khô, nên cháy cuồn cuộn. Sau đó bắn vài trái cối 61 hù dọa, vậy mà chúng  kéo ra hàng  sáu bảy chục tên. Các tên còn lại trốn thóat, bọn nầy rã đám. B mình được lệnh phục kích  xung quanh nhà tên Chanh Sau  mấy ngày liền, nhưng hắn đã trốn mất không dám về nhà. Sau đó rút ra gần quốc lộ  tuần sau xe đến  và hành quân về  Kam pong thom. E 747 không có thương vong, nhưng khi hành quân về tới chổ quanh thì một xe chở D5 bị lật , cũng mất mấy em.
Về đến bến phà Kam pong Chàm, đợt nầy chú Tư Đáp Trung Đòan Trưởng  không cho bộ đội xuống xe nữa. Chắc có lẽ do chú Tư Đáp đã hết không còn chiếc nhẫn nào. (O - rờ - liệng).
Hai Ruộng xin chào các bạn !. Hôm nay mình nghỉ giải lao một bửa tạm ngưng kễ chuyện <<kỹ niệm 30 năm ....>> để bửa khác kể tiếp . Bửa nay mình kể chuyện tếu có thật cho anh em nghe.
Anh Nam (khẩu đội trưởng cối 61, anh em gọi là Nam Địa Bàn), tay nầy có nhiều chuyện rất đáo để. Ngoài tài bắn nhanh cối ứng dụng, rồi tài uồng nước thốt nốt một tháng không ăn cơm. Còn nhiều chuyện cũng rất nổi tiếng. Chuyện ở dơ:  Nam Địa Bàn nổi tiếng ở dơ, võng, quần áo không bao giờ giặt, người thì mồ hôi dầu cho nên võng của NĐB thành màu đen mưa xuống không thấm nước. Nhờ vậy mà nữa đêm rũi có trời mưa, anh em phải tháo võng chạy vào tránh mưa (thỉnh thoảng trời mưa vào cuối hè, vì hành quân liên tục nên anh em lười biếng căng tăng, chỉ mắc võng thôi). Còn anh N.Đ.B nhà ta cứ say sưa ngũ vì nước mưa không thắm được vào võng do lớp mồ hôi dầu bảo vệ, giống như con heo rừng lăng chai.  Áo quần không bao giờ giặt. Có lần mình thấy quần áo của N.Đ.B mắc ở đầu võng còn anh ta thì mặc quần đùi đi chơi đâu đó, mình mới lấy quần áo của N.Đ B vứt vào đống phân bò ( đống phân mà dân họ gom lại để làm phân bón), để khi anh ta về nhìn thấy ớn mà đem quần áo đi giặt. Nhưng không ngờ, Khi đi chơi về, tìm không thấy quần áo, ngó quanh, ngó quất thấy nó ở trên đống phân bò. Anh ta cằn nhằn << thằng nào chơi kỳ quá >>. Tưởng anh ta giặt, không dè N.Đ.B cầm lên giũ phạch phạch vài cái rồi mặc vào luôn. Anh em lắc đầu chào thua một keo nữa.
Có lần chú Tư Đáp xuống thăm D4 lúc còn đóng ở KraVa, thấy N.Đ.B ở dơ quá, chú Tư bắt ra giếng đọc lệnh nghiêm sau đó ra lệnh cho hai chú liên lạc của chú Tư, múc nước giếng tắm và kỳ cọ cho N.Đ.B. Vừa được tắm vừa được nghe giảng bài. Chuyện này cã C ai cũng biết. Tuy ở dơ như vậy mà nấu ăn thì rất ngon, đặc biệt là món chim cu đất rô ty, HR chuyên đi bắn cu đất về cho N.Đ.B rô ty ăn không ai chê vào đâu được. Kễ cã món dồi chó rồi chiên lại cho vàng, anh Xuân C Trưởng  mê món nầy của N.Đ.B lắm.
Có lần khi còn đóng quân ở phum Kompong Sđách kế bên sông Chi Nít. Mình với N.Đ.B thu được trái B40 do địch bắn vào ta bị lép. Mình tháo bỏ đuôi và ngòi nổ, sau đó dùng lê AK khoang một lổ bên hông , rồi tra kíp số 8 vào đề đánh cá, vì ngòi cháy chậm bị dập nên phải cắt bỏ phần dập, phần còn sử dụng được chỉ còn độ chưa tới hai lóng tay. Mình ngồi mũi xuồng, N.Đ.B bơi sau lái xuôi theo chiều nước chảy, đến đoạn nước sâu, bảo N.Đ.B ngưng chèo thả trôi (sợ động nước cá chạy). Sau khi mình rít một hơi để cho đầu điếu thuốc đỏ rực, rồi mình mới châm vào ngòi cháy chậm, khi nhìn thấy dây cháy chậm xịt lửa, mình mới buôn trái B40 xuống mũi xuồng. Thay vì chèo tới luôn, thì N.Đ.B lại bơi lùi, xuồng còn đang trớn, lại bơi ngược chiều nước chảy nên chiếc xuồng gần như dứng tại chổ quay vòng, mình nhìn thấy bọt nước do ngòi cháy chậm cháy trồi lên, đếm được khoảng sáu bọt. ẦM, nổ ngay giữa xuồng, cã xuồng và hai thằng ngu bay khỏi mặt nước chừng một mét, may là ở nước sâu không có miểng đạn, cã hai an toàn, nhưng chiếc xuồng độc mộc bị vở làm đôi, hai chúng tôi bèn kéo xác chiếc xuồng vào cột ở gốc cây gần đó để trả lại cho dân sau đó nhanh chóng vớt hai con cá to, lặn mò lại khẩu ak và trốn mất, sợ dân bắt thường chiếc xuồng. Vài hôm sau cũng nghe dân phàn nàn , nhưng dân cũng châm chước cho bộ đội vì còn biết cột chiếc xuồng bể vào gốc cây, nếu không thì trôi đi mất. Trên đường về tôi cằn nhằn tại sau mầy không bơi tới luôn mà bơi lùi chi vậy, anh ta trả lời, tại vì tao thấy mầy bỏ trái xuống ngay mũi xuồng, nếu bơi tới thì trái sẽ nổ gần tao hơn, nên tao bơi lùi để cho nó nổ ngay giữa xuồng cho đều hai đứa.
Như vậy là ba lần, mình được ngắm nhìn thành phố Kampong Chàm thơ mộng. Lần đầu ngày 17 tháng 3 năm 1979, dù nơi đây còn mịt mù khói súng, xác chết còn rải rác đó đây,  thần chết vẫn còn rìn rập đâu đó. Nhưng cũng không dấu được vẽ đẹp của thành phố đáng yêu nầy. Lần thứ hai, khi thành phố đã hồi sinh, đơn vị mình hành quân về sát biên giới nước ta để dẹp bọn phản bội SêriKa. Bây giờ lại hành quân ra phía trước. Dù ngược hay xuôi thành phố nầy vẫn đẹp cái đẹp làm đắm say tâm hồn người lính trẻ Đã bao nhiêu người lính trẻ Việt Nam qua đây dù không phải là nhà thơ, cũng cố làm sao gọt dũa câu văn của mình để nói lên nét đẹp của thành phố, nhưng dù cố gắn đến đâu cũng cảm thấy vụng về trước vẽ đẹp thiên nhiên ban tặng. Thôi thì đành mượn bài thơ của bà Huyện Thanh Quan vây:
<< Trời chiều bẻn lẻn , bóng hòang hôn .
Lách cách xa đưa tiếng bước dồn .
Gác mái ngư ông về viễn phố .
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
Ngàn mai gió cuốn chim bay mõi (rừng mai gió cuốn chim bay mõi)
Dặm liễu sương sa , tiếng trống dồn .
Kẽ chốn chương đài người lữ thứ .
Lấy ai mà kễ nổi hàn ôn >>

Nổi hàn ôn của những người chiến sỹ F 317, bao giờ mới tỏ …Nhìn dòng sông Mê Kông, bắt nguồn từ phương bắc xa xôi. Dòng nước có cuộn trào hung dữ đến đâu, nhưng khi qua đến đây, từ Miến Điện, Thái, Lào, Kam pu chia và Việt Nam gặp phải dân cư đôi bờ, hiền hòa, chất phác. Dòng sông phải phẳng lặng cúi chào, chảy êm đềm, trước khi về với mẹ hiền là bỉên cả mênh mông. Dòng sông nầy mãi mãi sẽ là biểu tượng cho tình đòan kết của nhân dân ba nước Đông Dương. Đòan quân xa cứ tiếp tục tung bụi mù phủ trùm lên cã đòan quân hướng về hậu cứ Ba Rài. Đến ngã ba rẻ vào Kra Va, chúng tôi còn nhớ nơi đây một C Trưởng của đại đội trinh sát E, phải hy sinh khi làm nhiệm vụ khảo sát tiền trạm cho đơn vị. Nay vùng nầy đã trở thành hậu cứ của E747.
Nghĩ giải lao chưa tới một tháng. Anh Mơ (Dphó) cùng, trinh sát E747 và B trinh sát D4 và luôn cã Hai Ruộng, lên Trung Đòan nhận nhiệm vụ mới. Lên Siêm Riệp làm nhiệm vụ tiền trạm khảo sát vị trí đóng quân của Trung Đòan. Thế là chúng tôi lại ruột tượng gạo và ba lô lên đường. Chúng tôi hành quân bằng xe GMC và một chiếc xe jeep lùn của E .
Chúng tôi hành quân từ tờ mờ sáng, rồi qua thị xã Cam Pong Thom, qua dòng sông SAIN, qua ngôi chùa trước kia là quân y viện của F317 mượn tạm nơi nầy và cũng là nơi đóng quân tạm thời của Sư Bộ, khi mới đầu chiến dịch. Chính nơi đây cũng đã từng bị  một bộ phận của F515 của địch tập kích để cướp thuốc men. Đồng  chí Sư Trưởng  Năm Mân, phải trực tiếp cầm súng đánh lại chúng. Rồi lần lần qua ngã ba đường 12, nơi gần cứ của Sư Bộ 317. Rồi xe lần lần đến phum Prey Pros nơi có chiếc cầu sắt dài nhất KampongThom. Nơi đây trước kia là nơi đóng quân của D4. Bao nhiêu kỹ niệm lại hiện ra. Sau khi đánh các trận lớn ngày 15/4 /79 và 26/5 /79. D4 về nơi đây đóng quân. Xe tiếp tục đi đến ngã ba gần huyện lỵ Xtung. Tới ngã ba rẽ vào khu vực khum Kraya. Chúng tôi nhớ lại các trận đánh ác liệt ngày nào, từ trận đánh nở hoa trong lòng địch do D4 đánh vào giữa nơi đóng quân của F515 của Pôn Pốt ngày 15/5 mà HR đã kễ ở trang số 1 (lúc đó mình quen gọi là phum Ca dia). cho đến lúc đánh vào quân khu Miền Đông của địch ngày 26/5 /79. Hai trận đánh đã làm nên lịch sữ của trung Đòan 747 và kễ từ đó F515 mỗi lần gặp E747 là chạy dài.  Đặc biệt là trong vùng nầy có cánh rừng mai tuyệt đẹp nơi mà người du kích bạn đầu tiên hy sinh khi giúp cho D4, đó là Bòn Hon, mà ở tập 1 mình nhớ lầm là Bòn Dân. Rồi trước khi vào trận ngày 26 tháng 5  đợt hành quân mà có cã mấy cô nữ văn thư của E747 đi theo E tiền phương. Trước khi vào trận đánh chúng tôi hành quân qua một khu rừng sim rất đẹp .<< Trời vừa hừng sáng chúng tôi đã hành quân, đòan quân nhấp nhô băng qua rừng sim tím cánh sim còn động lại sương đêm, phản chiếu lấp lánh ánh mặt trời vừa mới mọc . Đòan quân rẽ rừng về phía đông, đòan người bước đi như gợn sóng >> . Ôi hình ảnh đó đẹp làm sao cho đến bây giờ trong tâm trí của những người lính chúng tôi vẫn không phai mờ được.
Hết Xtung  bắt đầu vào địa phận Siêm Riệp. Chúng tôi bắt đầu quan sát kỹ địa hình. Vùng nầy rừng không nhiều bằng Kampong Thom. hầu hết là rừng xen lẫn với phum xóm. Dân tình có vẽ thân địch hơn thân ta. Ở đây bọn địch đóng quân gần như  ở trong phum hoặc cạnh phum của dân luôn chứ không ở trong rừng như Kam pong Thom.
Đến tối chúng tôi đến vị trí, đó là phum dọc theo đường số 6 còn gần 10 cây số thì tới huyện lỵ Puốc. D4 chúng tôi dừng tại đó, ngày hôm sau  đi về các phum ở phía bắc đường 6, sau đó vòng về phía Nam cho tới cuối hồ Ba Rai. Trinh sát E cũng xong nhiệm vụ. Chùng tôi  cùng nhau hành quân về đơn vị ở Kam pong Thom đợi ngày chuyển quân. Lúc nầy đã vào mùa mưa, chúng tôi ngồi trên xe quân sự lãnh trọn đám mưa cã ngày. Hai Ruộng xin cảm ơn các bạn theo dõi trang viết nầy. Còn tiếp….
-----------------------------
Chiến dịch núi Hồng – Năm 1981 (14/5/1981)

Tài liệu CIA
Kể từ giữa tháng 2/1981, đã có các dấu hiệu tăng cường các hoạt động quân sự trong khu vực rừng núi (mà Quân đội nhân dân Việt Nam gọi là núi Hồng), cách thành phố Siem Riep về phía Bắc – Đông Bắc khoảng 40km. Các lực lượng Campuchia dân chủ (DK) với số lượng và đơn vị không xác định tiếp tục chiếm giữ  khu vực rừng núi này.
Vào giữa tháng 2, các bộ phận của Trung đoàn 747 QDND VN thuộc Sư đoàn 317 đóng tại khu vực Angko Vat bắt đầu cùng với các lực lượng quân sự không được xác định của Cộng hòa Nhân dân Campuchia từ thành phố Siem Riep tiến hành chiến dịch tấn công vào khu vực “Núi Hồng”.
Khoảng ngày 20/2, QDND VN cùng với Quân đội CHND Campuchia bắt đầu mở chiến dịch tấn công, gồm khoảng 50% lực lượng từ Trung đoàn bộ binh 775 và 50% từ Trung đoàn pháo binh 774, Sư đoàn 317. Binh lính của Tiểu đoàn pháo - cao xạ 24, 4 khẩu pháo 105mm của trung đoàn pháo 774 tham gia trận đánh từ làng Chhuk, gần khu vực mục tiêu.
Từ giữa tháng 2/1981 đến giữa tháng 3/1981 có khoảng 700 lính quân đội CHND Campuchia từ các đơn vị không xác định được đi dọc theo đường 5 đến Sisophon, theo đường 6 đến Siem Riep để tham gia vào chiến dịch.
Cuối tháng 2, trên 1 đại đội của Tiểu đoàn công binh 25 – Sư đoàn 317 đã được gửi dén để sửa chữa đường sá và cầu cống, rà phá mìn trên tuyến đường dẫn tới khu vực “Núi Hồng”. Một số lính của Tiểu đoàn công binh 25 quay trở lại làng SaLa Krao từ khu vực chiến đấu, đã báo cáo, các đơn vị QDND VN và QDND Campuchia đã bị thương vong vừa phải trong chiến dịch.  Lính công binh báo cáo hàng ngày về dấu hiệu các chuyến xe chở lính hy sinh về chôn cất tại nghĩa trang Siem Riep. Cùng thời điểm này, một số lượng không xác định lính bị thương được chuyển đến tại bệnh viện 7 của Mặt trận 479 trong thành phố Siem Riep để cứu chữa.
Giữa tháng 3, chỉ huy của Tiểu đoàn công binh 25 ra lệnh cho đơn vị sẽ bảo đảm cho các đơn vị QDND Campuchia và bộ phận của Sư đòan 317 chiến đấu chống lại quân Campuchia dân chủ tại khu vực núi Hồng. Lực lượng Việt Nam hỗ trợ QDND Campuchia bằng pháo binh và vũ khí nặng. Trong quá trình chiến dịch, lực lượng còn lại của Trung đoàn 747 tại Angko Vat đã bị lực lượng Campuchia dân chủ (DK) quấy rối, tập kích. Lực lượng DK sử dụng cối 60mm cứ 2 hoặc 3 ngày lại bắn và rút, tấn công bằng các đơn vị nhỏ trang bị súng phóng lựu (RPG ). Không rõ số lượng thương vong của QDND VN.
Tháng 3, chỉ huy Tiểu đoàn cao xạ 24 và Tiểu đoàn công binh 25 ra lệnh cho đơn vị của mình chuẩn bị cho kế hoạch bầu cử trong tháng 4 của Cộng hòa ND Campuchia. Tất cả các đơn vị của Sư đòan 317 vẫn còn đóng tại làng Chhuk sẽ được điều động để bảo vệ cho các quan chức CHND Campuchia trong quá trùnh bầu cử. Theo kế hoạch, mỗi 1 trung đội của Sư đòan 317 sẽ bảo vệ cho 1 làng ở khu vực phía Đông Sisophon, dọc hai bên đường 6. Các đơn vị khác của Trung đoàn 160 Long An sẽ bảo vệ Bắc, Đông Bắc, và Đông Nam của thị trấn huyện Sisophon trong bầu cử.
Trong tháng 2 và 3, Trung đoàn 775 và 774 đã gửi 1 số trung đội được huấn luyện các hoạt động tuyên truyền cho dân làng Campuchia hợp tác trong quá trình bầu cử.
-------------------------------------- Hết-------------------------------------

Khỏang cuối tháng 6 năm 1980, vào mùa mưa. E747 bắt đầu bàn giao địa bàn Ba Rài cho đơn vị bộ đội Kam pu Chia, sau đó chia tay nhân dân hành quân lên Siêm Riệp. Bọn lính trẻ chúng mình thì tình cảm đã gữi lại hết ở quê nhà, ở thành phố thân yêu. Nên chia tay cũng không  có gì sâu đậm. Chỉ còn tình cảm của các má Kam pu Chia ở những nơi mà nơi mình đóng quân tương đối lâu như bà má ở phum Tà Pu, Hai vợ chồng bác nông dân ở phum Liêu, tuy nghèo khổ túng thiếu nhưng lúc nào cũng chia sẽ với bộ đội từ củ khoai cho đến trái bắp khô. Và còn chia sẽ cã máu của đứa con trai 6 tuổi của mình, khi bị địch bắn trái AT Tăng trúng nóc nhà, đứa con trai bị mảnh đạn trúng tim và đã chết, chỉ vì bộ đội ở xung quanh nhà. Đòan xe bắt đầu lăn bánh, rời bỏ con đường đất đỏ lầy lội tiến về phía đường trải nhựa rồi đi về hướng Tây. Vậy là chúng tôi xa tổ quốc thêm 300km nữa. Buổi chiều chúng tôi đến Siêm Riệp. Đỉnh cao của tháp Ăng Kor đã bắt đầu hiện lên trên nền rừng phía Tây Bắc, dù còn cách chúng tôi đến 60 cây số nữa. D4 lại hành quân về phía đền Ăng Kor. Khác với nơi chúng tôi đi tiền trạm. D4 rải quân từ cổng phía tây đền Ăng Kor Watt đến gần sân bay Siêm Riệp. C9 đóng quân tại cuối phum Cò Khuyên, cạnh phum là đầm nước,  phía Bắc là hồ Ba ray cách nơi đóng quân chừng 500mét. Các đơn vị tạm thời đào công sự đóng quân, nhận thêm quân, huấn luyện lại trong lúc trinh sát thăm dò địch. Chúng tôi đóng quân ở đây cho đến Tết, tình hình tương đối yên ổn. Chỉ có một trận là vào khỏang tháng 9 khi nghe B40 nổ dồn dập ở cửa bắc đền Ăng Kor Thom, trinh sát D cùng với một B của mình vận động nhanh đến chi viện,  đến nơi ngã ba vào phum Fluông  thì thấy chiếc xe kéo gổ của Mặt Trận bị chúng phục kích bắn cháy, chúng tôi phải chạy bộ 3 cây số đến nơi thì địch đã bỏ đi.
Đến tết năm 81, C9 chúng tôi bắt thăm may mắn  được ăn tết ngay ngày mùng một âm lịch, C9 coi như trúng số độc đắc vì có bao giờ bộ đội được ăn tết, lễ đúng ngày đâu. C tổ chức gói bánh chưng, giết gà, mổ heo để năm nay ăn tết lớn. Đúng giao thừa cã đại đội tập hợp hàng ngũ chỉnh tề đễ nghe Bác Tôn Đức Thắng  chủ tịch nước chúc tết qua đài rađio của Đại đội. Vừa mới nghe Bác TÔN nói : << kính chào đồng bào cã nước, các chiến sỹ  đang làm nhiệm vụ bảo vệ đất nước, ở biên cương, hải đảo và các chiến sỹ đang làm nhiệm vụ quốc tế  … >> thì hai tiếng nổ lớn  ầm, ầm hai lằn lửa của H12  bay vút qua đầu chúng tôi từ phía bờ hồ barai bay về phía Siêm Riệp. Phản ứng của người lính chúng tôi tự động lập tức chụp lấy vũ khí chạy về phía công sự sẳn sàng chiến đấu, nửa giờ sau điện từ E gọi lại cho các C sáng mai cử quân đi tìm xem pháo của ai bắn vào sân bóng đá Siêm Riệp. Chúng tôi đã biết địa điểm nên sáng hôm sau ra xem cho có lệ, vì chúng tôi biết chỉ có vài thằng thôi chúng đắp đất sau đó chặt cành cây làm giá để phóng hai trái H12. (Khách không mời chúng đến chúc tết ta). Không có gì thay đổi  D4 ra lệnh C9 vẫn tiếp tục ăn tết cho đến 3 giờ chiều. Ăn tết vừa xong 3 giờ chiều, anh em còn say bí tỷ,  đ/c Xuân Ctrưởng  lệnh cho tôi dẫn một B của mình ra chốt ngay cửa Nam đền Ăng Kor Thom, sát chân núi Ba Khên ba ngày, thay cho một trung đội của C10 về ăn Tết. Say thì say nhưng lệnh phải thi hành, tôi dẩn một B say xỉn đi ra chốt, đến nơi vừa mắc vỏng xong là anh nào cũng lăn ra ngủ chỉ còn tôi là còn tỉnh táo, khỏang 5 giờ chiều tôi nhìn thấy một tay đi xe đạp vừa đạp xe chầm chậm vừa ngó vào đội hình đóng quân của tôi, tên nầy đi hai lần, vì nó không có súng nên ta không làm gì được, có lẽ nó thấy anh em ta say cã. Trời vừa tối,  tôi thấy anh em say xỉn như thế nầy không thể nào chiến đấu được, địch đánh vào chỉ có nước chết, với kinh nghiệm của trinh sát, tôi nhận thấy có điều không ổn, tôi lôi từng đứa dậy và ra lệnh cho tháo võng, tòan bộ nồi niêu gạo thóc dấu vào trong bụi rậm, tôi dẫn cã B leo lên núi Ba Khên ngủ tạm, bỏ vị trí chốt đêm nay. Đến 7 giờ tối là chúng tập kích, chúng nã B40 vào chỗ chúng tôi ngủ liền 4,5 trái. Một trái bay vào trúng bộ đội K đang đóng ở phía sau chúng tôi, bị thương một hai anh, ngay ở góc thành tây Ăng kor watt. Nghe nổ chúng tôi giật mình tỉnh dậy, ở trên ngọn núi Ba Khên (tất cả đều lăn ra ngủ không còn người nào gác nổi). Chúng tôi đặt cây đại liên M60 trong bàn chân phật trên đỉnh núi, vận động xuống đánh cũng không được, còn bắn B40 xuống thì uổng đạn, vì cây cối mịt mù có thấy mục tiêu đâu mà bắn, nên tôi không cho anh em bắn trả, còn vận động xuống, thì bậc thang ngắn khó bước, có khỏang chừng trăm bậc chỉ té thôi cũng đủ chết. Vì vậy cho nên trung đội nằm yên trên đó luôn. Nghe nổ súng D gọi điện đến chúng tôi, chúng tôi cũng báo cáo sự thật là anh em chúng tôi bỏ chốt. Sáng hôm sau về điểm chốt  lôi bao nồi ra còn nguyên ven, còn chỗ chúng tôi nằm thì nát bấy, sáng nay tỉnh táo chúng tôi tiếp tục chốt lại ba ngày. Sau đó về tiểu đòan chịu tội, nhưng khi về đến Tiểu đòan thì Anh Mơ thấy anh em về đủ Tiểu Đòan quá mừng, tưởng đâu là cã B tiêu hết, vì Tiểu Đòan cũng biết là cã B đều say xỉn. Dù bỏ vị trí chốt nhưng bù lại tôi lanh trí cho rút kịp thời bảo tòan được sinh mạng cho anh em, vì vậy không bị kỹ luật.
Sau tết D4 hành quân lên đóng ở phum Cô Bên, C9 đóng ở đập nước, ở cửa tây Ăng kor Thom. Sau khi ổn định chổ đóng quân, chúng tôi bắt đầu lùng sục về phía Bắc. Chúng tôi đi 02 B và tăng cường một A. Đi lùng sục vùng phum Ăng Kor Krao, phum nầy nằm ở phía tây cách phum Fluông khỏang 2-3 cây số (lúc nầy Ban chỉ huy Trung đòan còn đóng ở gần cầu đá, dọc theo con suối  ở góc đông bắc đền Ă KOR WATT. Từ Cô Bên chúng tôi đi cặp theo cánh đồng trống tiếp cận đến đầu phía đông của phum ĂNG KORKRAO. Chia ra hai cánh, một cánh do B3  đi bọc phía Bắc phum bên kia con suối. Còn một cánh B2 và một A của B1 đi dọc phía Nam con suối, dọc theo phum, hai cánh đều hướng về phía cuối phum ở phía Tây, phum nầy hai bên suối đều có nhà, nhưng phía bờ Bắc nhà ít hơn. Hai cánh đến cuối phum chưa phát hiện địch. Khỏi phum về phía Tây còn có đập nước dài tiếp theo là rừng chồi. Khi đến hai nhà cuối phum ở hai bên suối thì hai cánh quân đều dừng lại  ăn cơm vắt. Bọn địch nằm yên bên kia bờ đập nước  vì khỏang cách hơn trăm mét nên chúng chưa bắn chúng tôi. Ăn cơm vừa xong anh Thơi Btrưởng B1 đi ra bãi đất trống về phía đập nước, đi đến giữa bải bị chúng bắn một lọat, đạn cày dưới đất, anh Thơi nhảy lưng tưng như khỉ, chúng bắn thêm một trái AT tăng cũng không trúng. Tôi nhanh chóng chụp khẩu M60 của chiến sỹ để ở gần, vận động theo bờ ruộng đi về phía đập nước, thấy chúng đang bỏ chạy , quất một lọat vì cự ly xa hơn trăm mét nên cũng không trúng tên nào. Sau đó chúng tôi rút về phum, coi như cho anh em tân binh tập đánh trận.
Lúc đóng quân ở đây C9 chúng tôi có lân nhận nhiệm vụ từ Trung Đoàn hành quân bằng xe vào ban đêm di chuyển cấp tốc lên phum Kha Na Săn Day, cùng với một đại đội bạn cắt đường vào yểm trợ cho phum TBeng, ở chân núi Hồng, chúng tôi ở đây gần một tuần vì địch chuẩn bị đánh vào bộ đội K đang đóng ở đây khi chúng thấy có bộ đội VN chúng không dám đánh. Chúng tôi rút về phum Cô Bên.
Sau đó ít lâu chúng tôi lên đóng quân ở Phum PA Sát Cha, phum nầy ở phía bên kia con suối cánh Ăng KOR Krao 3km về phía Tây Bắc.
Sa khi phát hiện nhóm địch ở phum ĂNG KOR KRAO. C9 được điều lấn vào đến phum  Pa Sát Cha, nơi đây có ngọn tháp cổ. Khi đầu tiên mới đến phum, xin đóng quân ở nhà dân, không nhà nào đồng ý cã, khi thấy bộ đội mình quyết tâm ở lại, dân họ đào công sự, anh em ta biết địch ở gần đâu đây. Nhưng việc đầu tiên và mấu chốt là làm tốt công tác dân vận. Mình cùng vài anh em nữa giúp chủ nhà đào công sự trú ẩn cho chủ nhà trước, sau đó mới đào công sự cá nhân cho mình. B của HR bố trí đầu phía Đông Nam của phum. Ngày hôm sau vận động cã anh em B3  làm vệ sinh giếng nước cho cã khu nhà nơi hai B cũng đóng, quét dọn sân sạch sẽ, anh em dậy sớm xách nước cho cã gia đình cùng sử dụng chung lu nước với bộ đội ta. Chỉ vài ngày sau thái độ chủ nhà thay đổi rỏ rệt, có rau cỏ bầu bí gì cũng chia cho chúng tôi. Nhờ công tác dân vận tốt như vậy mà sau nầy chúng tôi rất có lợi trong công tác nắm tình hình địch. Nhưng ở chưa được bao lâu  thì C9, cùng với tất cã các C rút về Cô Bênh để nghe phổ biến lệnh hành quân cho chiến dịch đánh núi Hồng. Từ Cô Bên D4 hành quân bộ theo ngã cửa tây đền Ăng kor THOM, qua cửa bắc vòng lên phum Kha Na Săng Day, qua phum Tà Beng. Tập kết tại đó chờ trinh sát đi nắm địa hình, tuần sau D4 chúng tôi hành quân lên núi, phối hợp cánh chúng tôi còn có thêm một đại đội của bạn  có hai cô nữ y tá của bạn đi cùng. Bố SƯỜN chọn nơi có độ dốc khó leo nhất để lên núi. Vì lúc đó địch ở trên núi gần ngàn tên, trên ngọn núi rộng lớn chì có một đường lên núi, chúng bố trí sẳn các công sự để chờ quân ta lên, và chúng sử dụng lợi thế đánh ta từ trên cao đánh xuống. Vì vậy bố Sừờn chọn điểm khó leo là một bất ngờ đối với chúng, nhưng chúng tôi phải vượt qua  vất vã đễ lên được ngọn núi, chúng tôi hành quân qua khỏi vị trí đặt pháo 105 của F, sau đó bí mật vào trong rừng già dưới chân núi từ sáng sớm nên chúng không phát hiện được chúng tôi lên núi ngay chỗ nào, khỏang 7 giờ sáng chúng tôi đến địa điểm chân núi, và bắt đầu leo núi, dốc gần như thẳng đứng, có những phiến đá to, chúng tôi phải cho người trèo giỏi leo lên trước, sau đó cột dây kéo súng hỏa lực lên, khổ nhất là khẩu cối 82 và 12ly8, DK Z 82, đợt nầy có cã trinh sát pháo 105 đi theo đội hình chúng tôi. Sườn núi không hề có một khe nước, chúng tôi phải tiết kiệm nước cho cã ngày hôm sau. Một ngày vật lộn vất vã chúng tôi vừa lên được ngọn núi thì trời sụp tối. Đóng  quân tại đó luôn , hai cô y tá bạn leo cũng giỏi không thua gì chúng tôi. D4 chúng tôi đã có mặt ở trên ngọn núi mà địch chưa hề biết. Sáng hôm sau, chúng tôi đi về hướng suối Siêm riệp (vì con suối nầy chảy từ ngọn núi Hồng về Siêm Riêp, gặp suối, D4 chia làm hai cánh: một cánh lùng theo suối, C9 tách ra một cánh đi về phía phum gần suối (dân họ gọi là Phum Thmây), nơi phum nầy có con đường tắt đi xuống núi ra ngay phum Tà kun, rồi ra thẳng phum Tà Beng. Trên đường đi thì cánh Tiểu Đòan  đụng địch trước. Cứ chúng gần thác nước, nơi có hang đá, có phum gần đó, chúng lấy nơi đây làm nơi huấn luyện quân. Bị ta đánh bất ngờ bọn chúng rút chạy, sau khi bị ta tiêu diệt một mớ. Bọn địch c1 nhiệm vụ phục kích chờ đánh ta ở mép ngọn núi chổ C9, cũng rút chạy luôn. C9 vào phum Thmây không có nổ súng phum nầy có dân ở. Sau khi đánh xong, Tiểu Đòan rút về phum Thmây cùng với C9, bố trí đào công sự nghỉ đêm tại đó  trên ngọn núi cao như vậy mà vùng nầy vừa đào công sự sâu chừng vài ba tấc đất là nước trào lên, sáng hôm sau truy đuổi địch về phía Đông Nam, đến trưa chúng tôi nghỉ giải lao ở phum có cây sòai lớn, đang nghỉ thì thình lình có vài tên địch vơ tình lọt vô phum , chúng phát hiện chúng tôi trước bắn một lọat nhưng không trúng ai và bỏ chạy, tôi cử hai chiến sỹ đuổi theo thu được nón trung quốc vải mới toanh. Chúng tôi tiếp tục truy đuổi đến phum có dân ở chúng tôi dừng lại đào công sự ngũ đêm. Ở đây chúng tôi được pháo 105 của sư bắn một quả làm chuẩn để có gì yêm trợ cho chúng tôi. Ngày hôm sau chúng tôi đi tiếp lên ngọn núi phía Nam, nơi đây chúng tôi cón nhìn thấy những tảng đá được đẽo vuông vức, có những bức tượng chạm trổ bị vứt lại, có lẽ do phế phẩm, nên không được đưa đi xây cất đền Ăng kor (nơi nầy chính là nơi lấy đá xây đền Ăng kor cách Siêm Riệp 60 km đường chim bay. Nơi đây anh em trinh sát bị cướp cò một quả M79, đầu đạn chỉa xuống đất quay vòng vòng trước mặt bốn năm người, nhưng không nổ. Sau đó D4 bắt tay với F302 lên núi từ phía bắc về. Lực lượng ta mạnh như thế cho nên bọn Pôn Pốt chỉ có bỏ cứ mà chạy thôi. Tôi cũng xin quả quyết một điều là trên núi Hồng chỉ có lực lượng Pôn Pốt, không hề có bóng dáng của một tên KHER TỰ DO nào cã. Những tên địch chúng tôi tiêu diệt và phát hiên  hòan tòan mặc quân phục Pôn Pốt, đội nón ga bạc đin Trung Quốc, áo quần ga bạc đin Trung Quốc xanh như rừng, bắn ak tòan vỏ đạn đồng mới ao, B40, B41 đều của Trung Quốc.  Chỉ có khác lạ là bọn chúng không đi dép râu mà tòan giầy bốt của Mỹ, còn chữ USA mới toanh,  có cã thịt hộp Mỹ. chúng tôi tiêu diệt lấy luôn cã giầy làm chiến lợi phẩm. Sau đó chúng tôi rút về đóng quân ở phum ban đầu và tổ chức lùng sục tiếp. Cho đến lúc nầy D4 chưa có ai thương vong. Giai đọan đóng quân ở lại núi Hồng. Chính giai đọan nầy anh em chúng tôi bị thương vong nhiều do phải xuống núi lấy gạo để ăn, chúng tôi ở trên núi một tháng, cứ mỗi tuần đi lấy gạo là phải đổi bằng máu. Địch còn sót lại trên núi chỉ có vài nhóm nhỏ, nhưng rừng mênh mông ta rất khó truy lùng. Tiểu đòan về đóng ở phum bên bờ suối lớn nơi cứ của chúng, ban đêm lạnh anh em đốt lửa bị chúng phát hiển bắn B40 vào, anh Ytá D4 bị hy sinh. Bố Sườn và anh Quyền CTV D phải thay phiên nhau thắp nhang canh xác cho anh em. Chúng tôi tổ chức lùng sục khắp ngọn núi vì vậy anh em trúng mìn cũng nhiều, có khi anh em hy sinh, cáng xuống núi lại hy sinh tiếp do vướng mín. Vì đường xuống núi mà cáng anh em được chỉ có một con đường duy nhất đi ra ngay phum Tà kun, phum nầy dân theo địch hơn theo ta. Chú Năm Mân Sư Trưởng mất ngủ là như vậy. Bọn địch sau khi bị ta chiếm trên núi, thì chúng chạy xuống núi. Có một tên giả dạng thầy tu, gọi là Tà Ngọ. Tên nầy ở ngay phum C9 đóng, nhưng khi điện từ Sư xuống cho bắt lập tức tên nầy, thì hắn vừa mới đi xuống núi qua chốt gác của B tôi. Vừa nhận được điện từ thông tin đưa xuống, chúng tôi đuổi theo nhưng không tìm thấy. Ở trên núi tu khỏang một tháng, sau đó chúng tôi rút về TàBeng, và sau đó về vị trí cũ, tức về khu vực Cô Bên, Cô ThNốt. bên bờ bắc hồ Ba Rai. C9 lại về phum Pa Sát Cha. Thấy B chúng tôi về đầy đủ chủ nhà rất mừng. Người dân ở đây cho chúng tôi biết khi chúng tôi đi đánh núi Hồng có một nhóm địch đến đây đo đạc vị trí chúng tôi đóng quân để bắn cối và tuyên truyền họ là quân của KHMER Tự Do. Nhưng nhân dân phát hiện ra họ tòan là quân Pôn Pốt, cũng quân phục giống như bọn trên núi Hồng. Người dân họ không gọi bọn nầy là KHER TD, mà họ gọi trại đi là Khmót (con ma). Nhân dân còn khuyên chúng tôi dời chỗ đóng quân vì lo cho chúng tôi sợ bị bọn chúng bắn cối. Chúng tôi vẫn đóng quân tại chổ cũ vì chúng tôi đã có cách phòng bị cho mình. Chúng cũng chẵng bắn được quả cối nào như tài liệu báo cáo của CIA mà các bạn đưa trang trước. Từ tình hình chiến trận cụ thể, từ nguồn tin trong dân, từ tài liệu báo cáo của CIA. Ta có thể tổng hợp và suy ra điều như sau :
Tài liệu CIA :
Kể từ giữa tháng 2/1981, đã có các dấu hiệu tăng cường các hoạt động quân sự trong khu vực rừng núi (mà Quân đội nhân dân Việt Nam gọi là núi Hồng), cách thành phố Siem Riep về phía Bắc – Đông Bắc khoảng 40km. Các lực lượng Campuchia dân chủ (DK) với số lượng và đơn vị không xác định tiếp tục chiếm giữ  khu vực rừng núi này.
Vào giữa tháng 2, các bộ phận của Trung đoàn 747 QDND VN thuộc Sư đoàn 317 đóng tại khu vực Angko Vat bắt đầu cùng với các lực lượng quân sự không được xác định của Cộng hòa Nhân dân Campuchia từ thành phố Siem Riep tiến hành chiến dịch tấn công vào khu vực “Núi Hồng”.
 Khoảng ngày 20/2, QDND VN cùng với Quân đội CHND Campuchia bắt đầu mở chiến dịch tấn công, gồm khoảng 50% lực lượng từ Trung đoàn bộ binh 775 và 50% từ Trung đoàn pháo binh 774, Sư đoàn 317. Binh lính của Tiểu đoàn pháo - cao xạ 24, 4 khẩu pháo 105mm của trung đoàn pháo 774 tham gia trận đánh từ làng Chhuk, gần khu vực mục tiêu.
Từ giữa tháng 2/1981 đến giữa tháng 3/1981 có khoảng 700 lính quân đội CHND Campuchia từ các đơn vị không xác định được đi dọc theo đường 5 đến Sisophon, theo đường 6 đến Siem Riep để tham gia vào chiến dịch.
Cuối tháng 2, trên 1 đại đội của Tiểu đoàn công binh 25 – Sư đoàn 317 đã được gửi dén để sửa chữa đường sá và cầu cống, rà phá mìn trên tuyến đường dẫn tới khu vực “Núi Hồng”. Một số lính của Tiểu đoàn công binh 25 quay trở lại làng SaLa Krao từ khu vực chiến đấu, đã báo cáo, các đơn vị QDND VN và QDND Campuchia đã bị thương vong vừa phải trong chiến dịch.  Lính công binh báo cáo hàng ngày về dấu hiệu các chuyến xe chở lính hy sinh về chôn cất tại nghĩa trang Siem Riep. Cùng thời điểm này, một số lượng không xác định lính bị thương được chuyển đến tại bệnh viện 7 của Mặt trận 479 trong thành phố Siem Riep để cứu chữa.
Giữa tháng 3, chỉ huy của Tiểu đoàn công binh 25 ra lệnh cho đơn vị sẽ bảo đảm cho các đơn vị QDND Campuchia và bộ phận của Sư đòan 317 chiến đấu chống lại quân Campuchia dân chủ tại khu vực núi Hồng. Lực lượng Việt Nam hỗ trợ QDND Campuchia bằng pháo binh và vũ khí nặng. Trong quá trình chiến dịch, lực lượng còn lại của.
Trung đoàn 747 tại Angko Vat đã bị lực lượng Campuchia dân chủ (DK) quấy rối, tập kích. Lực lượng DK sử dụng cối 60mm cứ 2 hoặc 3 ngày lại bắn và rút, tấn công bằng các đơn vị nhỏ trang bị súng phóng lựu (RPG ). Không rõ số lượng thương vong của QDND VN.
Như vậy: Chúng ta dể hiểu rằng . Do Lúc đó chính quyền Mỹ rất là thù địch với Việt Nam chúng ta, cho nên trong lúc tàn quân Pôn Pốt sắp sửa bị tiêu diệt. Thì nhà cầm quyền Mỹ  va Trung Quốc lại cùng nhau chi viện bằng tiền của, bằng súng đạn cho tàn quân Pôn Pốt, một nhà cầm quyền mang tội diệt chủng và tàn ác bị chính nhân dân Kam pu Chia và thế giới lên án không thể chối cải được. Muốn hợp thức hóa việc làm mờ ám nầy hồng che mắt nhân dân thế giới cho việc trả thù bẩn thỉu ấy, nhà câm quyền Mỹ và CIA dựng lên tổ chức gọi là KHMER Tự Do, nghe có vẽ hấp dẫn và hoa mỹ quá, nhưng lực lượng lấy đâu ra, bọn chạy theo tự do quen ôm chân đế quốc, ăn sung mặc sướng, chúng yêu bơ sửa đô la còn hơn cã tự do, có thằng nào dạy mà đâm đầu về chỗ chết. Chỉ có một số ít thằng xem phim hành động của Mỹ  rồi nổi máu khùng, ôm súng  nhảy vào định làm người hùng, nhưng chiến tranh đâu phải trò đùa, người hùng chưa thấy đã phơi thây, không lý tưởng, không vì dân vì nước thì làm sao chịu nổi khổ cực. CIA tung đô la đăng tuyển mãi mà đựơc mấy thằng đâu. Vì vậy nên phải đánh bóng lại đám tàn quân Pôn Pốt, bọn nầy nổi tiếng lỳ lợm và quen chịu khổ, vì chúng cũng đã từng kháng chiến cùng với Việt Nam chống Mỹ, đã từng được bộ đội VN rèn luyện chỉ dạy, tính ra đám nầy ngon ăn hơn đám quen bơ sữa kia nhiều. Vì vậy mà CIA  chi viện cho một mớ đô la sau đó gắn bảng hiệu là KHER TD để tuyên truyền lừa gạt thiên hạ. Chỉ buồn cười ở chỗ màn kịch quá vụng về, nên chính nhân dân Kam pu Chia còn phát hiện được cho nên thay gì gọi là KHMER tự do một cách hoa mỹ, họ gọi trại đi là kha mót (có nghĩa là thằng ma). Chính vì bọn nầy cũng chỉ là bình mới rượu củ mà thôi cho nên hình dạng quân trang của chúng dị hợm. Súng đạn, mũ nón áo quần Trung Quốc, người thì Pôn Pốt, chỉ có đôi giầy là của USA và một ít đồ hộp ăn vài bửa. Một điều mà người hiểu biết về thời cuộc không thể nào tin được khu vực núi Hồng là lãnh địa củ a KHER Tự do, ai mà chẳng biết, khi Pôn Pốt nắm quyền, bọn lính tay sai cho Mỹ chạy còn không kịp, lớp thì bị đập đầu, tên nào nhanh chân lắm thì chạy trối chết sang Thái, làm gì có gan mà ở lại núi Hồng làm lãnh địa, nghe buồn cười quá.  Nhờ mẹo nầy mà bây giờ khi tòa án Quốc Tế xử tội diệt chủng, Mỹ mới thóat được. Người Mỹ có thể trả lời rằng họ Viện trợ cho KHMER Tự Do, chứ có viện trợ cho Pôn Pốt diệt chủng đâu. Người Mỹ nghĩ như vậy chứ chưa chắc gì ai tin. Từ bài học ngày xưa mà ta rút ra bài học ngày nay. Các nhà tự xưng là dân chủ ngày nay nghĩ gì từ bài học ngày xưa ?
Hồi bọn nầy đóng ở cửa tây đền Ăng ko chỗ đập nước. Ở đó có hai ba tượng áp sa ra ai bỏ trong đám cỏ bọn nầy ban đêm làm biến gác, dựng tượng lên bên công sự  sau đó đội nón cối vào , thế là tha hồ ngủ . Sáng ra lại xô xuống công sự dấu , để tối mai gác tiếp . Nhờ có thần áp sa ra phò hộ mà địch nó không vào cắt cổ.
Nguyễn Văn Vàng hy sinh mình có mặt ở đó. Té ra có khi hai anh em mình cũng đã từng chia cơm vắt với nhau rồi đó. Sau khi đi đánh phum SKE Côn, nằm ở gần con suối cạn chảy ngang đầu phum Cà Tin , Phum Ske Kôn là phum hoang ,phía nam cách phum Cà Tin khoảng 3km đường chim bay . Lúc nầy là ông Kiệm tạm thời về thay bố Sườn chỉ huy D4 . D4 bắt được một tù binh trói hai tay dẫn về phum Pẹc Sa NENG. D bộ đóng gần cây cầu gổ, có con đường tắt về phía phum Pẹc Sa Neng Cha. Tên tù binh vụt chạy, anh trinh sát tên Nị (ngày trước là lính của mình, bèn bắn theo một trái B40, không trúng địch, đạn bay qua phía C Cối 82, C Cối tưởng bị địch tập kích  bèn bắn lại về hướng B40 vừa bắn ra, lúc đó B HR đóng sát bên đó chưa kịp nghỉ tay sẳn súng còn trên tay HR huy động thêm vài anh em chạy theo rượt tên tù binh, thì nghe cối 82 nổ sau lưng. Tên tù binh trốn mất, tìm một hồi không thấy, trở về thì mới biết, anh Vàng hy sinh. Nị hiện nay đang ở gần nhà mình .
Ăng ko Thom và Ăng ko watt là một quần thể đền đài, thành quách của đế chế Ăng ko. Tiếng Việt Nam chúng ta gọi là đế Thiên, đế Thích. Ăng Ko dịch ra tiếng Việt có nghĩa là thành, Ăng ko Thom có nghĩa là thành lớn, Ăng Ko watt có nghĩa là thành chùa (ngôi đền để thờ cúng). Đền Ăng ko Thom nằm ở phía bắc đền Ăng ko watt. Ăng ko Thom được sử dụng cho mục đích quân sự, còn Ăng ko watt dùng để sử dụng cho mục đích lễ nghi, thờ cúng.
Thành Ăng ko Thom được xây dựng theo nguyên tắc phòng thủ bốn cạnh, kết hợp với lũy cao –hào sâu, thành hình vuông, mỗi cạnh 3km, bốn cửa giữa thành nằm theo bốn hướng, đông tây nam bắc, Mỗi cổng thành là một cái tháp bằng đá chắc chắn, cửa phía tây còn lại cả hai cánh cửa bằng đá, lọai đá được lấy từ trên núi Hồng (phnum Kulên) nằm phía đông đông bắc cách Ăng Ko trên 40 km. Xung quanh thành có bờ đê trồng tre làm rào cản giặc, sau đó là hào sâu, rộng khỏang 10 mét, bốn cửa thành đều có cầu bằng đá khối bắc qua hào sâu để vào cổng thành, vách thành xây thẳng đứng, làm bằng khối đá ong, kích thước mỗi khối (1,5x0,8x0,8 m3) được xây xếp chồng lên nhau, trên bờ thành xây hình răng cưa mà ta thường thấy ở các dạng thành cổ, bên trong thành đổ đất tạo thành như dãy đồi dọc theo thành, có độ thấp dần, để quân lính bên trong lên mặt thành dể dàng. Khác với vạn lý trường thành ở điểm này, vạn lý trường thành, quân lính bên trong thành cũng như bên ngòai muốn lên thành hay xuống thành rất khó. Còn ở đây nhờ bờ thành phía bên trong lài như vậy, nên binh lính bên trong thành muốn lên mặt thành chổ nào cũng được, trên mặt hành bố trí các lọai công cụ phòng thủ và súng thần công. Bên trong khu trung tâm của thành được xây hòan tòan bằng đá, nơi ngủ nghỉ của vua, quan, có hồ dùng tắm ngựa, có hồ chưa nước tòan được xây bằng đá, góc phía tây nam, các cụ già bảo còn có hầm bí mật thông ra ngòai thành. Từ cửa tây có con đường dài về phía tây, hình cánh cung, đi đến biên giới Thái, cứ cách một khỏang chừng 3km có xây một tháp canh, gọi là Pa Sát, mỗi Pa Sát cũng xây bằng đá, xung quanh cũng có hào sâu, nơi đây chính là một đồn lính, cứ như vậy rải dài cho đến biên giới Thái. Phía nam cánh cung nầy sát với thành Ăng Ko là hồ nước nhân tạo tên là hồ Ba Rai (ba rai có nghĩa là hồ nước). Hồ nầy rộng 1,5 km hình chữ nhật dài 7km, là nơi chứa nước ngọt khi thành bị vây  và cũng là công trình thủy lợi dùng để tưới tiêu cho đồng ruộng phía nam thành. Hướng bắc cũng tương tự, có con đường và các hệ thống đốn lính kéo dài từ đến Ăng Ko cho đến Bành Tê Srây. Hai con đường tạo thành hai cánh cung hướng về phía Thái và biên giới Lào, tạo thành mặt trận phòng ngự vững chắc.
Trong khu vực cánh cung nầy mỗi một tên phum đều gắn liền với một câu chuyện lịch sữ của dân tộc Kam pu Chia. Chẳng hạn như  phum Péc sa Neng  gắn liền với câu chuyện như sau: Trong triều đại vua Ang ko có một vị vua thích săn bắn và trồng dưa , ông ta lập rẩy dưa ở khu vực gần núi Liếp,  ông ta cử một người để trông rẩy và cho phép người nầy có quyền bắn chết (bắn cung) bất cứ người nào dám trộm dưa của vua. Một hôm nhà vua đi săn  khi gần đến rẩy dưa, ông ta bèn cải trang vào trộm thử dưa của mình,  ông ta máng áo mão vào cành cây, và vào trôm dưa, người giữ dưa không biết là nhà vua bèn bắn chết. Triều đình xét xử thấy người giữ dưa không có tội mà lại thực hiện nghiêm túc lệnh của nhà vua, nên tôn người giữ dưa lên làm vua. Nơi nhà vua máng áo mão sau nầy thành phum gọi là phum Péc Sa neng (péc có nghĩa là máng vào, Sa neng có nghĩa là áo mão). Còn tên phum Fluông có nghĩa là  vấp té (giống như Gò Vấp của bác Ăng co Krao ấy), Khi nhà vua bị bắn lầm chết, quân lính khiêng về đến phum Fluông thì vấp té, sau nầy thành phum Fluông (Gò té) .
Vì sao thành Ăng ko kiên cố như vậy mà thất thủ được , tôi được một bà má ở Phum Péc sa neng (nhà bà ở gần trường học gần cầu , bà má không có con, nhà má có chiếc máy khâu , HR sửa được máy khâu cho má nên má thương HR như con) kễ cho nghe: Quân Siêm (Thái Lan) sau khi công thành nhiều lần bị thất bại, họ mới tìm hiểu nguyên nhân đánh không được là do bờ tre gai , thêm với thành cao, hào sâu nên rất khó đánh. Họ thay đổi cách đánh, họ dùng mũi tên bịt vàng để bắn vào hàng rào tre gai, khi dân Kam pu chia phát hiện được mũi tên có bịt vàng bèn xúm nhau chặt phá tre để tìm vàng, dần dần bờ tre bị phá sạch (âm mưu diễn biến hòa bình đấy các bạn). Một mặt họ cho lính pháo binh (súng thần công) trá hàng quân Ăng Ko  rồi dần dần tạo uy tín. Khi nhà vua Ăng ko tin tưởng  cho biên chế vào pháo binh của nhà vua, đến giờ G thay gì bỏ thuốc súng vào súng thần công, họ trộn đất cát vào, vì vậy súng bắn không nổ, hàng rào tre thì dân tự phá sạch vì vậy mà kinh thành Ăng Ko thất thủ.
Nghe dân họ bảo ngày xưa đến Ăng ko được vát bằng vàng, nhưng chúng tôi không thấy vàng đâu nữa  chúng tôi chỉ thấy những người dân đi đãi vàng. Họ tìm những nơi có dòng nước chảy đọng lại họ đải đất để tìm vàng, hạt vàng như hạt cát nhỏ li ti.
Còn đền Ăng ko Watt thì nhỏ hơn, cạnh hình vuông chỉ dài 1km, xung quanh đào hào trồng sen. Đền nầy chỉ có hai cửa, cửa phía tây là cửa chính. Con đường vào rộng thênh thang lát bằng đá khối, được mài nhẳn bóng, đầu đường là chiếc cầu đá bắc qua hào nước trồng sen, hai bên đừơng  chạm hai con rắn chín đầu, đầu rắn ở cổng vào to bằng người ôm, hai con rắn đá dài dọc hai bên con đường dài hơn hai trăm mét dùng làm rào cản an tòan. Mỗi một cọc hàng rào là pho tượng người lính bằng đá , trong cã trăm pho tượng người lính mỗi pho tạc hình một người có nét mặt khác nhau không ai giống ai cã. Qua hào sâu là vòng rào đầu tiên, Gồm dãy nhà có chỗ nằm của quân lính tòan bằng đá , dãy nhà lợp nóc cũng bằng đá , hàng cột thẳng băng không sai lêch một ly, tất cã lắp ráp với nhau bằng phương pháp đục lỗ , khắc mọng, cửa vào cho mỗi lớp rào là ngọn tháp có chạm các nàng ÁP SARA  thân hình căng đầy nhựa sống. Những cột đá tròn vo theo hình chuổi  như tiện , cột nào giống như cột nấy. Tôi cứ thắc mắc mãi thời đó máy tiện ở đâu ra  mà họ tiện cây cột tròn vo. Sau nầy khi nhìn dân Kam pu Chia tự chế tạo bánh xe bò tôi mới phát hiện ra phương pháp tiện cột đá. Người xưa tiện bằng phương pháp đục hai đầu khối đá cho có lỗ sau đó dùng gỗ chống tâm vào đó , vài ba người dùng chân lăn cho khối đá quay, một người thợ cầm cây đục tỳ vào khối đá, cứ như vậy tùy thuộc vào sự khéo tay của người thợ mà cây cột đá được tiện ra. Trong vòng rào nầy còn có một hồ sen, có rất nhiều cá, hồ sen cạnh ngôi chùa cổ. Vào khu đền phía trong, được lát đá cao hơn ngôi đền ngòa , trên vách tường đá chạm trổ các bức tranh, có nội dung nói lên lịch sữ hình thành đất nước Kam Pu Chia, những bức tranh thể hiện nền văn minh có trình độ cao dần của dân tộc Kam pu chia. Đầu tiên gần như thời đại ăn lông ở lỗ, dần dần có quần áo, xe ngựa, vua quan, có áo bào võng lọng. Những bức tranh mô tả các trận đánh, các tù binh bị bắt đem về làm nhân công, để xây dựng đền ăng ko. Nhưng đến vách phía nam có một đọan chưa hòan thành, sau nầy được khắc chạm thêm bằng xi măng, chứng tỏ rằng việc xây dựng Ăng ko wat chưa xong thì đã bị giặc chiếm. Khu đền trung tâm cao hơn hết, lên trên đó nhìn rõ sân bay Siêm Riệp, nằm về phía tây cách đền khỏang 5km. Giữa đền là ngọn tháp cao nhất có tượng thần bốn mặt,  cao đến nổi chúng ta cách đền 60km nhìn thấy tượng thần cao sừng sửng trên nền rừng xanh thẳm. Những người lính F317 chúng tôi may mắn được chiêm ngưỡng vẽ đẹp của kỳ quan thế giới xếp hàng thứ bảy nầy gần hai năm. Đây cũng là niềm tự hào về nền văn minh của dân tộc bạn.
Đất nước Kam pu chia những người lính chúng tôi trên bước đường chinh chiến gần như đi trọn từ biên giới Việt Nam cho đến biên giới Thái, chúng tôi tìm hiểu và làm quen  từ giọng nói cho đến tính tình của người dân từng vùng, có vùng giọng nói nghe rất nặng  như vùng Kam pong Thom, những vùng nói gịong không chuẩn như Sòai Riêng, PHNom Pênh và các vùng phía đông KPC, còn người dân Siêm Riệp là dân cố đô nên giọng nói họ rất chuẩn theo chữ viết của họ. Dân vùng Siêm Riệp cũng có trình độ hiểu biết về lịch sữ dân tộc họ cao hơn nơi khác, cho nên khi nói chuyện với những cụ già ở đây rất là thú vị. Chúng tôi trao đổi với họ về lịch sử dân tộc Việt Nam  bốn ngàn năm giữ nước. Có những đêm khi về dưỡng quân, ngồi trên nhà sàn , bên bình trà nóng được gữi từ Việt Nam sang do anh em  về phép, cùng với đường thốt nốt , nói chuyện với chủ nhà là thầy giáo, chủ và khách say sưa trao đổi với nhau những nét văn hóa của dân tộc mình. Bạn hỏi Việt Nam có thành nào to và vững chắc như thành Ăng ko không. Tôi trả lời rằng lịch sữ ông ,cha chúng tôi  giữ nước không phải bằng thành lũy, mà giữ nước bằng cách đánh, khi tiến khi thì lui, khi thì bỏ thành, khi thì công thành, tùy cơ ứng biến. Tôi đưa ra ý kiến, thành ăng ko nguy nga tráng lệ mà  thất thủ là do ông, cha các bạn quá phung phí sức dân, sức lính vào việc xây thành, làm cho đất nước kiệt quệ, dân quân ngao ngán. như vây làm sao mạnh được, họ gật đầu chấp nhận. Chúng tôi trao đổi với nhau về chế độ Pôn Pốt. Dân vùng Siêm Riệp là dân kháng chiến của Cách Mạng KPC cho nên họ hiểu về Bác Hồ, họ hiểu nguồn gốc của Pôn Pốt. Nói chuyện với họ nhiều khi cũng thú vị lắm. Họ kễ về Pôn Pốt như sau : Pôn Pốt, Iêng sa Ry, Khiêu săm Phon  không phải là người vô học, những người nầy đều du học và tốt nghiệp đại học ở Pari. Họ nhìn thấy sự lỗi thời, lạc hâu thời SIHANÚC. Thời SIHA NÚC, KPC thịnh vượng nhưng không phải do chính sức mạnh của người KPC, mà do nguồn sửa từ bên ngòai bơm vào, khi thì khối Công Sản, khi thì khối Tư Bản. SIHANÚC giống như người làm xiếc đi dây, bên nào bơm vào mạnh là ngã về bên đó. Vì vậy SIHANUC đổ là phải. Họ dẫn chứng cã đất nước KPC giàu có như vậy mà nền công nghiệp gần như không có, các nhà máy cao su đều do Pháp làm chủ cả, trường đại học thì chỉ có trường sư phạm, trường y, trường hành chánh học ra để làm quan. Còn trường kỹ thuật, trường nông nghiệp thì không có, không ai quan tâm. Thanh niên cứ tới tuổi lao động là đi tu, tạo nên thói lười biếng, ỷ lại. Đa số trong xã hội chỉ có công chức, người làm công cho nước ngòai, người thành thị là giàu có, còn đa số người dân thì nghèo khổ. Tình hình đất nước như vây có cuộc cách mạng là cần thiết. Nhưng khi làm cuộc cách mạng thì Pôn Pốt lại sai lầm hơn, vì nghiêng về phía quá cứng rắn. Sau khi KHMER Đỏ giải phóng PHNOM PÊNH, các thành phần xì ke, ma túy, gái điếm, cướp giật, là bắn tại chổ không cần tóa án, không cần xét xử. Ăng ca cho rằng thành phần đó là cặn bả của xã hội. Chùa chiền phá sạch, nhà sư phải hòan tục vì cho rằng nhà sư tu hành không lao động. Xóa chợ búa, xóa đi thành phần bốc lột, tất cã phải lao động hết. Xóa bỏ gia đình, xáo trộn các thành phần trong gia đình, đặt lại tên mới cho mỗi người, biên chế theo độ tuổi lao động, nam theo nam, nữ theo nữ, trẻ con theo trẻ con, già theo già, tất cả xã hội theo đội ngủ xóa bỏ gia đình. Chia dân ra làm ba lọai, trí thức và nhưng người đi lính, hoặc  theo LÔNNÔL đều bị giết . Càng ngày Pôn Pốt càng gây tội ác. Còn bộ đội Việt Nam thì hiền, nhưng tin thì họ chưa tin, họ nói khéo với tôi rằng : trong tự điển KPC có câu châm ngôn <<người dân khmer đừng quên nổi mất nuớc của dân tộc Chàm>>.
Như vậy rỏ ràng là bộ đội Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế không phải dễ dàng đâu các bạn ạ! Họ sợ Mình xâm lược. Vào thời điểm đó làm sao họ hiểu được vì tình thế bắt buộc nên muốn giữ bình yên cho đất nước chúng ta, bọn mình phải làm nhiệm vụ quốc tế.







100% các tượng Phật nằm trong đền Angkor Watt, không có đầu khi tôi tới đó đầu 1981, chỉ loe ngoe vài chân nhang nhét vào kẽ tượng và xung quanh. Chỉ có dịp Tết Chô Chơnăm Thơmây, dân K mới tới đây lễ và nhét tiền Riel lẻ vào kẽ tượng (Ngôi chùa trong khuôn viên đền, Sư bị Pốt lùa đi còn chưa đi bộ về tới nữa  ).
  Dấu đạn trong đền Angkor lúc đó đã có, nhưng không phải là do cố ý nhắm bắn vào các phù điêu và tượng đài trong đó đâu các bác . Tôi nghe kể lại khi bộ đội VN (Sư 302?) tiến qua KV đền này bằng xe, Pốt trụ trong đền bắn ra, bộ đội mình chỉ dùng đạn nhọn để đánh, không dùng hỏa lực B/DK để tránh hư hỏng cho ngôi đền này! (Chuyện này nhờ bác yta262 kiểm tra giúp với !). Thời gian 1981, ngang dọc khu vực đền Angkor Watt chỉ có lính E bộ 747 và các C trực thuộc (đóng ở con suối Spean Angko) băng qua đền để ra Siêm Riệp ! Lâu lâu mới thấy vài tay tây ba lô lui cui dùng giấy can và bút chỉ để can các phù điêu nhỏ trong đền ! Họ nhìn bộ đội mình cũng thân thiện lắm (dám không thân thiện lúc đó ? 2 Lính đi chợ cũng có ít nhất 1AK và 2 băng đạn buộc ngược đầu).
Có một số phù điêu APSARA còn bị đục cả khuôn mặt, nhưng không phải bộ đội, dân Hoa buôn đổ cổ từ SG và TL nó lội qua đấy ! Anh em C17 đi chợ về thấy, bắt giao cho vệ binh E xử tiếp.
Một điểm lạ nữa: lúc đó dân K không vào câu cá, hái rau gì trong KV đền Angko cả, họ chỉ vào nhặt củi và nước Thốt Nốt. Mặc dù hồ bao quanh Angko Watt và cái bàu nước trong đền Angkor Thum rất nhiều lươn, cá, bông súng, mấy cái bàu nước phía cổng tây đầy rau muống và ốc bươu.
Lúc hậu cứ E bộ 747 rút vào bàu nước gần cổng bắc Angkor Thum khi đơn vị đi Núi Hồng, số anh em ở lại coi cứ đi cả đêm để bắt tắc kè trong các ngách đá Bayon. Bắt nhiều đến nỗi phải phơi khô gởi cho AE ở tiền phương "nhắm" đỡ !
@ bác tai_lienson: Coi trên ảnh cái cổng Angkor Thum nhỏ vậy thôi, chứ xe REO của E747 qua vẫn vừa khít, dù 2 bên thành đá có rất nhiều dấu hằn do thành xe va quẹt (dấu rất cũ + dấu mới), cái cổng đá vẫn đứng vững. Cái dàn chống chắc làm sau 1982, chứ hồi em ở đó không có. Cái ảnh này bác DK-Saigon chụp từ trong đền chụp ra, hay chụp cổng bắc ? Cổng nam từ Angkor Thum nhìn vào 2 dẫy tượng đá bên mặt dữ, bên mặt hiền ôm con rắn không bị thê thảm như hình đâu.
Thời gian đầu 1979, có sư 302 & F31 của QĐ3 đã đến chiếm Xiêm Riệp. Đúng như Angko Krao nói, trong đền chỉ còn mấy tượng gỗ vô giá, mất đầu mất tay tùm lum, vậy mà sau này vào năm 2004, em vào đền thì thấy tượng đá và gỗ trả lại khá nhiều. Xiêm Riệp là khu vực tranh chấp của nhiều thế hệ, hết Xiêm La, cho đến chúa Nguyễn đến bảo hộ, rồi Pháp, Khmer Đỏ, rồi cố vấn Trung Quốc, rồi mới tới bộ đội VN mình là 1 trong những lính cuối cùng đến đây, các bác họ Đổ tên thừa vừa vừa thôi ạ  ... Chuyện tượng bị mẻ hay phù điêu apsara được/bị làm láng không phải chỉ có bộ đội mình. Trong số những người lấy cắp tượng ở Angko còn có 1 tay tổ người Pháp André Malraux mướn xe bò định chở cả đống tượng và phù điêu ở Banteay Srei và Angkor Wat về Pháp (nhưng bị thực dân ở Đông Dương bắt và kết án), mỉa mai thay sau này André lại được cử làm bộ trưởng Thông Tin và Tổng trưởng Văn hoá cho chính phủ De Gaulle (nhờ ông ta có công theo De Gaulle kháng chiến chống phát xít Franco Tây Ban Nha) nguồnhttp://en.wikipedia.org/wiki/Andre_Malreaux http://chimviet.free.fr/lichsu/chung/vids050.htm! Em đi chơi viện bảo tàng Bangkok còn thấy rất nhiều tượng và phù điêu của Kampuchia, họ còn đem trưng đền Angkor cứ như là đền thuộc về người Thái vậy, nhìn thấy mà tức cho dân K.! Trong văn hóa Campuchia, yta biết rằng người dân K. rất ngưỡng mộ nữ thần apsara, ai muốn có con thì hàng năm đến vuốt hết các tượng apsara (độ 1 ngàn tượng ở tầng thứ 1 và thứ 2 của đền) ở Angko Wat thì sẽ được toại nguyện, cho nên tượng láng chỗ đó là vì dân K., bộ đội mình ăn thua gì. 
Dân K hình như ở đâu cũng vậy bác angkokrao ơi! họ sống có vẻ đạm bạc vô tư, nông dân có lúa gạo rồi đổi chác thêm cá của dân chuyên làm nghề cá ( sông Mêkong, biển hồ...) làm mắm bò hóc, vậy là tưng tửng sống suốt năm, đờn ca lễ hội, thơ bon suốt! rau họ cũng ít trồng, loanh quanh mấy loại bầu bí trong vườn nhà, rau muống họ chê, bông súng càng không rớ đến! he he bởi vậy bộ đội ta mới có cái để cải thiện! đóng ở nơi có cái bàu mênh mông bông súng thế mà chỉ một tháng là sạch boong! he , bởi vậy mấy hào nước quanh đền ăngko giờ sạch bông tuyệt chủng bông súng từ 30 năm trước !  Mà sao món bông súng chấm cá linh kho ngon tuyệt vậy mà dân họ không biết ăn nhỉ!
Sau chiến dịch núi Hồng. C9 lại trở về phum PaSát Cha. Lúc nầy anh Hải là C trưởng, thay cho anh Xuân từ khi lên núi Hông. Về lại phum kỳ nầy, nhân dân thay đổi hẳn thái độ đối với anh em ta  nhờ làm tốt chính sách dân vận. Những ngày sáng trăng dân mở hội múa Lăm Thôn, vui thì cũng vui, nhưng đó cũng là cơ hội để địch trà trộn vào, vì không chỉ có dân trong phum tham dự mà cón có dân ở những nơi khác đến, vô cùng phức tạp. Những ngày dân vui múa, anh em chúng tôi phải tăng cường phục kích, tăng cường gác sách. Có lần mình dẫn một Tiểu đội đi phục kích  nơi ngã ba đường, xung quanh là rẫy lúa vừa mới gặt xong, chỉ còn một lùm bụi cây cao ngang ngưc, gần ngã ba,  hỏa lực gồm có một RPD và một B40. Mình bí mật bố trí anh em trong lùm cây đó. Trăng sáng tỏ cánh đồng. Trong phum tiếng trống lâm thôn thúc giục, các cô gái chàng trai Kam pu Chia, lũ lượt kéo đến chuyện trò rôm rả. Vô tình các cô lại chọn lùm cây anh em mình phục kích để tụ họp đợi chờ nhau, có mấy cô ngồi sát HR mà không hề hay biết, mình sợ lộ bí mật nằm im không dám ho, không dám thở mạnh. Có cô còn ngồi xuống đánh dấu giang sơn cạnh chúng tôi rồi mới chịu đi . Anh em chúng tôi  cố gắng nín cười gần chết. Lúc đó mà chúng tôi chỉ cần đứng phắt lên một phát là có vài cô chết ngất.
Còn một số anh em đi múa lăm thôn, nhưng lại làm nhiệm vụ. Bộ đội ta không có quyền khám xét dân bạn. vì vậy anh em nghĩ ra cách, thấy thanh niên là mừng rở ôm chào xum ma ki. vừa thân mật ôm vừa vuốt xem có mang vũ khí ở trong không ? Chốt gác cũng phải bố trí lại vì địch lợi dụng việc nầy để chúng thăm dò trinh sát quân ta . đúng là mệt bở hơi tai.
Khi chúng tôi lên núi Hồng thì một tốp địch đến đo đạc khỏang cách, khi về nhân dân đã báo cho chúng tôi biết và khuyên chúng tôi nên thay đổi chổ ở . Chúng tôi vẫn giữ nguyên vì nhưng chổ chúng tôi ở chỉ là ở nghi binh , ban đêm trời tối chúng tôi đều ra sát công sự để ngủ. Chốt gác cũng là chốt gác nghi binh, tôi chọn sát bên đường đi, tôi cho anh em đào công sự gác, quét sạch tạo ra dấu mòn để nghi binh là chúng tôi ngồi gác ở đó, trời có trăng tầm nhìn xa thì bố trí anh em ngồi gác nơi đó thật, còn khi trời tối, hay trăng vừa lặn, thì người gác phải vận động ra xa gần trăm mét. Chổ ngủ cũng thế trời có trăng , tầm nhìn xa thì ngủ ở dưới gốc cây sòai có cây thốt nốt vươn cao, ban đêm rất dễ nhận dạng mục tiêu. Ban ngày cũng mắc võng nghĩ nơi đó. Từ bìa rừng nhìn vào có thể thấy, hoặc ban ngày, người qua kẽ lại đều nhìn thấy. Bên ngòai Phum nơi B chúng tôi và B3 đóng quân là cánh đồng trống xa 1km mới tới bìa rừng, trên ruộng là những bờ ruộng ngang, trời tối bờ ruộng nầy là vật che đở rất tốt cho phía ngoài phum tấn công vào, còn bên hông chúng tôi thì có rải rác các bụi sim, nhưng địa hình không có vật che đở. Trên cơ sở phân tích trên. Tôi nhận định nếu địch đánh chúng sẽ đánh vào lúc trời tối và sẽ đánh vào ở hướng có bờ ruộng che chắn cho chúng, hơn nữa chúng tôi tạo chốt gác nghi binh trông có vẽ sơ hở . Lúc nầy Btôi chỉ có 8 người kễ cả tôi, nên chỉ bố trí được hai chốt gác. Cánh bên hông chúng tôi chỉ gài trái, khi kiểm tra đội hình đóng quân thấy bố trí chốt gác quá sơ hở bố Sườn hỏi tôi, khi tôi trình bày trình bày ý kiến trên bố đồng ý.
Ngày nào tôi không còn nhớ,  đúng như dự đóan sau hai ba đêm trăng sáng và phum tổ chức múa lâm thôn, bọn trinh sát chúng ra vào thấy chúng tôi ngồi gác gần chổ ngũ lại ngũ duới gốc cây sòai có cây thốt nốt mọc vươn cao lên, ban đêm chỉ nhìn sơ là xác định được điểm. Nên chúng tổ chức đánh. Trời vừa tối lại ngay ca gác của tôi (thiếu quân cán bộ B cũng phải gác) ca gác đầu hôm, trời vừa sập tối tôi ra gác nơi góc bờ cặp theo hàng cây, trong phum tổ chức múa lâm thôn, ngồi chừng 10 phút, có một người cầm súng đi dọc từ hướng sau lưng tôi ra phía trước, bên phạm vi của B3, cách bên trái tôi chừng 2 mét. Lúc đầu tôi tưởng là anh em bên B3 , định hỏi nhưng lại thôi không hỏi , khi đi khỏi tôi đến bờ ruộng bên B3 cao khỏi đầu , cách tôi chừng 5mét tên nầy ngồi xuống, và nghe tiếng mở khóa an tòan súng <<cách>>. Lúc nầy tôi cũng còn  tưởng là lính B3. Sau đó nghe tiếng Kam pu chia, tôi mới biết nó là địch. Như vây tên nầy đột nhập vào phía B3 sau khi đi một vòng trinh sát đến giáp Btôi nó trở ra gọi đồng đội vào tập kích, sau khi chúng phát hiện B3 chưa ra gác, anh em B3 và cả A cối qua B3 còn chong đèn ngồi uống  trà, ăn đường thốt nốt (món khóai khẩu của Nam Địa Bàn), và địch đã phát hiện thời cơ tốt cho chúng. Cũng may là vì chúng gọi đồng đội vận động lên để tập kích  nên tôi phát hiện ra, lúc nầy tên đi đầu đã ngồi khuất sau bờ ruộng, vì vậy tôi rút chốt trái da láng  cho bung mỏ vịt đếm đến 3, rồi ném, vừa nghe bịt là nổ liền. Bọn địch đang vận động lên, bị tôi đánh bất ngờ chúng nằm đại giữa ruộng mà bắn, chúng bắn qua cây thốt nốt chỗ B tôi nằm (bố trí nghi binh), nơi đây lãnh trọn 5-6 trái  B40 còn lại chúng bắn rải rác, lúc nầy tôi mới thấy bọn chúng đông, khỏang trên mười tên. Chúng bắn tất cã tôi đếm được 14 trái B40, có một tên núp sau ụ mối cách tôi khỏang 10 mét, nổ AK liên tục, vì không cón lựu đạn nữa, nên tôi bắn trả để cầm chân chúng vì tôi biết bọn chúng có bờ ruộng che chắn nên  bắn cũng không ăn thua gì, bắn điểm xạ, vừa bắn vừa lăn theo bờ ruộng. Vì vậy  chúng tưởng bọn tôi cũng có 6 , 7 người  nên rút chạy. Còn B3 bị đánh bất ngờ và cả NAM ĐB, cũng bị kẹt ở B3 nên khi chúng đã chạy rồi mới mang cối ra bắn. B tôi lính cũng có vài anh sang B3 uống trà, sau khi chúng ngừng tâp kích B40 rồi anh Phạm Ngọc Hà là người đầu tiên chạy về và vác cây M60 ra cho tôi, cũng chỉ bắn hú họa thôi, nó đã chạy mất. Sáng hôm sau báo cáo lên E tôi đánh 02 trái lựu đạn, thực sự tôi chỉ đánh 01 trái, còn một trái do anh Thơi đánh cá nên sẳn đó nhờ tôi khai, vì vậy mà tôi bị trên E chất vấn tại sao đánh hai trái lựu đạn mà địch không bỏ xác lại tên nào? Ngày hôm sau dân báo tin, chúng chết 1, bị thương 1, do trái lựu đạn. Như vậy ta đã nghi binh dụ được chúng, nhưng khổ nổi không biết chúng đánh ta lúc nào, phục riết rồi chán, đâm ra chủ quan, hơn nữa lại đầu hôm nên một số anh em bỏ vị trí chiến đấu, đi sang B3 uống trà chưa về, may mà tôi phát hiện và đánh chúng bất ngờ nếu không với lực lượng hỏa lực như vậy, mà chúng tiếp cận vào B3, thì nhóm uống trà xóa sổ.
Sau ở phum nầy chúng tôi đánh thêm một trận nữa, lúc chúng tôi mới nhận tân binh bổ xung, B tôi được 03 em, mới nhận ngày hôm trước  sáng hôm sau dân báo phát hiện địch đang lãng vãng gần suối. Tôi hỏi anh em tân binh có ai muốn đi đánh trận không, có một em xung phong, tôi dẫn một cũ một mới, anh Thơi B Trưởng B1và một lính mới nữa, tổng cộng 05 người. Tất cã đều ở trần mặc quần đùi, B40 thì chỉ cầm một trái, một trái ở trong nòng, tôi sách M60, anh Hồ văn Mấy xách B40, lính mới AK, Anh Thơi B40, lính mới AK. Chúng tôi đi khỏang 1km, nơi đây rừng sim cao ngang ngực, súng chúng tôi sách bên dưới , nên khi nhìn chúng tôi chỉ thấy đầu mà không thấy súng, anh Mấy quấn cái khăn cà ma đi đầu, vừa ra khỏi bụi sây là phát hiện địch  khỏang 7 -8 tên, mặc quần áo ga bạc đin TQ, đi giấy bốt, đang ngồi ăn cơm sau ụ mối, bọn chúng cũng rất khôn, ngối ăn cơm bên kia đồng trống, nên khi ta phát hiện được chúng thì chúng cũng phát hiện ta, nhưng vì chúng không thấy ta mang súng  nên chúng vẫn ngồi ăn cơm, ta cũng không còn cách nào tiếp cận chúng được, nên ở cự ly gần 200mét, đánh là không hiệu quả, nhưng vì hai bên đã lỡ đá lông nheo với nhau rồi, nên tôi cho nổ súng. Tôi nâng M60 lên làm một lọat, chỗ chúng đang ngồi bụi bay mịt mù, hai anh B40, mỗi người làm một quả, chúng trả lại 02 quả B40 và nhanh chân chạy mất. Chúng tôi chạy đón đầu phục nơi chiếc cầu, độc mộc bắt ngang suối, nhưng chúng cũng rất khôn chạy đường khác. Bọn địch như vậy đấy, chúng nhanh chân như sóc. Về nhà anh lính mới mặt còn xanh tái mét. Tuởng chúng tôi nói chơi ai dè đánh nhau thiệt, như là đi chợ vậy. Hai bên không bên nào thương vong.
Từ đó phum nầy không thấy bóng tên địch nào nữa. Như vậy từ một phum ban đầu chúng tôi đến, dân chúng cương quyết không cho chúng tôi đóng quân ở nhà, lần lần quen, có cảm tình, rồi đùm bọc cho chúng tôi, phát hiện địch là dân báo chúng tôi ngay. Sau nầy anh em còn đi vào rừng phát rẩy cho dân, đi chỉ một mình, dân đưa áo cho mặc, đưa nón  cho đội, súng dấu trong lùm cây, phát rẩy giúp dân. Địch đến không phát hiện được ta hay dân. Ta thắng địch là ở chỗ đó.
Nhờ bác Hai Ruộng và Angkor Krao xác định xem có đúng chỗ lại các phum mà 2 bác và E747 đã chiến đấu:
Tên Việt          Tên trên bản đồ
--------------  ------------------
Mông               Moung
Đôn Em            Don Em
PaSát Cha        Prasat Trav
Bantê Sơ Rây    Bânteay Srei
Péc Sa neng     Péak Sneng (rớt áo mão)
Flu ông            Phlông (gò té)
Angkor Krao      Ângkôr Krau
Puốc               Puók

Yta nhớ con đường máu lửa mà cánh vận tải sợ nhất là lộ 662 (được em khoanh tròn màu xanh dương). Đường này chạy từ Angkor Thum tới gặp lộ 68 tại phum Chông Kal (Ebộ 88 đóng tại phum Chông Kal này). Theo yta biết, lộ 662 là nơi xuất phát chính của các cánh quân của F302 (và sau này là 7705 của haanh từ phum Mông) đến phối hợp để bao vây Núi Hồng từ năm 1981 trở về sau.

Sau hai lần đóng quân ở phum Pasat Cha và hai lần chạm địch. Bọn chúng không dám họat động ở vùng nầy nữa, anh em bộ đội C9, dã dạng nhân dân k đi phát rừng làm rẫy giúp dân ở cánh rừng phía bắc phum sâu váo 4,5 cây số cũng không chạm địch. Thời gian sau chúng tôi được lệnh D4 huy động làm nhiệm vụ bảo vệ cho nhân dân bạn bầu cử, theo kế họach, ở địa bàn nào bầu cử chúng tôi sẽ có mặt ở đó. Các phum như FLUÔNG, ANGKOKRAO, một vài phum ở khu vực phía bắc quanh khu vực đền Ăng kor, như phum Trà Peng, vv… cuộc bầu cữ được thành công. Thời tiết bắc đầu vào mùa mưa dầm, D4 chúng tôi tạm rút quân về vùng phía đông nam thị xã Siêm Riệp, gần Biển Hồ, để dưởng quân và huấn luyện. C9 đóng ở phum Kha Na, nơi đây cách chợ Siêm Riệp khỏang 3km, nhân dân sống bằng nghề trồng rau. Lúc đầu vào xin ở nhà dân cũng rất khó khăn họ không cho, nhưng sau đó chúng tôi làm tốt công tác dân vận, càng ngày dân càng thương mến bộ đội Việt Nam, có nhiều gia đình, bà má coi chúng tôi như người thân ruột thịt, cho đến tận bây giờ tôi vẫn chưa quên, mong có ngày nào đó mình sẽ được trở về nơi chiến trường xưa, nơi mình đã từng đóng quân để gặp lại những người thân thiết. Dưỡng quân nơi đây vài ba tháng tôi học được rất nhiều chữ Kam pu chia, lúc đó tôi có thể đọc được sách vở, tài liệu bằng chữ K, nay đã gần 30 năm không sữ dụng nên chữ gần như trả lại hết.Dưỡng quân một thời gian chưa hết mùa mưa chúng tôi lại vào chiến dịch. D4 hành quân lên phum Bà Đrạ, gần góc phía đông bắc đền Ang ko, nơi ngã ba từ Siêm Riệp lên và từ phum Fluông ra, nơi đây địch thường phục kích xe chở gạo của ta vận chuyển lên Bành Tia Srây. Chúng tôi đóng quân ở đây một hai tuần, sau đó bung ra chốt bên ngòai thực hiện lệnh nội bất xuất, ngọai bất nhập để các đơn vị bạn (đơn vị bộ đội K) tảo thanh bên trong phum. Nơi phum nầy địch ở trong dân rất nhiều. Khi tảo thanh đơn vị bạn bắt cũng vài chục tên cho đến gần trăm tên. Khi ta đánh lên núi Hồng thì địch bỏ chạy về ẩn náo khu vực núi Liếp và xung quanh núi Liếp như : Péc saneng, Cà tin (Ting), Trúp, khu vực xung quanh núi Liếp. Sau khi tảo thanh một số phum theo đường lên Bành tia SRây. Chúng tôi hành quân lên phum KHANA  Săng Đai. đóng quân ở đây vài hôm, sau đó bí mật hành quân cắt rừng về phía tây, đi vào khu vực rừng dọc theo con suối Siêm Riệp, chiến dịch nầy do bố Sườn chỉ Huy D4, khi qua suối bộ phận đi đầu phát hiện cứ, chúng cũng phát hiện ta nên chỉ nổ súng vài lọat chưa triển khai đội hình là chúng bỏ chạy. D4 tiếp tục hành quân, mục tiêu tiếp theo là phum Stưng, Chúng tôi đến đây vào lúc chiều chập tối, chúng tôi  ăn cơm vắt và sau đó tiếp cận phum, bao vây xung quanh phum. C9 ngay vị trí đầu phum, khỏang 9 giờ tối, anh em khát nước quá, tôi phải lén mò vào phum lấy nước, vào nhà đầu phum thấy hai ba nhà tập trung lại nói cười vui vẽ bên ngọn đuốc, tôi nghi là địch đã rút đi rồi, tôi âm thầm bò về phía giếng nước và ôm luôn một gàu nước ra cho anh em, những người dân không hề hay biết. Mờ sáng hôm sau, D4 ra lệnh cho các C nhanh chóng vận động đánh úp vào phum, khi vào địch đã rút mất trước một ngày, có lẽ ngày chúng phát hiện ta ở bờ suối, bọn địch ở đây chúng chạy luôn. Chúng tôi trả lại gàu nước, chủ nhà chưng hững. Chủ nhà bảo đêm qua  vừa mới múc gàu nước lên để ở đó vô nhà một lát trở ra thấy gàu nước mất tiêu, như là ma nhát vậy. Chúng tôi đóng quân tại đây, để trinh sát D4 tiếp tục mò vào phum Péc Saneng. Sau khi phát hiện địch trong phum, trinh sát về báo cáo D4. Tiểu đòan tổ chức đánh, cũng bí mật hành quân ban đêm, sau đó áp sát mục tiêu, đợi trời vừa sáng là xung phong. Khi vào cũng phum không có địch, B chúng tôi đánh vào chổ dọc theo dường ra núi Liếp, sau khi vào phum  D4 bố trí B chúng tôi đóng luôn tại ngôi nhà gần sát ngã ba đường đi núi Liếp, nhà nầy của anh thầy giáo, có hai đứa con trai một đứa khỏang 7 tuổi một đứa khỏang 5 tuổi rất kháo khỉnh dễ thương. Ở Phum nầy nhà nào cũng đều có công sự trú ẩn vững chắc. Chúng tôi nhìn thấy nét mặt dân lúc nào cũng lo âu, lúc nào cũng quanh quẩn bên công sự, tôi có linh cảm kẻ địch lẫn khuất đâu đây không xa lắm. Sau khi vào phum chúng tôi đóng quân tại đây đào công sự và tổ chức lùng sục ra xung quanh phum nhất là hai bên con suối, chúng tôi phát hiện cứ chúng vừa mới bỏ chạy  ở dọc theo hai bên con suối cách phum chừng 1km về phía đông phum Pẹc sa Neng Thmây. Khi lên đánh vùng nầy chúng tôi thấy bọn địch ở đây có nhiều điểm khác với bọn địch ở Kam pong Thom. Bọn nầy được trang bị mạnh hơn rất nhiều, còn hơn cã bộ đội ta, quần áo, quân trang mới toanh, đạn cũng mới toanh, ak tòan đạn đồng, đi giầy bốt Mỹ. Lương thực bọn nầy gần như không quan tâm đến. Chúng tôi lùng khắp rừng không hề phát hiện cứ hậu cần hay kho dự trữ. Còn chính quyền ở khu vực nầy hầu hết là chính quyền hai mặt, khi ta đến thì chính quyền trựu tập dân cho bộ phận xây dựng chính quyền của ta họat động. Nhưng khi ta rút đi, địch đến thì chính quyền nơi đây cũng là bộ phận tập trung dân để thu góp lương thực cho địch. Còn địch nơi đây chúng cũng rất khôn, chúng không đóng quân trong phum. Chúng đóng ở ngòai phum, chỉ một bộ phận nhỏ ở lại trong phum, khi ta ít thì chúng tập kích tiêu diệt hoặc phục kích, khi ta mạnh thì chúng bỏ chạy. Vì vậy mà trinh sát F 317 bị chúng phục kích làm thiệt hại nặng tại ngôi chùa hoang trên đường 662 (từ Fluông đi lên pec saneng, Trup vv), sau khi đến Pẹc Saneng không phát hiện địch quay về đến ngôi chùa hoang thì bị phục kích. Hình như nơi đây bọn địch đã xây dựng được mạng lưới hậu cần và tình báo ở trong dân. Ở PecSa Neng vài tuần D4 Hành quân lên khu vực núi Liếp, dọc theo con suối từ Pẹc sa Neng lên. Sau khi lùng sục cã khu vực rộng lớn xung quanh núi Liếp chúng tôi cũng chỉ phát hiện những cứ chúng mới bỏ đi. Như vậy khi đánh hơi thấy E747 đến khu vực nầy chúng lại chạy đi khu vực khác. Tính ra con suối bắt nguồn từ núi Liếp chảy dọc theo về phía nam vòng qua phía bắc phum Pasat Cha chảy về hồ Ba Rai dài trên trăm cây số chúng tôi qua nhiều chiến dịch gần như đi trọn con suối nầy.
Ở lại khu vực núi Liếp gần một tuần chúng tôi quay về Pẹc SA Neng, C9 dời vềđóng quân phía bắc cây cầu B HR đóng quân tại nhà bà má có chiếc máy may, mình chỉnh sửa lại chiếc máy may cho bà và bà rất thương mình từ đó. Đóng quân ở đây B mình đánh hụt một trận  tại Péc SA neng Cha. Khi dân phát hiện một tốp địch khỏang 15 tên di chuyển từ núi Liếp căt ngang con đường về phía phum Péc Sa Neng Cha. HR dẫn một B lập tức đón đánh, khi đến nơi phát hiện chúng đã vào phum, đang bắt gà của dân, vì dân ở phum nầy cất nhà tập trung rất đông nên đánh vào sợ chết dân, mình mới dẫn anh em phục kích đường từ phum ra đi về phía tây, phục đến sáng, không ngờ bọn chúng lại đi con đường phía Nam để ra khỏi phum. Con đường nầy dẩn về khu rừng phía bắc phum Pa SÁt CHA, nằm phía sau lưng vùng chiến dịch của ta, tôi về báo cáo đại đội. Không biết trên có nắm hay không sau đó cũng thấy bỏ qua luôn. Lúc nầy cán bộ từ E cho đến D đều thay đổi. Ông Mao TMT tạm chỉ huy Trung Đoàn, bố Sườn hình như đi họp đâu đó, C9, đại đội trưởng cũng thay mới, ông Thương thiếu úy, dân hậu cần đệ tử của sếp Lan, sau một thời gian phục vụ hậu cần được cất nhắc đi học sỹ quan, đưa về làm đại đội trưởng vì cấp đại đội là khó chết rồi. Vì vậy sau nầy nhiều chuyện cười ra nước mắt xảy ra trong đơn vị.
Sau đó vài tuần D4  hành quân lên phía phum Cà Tin (Cting). E Tiền phương lên 747, lên đóng ở Pẹc SA Neng.  Từ Pẹc sa neng, E vận động dân phát trống hai bên đường mỗi bên 100mét về tận phum Fluông. Cứ của E747 cũng dời về phum Fluông.  Nơi đây tổ chức diển văn nghệ do anh em nghệ sỹ TP HCM lên biểu diển, lúc đó Hai Ruộng cũng được xem, vì đang dự đợt tập huấn chính trị cho cán bộ B. Tuy phát hoang hai bên đường nhưng thỉnh thỏang bọn địch cũng thường phục kích, nhưng anh em mình cũng chẳng sợ, cứ thích là xin phép đơn vị đi ra Siêm Riệp chơi, mua thuốc hút, bột ngọt cho anh em, nhiều khi đi một mình, bị địch bắn cứ chạy đại, hoặc là nhảy xuống các hố đào lấy đất có sẳn ở hay bên đường để đánh lại, ở khỏang cách trăm mét AK còn khó trúng huống chi B, đánh nhau bao nhiêu năm lính mình cũng nhanh như sóc, viên đạn đầu có trúng thì trúng chứ còn lọat đạn sau thì vô tư.
Ngài thiếu úy C Trưởng mới về C9, có gốc xuất phát từ lính hậu cần, có quá trình cúc cung phục vụ Sếp nên được cất nhắc cho học sỹ quan rồi phong C Trưởng  nên  anh em chúng tôi nói thật không có cảm tình gì mấy. Hơn nữa khác với các đ/c C Trưởng trước như Anh Mơ, Anh Xuân, Anh Long (đã hy sinh), Anh Đức Vượng, Anh Minh Hải dù người Nam hay Bắc anh em đều rất yêu quý vì Các đ/ c nầy hòa đồng với lính, đồng cam cộng khổ với anh em. Còn ngài C trưởng nầy rất quan cách, cái gì cũng muốn có người phục vụ (có lẽ quen gần các quan trên), thích tung hô chào hỏi, thích tỏ vẻ quyền uy. Trong khi Bố Sườn là  đại Uý, nhưng chúng tôi thấy ít khi nào bố đeo quân hàm cã, chúng tôi gọi cấp chỉ huy là bố, coi như người cha thực sự, bố gọi anh em chúng tôi là mấy thằng nhóc, có khi gọi tụi bây ra đây tao bảo. Có lần bố đánh anh chuẩn úy Btrưởng một bạt tay vào mặt vậy mà anh nầy rơi nước mắt vì thấy bố đánh là phải, không giận mà càng thêm tin tưởng vào bố. Còn tài chỉ huy của ngài Ctrưởng nầy như thế nào thì dần dần các bạn sẽ rỏ.
Bố Sườn ra lệnh cho mỗi C để lại một B giử cứ còn lại hành quân truy lùng về phía núi Liếp, cách Péc Sa Neng khỏang trên 10 km về phía bắc. Các tọa độ đã được giao trước cho các C. C 9 đi dọc theo con suối từ Pec sa neng  lên ngã ba gần núi Liếp. Một  C vào phum Liếp, một C vòng lên núi. C9 cắt rừng theo cách bờ suối 500mét, đi một ngày thì tới ngã ba suối phía dưới (vì vừa đi vừa lùng sục nên đi rất lâu), ngày hôm sau đến khỏang 4giờ chiều thì đến tọa độ qui định , phát hiện dấu chân địch  khỏang vài chục tên vừa mới đi nước còn đục, chúng tôi lùng sục một đọan sau đó xác định đã đúng tọa độ báo với ngài CTrưởng để cho thông tin báo về D4 , Tiểu đòan ra lệnh cho đào công sự chốt lại đó. Mới phát hiện dấu của địch thôi mà nhìn mặt ngài C Trưởng đã tái mét. Sáng hôm sau D4 ra lênh cho C9 vẫn chốt tại đó và cữ một B lùng sụt về phía bắc  sang một trảng trống gần núi Liếp, cách nơi đang đóng quân khỏang 2km  để bắt liên lạc với một bộ phận từ núi LIẾP cữ ra (cách của bố Sườn để kiểm tra xem các cánh quân có đi đúng tọa độ không anh em chúng tôi đã quen thuộc). Lúc đầu ngài C Trưởng cử một B của HR đi, sau khi cử xong anh em chúng tôi định đi thì ngài đổi ý, có lẽ ngày thấy lạnh gáy vì chỉ có hai B mà cữ đi một  còn lại chỉ có trên mười tay súng, hơn nữa vốn là lính hậu cần có lần nào cắt rừng sâu như vậy đâu, chạy còn chưa biết đường chạy huống chi đánh địch, vì thế ngài đổi ý. Ngài giữ tôi lại chỉ để anh em đi không. Anh em lại bảo không có tôi đi anh em không dám đi. Cù cưa mãi, tôi mới đưa ra phương án, tôi và hai chiến sỹ nữa là ba người đi là đủ, không cần đi đông , ngài mới đồng ý. Tôi đề nghị đưa bản đồ địa bàn để chúng tôi đi, ngài cũng sợ, cúối cùng ngài giữ bản đồ đưa cho tôi địa bàn. Cầm chiếc địa bàn mà tôi thầm cười trong bụng, ở trong rừng sâu mà giữ tấm bản đồ địa bàn không có thì cũng chỉ vô dụng mà thôi. Ba chúng tôi đo hướng sau đó âm thầm cắt rừng êm ru không một tiếng động. Đi gần một giờ nghe tiếng chim cu gáy, tôi bảo anh em cắt về phía đó sẽ có ruộng lúa đó chính là trảng trống ta tìm. Anh em cắt ra phía đó gặp trảng lúa thật, nơi đó có một cái chòi có đôi vợ chồng đang ở đó. chúng tôi cẩn thận chưa vội ra, đợi một lát gặp anh em phía bên C khác đến, hai bên bắt liên lạc về báo cáo cho đơn vị. Sau đó D4 ra lệnh C9 rút về Phum Liếp luôn. Chốt lại vài ba hôm ăn hết gạo trong ruột tượng rồi lại về Pec sa Neng giải lao tiếp. Gỉai lao xong rồi lại tiếp tục đi lùng.
Có lần cũng ở nơi Péc sa Neng khỏang 7 giờ tối địch bắn vào khu vực BCH tiền Phương E, sáu  bảy quả đạn cối, lúc nầy chỉ có Sếp Mao ở lại chỉ huy E, nghe anh em trên Trung Đòan nói chuyện tếu với nhau là Sếp Mao khi bị địch cối vào vị trí chỉ huy đã bốc nhầm điện thọai gọi cho C 12LY 8 ra lệnh cho bắn cối chi viện, còn gọi cho C  cối 82 (Cối của Ăng ko Krao) bắn 12ly 8 chi viện. Việc nầy không biết có không nhờ Ăng ko krao kiểm tra lại.
Tội cho ngài C trưởng  vì đóng quân ở sát E nên phải tổ chức giao ban gác ngày cho ra vẻ chính quy. Anh em có tật chủ quan ban ngày thường bỏ gác, nhưng vì thay vì nếu vị C trưởng có uy tín gặp anh em bỏ gác thét một cái là anh em sợ ngay. Đằng nầy ngài lại chơi dấu súng của A trưởng, cũng không báo cho tôi biết, đến khi tỉnh dậy thấy mất súng, anh Atrưởng đến hỏi tôi tôi cũng không hay, cã B đi tìm gần chết cũng không thấy. Chiều giao ban ngài lên lớp cho tôi một trận, tôi im lặng rút kinh nghiệm vì để anh em chủ quan bỏ gác. Sau đó ngài ra lênh tôi về bảo anh A trưởng lên gặp ngài. A trưởng lên, Ngài Ctrưởng chưa kịp kiểm điểm đã bị A trưởng đang tức chữi cho một trận. Tại sao ông bắt gặp tôi ngủ gục ông không kêu tôi dậy mà kiểm điểm tôi, ông lại đi dấu súng của tôi, lần sau nếu tôi đang ngủ mà ông vào lấy súng, tôi giật mình tôi bắn chết ông ráng mà chịu, nói xong bước vào Cbộ lấy súng về. C trưởng không nói được tiếng nào.
Một lần nữa, cũng vì tật thích ra oai, bắt anh em ôn lại điều lệnh đội ngủ  bắt anh em tập hợp đứng sắp hàng hô nghiêm nghỉ một hồi, có anh lính nổi khùng lên làm một lọat Ak, phớt qua đầu C trưởng, mặt ngài không còn chút máu. Bắn xong anh lính còn nói. Ông có ngon thì cho tôi đi ở tù luôn đi, khỏi đánh nhau, khỏi chết, chứ còn gặp ông tôi chán lắm rồi. Sau đó một thời gian thấy ngài chạy thuốc rút đi đâu mất.
Anh em trong đơn vị đã trụ lại với nhau gần bốn năm, vượt qua bao gian nan nguy hiểm, những người thiếu bản lãnh đã đào ngũ từ lâu. Đôi khi anh em có hành động vô tổ chức, vô kỹ luật, đó là cái sai của anh em, nếu không sửa chửa đơn vị sẽ không mạnh. Nhưng về người chỉ huy, tại sao các vị trước anh em đều kính mến, đều phục tùng răm rắp dù cho lao vào chỗ chết, còn vị nầy anh em xem thường, đây là đơn vị bộ đội chiến đấu, không phải huấn luyện, anh em đã dám hy sinh thì không còn sợ gì hết, anh em chấp hành mệnh lệnh từ trái tim của mình trước niềm tin và đức độ của cấp chỉ huy mà anh em cảm phục. Còn vị nầy lấy cái uy từ cấp bậc, từ cái thói lươn lẹo, khôn khéo mà ngài có được trong đời thường để ra oai với anh em.
Gần cuối mùa mưa năm 1981, E747 được bổ xung quân, kỳ nầy hầu hết tân binh quê ở vùng Nghệ An – Hà Tỉnh, đa số anh em rất trẻ, gần một nửa là người dân tộc, khu vực huyện Con Cuông. B mình nhận 4 chú, Cuội, Thành, Hợp, Phóng, các em rất còn trẻ thơ, ca hát hồn nhiên, có nhiều chú còn sợ ma, chúng tôi coi như em út vậy.
Mỗi lần nhận quân là mỗi lần vất vả cho đơn vị, dù tân binh đã được huấn luyện ở quân trường  03 tháng, nhưng so với nhu cầu thực tế ở chiến trường thì 03 tháng quân trường gần như là con số 0, hơn nữa kẽ địch trình độ chúng cũng lão luyện vì chúng đã tham chiến nhiều năm. Vì vậy chúng tôi phải huấn luyện truyền đạt lại từ đầu, vất vả và nguy hiểm nhất là cán bộ B. Đã có vài trường hợp ban đêm Btrưởng kiểm tra gác bị chiến sỹ mới bắn lầm và hy sinh, tôi cũng một lần súyt chết khi kiểm  tra anh em gác ban đêm. Sự việc nầy xảy ra sau khi chiến dịch núi Hồng, khi nhận quân bổ xung là các chiến sỹ cán bộ khung của E huấn luyện 477 ở Quang Trung, anh em nầy đã là cán bộ A dùng để huấn luyện Tân binh chứ không phải là tân binh nữa.
Đầu tiên thì bố trí một chiến sỹ cũ gác cùng một chiến sỹ mới, chúng tôi chỉ rỏ từng động tác quan sát và lắng nghe côn trùng vào ban đêm, cho đến lắng nghe tiếng động phát ra để phân biệt được tiếng động nào là do người, tiếng động nào là do thú, ngòai chiến trường phát hiện người là không hỏi, quan sát kỹ nếu chắc chắn là địch thì đợi đến gần vài ba mét nổ súng tiêu diệt luôn, vì nếu ta ngồi khơi khơi mà hỏi nếu đúng là địch thì người chết trước là ta. Vì vậy qui định cách đi đứng ban đêm là rất quan trọng. Nếu là ta thì đi phải thẳng lưng, không được cầm súng lăm lăm trong tư thế chuẩn bị bắn  trong khu vực đóng quân của ta. Còn địch khi vào tập kích ta thì chắc chắn nó phải cầm súng lăm lăm trong tay và chúng đã mở sẳn khóa an tòan, đi ở tư thế khom. Gặp trường hợp nầy mà ta hỏi là ta bị địch bắn chết trước. Cho đến cách đổi gác như thế nào để giữ được bí mật khi đổi gác, vì địch thường bò vào gần vị trí nghi là có ta ngồi gác rồi nằm im ở đó chờ ta đổi gác, nếu ta sơ ý lúc đổi gác làm chúng phát hiện được nơi gác, coi như chổ gác đó không còn tác dụng nữa. Kinh nghiệm nầy là của ta khi mò vào tập kích địch vì một đêm ít nhất cũng phải đổi gác 4-5 lần.
Phổ biến kỹ cách quan sát ban đêm, ban ngày phải dẩn anh em ra nơi gác bắt anh em nhận diện vị trí những gốc cây vì ban đêm, khi ngồi gác anh em mới còn sợ thần kinh quá căng thẳng làm cho hoa mắt thấy gốc cây chuyển động qua lại giống như có người bò. Chính vì trường hợp nầy mà các tân binh thường hay nổ súng vào ca gác đêm mà không thấy địch đâu cã làm lộ chốt gác, bố trí một chỗ gác tốt là rất khó chọn.
Dần dần thấy quen, rút đi lính cũ, bố trí hai lính mới gác chung với nhau. Từ giai đọan nầy trở về sau là B trưởng cần thiết phải đi kiểm tra và phải phổ biến thật kỹ cách bàn giao gác như thế nào. Vì anh em có khi còn sợ ma kết hợp với sợ địch, cã hai anh đều mới nên không ra gác đúng vị trí, có khi sợ quá ngồi gác luôn trên võng. Trường hợp nầy mà địch tập kích vào, cã B không tài nào trở tay kịp chết chùm trên võng là cái chắc. Hoặc là một anh vào trước  kêu đổi gác rồi lại vào ngủ luôn ca sau ca sau ra không tới vị trí gác  vì sợ, đến khi anh gác trước đợi lâu không thấy ai ra, mò vào, ca nầy nhìn thấy tưởng là địch bắn lầm. Phổ biến thật kỹ và phai đi kiễm tra thì mới anh em vững tâm được.
Dần dần khi anh em quen rút xuống cho gác một mình, lúc nầy Btrưởng cũng phải kiểm tra  xem coi anh có còn sợ địch không. Nhiều khi chúng tôi bố trí chốt gác cách xa cỗ anh em ngủ gần trăm mét, vì ở cự ly nầy thì khi người gác phát hiện địch nổ súng tiêu diệt . Chúng có nổ súng lại thì anh em đang ngủ mới đủ thời gian tỉnh hồn và ra công sự kịp. Nhờ vậy mà chúng tập kích chúng tôi nhiều lần nhưng chúng không làm gì được. Tôi súyt chết khi kiểm tra gác ở trường hợp nầy. Lúc nầy chiến sỹ mới từng là A trưởng huấn luyện ở E477 (Quang Trung). Khi đi kiểm tra cũng phải giữ bí mật cho chốt gác, nên tôi qui định khi nào có cục đất nhỏ ném vào chổ gác là tôi sẽ bò ra kiễm tra. Khi tôi bò đến gần chỗ chốt gác còn khỏang 5 mét tôi ném một cục đất nhỏ vào anh gác, ví quá căng thẳng nên anh nầy không hay, tôi tưởng anh ta biết rồi tôi tiếp tục bò ra  đến sát sau lưng, tôi vổ nhẹ vào vai anh ta. Anh ta đứng ngay lập tức quay ngoắt khẩu AK vào ngực tôi, tôi cũng phản ứng nhanh, đưa tay trái gạt luôn nòng AK ra vừa quát Tao, Anh chiến sỹ mới run như cầy sấy, run đến miệng lắp bắp: <<anh chậm tý nữa là em siết nguyên băng rồi>>.
Cũng một lần tôi súyt bắn lầm chiến sỹ của mình vì thực hiện sai qui định gác. Lần đó ở phum Fluông lúc mới về Ăng co trong đợt bảo vệ cho nhân dân K bầu cữ. Lần nầy B chúng tôi bố trí độc lập xa đội hình C9. một B chỉ còn khỏang 9 chiến sỹ. chỉ bố trí được hai chốt gác, như vậy còn một phía phải bỏ trống. Tôi qui định ban đêm anh em nào có nhu cầu vệ sinh đi về phía nầy và khi đi phải đi xổng lưng, không được đi khom. Phổ biến xong hỏi anh em rỏ chưa anh em trả lời rỏ, đến ca gác thứ hai, anh nầy là A trưởng và giữ khẩu M60, trước khi ra gác sách khẩu m60 ra gữi tôi (vì tôi luôn luôn ngủ ở vị trí gần chốt gác, để có gì xử lý cho lẹ) và mượn khẩu AK của tôi ra gác, gác gần một tiếng thì trời có cơn giông chuẩn bị mưa, lúc đó tôi cũng chưa ngủ, bổng nghe có tiếng húyt gió phía ngang hông nơi tôi qui định hướng đó không có gác (bỏ trống), tôi tỉnh ngủ nằm trên võng quan sát về phía đó không thấy động tịnh gì  khỏang gần một giờ sau tôi nghe tiếng động nhè nhẹ, mở mắt ra thấy có bòng người lăm lăm súng đi từ hướng đó thẳng về phía tôi chỉ còn độ 3 mét  vì tôi ngủ trong bụi chuối nên chắc chắn rằng nó không bao giờ thấy tôi, nhưng cũng không dám cữ động vì sợ địch phát hiện, đồng thời dùng chân phải móc cây M60 lên, móc không nổi, lúc đó thì bóng người đã vào sát bụi chuối, tôi bèn nằm im chờ cho hắn đi khỏi sẽ bắn từ sau lưng. Nhưng thay gì đi qua khỏi bụi chuối tay này quay lại vòng về phía võng tôi ngủ, tôi nghi là địch đã phát hiện ra chổ ngủ của mình, khi hằn vừa đến đầu võng là tôi nhào xuống, một tay nắm nòng súng đẩy ra, một tay ôm cổ vật xuống hai người cùng té, lúc nầy bóng người mới la lên là:<<tôi >>. Chúng tôi nhận ra nhau. Tôi mới hỏi vì sao anh gác chổ kia, mà sao lại đi vào hướng nầy. Anh ta bảo: <<lúc ngồi gác nghe tiếng có người húyt gió, nên tôi bò qua xem có địch không, chờ một chút không phát hiện gì, thấy gần hết giờ gác nên vào gọi đổi gác và trả luôn khẩu Ak cho anh >>. Cũng may là vì anh nầy mựơn khẩu Ak của tôi để lại khẩu M60 quá nặng, nếu không thì chắc tôi đã nổ súng từ lúc anh đi ngang sát bụi chuối  nếu lúc đó tôi  đặt AK trên bụng khi nằm ngủ, chỉ cần mở mắt là có thể bắn liền. Đến gần sáng có tiếng húyt gió một lần nữa, cũng không thấy địch, khi trời sáng, một đôi chim chìa vôi làm tổ trong  bọng cây thốt nốt bay ra, chúng tôi mới ngớ người. Như vậy khi trời có gió mạnh cây bị đung đưa làm cho hai vợ chồng chim chìa vôi thức giấc chúng thủ thỉ với nhau, làm anh em mình súyt bắn lầm nhau vì tưởng rằng tiếng ám hiệu của địch. Chỉ chuyện gác sách thôi ở chiến trường sơ hở là trả bằng mạng sống.
Ngòai ra còn phải hường dẫn anh em tân binh đủ thứ, từ lúc uống nước khi hành quân. Chúng tôi phải kiên quyết luyện tập, không để anh em lính mới mang bình ton nước khi hành quân vì có bình ton bên mình anh em lính mới ngữa cổ uống cho đến khi đã khát nước, uống như vậy chỉ cần đi khoảng mười km là khiêng luôn đi không nổi nữa. Chúng tôi mỗi lần uống chỉ một nắp bình ton cho thắm giọng thôi, khi nào rèn được mới giao cho bình ton. Chúng tôi huấn luyện từ cách đeo bao xe đạn, đeo như thế nào để khi vận động đánh nhau thì gọn  nhanh nhẹn, đi không khua, mà không bị ép vào ngực. Cho đến cách mang bình ton chỗ nào đi bình ton không kêu óc ách, ở trong rừng ban đêm chỉ cần bình ton nước kêu óc ách là kẽ địch có thể phát hiện được ta cách vài chục mét. Quần áo phải gài như thế nào để đi không nghe sọc sạch, cho đến trái lựu đạn phải mang ở đâu để cây rừng không vướng vào làm sút chốt khi hành quân, mà đánh lại nhanh, cho đến cách đánh lựu đạn, đánh như thế nào để địch không chụp quả lựu đạn ném lại ta.
Dạy cách căng tăng, mắc võng, chỉ cách đào bếp, lấy nước trong rừng vào mùa khô, cách tìm củi nấu cơm vào mùa mưa. Cho đến cách cắt rừng, tìm những lá cây trong rừng nhai đở khát nước, những lá nào ăn được.
Còn nhiều kinh nghiệm chúng tôi chưa được chỉ lại cho anh em, như nhìn khu rừng có thể đóan xem chổ nào có thể có nước, có những khu rừng phải sử dụng nước hết sức cẩn thận, có thể chết khác, ví dụ như rừng dầu mà con sóc, con chim cũng không thấy coi chừng chết khác, tìm nước không ra. Hoặc là rừng già, có suối có nước mà không có mễn, không có thú, không có heo rừng, dứt khóac là có địch gần đâu đây. Cho đến cách phát hiện cứ của chúng như thế nào tìm chốt gác của chúng ra sao. Thường khi lập cứ chúng chọn khu rừng rậm rạp, sau đó đốt cỏ xung quanh cho trống một khỏang để chúng ở bên trong dể quan sát ta ở bên ngòai. Chốt gác của chúng còn khó phát hiện hơn nữa cho dù ban ngày, thiếu kinh nghiệm khó mà phát hiện được, dù cho đứng cách một hai mét.
Cách phát hiện mìn như thế nào, cũng chưa kịp chỉ cho anh em, có lần cho anh em đi chốt đường, dân báo cho biết là phát hiện địch lảng vảng ở khu đó, tôi nhắc nhở anh em cẩn thận tránh mìn, tôi ở nhà lắng nghe anh em đi, tôi không cho đi đường mòn, phải cắt rừng, bận đi không sao, khi bận về thì bị đạp mìn, tôi dẫn một tiểu đội còn lại chạy ra chi viện, đến nơi mới biết người đạp mìn là A trưởng chứ không phải lính mới. Đau quá tôi hỏi vì sau chiến đấu bao nhiêu năm rồi để đạp mìn trên đường mòn vậy, A trưởng trả lời rằng :<< lúc đi tôi nghe lời anh cắt rừng không sao cả, khi về nhìn thấy có dấu lằn bánh chiếc xe đạp đi rồi nên tôi cho anh em đi theo đường mòn, tôi đi đầu đựơc một khỏang đường thì đạp phải mìn cụt mất bàn chân phải>>. Tôi cho đưa anh em ra quân y viện 7E. Sau đó về kiểm tra lại nơi trận địa thì mới phát hiện ra là, có dấu xe đạp đã đi qua thật, nhưng khi nhìn kỹ thì thấy, dấu bánh xe đạp chỉ in nhẹ trên cát mà không lún xuống cát, tôi mới phát hiện ra: sau khi chôn mìn trong cát, địch dùng vỏ (lốp) xe đạp lăn lên, tạo thành dấu xe đạp đã đi qua để đánh lừa ta, lại một bài học kinh nghiệm bằng máu. Nơi nầy xảy ra ở khỏang giữa phum Spiên Thmây và phum có chùa hoang mà Trinh Sát E đã từng bị phục.
Các bạn hỏi riếc đâm ra lộ một phần bí mật. Sử dụng mật khẩu khi nào đã chắc chắn không phải là địch rồi mới hỏi để xác nhận 100% là ta, thường áp dụng ở tuyến sau. Còn tuyến trước thường xuyên địch mò vào, nếu ta hỏi, thì lúc đó ta đã báo cho đối phương biết là ta đang ngồi ở đây, nếu đối phương là bạn thì sẽ trả lời theo mật khẩu, còn nếu đối phương là địch thì ngu dạy gì chúng trả lời, mà chúng sẽ hướng về phía người gác mà siếc cò, lúc đó người gác chưa kịp nhận ra địch thì đã chết. Chúng tôi đi trinh sát cũng thế, càng vào sâu trong lòng địch, rủi cho tên địch nào đang ngồi gác gặp phải chúng tôi, chúng chưa kịp thò tay rờ vào súng đã bị chúng tôi diệt gọn. Còn tuyến đầu chốt gác là tuyệt đối phải giử cho được bí mật. Vì chỉ cần để lộ chốt gác mà bọn mình biết được, lúc cã đơn vị địch đang ngủ say, chỉ cần một tổ ba người thôi là bọn mình đủ sức diệt cả đại đội không cần nổ một phát súng.
Sau một thời gian ngắn cũng cố đơn vị, D4 lại tiếp tục hành quân đi về phía bắc, trong lúc tòan D4 hành quân lên phum Cà Tin (Cting). B HR nhận nhiệm vụ do Tiểu Đòan giao, lợi dụng lúc hành quân đi lên Cà Tin, D nghi binh để B mình hành quân cắt rừng  về núi Liếp sau khi ra khỏi phum Pẹc saNeng  một đọan, cắt rừng bám dọc theo con suối phía bờ bắc, sau một buổi cắt rừng chúng tôi đến địa điểm do bố Sườn chỉ định, đó là ngã ba suối cách phum Liếp khỏang 1km, cách con đường mòn từ phum Liếp về phum Pec sa Neng, ở ngay đọan có nhánh suối cắt ngang đường, tôi lựa vị trí thuận lợi để bố trí B sau cho chỉ cần một chổ gác. Sau đó thực hiện mệnh lệnh của Bố, tạo điểm phục kích cho một tổ sát con đường mòn. Tôi chọn một ổ mối to như đóng rơm sát cách con đường 3 mét tạo ổ phục kích bí mật bố trí một khẩu RPD, một khẩu B40 và một AK. Anh em luân phiên ra phục cã ngày lẫn đêm. Ban ngày nhiều người dân, cã xe bò đi qua lại nhưng không hề hay biết. Nhưng đánh địch cũng không phải dễ, chúng tôi kiên trì phục một tuần mà không hề đụng địch, ăn hết gạo, cho thông tin báo cáo lên bố, bố ra lệnh cho cắt rừng rút về phum Cà Tin, lúc nầy là gần tết cổ truyền Việt Nam năm 1982. Thời điểm nầy anh Xuân lại về phụ trách Đại đội. Anh Xuân tổ chức cho cã C9 vào rừng đốn cây, đào lò hầm than, cữ người canh lò than, chỉ huy kỹ thuật là anh Xuân, sau vài ngày hầm than, khỏang hai hoặc ba lò gì đó. Số lượng than thu được cũng nhiều, Anh Xuân giao cho quản lý đại đội cùng với vài anh, thuê xe bò mang ra Siêm Riệp bán. Không ngờ được tiền nhiều ra phết. Mua được một con bò to, cã gà, cã thịt heo, rau quả, bột ngọt thuốc lá tha hồ ăn tết. Năm nay nhờ làm kinh tế tranh thủ mà anh em chúng tôi ăn tết lớn. Anh em vui sướng vô cùng. Đón giao thừa vừa ăn tết vừa chiến đấu, bên bình trà nóng anh Xuân Tâm sự với anh em chúng tôi về, cuộc đời riêng tư của mình về vợ con ngòai bắc, anh ước gì khi hết chiến tranh tất cã anh em mình về quê anh, quê anh gần biển làm nghề đánh cá, ở đó rất nhiều con sứa, gỏi sứa rất ngon và chính tay anh sẽ làm món gỏi sứa (món nộm) để đãi tất cã anh em mình ngay trên thuyền đánh cá. Nhưng nào ai có ngờ đâu sau nầy khi chia tay nhau quá đột ngột mỗi người một phương trời. Cho đến bây giờ tôi vẫn chưa gặp được người đại đội trưởng yêu mến đó.
Qua tết, D4 hành quân lên phum Trúp, C9 đóng ở cuối phum phía nam, phum nầy rất lớn, D4 đóng ở đây khá lâu, ở phía bắc cuối phum có bàu nước cạn, sáng sớm chúng tôi đi tuần phát hiện dấu chân cọp (hổ) ra đây uống nước, có hôm lúc trời sáng trăng dân đến báo có hổ vào nhà dân bắt heo, tôi cho một tổ ra săn, khi anh em đến một lùm sậy lớn, nghe tiếng gầm gừ trong lùm sậy, cho trung liên bắn vào, thế là nó cỏng cã con heo chạy mất chỉ để lại vết sậy và dấu máu, ở đây xung quanh phum heo rừng cũng nhiều lắm, khỏang một tuần sau có một tên địch ra hàng chúng tôi.
Khỏang một tháng vào buổi sáng, anh Ngọc đen, tay trinh sát giỏi của Tiểu Đòan  đã lập nhiều chiến công, thấy địch tình yên tỉnh, anh vác AK sang chơi C11 dọc theo đường bị địch phục kích, chúng định bắt sống, nên chúng bắn tắc cú vào chân, bắn viên đầu trượt, anh Ngọc tưởng đâu anh em đi săn bắn lạc đạn, viên thứ hai trượt tiếp, quay lại nhìn kỹ thì thấy một đám địch lố nhố bên đường, anh vừa xuống súng định bắn lại thì chúng đồng lọat nổ súng, một viên trúng vào mông bên phải làm anh rớt khẩu Ak. Vì chúng đông quá, anh Ngọc nhanh chân chạy tạt vào phía bên nây rừng, chúng đuổi theo truy lùng, nhưng với kinh nghiệm nhiều năm dù rơi vào tình thế rất ngặt nghèo, anh Ngọc bình tỉnh chạy một đọan, lợi dụng rừng anh bẻ ngoặt vòng ngược về phía sau lưng địch, chúng cứ đuổi theo hướng anh chạy ban đầu vì vậy  càng lúc chúng càng xa anh. Một hồi sau vết thương thắm đau anh phải lết mới về đến đơn vị.
Ở phum nầy gần nhà mình đóng quân có một cụ làm nghề thầy bói, vô tình mình đến chơi thế là cụ bảo lên đây cụ xem cho, mình cũng lên, sau một hồi ngắm mình cụ bảo khỏang một tháng nữa mình sẽ được về nước, mình cảm ơn cụ rồi lẵng lặng đi xuống cầu thang. Ở đây một thời gian, lùng sục khắp nơi cũng không phát hiện cứ của địch. D4 rút dần dần về phía  Péc sa Neng  theo kiểu cuốn chiếu, rút đi nhưng để lại một B phục kích đầu phum kiểu núi Liếp. Khi vừa rút khỏi phum Cà Tin  thì chiều hôm đó địch mò vào, bị tổ phục kích của ta diệt sạch hai mạng (do anh Phụng bắn, cũng để địch mò đến gần còn hai ba mét mới bắn nên không thằng nào chạy khỏi).
Khi về đến Péc Sa Neng, thì D4 cử một C đi lùng ở phum Ske kun. Bất thình lình đụng địch quân số rất đông có thể gần trăm tên, có cã cối 82, C10 bị một trận bất ngờ, nhưng chỉ có vài người bị thương, không ai hy sinh. Ngày hôm sau cã Tiểu Đòan hành quân vào thì địch rút sạch trận nầy do Ông Kiệm chỉ huy, trên đường hành quân về bắt được một tên trinh sát của chúng ở bên bờ suối cạn, chúng tôi lấy dây võng trói ké dẫn về, đến phum Péc sa neng vừa về đến cứ  thì tên nầy chạy, anh Nị bắn theo một quả B40, trượt, đạn bay về phía cối 82, Cối 82 tưởng bị địch tập kích bắn phản pháo liền một quả rớt ngay con đường chúng tôi đang đuổi theo tên tù binh, may tôi vừ chạy khỏi nghe tiếng cối nổ sau lưng, tên tù binh chạy mất, lùng sục trong rừng một hồi không thấy tôi cho anh em rút về mới hay cối ta bắn làm anh Vàng khẩu 12ly 8 hy sinh.
Đóng đây một thời gian, E Tiền Phương rút về phum Spên Thmây, đóng nơi trường học. D4 vẫn còn ở lại Péc sa Neng, nhưng C9 thì rút về phum Spên Thmây theo ETiền Phương. C9 bố trí đóng đầu phum phía bắc gần cây cầu gỗ. Chúng tôi bố trí đội hình xong Bmình đóng chận ngay đầu phum. Ngày hôm sau Sếp Mao TMT lúc nầy chỉ huy Trung Đòan đi kiểm tra vị trí đóng quân, khi đến Bmình, Sếp ra lệnh cho cữ một A ra ở ngay phía dưới căn nhà sàn nhỏ nằm giữa đồng vì Sếp cảm thấy hở sườn ở phía đó. Tôi không chấp hành mệnh lệnh vì thấy vô lý. Tôi không bố trí anh em ở đó vì căn nhà sàn nhỏ nằm giữa đồng trống không có vật che đở cũng như che khuất, xung quanh đồng trống cách căn nhà chưa tới 60 mét bao bọc xung quanh là rừng chồi, bố trí chốt gác ở trong sát rừng chồi thì làm sau quan sát được địch khi chúng đã vào rừng chồi, có phải là đưa một A ra đó làm bia cho địch nó bắn hay không, tôi xin vẫn để một A ở luôn bên nầy đồng trống như củ, chỉ tổ chức thêm một chốt gác quan sát ngay dưới nhà sàn, ông ta không chịu, có cã C trưởng đứng đó (lúc nầy là anh Hải), ông ta khăng khăng không chịu và bảo rằng tôi bể chiến đấu, chống lệnh. Tôi tức quá nói luôn , ông có ngon thì cùng với tôi văng võng ngủ tại đó để cho anh em ở trong nầy, ông có dám không. Ông không nói gì hết phăng phăng về E Tiền Phương, ngày hôm sau ra lệnh cho C Trưởng tổ chức họp hội đồng kỹ luật xét kỹ luật tôi. Tôi vẫn trình bày như thế và vẫn cho anh em đóng quân như cũ.
Vài ngày sau anh A trưởng (đáng lẻ phải đóng quân ở nhà sàn) , tôi ra lệnh cho chốt đường khi về thì đạp Mìn (trái mìn mà địch chôn rồi lấy vỏ xe đạp lăn lên để ngụy trang), anh bị cụt mất bàn chân phải. Vài ngày sau chúng tập kích vào B tôi, lúc 2 giờ chiều, làm một chiến sỹ bị thương, tôi lập tức triển khai đội hình rồi nhanh chóng dẫn hai chiến sỹ nữa với tôi là ba người cắt rừng chăn đường chúng, vừa ra khỏi rừng gặp dấu chân chúng mới vừa đi qua, chúng tôi bám theo, đến nhà sàn đầu phum (phum có chùa hoang, nơi đây trước kia chúng đã từng phục kích trinh sát Sư, nơi gài mìn mà một A trưởng của tôi vừa mới đạp cách đây vài ngày)  thấy dấu chân tập trung nơi đây và có một dấu chân còn dính cát leo lên nhà, nhà đóng cửa, tôi đạp bung cửa, một tên địch đứng sau cửa té đái ướt cã quần, mặt còn đóng khói B40, súng chúng đã dấu nơi khác, đang bắt tên nầy, thì trong phum chúng ra ám hiệu từ nhà nầy truyền qua nhà kia, vì có ít người chúng tôi nhanh chóng rút và lôi tên nầy về nộp cho E.
Hai ngày sau buổi trưa tôi được lệnh hành quân về phum FLUÔNG trả vũ khí và về nước học đại học, cùng với tất cã anh em học sinh sinh viên tình nguyện tham gia bộ đội vào ngày 4 tháng 11 năm 1978. Buổi tối chia tay hết sức bất ngờ với anh em, tôi không cầm được nước mắt. Liên hoan cho buổi chia tay là một con gà gần một kg, do đổi cái áo, khi nồi cháo gà chín thì trời vừa tối, anh em phải ra gác  ai còn lại cùng nhau liên hoan trong bóng đêm , nói với nhau khe khẻ  vì vậy mà buổi chia tay không bao giờ quên được, bình ton tấm dù để lại cho anh em, tôi chỉ mang chiếc võng nylon cũ rít về vì chiếc võng nầy là của anh  Y Tá Tiểu Đòan khi hy sinh ở trận đánh trên núi Hồng, chiếc võng còn vết đạn và còn cã vết máu của đồng đội giặt không phai, sau đó cấp cho tôi khi võng tôi bị rách, chiếc võng nầy hiện nay vẫn còn trong ba lô kỹ niệm của tôi.
Năm 1988 tôi vào “tình nguyện” vào cơ quan tiền phương TCHC đóng tại trai Đa Vít ở Tân Sơn Nhất của Mỹ cũ. Với chức danh: Trợ lý kỹ thuật TCHC rất oai, quân hàm đại úy. Phòng KT của tôi ở Hà Nội đảm nhiệm rất nhiều việc: bảo đảm KT cho toàn bộ các nghành nghề chuyên môm cho TCHC, trong đó có cả ban khoa học hâu cần kể cả quân y học, tập chí Hậu cần. Nhưng thực chất năng lực thì chủ yếu là xe và tàu thuyền. Nên ở trong Nam nó cũng rứa nhất là chỉ có một mình tôi. Nên ngoài việc tàu xe ra mà gặp việc khác thì tôi chỉ lưu CV theo thủ tục hành chính và kính chuyển các nơi. Ở phía nam, riêng lực lượng vận tải có e33 vận tải oto đóng ở Biên Hòa, e685 vận tải ôtô + 1 tiểu đoàn tàu pha sông biển, đóng ở Tân Cảng, e685 vân tải ôtô vận tải ôtô đóng ở câu sập Nongpeng ngoài ra còn rất nhiều những đơn vị trực thuộc khác: các kho quân lương quân trang ở Gò Vấp, kho QY ở Tô Hiến Thành, kho vật tư ở Tân Cảng, các xí nghiệp may đ x28,x32 .v.v.. nhiều lắm tất cả xe đều mang biển TH…. Cái thời cơ chế xin cho mà để một thằng đại úy nhưng tôi quản thì không thể được. Nên tất tật tôi chỉ là người đề xuất (kèm chữ ký của mình), tiếp sau là chữ ký của một phó phòng KH TCHC, chữ ký cuối cùng là đại tá tham mưu phó TCHC, một số trường hơp phải thiếu tướng phó chủ nhiệm TCHC quyết mới xong.
Lúc ấy phải nói quyền tôi to lắm, nhưng không hề lạm dụng (nhiều người nói là ngu), tôi đã giải quyết công việc mà dưới quí, trên tin. Thực sự để làm được điều này không dễ đâu, vì mình phải hiểu cái nào là đòi hỏi quá mức của cơ sơ, cái nào là cần thiết cho họ nhưng có những cái chả ảnh hưởng đến ai thì tôi chiều, nên dưới quí là vậy.
Duy có một lần tôi giải quyết hơn 100 bình điện mà chỉ viết giấy “ bướn”, tôi đã phá lệ và anh em coi kho cũng phá lệ. Cuộc rút quân của bộ đôi tình nguyện K năm 1989, chúng tôi đã làm KH bảo đảm xong xuôi, kiểm tra các khâu hoàn chỉnh, chỉ chờ ngày xuất quân. Trước hai ngày xuất quân thì phó chủ nhiệm kỹ thuật e33 (bây giờ đang là cục trưởng cục vân tải TCHC) lên, mặt tái mét :” Phong Quảng ơi ! Đêm qua bọn trộm Tam Hiệp nó vào mang cả xe lam lấy hết số bình đang nạp ở xưởng rồi.”
Hai anh em ngồi bàn đi tính lại chỉ còn cách cấp mới để kịp hoàn thành nhiệm vụ (bình mới phải nạp theo qui trình phụ thuộc vào thời gian) và nghĩ báo lên trên lòng vòng sợ không kịp. Tôi viét một giấy tay cho chủ nhiệm kho và mọi cái đều đúng như ý đồ. (Bác nào trong đợt rút quân ấy êm ả là nhờ có tui đó, không thì ít nhất một trung đoàn nào đó còn mằn lại đấy, kể công chút xíu mà).
Sau khi rút quân thắng lợi, tham mưu phó gọi tui lên hạch :
_ Sao cậu không báo cáo tớ
_ Tôi phân trần rằng sợ không đủ thời gian và rồi nhiều lý do nữa
Xếp cười tuơi và nói :” Cậu không tin tớ à !!!”
Hóa ra được xếp khen,  Thực sự cái bộ sậu hậu cần phía Nam chúng tôi làm công việc bảo đảm cho anh em bên K đã làm hết mình. Các bác lính K và cả phía bắc nữa rất khổ đấy nhưng đất nước lúc ấy thực sự khó khăn.

Khi bác 2 ruộng dẫn tên tù binh về phum Piệc chơ năng, thì tôi đang mặc tà lỏn đứng tắm ngay cái giếng, khẩu AK dựng ở gốc dừa bên phải tấm hình này, và tôi nhớ không lầm thì có múc nước cho 1 anh D4 đi đầu tạt vào rửa mặt, tốp AE đi sau tạt vào các nhà dân ven đường, không đi sát thằng tù binh, nó quan sát thấy phía sau chỉ có 1 người mang B40, nên nó vùng chạy vào đường mòn về hướng phum Piệc ChơNăng Cha.
Căn nhà trong hình là nhà kho của Pốt bỏ hoang, B DKZ của C17, dùng làm bếp. Từ hướng bắc bác 2 về qua căn nhà này là tới cây cầu gỗ. Khẩu DK82 nằm ở bìa rừng sau căn nhà gỗ này, nòng hướng vào phía núi. Tấm hình này tôi chụp chung với Mạnh (B phó B 3 DKZ ), khoảng 3 bốn ngày trước khi Vàng hy sinh. B trưởng B 3 (anh Thụ) luôn bị đau thần kinh tọa nên thường xuyên giữ cứ ở phum Angkor Krao  , rất ít khi đi chiến dịch. Vàng là chiến sĩ cối 82, thuộc trung đội 2-C17 đi tăng cường cho B1 của tôi trong chiến dịch này.
Tên tù binh bắt ở gần O Chek kun, anh em mình quen gọi là (ske kon), khi đưa về Pec sa neng nó chạy, tay giữ cây B40 mà Ăng ko krao mà nhìn thấy đó là Nị (lùn ) trước kia là lính của mình sau nầy điều lên trinh sát, lúc đó B của mình đóng gần nhà ở trường học cũng gần cái giếng nước, khu vực bên nây cầu chỉ có một cái giếng nước đó thôi. Còn gần phum Liếp có nhánh suối cắt qua con đường mòn đi về péc saneng (Peak sneng) là nơi B mình phục kích, sau đó cắt băng ngang khu rừng già về phum cà tin (phum TING) khi cắt qua rừng già anh em mình còn gặp một con gấu. Hình Ăng ko krao chụp có phải do tay thầy giáo nhà ở Péc saneng cạnh nhà má có máy may không ? Tay nầy chuyên chụp hình cho bộ đội, chụp hình chổ nào là chổ đó bị tập kích, Ăng ko krao có để ý việc nầy không ?
Bản đồ nầy hình như lâu lắm thì phải. Ở péc saneng Cha con đường mòn thì đúng, có lần mình phục kích ở con đường ra hướng tây, thì địch lại ra con đường hướng nam, nên nó thoát được, lúc đó nhà dân ở hai cụm, phía bắc con đường ở tập trung là đúng rối. bọn địch bắt gà ở đây mình nằm sát phum nhìn thấy nhưng không dám bắn vì sợ dân chết nhiều. Như vậy ở bài viết trước sau khi phục kích hụt mình về báo cáo nhưng E không để ý lúc nầy sếp Mao chỉ huy, rỏ ràng là một vùng rừng phía sau lưng chiến dịch, E747 đã bỏ sót không hề có cuộc truy lùng nào.
Còn ở Pẹc saneng Thmây thì đã có trường học nhưng chỉ có một cái nhà lúc mình đánh nhau là khoảng ba, bốn cái nhà ở bên đó lận, cái giếng ở bên đó luôn, lúc 7 giờ sáng có lần B mình bị nó bắn B40 vào giếng khi thấy anh em mình tập trung tới đó rửa mặt đánh răng, mình bắn trả ngay một trái B40 liền sau đó.
TP HỒ CHÍ MINH Ngày 19 tháng 6 năm 2009
Kỹ niệm 30 năm những tháng ngày truy đuổi địch .
Tâm tư những người lính.
Hai Ruộng xin chào các bạn.
Sau 3 năm 11 tháng 27 ngày phục vụ trong quân đội. Đây là khỏang đời đẹp nhất, dù rất khó khăn gian khổ, nhưng nơi đây thể hiện cuộc sống và những bài học thực tế đầy tình người tình đồng chí, đồng đội. Những tấm gương không bao giờ phai như đ/c thượng úy CTV Tiểu Đòan Phạm Thanh Mai hy sinh vì cứu người lính liên lạc của mình, đ/c đại úy Tiểu Đòan Trưởng Đàm Văn Sườn mà anh em cã tiểu đòan yêu mến gọi là bố Sườn, người chỉ huy đầy quả cảm, bình tỉnh và thông minh đ/c là chổ dựa tinh thần của anh em trong đơn vị, lúc mới qua anh em trinh sát phát hiện mìn, sau đó ngần ngại không dám đi tiếp, bố rút súng ngắn cầm tay và bảo: << tụi bây không dám đi để tao đi, bố cứ đi ào ào bạt mạng>>, anh em trinh sát thấy vậy mới nói, bố ơi bố xuống đi để tụi con đi đầu, bố mà chết thì tụi con ăn nói làm sao. Cã bốn năm trời bao nhiêu trân đánh quan trọng đều do bố chỉ huy, có bố chúng tôi yên tâm vững chí. Còn bao nhiêu cán bộ sỹ quan khác trong đơn vị cũng vậy như anh Mơ, anh Đấu, anh Long, anh Trị, anh Xuân, dàn cán bộ đại đội ai cũng gần gủi và gắn bó với anh em. Hàng ngũ trung đội, tiểu đội và anh em chiến sỹ cũng vậy, mỗi người, mỗi cái tên sao vô cùng thân thiết, chia sẽ với nhau từng vắt cơm chấm múi, từng vắt gạo rang vàng,  cho đến điếu thuốc quấn bằng lá cây rừng. Nhớ từng câu chuyện tếu, từng câu chuyện thật cười ra nước mắt.
Các đồng chí chỉ huy cấp Sư Đòan, Trung Đòan, cũng vậy nơi nào anh em cũng kính trọng và thân thiết, anh em chiến sỹ không gọi cấp chỉ huy của mình theo cấp bậc mà gọi là <<Chú …>> . Như Chú Năm Mân, Chú Tư Đáp, Chú Ba Thắng, Chú Sáu Thành, Chú Bảy Ga,v .v … Hình ảnh cú Tư Đáp tháo chiếc nhẫn kỹ niệm riêng của mình ra để trả tiền nước mía cho những anh lính tục tạc ở bến phà Kam Pong Chàm mà không hề mắng mỏ lính một câu, hình ảnh một vị trung đòan Trưởng tắm cho lính, những hình ảnh đó anh em làm sao mà quên được. Mỗi lần đến thăm lính là chú Tư cho lái xe chạy xuống bất ngờ không hề thông báo cho đơn vị biết để mà ra chốt giữ, đã có lần chú Tư bị chúng phục kích bắn trượt quả B40, chú Tư xuống đơn vị khi thì trong tay khẩu AK, khi thì khẩu M79 như lính vậy, anh em làm sao không quí trọng được. Vì thương và vì kính trọng chú nên mỗi lần chú xuống đơn vị là anh em tự nguyện ra chốt giữ để chú Tư về được an tòan  Đó là những tình cảm sâu đậm của đơn vị đã khắc vào sâu vào tâm trí của từng người lính không thể nào phai dù cho người lính đó hiện nay đang sống ở nơi đâu và làm gì đi nữa. Tuy nhiên trong xã hội lúc nào cũng có cái tốt và cái xấu, cái tốt là cơ bản của đơn vị do nhiều người trung thực, quả cảm dựng nên. Cũng còn một số rất ít người  lúc nào cũng khôn khéo, lúc nào cũng  toan tính với anh em đồng đội. Trong khi anh em cực khổ gặm cơm vắt, có khi còn là bo bo vắt thay cơm vậy mà cũng có Sếp bữa cơm nào cũng có kẽ hầu người hạ, buổi cơm nào cũng có cá có gà, thuốc hút thì tòan là SAMIT, GOLD CITY, thì hỏi anh em làm sao kính trọng được. Có lần anh em trinh sát chúng tôi lên trung Đòan nhận nhiệm vụ mắc võng ngũ ở gần BCH Trung Đòan, ban đêm mấy đứa em bò vào cắt hết bầu bí của Sếp, mấy đứa cắt cớ chỉ cắt ngang nữa trái thôi trái nào cũng cắt, sáng hôm sau nấu cơm chuẩn bị hành quân thấy anh em mang bí ra nấu canh, tôi hỏi được bí ở đâu ra, mấy đứa em trả lời, hồi tối bò vào cắt của Sếp, hỏi tại sao không xin, anh em bảo cắt bỏ ghét, anh em lôi ra nửa bao quân dụng tòan bầu với bí non. Khi trinh sát xong địa bàn về cứ anh Mơ hỏi, tụi bây phá gì của Sếp mà khi tụi bây đi rồi Sếp điện về Tiểu Đòan chữi <<quân các ông là quân ăn cướp>>, anh em mới kể cho anh Mơ nghe, anh Mơ bảo tụi bây dại, tụi bây bò vô như vậy rũi vệ binh Trung Đòan phát hiện được vệ binh tưởng tụi bây là địch, nó bắn tụi bây thì tao trả lời ra sao. Đúng là dại dột.
Chúng tôi thương cho bố Sườn, từ đầu chí cuối xông pha trận mạc vậy mà khi sang K bố mang quân hàm thượng úy, đến khi về cũng chỉ có đại úy mà thôi, còn Sếp khi sang K mang quân hàm trung úy, khi về mang quân hàm thiếu tá, tài năng của Sếp thể hiện với cấp trên như thế nào anh em lính lác chúng tôi không sao hiểu nổi. Nhưng đối với anh em lính lác thì Sếp nầy gần như lính không nể phục chút nào dù cho Sếp nắm sinh mạng chính trị của anh em.
Chúng tôi về Trung Đòan ở lại một đêm, tụi nghiệp anh em văn thư phải đốt đèn dầu suốt đêm để viết lý lịch và các lọai giấy tờ cho anh em chúng tôi, đưa lý lịch quân nhân cho chúng tôi khai bổ xung ghi vào tham gia bao nhiêu trận đánh, chúng tôi đều bỏ trống, không ghi gì cả, trưa hôm sau hành quân về Đòan 585 ở bên bờ nam hồ Ba Rài, về đây chúng tôi ăn xong rồi ra hồ tắm thỏai mái, hai ngày sau có đòan quân xa chở quân lên, chúng tôi lên xe về nước. Đến đây chúng tôi gặp lại hầu hết các anh em hồi còn là tân binh huấn luyện ở số 2 BIS XVNT. Khi huấn luyện thì hơn trăm người hầu hết là học sinh sinh viên, nay còn hơn bốn chục người, anh em tay bắt mặt mừng trào nước mắt. Đòan xe đưa chúng tôi về KP Thom ngủ lại một đêm, ngày hôm sau đi tiếp về gần Kam pong Chàm rồi rẽ về phía PHNÔM PÊNH, ngủ tại đây một đêm. Chúng tôi tranh thủ đi chơi suốt đêm cho đến sáng, rồi lên xe về nước theo ngã phà NECK LUÔNG  về thành phố tập trung ở Đòan 583, cho chúng tôi về phép rồi sau đó trở lên lại để giải quyết chính sách. Khi tôi về đến quê nhà từ thị xã lội bộ hơn 10 km thì đến nhà lúc 10 giờ đêm, kêu cửa má tôi cầm chiếc đèn dầu ra mở cửa  khi nhận ra con, má tôi kêu tên tôi rồi ngồi lịm xuống không nói được lời nào. Nghĩ lại gia đình tôi cũng còn nhiều may mắn, so với anh em đồng chí đồng đội đã để lại một phần thân thể ở chiến trường, hay đã nằm lại vĩnh viễn ở nghĩa trang. Hết phép chúng tôi lên nhận quyết định chuyển ngành. Cã tập thể anh em chúng tôi chỉ nhận được một tờ giấy ghi nợ của Trung Đòan là đủ tiêu chuẩn nhận Huân Chương Chiến Công H3, và HCCSVV hạng 3, tờ giấy nầy nay đã nhòe hết chữ, nhưng Huân chương thì không nơi nào cấp cã, nơi nầy đùn đẩy qua nơi khác.
Còn một chuyện nữa mỗi lần nhớ đến là tôi cảm thấy hết sức ân hận, đó là việc tôi đề nghị khai trừ Đòan đối với hai anh em chiến sỹ là Đòan Viên , lúc đó tôi là bí thư chi đòan  hai anh em rất tốt, chiến đấu rất dũng cảm, sống với anh em rất có tình có nghĩa chỉ vì không chấp hành nghiêm kỹ luật, bỏ đơn vị đi chơi, lúc đó kỹ luật cũng là đích đáng, nhưng nghĩ rằng vài tháng rồi sẽ cho phục hồi Đòan trở lại. Đến khi về nước đột ngột không ai nhớ đến. Rồi sau khi chúng tôi ra đi, nghe nói đơn vị cũng ghép qua ghép lại, nên không ai nhớ đến việc nầy nữa. Khi đơn vị về nước theo Binh Đòan Cữu Long, lúc ra quân anh em cầm lý lịch bị khai trừ Đòan, lúc đó anh em cầm lý lịch đi xin việc không nơi nào nhận hết. Đó là  Đặng Thiện Duy và  Phạm Ngọc Hà (Hà nhỏ con nhưng khi địch tập kích vào phum Prasat Cha một mình Hà ôm cây đại liên M60 vận động gần trăm mét ra cho tôi bắn. Vừa mới bị khai trừ Đòan xong khi chạm địch tôi hô xung phong là Hà chạy lên trước rượt địch chạy đến rớt nón. Mãi đến vài năm sau tôi mới tìm gặp Hà và Duy, anh em tay bắt mặt mừng , nhưng lòng tôi đau nhói.
Nhớ lại bài thơ của Phạm Sỹ Sáu, lúc đó anh em chúng tôi ai cũng thuộc  << Gữi bạn làm xong nghĩa vụ >>. Xin phép đ/c Phạm Sỹ Sáu cho phép chép vào đây nhé.

  Mai mầy về Thành phố dang rộng tay
Đón mầy và đón bao thằng xong nghĩa vụ
Mai mầy về bình yên trong giấc ngủ
Có nhớ bạn bè biên giới ướt sương đêm
Có nhớ tụi tao khát khao hôn lên mái tóc mềm
Của con gái một thời thương nhớ nhất
Mầy về mùa mưa quần áo không lắm lem bùn đất
Dép sa bô gỏ trên phố chiều vàng
Quen tính hay đi mầy cưởi xe đạp lang thang
Có nhớ tụi tao cởi trần đi phục
Hãy mở mắt ra nhìn đời trong đục
Nhìn thật bao dung và cũng thật là người
Hãy nhớ trong gian lao bọn mình vẫn cười
Trong thiếu thốn vẫn kiên trì khắc phục
Đừng chùn chân nếu chạm vào tiêu cực.
Dấu ấn chiến trường nào dễ phôi phai
Mai mầy về với người yêu trong tay
Hãy hôn giùm tao những nụ hôn đời lính
Hãy nói giùm tao trong phút giây trầm tỉnh
Rằng cám ơn nàng đã yêu lính biên cương
Gặp cô gái nào mầy thấy dễ thương
Hãy chào giùm tao nụ cười mong nhớ
Mầy đã trãi qua những đêm nằm trăn trở
Cái riêng trong lòng đã chia sẽ cho nhau
Vết thương nào không quằn ọai cơn đau
Lại mơ thấy đôi tay mềm chăm sóc
Tụi mình con trai lúc lòng chùng chực khóc
Đâu phải yếu mềm khi vuốt tóc bạn thân
Mai mầy về đi dưới phố cây xanh
Nếu gặp nắng đừng đưa tay che vội
Hãy nhớ tụi tao trầm mình trong nắng dội
Khát dòng sông như khát thuở thanh bình
Phố lên đèn ánh điện sáng lung linh
Có nhớ tụ tao bên nầy đêm bóng tối
Mấy tháng ròng giọt dầu hôi không biết tới
Nên rất trẻ thơ muốn trăng sáng bốn tuần
Mầy về ra nông trường xưởng máy hay cơ quan
Hãy làm việc bằng tinh thần người lính
Cái thiếu ở chiến trường mầy đâu cần làm sổ tính
Hãy làm thật nhiều sản phẩm giúp tụi tao
Mai mầy về thành phố rợp cờ sao
Tao nhớ năm xưa tụi mình đi phấn khởi
Buổi tụi mình lên đường chưa có bài <<Em vẫn đợi>>
Nên tay cô gái nào đứng vẫy mãi theo xe
Và thư đến với tụi mình trong rừng khộp rừng le
Thành sức mạnh trên đầu lê xuất kích
Mầy đi xi nê có nhớ những lần bám địch
Nòng thép dài thay tay mõi bàn tay
Tiển mầy về gió lốc bụi mù bay
Cho tóc bám ngập đầy đường đất nắng
Trong trung đội thiếu mầy tao càng thấy vắng
Nhưng vững tin đội ngũ vẫn còn mầy
Tao chừ còn nặng nợ với cỏ cây
Nên chẳng biết nói sao cho mầy rõ
Đất nước mình hòa bình và súng nổ
Ở mặt trận nào cũng cần có niềm tin
Trong thời đại chúng mình đất nước sẽ bay lên
 Bằng trí tuệ và mồ hôi tuổi trẻ
<<Vì Nhân Dân …>>bài hát dậy trong lòng mạnh mẻ
Mai mầy về tao xin gữi bài thơ.

Bài thơ sao hay quá, đừng chùng chân nếu chạm vào tiêu cực, dấu ấn chiến trường nào dễ phôi phai, câu thơ như nhắc nhở người lính khi về đời thường, luôn giữ lấy phẩm chất cao quí của mình đã được tôi luyện ở chiến trường … Đất nước mình hòa bình và súng nổ, ở mặt trận nào cũng cần vững niềm tin, thời đại chúng mình đất nước sẽ bay lên, bằng trí tuệ và mồ hôi tuổi trẻ, <<vì nhân dân >> bài hát dậy trong lòng mạnh mẻ.
Khi về gia đình bắt tôi phải cưới vợ ngay. Vợ tôi chính là cô gái đã chờ tôi từ lúc ra đi <<Đường về vàng tươi sắc nắng … Đường về ngập tràn hoa chiến thắng, có bóng em sánh cùng>>. Nay mình cũng đã có hai con, cô con gái lớn đang là sinh viên năm thứ ba đại học Y Khoa TP HCM, còn cậu con trai đang lớp 11, đã đến tuổi đăng ký NVQS.
Cuộc đời qua nhanh như một giấc mơ, mới ngày nào còn là thư sinh, chưa biết nấu cơm, thế mà bốn năm trãi qua đời lính, chúng tôi thấy mình học hỏi và trưởng thành nhiều lắm  <<Dấu ấn chiến trường nào dễ phôi phai …>> . Ngày đầu tiên khi qua sông MÊKÔNG, nơi thành phố Kam Pong Chàm thơ mộng. Cảnh đẹp thiên nhiên làm cho tôi nhớ đến bài thơ của bà Huyện Thanh Quan: Tôi xin lặp lại.
Trời chiều bẽn lẻng bóng hòan hôn.
Lách cách xa đưa tiếng bước dồn
Gác mái ngư ông về viễn phố.
Gỏ sừng mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mõi.
Dặm liễu sương sa tiếng trống đồn.
Kẽ chốn chương đài người lữ thứ.
Lấy ai mà tỏ nỗi hàn ôn.
Nổi hàn ôn của bà Huyện Thanh Quan như thế nào tôi chưa rỏ, nhưng nỗi hàn ôn của người chiến sỹ F317 đã 30 năm trời nay mới được tỏ cùng anh em đồng đội và các bạn gần xa.          
HẾT
Xin cảm ơn các bạn theo dõi trọn bài viết << kỹ niệm 30 năm những tháng ngày truy đuổi địch >> Hai Ruộng

TP HỒ CHÍ MINH ngày 21 tháng 06 năm 2009

Phong tục tập quán của nhân Dân Kam Pu Chia qua những người lính Tình Nguyện Việt Nam

Hai ruộng xin chào các bạn

Kam Pu Chia sơ lược về địa lý có diện tích hơn 1/3 so với đất nước chúng ta. Đất nước K gần như hình tam giác. Biên giới thiên nhiên gần như có ba dãy núi, phía giáp Thái Lan có dãy núi ĐON RÉCK (có nghĩa là cái đòn gánh), kéo dài từ Bát Đom Boong kéo dài cho đến Biên giới Lào, trên dãy núi nầy có đền PRết Vey Hia. Biên giới phía Lào có con sông Mê Kông chảy xuống. Biên giới phía đông giáp với Việt Nam là dãy Trường Sơn, từ tỉnh cực bắc Kat Ta Na Ki Ri xuống phía nam là tỉnh Svoayrieng. Biên giới thiên nhiên phía nam là vịnh Thái Lan, ở ven bờ có dãy núi Các Đa Mon, kéi dài từ Cam Pôt (giáp Hà Tiên) cho đến Po Xat (giáp Thái Lan). Như vậy phần biên giới thiên nhiên gần như được bao bọc trọn vẹn bởi ba dãy núi hiễm trở, phần còn lại là đồng bằng hình tam giác, có con sông Mê Kông  chảy qua, từ biên giới Lao đến Phnom Pênh rồi chia ra một nhánh chảy về Biển Hồ (TONG LE SAP), có nghĩa la biển nứớc ngọt, Biển Hồ hình chiếc lá kéo dài từ Phnom Pênh đến Siêm Riệp với chiều dài khỏang 150 km, chiều ngang chổ rộng nhất khỏang 15km, chổ sâu nhất vào mùa nước nổi có nơi đến 8-9 mét, còn một nhánh rẽ về phiá Việt Nam.
Về lịch sử , dân tộc Kam Pu Chia có nguồn gốc ảnh hưởng văn hóa trực tiếp từ Ấn Độ mang nét đặc trưng chung của các nước  như Thái Lan, Miến Điện, các nét đặc trưng nầy được thể hiện qua chữ viết, chùa chiền, tập quán tu hành của các vị sư, lối kiến trúc và phong tục ở nhà sàn, cho đến lịch ngày tháng, ấn định ngày tết của các nước nầy đều giống nhau, chỉ khác nhau tiếng nói của từng nước. Dân tộc hầu hết là dân tộc Khmer, chia ra làm hai nhóm: Khmer lơ và Khmer Krom. Khmer lơ tập trung vùng phía bắc, gồm các tỉnh như Kam pong Thom Siêm Riệp trở lên có giọng nói phát âm nặng hơn, nhưng phát âm đúng chính tả hơn so với chữ viết của họ. Còn Khmer Krom sinh sống ở các tỉnh phía nam, một số theo dòng sông Mê Kông xuống định cư vùng đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam. Tôn giáo hầu hết là Phật giáo và cũng là Quốc giáo, hiện nay cũng cò một số chùa vừa là trường học các nhà sư cũng là thầy giáo. Kam Pu Chia có mối quan hệ với Việt Nam từ Thời nhà Nguyễn Gia Long, đầu tiên là mối quan hệ cầu viện giúp đở lẫn nhau, sau đó cũng có những xung đột của thời phong kiến, mạnh được yếu thua, có một thời quân của nhà Nguyễn sang đóng tận gần Siêm Riệp đặt vùng Phnom Pênh thành một trấn gọi là Trấn Tây Thành, vua nhà Nguyễn cho xây các thành như thành La Bích, thành La Liêm và đã từng đóng quân ở thành Thành U Đông Siêm Riệp (muốn tìm hiểu thêm các bạn tìm cuốn Việt Nam sử lược sẽ rỏ), thành La Bích  hay La Liêm hiện nay là thành Phnom Pênh, sau nầy đến thời Minh Mạng thì nhân Dân Kam pu Chia nổi lên giành lại , quan quân Minh Mạng phải rút về.
Sau nầy trong chiến tranh chống pháp, Cách Mạng Kam Pu Chia luôn luôn gắn bó với phong trào Cách Mạng của Việt Nam, đến năm 1954, khi ký kết hiệp định Giơ Neo thì Cánh Mạng Kam Pu Chia  bị các thế lực mạnh hơn ép phải giải giáp tại chỗ, Cách Mạng Việt Nam cố gắng bênh vực nhưng không được, lực bất tòng tâm. Đến chiến tranh chống mỹ, đất nước Kam Pu Chia do nhà vua Xi Ha Núc lãnh đạo (XOMĐACH  XIHANÚC, chữ XOMĐACH có nghĩa là vua  hay là hòang tộc, XOMĐACH  HUNSEN, tức là ông Hun Sen được nhà vua thương yêu cho vào hòang tộc nên được gọi là XOMĐACH  Hun Sen). Nhà vua lãnh đạo đất nước theo đường lối trung lập, mới nhìn thì thấy đường lối rất khôn ngoan, ai cũng chơi, ai cũng bang giao, nhưng rất nguy hiểm, khi còn học phổ thông thầy giáo của tôi khi giảng về Kam PU Chia  thầy ví dụ XIHANÚC giống như diễn viên xiếc đang biểu diễn trò đi dây thăng bằng, hai bên là hai hai thế lực Tư Bản và Cộng Sản, khi Tư Bản cho một món quà thì XIHANÚC nghiêng về phía Tư Bản, vì vậy Cộng Sản phải cho thêm một món quà để cân bằng và thầy giáo tôi tiên đóan rằng dứt khóac XIHANUC sớm muộn gì cũng phải đổ vì Tư Bản hay Cộng Sản  đều khôn hơn XIHANUC nhiều, vài năm sau XIHANUC đỗ thật, do Mỹ dựng lên chính quyền tay sai lấy tên là chính quyền Tự Do, do LÔN NÔL cầm đầu, như vậy chẵng bao năm Kam Pu Chia lại nội chiến. Thời nầy chính quyền Ngụy Sài Gòn, đem quân sang giúp chính quyền Ngụy Lôn Nôl nên có cuộc bắn giết dã man vào nhân dân Kam Pu Chia, để trả thù cho Việt Kiều Tại Kam Pu Chia bị tàn sát do binh biến. Chính vì thế mà nhân dân ở vùng Kam pong Chàm hay gần biên giới Việt Nam phải bỏ chạy vào rừng khi có bộ đội Việt Nam tấn công sang sợ bộ đội ta trả thù dân tộc, mãi sau nầy khi thấy bộ đội mình hiền không bắn giết trả thù ai cã họ, mới kéo về.
Còn nguyên nhân vì sau Mỹ xúi giục Lôn Nol lật đổ XIHANÚC. Nếu Các bạn có điều kiện tìm đọc cuốn sách nước Mỹ và Đông Dương do một phóng viên người ÚC viết thì các bạn sẽ rõ. Mình xin tóm tắt như thế nầy: << Sau năm 1954, khi chính quyền Ngô Đình Diệm ra đạo luật 10/59, các gia đình có thân nhân tập kết  hay đã tham gia Cách mạng đều bị bắt bớ. Vì vậy các gia đình nầy tìm cách chạy sang Kam pu Chia làm ăn sinh sống, tôi cũng có thân nhân chạy sang Kam pu Chia sinh sống dạng nầy. Hầu hết những gia đình nầy đều có cảm tình với Cách Mạng Việt Nam, nên có nhiều đóng góp, giúp đở cho Mặt Trân Gỉai Phóng. Hơn nữa vì XIHANÚC trung lập nên con đường chi viện cho chiến trường miền Nam từ ngòai Bắc công khai qua cảng trung gian  Kam pu Chia. Vì vậy lật XIHANÚC là việc người Mỹ phải tính tới. Sau khi lật đổ Ngô Đình Diệm, Nguyễn văn Thiệu lên thay. đường lối chiến lược thay đổi theo chiều hướng khôn ngoan, thâm hiểm hơn. Khi Lon Nol lật đỗ XIHANUC, thế lực thân mỹ lên cầm quyền, dưới sự xúi giục của CIA, một mặt họ giết hại Việt Kiều tại Kam Pu Chia có chiều hướng thân Cách Mạng. Một mặt họ cho quân lính Sài Gòn bốc Việt Kiều  về Việt Nam, một mặt họ xúi giục binh lính Sài Gòn trả thù dân tộc gây mối thù chia rẻ giữa Việt Nam và Kam Pu Chia  đồng thời triệt phá  lực lượng ủng hộ Cách Mạng Việt Nam tại Kam Pu Chia. Vào lúc nầy một số rất nhiều Việt kiều bị giết thả trôi theo sông Mê Kông, một số bị bốc về sống ở các trại tỵ nạn ở Việt Nam, vì sinh kế một số thanh niên ở trại tỵ nạn phải đăng lính cho Chính quyền Sài Gòn. Còn lại phần lớn Việt Kiều chạy thóat vào vùng giải phóng, để theo Cách Mạng.
Cũng chính vì những nguyên nhân lịch sữ sâu xa trên, mà chúng tôi là con cháu thế hệ sau nầy, khi sang làm nhiệm vụ Quốc Tế. Dù anh em bộ đội chúng ta hết sức nghiêm chỉnh, hiểu được nhiệm vụ chính trị của mình do Đảng giao. Nhưng chúng ta không thể nào tránh được sự hiểu lầm từ nhân dân bạn, đó là điều hết sức khó khăn cho thế hệ chúng tôi. Nhưng chúng tôi tin tưởng rằng, sau nầy mối quan hệ Việt Nam và Kam Pu Chia sẽ tốt đẹp mãi mãi từ khi chúng ta cứu dân tộc bạn được hồi sinh , với tinh thần quốc tế trong sáng mà anh em ta phải đổ bằng xương máu lẫn mồ hôi.
Tính tình nhân dân bạn rất hiền hòa thật thà và chất phát, do ảnh hưởng của Phật Gíáo. Họ thích màu đậm, đỏ thì đỏ đậm, xanh thì xanh đậm, vàng thì vàng đậm, màu vàng dùng cho các nhà sư. Họ rất giữ lời hứa. Nhưng họ rất ghét tính gian dối, lừa đảo, trộm cắp, ở xứ của họ nếu  người nào trộm cắp hay lừa đảo họ, họ ít khi thưa ra chính quyền mà nhân dân họ tự xử luôn (chém bỏ ngòai rừng). Về phong tục mỗi năm có ngày lễ CHÔI SNĂM THMÂY, chính là ngày tết cổ truyền của họ, tết của họ theo lịch của họ cũng dựa vào mặt trăng để tính tóan như là âm lịch của ta, nhưng khác với ta họ hơn ta ở chổ, họ chọn ngày đầu năm vào lúc trăng sáng tỏ, tức là ngày rằm hay mười sáu âm lịch của ta, để làm ngày mùng một đầu năm của họ, nên năm nào dân tộc họ cũng ăn tết vào lúc trăng sáng. Cái lễ thứ hai là lễ ĐÔL TA (tức là lễ thờ cúng tổ tiên hay là ngày giỗ tổ ). Dân tộc bạn khác với chúng ta ở chổ, họ tổ chức ngày giỗ cho ông bà không theo ngày mất của ông bà họ, mà cã nước họ tập trung giỗ chỉ một ngày, đó là ngày Đôn Ta, cã nước ngừng lao động sản xuất, tập trung nấu nướng và mang lên chùa để cúng tổ tiên, không phân biệt giàu nghèo, cúng xong cã gia đình và tập thể cùng ăn uống no say tại chùa (điểm nầy tôi thấy họ văn minh và gọn hơn phong tục chúng ta nhiều). Còn những sinh họat văn hóa hàng ngày thì từ lúc còn nhỏ, trẻ con  đã học múa truyền thống của dân tộc, ai cũng biết múa, múa rất dẽo vì ai cũng được dạy từ nhỏ, bộ đội ta dù ai có bắt chước được giọng nói hay cách ăn mặc có giống người K đi nữa thì họ cũng phát hiện dược người nước ngòai qua các điệu múa.
Mỗi phum đều có tổ chức nhóm múa người đứng đầu do một phụ nữ gọi là MÊ RUM. Người nầy phải chưa có chồng, nếu có chồng coi như không còn tham gia nhóm múa nữa. Còn đàn ông thì không giới hạn già, hay trẻ gì cũng múa được. Vào những đêm trăng sáng lúc nông nhàn đâu đâu cũng rộn ràng tiếng trống lăm thôn. Một nét văn minh nữa là ai cũng tự giác chấp hành qui định khi múa, thanh niên không hề có chuyện đánh nhau vì việc giành đào múa, muốn thích múa với cô nào cũng được, múa từng cặp nam nữ. Người múa càng khéo thì điệu múa càng lượn lờ uốn éo, tay chân và cã thân hình đong đưa theo tiếng trống, tiếng đàn, càng uốn lượn sát thân hình người phụ nữ chừng nào, động tác múa càng tôn vinh đựợc nét đẹp của giai nhân, người múa càng điêu luyện, mê hồn. Một điều cấm kỵ tuyệt đối là khi múa không được chạm vào thân hình của người đẹp dù cho vô tình hay cố ý. Vì vậy mà những đàn ông càng lớn tuổi càng nhiều kinh nghiệm múa càng dẽo càng hay. Nhóm múa nào cũng vậy trước khi múa họ đều cùng nhau hát một bài cúng tổ rồi mới múa. Ở Kam pu Chia con gái cưới con trai, trong lễ cưới, ngày đưa dâu (đưa rễ về nhà cô dâu) là một buổi rước múa, mọi người đều tham gia múa có cã những cô gái ở bên đàn trai múa để tiển đưa chú rễ về nhà cô dâu, họ múa dọc theo đường từ nhà chú rễ cho đến nhà cô dâu.
Đất nước bạn thời đó nông nghiệp là chính, Biển Hồ gần như nuôi sống cã đất nước. Xung quanh vùng Biển Hồ họ trồng lúa vào mùa khô là vụ chính của họ. Khi nuớc rút đến đâu là họ cấy đến đó, khi nước cạn dần cũng là lúc lúa chín.  Còn trên rừng thì họ làm lúa rẫy. Cã gia đình chọn khu rững nào tốt là họ chặt cây lúc đầu múa khô, ai ruồng được nhiều thì cấy được nhiều. Sau khi đốn cây xong họ gom lại để đốt dọn đất, đất rừng tốt họ không phại cày xới hay bón phân. Khi gieo hạt họ dùng cây nhọn như chày giã gạo, một người đi trước cắm cây nhọn xuống đất tạo thành lỗ, người đi sau bỏ hạt giống vào, rồi lắp đất lại. Họ làm rất thành thục, họ cho hạt giống vào chai, cầm chai trút nhanh xuống sa cho chỉ vài hạt rớt vào lỗ. Khi gieo lúa họ phải gieo kèm theo, bắp, khoai. Nếu gieo lúa không thì do đất quá nhiều phân cho nên lúa phát tirển lá nhiều dẫn tới không có hạt. Vì vậy họ trồng bắp cây bắp sẽ lên cao hơn cây lúa  khi thu họach bắp xong là còn lại lúa thu họach sau. Xong mùa, họ làm chòi cao trong rừng cạnh rẩy lúa, họ chặt cây làm kho lúa cất tại rừng bên rẫy lúa, khi nào ăn họ ra đó giã thành gạo rồi mang về, không sợ trộm cắp.
Xong mùa ruộng rẩy là đến mùa cá, thiên nhiên ban tặng họ Biển Hồ là một bể đầy cá. Dân ở khắp nơi từ rừng núi kéo về Biển Hồ để bắt cá. Họ kéo cã gia đình mang theo cã gạo, các lọai cũ, quả để ăn, đi đến đâu đói là dừng lại nấu cơm  như đòan du mục, cã phum lũ lượt ngồi trên chiếc xe bò, đi từng đòan về phía Biển Hồ, vừa đánh bắt cá vừa chế biến ngay tại chỗ. Cá lớn họ làm khô, cá nhỏ vừa làm cá sấy (cá hong khói) , hai món nầy bộ đội ta rất thích ăn. Còn một món ăn rất dân tộc của họ không thể thiếu đó là món bò hóc. Muốn làm món nầy cá phải để ươn, hai ba ngày rồi mới ướp muối. Thịt cá bị phân hủy thành lọai sền sệt, nặng mùi. Ai chưa quen thì rất khó ngữi. Nhưng đã quen rồi thì đó là món nêm vào các lọai canh không thể nào thiếu. Ở  K bốn năm tôi cũng chỉ ăn được món bò hóc nầy sau khi chế biến vài ba món mà thôi, ví dụ như tôi được một bà má ở phum Kha Na gần thị xã Siêm Riệp nấu cho ăn món bò hóc chưng với thịt, rất ngon. Má mua thịt ba rọi về băm nát, trộn với bó hóc, thêm cã củ hành tây, sau đó chưng cách thủy, ăn với dưa leo vừa mới hái, nhờ mùi hành tây át đi mùi bò hóc  ăn nó ngon làm sao. Còn bà má ở phum Peck Sneng, lúc nào tôi ghé má cũng nấu cho tôi ăn món << sầm lọ cà cô >> và má chỉ cho tôi cách nấu, thỉnh thỏang tôi vẫn nấu cho gia đình ăn, cã nhà đều khen ngon (không có bò hóc tôi thay bằng mắm). Món đó nấu như sau : Nguyên liệu gồm : Măng tầm vong (phải là măng tầm vong mới ngon), sắc mỏng, lá rau ngót hoặc là lá dây bình bát, cá trê hay cá sấy, một nắm gạo lức giã nhỏ (tấm gạo). Nấu nước sôi bỏ cá vào  đến khi sôi nêm bò hóc, rồi thả măng khi sôi lại thả rao ngót hay lá bình bát vào, sau đó bỏ thêm nắm gạo lức giả nhỏ. Vị lá bình bát và gạo lức, làm cho măng không còn the mà thêm ngọt, nước canh màu đục trắng như nước vo gạo, khi chín cho thêm hành vào. Nấu đơn giản mà rất là ngon.
Còn một món ăn nữa mà bộ đội ta ưa thích đó là món xôi Cà Lanh. Người dân họ dùng ống tre lồ ô, cưa từng đốt. Sau đó dùng gạo nếp trộn với đậu đỏ, ngâm nước cốt dừa  một đêm sau đó cho vào ống tre, lấy rơm nút lại, rồi đem ống tre đi đốt, đến khi chín họ gọt bỏ phần võ của ống tre chỉ còn lại võ lụa, treo lên nóc nhà, khi nào ăn chỉ cần lấy tay tách lớp võ ra, rồi bẻ từng khúc. Ăn ngon hơn bánh dừa của ta vì ngòai vị ngọt của nếp, vị béo của dừa, vị bùi của đậu còn có vị ngọt từ ông tre. Ăn rất ngon mà để lâu làm lương khô cũng được.
Nông nghiệp nước bạn còn một nét đặc trưng nữa đó là khai thác đường thốt nốt, tôi đã viết ở các trang trước nên xin phép không viết lại nữa. Về nghệ thuật những hình thức cao xa như múa cung đình ÁPSARA thì chúng tôi chưa từng thưởng thức nhưng  nghệ thuật dân gian thì chúng tôi cũng từng được thưởng thức, như hát tuồng họ gọi là La BĂM, ngòai ra trong dân gian còn một lọai hình nghệ thuật chỉ có ở vùng Siêm Riệp là có đó là hát Là dây (có nghĩa là hát đối đáp, gióng như hò đối đáp ở miền Nam), Nhưng ở đây hát có nhạc cụ đệm đầy đủ, người hát phải có kiến thức về văn học về nhạc, vừa sáng tạo, vừa có khả năng đối đáp giỏi. Ở D4 có một  A trưởng hát được lối hát nầy, để đối đáp tham gia văn nghệ với nhân dân bạn, kỳ đó xảy ra tại phum Cà Tin (Cting), nhiều người dân vỗ tay tán thưởng.
Về nhân chủng thì dân tộc Khmer có nhân dạng khác với dân tộc Việt Nam ở chỗ. Nếu các bạn nào nhìn vào các bức phù điêu ở đền Ăng Ko thì sẽ thấy nét khác biệt, cái tài hoa của bức phù điêu là nói lên cái khác biệt rất cụ thể khó nhận biết của dân tộc họ đó là cánh mũi. Nếu đễ ý các bạn sẽ thấy cánh mũi của dân tộc KHMER sẽ to hơn và cong hơn so với các dân tộc xung quanh họ. Bộ đội chúng tôi sau khi tham gia trận đánh về đóng quân trong dân. Lúc đầu họ còn sợ nhưng sau đó thấy chúng tôi sống hòa đồng cùng với dân, thấy dân làm chuyện gì cũng giúp, từ phát rừng làm rẫy cho đến giã gạo, quét nhà, lấy nước. Vì vây mà dân yêu mến, nhờ vậy mà tầm hiểu biết của chúng tôi từ từ được  nâng lên lúc nào chúng tôi không biết  so với các nhà nghiên cứu thì chúng tôi còn thua xa. Với tấm lòng chúng tôi muốn đóng góp lên cư dân trên mạng. Nên còn gì sai sót mong các bạn góp ý. Hai Ruộng xin cảm ơn các bạn.
Hai Ruộng xin chào các bạn
Cách nấu cơm nhanh.
Khi còn ở huyện Xtung, lúc đuổi gần kịp sư 515 của Pốt, sau khi đánh hụt chúng ở phum gần phum KRAYA. Chúng tôi hành quân theo con kênh đào chưa xong, nên lòng kênh còn khô cạn. đến khỏang 3 giờ chiều. E lệnh cho D4 trong vòng 30 phút phải tổ chức nấu cơm xong và vừa hành quân vừa ăn cơm vắt để đuổi kịp địch. Dù đang hành quân mõi mệt, thấy có nhiều dấu hiệu đuổi gần kịp địch chúng tôi cố gắng chấp hành lệnh của E. Nơi dừng quân 30 phút là bờ đê bên cạnh vũng bùn nước đục ngầu, tắm còn chưa được lấy nước đâu mà nấu cơm. Nhưng nhờ sự hướng dẫn của các đ/c thời chống Mỹ rốt cuộc chúng tôi cũng nấu được cơm ăn trong vòng 30 phút. Vừa có lệnh dừng quân là trung đội phân công ngay, một tổ đi hái củi (đang mùa khô củi dễ tìm , tìm củi có cành nhỏ mau cháy). Một tổ đào bếp, một tổ lựa thóc trong gạo (thời điểm nầy, thóc lẫn trong gạo rất nhiều, vừa nhặt sạn, đất lẫn trong gạo. Còn một tổ đào giếng lấy nước, tổ nầy quan trọng nhất. Tổ đào giếng đến bên sát vũng bùn  khoết một lỗ to bằng chiếc nồi đào xuống chừng bốn năm tấc là có nước, nhưng nước bùn đục ngầu, mấu chốt là phải giải quyết nước nầy ra sau. Rất đơn giản, lấy ca nhôm tát nước bùn ra, cứ tát nước thật nhanh, nước bùn ra hết thì lớp nước sau được lớp đất lọc lại thành nước sạch, trong vắt. Múc một nồi vừa đủ nấu cơm chưa tới 10 phút. Tổ đào bếp vừa xong là tổ tìm cũi cũng vừa về, nhóm lửa ngay, chỉ cần một que diêm thôi là phải nhóm được lửa, lửa cháy bùng lấy nồi đặt lên (cái nồi không), nồi vừa nóng là nước vừa về đổ vào luôn chừa lại đất cát lắng ở đáy nồi, đậy nắp lại, chất ủi lên cã nắp nồi đốt luôn, trong phút chốc nhìn thấy hơi nước bốc lên là nước đã sôi. sau đó gạt lửa trên nắp nồi, để múc một phần nước sôi cho vào bình ton pha trà, còn nước vừa đủ đổ gạo vào, lúc nầy gạo cũng đã nhặt sạch thóc, sạn, đất, đá. Đậy nắp lại chất cũi lên cã  trên nắp nồi đốt tiếp, khi nào nghe  có tiếng lách tách trong nồi là cơm đã   cạn nước, tắt lữa chỉ còn lại lửa than thôi. Trong khi đó tổ lấy nước đã lấy thêm được một nồi nữa, anh em lấy khăn nhúng vào nước cho ướt khăn. xong dở nắp nồi ra cơm vừa chín, vắt cơm luôn. B chúng tôi vừa nấu và vắt cơm xong là đúng 30 phút, lại còn có cã nước trà uống. Đúng 30 phút E ra lệnh cho D4 tiếp tục hành quân thật. Chúng tôi vừa hành quân vừa ăn cơm vắt với múôi. cũng có một vài B do khâu lấy nước chậm, nên cơm chưa kịp chín, hoặc là trong quá trình nấu, mở nắp nhiều lần để thăm cơm chín hay chưa nên mất nhiệt lượng nhiều, vì vậy làm cho cơm lâu chín. Các B nầy phải chặt cây khiêng nồi vừa đi vừa cầm lửa theo đốt.  Đêm đó sau khi qua nhánh suối chúng tôi đã đuổi kịp tốp trinh sát của địch bố trí chận hậu và khỏang một đại đội địch nằm cạnh trung đội trinh sát của chúng vào lúc 9giờ đêm, trên trời trăng non còn soi sáng. Lần đầu tiên chúng tôi gặp địch, bốn đứa chúng tôi đi đầu, vừa lên đến đỉnh đồi  thấy một đám địch đang đi ở dưới thung lũng  bên trái, cánh B40 của chúng cọ vào cành cây nghe lẽng xẽng. lúc đó cã B chúng tôi tưởng đâu là quân ta, đi xong xong với chúng, đến gò mối cao như đóng rơm, nghe tiếng hỏi << Nặc na>> (tức là ai đó) , tên nầy đứng ở thế lom khom thủ thế tay lăm lăm súng, chúng tôi chưa kịp phản ứng đã bị tên nầy bắn một băng AK, những tên khác ngồi bậc dậy. Bốn đứa chúng tôi đi đầu ngã rạp xuống theo phản xạ tự nhiên, B40 tôi bóp cò hai lần đều bị thối. sau đó các anh em bắn trả, chúng bỏ lại một xác chết, hai khẩu Ak, tên chết có cã địa bàn Mỹ đeo trên cổ. Tiểu Đòan bắn cối vào đội hình địch, cho bắn cã 12ly 8 lần đầu tiên nghe 12l8 nổ dòn thật, nghe tiếng đạn bay xé rừng ào ào dội lại. Chúng rút chạy tán lọan bỏ cã máy ngắm cối 82, mìn Kp2. Bốn đứa chúng tôi dàn hàng ngang đi đầu thóat chết. Đó là trận đánh đầu tiên và cũng là lần thóat chết đầu tiên nhờ chưa tới số. Khi nổ súng xong, anh Mơ gọi tên từng đứa trong bốn đứa chúng tôi (vì anh vừa phân công bốn đứa chúng tôi đi đầu dàn hàng ngang), chúng tôi lên tiếng. Anh mơ còn bảo HR mò khắp người xem có trúng viên nào không, vì HR gần phía địch nhất. HR báo cáo: “dạ còn khô queo, chưa có chảy máu”. Anh Mơ bảo mạng mầy lớn lắm, khoảng cách chưa tới bảy mét, nó bắn mầy lửa đỏ rực mà không trúng viên nào mới lạ.