Hai Ruong
Mình là hai ruộng lính D7 , E 747 , F 317. Ngày
17 tháng 03 năm 1979 đơn vị mình hành quân vượt biên giới theo ngỏ Sa Mát . Lúc
các bạn giải phóng K , thì sư Đoàn mình chưa kịp thành lập. Lúc nầy E747 là E
Quyết Thắng thuộc BTL Thành cùng với E Gia Định. Thời điểm nầy E mình có hai D
làm nhiệm vụ chiến đấu ở Cà Tum và Sa Mát còn một D làm nhiệm vụ huấn
luyện tại 2 bis Xô Viết Nghệ Tỉnh. Sau đó toàn E làm nhiệm vụ truy quét tàn
quân và Ful rô ở khu vực dọc theo sông La Ngà . Đến ngày 17 tháng 03 năm 79 mới
thành lập F 317 và hành quân trong đêm vượt biên giới.
Sau bốn ngày hành quân E747 đến huyện XTUNG
phía tây bắc tỉnh Kampongthom, đến một hồ nước rất lớn, bờ đê cao gần nóc nhà,
xe din ba cầu leo không nổi. Sau khi vượt bờ đê E 747 hành quân về phía Khum
Cadia, D bộ dóng tại khum Cadia, còn C9 hành quân thêm một đoạn đường nữa để
xuống phum Thơ mây cách D bộ 15km. Sau khi đóng quân khoảng một tuần thì
D6 bắt đầu đụng địch. đụng với sư 517 của Pốt. Chuyện chinh chiến hên xui may
rủi còn dài, xin dừng lại đây để hôm sau mình kể tiếp.
Cảm ơn các bạn. Hôm nay 2 ruộng rất vui vì bắt
được làn sóng của các bạn sau 30 năm. Mình có mặt ở F317 ,e747 d7. ngay từ đầu
làm sao quên được 02 trận đánh lịch sử của E747 (15/4 và 26/5) mà mình trực tiếp
tham gia có thể nói là trung đội nổ súng đầu tiên trong trận 15/4 nở hoa trong
lòng địch (thực sự là đi lạc đường vào giửa cứ của địch, lúc đó mình sợ gần
chết). Nhưng chuyện chinh chiến mình xin tạm ngừng đi để hôm khác kể. Bửa nay
mình kễ chuyên nầy cho vui xem các bạn có còn nhớ không ? Nếu nhớ thì các bạn
chính là anh em trong đại đội của mình. Đó là câu chuyện đại đội bị mang danh
là đại đội phục kích, một trận phục kích hoàn hảo, tuyệt đẹp , không đổ máu.
Chuyện như vầy :
Lúc E747 còn làm nhiệm vụ đánh FULRO ở khu vực
sông La Ngà. D7 hầu hết là sv và CN thế hệ thứ tư còn mới nên coi như là D đàn
em vì vậy được dùng để khua chiêng giống trống để 02 D đàn anh đánh bọc hậu. D7
chia ra 02 hay 03 cánh gì đó. Đại đội 2 ruộng đi một cánh đi hai
ngày luồn rừng thì có lệnh hành quân đến điểm qui định nhưng tụi
nầy đi lạc đường ra bờ sông La Ngà, khi đến bờ sông thì ui cha, không thể nào
tưởng tượng nổi. Đó là đoạn sông chính là nơi <<ngút tất của kôn srây
>>Thanh Niên XP tỉnh Thuận HẢI. Quá bất ngờ cả đại đội bèn chịu nhịn đói,
nhịn khát, để nằm dài theo bờ sông mà phục kích, mục tiêu trắng toát, lồ lộ
trước đường ngắm (ngắm thôi chứ không được bắn), cho đến tối khi mục tiêu biến
mất rối mới xuống sông lấy nước nấu cơm. Sáng hôm sau, sau khi báo cáo với Tiểu
đoàn, tiểu đoản ra lệnh cho C hành quân về tiểu đoàn tiếp tục. Thế là C lại
hành quân đi lòng vòng lại lạc đường và về ngay chổ củ ngày hôm qua, đại đội
lại tiếp tục phục kích. Kỳ nầy tiểu đoàn nghi ngờ, vì liên lạc bằng máy PRC 25
với ăng ten lá lúa được, mà sao hành quân cả ngày không đến. Chính trị viên D
đ/c Mai cùng với liên lạc chống gậy đi dọc theo bờ sông để tìm. Thế là cả C
đang nằm phục kích bị thủ trưởng bắt gặp tại trân, lúc đó cũng gần 4 giờ chiều,
trận phục kích bị bại lộ. Nhưng cũng rất tâm lý, thủ trưởng bảo lở phục kích
rồi thì ở lại phục kích luôn sáng mai hành quân về. Từ đó đại đội bị mang tên
là đại đội <<phục kích>> . Nào có bạn nào còn nhớ trận phục kích có
một không hai trong lịch sử nầy không ?
@ bác 2 ruộng: Đợt truy quét FULRO từ cuối
tháng 12-78 đến tháng 2-79 của E747 tại khu vực La Ngà-Định Quán, em không đi
cùng E747 được, em đang "được" đơn vị cho đi học TS pháo tại BTL
TP.HCM.Lúc đó E747 chỉ có dàn cán bộ khung cấp A/B là lính cũ của D1 Gia Định
và D4 Quyết Thắng, còn lại toàn lính mới ken, còn chưa được bắn bài số 4, từ
quân trường thống Nhất -Dương Minh Châu bổ sung về. Đợt truy quyét FULRO đó là
đợt "diễn tập thực địa" đầu tiên của trung đoàn 747 đó anh à. D
trường D7 khi qua K là chú 3 Xường phải không "đồng hương" ?
Chào Ang ko krao. Hai ruộng đây. Đúng rồi đấy D
trưởng là đ/c Đàm văn Xường, tụi nầy gọi là bố Xường, nhưng D7 lúc đó là D4 sau
đổi tên lại là D7, còn ngoài lính mới ở Dương Minh Châu về, còn có lính từ hssv
được huấn luyện tại hai bis được biên chế vào D4 cã . Đối với D4 thì đây là đợt
<<diễn tập thực địa >> .Vì vậy mình mới bảo là khua chiên giống
trống từ Phương Lâm vào dọc theo bờ sông La Ngà, có phát hiện dấu vết đóng quân
của địch, trên ngọn núi toàn cây tre, quân số khoảng 1 đại đội. Còn hai D đàn
anh thì có nổ súng, một D quyét từ Bảo Lộc xuống, Một D quyét từ Thuận Hải lên,
có tiêu diệt địch nhưng bao nhiêu thì mình không nhớ. Còn << ngút tất của
kôn sray>> , dịch ra là << bãi tiến tăm, lúc đó có khoảng sáu - bảy
mươi nàng tăm đang tiến thuộc đơn vị TNXP tỉnh Thuận Hải >> . Vì vậy mình
mới bảo là mục tiêu trắng toát lồ lộ ra trên đường ngắm đấy. Đùa tý cho vui
đồng thời để hăm lại bộ nhớ, giờ mình phải đi công việc, tối nay mình sẽ bắt
đầu kễ nghiêm chỉnh từng trận đánh ở K nhé.
Hai ruộng xin chào các bạn . Nhờ các bạn đưa ký
ức trở về với mình , mình sẽ kể tiếp những hoạt động của D4(D7) mà mình nhớ
được, vì không có ghi nhật ký nên những con số mình không nhớ mà chỉ nhớ nội
dung, các bạn thông cảm nhé.
Sau khi ổn định nơi đóng quân ở phum thơ mây
cách khum Ca dia khoảng 15km về phía tây (huyện XTUNG). C tổ chức lùng sục và
nắm địa hình xung quanh phum, chỉ phát hiện dấu vết nơi đóng quân thôi cứ không
phát hiện địch. khoảng tuần sau D tổ chức đánh cá ở suối để lấy lương thực cho
các C, Riêng C của mình còn cử một B sang đóng ở phum khác cách C 5km. Sau đó
vài ngày vào một buổi chiều, thông tin nhận được tin D6 phát hiện địch khoảng
20 tên và xin lệnh E tổ chức đánh địch, một giờ sau đó thông tin lại báo cáo D6
phát hiện khoảng 100 tên địch, rồi 200 tên. sau đó nghe tiếng B40 nổ rền hướng
D6, và D6 mất liên lạc. Mười giờ đêm trung đoàn ra lệnh thu quân. liên lạc phải
chạy lên B độc lập để truyền lệnh thu quân, sau đó rút ngay về tiểu đoàn, đến
sáng rút ngay về Trung đoàn, D thành lập B cơ động để bổ xung cho B trinh sát
va B mình được chọn làm B cơ động, 3 người nhận ngay nhiệm vụ bổ xung đi cùng
với trinh sát trong đó có mình để trinh sát địch tại phum La Ót cách phum D
đang đóng 5km phát hiện địch khoảng 300 tên đang giết bò làm thịt. Về báo cáo D
chuẩn bị đánh, lúc nầy Sư điện về là đã xác định địch quân số 01 sư đoàn đó là
sư đoàn 515 của Pốt được mệnh danh là sư đoàn thép. Đêm sau hành quân tiếp cận,
đến tờ mờ sáng nổ súng lệnh tấn công vào thì địch đã rút mất. B cơ động cùng
với B trinh sát đi cặp với bố Xường xông vào giữa phum thì bị một quả cối rớt
phía sau lưng, nhưng không ai bị thương, bố Xường ra lệnh bắt hết mấy tay đang
leo lên cây thốt nốt, về giao cho thủ trưởng Mai (thượng úy Phạm Thanh Mai
chính trị viên D, quê ở Cái Tắc hay chương Thiện - Hậu Giang). Rồi tiếp tục đi
bắt thêm vài tay nữa, khi về đến thì thủ trưởng Mai đã thả hết những người bị
bắt trước. Bố Xường giậm chân kêu << Anh Mai ơi là anh Mai ơi, mấy thằng
đó nó chỉ điểm cho cối bắn vào đội hình ta đó. Thủ trưởng Mai cự lại: anh bắt toàn
là dân, chứ địch đâu mà địch. Tôi mới thấy thủ trưởng Mai là người rất nhân
hậu, hiền lành. sau nầy xác định lại là cối do D5 bắn vì D4 vào phum sớm quá,
D5 phát hiện D4 tưởng đâu là địch . Thế là bố XƯỜNG hết nói.
Nói về D6 (Chuyện của D6 tôi chỉ nghe kễ chứ
không trực tiếp chứng kiến), sau khi D bộ được dân báo có địch, tưởng địch ít D
bộ điều B trinh sát và thông tin đi đánh địch, bị trúng kế địch. Địch điều quân
đánh vào D bộ, lúc nầy chỉ còn có mấy anh thông tin và D bộ giữ cứ làm sao
chống lại, thông tin ôm máy chạy chỉ mặc quần đùi, còn các đại đội đóng theo
đội hình về tiếp cứu thì đều bị phục cã. Địch vào chiếm cứ lấy cã ba lô
nón cối (mình kễ chuyện D6 vì ở chi tiết nầy nó có liên quan đến trận đánh nở
hoa trong lòng địch của D4 sau nầy). Còn D6 sau khi bị trận nầy quá nặng,
thương vong cũng khá nhưng chưa đến nổi phải bố trí lại đội hình, sức chiến đấu
giảm là chuyện đương nhiên.
Giai đoạn đầu so kè giữa 317 và 515 chỉ có vậy
thôi, tuy trận đầu thất bại nhưng quân ta vẫn ở thế thắng và tinh thần quân ta
vẫn còn cao chưa có gì nao núng. Sau đợt so kè đó địch rút ta đuổi theo. Lúc
nầy địch và ta hành quân theo đội hình cấp Sư đoàn, mình nhớ có lần hành quân
đến phum mà đội hình địch vừa đi qua, phum nầy có 5 giếng nước địch múc cạn hết
cã nước, khi ta đến không còn nước uống. Rừng nguyên thủy sau khi địch đi qua
theo dấu chân lá vụn ra như bột. Cuộc truy đuổi hai bên đều kiệt sức, có lần C
mình đang hành quân gặp xe bò của dân đi cùng chiều, anh em mang ba lô nồi vì
mỏi quá nên máng vào xe bò, đi một hồi quên xe bò rẽ vào đường khác, thế là cã
đại đội không có nồi nấu cơm, đến suối đánh cá chỉ có nướng ăn mà thôi,
đến ngán ăn không nổi, có người nghĩ ra lấy bình ton treo làm nồi nấu cháo, tội
cho mấy anh bỏ gạo hơi nhiều nấu xong gạo nở trút không ra, phải lấy que cây
thục gần té khói. 317 và 515 vờn nhau như vậy thời gian gần một tháng trời, có
khi đôi ba lần tổ chức đánh, ban đêm tiếp cận mục tiêu, gần sáng xung phong thì
địch rút mất . Cuối cùng không hẹn mà ta và địch đều gặp nhau ở khu vực gần
khum Ca Dia lúc đầu va việc gì đến nó sẽ đến.
Khi hành quân gần đến Ca Dia có lúc có một bộ
phận nhỏ của quân ta hành quân dọc bên nây suối thí bên kia suối cũng có một bộ
phận quân địch hành quân ban ngày. Quân ta nhìn thấy bên kia suối có toán quân
đội nón cối tưởng quân mình, sát vào thí bị bắn. Té ra quân địch sau khi tập
kích D6 thu được chiến lợi phẩm của quân ta hắn tận dụng luôn. Chính chổ nầy là
điểm chết của địch sau nầy. Gần đến Ca dia D4 (D7) vào một đêm trăng sáng
khoảng 10 giờ đã đụng địch, địch mệt quá không chạy nổi nữa nên ngủ lại trên
đồi sau ụ mối, ta đuổi kịp nhưng địch nổ súng trước vào bốn anh em chúng tôi đi
đầu nhưng không trúng vào ai , tôi bóp cò 02 lần nhưng B40 lại lép, sau khi
thay quả đạn khác thì địch đã bỏ chạy để lại 01 xác chết và 02 khẩu súng, bỏ cã
máy ngắm cối 82 và mìn kp2.
Khi đến lại Ca dia E747 tiền phương đóng tại
Cadia D4 đóng sát bên E. Địch đóng tại phum bên bờ suối cách quân ta 3km cã hai
bên đều mỏi mệt, lúc nầy là gần giữa tháng tư trinh sát ta khẫn trương đeo bám
địch và trinh sát địch cũng đeo bám ta không kém, chúng bò khi nào vào đến công
sự quân ta mới chịu ra (đúng là sư thép). Nghe nói Lục Thum của địch đóng giả
làm dân ở ngay nhà đối diện với BCH E để nắm bắt tình hình của ta. Hai bên đều
đi đến quyết định đánh không chạy nữa.
Lúc 0 giờ ngày 15/4 D4 bắt đầu hành quân đi
đánh địch, khoảng cách chỉ 3km nhưng vì quân ta chưa quen địa hình bằng địch
nên đi sớm và đám mưa lắc rắc đầu mùa cũng bắt đầu rơi lên nón lên áo đễ làm
dịu đi cái nóng mùa hè oi bức cho người chiến sỹ. Trên bầu trời sau khi qua cơn
mưa trăng vẫn sáng, D sắp hàng một hành quân, đi đầu là trinh sát, vừa đi vừa
nhắm mắt ngủ (mắt nhắm, mắt mở vì mấy ngày có được ngủ đâu). Đến 4 giờ sáng,
đội hình D đi vào một trảng trống hẹp nằm kẹp giữa một bên là phum, một bên là
con suối lớn nhưng lòng suối thì cạn. Trăng vẫn sáng vằn vặt ở trên đầu. Khi
đến bờ suối thì trinh sát phát hiện địch. Hết sức bất ngờ ở bờ suối bên kia cao
hơn bờ suối bên nây, địch đang tập trung để xuất phát hành quân đong như kiến.
Ở bờ suối bên nây nơi con đường băng qua suối cạn có một đám địch đang ngồi đúa
giởn với nhau trinh sát dừng lại báo cáo cáo lên bố Xường, ở đội hình đằng sau
bộ đội không hề hay biết thấy dừng quân tranh thủ nằm ngủ, không hề hay biết
đội hình của D4 đang bị kẹp giữa hai cụm quân của sư 515.
Đến đây mới thấy hết tài cầm quân của bố XƯỜNG,
mới thấy hết sự bình tỉnh gan dạ phi thường của bố đã được tôi luyện
trong thời đánh Mỹ. Trăng sáng tỏ hai bên đều phát hiện ra nhau rõ ràng, nhưng
địch thì chưa biết ta, vì chúng có nhiều điểm bất ngờ lớn. Cái bất ngờ thứ nhất
là địch không nghĩ rằng một D của ta mà dám chui vào đội hình sư đoàn của
chúng. Cái bất ngờ thứ hai là địch cũng bắt đầu tập trung đễ hành quân đi đánh
ta, lúc quân đông như vậy chúng không biết ta là đơn vị nào. Cái bất ngờ thứ ba
là ta thì đội nón cối, còn địch thì đội nón mềm của TQ, nhưng vì trước đây một
đơn vị của chúng tập kích vào D6 của ta, chúng cũng lấy quân trang của ta đội,
cái điểm nhằm lẫn nầy ban ngày ta còn nhìn không ra ở trận bờ suối trước đây
vài ngày huống chi bây giờ lại là ban đêm dù cho trăng có sáng, gậy ông lại đập
lưng ông. Lợi dụng ba điều bất ngờ đó, bố Xường bình tỉnh ra lệnh đội hình đứng
im, đợi phía bên bờ suối cao địch hành quân vừa đi hết, ta lại nối đuôi theo đội
hình của địch, khi đi đến mép suối, toán địch ngồi đùa giởn khi nẩy chúng dạt
ra hai bên nhường đường cho ta qua suối. Khi qua bờ suối cao trên đó là ruộng
thuốc lá, nơi bọn kia vừa đi khỏi thì nơi đó quá trời hầm chữ Z địch đã đào
sẫn. Bố Xường hết sức bình tỉnh và sáng suốt bố trí B trinh sát chốt lại bên
phải, B cơ động của chúng tôi chốt bên trái tiếp nữa là khẩu đội 12ly 8 và dặn
khi nào quân ta qua hết, địch nối đuôi theo thì nổ súng. Bố theo đội hình bố
trí các C còn lại. Mấy ông nội đi sau chưa biết gì cã đi qua suối còn thủng
thỉnh cởi giầy. Khi quân ta vừa qua hết bên nây suối thì một đám địch đong như
kiến nối đuôi theo, chúng đi thành đám vừa cười, vừa nói, vừa hút thuốc đỏ
trời, chúng bắt đầu lội qua suối rồi trèo lên bờ suối bên nây dốc thoai thoải,
nhờ vậy mà chúng tôi bắn xuống thì dễ trúng còn địch bắn lên thì khỏi đầu chúng
tôi không trúng được. Tên đi đầu cách chúng tôi khoảng hai mét thì anh Nguyễn
Văn Mót (ngày xưa từng là du kích Củ Chi đã từng bắn cháy xe tăng Mỹ). Anh Mót
nện cho địch một quả B41 hết sức điệu nghệ để mở đầu cho trận đánh (tôi dùng từ
điệu nghệ là vì B41 ở trên cao bắn xuống thấp rất khó, khi bạn trút nòng xuống
chưa kịp bắn đạn B41 đã rơi ra khỏi nòng nếu bạn không rành bắn). Anh Mót ở tư
thế quì bắn, nòng B41 hướng lên trời khi đám địch đến gần tên đi đầu cách chừng
hai mét, nhìn thấy nòng B41 của anh vừa gật xuống là phụt ra một luồn lửa xanh
lè bắn dọng vào đám đông bên kia bờ suối, địch vừa ngã vừa lăn như lá rụng,
cùng lúc đó tiếng súng nổ ran, tiếng địch rên la inh ỏi, sau đợt nổ súng đó, bố
Xường ra lệnh cho chúng tôi rút nhanh khỏi bờ suối để vào công sự, chúng tôi
vừa chạy khỏi bờ suối chừng 10m, chưa tìm được công sự để vào thì cối 82 của ta
và địch thi nhau nhả vào hai bên bờ suối, lúc nầy chúng tôi đã lên được trên
lùm cây.
Sau khi B trinh sát và B cơ động nổ loạt súng
mở màng, 12ly8 khạc cũng được gần 01 thùng. Bố Xường cho liên lạc ra truyền
lệnh 02 B rút nhanh vào, tụi mình vừa chạy khỏi là trận mưa cối trút xuống trận
địa. Như vậy trong lúc 2 B ở lại chận đường thì bố Xường vừa bố trí đội hình
cho 3C bộ binh , đồng thời ra lệnh tập trung 03 khẩu cối 61 ở 03 đại đội kết
hợp với 02 khẩu cối 82 của C hỏa lực nơi khoảng trống nằm giữa đội hình với cơ
số đạn tương đối khá (ngoài cơ số đạn do khẩu gánh theo, còn số đạn do bộ binh
mang, mỗi anh được phân công mang 02 trái và đã dội kịp thời, đúng lúc vào đội
hình khoảng trên 100 tên địch đang dồn cục đông như kiến. Còn khẩu đội 12ly 8
vì đặt trên địa hình không có vật che chắn (trên ruộng thuốc lá). Sau khi bị đánh
bất ngờ, chúng bắt đầu tỉnh hồn trở lại và phang cho 12ly8 01 quả B40, đuôi quả
đạn văng vào súng, không bị thương vong nhưng 12,8 phải dẹp ngay sau đó. Sau
trận mở màng đó cối của D4 hết đạn (còn số ít bố X ra lệnh giữ lại để đề phòng
không bắn nữa), nhờ vào cối chi viện của E). Lúc nầy địch cũng vừa tỉnh hồn
chúng huy động lực lượng trở lại, bao vây D4, chúng đã khép chặt vòng vây, tổ
chức tấn công đánh trả vào đội hình của ta. Chúng tập trung cối 6, cối 8, DKZ,
số lượng cối chúng rót vào đội hình của ta nhiều gắp mấy lần ta rót vào chúng.
Hơn nữa nơi ta đang chiếm là cứ củ của chúng, nên chúng biết rất rỏ địa hình,
chỉ có một khoảng đất trống duy nhất để ta đặt cối chúng đã tập trung phản pháo
vào đó vì vậy anh em bắn cối bị thương vong nhiều, tạm thời phải bỏ cối lại đó
chạy vào nấp, khi cối chúng im ta lại ra dựng lại cối bắn tiếp, bắn xong lại
chạy chờ nó bắn trả, ta bắn nó một quả nó trả lại ta mấy quả, cứ như vậy đánh
cù cưa với nó cho đến hơn tám giờ sáng.
Bên ngoài chúng bắt đầu hò hét xung phong
<< chôi , chôi ,....>> . Hầu hết quân ta đã rút vào hầm chữ Z của
chúng. Chúng hô vang dội khắp cả rừng, sung bộ binh của chúng nổ vào đội hình
ta nghe như tiếng mưa rào. Nhờ công sự của chúng mà quân ta được an toàn,
thương vong không đáng kể. Chúng xung phong làm hai đợt, đợt đầu hô xung phong
mục đích để chúng lòn vào suối lấy thây. Lần hai chúng hò hét xung phong, bắn
như mưa vào đội hình ta.
Lần tấn công thứ hai: Như vậy sau khi tấn công
ta lần thứ nhất, (chỉ hô thôi chứ không dám tràn lên) ngừng một lát chúng lại
hò hét <<chôi, chôi >>, bắn vào đội hình của ta như mưa. Ở trong
công sự của chúng vừa chiếm được, quân ta sẳn sàng chào đón chúngđợi hòai không
thấy chúng xung phong, nhưng sau đó chúng lại rút lui, lúc nầy là khỏang chin
giờ sáng. Vậy là sư thép 515 PP đã sợ D4 của E747, các bạn có thể ghi thêm vào
tự điển của F515, từ <<chôi>> còn có thêm một nghĩa nữa là: rút lui
có trật tự.Một sư đòan đã vây kín được một tiểu đòan vào trong mà không dám
đánh tiêu diệt, khi rút lui lại ra oai, âm thầm rút lui khi ra khỏi tầm súng
của bộ binh ta, biết ta không còn đạn cối, chúng lại sắp hàng đi để chọc tức,
chúng tôi chạy vào báo cáo bố Xường, bố ra xem chúng sắp thành hàng đi đen kịt,
bố tắt lưỡi (tiếc quá mình không còn đạn cối, mà E tiền phương cũng đã hết).
Quân ta đợi chúng đi xa một chút rồi cũng tổ chức rút lui (không rút lui ngay
là vì sợ chúng nhử mình ra khỏi công sự sau đó quay lại đánh, ta chỉ có khỏang
họn 200 tay súng, còn chúng một sư đòan dù có thiếu đi nữa cũng hơn 1000 tay
súng, nếu ta không có công sự phòng thủ thì chúng đã nuốt ta từ lâu. Bây giờ
đến giai đọan ta rút lui.
Tiếng súng tạm yên, liên lạc D ra truyền
lênhcho B cơ động chuẩn bị đánh mở đường máu băng qua suối để D đưa thương
binh, tử sỹ về cứ tiền phương E. Anh Mót nhìn mặt anh em rồi bảo lấy gói thịt
trâu kho khô ra ăn cho hết và lấy mấy gói thuốc vàm cỏ mới lãnh hôm qua ra hút
cho hết, để chút nữa có chết cũng không thành ma đói. Khi ăn xong chúng tôi
thận trọng tiến từ từ ra phía bờ suối, đến rẩy thuốc lá nơi chúng tôi trụ lại
để đánh lúc đầu, nhìn thấy ruộng thuốc bị đạn cối cày nát như đất vừa mới xới.
Khi đến bờ suối cảnh tượng hải hùng hiện ra, bờ cát bên bờ suối đẩm máu, chằn
chịt những vệt cát được tạo nên do lúc chúng kéo thây, đoạn suối rộng chừng 10
mét, sâu quá gối, dài khỏang gần 100 mét, nước đỏ ngầu máu tươi. Nhưng chúng
không bỏ lại một xác, hay một khẩu súng nào cã, trận địa chỉ còn rơi vải lại mủ
nón, quần áo, thắt lưng (dây tê bê) thắm đẩm máu. Như vậy chúng ta đã rỏ. Ở đợt
hò hét xung phong lấn thứ nhất, chúng áp đảo ta để chúng lòn theo suối lấy
thây, lợi dụng lúc đó trời chưa sáng, quân ta lại rút vào trong công sự của
chúng để phòng thủ, bờ suối lại cao nên khi chúng lòn theo suối để lấy thây
quân ta không nhìn thấy. Khi qua khỏi bờ suối bên kia chúng tôi bắt tay được
với D5 vừa mới đến để chi viện cho D4. Khi đi được một đọan đội hình chúng tôi
lại bị mấy phát đạn cối bắn suýt trúng đội hình, anh em vội tách khỏi đội hình
để tìm chổ nấp, vậy mà bố Xường đứng thẳng người rút súng ngắn ra hướng lên
trời đồng thời hô to ra lệnh <<không được chạy, đứa nào chưa bị thương ở
lại chuẩn bị đánh tiếp, anh em trở lại đội hình. Lúc sau biết đươc hai quả cối
vứa rồi là do E 775 hay (E 115) bắn lầm vì trên đường chi viện cho 747, vừa mới
đến, phát hiện từ xa có đám người hành quân lúc ẩn lúc hiện nên tưởng lầm là
địch.
Khi đến phum, nhân dân Kam Pu chia túa ra đón
chào. Thanh niên còn có cã phụ nữ tự nguyện ra cáng thương thay cho anh em
mình, các mẹ mang cơm nước dừa, nước thốt nốt, trái cây, mít chuối
đãi anh em chúng tôi. Chúng tôi hết sức cảm động và nhận thấy rằng bà mẹ, nhân
dân nước bạn cũng thương chúng tôi như các bà mẹ và nhân dân nước mình. Trận
đánh nầy đến đây là kết thúc. Tiếp tục mình sẽ viết bài tóm tắt, rút kinh
nghiệm trong trận đánh và nêu những tấm gương hy sinh dũng cảm của đồng
đội đồng chí mà tôi cũng như tất cả anh em tham gia trận đánh nầy không
bao giờ quên.
(Tên phum mình nhớ không sai mình đã kiểm tra
kỹ lại bộ nhớ của mình rối. Đầu tiên là hành quân theo lộ số 6, gần đến thị
trấn XTUNG có ngã ba đường cạnh trường học đi về phía đông bắc, gần
đến chiếc cầu có phum đội hình dừng quân lại tắm rửa và ngủ tại đây, sáng
hôm sau lên xe đi tiếp đến khỏang 10 giờ đến đập nước rất lớn, cũng gần
như hồ nước barai ở siem riệp) xe trèo lên bờ đập không nổi tụi
mình phải xuống đẩy xe lên rồi đi tiếp gần 11 giờ trưa là đến phum Ca Dia
khỏang 12 giờ. D4 đóng quân ban đầu tại đây, còn C chúng tôi sau khi nghỉ
trưa tiếp tục hành quân bộ về phía tây bắc khỏang 15km để đến phum Thơ mây
và đóng quân tại đó, nhờ các bạn gửi giúp bản đồ, ta tìm được hồ
nươc là sẽ tìm đươc phum. SOM LIA sà ma mít – mít tèng lai.
Mấy bữa nay "lu bu" quá, không chi
viện cho bác 2 ruộng được gì cả

Mượn tấm bản đồ của bác tuaans hôm bữa gởi lên, để tôi kể trận đánh khi vượt sông
Chi Nít. Bác 2 và các bác nhìn 2 hình ôvan em đánh dấu trên bản đồ: Phum Krava
là hậu cứ của E747-F317 khi mới qua tháng 3-79, phum Krâyéa là phum Cà dia mà
bác 2 ruộng nói đó. Con suối trong chuyện là sông Chi Nít (thuộc huyện Ba
Rài-CP Thom ).
@bác tai-lienson: trận này do D4 ( sau này đổi
là D7-E747) đi lạc, nhưng vẫn đánh, D trưởng ba Xường "lì lợm" như
vậy đấy. Đúng ý đồ tác chiến của E 747, sau khi trinh sát bộ binh và TS pháo đi
bám, là tổ chức "chiến" cấp E. Lúc đó hỏa lực của E khi mới qua rất yếu,
C17 cối 82 của E chỉ có 2 khẩu cối 82, 1 khẩu tăng cường cho D4 và cây 12,8 ly
cũng của E điều xuống tăng cường.
@ bác hai ruộng: sau khi đi bám cùng TS E, em
dẫn khẩu Cối 82 của B1-C17 dự trận này với bác đó. Khi nổ súng, bộ phận cối vừa
ngóc lên khỏi taluy, chưa kịp chuẩn bị gì cả, 3 trái cối đầu tiên em dựng nòng
bắn ứng dụng luôn đấy ! Bác thấy cối bắn "ác" không ? ::) Phải đạp
ngả nòng cối mới kéo nó "lủi" nổi.
Mình tìm ra rồi. Đó là phum CRAYA, các bạn có
thấy phía đông bắc có đoạn sông rộng ra không bên kia sông có cái đồi
thấp không, đối diện với đoạn sông rộng ra đó là một cụm rừng chồi nhỏ.
Trận đánh xảy ra ngay tại bờ suối rộng, sau đó anh em mình chạy lên đồi trên đó
đã có công sự sẳn của nó. lúc đó mới qua, trận đó là trận lớn đầu tiên, và C
của mình quân số là gần 70 người cả C bộ. Lúc đó địch còn mạnh lắm. Khi
chúng đánh D6 rất bài bản, nó dụ D bộ ra khỏi địa điểm đóng quân rồi mới
đánh, đồng thời đánh chiếm vào D bộ D6, khi D bộ lâm nguy gọi 3 C đến chi viện,
đều bị phục trên đường, D6 tan tác mất liên lạc với trung đoàn vì
anh thông tin E bổ xung xuống phải mặc quần đùi ôm máy chạy không kịp nhổ
ăng ten mấy ngày sau mới về được trung đoàn, còn quân tướng lạc lung tung, gần
một tuần lễ mới thu quân lại được mất hết gần hai mươi em. D6 là lính đàn
anh từ E Quyết Thắng vì vậy mà quen cắt rừng nên thiệt hại
như vậy là ít đó. Để mình kể chuyện trung đoàn bộ cho nghe khi D6 bị đánh (đây
là chuyện kể truyền miệng từ lính thông tin E chứ mình không trưc tiếp thấy).
Như vầy: Khi thủ trưởng E chú Tư Đáp nhận đươc điện của D6, do dân báo phát
hiện địch 20 tên cách D6 2km, D6 xin lệnh E cho D bộ cử trinh sát đi
đánh, khi ra đến thì nó đông quá. Ở trung đoàn bộ, chú Tư nghe B40 nổ rền, bèn
vổ đùi bảo : << ngon à, kỳ nầy D6 làm ăn ngon rồi, đâu thông tin
tụi bây mở máy liên lạc coi >>. Một anh lên máy hoài không đươc,
Thú tư cằn nhằn mầy tệ quá cho đứa khác lên liên lạc coi, rốt cuộc hai,
ba đứa, không đứa nào liên lạc được, vì thông tin E bổ xung cho D6 ôm máy chạy
rồi. Sau đó là tin kêu cứu từ các đại đội của D6 trực tiếp lên E. Vì vậy mà E
ra lệnh thu quân lúc 10 giờ đêm mà mình đã nói ở bài trước, ngày sau sư đoàn
thu quân về hẹp lại. Ngày mai mình sẽ phân tích kỹ hơn.
Nếu so về kinh nghiệm chiến trường, thông thuộc
địa bàn hoạt động và trang bị vũ khí, E747-F317 (tháng 3-79)...thua xa đối thủ
lúc đó là đám tàn quân Pốt
(các
bác QĐ4 và các đơn vị chủ lực lo chiếm P.Pêng để.... lên đài mà

): Chiến sĩ 90% là tân binh dân TP, từ Tp.HCM
" lao thằng" qua xứ người, vứa hành quân từ VN sang vừa trang bị hỏa
lực+quân trang chiến đấu!? Anh lính thông tin của E tăng cường cho D6 mang
PRC25 mà bác 2 ruộng nhắc tới ở trên, khi tìm ra AE sau 3 ngày đi lạc: 1 tay
cầm trái M67 đã rút chốt nhưng lưng vẫn mang máy, không dám bỏ.
Qua "hồi ức" của bác 2 ruộng, tôi mới biết mình là 1 phần của lực
lượng tiền trạm E747-F317 qua K năm 79, lính mà ... có lệnh là đi thôi !

@ bác 2 ruộng: trận đánh bác vừa nhắc tới khi
vượt suối/sông ...!? có 1 tổn thất "khó quên" đó ! Bác nhớ
không ?
TÓM TẮT TRẬN ĐÁNH – RÚT KINH NGHIỆM – NHỮNG TẤM
GƯƠNG DŨNG CẢM KHÔNG THỂ NÀO QUÊN
Xin phép các đồng chí Thủ Trưởng đã từng là
lãnh đạo các cấp của đơn vị trong F 317. Nội dung trong bài viết nầy theo tầm
nhìn của một chiến sỹ có mặt trong trận đánh và cùng theo đơn vị cho đến giữa
năm 1982, được về để tiếp tục học ĐH. Vì vậy kinh nghiệm và tầm hiểu biết về
quân sự rất có giới hạn, càng thấp hơn rất nhiều so với các chú, các bác thủ
trưởng đã trưởng thành trong thời gian chống Pháp – chống Mỹ. Nhất là các chú
các bác đã trưởng thành từ các trung đòan Đồng Xòai – Bình Gĩa .v.v… Tuy
nhiên tầm nhìn của một chiến sỹ trực tiếp trong trận đánh cũng hết sức cần
thiết để chúng ta ôn lại, bàn luận và rút ra kinh nghiệm cho đàn em sau nầy,
làm hành trang cho các em trong sứ mạng bảo vệ tổ quốc VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA vững bền mãi mãi. Bài viết có chổ nào không phù hợp, xin các chú các bác
và các bạn góp ý.
I – TÌNH HÌNH -TƯƠNG QUAN GIỮA F317 VÀ F515
(F515 của quân Pôn Pốt).
Vào thời điểm đó QĐ 4 và các đơn vị chủ
lực mạnh của ta đã giải phóng PHNOM PÊNH và thọc sau vào vùng giáp biên giới
Thái, như Bát Tam Boon v.v... Các đơn vị chủ lực của địch bị đánh bại nhưng
không bị tiêu diệt và thực tế nhiều sư đòan của địch còn rất mạnh, sư 515 cũng
là một trong các trường hợp đó, (bằng chứng cụ thể là TƯỚNG KIM TUẤN sau khi
đánh thắng, giải phóng Bat Tam Bon rồi khi về Kam Pong Chàm thì bị phục kích và
hy sinh dù đòan xe có xe thiết giáp theo bảo vệ). Sư 515 của địch
tuy là tàn quân nhưng quân số còn rất đông, dấu vết để lại trên đường hành quân
của chúng đã chứng minh cho điều đó (khi chúng băng qua rừng nguyên thủy cành
lá trên đường chúng đi, bị đạp nát vụn ra, khi qua phum chúng uống cạn 4, 5 cái
giếng nước trong phum, đi đến đâu chúng cướp sạch lúa thóc, lương thực đến đó,
chúng giết một lần cã trăm con bò để lấy thịt.
Về trình độ chuyên môn của địch (F515) được
mệnh danh là sư đòan thép, qua trận tập kích vào D6 của E747, chúng ta thấy
chúng tổ cức trận đánh và đánh hết sức bài bản, chúng biết nhử D6 ra khỏi công
sự để mà đánh, qua nhiều lần chạm địch lẻ tẻ thể hiện được bản lĩnh thiện chiến
của chúng, trinh sát của chúng khi nào mò đến công sự của quân ta mới chịu trở
ra. Chúng hết sức ranh ma cã tháng trời chúng cơ động liên tục, nhiều lần ta tổ
chức đánh, từ cấp trung đòan đến cấp sư đòan có pháo 105 yểm trợ, nhưng đếu
đánh hụt, chúng buộc chúng ta phải chơi trò mèo vờn chuột với chúng trong
đó chuột có thể trở thành mèo, mèo cũng có thể trở thành chuột, bình thường thì
chúng chạy ta đuổi, nhưng nếu ta sơ hở chúng quay lại tập kích.
Lãnh đạo của chúng cũng gan lỳ mưu mô (nghe nói
trước trận đánh của D4, chỉ huy cở lớn của chúng dã dạng dân thường ở ngay
trước nhà của BCH tiền phương E747 khi hắn đi rồi dân mới dám báo cho ta. Tóm
lại sư 515 được mệnh danh là sư thép là đúng, ranh ma, thiện chiến. Còn
thế yếu của chúng là : Cục diện chiến trường chúng đã thua bị coi là tàn quân,
không dám đóng quân lâu ở bất cứ chổ nào sợ quân ta bao vây tiêu diệt (mà quân
ta cũng đuổi chúng liên tục kiên quyết không để cho chúng lập cứ trong rừng).
Đi đến đâu chúng cướp bóc đến đó nên dân chúng đã ghét rồi càng thêm
ghét, Khi tập kích nếu tiêu diệt được ta thì chúng tiêu diệt nhanh sau đó rút,
nếu tiêu diệt không được thì chúng cũng phải rút chạy không dám ở lâu. Chính vì
biết được yếu điểm nầy của địch nên khi D4 chúng tôi sau khi chui vào giữa cứ
sư đòan của địch vào được trong công sự của địch rồi chúng tôi yên tâm
không sợ gì hết dù cho cã sư đòan của chúng bắn như mưa la ó rền
trời chúng tôi cũng không sợ, chúng tôi đợi chúng tràn lên mà đánh, chúng đã
không dám tràn lên. Bao vây chúng ta lâu chúng cũng không dám vì chúng sợ chúng
ta điều quân đến bao vây lại, hôm đó nếu chúng ở lâu thêm 1tiếng đồng hồ
nữa chúng sẽ bị bao vây ngược lai vì các đơn vị chi viện đã đến.
VỀ PHÍA TA
Hầu hết các đơn vị đã qua chiến đấu đều có
nhiều kinh nghiệm, (duy chỉ có lính D4 là mới hòan tòan chưa qua chiến đấu kể
cả chiến sỹ trinh sát). Các cấp lãnh đạo từ C trở lên đều là những cán bộ dũng
cảm nhiều kinh nghiệm như bố Sườn, chú tư Đáp, chú Năm Mân và nhiều người khác v.v…Cấp
trung đội thì có người đã qua thời chống Mỹ khi còn du kích, sau đó đôn lên chủ
lực. Còn D4 thì có nhiều cán bộ B chưa qua chiến đấu. Điểm mạnh nữa là quân ta
đang ở thế thắng và được nhân dân bạn ủng hộ, chúng tôi đi đến đâu cũng có nhân
dân bạn tự nguyện giúp đở.
Riêng về D4 : Tuy là lính mới, nhưng hầu
hết là tình nguyện và được chọn lọc kỹ từ quân địa phương, từ TNXP,
từ học sinh sinh viên. Tất cả đều có nhận thức, có lòng yêu nước có quyết tâm
(các bạn có còn nhớ bài hát <<chưa yên vui trong trọn ngày …… tiếng kêu
núi sông vội đáp ngay …vv , chính là bài ca bắt đầu từ lúc đó).
(Riêng trường hợp của anh MÓT, người bắn quả đạn B41 điệu nghệ mình sẽ nói
sau).
Điểm yếu: Chiến sỹ D4 đông quân nhất
nhưng kinh nghiệm lại ít nhất so với hai D đàn anh, chính vì thế mà khâu truyền
lệnh khi hành quân chưa được chấp hành nghiêm chỉnh. Đa số là con em thành phố,
nhất là giới HSSV như tôi, chưa quen vất vả (mấy ngày đầu hành quân đôi chân
phòng rộp đi không nổi, phải lê lếch theo đội hình đau đến muốn khóc. Có nhiều
lần đánh địch nhưng đánh hụt, đâm ra chủ quan, anh em gọi là đi đóng phim
nhiều tập (đến khi đụng thật thì quá bất ngờ). Bệnh chủ quan đến mức độ như thế
nầy: - Khi hành quân thì nồi nấu cơm xúm nhau máng theo xe bò, thấy anh
nầy máng anh kia máng theo, đến khi xe bò đi mất cả đại đôi không có nối nấu
cơm cho đến khi C trưởng biết thì chỉ có nước dậm chân kêu trời –Truyền lệnh
hành quân càng chủ quan nữa , truyền không hết lệnh, thậm chí có lần hành quân
đêm quá mỏi mệt, một đ/c chỉ huy đi phía trước đội hình, một đ/c chỉ huy đi
phía sau đội hình , khúc đầu đội hình thì có lệnh truyền nghỉ giải lao từ
phía sau lên, khúc đuôi đội hình thì có lệnh truyền nghỉ giải lao từ đầu
truyền xuống, hai đ/c chỉ huy cũng tham gia truyền lệnh luôn vì ông nầy cứ
tưởng ông kia ra lệnh, đến nhiều lần mới thấy tại sau cứ nghỉ giải lao
hòai. Ông chỉ huy đằng trước mới lội ra đằng sau mới té ra là không
ông nào ra lệnh cả, lệnh từ các ông lính mệt mỏi của mình truyền ra lệnh cho
chỉ huy (khi biết chuyện nầy chắc các bạn ôm bụng mà cười như chuyện tếu, nhưng
lại có thật 100%, đó cũng là sáng kiến của con nhà lính đấy. Một cái chủ quan
đáng sợ nữa là khi đã quá mệt mỏi càng mất cảnh giác, khi dừng quân là cứ tưởng
là nghỉ giải lao, ai cũng tranh thủ ngủ, cộng thêm với nhiều lần đánh hụt( đóng
phim) anh em càng chủ quan hơn nữa, trận đó thú thật mình cũng ngủ guc,
vì mình thuộc B cơ động của D khi cần thì D gọi lên, còn bình thường thì thuộc
về đội hình C, hôm đó C mình đi đọan giữa đội hình, nên khi trinh sát đi
đầu phát hiện địch truyền đội hình dừng lại cảnh giác thì cũng truyền đàng
hòang, nhưng sau đó ai cũng nằm lăn ra ngủ. Đến khi D ra lệnh diều B cơ động
lên thì anh trước phải nắm chân anh sau giật dậy, đến khi hành quân ra phía
trước đội hình mới giật mình khi thấy bên kia bờ suối địch đang di chuyển quân
đông nghet. Phía đằng sau quân ta vẫn đang ngủ gục không hề hay biết. (để minh
chứng bệnh củ quan chết người mình xin nhắc lại đọan nầy một tý các bạn đừng
chán nhé). Lúc đó bố Sườn đã có mặt ở trước và ra lệnh cho anh em
bình tỉnh (vì biết địch tưởng ta là một đơn vị của chúng) và lội qua suối nối
đuôi theo chúng khi chúng vừa đi khỏi. Khi chúng tôi đã qua bên kia bờ
suối bố cũng qua suối theo trinh sát và ra lệnh trinh sát dừng
lại bố trí đội hình bên phải sẳn sàng chiến đấu khi quân ta qua hết
bên nây sông. Còn B cơ động thì bố trí bên trái, sau đó bố theo các C còn lại
lên phía ngọn đồi để chọn địa hình bố trí quân, mình cùng với trinh sát chốt ở
lại thấy quân mình khi qua suối còn ngồi xuống cởi giầy ra , hết sức sốt ruột
mà không dám nói sợ địch nó hay, Anh em đi sau nhờ ngủ gục mà
hòan tòan không biết địch nhờ vậy mà cả D bình tỉnh qua suối, chiếm địa
hình thuận lợi có hầm hố của địch vứa mới bỏ đi còn nóng hổi, chúng đào
sẳn để cho quân mình nấp (THẬT LÀ THÁNH NHÂ N ƯU ĐÃI KẼ KHÙ KHỜ).
Cái thứ hai mà trời ưu đải cho D4 là, lúc đội hình dừng quân bên kia suối
thì tòan bộ đội hình của D bị kẹp giữa hai đội hình đóng quân của địch,
ta không hay mà địch cũng không hay, đến khi nổ súng rồi mình mới
biết nơi đó có đơn vị của địch đóng có cã DKZ, chính khẩu DK đó bắn qua
đội hình mình từ khi nổ súng cho đến sáng. Khi nhìn thấy rỏ, mới biết khẩu
DK do phụ nữ bắn sau đó bị trinh sát bắn một quả B41 và câm luôn từ đó,
khi quân mình rút lui qua vị trí đó còn thấy bỏ lại, cái áo đầy máu và cái xà
rong còn đang phơi (chạy bỏ cả xà rong).
II – RÚT KINH NGHIỆM TRONG TRẬN ĐÁNH :
- Nhờ sự bình tỉnh, dũng cảm, thông minh của
cấp chỉ huy và của cả anh em chiến sỹ mà đơn vị đã lợi dụng thời
cơ, cơ hội hết sức đặc biệt - may mắn để nhanh chóng bố trí đội hình một cách
vô cùng sáng suốt, BCH D4 kịp thời, chớp nhóang thiết kế trận đánh,
qui tụ hỏa lực cối tại chổ để thay đổi tình thế chuyễn đơn vị từ vị trí
hết sức bất lợi, nguy hiểm đến tình thế vô cùng thuận lợi, để đơn vị bất
ngờ đánh cho địch một trân chóang váng, dù địch không để lại xác nào, nhưng
chúng thiệt hại rất lớn và sau đó là địch hoang mang mỗi khi đụng với
E747 và nhất là D4. Đây là kinh nghiệm theo tôi nghĩ là hết sức quí báo cho các
thế hệ sau nầy.
- Khuyết điểm cần tránh :
- Chủ quan từ khâu truyền lệnh cho đến
khâu cảnh giác.
- Liều mạng : Tổ chức đánh trong khi ta chưa
nắm rõ về địch. Hai bệnh chủ quan nầy nếu quân ta đến đó không ngay lúc địch
đang chuyển quân mà ngay lúc chúng gác sách cẩn thận thì D4 đã bị xóa sổ
khi lọt vào vị trí ở bờ suối.
- Phối hợp - hợp đồng tác chiến các đơn vị chưa
chặc chẻ, từ lúc nổ súng 4 giờ 30 sáng, cho đến khi địch rút, lúc 9 giờ sáng,
mà không có đơn vị nào chi viện kịp thời cho D4, chỉ có D5 đến thì địch
đã rút.
- chưa kết hợp dược pháo 105 của sư
Nếu ta phối hợp tốt các đơn vị đến kịp thời từ
trong đánh ra từ ngòai đánh vô, có chi viện của pháo 105 thì chiến thắng sẽ lớn
hơn.
Nói thì như vậy chứ làm thì rất
khó vì địch cũng hết sức ranh ma, chúng luôn cơ động khi thì
phân tán khi thì tập trung vừa né tránh ta nhưng nếu ta sơ hở thì
chúng tập trung lực lượng đánh ta ngay. Mấy lần ta chuẩn bị chu đáo
thì địch đã chạy mất ta kéo pháo 105 theo lòng vòng có khi mất pháo với
chúng. Cho đến giờ phút nầy tôi vẫn hết sức kính trọng các cấp chỉ huy của đơn
vị tôi từ đại đội cho đến sư đòan và tin tưởng vào tài ba và khinh
nghiệm dày dặn của các đ/c cấp trên của mình. Vào bối cảnh đó nếu D4 không liều
mạng thì chưa chắc đánh được địch, mà có khi chính sáng hôm đó địch hành quân
để tập kích Trung Đòan 747 vì chính tay chỉ huy của địch đã dả dạng dân ở
ngay trước mặt E tiền phương. Mong các bạn xem và góp ý.
II – THIỆT HẠI CỦA TA VÀ ĐỊCH :
Tuy không bỏ lại xác nào nhưng ngày hôm sau dân
báo chúng đem chôn ở phum kế bên khỏang 78 hay 70 - 80 cái
mã.
Phía D4 : bị thương khỏang trên 20
đ/c. Bcơ động chỉ một đ/c bị thương nhẹ. B trinh sát không ai bị thương. Đau
buồn nhất là đ/c Thượng Uý chính trị viên tiểu đòan PHẠM THANH MAI
hy sinh khi bắt đầu nổ súng .
III – TẤM GƯƠNG HY SINH CỦA đ/c P T MAI :
Đồng chí Phạm Thanh Mai người cao to,
nước da ngâm đen, quê gốc Miền Tây, (Hậu Giang cùng quê với hai ruộng).
Tính tình hiền lành như cục đất, các bạn có nhớ ở tập trước không ? Bố
Sườn bắt bao nhiêu người về vì tinh nghi, họ khóc lóc, thủ trưởng
Mai thả hết. Thương lính vô cùng, anh em ai cũng thương mến đ/c. Khi đ/c Sườn
vào trong bố trí đội hình thì đ/c Mai ở lại chỉ huy bên ngòai, khi chúng tôi nổ
súng thì địch bắn trả lại chúng tôi, vì chúng tôi nằm ở mép bờ suối, còn
đich thì ở dưới suối hoặc ở bên bờ bên kia thấp hơn nên bắn không trúng chúng
tôi được mà đạn bay vào ngọn đồi thủ trưởng Mai đang đứng cùng với anh liên lạc
trước công sự chữ z của địch. Khi nghe súng nổ, thay vì đ/c nhảy xuống hầm
trước thì đ/c sẽ không sao, nhưng vì thương anh chiến sỹ liên lạc của
mình còn trẻ tuổi, đ/c đứng lại xô liên lạc của mình té xuống hầm trước ,
anh liên lạc cắm đầu xuống hầm chân còn ló trên miệng hầm thì trái
đạn cối nổ ngay miệng hầm, anh liên lạc chỉ bị thương ở chân, còn đ/c Mai ở
ngòai hầm nên hy sinh (đây chính là lời kể lại của chính anh liên lạc).
Tôi viết dòng nầy biết đâu thân nhân, hoặc chính vợ con đ/c đọc
được, cũng bớt đi nỗi đau mất mát của gia đình đã 30 năm nay và đó cũng
là thông tin đáng tự hào cho gia đình. Khi chúng tôi rút vào trong đứng
trước thi hài đ/c tại trận địa ai cũng đứng nghiêm chào vĩnh biệt đ/c. Một lần
nữa xin chào đ/c MAI và chúng tôi không bao giờ quên tấm gương của đ/c.
Hai ruộng xin tạm biệt các bạn. Tiếp tục mình
sẽ vẽ sơ đồ trận đánh có chú thích từng vị trí. Mình đã nhận được bản đồ từ bạn
Rồng Xanh xin cảm ơn Rồng Xanh. Đó chính là Phum KRÂYA vì mới
qua khó phát âm nên lính ta goi là Ca Dia cho dể gọi. Nếu còn thời gian thì
mình sẽ kễ về anh Mót, không biết giờ nầy anh Mót đang ở đâu. Anh có đọc được
dòng chữ nầy không. Xin cảm ơn các bạn quan tâm đến bài viết nầy.
SƠ ĐỒ TRẬN ĐÁNH
Hai ruộng xin chào các bạn! (pi sre, chứ không
phải pi sra đâu nhé) Các bạn trở về trang 17 lật bản đồ của bác Rồng
Xanh. Tìm phum KRÂYA, phum lớn có nhiều dãy nhà sát nhau, hướng đông bắc phum
có con đường đi về phía đông bắc. con đường nầy đi về phía suối, đến gặp
con suối ở đọan nở rộng ra, con đường mòn đó tiếp tục băng qua suối (trận đánh
đẳm máu diển ra tại đọan suối nầy) rồi đi tiếp lên đồi băng qua đồi, rồi đi đâu
nữa mình không biết. Bây giờ chúng ta trở về sơ đồ vẽ bằng tay ở phía
trên trang nầy nhé :
• Khu vực nầy cách phum
KRÂYA 3km đường chim bay, có bốn ngọn đồi, ngọn đồi số 3 nhỏ nhưng cao
hơn cã, trên các ngọn đối có rừng cây, còn đối số 1 chỉ là lùm cây cao hơn
trảng trống số 5 một tý thôi, trên phía ngọn đồi số 3 có nhánh suối khi vòng
lên ngọn đồi số 3 nó chỉ cỏn là con suối cạn, cạnh đó là lỏm trống có, nơi D4
tập trung cối để bắn địch, khi bắn xong thì bỏ súng chạy về suối cạn mà
núp, khi cối địch ngưng, anh em ra bắn tiếp. bBây giờ ta trở lại địa hình.
• Địch đóng cả 4 ngọn
đồi số 1,2,3,4 . . D4 hành quân từ phum ra theo con đường màu đỏ. khi đội
hình đến vị trí số 5 thì trinh sát đã đến gần đọan suối rộng. Lúc đó phát hiện
ở bên nây suối có 6,7 tên địch đang ngồi mép suối, bên kia bờ suối là ruộng
thuốc lá, bờ đất cao hơn bên nây khỏang 2, 3mét, bằng phẳng trống trải, rồi mới
đến ngọn đồi số 3. Ở đám rẩy nảy một tóan địch rất đông, sắp thành hàng,
xuất phát từ khu rừng số 4, đang hành quân đi lên đồi số 3.
• Vị trí số 5 là vị trí lính
D4 tranh thủ ngủ gục (ví lúc đó quá mệt mỏi, do hành quân liên tục gần tháng
trời), khi B cơ động của chúng tôi được điểu lên đầu đội hình, khi đến
thì thấy bên ruộng thuốc lá địch vẫn còn đang hành quân vừa đi vừa đùa
giởn, và tốp 6,7 tên vẫn còn ngồi ở bên nây suối, lúc nầy gần 4giờ 30 sáng,
trên đầu trăng rất sáng, nên hai bên đều nhìn thấy nhau rỏ mồn một.
• Khi bên kia suối địch vừa đi
hết, trinh sát bắt đầu băng qua suối 6,7 tên địch dạt ra hai bên nhường đường
cho ta đi, có một tên địch đùa giởn nó lấy họng súng ak thọc vào hông một trinh
sát của ta, lính ta không nói tiếng nào lấy tay gạt ra rồi đi tiếp (có lẽ vì
run quá nói không ra tiếng, sau đó mấy tên nầy đ lên phía đồi số 2. Tiếp theo
trinh sát là B cơ động và bộ binh nối theo sau.
• Khi khi vừa leo lên khỏi bờ
suối bố Sườn bố trí B TS ở phía nam con đường mòn, rối kế đến là B cơ động, rồi
tới 12ly 8 do E tăng cường. sau đó bố cùng các C bộ binh đi lên đồi theo con đường
mòn mà địch hành quân, đồi cách bờ suối khỏang 30 đến 50 mét, trên đó có
nhiều công sự tòan chữ z rất chắc chắn do địch đào vừa mới bỏ đi.
• Khi quân ta qua hết bên nây
suối thì từ hướng đồi số 1 một đám địch rất đông kéo nhau ra về
phía suối, vừa đi vừa nói chuyện, vừa giởn vừa hút thuốc đỏ trời. Bts và Bcđ,
lúc đầu đều ở tư thế quì bắn, vì địa hình trống trải không hòan tòan không có
vật che đở hai bên đều nhìn thấy nhau rỏ ràng, chúng bắt đầu qua suối khi
đến bên nây suối, chúng lại tiếp tục đi lên theo đường mòn, tóan địch nầy đi
không có hàng lối gì hết. Lúc đó anh em lính mới gần như là ngồi chết trân, đến
khi mấy tên đi đầu còn cách chúng tôi khỏang 2mét (nhưng chúng chưa leo lên
được bờ dốc, thì anh Mót tự động khai hỏa phát B41 đầu tiên, lúc đó chưa
có lệnh của ai cả (sau nầy khi rút kinh nghiệm trận đánh, thủ
trưởng D, thủ trưởng E và thủ trưởng F đều khen là phát súng nổ rất đúng lúc,
khi anh Mót nổ súng thì anh em mới tỉnh hồn nổ luôn. Như vậy bọn địch
chết nhiều là bọn đóng quân ở đồi số 2, cã hai B ts và cđ diệt tối đa
chưa đến 20 tên. Nhưng chúng chết nhiều là do đạn cối ta bắn rất kịp
thời. Anh em chúng tôi chỉ bắn mỗi người chừng một băng đạn, anh Mót cũng
chỉ bắn có một trái B41, ngay sau đó bố Sườn ra lệnh cho chúng tôi chạy
nhanh vào khu vực đồi số 3 tìm công sự ẩn nấp, chúng tôi vừa chạy vào đến đồi
là cối ta nổ ngay trận địa rồi. Khi chúng tôi lên đồi thì phát hiện thủ
trưởng Mai hy sinh ngay vị trí số 7, ở mép công sự đầu tiên cạnh đường mòn, bên
trong công sự là anh liên lạc chân còn bị thương, chưa ai băng bó, B tôi có một
anh bị thương cũng đưa vào hầm đó. Chúng tôi tìm được công sự và cố thủ
cho đến khi địch rút.
Hai ruộng xin chào tạm biệt các bạn. Xin cảm ơ
n quí vị theo dõi trang viết nầy. Tiếp theo mình sẽ kễ về bố Sườn và anh
Mót . . Pi srẹ khơ nhum sum lia. Lúc súng nổ, không kịp nghĩ tới cái
"truyền... " gì đâu bác ạ

. Bác 2 ruộng "tả" chính xác trận
này rồi các bác:.... Pốt la " chô...." 2 đợt và lần nào cũng thấy
quân TNVN đáp trả bằng AK, M60, M79, 12ly7 bắn nghe như cối 6 bắn raphan, và
cối 82 nổ "đĩnh đạc" dằn mặt tụi nó.... A Mai (thượng úy CTV D sau
khi hy sinh thăng đại úy) hy sinh trong trận đánh này, qua AE tôi có nghe A Mai
đạp "tay lính mới" mang PRC25 xuống hầm, trước khi dính đạn. Trận
đánh này, A Mai đi theo mũi hỏa lực gồm bb +1 cối 82 và 1 khẩu đội 12,7 của E
tăng cường.... trước khi rút chạy, Pốt còn cảnh cáo bộ đội VN bằng mấy trái
DK82 bắn hết tầm nổ trên trời mà.

Trận đánh này ngoài dự kiến của trung đoàn 747 (lúc đó AE tui chưa biết mình
...là lính sư 317 nữa ). Trước đó mấy ngày TS E đi bám, bị mất 1 chiếc dép râu
của TMT trung đoàn đi cùng, có "lịnh" phải trở lại lấy cho được chiếc
dép đó mà!

@ bác 2 ruộng: trận này em ờ cách cây 12,7 khoàng 10m về phía bờ sông Chinít,
nện xong 3 trái 82, đạp nòng cối 82 lôi đi chờ số 3 ( Mai đen đang ở gần
ngã 5 Bình Hòa, thằng số 1 mang nòng run như "mèo" giờ ở Q10) mang
bàn đế lên để giá pháo.

em đang ở GV-TP.HCM, hẹn gặp anh để 2 AE ôn
lại "kỷ niệm xưa", mẹ con tụi nhỏ hổng biết gì đâu !( em có nói bao
giờ đâu mà biết

)

Đã PM cho bác 2 ruộng, nếu bác ấy ở SG và đồng
ý họp mặt, chắc phải mời bác tuaans (TMT qsvn nhánh QK7) mang theo bản đồ, xác
định lại vị trí trận đánh của D4-E747 bị hy sinh CTV Mai khi E747 vừa sang K.
Đang chờ tin bác 2

. Trong thời gian chờ đợi bác 2 ruộng cứ
"chiến" tiếp nha ! Các chi tiết trận đánh, bác tả chính xác, tôi chỉ
thắc mắc về vị trí xảy ra. 30 năm rồi chớ ít đâu

Tôi nhớ khi đội hình vượt
sông/suối đi từ phải qua trái và nổ súng khi cái nòng cối 82 vừa ngóc được lên
khỏi bờ dốc, phải bắn ứng dụng 3 trái trước khi chân cối lên kịp, khẩu 12ly8 nổ
súng bên tay trái cái lỏm suối cụt mà AE cối núp khi nó phản cối và trong chớp
đạn B, M-79 tôi còn thấy AE 12,8 lom khom khiên cả chân súng giá nằm khi
vận động lùi về sau, sợ Pốt "chô" cướp súng. Bây giờ nhớ lại còn
"ớn" cái cảm giác nằm bẹp trên mặt đất mỗi khi nghe tiếng
"xạch..xạch" xé gió ngay trên đỉnh đầu của đạn cối 82 rơi, lúc đó chỉ
kịp nghĩ: má ơi! đừng rớt trúng lưng con

Trước khi Pốt rút chạy nó còn bắn "cảnh cáo" mấy trái DK82 bay hết
tầm nổ trên không, sau lưng khẩu cối 82.
Sau khi ngừng tiếng súng,tôi không có dịp quay
lại nơi vượt sông vì có lệnh tăng cường tiếp cho D5 truy kích Pốt sau khi gom
được cơ số đạn cối nhờ AE bộ binh mang dùm còn khoảng 20 trái, đi qua trận địa
của Pốt còn thấy 1 xác nằm ngay kế cái đuôi cối 82, vương vãi máu thịt và mấy
tụm lá thốt nốt đựng cơm và bò hóc.... ; Trước Tết AL đầu năm 80 khoảng 1
tháng, khi E bộ 747 đóng tại phum Krava-huyện Ba Rài, đội văn công QK7 và đoàn
TP.HCM có qua thăm và diễn văn nghệ cho dân K ngay ngôi chùa lớn phía bắc phum
(bệnh xá E747 đóng cạnh chùa này). Tụi tôi phải bung ra gác, bắn đạn chiếu sáng
cối 81 Mỹ, vừa chiếu sáng cho dân coi văn nghệ VN-vừa dọa P.Pốt, chứ có được
coi đâu. Hôm đó em gặp lại cô bạn gái "lùn tịt" học cùng trường PT
thuộc Ban CT sư 317 xuống thăm và chị Phan Việt Nga, phóng viên đài tiếng nói
ND TP.HCM đi cùng, ăn chung cơm trưa với B cối trong vườn xoài mà. Qua chị PV
Nga , em cũng được "lên đài" gởi lời chúc Tết bà con TP đầu năm 80
đó. Chị Phan Việt Nga (dân Hà Nội vào làm tại TP.HCM) sau khi về TP đã viết
thêm 3-4 lá thư động viên em...
@ bác tai_liénon: Chính xác như bác mô
tả: từ trong phum Krava - huyện Ba Rài-CP Thom (hậu cứ đầu tiên của E747 năm
79), đi theo đường đất đỏ tới ngã 3 lộ 21 có mấy dãy nhà sàn lớn, lợp ngói dọc
2 bên đường. Ngã 3 này tới cuối 79, hình thành 1 khu chợ họp vào buổi sáng, tụi
em lâu lâu vẫn phải ra tới đó mua bột ngọt và thuốc rê từ VN mang sang bán. Lúc
này hàng Thái chưa qua đến đây. Dám khi đi tiền trạm qua, em nhận bàn giao địa
bàn từ đơn vị của bác quá !
Hôm đánh trận đó bố Sườn vì quá cấp bách cho
nên bảo thông tin đưa ống nói để bố nói trực tiếp không cần mã và bảo thông tin
mở to máy vì vậy Tuy ở ngoài nhưng lúc đó mình đã rút vào nằm kế chổ đ/c Mai ,
nên mình nghe rất rỏ và nhớ đến bây giờ, ngày mai mình sẽ viết tiếp về bố Sườn
và anh Mót cho cac bạn xem. Xin cảm ơn rồng xanh, RX rất thông minh, đánh
dấu lên bản đồ đúng rồi đó, nhưng chưa chính xác lắm, do bản đồ nầy vẽ lại,
không phải bản đồ chụp nê có sai lệch với thực địa. Mình tả lại để nhờ RX chỉnh
lại cho đúng nhé : Rừng chuối (1): sửa lại là rừng chồi, nó nối liền từ
đồi số 2 đến gần chổ điểm cua của đường mòn giữa trảng. Lúc hành quân vào mình
tưởng đó là phum, khi rút quân về thì mình rút dôc theo đường mòn trên đó, phát
hiện được chổ đặt DKZ, còn bỏ lại mấy trái đạn dính máu. Ngọn đồi số 3 vị
trí sửa lại lệch về phía nam, vì trên thực địa con đường mòn từ phum KRAYA ra
băng qua suối ngay đoạn giữa chổ con suối phình to ra và đi thẳng lên đồi số 3
luôn, từ mép suối lên đến chân đồi khoảng 15 mét ,đến 20 mét là cùng. Thứ tự bố
trí Bts, B cđ, 12ly 8 là đúng, nhưng 12ly 8 cách xa đội hình Bcđ khoảng 10 mét
do đ/c Mơ (lúc đó là thiếu úy tham mưu chỉ huy trực tiếp). Còn nhánh suối phía
bắc vòng lên đến đồi số 3 nó thành suối cạn, khi mình cỏng hai anh bị
thương vào nơi suối đó chổ đặt súng cối cũng gần đó và D bộ cũng ở
gần đó. Còn khi rút, địch ở cụm rừng số 1, rút theo đường mòn lúc ta
đi vào.
Trận địa thì trận địa chính ở chỗ con suối
phình ra, nơi nổ súng đầu tiên, cối ta bắn vào đó đầu tiên và nhiều nhất. Còn
đạn cối rơi trên rẩy thuốc lá là do địch bắn (vì lúc đầu khi nổ súng thì 02 B ở
đó, vì vậy nó dâp cối vào đó thì anh em mình nhanh chân hơn đã chạy
lên chân đồi số 3, anh Hòa chạy sau nên bị một mảnh vào lưng, 12ly tám thì ở
sâu hơn, nên lúc chạy lên thì không thấy 12ly 8. vì ở sâu hơn nên 12ly 8 không
rơi vào tầm cối của địch. Còn cối ta thì bắn vào giữa suối và bên kia bờ suối
rất chính xác, khi chúng tôi chúng tôi chạy vào đến chân đồi, quay mật lại thì
thấy trận địa như chảo lửa ánh chớp liên tục do cối của ta cã cối của địch.
Loạt cối đầu tiên chúng dập vào bờ suối. Loạt thứ hai chúng chuyển mục tiêu dâp
vào vị trí cối ta bắn ra, khi chúng đã xác định chỉ có điểm đó ta mới có thể
đặc cối. DKZ nó cũng hướng về giữa đồi số 3 mà nổ. Khi bao vây ta thì xung
quanh đồi số 3 nơi nào cũng nghe tiếng hô của địch. Chỉnh xong bản đồ Ang ko
krao sẽ thấy đúng.
Hai ruộng đây ! Đúng rồi đó Ăng Ko krao.Vì 12ly
8 bố trí hơi xa đội hình B cơ động, địa hình trống trải, không kịp đào công sự
cho 12ly 8, địch thì quá gần, chúng ở bên kia bờ suối vị trí số 2. Vì vậy sau
khi khạc được một thùng, lộ địa điểm, bị chúng phang cho một trái B40, cũng may
là không bị gì, sau đó sợ chúng cướp súng mới khiêng chạy tắt lên gần chỗ bắn
cối vì vậy mà khi mình vận động lên thì không thấy 12ly8 rút theo cùng. Rút là
đúng ở lại là nó lấy thật đấy chứ. Cho mình hỏi chổ nầy một tý, có phải khẩu
đội đó của anh Hùng và anh Thành (anh em thường gọi là 5 eo có phải không ?
(lúc đó còn quá mới nên mình cưa biết được). Nếu đúng thì hai ruộng có nhiều kỹ
niệm trong trận đánh sau nầy với khẩu đội đó. Sau mình nhìn thấy hình đ/c Đại
Biểu Quốc Hội và đọc tiểu sử của vị đại biểu nầy thấy hơi giống anh Hùng 12ly8
không biết có phải vậy không ? Mình đang viết bài về bố Sườn và anh Mót lúc
đang nghỉ trưa đễ tối nay gữi lên. Thôi sum lia. Xumaki xi bò hóc xóc xà bai bị
B40 bắn hoài ót ngọp.
Hai Ruộng xin chào các bạn ! Hôm nay mình sẽ
viết về bố Sườn và anh Mót. Trong D4 hầu hết cán bộ từ B trở lên đều là lính củ
xuất thân từ E Gia Định, E 4 Quyết Thắng, nhiều người có thành tích trong thời
chống Mỹ như bố Sườn, Thủ Trưởng Mai, anh Mơ, anh Quảng B Trưởng TS . v.v….
Riêng đại đội mình thì có anh Phương xuất thân từ lính đặc công, B Trưởng
B1, B Trưởng B2 là anh Thanh, anh Thủy cũng từ du kích đánh Mỹ đôn lên bộ
đội. Riêng B Trưởng B mình là chưa qua chiến đấu, nhưng bù lại thì có anh Mót,
tuy là chiến sỹ nhưng anh Mót lại là con chim đầu đàn ở trong B.
Riêng bố Sườn thì cã D ai cũng kính nễ, thương
yêu, lính lác coi bố như người cha vì vậy nên mới gọi quen là Bố Gìa. Bố gọi
lính là mấy đứa nhóc, bố cưng nhất là lính trinh sát. Bố cao vừa người, đen,
quê Bình Đại Bến Tre. Tính tình hiền lành, chất phác, trung thực một là một
mà hai là hai, gần gũi với cấp dưới, đậm chất người Miền Tây Nam Bộ.
Nhưng nóng tánh, hơi thô lỗ. Khác với Thủ Trưởng Mai, Thủ trưởng
Mai mẫu mực bấy nhiêu thì bố Sườn đơn giản bấy nhiêu vì vây mà lính gọi là bố
già chứ không gọi Thủ Trưởng, còn Thủ Trưởng Mai thì lính gọi Thủ Trưởng chứ
không dám gọi là bố Mai. Trung Đòan thật khéo léo chọn cán bộ để hai ông
bổ xung cho nhau. Có lúc Thủ Trưởng Mai dùng tính ĐẢNG để chỉnh tính thô
lỗ của bố, bố cười hề hề chứ không giận. Những mẫu chuyện dưới đây sẽ minh
chứng cho tính tình của bố :
Trong trận đánh nói trên khi D4 bị địch bao vây
đông nghịt, đóng gần chỗ D bộ chúng tôi nghe rõ mồn một từ máy PRC 25 mở hết
cở << Từ E gọi xuống : Anh bình tỉnh, Anh bình tỉnh. chúng tôi nghe
bố quát ngay: Bình tỉnh cái con …(cà đo), nếu tôi sợ chết tôi không dắt
anh em vô đây đâu, các anh chi viện chậm chúng tôi chết hết bây giờ
>>. Chúng tôi không bào chữa cho cái tính hơi thô lỗ của bố, nhưng những
ai đã từng có mặt ở trận đánh đó rồi mới thấy nó khẩn cấp như thế nào, tình thế
hết sức cấp bách mà anh thông tin cứ << tư tưởng o tròn đội mủ I tờ
-đóng đa an châu nam định hà nội - bắc cạn I tờ nặng bắc cạn
an châu o tròn – việt trì an châu đội mũ yên bái …. >> . cứ
như vậy dịch xong mật mã thí biết bao giờ, vì vậy nên bố chụp lấy tổ hợp nói
luôn, không nói được cứ bị E động viên nên nổi nóng lên, sẳn tính hơi lỗ
mảng bố mới văng tục luôn cho E. Nhưng khi được anh em báo Thủ
Trưởng Mai hy sinh, bố giậm chân rơi nước mắt những trận đánh sau nầy cũng vậy
khi hay Minh TS hy sinh (từ phum Bec Sa Na, phum mà có trưởng phum là anh
Hốt là Việt Kiều gốc dân Hải Phòng lúc đánh Mỹ bị thương cụt một tay sau
đó ở lại thành dân K) bố rơi nước mắt vì bố rất thương anh Minh là trinh sát
rất giỏi của D4…
Khi chúng tôi đánh chiếm cao điểm 75 ở gần phum
TU BI (Ba Rầy). Sau khi đánh chiếm cứ của địch, chúng tôi dừng quân tại đó ba
ngày, anh em ở B2 bỏ gác (lúc nầy tôi phụ trách B1) đóng sát B2, bố đi
kiễm tra phát hiện, bố vào lôi ngay anh B trưởng đang nằm ngủ trên vỏng, dựng
dậy và tát vào mặt nẩy lữa xong quát : << cha mẹ nuôi con từ nhỏ đến lớn
giao con cho Đảng, Đảng giao cho đ/c chỉ huy, đ/c để anh em bỏ gác, địch
tập kích vào anh em hy sinh oan uổng anh trả lời như thế nào với gia đình
, với Đảng …..
Khi đánh trên núi Hồng (phnum Cu Lên) ở
gần thác nước, trinh sát hy sinh, bố bảo thủ Trưởng Quyền (Ngô Xuân Quyền) CTV
D : <<mấy đứa nhỏ nó mệt, đứa nào gác xong để cho nó ngủ, tôi với
anh già khó ngủ mình thức canh xác đốt nhang cho anh em (nhang lấy
được trong cứ của địch), đừng để cho xác anh em lạnh lẽo. Chúng tôi hiếm thấy
cấp chỉ huy nào thương lính đến như vậy. Khi đơn vị về nước, tôi đang học
ĐHBK, vừa ra khỏi cổng trường gặp bố đang ngồi trên xe lam đi từ hướng
Bảy Hiền về hướng đường 3/2. Tôi gọi theo mà không kịp, từ đó đến giờ lo vật
lộn với cuộc sống, nên mất liên lạc với bố luôn. Người chỉ huy, dũng cảm, bình
tỉnh mưu trí, thương lính như con mà chúng tôi không bao giờ quên. Đã 30
năm anh em chúng tôi mong F317 có cơ hội nào đó tổ chức họp mặt để chúng
ta có cơ hôi để cán bộ chiến sỹ gặp lại nhau.
Còn anh Nguyễn văn Mót: (người bắn quả đạn B41
khơi màn trận đánh). Anh Mót lớn hơn hẳn chúng tôi đến 4 – 5 tuổi, quê ở Phú Mỹ
Hưng, Củ Chi Đất Thép Thành Đồng, đã từng là du kích và đã từng tham gia đánh
và diệt xe tăng Mỹ, sau đó chuyển qua bộ đội Biên Phòng, là trung úy đồn phó
đồn Sa Mát, cho đến khi địch tấn công vào biên giới trụ lại đánh cho đến
khi đồn bị địch san bằng, anh thóat chết, vẫn ở lại đơn vị không bị bể
chiến đấu, nhưng vì gia đình có hòan cảnh éo le (việc riêng của gia đình nên
không tiện nói), buộc anh phải tạm thời bỏ ngủ. Sau khi giải quyết việc
gia đình anh tình nguyện đăng ký trở lại NVQS và được chuyển sang TK, sau đó
chuyển về D4, chính vì quá trình thành tích như vậy mà anh em B chúng tôi coi
như là anh cả dù là chiến sỹ, Anh em đã thấy qua trận đó đã thể hiện bản lĩnh
của anh Mót như thế nào. Trận tiếp sau ngày 26/5, cũng hết sức gan lỳ,
anh bị thương. Sau đó về nằm ở Quân Y sư Đòan tại ngôi chùa ở gần thị xã Kam
Pong Thom (đối diện bên kia đường là ao nước lớn), Sau khi chạm súng với ta hai
trận, F515 của địch bị thương vong nhiều nên chúng liều mạng tổ chức tập
kích vào Quân Y để cướp thuốc men, nhưng bị anh em thương binh đánh
trả và anh Mót cũng tham gia. Khi lành vết thương anh được về đơn vị. Lúc
nầy D4 về đóng dọc theo đường 6 phía tây cách thị xã 15km ngay tại con suối
rộng có chiếc cầu dài. Anh Mót được bình chọn về Thành Phố báo Công, Về thăm
gia đình thì Gia đình lại tiếp tục gặp hòan cảnh éo le tiếp, nhưng anh vẫn trở
về đơn vị, để trao quà của anh em do gia đình gữi lên và chia tay với anh
em, rồi anh lên D4 trình bày xin D4 cho đảo ngủ thêm một lần nữa. Đơn vị rất
tiếc nhưng đành phải chấp nhận để anh về tiếp tục giải quyết việc gia đình. Anh
em nấu nồi chè đêm đó chia tay. Cho đến bây giờ không gặp lại. Không biết
anh và gia đình anh như thế nào. Hiện nay anh em rất mong gặp lại
anh. Chúng ta đã từng là người lính , đơn vị nào cũng vậy không biết bao
nhiêu là kỹ niệm , bao nhiêu là tình cảm không thể nào quên phải không các bạn.
Hai ruộng xin chào tạm biệt các bạn. Cảm ơn các
bạn theo dõi bài viết nầy. Nếu các bạn cảm thấy không chán thì lần sau mình sẽ
viết về D4 và khẩu đội 12LY 8 tăng cường.
Sau trận đánh ngày 15/4 nở hoa trong lòng địch.
D4 rút về lại phum KRÂY A. Còn địch rút về phía đông vào sâu trong rừng. Ngày
hôm sau C9 ( đại đội của hai ruộng), được chuyển về đóng phía tây bắc của phum
thay vì đóng phía đông nam. D4 bổ xung lại một số cán bộ mất mát (đ/c Thiều về
phụ trách CTV D4 , đ/c MƠ điều về làm C trưởng C9 của mình (thay cho đ/c
Phương, điều lên làm quân lực E, đ/c Chiến CTV C9 E điều lên Ban CT E, hai đ/c
Phương và Chiến không có tham gia trận 15/4). Đ /C An C phó C9 của
hai ruộng bị thương nặng khi đánh trận 15/4. Như vậy BCH C9 chỉ còn hai đ/c,
đ/c Mơ C trưởng và đ/c Phạm An Long lên CTV trưởng đại đội. Anh Kiệt B
trưởng B mình rút lên E, sau đó đi học nay không biết có còn trong
quân đội hay không ? . Anh Mót lên Btrưởng B cơ động, vẫn vác cây B41.
Còn một đ/c cán bộ đại đội bị thương nữa ,mình
không nhớ ở C nào. Lúc nầy nhân dân K tại phum KRA YA, bắt đầu ăn Tết (Chôi
snăm thmây), dân ở đây ăn tết trễ hai, ba ngày vì chiến tranh. Đơn vị chúng tôi
cũng được đón cái tết đầu tiên của nhân dân nước bạn và rút kinh nghiệm
trận đánh ngày 15/5. Sau đó hạ quyết tâm truy kích địch tiếp tục, không để cho
chúng lập căn cứ. Sau khi lãnh gạo thóc, gạo cho vào ruột tượng, mỗi anh mang
theo 6kg, để chuẩn bị cho trận đánh một tuần. Sau đó nấu cơm vắt và đâm
muối trộn với bột ngọt cho ba ngày ăn. Sáng sớm hôm sau hành quân đi về
phía đông phum, qua cây cầu đựợc bắt bằng cây độc môc qua suối Xtung. Lần
nầy hành quân cấp Trung Đòan đi thành hàng một, có cả đ/c Ba Thắng đi cùng, đến
khỏang 8giờ đội hình đi cắt ngang mép trảng trống, vùng đất có màu đỏ đậm
không có cây cỏ gì mọc được trên vùng đất nầy, máy thông tin cũng bị nhiểu sóng
khó liên lạc (vùng có khóang sản kim lọai). Chúng tôi tiếp tục băng qua rừng
già một đọan thì phát hiện dấu vết của địch. Chúng vứt lại dần dần đồ đạc chúng
mang theo, bỏ cã cối giã gạo, đến khỏang 4 giờ chiều thì chúng tôi phát hiện cứ
của chúng dọc theo bờ suối có hướng nước chảy từ bắc xuống phía nam, nơi
đây chúng chưa kịp đào công sự, dấu vết cho thấy địch vừa rút khỏi không bao
lâu, chúng đào những cái lỗ bằng chiếc nón xuống dưới đất, xung quanh chúng
chặt cây đóng ken dầy đặc để chúng bỏ lúa vào trong đó và giã thành gạo
để nấu cơm ăn. Chúng không biết đào bếp Hòang Cầm như anh em bộ đội mình, mà
chúng dùng ba cọc bằng cây tươi đóng xuống đất để nấu cơm. Chứng tỏ chúng đã
biết sợ ta sau trận đánh không còn ngạo mạn như lúc đầu nữa. Chúng tôi ở
lại cứ của chúng, đào bếp nấu cơm ăn, không ai đào công sự vì quá mệt mỏi. Đêm
đến một đám mưa rừng thật to, quân ta ướt cả đêm, trong rừng chỉ cần một đám
mưa chừng một tiếng đồng hố là nước mưa đọng lại trên lá và rơi ướt cã đêm, cã
D 4 chỉ có hai ba tấm tăng che mưa mà thôi. Vì khi bắt đầu mở màn chiến dịch
vào cuối tháng ba, trời khô ráo trên chỉ phổ biến đánh ở phum La – ót chỉ
có ba ngày không ai nghĩ là chiến dịch kéo đến mùa mưa, rồi sau đó
liên tục không về lấy được ba lô, anh em chúng tôi mỗi người chỉ mang
theo một quần đùi cho gọn nhẹ và một bộ quân phục đang mặc trên người, cả tháng
trời mặc từ ướt đến khô, tôi còn không mang theo kem và bàn chải răng. Cả C tôi
chỉ có hai tấm tăng che mưa một của anh Dũng y tá (chúng tôi gọi là sáu Quăn từ
D6 mới chuyển qua sau trận 15/4) và một của anh Long CTV C (anh Long tánh tình
rất cẩn thận). Mưa suốt đêm, anh nào sức khỏe yếu chui vào tăng che mưa mắc bốn
năm tầng võng. Một số anh em quá lạnh không chịu nổi bắt đầu đốt
lửa giữa rừng (khổ quá nên không còn sợ chết). Chúng tôi đóng quân tại đó
vài ba ngày, tổ chức lùng sục xung quanh suối. Ruột tượng đựng gạo ướt
sủng công thêm mổ hôi chiến sỹ thấm vào khi hành quân gần một tuần gạo đã thàng
màu vàng và hôi mùi mốc, anh em cũng phải ăn, thức ăn thì có thịt cọp
(tức là muối bỏ vào ca nhôm làm cối, lấy trái lựu đạn làm chài trộn vào
chút bột ngọt, giã nghe cọp cọp, anh em gọi là thịt cọp cho oai.
Suốt bao năm làm nhiệm vụ quốc tế đó là món thức ăn thường xuyên của bộ đội ta,
con đường gian nan sau nầy còn nhiều hơn nữa đang chờ đợi anh em ta
phía trước. Như vậy đó các bạn, để xóa bỏ chế độ diệt chủng tàn ác và xây dựng
cho bạn chính quyền vững mạnh như ngày nay, anh em bộ đội chúng ta không
những góp máu mà còn góp bao nhiêu mồ hôi khổ cực của cả bộ đội ta
và bộ đội bạn thì nhân dân bạn mới được như ngày hôm nay. Vậy mà cách đây
một năm (2008) một lần lên nhà sách FAHASA, tôi có đọc cuốn sách
được xuất bản từ Mỹ được dịch sang nhiều thứ tiếng trong có có tiếng Việt, nội
dung kể về hồi ký của một cô gái KAM PU CHIA được thóat khỏi bàn tay quân Pôn
Pốt khi có bộ đội Việt Nam đánh cho tan tác, đơn vị Pôn Pốt đó, nhờ vậy
mà cô ta chạy được sang Thái Lan, sau đó gặp được lính mặc áo quần rằng
ri của Lâm nol, cuối cùng thì cô ta cám ơn, người Mỹ, cám ơn lính Lâm Nôl
đã ban cho cô ta tự do (trong cuốn hồi ký về cánh đồng chết). Thật là buồn cười
phải không các bạn.
Sau gần một tuần lùng sục suốt cũng không thấy
địch, ăn hết gạo ta lại hành quân về. Lần nầy C9 đóng ở bên bờ phía đông con
suối Xtung (ngay ngã ba nhánh suối phía đông phum KRAYA, trên bản đồ quân sự
không có phum, nhưng ở đó có xóm nhà cũng gọi là phum thmây (xóm mới) chứ không
về phum KRAYA nữa, nghỉ chân được hai ba ngày chưa hết mệt lại hành quân tiếp
theo đội hình D, từ phum C9 đóng quân, hành quân về phía bằc đi về phía hồ nước
lớn cách đường mòn khỏang 500 mét. Bắt đầu hành quân từ khi trời còn tối, đi
qua trảng trống lớn sau đó tới cánh rừng mai, mai vàng nở rộ vàng rực cả cánh
rừng xa mút tầm mắt, khi đến ngang hồ nước khỏang 11 giờ trưa, triển khai đội
hình sẵn sàng chiến đấu, bộ phận trinh sát bám vào, phát hiện địch đã rút đi.
Quân ta ăn cơm vắt xong lại hành quân về, khi về ngang cánh rừng mai, D dừng
quân giải lao 5phút . Đất rừng phì nhiêu hoang dại, những cành mai nẵng
trĩu cánh mai vàng, tôi ngồi tựa lưng vào gốc mai cổ thụ gốc mai to như bắp
đùi. Nhìn lên bầu trời trong xanh, chim đại bàng đang chao lượn, tâm hồn tôi
dần dần chìm vào trong ký ức tạm quên đi nổi hiểm nguy của chiến tranh đang
rình rập từng phút từng giờ, có gì đó quen quen .. Á nhớ ra rồi
<<…Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi ….>> . Một câu thơ của bà Huyện
Thanh Quan, lúc còn ngồi ở ghế nhà trường phổ thông, chúng tôi tranh luận với
nhau về câu thơ nầy, các bạn cho rằng, sách giáo khoa in sai, đúng ra phải là
ngàn mây mới phù hợp với bài thơ hay như vậy, còn ngàn mai là cái gì - vô nghĩa
. Tôi mĩm cười một mình vì đã tìm ra lời giải đáp, ngàn mai đây rồi chẳng phải
là rừng mai đang trước mặt mình đó hay sao? Câu thơ đó tức là << rừng mai
gió cuốn chim bay mõi >> Ồ ! hay quá …. Cảnh đẹp thiên nhiên , ký ức và
thơ đang hòa quyện vào nhau, tâm hồn tôi đang chìm trong say đắm . <<
ĐÒANG >> một tiếng nổ xé tai, vang dội trong cánh rừng làm những
cánh mai vàng rơi rụng tôi giật thót người. Ồ ! <<Bòn Dân, đã trúng mìn
chết rồi >> ! . Bòn Dân là người du kích bạn đầu tiên tự nguyện tham gia
chiến đấu cùng với D4 từ lúc chúng tôi rút khỏi KRAYA lần đầu tiên (lúc
D6 bị tập kích), đi theo suốt chúng tôi qua bao nhiêu trận và cũng là người du
kích đầu tiên hy sinh ở đơn vị chúng tôi. chúng tôi chặt cây rừng làm cán để
khiên xác của Bòn Dân trên chiếc võng. Người du kích hiền hậu vui tính lúc nào
cũng cười. Để tỏ lòng thương mến, anh em hái nhánh hoa mai vàng rực đậy
lên xác Bòn Dân. Khiêng về đến phum thmây (nơi C9 chúng tôi đóng quân) ,
làm công tác tẩn liệm và trả về gia đình.
Xin tạm biệt các bạn . Ngày mai tiếp tục trận
đánh ngày 26/5 . ( hai trận đánh có tên trong bái hát truyền thống củ a Trung
Đòan 747 ….<< 15- 26 oai hùng ghi đậm truyền thống
Trung Đòan >> …
Hai Ruộng xin chào các bạn . Hôm nay mình sẽ kễ
về trận đánh ngày 26 tháng 05 năm 1979 của E 747. Sau khi hành
quân truy lùng địch ở bào nước nằm phía đông bắc phum KRÂY A bên bờ phía đông
con suối XTung cách phum 15km- 20km. Khi rút về thì Bòn Dân trúng mìn và
hy sinh. D4 về nơi đóng quân mới, nằm phía bờ đông con suối Xtung, nơi có chiếc
cầu bằng cây độc mộc, phía sau sát phum về phía nam là nhánh suối của suối
xtung. Sau khi bố trí đội hình, cơm nước xong. D4 ra lệnh mỗi C cữ vài ba đ/c
lên D làm công tác tẩn liệm cho Bòn Dân ngay trong đêm hôm đó. Còn lại bố trí
canh gác cẩn thận và tạm dừng quân ba ngày. Sáng hôm sau chúng tôi, tắm
giặt quần áo, võng. Sau đó ăn cơm và tổ chức ra suối đánh cá, để cải thiện bửa
ăn cho anh em, suối cá nhiều lắm. Mình và anh Bữu thông tin D cùng với
một số anh em đi đánh cá. Nhân Dân đi theo chọn khúc sông có nhiều cá, vừa đánh
xong trái lựu đạn, cá nổi trắng khúc sông, bộ đội và nhân dân cùng nhau vớt cá,
anh em mới vớt chưa được bao nhiêu thì đơn vị chạy ra bảo về gắp hành
quân ngay. Chúng tôi về chuẩn bị hành quân, cũng cơm vắt và thịt cọp, cá chưa
kịp ăn. Bắt đầu hành quân lúc khỏang 01 giờ chiều, khẩu đội 12ly8 vẫn tăng
cường cho D4 như từ đầu chiến dịch đến giờ. Tiếp tục hành quân về nơi bàu nước
ngày hôm qua. Ba giờ chiều trời đổ cơn mưa thật lớn, cả đơn vị ai cũng ướt như
là nhúng nước, cơn mưa kéo dài lắc rắc suốt đêm tận đến 3giờ sáng. Trong rừng
ban đêm trời mưa, tối đen như mực, chúng tôi phải đi sát lại mới không bị
lạc đội hình. Tội cho những anh hành quân sau mấy anh vác B40, B41 cứ mỗi lần
người trứớc đứng lại là người sau bị đụng đầu vào đầu nhọn của quả đạn,
thọc ngay nón cối còn đở , thọc ngay mặt sưng bầm. Đến khuya, cã đơn vị đều mệt
mỏi nên tạm dừng quân nơi trảng trống, mưa vẫn cứ rơi, anh em vẫn
cứ ướt. Quần nhau liên tục bao nhiêu ngày ai cũng đừ ra cã,vì vậy dù trời đang
mưa ngập đất khi chúng tôi đặt lưng nằm đại xuống đất lấy nón cối che mặt
lại đừng cho mưa bắn vào mặt, dưới lưng nước lắp sắp, vừa lạnh vừa đói. Rồi cứ
mặc cho mưa chúng tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay (những người chưa trải qua
không thể nào tin được, nhưng đối với anh em D4 thì đó là sự thật. Tôi tỉnh
giấc khi nghe tiếng gà rừng gáy rộ, ngồi dậy thấy tòan thân tê cóng. khỏang
5giờ sáng đơn vị lại gọi dậy chuẩn bị hành quân, lại nấu cơm sáng, vắt cơm
trưa. Hứng chịu trận mưa rừng từ 3giờ chiều cho đến gần sáng, cã đơn vị không
có tăng che, không có tấm áo mưa (vì tất cả đều bỏ ở cứ), một vài anh em không
chịu nổi, không ngồi dậy được hoặc không còn nói nổi, đơn vị phải đốt lửa hơ
cho ấm mới tỉnh lại được. Mùa nắng tìm nước nấu cơm thì khó, tìm củi thì dễ,
còn mùa mưa thì ngược lại, tìm nước thì dễ còn tìm củi khô thì khó. Nhờ kinh
nghiệm của anh em thời chống Mỹ mà chúng tôi tìm được củi, cũng nấu được
cơm và lại tiếp tục hành quân (những kinh nghiệm nầy ở quân trường không
bao giờ có). Khi đến điểm thì địch lại chạy mất. Lại tiếp tục truy đuổi, cũng
hành quân luôn cã ban đêm. Sau cơn mưa ngày hôm qua trời đã hết nước, đêm nay
khô ráo, nhưng lại hết nổi khổ nầy thì lại gặp nổi khổ khác. Ban đêm
chúng tôi phải cắt rừng, đi qua khu rừng tòan cây mây nước, những ngọn mây gai
mọc đầy hai bên cong và bén như những cái lưỡi câu chờ sẳn trong đêm tối
móc vào mặt anh em tóe máu, quần áo rách càng rách thêm. Tội nhất là
anh em hỏa lực, cối 82ly và 12ly 8, vừa khiêng vác súng nặng vừa phải lom
khom chui rừng, càng nặng thêm. Cuối cùng chúng tôi cũng đến nơi tập kết với
Trung Đòan. Sáng hôm sau lại tiếp tục truy kích, sau khi Bòn Dân trúng mìn
của địch, chúng tôi thận trong hơn, chúng tôi đi chận đầu hướng rút lui của
địch, chứ không bám theo đường chúng đi nữa, vì vậy hành quân phải càng vất vả
hơn.
Chúng tôi đi về hướng, ranh giói tỉnh PREY VI
HIA, đến vùng rừng thưa có, đầm nước cạn có trảng cỏ, chúng tôi phát hiện dấu
chân voi rừng, sau đó băng qua rừng già gặp con suối. Đến đây D4
chia làm hai cánh, C9 chúng tôi cùng khẩu đội 12ly 8 làm một cánh đi bên nây
suối do đ/c CTV Thiều chỉ huy. Còn lại Tiểu đòan thành một cánh đi bên
kia suối do bố Sườn chỉ huy. Chúng tôi đi khỏang 1km thì nghe phía cánh bên kia
nổ súng chạm địch. Khi đó thông tin bật máy liên lạc, thì có lệnh cho
chúng tôi vận động nhanh theo hướng suối, chúng tôi càng vận động thì tiếng
súng nghe càng nhỏ, sau đó xác định lại bản đồ, thì C9 chúng tôi lầm
đường vì gặp nhánh suối nhỏ không có trong bản đồ chúng tôi tửong đâu là
suối chính nên chúng tôi đi càng lúc càng xa trận địa, khi phát hiện được nhầm
lẫn chúng tôi nhanh chóng trở về. Tiểu Đòan điều khẩu 12ly8 sang cánh Tiểu
Đòan. C9 vẫn ở bên nây suối. khi có súng nổ thông tin bật luôn máy liên
lạc, nghe bố Sườn ra lệnh, chuẩn bị khi nào 12ly tám nổ thì xung
phong, chuẩn bị mãi không nghe thấy 12ly 8 nổ. Khỏang 10 phút sau, bố
Sườn lệnh cho C9 khẩn trương về phía tiểu đòan để yểm trợ cho 12ly8. Khi đến
nơi chúng tôi thấy 12ly8 đã bị địch khống chế, khẩu súng nằm trên bải cỏ trống
anh em khẩu đội mấy người hy sinh, còn nằm gục trên súng. Trận địa xảy ra
nơi ngã ba suối, rừng nơi đây tòan là cây sim ổi mọc ken dầy với nhau,
Khi B của anh Thanh cùng với khẩu đội 12ly8 chui luồn trong rừng
sim để đến điểm bố trí, B bộ binh đi trước còn khẩu đội 12ly8 khó
chui rừng vì phải vác súng nặng cồng kềnh cho nên khi thấy bải đất
trống 12ly8 bèn vận động tắt khiêng súng ra bải trống bị lộ chưa kịp đặt
súng đã bị địch bắn. (Đọan nầy mình nghe anh em kễ lại). khi anh vác chân
súng đi trước bị địch bắn gục nhưng khẩu đội vẫn quyết tâm lắp cho
được súng, khẩu đội trưởng hô: chuẩn bị xung phong lắp súng … 1…2….3..Xung
phong. cả khẩu đội lại xung phong. Một lần nữa tiếng súng địch lại ran lên, anh
em hy sinh và bị thương thêm vài người nữa nhưng súng cũng được lắp xong, Anh
Thành (anh em thường gọi là năm Eo là khẩu đội trưởng hay khẩu đội phó gì
đó tôi chưa nhớ ra) bị thương nằm sau khẩu súng, anh cố nhòai người lên
bóp cò nhưng súng chưa lên đạn kịp và chúng lại ran thêm một lọat nữa, anh
Thành hy sinh, gục trên giá súng ... Khẩu đội 12ly 8 hy sinh và thương vong gần
hết, cả thương binh và tử sỹ nằm la liệt trên bải cỏ, phía sau khẩu 12ly 8 là
con suối cạn C9 được điều về nằm dưới đó. Cối 82 cối 60 của địch bắt đầu rót
vào đội hình ta, anh Mót bị một quả cối 60 rớt rất gần, ba quả đạn B41 mang sau
lưng bị cháy liều phóng, phải nhanh chóng cởi giá đạn ra, anh bị thương do mảnh
đạn và cháy cả tóc do cháy liều phóng. Ta phản pháo lại địch, hai bên đấu cối
liên tục. Anh em bắn yểm trợ để xung phong lên kéo thương binh về, nhưng
không hiệu quả, khi xông lên bị thương thêm nữa, bố Sườn cấm không ai được xung
phong. Sau đó anh Thanh BTrưởng B2, từ từ bò lên và phát hiện trên nhánh cây cổ
thụ sau lùm cây sim có một tên địch ngồi trên đó phía dưới là công sự có
một tên giữ khẩu RPD, khi tên ở trên cây phất tay thì tên ở dưới hầm ngóc
lên bắn, khẩu trung liên nầy cách vị trí 12ly8 chưa đầy 7mét . Anh Thanh quất
một lọat ak tên ở trên cây nhảy xuống tên ở bên dưới chưa kịp chạy thì bị quả
lựu đạn chết gục ở trong hầm . Bọn địch còn lại trong hầm chữ Z
theo đội hình của chúng vẫn còn cố thủ. Lúc nầy quân ta lợi dụng địa hình có
cây sim dầy đặc tiếp cận sát công sự của chúng, nên súng cối của chúng không
còn tác dụng. Sau khi tiêu diệt được tên khống chế 12ly8, bố Sườn truyền
lệnh bắn đồng lọat áp đảo tinh thần địch để một B xung phong lên đưa
anh em thương binh tử sỹ về, con suối cạn băng bó. Đợt bắn áp đảo lần nầy
anh em đã đưa thương binh tử sỹ về được nơi suối cạn. Sau đó tổ chức bắn
áp đảo để xung phong lên lấy khẩu 12ly8 về gần sát con suối cạn. Khi lấy được
khẩu 12ly8 về rồi bố Sườn ra lệnh bắn áp đảo và xung phong ngay sau khi 12ly8
nổ dòn lọat đạn đầu. Lần nầy khi nghe 12ly8 ta nổ địch bật khỏi công sự bỏ
chạy, bỏ lại nhiều quả mìn chưa kịp gài. Anh Thanh thu được khẩu RPD.
Sau khi chiếm được vị trí đó vừa xong thì trời
cũng gần tối. Trận đánh nầy tuy lúc đầu có khó khăn, nhưng nhìn chung quân ta
có kinh nghiệm và trưởng thành hơn, Cấp Trung Đòan phối hợp kịp thời vì lúc D4
bên nây đụng địch thì D5 bên kia suối (phía đông con suối) cũng vận động kịp
thời và chận đánh đươc địch đang bỏ chạy. D4 khiên thương binh tử sỹ qua bên
kia bờ suối phía D5 để nghỉ đêm, rừng dầy đậc không thể đánh ban đêm
được. Sau mấy ngày đêm dầm mưa, đêm nay lại mưa tiếp, đến chin giờ tối anh nuôi
chuyển cơm vắt lên, chúng tôi chia nhau từng nắm cơm vắt và thịt cọp. Bên kia
bờ suối vẫn nghe tiếng địch đang đào công sự. Chúng nằm im re không dám đánh
nữa (bể chiến đấu). Có một số anh em hút thuốc, bố Sườn biết lính
đã quá cực khổ cho nên cũng không rầy la, mà chỉ khe khẻ khuyên “tụi bây đừng
hút thuốc, tụi bây không sợ chết hay sau” . Mệt quá chúng tôi bỏ gác và ngủ một
giấc cho đến khi nghe gà rừng gáy rộ. Quân địch cũng như con cua bị ê
càng không còn dám kẹp. Tờ mờ sáng Tiểu Đòan tổ chức tấn công qua bên kia bờ
suối, thì địch đã rút chạy hết, chúng tôi thu được ăng ten ba đọt của máy điện
đài, ban đêm chúng dìm dưới nước không kỹ nên còn lòi ra một đọan, tiến sâu vô
nữa là bệnh xá, bông băng còn bỏ lại trên những chiếc giường bện bằng cây rừng,
mái che được lợp bằng lá dây mây nước được bện lại hết sức công phu. Tiếp nữa
là kho hậu cần của chúng, chúng lấy đi cũng chưa hết. Vì anh em chúng tôi
cũng thương vong nhiều nên đành phải rút nhanh về. Trung Đòan thu được H12 và
bắt được một con ngựa của địch. Về phía tiểu Đòan chỉ thu được vài khẩu
súng trong đó có khẩu RPD. Địch cũng chỉ bỏ lại vài ba xác. Về chiến lợi
phẩm thì chỉ có bấy nhiêu, có sao chúng tôi nói vậy, không phô trương thành
tích. Nhưng về ý nghĩa của trận đành thì rất lớn, chúng tôi đã không để
cho chúng thành lập được căn cứ ở tận trong rừng sâu, từ ở vị trí lúc đầu gần
như mất khẩu 12ly8 nhưng sau đó giành lại được. Từ chỗ ta và địch còn ngang
ngữa với nhau, nhưng sau đó ta đã khôn ngoan, dũng cảm giành lại vị trí chiến
thắng dù phải hy sinh. địch đã vô cùng khiếp sợ. Rút lui : Sau khi giết
ngựa làm thịt chia cho các đơn vị. E Tiếp tục truy đuổi địch, còn C9 làm công
tác cán thương về phía đường 12. Hành quân đã vất vã rồi khi cán thương,
cán tử sỹ còn khổ hơn gấp trăm lần. Ba anh em 12ly 8 hy sinh từ lúc nổ súng đến
lúc cán thương đã trên 24 giờ, xác anh em nằm giữa rừng được đậy bằng lá cây,
lại phơi mưa suốt đêm, đã bắt đầu trương lên, ruồi nhặng bu quanh, giòi bọ đã
bắt đầu sinh sôi. Chúng tôi cán thương một ngày đường, chiều lại bị mưa
cho đến tối mệt quá chúng tôi dừng quân nghỉ đêm tại trảng rừng dầu, mưa
vẫn cứ rĩ rã, anh em nằm phơi mưa cùng xác anh em, chỉ có ba tấm tăng che
mưa dùng che cho thương binh vì sợ vết thương anh em bị nhiễm
trùng. Tờ mờ sáng hôm sau lại tiếp tục cáng thương. Xác anh em qua
hai ngày hai đêm phơi mưa đã bắt đầu nặng mùi. Vì vậy C quyết định dùng tấm
tăng che mưa cho thương binh đem bó xác, khi anh em khiêng xác một đọan đường
giòi bọ bò theo dây võng bò cã lên áo lên đầu anh em khiêng xác. Nhưng anh em
chúng tôi vẫn một lòng cắn răng chịu đựng vất vã đễ đưa xác anh em về đến cứ,
khỏang 10 giờ trưa, chúng tôi nhờ được một chiếc xe bò của dân chở xác,
qua nhánh suối nhỏ rối sau đó đến phum ở giữa rừng. Nghỉ trưa ăn cơm xong lại
tiếp tục đi tiếp trời lại mưa to. Lúc nầy dân giúp chúng tôi thêm hay
chiếc xe bò nữa để chở thương binh, chúng tôi không phải cán nữa. Đến 8giờ
tối bắt đầu qua con suối. Vì mấy ngày mưa liên tục nên con suối nước chảy
siết, nhưng cũng băng qua được. Khi đi đến gần con suối chúng tôi nghe
tiếng máy xe của Trung Đòan ra đón chúng tôi bên bờ suối , nhưng vì đợi lâu quá,
trời lại tối xe lại quay về. khi nghe tiếng xe chúng tôi bắn ba phát ra
hiệu xe cũng không nghe, chúng tôi bắn luôn một băng đạn nghe tiếng xe càng
chạy nhanh hơn, lúc nầy trời mưa lại bắt đầu to, sấm chớp nên thông tin không
liên lạc được. Đến khi lên lạc được xe mới vòng trở lại, chở thương binh, tử sỹ
về trung đòan, C9 chúng tôi hòan thành nhiệm vụ. Tiếp tục hành quân đến
khỏang 10 giờ thì đến phum nằm theo dọc đường 12, tôi cũng không nhớ rỏ tên
phum. Sau đó anh em mới nấu cơm ăn và hơ quần áo cho khô. Phum nầy có rất nhiều
vườn trồng thơm. chúng tôi nghỉ chân ở đây hai ngày, sau đó lên xe cùng với D
trở về đóng quân ở phum có cái cầu dài cách thị trấn KPThom khỏang 10km về phía
tây (không biết có phải là phum Prey pro không), thế là hết một mùa chiến
dịch. Chiến dịch bắt đầu từ cuối tháng 03 cho đến hết tháng 05 ,từ mùa
khô cho đến mùa mưa. Hơn hai tháng trời quần nhau với địch, râu tóc anh em
chúng tôi rậm rạp, quần áo rách nát hầu hết áo không ai còn tay và vai áo
lành lặn, quần chỉ còn ngang gối, giầy có người còn một chiếc có người đi chân
không. Đơn vị cũng hao hớt. Nhưng bù lại chúng tôi đã gây nhiều thiệt hại cho
đich nhất là trận 15/4, sau thêm một trận 26/5 nữa địch đã biết thế nào
là bộ đội Việt Nam. Từ bây giờ trở đi cứ gặp E747 là chúng bỏ chạy không dám
đánh. Đơn vị tôi bắt đầu cắt tóc cạo râu lãnh quân trang, dưỡng quân để
bước vào chiến dịch, dọc theo bờ sông SAIN (qua cã bên kia sông SAIN từ
Xung túc cho đến qua một Phần Xăng Đal). Hai ruộng xin chào các bạn. Cảm ơn các
bạn theo dỏi bài viết nầy.
Sau khi đánh xong trận ngày 26 tháng 5
năm 1979, D4 rút về dưỡng quân tại phum có chiếc cầu sắt dài ở trên đường số 6
cách thị xã về phía tây 12km, (trận đánh 26 tháng 5 ở trên thượng nguồn con
suối nầy). Nơi đây lúc nầy có một đại đội TNXP làm nhiệm vụ giữ cầu có cã nam
và nữ. D4 tổ chức cắt tóc, giặt giủ, đào công sự, cũng cố lại đội ngũ. Ngày hôm
sau E cho xe chở ba lô của anh em về từ cứ của Sư (vì khi vào chiến dịch,
hậu cần của D gom về Sư hết vì sợ địch tập kích). Anh em đựơc lãnh bổ xung thêm
một bộ quân trang (có cái để đô xke). Sau đó rút kinh nghiệm trận đánh. Nhìn
chung trận đánh, có khi ta thiệt hại nhiều hơn địch (khẩu đội 12ly 8 hy sinh 3
đ/c bị thương 4, 5 đ/c, khẩu đội gần hết, một số anh em bộ binh bị thương
do bò lên kéo anh em 12ly 8, một số bị thương do cối địch lúc mới triển
khai đội hình. Nhưng khi quân ta lợi dụng địa hình có nhiều rừng cây, trườn sát
công sự của địch thì không bị cối nữa, cối chúng sau nầy đều bắn đuổi ruồi sau
đội hình quân ta. Phía địch phía cánh D4, địch chỉ bỏ lại hai xác, một do
trinh sát diệt khi mới chạm địch, một do anh Thanh đánh trái lựu đạn vào công
sự (tên nầy bắn khẩu RPD vào đội hình 12ly. Còn bên trong cứ của chúng cũng có
những vết máu do cối ta bắn nhưng không bỏ lại xác nào. D4 cũng không kịp lùng
sục kỹ vì khi chiếm xong trận địa thì trời sắp tối. Hơn nữa cứ cũa chúng rộng
mênh mông, có cã công sự của điên đài 15wátt, D4 thu được ăng ten, có cã trạm
xá tất cã các công sự dài gần 2km dọc theo bờ suối. Khi ta lấy lại được khẩu 12ly8
và nổ súng xung phong thì chúng tróc công sự bỏ chạy. Đội hình ta chỉ có
01 E nên không thể nào bao vây chúng được. Nhưng nếu hôm đó, khi B2 của
C9 dùng lựu đạn đánh tróc công sự của chúng rồi, sau đó tổ chức một
mũi thọc sâu vào đội hình địch đánh từ trong ra thì sẽ diệt địch được
nhiều hơn. (Có lẽ vì lúc đó ta bị thương vong cũng nhiều, hơn nữa trời cũng sắp
tối, rừng thì dầy đặc, ban đêm đưa bàn tay ra nhìn không thấy, quá mệt mỏi thêm
đói nữa. Vì vậy giải quyết cho dứt điểm, sau đó D4 rút qua bên kia suối tạm
dừng quân qua đêm, sáng hôm sau đánh tiếp thì địch đã chạy mất.
Qua thời gian hơn hai tháng truy đuổi địch, D4
đánh được hai trận, trận đầu ngày 15 tháng tư. D4 hành quân lọt vào giữa cứ Sư
Đòan của địch, lợi dụng lúc địch đang chuyển quân, nên địch thấy ta mà địch
không biết tưởng là một đơn vị của chúng, dù trời đang có trăng sáng. D4 chớp
lấy thời cơ chọn địa hình cao, có sẳn công sự của địch, để bố trí đội hình, bất
ngờ đánh vào chúng gây thiệt hại nặng cho chúng. Sau đó truy đủôi địch, sau hai
lần đánh hụt, lần thứ ba là trận 26 tháng 5, gặp là nhào vô đánh luôn. Sau hai
trận nầy địch không dám đương đầu với E747 nữa.
Sau khi dưỡng quân một tháng, C9 và B trinh
sát lại nhận nhiệm vụ trực tiếp từ Trung Đòan, hành quân lên phía bắc dọc
theo bờ sông Sain, huyện XUNG TÚC. Vùng nầy có rrất nhiều cây mã tiền (một lọai
trái dùng trong đông dược, dân địa phương dùng chữa bệnh sốt rét, có vị
rất đắng. Dân ở đây rất ít trồng lúa mà trồng cây mè (vừng). Vừa hành quân vừa
bám địch, vừa thăm dò, ngày đi đêm nghỉ, mặc dù vất vả và hiểm nguy lúc nào
cũng rình rập nhưng anh em cứ rảnh ra là kể chuyện tếu nhất là anh
Mơ C trưởng, anh em mê anh Mơ vì anh kể chuyện Bác Ba Phi rất có
duyên, có lần anh đang kể, anh em hỏi Bác Ba Phi quê ở đâu vậy anh
Mơ anh Mơ bảo ở Cà Mau chứ còn ở đâu nữa, lính ta bảo rằng
không phải đâu. Vậy mầy biết ở đâu mầy nói nghe coi, lính ta mới kể bác Ba Phi
quê ở Củ Chi, khi đào địa đạo gia đình ổng đào sâu quá khi
chui lên thì trúng ở vùng rừng tòan sình lầy, cho nên sình tràn xuống che mất
địa đạo, nên về không được, sau nầy mới biết đó là rừng U minh. Lính ta cười ồ
C Trưởng bèn lắc đầu chịu thua. Còn CTV trưởng là anh Long, dân Bách Khoa Hà
Nội trúng tuyển rồi tự nguyện nhập ngủ đi B, cũng là một cây lý luận của
đại đội, khi nào buồn lính ta cứ kích cho anh Long kễ chuyện quê ngòai
Bắc, sau đó kích cho anh Mơ kê, hai ông kê nhau, lính lại cười ồ. Tuy vậy
chứ anh em rất gắn bó với nhau. Cho đến bây giờ tình cảm anh em trong
chiến đấu vẫn rất là thiêng liêng, tốt đẹp, ngày nay tôi viết dòng chữ nầy cũng
vì cái nghĩa đồng chí, đồng đội ấy.
Hành quân khỏang gần một tuần, chúng
tôi đến phum CHA TEAR (có nghĩa là phum Cây Dầu). Chúng tôi nhận được tin
dân báo, phum phía tây nơi tôi đang dừng quân có 4, 5 tên địch xuất hiện, Cã
đại đội đến đánh nhưng chúng đã chạy mất. Chúng tôi nghỉ chân tại đây. Đầu hôm
du kích bạn đến báo, phum của họ bị địch bao vây cướp lương thực, C điều một B
và có 3 trinh sát đi cùng. Vừa xuất phát đã nghe súng địch nổ tấn
công vào du kích, chúng tôi vận động đến, nổ súng chi viện, dù đông hơn
rất nhiều, nhưng chúng cũng bỏ chạy luôn, sau khi cướp bóc hết mấy kho lúa của
dân, nơi đây cách thị xã Kam pong thom 50km, nằm trong khu rừng già gần sông
SAIN. Dấu vết để lại cho thấy địch khỏang hai trăm tên. E tức tốc điều D4 lên
chi viện cho C. Sau đó cã D lùng sục mãi cũng tìm không thấy, chúng trốn mất
dạng. Chúng tôi tìm thấy nguyên một đòan xe quân sự của địch mười mấy
chiếc bỏ lại trong rừng vì chiếc đầu qua suối nước ngập sâu quá chết máy, vì
thế cã đòan xe kẹt lại (có lẽ do Quân Đòan 4 đánh). Sau khi lùng sục chán tìm
không thấy địch E lệnh cho D4 vượt sông SAIN về phía đông, chúng
tôi lúng sục lên tận Săn Đan, cũng không gặp, sau đó chúng tôi bắt tay với E775
và lại rút về đường số 6. Anh em lại tiếp tục lấy lựu đạn thả cho
cá ăn. Thỉnh thỏang đi lùng theo hai bên suối 15- 20 km rồi về. Ở địa bàn
nầy chúng tôi có đánh hụt một tóan quân không rỏ đơn vị nào của địch khi chúng
vào cướp lương thực của dân ở phum cách xa chúng tôi khỏang 3km, nhưng
muốn đến phum nầy phải đi đường vòng qua hồ nước hơn 10km, tên chỉ huy của
chúng cụt một chân và luôn cưỡi ngựa khi chúng hành quân. Khỏang tháng 10 chúng
tôi hành quân về huyện Ba Rai, huyện phía nam của tỉnh Kampongthom, phía bắc
giáp tỉnh Kra Chê, phía nam giáp Kampong chàm. D4 cũng đóng tại phum mà lính ta
hay gọi là khum Ca Dia (gần trùng tên với phum ở huyện Xtung). Trung Đòan nằm ở
khum KAVA, nơi đây sau nầy E tổ chức lớp đào tạo HSQ, cán bộ Trung đội,
tiểu đội. Từ phum nầy đi về phía bắc khỏi ngọn đồi là đến khum Ca Dia nơi D4
đóng quân, Còn C9 chúng tôi đóng tận phum Tà Pu nằm phía nam, cách D bộ khỏang
5km. Nơi đây sau nầy đơn vị chia lẽ ra đánh du kích với địch, kỹ thuật gài mìn
và phát hiện mìn được nâng cao. Cán bộ tiểu đội và trung đội được học bổ xung
khóa gài, gở mìn do đ/c Mỵ trung úy công binh trung Đòan hướng dẫn. Nơi đây là
chiến trường gian khổ nhất và hao quân nhiều nhất, sốt rét cũng nhiều nhất.
Sư bộ 317, hiện nay đóng tại thành Ông Năm (Hóc
Môn), cách đây 4-5 năm tôi và 4 Ae cựu binh E747 có lên thăm và uống vài lon 33
với anh Khải là sư phó CT (khi ở K rút về là trung úy phó CT C17-E747). Có
người còn biết mình là lính cũ, nhưng không nghĩ ra chuyện xin copy các tư liệu
về E747 (lúc đó chưa có và chưa biết QSVN mà !

). Bây giờ thì anh ấy đã "hưu non"
và về Hà Nội rồi (huyện Từ Liêm, lục hoài không biết bỏ địa chỉ ở đâu). Nên
không biết lên F317 để gặp ai nữa. Khi ở K, Ban CT E747 cũng được cấp 1 máy
chụp hình và giao cho anh Mẫn (từ C trinh sát rút về làm trợ lý TN) giữ và theo
tôi biết lúc đó Ban CT E cũng đã chuẩn bị 1 số tư liệu để viết truyền thống
E747. Không biết số tư liệu đó có được bàn giao và sử dụng hay không ? Vì khi
đơn vị về VN, anh Mẫn về tỉnh đội Đồng Nai (gia đình anh Mẫn ở TP. Biên Hòa).
Cách đây 3-4 năm nghe tin anh Ngô Minh Mẫn khi đó khoảng 45-46 tuổi là trung tá
phó CT tỉnh đội ĐN đã mất vì bệnh.
bác 2 ruộng: công nhận là bác nhớ tên AE mình và các cán bộ hồi đó hay thiệt !
Anh Thiều trước khi về D4 thay anh Mai hy sinh là CTV C17 cối 82. Và những cái
tên anh Mỵ C công binh, anh Mơ ở D4, anh Thế C trinh sát,... cứ nhắc đến là
"nao nao" trong ký ức 1 thời trai oanh liệt đã qua!!!.
Đêm đánh trận "xém mất" cây 12 ly 8,
ở cánh của bác 2 ruộng không biết sao, cánh bên tôi AE hết nước, phải đái ra để
uống, dù chỉ cách suối không đầy 100m. Tới khuya trời đổ vài hạt mưa, AE lấy
cái ca nhôm TQ chắt nước đọng trên tấm tăng che đạn cối, được ít nước chia nhau
uống, đắng nghét khói súng, tôi uống sau cùng lạo xạo đất cát do đạn nổ văng
lên, vì tối thui có thấy gì đâu, mà sao ngon thế ! Tuấn "mực" TS pháo
bị thương nhẹ ở tay do miểng B trong trận này... bây giờ đang ở Đức, không biết
có đọc QSVN hay không ?
Sau khi nhấp được miếng nước cùng AE cối, tôi
được gọi lên cùng chú 3 Hòa chủ nhiệm pháo binh và chú 3 Thắng TMT kiêm chính
ủy xác định tọa độ báo về pháo 105 của Sư, pháo 105 đã bắn 1 trái pháo sáng nổ
trên trời tuốt sau lưng đội hình, báo chỉnh đạn về Sư, bắn thêm trái nữa cũng
vậy, do E747 đã đụng địch ngoài tầm pháo 105 chi viện vì hết tầm. Đêm đó E 747
có lẽ không nằm chịu trận bên bờ suối đó, nếu có pháo 105 chi viện và D6 không
đi lạc (không hiểu sao D6 của E747 hay đi lạc thế).
Thịt con ngựa của thằng CH Pốt lúc chia cho AE,
mỗi người được vài miếng để ăn, sao nó ngon thế, nước thịt nấu với muối không
mà cũng ngọt ngay. Tôi chưa được ăn lại miếng thịt ngựa nào ngon bằng miếng
thịt con ngựa đó. Mấy trái H12 tịch thu, trước khi rút E cho đóng chạc, dùng
pin PRC25 chích, phóng theo hướng Pốt chạy.....
Ang KO krao nhắc mình mới nhớ. Chính đêm trước
trận 26/5, tức là ngày 25/5 khí D4 hành quân đêm băng rừng về hợp quân với E ở
bàu nước cạn. để lấy nước nấu cơm, đến tờ mờ sáng mình mới nhận thấy điều hết
sức kỳ diệu là trong đội hình hành quân có 6, 7 nàng tiên. Sau đó tranh thủ nấu
cơm sáng, vắt cơm trưa rồi hành quân qua vùng gặp dấu chân voi. Sau đó D4
tách đội hình đi cắt rừng về phía suối và sau đó gặp địch. Rất nhiều kỹ niệm
đậm dấu ấn chiến trường nhưng mính cũng không nhớ hết. Nhưng mình sẽ cố gắng
quay phim lại còn đoạn nào hay đoạn đó. Có gì anh em giúp đở mình nhé. Còn anh
Ngô Minh Mẫn đệ tử của Ông Lan, tối ngày chỉ ở quanh quẩn chân ông Lan, ở Ban
CT E có chứng kiến được gì đâu mà nhớ.
Còn chuyện thịt ngựa thì Ăng KO KRAO có biết
không, mình ăn không nổi vì, lúc đó mình nhận cáng anh Thành (năm eo) gần hai
ngày hai đêm. Đến khi về đến phum thì anh em đến gần mình còn chịu không nổi vì
còn thấy nặng mùi tử sỹ, dù mình tắm giặt rất kỹ đến hai ba ngày sau vẫn còn,
thì mình làm sao ăn nổi thịt ngựa. Còn những bài học kinh nghiệm trong thưc tế
chiến trường, mình muốn viết lên nhưng đắn đo mãi, xem có nên hay không.
Mình muốn giữ những kinh nghiêm quí báu đó để dành riêng cho các anh em sỹ quan
trẻ sau nầy vì vậy mà mình không viết vì sợ lộ bí mật quân sự .
Trước khi hành quân chúng tôi được tin
đại đội trưởng C Trinh sát của E 747 bị hy sinh trên đường đi tiền trạm do địch
phục kích bắn vào xe đang lúc hành quân ngay gần ngã ba vào khum KAVA. Vì
vậy C9 được lệnh chốt ngay cánh rừng đó ba ngày để cho E hành quân. Đang
mùa mưa lớn cánh rừng ngập nước ngang mắt cá chân. Con đường lầy lội sình bùn.
Xong nhiệm vụ C9 lại về với D4, sau đó hành quân về phía đông, đi ngang
hồ nước lớn, rồi băng qua con suối nứớc ngập ngang rốn, đi về phum Tà Pu,
còn C10 thì về phum Liu, phía bắc cách phum Tà Pu 3km, còn C11 nằm ở phum
phía nam phum Tà Pu cách phum tà Pu cũng khỏang 1 hoặc 2 km (mình không còn nhớ
tên phum). C12 hỏa lực ở lại với D bộ. Hành quân đến địa bàn khỏang
10 giờ sáng, các C bố trí đội hình, đào công sự đất ở đây chỉ cần đào sâu hai
ba len là có nước, vì vậy công sự ngập nước, chỉ có công sự cối 61 ly là không
ngập nước.
Địch ở đây là Sư 517, chúng không thiện chiến
bằng sư 515, nhưng nghe nói chúng đã đánh cho một đơn vị tỉnh đội nào đó phải
bể chiến đấu bỏ về nước chịu kỹ luật (tin nầy các bạn kiễm tra lại). Cách đánh
của chúng là bao vây phum từ xa bắn nhữ vào, quân ta sợ, bắn đại ra, thế
là lộ điểm, sau đó chúng câu hỏa lực vào, vì vậy mà bộ đội địa phương không
chịu nổi.
Đêm đầu tiên chúng tôi chưa kịp hành quân nắm
địa hình, cũng thủ đọan như nêu ở trên, chúng tập kích hai lần, lần đầu
chúng tôi ra công sự, chờ chúng bò lên cách 1 mét hoặc 2mét mới thịt (đây là
lối đánh của E747 được truyền lại qua các đ/c từ thời đánh Mỹ). Chúng tôi nằm
yên không bắn phát nào vì vậy không lộ công sự. Không làm ăn được chúng im, nữa
giờ sau chúng tôi thay quần áo đi ngủ, vì công sự ngập nước. Khỏang hai giờ
sáng chúng làm thêm một trận nữa cũng bỗn củ sọan lại. kỳ nầy cối 61 chúng tôi
đã canh kỹ, hầm cối lại đào sâu, khuất trong lùm, chúng tôi cối cho ba trái,
thế là chúng câm luôn, bị ta nện cối mà lại không phát hiện được mục tiêu của
ta. Đêm đó chúng tôi cũng khỏi ngủ. Đêm sau cũng bổn củ sọan lại, nhưng kỳ nấy
chúng ở xa hơn không dám đến gần như hôm trước và chỉ bắn được vài lọat,
chúng tôi cũng không thèm ra công sự. Lúc nầy chúng tôi chưa đi đánh chúng là
vì đang học chính trị, ba C cùng học tai phum Tà PU vì ở đây có trường
học (phổ biến dự thảo luật do quốc hội sấp ban hành , thời gian học hơn một
tuần). Đêm nay chúng tôi sách trái ra gài, sau khi ban ngày phát hiện dấu chân
của chúng để lại. Tối trái của C tôi và C11 đều nổ, C tôi không thấy gì
nhưng C11 (C trưởng là anh Đấu) thì địch để lại nhiều dấu máu. Đêm sau chúng
cho công binh của chúng đến gở trái, sáng ra anh Năm (dân Bà Điểm) Btrưởng B3
ra gở trái, thì địch đã gở sẳn, chúng để trái giửa đường, dây gài thì hắn quấn
lại bỏ trên trái, còn viết chữ ngoằn nghòeo, để cảnh cáo ta.
Học chính trị xong chúng tôi bắt đầu đi trinh
sát. Anh em Btrinh sát lại rất khóai Hai Ruộng, cứ đi trinh sát là đề nghị với
D cho Hai Ruộng đi cùng, xin chuyển mình qua Trinh Sát luôn thì C lại không cho
chuyển, vì vậy mà mình cứ chạy qua chạy lại, mình biết nhiều chuyện cũng nhờ
đó. Đợt nầy đi một Tiểu đội với Hai R, một y tá hai thông tin. Vừa Ra
khỏi nơi đóng quân khỏang 2km là chúng tôi đã phát hiện địch, chúng tôi vừa len
lỏi không cho chúng nhìn thấy cho đến trưa, chẳng may ta vướng phải trái
của chúng, bị thương hai chiến sỹ, may là vướng trái lựu đạn chài TQ (lọai ném
cá, cá không chết), nên chỉ bị thương nhẹ (anh đi trước bị vào mông,
anh đi sau bị vào má) bị lộ nên rút về. Cách hai ba ngày lại mò vô tiếp, lượt
nầy chúng đã cảnh giác, chúng đi tuần liên tục. Sau khi vượt được vùng nguy
hiểm (tuyến canh gác kỹ của chúng). Vì quá mệt cho nên khi qua tuyến cảnh giới
của địch chúng tôi lười xóa dấu (lọai cỏ giống như cây trúc cao ngang bụng, mọc
xen kẻ trong rừng dầu nên khó xóa dấu), thế là chúng đi săn vô tình phát hiện
dấu chân, chúng bám theo. Đợi anh em chuẩn bị qua trảng cỏ
chúng tấn công, từ sau tới. Trên đồi bên hông trảng cỏ, chúng đánh xuống,
anh em chúng tôi nhanh chân, luồn qua trảng cỏ vòng lại phía sau lưng
chúng bình tỉnh rút về. Chú tư Đáp phê bình chúng tôi chưa hòan thành nhiệm vụ,
nhưng chú không la mắng gì bảo thôi không đi nữa vì bị lộ rồi chúng đã
cảnh giác. Sau đó ra lệnh cho cã E bỏ cứ rút về phía lộ số 7 sáng
hôm sau. Khi D4 rút về đến gần lộ số 7 cho dừng quân nấu sẵn cơm vắt. Nữa
đêm lại hành quân đi ngược trở vô, kỳ nầy đi cắt rừng luôn không đi theo phum
nữa vừa đi vừa bám địch, gặp tổ chức đánh luôn như trận ngày 26/5.
Như vậy bất ngờ chúng tôi vào thẳng vùng địch đóng quân, nhưng vì rừng quá rộng
chúng tôi chia nhiều cánh, cứ ba anh trinh sát dẫn một đại đội, C cối đi cùng D
bộ, nhưng chỉ chạm địch lẻ tẻ. Đặc biệt bọn nầy ít đóng quân tập trung, mà chúng
xé lẽ ra . Chúng tôi đi chổ nào cũng gặp rẩy bắp, rẩy lúa của chúng, cứ của
chúng rải rác khắp nơi. Vì vậy khi ta tập trung quân cũng không đánh được chỉ
chạm súng lẻ tẻ mà thôi, hiệu quả không cao. Vùng nầy đất đỏ quạch cây
cối tươi tốt, chỗ nào cũng có mướp, có chuối, có mía, rừng chuối xiêm
rộng mênh mông Trung đòan thả vào quần cã tháng không thấm vào đâu, cây
chuối xanh tốt đến nổi anh em chúng tôi mắc vỏng ngủ không gảy.
Vùng nầy thật lý tưởng cho việc lâp cứ, vừa tự túc được lương thực, vừa đảm
bảo được bí mật. khi ta hết gạo thì chúng phục đánh đường tiếp tế của ta.
Vì vậy E ra lệnh rút quân về nơi đóng quân lúc trước, chúng tôi lại về phum Tà
Pu cũng cố lại. Riêng C9 anh Mơ được điều về giử chức D phó. Anh Nguyễn Viết
Xuân về C9 thay anh Mơ. Bố Sườn Về nước tập huấn. Đ/ C Thành lên thay.
Đơn vị chuẩn bị mở chiến dịch đợt hai. Ngày mai tiếp nha các bạn.
Ta và địch cứ quần nhau suốt , khi đánh khi rút
thắm thóat mùa mưa đã qua, mùa khô lại đến (mùa chiến dịch bắt đầu). Đợt nầy
E747 tổ chức đánh qui mô cho tòan E có huy động du kích bạn và huy động dân
công bạn tải đạn tải lương thực, tải thương. Riêng D4 thì bố Sườn và anh Mơ đều
về nước chưa qua, cuộc hành quân do Thủ trưởng Thành chỉ Huy. Theo đánh
giá chung của anh em thì ông nầy chỉ huy yếu, quá sợ chết, tánh
tình thì nghĩ đến mình nhiều hơn. vì vậy mà anh em lính lác không có cảm tình
lắm. Nhắc lại hồi còn hành quân ở dọc sông Sain (Sung Túc), anh em biết
tánh ông nầy, có gì thì hay dấu anh em, còn anh em có gì thì ổng hay xin (chỉa)
, cho nên lúc đang tạm dừng quân để ăn cơm vắt với muối, anh Dũng Ytá (sáu Quăn
hay là Dũng Tà Nong) mới đầu têu, anh Dũng khều anh em, bây giờ tụi mình
giả bộ hô lên đang ăn cơm với thịt gà, để dụ ổng qua đây chơi. Thế là, anh Dũng
lấy lá chuối gói cơm lên ôm khư khư làm như gói thịt gà, mấy anh em xúm
lại, a! thằng nầy có thịt gà, cho tao một miếng, bốn năm đứa nhau nhau lên
làm như tranh nhau thịt gà, thế là bố cũng chạy qua, cho tao miếng với, mở
ra cục muối anh em xúm nhau cuời ồ. (Vụ nầy chỉ có lính lác ở chiến
trường thôi mới dám trác CTV phó của D như vậy phải không các bạn, lính ở quân
trường đố dám). Còn lúc Sếp chỉ huy đánh nhau thì nhiều chuyện buồn cười sảy
ra.
D4 bắt đầu hành quân theo kế họach phân công
của E, điểm đến là phum KAKI THUM. Cũng trinh sát đi đầu, rồi đến 3c bộ
binh, đến Dbộ sau cùng là C -hỏa lực. Bọn 517 nầy nó rất khôn, khi ta vào thì
nó không đánh, chủ yếu là nó né. khi quân ta rút ra thì chúng mới đánh. Khi
hành quân dưới sự chỉ huy của bố Sườn nếu trinh sát dẩn đội hình băng qua
trảng trống thì phải báo, bằng cách truyền lệnh lại cho bố, bố đi lên phía
trước xem xét, nếu cần thiết bố Sườn ra lệnh cảnh giác trước sau, sau đó
cho trinh sát bọc vòng hai bên trảng quan sát xem có địch phục kích hay không.
khi đi tới đầu trảng bên kia thì chốt lại và ra hiệu cho D hành quân qua trảng.
Còn Sếp nầy khi trinh sát báo, Sếp ra lệnh cứ đi luôn vì Sếp không dám ra
phía trước. Đi một ngày đến rừng chuối nơi ngã ba đường rẻ vào phum TU BI
thì dừng lại ngủ đêm tại rừng chuối. Sáng hôm sau tiếp tục khi hành
quân qua khỏi phum ĂNG TE một đọan gặp dấu mòn của địch còn rất mới
địch thường xuyên qua lại trên con đường nầy. Nếu gặp bố SƯỜN thì chắc chắn bố
sẽ xin lệnh E cho D4 bám tiếp theo dấu chân của địch, Đằng nầy Sếp ra lệnh bỏ
qua đi thẳng luôn chủ yếu là đi cho đến phum KAKI THUM (điểm đến của E giao
cho), cũng không cho cử hai tổ cảnh giác hai bên đường mòn để cho đội hình ta
đi qua (anh em thấy càng không tin tưởng vào tài chỉ huy của ổng nhưng
không nói ra, cũng may là không có địch lúc đó). Khi đến phum KAKI THUM, điện
báo cáo lên E là không có địch, rồi nhanh chóng, xin lệnh hành quân về
(Sau nầy khi bố Sườn về đơn vị rồi D4 đánh không biết bao nhiêu là căn cứ địch
ở xung quanh các phum TU BI, ĂNG TE, KAKI THOM, SVAI CHÊK đánh đến nổi
anh em chúng tôi đặt lại tên các phum nầy cho ấn tượng là : << Tắp
Bi , Anh Tè , Xa Muốn Chết>>). Khi về chúng tôi linh cảm là
thế nào cũng bị địch đánh.
Khi về đến ngang phum Ăng Te, tự nhiên du kích
tróc một trái M79 vào phum. (Chúng tôi không vừa ý cho việc bắn trái đạn nầy vì
bắn tùy tiện như vậy vô tình báo động cho địch biết, nhưng vì là du kích bạn
nên họ không có kỹ luật nghiêm như quân ta). D vẫn tiếp tục hành quân
về đến ngã rẻ vào phum TU BI nơi có một cây to cao thẳng đứng, thì có lệnh
dừng quân giải lao, một số anh em vào dưới cây to trú nắng, thấy D bộ
dừng quân nơi không có bóng cây, Sếp ra lệnh đội hình nhích lên thêm chút nữa,
sau đó Sếp cùng liên lạc vào trú nắng ở dưới bóng cây, lúc nầy địch bắn
cho một quả B41 trúng ngay cành cây, thế là Sếp bò càng, lính lác ôm bụng
cười, sau đó ra lệnh cho D hành quân đi về theo con đường củ lúc hành
quân đi vào, đi hơn 100mét bị địch chặng đầu đánh, trinh sát dạt hai
bên không ai bị thương, còn lại B bộ binh đi đầu, sẳn cây M60, anh Thương
C10 làm tới tắp một dây, thêm cối ta phản ứng cũng nhanh nên chúng bỏ
chạy. Sau đó Sếp điều quân lung tung hết, chúng tôi chấp hành lệnh
mà đi, trinh sát chia ra dẫn 3C bộ binh C thì đánh thẳng, C thì Bên
trái C thì bên phải. Chẳng biết đánh vào đâu, nên các C khi đi một đọan
bèn hè nhau tắt máy ngồi im luôn trong rừng chuối. Sau khi điều quân đi
hết, sếp mới giật mình vì không còn ai bảo vệ D bộ ngòai vài ba anh liên
lạc và mấy anh thông tin vận động. Cuối cùng sếp phải lệnh cho thông tin vận động
bám theo dấu chân tìm các C năn nỉ các Cvề. Sếp không dám đi về
phía đó nữa, bèn ra lệnh cho quay ngược đầu đội hình lại lại rút về theo ngã
phum TU BI, khi vừa đến đầu phum Tu BI thì bị phục tiếp, trinh sát nhanh
chân dạt vào nên không ai bị thương, cối ta bắn ứng dụng tức thời ngay đội hình
phục kích của địch, chúng lại bỏ chạy. Không còn đường nào nữa chúng tôi hành
quân đánh trực diện qua nơi địch phục kích để đi về cứ . (có
lẽ chúng tôi đi đường nầy hơi bất ngờ nên không có mìn) .
Sau nầy cấp trên điều Sếp đi đâu chúng tôi cũng
không biết. Sau nầy khi học lớp hạ sỹ quan, chú tư Đáp nhắc nhở: làm cán
bộ không được quên ba nhiệm vụ quan trọng của mình. Đó là nuôi quân – dạy quân
– rồi mới sử dụng quân. Nuôi quân không chỉ có cho quân ăn no không, mà
phải nuôi tinh thần của anh em, làm sao cho anh em tin tưởng vào cấp chỉ
huy, nuôi tình cảm gắn bó của anh em, không phải chỉ xây dựng mối quan hệ
giữa chỉ huy và binh lính chỉ là mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới mà phải
xây dựng tình cảm trên dưới thân mật như là cha, con, anh, em một
lòng đánh giặc. Còn dạy quân thì phải rèn quân, đơn vị nào mà kỹ luật không
nghiêm thì đơn vị đó không thể nào đánh thắng. Qủa đúng như vậy thật. Cũng là
D4 nhưng khi Bố Sừơn Chỉ huy thì khác. Còn người khác chỉ huy thì lại khác. Đây
cũng là một trong những kinh nghiệm quý báu mong các anh em sỹ quan trẻ
tiếp thu để ra sức rèn luyện bản thân xây dựng đơn vị của mình ngày càng
vững mạnh thực sự. Xây dựng như thế nào để mối quan hệ anh em trong đơn
vị như bài hát << năm anh em trên một chiếc xe tăng >> . có
như vậy thì đơn vị mới vững mạnh được. Đừng để xảy ra cảnh, khi rời quân ngủ
rồi, lính gặp Sếp không thèm chào, còn Sếp gặp lính không dám ngó.
Cách bắn nầy của khẩu đội trưởng Trần Hoàng
Nam, hiện nay đang ở Trần Quang Diệu Quận 3. (yêu cầu phải có kinh nghiệm mới
bắn được). Khi hành quân anh Nam chỉ vác theo có nòng cối, còn bàn đế, chân,
máy ngắm đều bỏ lại cứ, bao xe đạn ak mang trức ngực, rọc bỏ đường chỉ may thì
sẽ bỏ được ba trái cối đã lắp sẳn liều chính, lắp sẳn đầu ngòi nổ. Còn nòng cối
thì lấy bao quân dụng bỏ nòng cối vào, có thể bỏ luôn cả nồi nấu cơm vào đó
(vừa mang súng cối vừa mang nồi nấu cơm. Nhờ vậy mà khi hành quân dân chúng chỉ
nhìn thấy anh em gánh đạn cối mà không thấy súng để ở đâu. Khi chạm địch
nổ súng, anh Nam ngồi bẹp xuống đất, gót chân phải chịu vào cùi súng cối. Chân
trái đầu gối co lên góc 90 độ (khi co như vậy thì mặt phẳng được tạo bởi ba
điểm: đầu gối, bàn chân và khớp đùi trái tạo thành mặt phẳng thẳng về hướng mục
tiêu để làm chuẩn cho hướng bắn, còn tầm bắn thì canh theo đùi trái, góc tạo
bởi khớp đùi trái và đầu gối sẽ tạo thành góc 45 độ so với mặt phẳng nằm ngang
(mặt đất), dựa vào góc nầy mà canh góc bắn của súng (canh tầm). Còn tay trái
thì cầm chặt nòng cối, nhờ bao quân dụng bọc bên ngoài nòng súng mà khi bắn
không bị nóng tay. còn tay phải vạch miệng bao quân dụng ra để nòng cối ló ra
ngoài. có sẳn ba trái trong bao xe trước ngực đã lắp sẳn liều, ngòi chỉ cần
dùng miệng cắn giữ chốt an toàn tay phải giật quả đạn ra thế là nắp an toàn rơi
xuống, ba quả đạn tha hồ mà bắn, nhanh như chớp, bắn vừa hết ba quả đạn thì anh
em gánh đạn đã đủ thời giờ chuyển đạn lên cho bắn tiếp. Với cách bắn như vậy
cho nên khi vừa nổ súng là nghe tiếng cối đề ba liền. Anh Nam đã từng bắn trúng
tên địch đang chạy với cách bắn như vậy tai phum TUBI. ĂNG KO KRAO cũng là dân
bắn cối nghiên cứu xem có đúng không ? Muốn bắn được chính xác như vậy thì anh
Nam phải tập luyện thuần thục, cứ ngồi bẹp xuống là góc chân trái phải tạo góc
90 độ so với mặt đất .
Hai Ruộng xin chào Rồng Xanh. Cảm ơn RX gữi bản
đồ qua nhìn sướng thật. Tuy bản đồ hơi củ, nhưng vết tích vẫn còn đó mình sẽ
lần lần tìm lại. Hồi lúc đánh nhau cũng vậy, bản đồ cũng không đúng với thực
địa lắm đâu, anhem mình đi trinh sát phải mò mẫm giữ lắm. Một số con đường mòn
trong rừng có trong bản đồ, trên thực địa lại không còn chỉ còn lại dấu mòn
trên rừng, cây cối đã mọc trên lối đi. Có những con đường mới có trên thực địa
nhưng trên bản đồ không có. Bây giờ anh em mình đi tìm lại dấu vết trên bản đồ
nhé !
Ta lấy phum KRAVA , nơi đóng quân của D4 làm
chuẩn. Ta tìm 03 phum mà C9, C10, C11 của D4 đóng và tất cã các phum nầy đều
nằm trong tầm cối 82 chi viện của D (đối với bản đồ 1/250.000, thì khoảng cách
01 ô trên bản đồ là 12,5km). Như vậy ta đã xác định được các phum nằm trong tầm
cối rồi đúng chưa. Bây giờ ta nhìn từ KRAVA về phía đông nam, ta gặp một cụm có
04 phum trên bản đồ ghi chung là Rôbaeuk, như vậy trong cũm bốn phum nầy, phum
hướng đông gần nhánh suối là phum Tà pu, nơi C9 tụi mình đóng quân, phum
rôbaeuk chính là phum phía tây sát với phum Tà pu, phía bắc của phum Tà pu là
phum LIÊU (C11 đóng quân, sau nầy C9 cũng về đây đóng và có đánh nhau một trận
tại đây), phía nam của phum Tàpu qua con suối chính là phum của C10 đóng , mình
quên mất tên phum . Còn E thì đóng gần phum Punnareay.
Phía địch (chúng không đóng trong phum sau nầy
dần dần ta mới mò ra các nơi đóng quân của chúng và tổ chức đánh, thường chúng
đóng cách phum 500 mét cho đến 1km, Trong vùng chúng đóng hoàn toàn là phum hoang
không có dân chúng ở).
Các bạn đã xác định được phum Tà pu chưa. Ta
lại lấy phum Tà pu làm chuẩn, đi về phía đông, nhìn thấy cao điểm 318, bên cạnh
có hồ nước can, lấy cao điểm 318 làm tâm, các bạn có nhìn thấy đường nét thể
hiện cao độ bao quanh một vùng rộng lớn mà tâm là cao điểm 318 chưa, hầu hết
các cứ địch đều đóng trên vùng đất cao nầy.
Vùng đất cao nầy còn nhiều cao điểm khác , nữa
mà bản đồ nầy chưa thể hiện hết, trong đó cao điểm 318 là một cao điểm cao
nhất.
Gần với cao điểm 318 có hồ nước cạn, đối diện
với hồ nầy qua đường mòn trên bản đồ có thể hiện dấu tròn, đó chính là phum TU
BI (lính D4 đặt tên là Tắp Bi, có nghĩa là vào đến đây là có đánh nhau). Từ
phum TuBi theo đường mòn đi về phía đông hơn 1km là phum ÂN TÊ (anh em gọi là
phum Ăng Te, sau nầy nơi đây, mìn chúng gài lởm ngỡm nên lính ta gọi là phum
Anh tè. Từ phum ÂN TÊ (Ăng te) đi theo đường mòn về phía đông đến gần con suối
có phum đó chính là phum KOKI THOM (Kakithum).
Từ phum KOKITHOM theo đường mòn đi về phía bắc
có 02 phum hoang, một trong hai phum đó có một phum là Capong krà bây. Bây giờ
từ phum TAPU nhìn về phía nam, gần cao điêm 312 (ở phía tây cao điểm 312, có
cái phum chính là phum SAVAI CHÊK (D4 gọi là xa muốn chết). Các phum nầy lúc đó
hoàn toàn là phum hoang, trong phum chỉ còn lại bốn năm cái nhà thôi, chỉ
có phum Ân tê, Tu Bi, savai chêk là tương đối còn gần 10 cái nhà, có cây dừa
cây chuối, cây thốt nốt, giếng nước uống được vì địch chừa lại để chúng lấy
nước. Còn đường đi thì chỉ có trong phum là còn đường đi tương đối rộng (chứng
tỏ địch rất thường xuyên lui tới), còn hấu hết các con đường trên bản đồ thì cỏ
mọc cao quá đầu người um tùm chỉ còn lối vừa một người đi bộ , nhiều lần trinh
sát ta và địch khi chạm nhau chỉ cách nhau có vài mét.
Về đường mòn. Có nhiều thay đổi nhiều so với
bản đồ, ngay từ lúc đó khi đi trinh sát mình đã gặp nhiều bở ngở. Đặc biệt rừng
vùng nầy trên bản đồ thể hiện trảng trống màu xanh nhạt, nhưng trên thực địa
hầu hết là gai mắc cở tây, cao khỏi đầu, chui cũng không được, mà càng lên cũng
không được, anh em cắt rừng rất khổ sở. Sau nầy lợi dụng mùa khô chúng
tôi đốt cháy, bị nóng mìn nó nổ lốp đốp. Còn đường đi Hai Ruộng chỉ còn nhớ
những con đường ghi nhiều kỹ niệm mà thôi. Bây giờ cũng từ phum TÀ pu, có con
đường mòn về phía đông sau khi đi cặp theo trảng cây mắc cở, vượt nhánh suối
cạn (nhánh suối dọc theo con đường khi gần lên vùng đất cao con suối lại quẹo
lên phía bắc cắt ngang đường mòn), tiếp tục đi lên đến ngã ba. (Ngã ba nầy dân
K gọi là Đôn bây, có nghĩa là giếng nước số 3, có lẽ Ăng te có một giếng, TuBi
có một giếng, còn nơi đây có một giếng, giếng nước sâu có cây gổ to đóng lại
làm thành giếng cao gần một mét, phía đông giếng nước là một rẩy mía do địch
trồng, một rẩy mướp. Nơi đây Nguyễn Xuân Hậu C9, quê Mõ Cày Bến Tre trong lúc ngồi
gác phát hiện một tốp địch khoảng 7 tên lần mò theo đường mòn từ hướng bắc
xuống, có hai tên đi đầu cách đội hình khoảng 10 mét, lợi dụng chổ gác kính
đáo, anh hậu bình tỉnh đợi đến khi tên tên đi đầu vừa qua khỏi nơi mình ngồi
gác, tên thứ hai vừa tới sát, anh Hậu mới nổ súng vào tên thứ hai, tên nầy chết
gục xuống, sau đó anh quay lại bắn tên đi trước còn đang ngơ ngác. cã hai tên
đổ gục cách anh hậu chưa đầy hai mét, dù súng của chúng đã mở khóa an toàn sẳn,
nhưng chúng không bắn kịp phát nào, mấy tên đi sau tróc đại một trái M79 rồi
chạy mất dạng. Nơi đây cũng là nơi đ/c PHẠM AN LONG Thiếu Úy CTV C9 hy sinh (sẽ
nói rỏ hơn ở phần sau). Bây giờ ta trở lại địa hình. Con đường mòn trên bản đồ
đi về TUBI .....(mình phải đi nấu cơm cho vợ sẽ tiếp tục sau khi xong
nhiệm vụ). Chắc nhờ RX chỉ cho mình cách vẽ lên bản đồ thì tiện hơn.
Rồng Xanh ơi!! Hai Ruộng vẽ được rồi, mò ra
rồi. để mình gửi qua luôn. Những tên phum mình viết chữ màu đỏ. 3 con đường màu
đỏ là con đường mòn sau nầy. Dưới sự chỉ huy của Sếp Thành D4 hành quân từ TU
BI, đến ĐÔN BÂY sau đó đi theo con đường màu đỏ số 1. Đến ngả ba đường số 1 và
đường số 2 thì nghỉ đêm tại đó, sáng hôm sau hành quân theo đường số 2 tới ngả
ba vào (TUBI ) thì quẹo trái lên ÂN TÊ (Ăng te), không vào phum Ăng te, cũng
như Tubi, mà đi thẳng lên KOkithom. sau đó vòng về theo đường củ, về tới ngang
Ăng te thì du kích tróc vào phum 1 trái m79. D4 đi thẳng đến ngả 3 vào TUBI nơi
có cây cổ thụ to, thì bị địch bắn B41 vào cành cây, D4, tới gần ngã ba đường số
1 thì bị chặn đánh, sau đó thì lệnh quay về đường số 2. Khi đến đầu phum TUBI
thì bị chặn đánh tiếp (chỗ ngã tư TU BI mà mình gọi là ngã ba vì đoạn đường có
nét vẽ màu đen đã bị địch làm cho mất dấu hai đầu đoạn đường, một đầu ở TUBI
một đầu ở Đôn Bây. Sau nầy HR mới tìm ra con đường đó.

Bản đồ tỷ lệ 1:50.000 khu bác Hai Ruộng đóng
quân. Bác nhớ tên phum đúng đấy

. Phum Liu thực tế tên là Leav (Phiên âm
tiếng Anh)
Sau hai trận thăm dò. D4 cũng chưa đánh được
địch. Sự hiễu biết địch còn quá ít. Trinh sát D lại tiếp tục đi bám địch. tôi
cũng được bổ xung đi cùng anh em trinh sát. Đi theo ngỏ phum Tàpu,
khi qua khỏi trảng cây mắc cở chúng tôi cắt rừng đi về phía phum TuBi, đi theo
kiểu sâu đo. Khoảng một giờ trưa thì đến gần phum TuBi gần hồ nước khô cạn ở phía Bắc, từ trong đám
sậy cao khỏi đầu chúng tôi vượt đường mòn, anh đi đầu vừa bước lên đường
mòn thì gặp phải một tên địch từ hướng phum Tu Bi ra, chỉ còn cách ta có vài ba
thước, tên địch cũng nhìn thấy ta, nó quay đầu bỏ chạy, anh đi đầu tróc cho một
trái M79 đạn chài vào lưng, nhưng tên nầy vẫn còn chạy, bị thương nó vừa chạy
vừa la hét om xòm. Sau đó chúng tôi bám sát vào bìa phum, phát hiện trong phum
có địch chúng tôi cắt rừng theo hướng khác để tiếp tục đến
phum Ăng Te, Phát hiện Phum Ăng te cũng có địch, sau đó chúng tôi cắt
rừng về. Sau đó D4 tổ chức đánh địch ở phum TUBI và ĂNG TE, kỳ nầy hình như do
anh Mơ chỉ huy (không biết có đúng không). D4 bí mật hành quân cắt rừng đến
điểm tập kết. C9 đánh vào phum Tu Bi, khi vào không đụng địch, sau đó rút ra
rìa phum đóng quân, còn C 10, C11 đánh vào phum Ăng Te cũng không đụng địch,
chuẩn bị rút ra rừng bìa phum đề đóng quân thì bị chúng tập kích bằng mấy trái
B40, không ai thương vong. Sáng hôm sau lại tiếp tục truy lùng địch cũng
không phát hiện căn cứ của chúng ở nơi nào, sau đó có một số anh em
bị đạp mìn và đạp chông của địch. D4 lại rút về.
Nghỉ mệt vài hôm trinh sát lại đi bám tiếp, kỳ
nầy lên tận phum Kô Ki Thom. Tiểu Đòan lại tổ chức hành quân đi đánh địch (kỳ
nầy có bố Sườn), cũng hành quân bí mật cắt rừng hòan tòan không ra đường
mòn, khi khỏi Ăng Te thì phát hiện địch, tốp nhỏ vài ba tên cũng đang cắt rừng,
trinh sát ta phát hiện trước ta bắn một trái B40 chúng bị thương, để lại vết
máu, nhưng chạy mất, ta theo vết máu được một đọan mất dấu. Đến KOKI
THOM, cũng không phát hiện địch trong phum. D4 tổ chức truy lùng xung
quanh phum cũng không phát hiện dấu tích gì, chỉ có dấu chân lẻ tẻ. Sau đó rút
quân về, kỳ nầy khi D4 về đến khỏi phum TUBI thì bố Sườn cho C11 cài lại
bí mật đóng quân tại ngã ba đường tắt về Đôn Bây (trong rừng chuối, cách Tubi
chưa đầy 1km, nơi trước kia khi hành quân cùng Sếp Thành về đến đó D4 bị phục
kích. Còn C9 thì về đến Đôn Bây bố Sường cũng cắm cho C9 chốt lại đó luôn,
C10 về phum TaPu, D bộ C12 về Krava. Chúng tôi đào công sự cá nhân, làm
đường chuột chạy quanh vị trí đóng quân. Chúng tôi nằm im nghe
tiếng súng địch đi săn bắn khắp rừng, chúng tôi chờ chúng đến nạp mạng. Anh Mơ
ở lại với C9.
Khoảng một tuần sau, E giao cho D4 một tù
binh để D4 khai thác, anh Mơ giao cho Hai Ruộng quản lý, chúng tôi
đối xử tốt với tù binh, không trói và thuyết phục hắn đồng ý chỉ đường
cho ta vào cứ của chúng. Tôi cho hắn mượn tấm ny long che mưa để lót chổ ngủ
gần vỏng của tôi, giả vờ không cảnh giác, đợi hắn ngủ, tôi mới nhè nhẹ rút từ
từ viên đạn trong nòng súng của tôi ra, trước khi tôi ngủ và khẩu súng luôn đặt
trên bụng của tôi, sau khi thử thách một tuần thì thấy tin tưởng được, sau đó
báo cáo anh Mơ cho phép đưa ta đi đến cứ của chúng. Bốn giờ sáng chúng
tôi lên đường, gồm Atrinh sát D, tù binh và tôi. Đi đến chổ C11 đóng quân, rẻ
về hướng Bắc, qua rẩy bắp, nhờ tù binh mà chúng tôi không lọt hầm chông, qua
khỏi khu vực hầm chông, ở rẩy bắp, phía ngọn con suối bên kia đồi là cứ của
chúng. Tới đây trời đã tờ mờ sáng, lợi dụng địa hình, chúng tôi bí mật bò
vào. Khi đến bờ trảng cỏ rộng chừng trăm thước, chúng tôi bố trí một khẩu RPD
và một khẩu B40 chốt lại cảnh giới để hai trinh sát trường qua trảng cỏ ngang
đầu gối (anh Ngọc đen và một anh nữa tôi quên tên). Nhìn kỹ lại trảng cỏ
đầy chông, anh em vừa nhổ chông vừa trườn vào, đến được giáp rừng chồi
thì đã gần trưa. Sau đó gở mìn bò vào cho đến khi thấy chúng đang nằm trên
võng thì mới trở ra. Khi trườn ra đến chổ chúng tôi thì đã 05 giờ chiều.
Sau đó chúng tôi khai thác tù binh tại chổ để tìm xem vật chuẩn chúng đóng quân
từ đâu đến đâu xong thì trời đã tối, không kịp xóa dấu. Chúng tôi hành
quân về gặp anh Mơ cùng với BCH C9, anh Đức B trưởng TS và Hai
Ruộng cùng lên kế họach tấn công. Chúng tôi đề nghị lên kế họach tấn công vào 5
giờ sáng hôm sau, vì nếu để qua ngày chúng sẽ kiểm tra và phát hiện dấu do
chúng tôi không kịp xóa dấu. Một là chúng sẽ chạy, hai là chúng sẽ tăng cường
cảnh giác, hoặc gài mìn. Vì vậy anh Mơ đồng ý và báo về trên. Hai giờ sáng
chúng tôi hành quân, kế họach đến C11 điều luôn C11 tham gia đánh luôn. Kế
họach bàn xong chúng tôi chưa kiệp ăn uống gì thì C11 bị chúng cối hơn 10 trái
vào đội hình, nhưng không có ai bị thương vong, tất cả anh em C11
đã vào công sự (kiểu cối như vậy bố Sườn gọi là cò ỉa miệng ve). Đúng hai giờ
sáng chúng tôi hành quân, bàn giao vật chuẩn và ém quân xong thì đúng như
kế họach trời tờ mờ sáng, tiếng gà rừng vẫn gáy rộ, địch không hề hay biết. Sau
khi bàn giao trận địa chúng tôi được anh anh Mơ cho rút lên đồi ngồi nhìn anh
em đánh. Đúng 5giờ 30 sáng tiếng súng nổ giòn nơi cứ địch trên đồi cối chúng
tôi bắn qua. Anh em reo hò chiến thắng (lần đầu tiên D4 reo hò chiến
thắng tại khu vực nầy). Diệt tại chổ khỏang 7 tên địch (kết quả như vậy
là nhiều rồi, vì địa hình rất khó đánh, xung quanh chúng gài mìn, chông, cứ lại
rộng. Hai C, lúc nầy mỗi C còn chưa tới 30 quân, làm sao bao vây được,
chỉ đánh làm hai mũi hai bên bờ suối, luồn vào cứ địch mà đánh tiếp. Hơn
nữa bọn nầy hể bị đánh là chạy nhanh không dám chống cự. Trận đánh nầy cũng
chưa vừa lòng E lắm vì chưa diệt gọn địch. Anh tù binh được ta đưa về và làm
tốt chính sách địch vận. Đơn vị qua những trận đánh như vậy cũng thăm dò
biết được phần nào thói quen, mạnh yếu của địch.
Khác với bọn địch ở Sư 515, bọn nầy không thiện
chiến và cũng không có gan như bọn 515. Nhưng ngược lại bọn chúng khôn hơn. Căn
cứ của chúng đóng có sự chuẩn bị chu đáo hơn, có dự trữ lương thực, được che
dấu rất kỹ, chúng thường đốt trống xung quanh khu vực chúng đóng quân, để khi
quân ta tiếp cận thì chúng dễ phát hiện, còn chốt gác chúng ngụy trang rất
khéo, nhiều khi ta đứng sát bên còn chưa phát hiện được chốt gác. Chúng chia ra
từng đại đội, trung đội đóng rải rác khắp rừng. Chúng không đóng trong phum, dù
là phum hoang, chúng chỉ thường xuyên lui tới nơi đó để trồng và tiếp tế lương
thực. Cứ của chúng đóng cánh xa phum hoang khỏang 1km, nơi kín đáo hiểm trở.
Xung quanh chúng đào nhiều hố chông, gài mìn trái. Nếu ta không mở chiến dịch
thì chúng tăng gia sản xuất, trồng bắp, trồng lúa, trồng mướp, trồng mía,
thu họach chuối (nơi đây là vườn chuối xiêm bạt ngàn). Đồng thời chúng phục
kích quân ta nếu thấy có lợi cho chúng. Vì đội hình chúng xé lẻ nên chúng không
có trận phục kích, hay tập kích lớn vào ta. Chúng dùng tóan nhỏ tập kích ta dù
ta có đông hơn nhiều lần cũng không làm gì được chúng. Vì khi đội hình ta đang
hành quân bị tập kích bất ngờ, phản xạ tự nhiên là quân ta phải ngồi xuống
trước đã. Sau đó phải chờ cấp chỉ huy nhận định xem, địch đông hay ít, tập kích
hướng nào, rồi sau đó tùy theo tình hình mới triển khai bao nhiêu quân để
đánh trả. Cấp chỉ huy nào phản ứng nhanh lắm cũng phải bốn năm phút. Trong thời
gian đó chúng đã chạy xa hơn trăm mét, có xui lắm mới trúng vài trái cối mồ
côi. Lối đánh nầy sau khi đã thông thuộc địa hình chúng tôi được đ/c Tư Đáp phổ
biến cho quân ta áp dụng để đánh lại địch (gọi là đánh vuốt đít). Quân ta chia
ra nhiều nhóm nhỏ khỏang một tiểu đội, mang theo cơm vắt , gạo rang (khi đi vào
không nấu cơm nước gì cả, cơm vắt ăn khỏang ba, bốn ngày hết cơm vắt, phải ăn
gạo rang) , có thương vong phải tự giải quyết. Từng tóan nhỏ như vậy cắt rừng
đi sâu hai ba mươi cây số vào gần cứ địch, nằm phục kích theo đường mòn,
nếu gặp địch ít thì đánh luôn, nếu địch đông thì để cho chúng đi đến cuối đội
hình, ta nhảy ra đường bắn vuốt đít, sau đó nhanh chóng thu vũ khí
nếu được, xong rồi nhanh chóng rút chạy. Nhiều khi chúng không kịp bắn cối,
cùng lắm một vài trái B bắn hú họa là cùng. E747 áp dụng cách đánh nầy gần một
năm thì chúng không chịu nổi. Những tên sống sót còn lại phải bỏ cứ rút
khỏi địa bàn. Nhờ cách đánh du kích nầy mà trình độ đánh giặc của anh em được
nâng lên, bộ binh cũng cắt rừng không thua gì trinh sát. Vì phải tự đánh độc
lập cho nên bình tỉnh hơn, lanh lợi hơn. Tuy nhiên ta hao quân cũng nhiều do
đạp mìn, trái, do sốt rét rừng. Nhiều khi ta đi phục địch thì bị địch phục lại
ta. Có vườn mướp hai bên ta và địch cùng nhau ra hái, Cứ mỗi lần hái mướp ăn là
phải cử ba anh, hai anh cảnh giới ở ụ mối bìa rừng, súng mở sẳn an tòan,
còn một anh mang bao quân dụng bò lê ra hái mướp, có khi đang hái bị địch tập
kích chạy bỏ cã mướp. Có khi ra hái mướp gặp địch đang hái sẳn, ta tập kích
địch lại lấy mướp địch vừa hái mang về. Rẩy mướp nầy rộng khỏang trăm mét lại
nhiều gò mối, nên B40 bắn không ăn thua gì hết. B40 đạn bay rất chậm nhìn thấy
rỏ viên đạn nó bay, cho nên chừng 10 thước trở lại thì nó bắn ta chạy không
kịp, còn trăm thước nghe nó bắn ta nhìn thấy đạn bay từ từ dư sức để tìm chổ
nấp.
Đúng như Haanh nói đấy B40 bắn cách 100 mét
không ăn thua gì , nhưng B41 thì HR cũng thua luôn, nó nhanh lắm, xẹt một cái
là tới liền. Nó bay qua khỏi đầu nghe giống như DKZ 82. Còn cối 61 hay 82 gì
khi rớt gần đều nghe tiếng cánh đuôi cuốn gió nghe xè xè, lúc đó là phải nằm
xuống ngay. Còn lúc đánh nhau thì cặp mắt là quan trọng, đừng để địch phát hiện
ta trước. Khi bị địch đánh thì phải bình tỉnh. Nếu mới nghe B hoặc cối mà
nó vừa bắn mà mình rúc đầu vào công sự thì càng dễ chết. Nếu nó bắn ở cự ly xa
thì ngay người nào người đó nấp hoặc chạy ra chổ khác, còn người khác phải đánh
lại nó, nếu ta nấp hết còn ai đánh. Còn nếu địch bắn rất gần nghe (bùng bình)
thì khỏi nấp, ai có chúa cũng khỏi cầu chúa, đi đầu thai kiếp khác chắc ăn hơn.
Đánh nhau tụi nầy sợ nhất là M79 và AT Tăng (ANTI TANK) hai loại nầy khi nổ
không hề nghe tiếng gió hay tiếng xè gì cã, bay tới là làm cái rầm luôn. Vì vậy
lính cũ có kinh nghiệm đang đánh nhau mà nghe địch tróc 79 hay đề ba AT Tăng là
tự nhiên ai cũng lũi vào nấp hết, vì không biết nó bắn ai, nấp trước chắc ăn
(xin tỳ tạm nghỉ đánh), khi nào nghe cái oành rồi mới biết không phải nó bắn
mình và ngóc đầu lên đánh tiếp.
Còn mảnh đạn thì B40, B41 mãnh ít vì vỏ đạn
mỏng nên mảnh nhẹ bay không xa, có bị thương cũng xuyên không sâu, ít nhiểm
trùng như đạn cối. Đạn cối do vỏ dầy, khi nổ miểng nặng nên mang động
năng lớn, hơn nữa đạn cối của mình sét nghẹt do không có sơn, nên khi bị
thương do mảnh cối rất nguy hiểm, vừa xuyên thủng mạnh vừa tạo bệnh phong đòn
gánh.
Các bạn có phân biệt được ánh chớp nổ nào do
khi quả đạn được bắn đi, còn ánh chớp nào do quả đạn chạm nổ không. Còn khi xem
phim nhìn tia lửa chớp có phân biệt được, ánh chớp nào do đóng phim, ánh chớp
nào là đạn thật không ? Bửa nay bận đi họp về trể, ngày mai mình sẽ viết tiếp
(những ngày truy đuổi địch). Chào các bạn.
Sau trận đánh vào căn cứ do tù binh dẩn đường.
C11 rút về phum LIÊU, còn C9 vẫn nhận nhiệm vụ chốt tại ngã ba ĐÔN
BÂY. C9 lặng lẽ ở tại đây một tuần, vẫn chưa thấy địch mò tới, nhưng nghe tiếng
súng của bọn chúng đi săn, lẫn quẩn gần đây. Đợi mãi không thấy anh em có tư
tưởng chủ quan. Phía B1 bố trí hướng về phía đông, từ hướng TUBI ra. Bố trí
công sự gác không được kín đáo lắm, trong khi ngồi gác một chiến sỹ của ta
(mình đã quên mất tên), ngồi trên bờ công sự, súng mở khóa an tòan sẳn nhưng
lại, bỏ súng bờ. Địch đi vào rất êm, khi người gác phát hiện được, tay chưa sờ
tới súng thì đã bị chúng bắn bị thương vào vai phải thế là không nâng nổi khẩu
súng để bắn trả lại được phát nào. May nhờ anh em ở trong, nghe súng nổ
vận động ra kịp nên chúng bỏ chạy. (cũng giống như trinh sát mình, khi đi vào
vùng địch là súng lăm lăm trong tay, người đi đầu luôn mở khóa an tòan ngón tay
đã ở vòng cò, gặp địch chỉ cần nhít nòng súng ngay là bắn thôi, sấu số cho
những thằng địch nào mà gặp phải trinh sát. càng vào sâu địch càng chủ quan,
gặp trinh sát chúng càng dễ chết). Sau vụ nầy chúng tôi rút kinh nghiệm, các
chốt gác phải đào công sự giữa bụi cây rậm rạp cách đường mòn chừng một mét,
sau đó ngụy trang thật khéo, chúng tôi ở trong nhìn ra thì thấy, còn địch ở
ngòai nhìn vào không thấy chúng tôi được dù chúng đi sát công sự. Tuy
nhiên chúng cũng đã biết vị trí chúng tôi đóng quân. Ngày nào chúng cũng
đến thăm chúng tôi bằng một hai quả, có khi thì M79, có khi thì B 40, có khi
thì AT, có khi thì cối, Cbộ đóng dưới cụm ba cây sòai to, lại có cây ăng ten
của máy PRC 25, nên làm mục tiêu cho chúng gửi quà. Anh nuôi cũng phải đào công
sự và bếp Hòang Cầm, bụi chuối bốn năm cây chuối cạnh bếp bị một
trái cối 81 bay mất tiêu chỉ còn lại đất trống. Nơi đây có cái giếng nước.
Cạnh giếng nước là gốc cây to (đường kính khỏang gần một mét) ngã nằm
ngang canh giếng. Chiều bốn năm anh em chúng tôi ra tắm, có cã Hai R và C
trưởng là anh Xuân (Nguyễn Viết Xuân, quê ở Thái Bình hay Nam Định gì đó). đang
tắm và đùa giởn thì bị chúng bắn tỉa sớt qua đầu, anh em mính còn chọc quê
chúng (banh đốt cà đo). Từ đó chúng cứ canh giếng nước, chúng tôi phân công mỗi
ngày một anh ra lấy nước nấu cơm, cứ ôm thùng chạy ra giếng nước ngồi sụp xuống
gốc cây là có vài ba phát, sau đó quăng thùng xuống giếng, lấy tay giựt thấy
nặng nặng là nhanh chóng đứng dậy giật mạnh một phát rồi chụp luôn thùng nước
rồi nhanh chóng núp vào gốc cây, (có khi không còn được nữa thùng), vậy mà bị
hai ba phát nữa rồi đấy. Sau đó chạy ù ra khỏi giếng trống, thêm một vài phát
nữa. Cứ như vậy chúng tôi đùa giỡn với chúng vài ba ngày mà không ai bị thương
hết. Chẳng lẽ để chúng bắn hoài, HR mới dẫn một tổ cắt rừng về phía chúng tổ
chức bắn lén thì phát hiện được đường mòn, chính là con đường có trong bản đồ,
chúng trồng mía để che khuất đầu con đường. Con đường nầy cũng chính là con
đường chúng ra rẩy lấy mướp mà quân ta và bọn nó có khi giành nhau lấy
mướp mà mình đã kể ở phần trên. Sáng sớm hôm sau C cho ba anh em vác cây
M60 ra phục, anh em vừa bám ra đến đó bố trí M60 nằm sau bụi chuối bắn
dọc theo đường, hai khẩu ak kèm theo. Chưa đến nữa giờ y như rằng,
ăn quen bọn chúng mò đến. Anh bắn M60 khai hỏa (anh Từ Tho nhà ở Quận 4). M60
nổ đúng được một phát, súng bị hóc, may nhờ hai anh AK bắn một loạt
hổ trợ, nên địch chạy mất tiêu (chúng chưa tới số), sau khi chúng nhã lại cho
ta một lọat. Sau khi bị chết hụt khỏang một tuần chúng tôi không thấy chúng đến
thăm nữa. Lúc nầy là vào khỏang tháng 10 năm 1980, mưa tương đối nhiều. Vắng
chúng đến thăm anh em lại chủ quan, phía A cối bắt đầu tụm ba tụm
bốn lại nói chuyện tếu, cười rôm rã, trời mưa vừa mới tạnh dưới võng bùn đỏ
quạch. Nghe anh em cười nói. HR chơi cắt cớ, lượm trái mướp ném cầu
vòng qua kẻ lá về phía A cối (tiểu đội cối), trái mướp rơi xọat từ trên ngọn
xòai xuống. Tiếng cười nói im bặt, sau đó là tiếng lạch bạch lăn từ trên võng
xuống đất, thấy im re không có tiếng nổ, nhìn lại là trái mướp rơi. Quần áo anh
nào cũng đầy bùn. Nhìn thấy HR ôm bụng cười, anh em bu tới trét bùn vào
HR để trả đủa (đúng là bộ đội ở đâu cũng đùa được, có vậy nó mới bớt căng thẳng
phải không các bạn).
Sau đợt mưa dầm trời lại nắng ráo. Anh
PHẠM AN LONG thiếu úy CTV đại đội, quê ngòai Bắc, gần Hà Nội,
vùng trồng nhiều rau xanh (có lẽ vùng Gia Lâm hay Phố Nối gì đó). Anh Long có
giấy báo trúng tuyển vào ĐHBK Hà Nội, nhưng tình nguyện đi bộ đội chống Mỹ, sau
đó biên chế về làm CTV C9 từ đầu đến giờ, hay lý luận nhưng vui vẻ, anh em ai
cũng mến. Anh Long rất chu đáo, hành quân mệt nhọc như vậy mà anh còn mang theo
cây kéo, thấy trời nắng ráo, hơn nữa cã tuần nay sau khi bị ta bắn hụt không
thấy chúng đến khuấy rối nữa. Anh Long tổ chức cắt tóc cho anh em, lúc đó
khòang hơn 03 giờ chiều. Hai Ruộng dẫn một tổ cắt rừng đi vòng phía đông bắc
cách vị trí đóng quân từ 1km trở lại, không phát hiện gì, khi về gần nơi
đóng quân chừng 200 mét, có cây me sai trái, bèn trèo lên hái về nơi đóng quân
để anh em nấu canh chua bắp chuối, nhìn thấy phía C bộ làn
khói trắng tỏa lên khỏi ngọn xòai. Về đến Cbộ mình vào ngay nơi anh em
đang nấu cơm khói tỏa mù mịt, mình mới bảo anh Minh văn thư sang B2 mượn
cây búa về chẻ củi thật nhỏ để nấu bớt khói vì mấy ngày mưa củi ướt. Lúc nầy C
bộ còn lại anh Long đang cắt tóc cho anh Ngọc, anh Dũng Ytá đang nằm trên võng
đọc truyện, anh Tùng đang nấu cơm, Anh Xuân C trưởng cùng với một A về
Dbộ công tác, HR cũng đứng gần công sự của Anh Long. Bổng nghe một tiếng
nổ ở cự ly hơi xa giống như tiếng cối 82 đề ba, chưa nghe tiếng hú nên
chưa xuống công sự, mà đứng nhìn xem chúng bắn vào đâu, vừa nghe tiếng xọet một
phát là ầm nổ chệch phía sau lưng cách mình khòang chưa tới 3mét, mãnh văng túa
ra như những cục than hồng, cảm thấy rát lưng và tay phải, lấy tay quệt sau
lưng có ít máu, tay phải thì bị ba nơi. Xoay lại thấy khói mịt mù, đuôi B40 còn
cắm đất, chúng bắn một trái B40 hết tầm, đứng trong tán cây xòai nên nhìn không
thấy đạn bay, mình cũng không nghỉ là nó bắn trúng Cbộ. Anh Long bị thương nặng
nhất, kế đến là anh Tùng, rối đến Dũng Ytá lũng phổi, rồi anh Ngọc, HR
nhẹ nhất tay phải bị thương nhưng vẫn còn cử động được, chiếc võng của anh Minh
văn thư gần đứt làm đôi, Minh thóat chết vì mình sai anh ta đi mượn búa bữa
củi. Liền Sau đó hướng B1 anh Na bắn trả 01 quả B41 trúng vào nơi chúng vừa bắn
ra (anh Na trèo lên cây nên nhìn thấy khói nơi chúng bắn ra). Mình lập tức bồng
anh Long ra khỏi nơi đó vì sợ chúng bắn bồi thêm nữa. Sau đó, băng bó cho anh
em bị thương, vì y tá cũng bị. Lúc nầy là khỏang 4 giờ chiều ngày 03 tháng 10
năm 1980. Tổ chức cáng thương về D4, tất cã bốn cáng, về gần đến cứ anh Long hy
sinh.
Không được bỏ chốt, nên Hai Ruộng cùng
hai anh em nữa ở lại giữ chốt gồm anh Minh cối và anh Bữu thông
tin, máy thông tin phải ở lại để lại một khẩu súng cối 61, một khẩu M60, 01
B40, 03 Ak. Đêm đó chúng lãng vãng nhưng không dám mò vào. Đến 02 giờ sáng thì
D4 chi viện lên.
Ngày hôm sau cánh tay bị thương của mình sưng
to lên co không vào, nhưng sờ thử thì xương không bị gì, ngày sau nữa D bổ xung
Ytá mới, cho mình uống vài viên thuốc lại hết , tiếp tục chiến đấu, nay mãnh
B40 vẫn còn trong, rờ vẫn thấy (làm kỹ niệm).
Anh Long HY SINH là một mất mát lớn đối với anh
em C9. Anh đễ lại cho anh em hai câu thơ khắc trên nón cối của anh
<< Hơn người đâu ở đế vương – Hơn người ở chốn trăm đường gian nan
>>. Xin vĩnh biệt đồng chí và không bao giờ quên anh.
C9 vẫn tiếp tục trở lên làm nhiệm vụ chót chặn
nơi ngã ba Đôn Bây nầy. Sau khi anh Long hy sinh C9 mới học được một bài học
quí giá, trước kia nhắc nhở anh em không nghe, nhắc nhở nhiều anh em bảo chết
nhác, sợ chết, từ vụ ta ngồi gác để địch bắn trước, cho đến phục kích
súng lại lép, đóng quân không giữ được bí mật cho đến cách bố trí chốt gác quá
lộ liễu anh Xuân mới chấn chỉnh lại. Khỏang một tuần, ở Hướng B2, một tốp
địch mò vào (có lẻ tốp nầy chúng chưa biết quân ta đóng ở đây). Khi lọt vào
chốt gác, anh Nguyễn Xuân Hậu diệt luôn hai tên đi đầu, mà tôi đã nói ở phần
bài viết trên. Ta bố trí công sự gác sát bên
đường đi, bí mật đào công sự trong lùm, ngụy trang khéo léo bên ngòai, nhìn vào
không thấy, bên trong ta nhìn ra thì thấy địch, đường đổi gác làm theo cách làm
đường chuột chạy, lá cây rừng quét sạch vì vậy ta có vận động bên trong, địch
cũng không nghe được. Bố trí bên phải con đường, vì thường nhiều người thuận
tay phải, cho nên ta bố trí bên phải con đường khi địch đi vào thì nòng súng
của chúng thường chếch về tay trái , tức là nòng súng của chúng không hướng về
phía ta. Nhưng tốp địch nầy vào thì tên đi đầu lại thuận tay trái ,
nên nòng súng của chúng chỉa sát anh Hậu khi chúng đi qua chổ gác. Vì vậy
anh Hâu mới để cho tên đi đầu đi qua khỏi, khi tên thứ hai vừa đến anh bắn gục
tên thứ hai, sau đó mới quay lại bắn tên đi đầu.
Hai ruộng xin chào anh
em ! Hôm lính ta phục kích khi địch lọt vào mà M60 chỉ nổ được 01 viên,
đó là do mình chủ quan chưa phổ biến kỹ càng về súng M60, chỉ nghĩ
anh em biết bắn là được. Mình chỉ dẫn anh em đi đến chỗ phục kích,
bố trí đội hình xong rồi về , vì biết địch cũng vài ba thằng là cùng. Cây súng
M60 là loại súng của con nhà giàu, bắn nó nổ rất nhanh, đạn rất gom (không tản
mát như AK) , nhưng rất khó bảo quản. Mình bố trí chổ đường cong để khẩu súng
bắn dọc theo đường mòn là hết ý. Nhưng vì anh em vô ý khi luồn rừng, để khỏi
vướng víu, lính ta mới quấn dây đạn xung quanh khẩu súng, khi bố trí đội hình
phục kích xong thì quên không gở dây đạn ra, vì vậy chỉ nổ được một phát là đứt
dây đạn. M60 rất khó tính, loại nầy bọn Mỹ trang bị trên xe, trên máy bay trực
thăng, ở lô cốt khi bắn đạn phải mới, phải có thùng đạn và biết cách xếp đạn
thì bắn mới không bị kẹt đạn. Nếu đánh vận động thì phải hai người, một xạ thủ,
một mang theo thùng đạn. Còn bộ đội ta khi lấy được thì mang chỉ có dây đạn
không theo người cho nhẹ không mang cã thùng, rồi hành quân năm tháng, lớp thì
nước mưa, lớp thì mồ hôi đổ xuống, dây đạn bị rỉ sét, bắn bị kẹt là phải. Sau
nầy để bắn nhanh anh em mình chỉ lắp trên súng khoảng 50 viên thôi,
hành quân cũng gọn không phải quấn quanh súng, dây đạn nhẹ, bắn không
kẹt. Khi nào bắn hết loạt đạn đầu rồi mới lắp thêm. Nhưng mà suy đi tính lại súng RPD của ta vẫn hơn, cứ mỗi nồi
100 viên, có nằm trên bải cát bắn cũng không bị kẹt. Còn M60 mà để dây đạn trên
bãi cát thì khỏi bắn.
Vài hôm sau khi C9 diệt được 02 tên địch, tại
ngã ba Đôn Bây. D4 ra lệnh cho trinh sát bám theo con đường củ về phía Tu
Bi, đi sâu về phía gần KOKI THOM, và Bố Sườn dẩn thêm C10 hành quân
đến Đôn Bây. Ba ngày sau Trinh sát về, báo phía KOKI THOM không phát hiện
địch, nhưng khi về gần Ăng Te (ÂNTE) thì vô tình lọt vào cứ của địch, chúng đi
đâu cả chỉ còn lại một tên vừa lững thửng đi từ trong cứ ra, súng AK
vác trên vai, nòng súng máng cái sô nhựa quảy tòn ten sau lưng, Trinh sát
hô đứng lại định bắt sống, nhưng tên nầy bỏ chạy, Trinh sát nổ súng tiêu diệt
thu vũ khí và nhanh chóng rút khỏi chỗ đó, vì vậy chưa xác định chính xác nơi
nào. Bố Sườn quyết định dùng 02 C vào lùng sục vùng Ăng te – Tu Bi. Chúng
tôi hành quân bằng con đường từ Đôn Bây đến Tu Bi. Vừa đi vừa bám địch, vừa
lùng sục. Đến Tu bi giải lao năm phút , sau đó tiếp tục hành quân, anh Phan
Đình Du trinh sát D đi đầu, anh Du mang khẩu M79 với ba dây đạn vừa ra khỏi
phum chừng trăm mét, bị chúng bắn tỉa một phát trúng vào dây đạn mang trên ngực
xuyên vào vỏ đạn M79 nổ một trái, đầu đạn bay xuống đất quay vòng vòng không
nổ, anh em kè anh Du vào bên tronh áo còn bốc đầy khói, cởi áo ra, không
sao cã, chỉ bị phỏng chút ít. Anh Du thóat chết trong gang tấc, sau đó theo đội
hình tiếp tục bám tiếp. Khi đến cao điểm 75, nằm giữa hai phum Ăng
Te và Tu Bi, chúng tôi phát hiện cứ của địch (cứ nầy chính là cứ của địch mà
anh em trinh sát lạc vào) chúng cũng ở khỏang hai ba chục tên. D4 tổ chức
đánh ngay, diệt được vài tên chúng bỏ chạy, anh em thu được một khẩu RPD.
Bố Sườn ra lệnh đóng quân luôn tại cứ của chúng 03 ngày và tổ chức phục
kích tại chổ.
Vào thời điểm nầy đất nước ta tình hình kinh tế
rất khó khăn, bị các thế lực thù địch bao vây cấm vận thiếu thốn đủ mọi bề,
quần áo anh em cũng thiếu quân trang may bằng lọai vải thô mặc vài hôm là bạc
trắng, để khỏi lộ mục tiêu anh em phải lấy trái (mật nưa), mọc rất nhiều
ở vùng nấy giả ra để nhuộm áo, vì vậy áo anh em cũng màu đen thui như là quân
Pôn Pốt. Chúng tôi ở cứ của chúng vào ngày thứ hai khỏang chín giờ sáng, ở
hướng C11, địch mò vào ngay chốt gác của anh Bảnh (không biết có đúng tên
không, lâu quá sợ HR nhớ lầm). Anh Bảnh cũng mất cảnh giác (có ngủ gục
không thì mình không biết), địch đến vổ vai, lính ta giật mình điểm xạ luôn hai
phát, tên địch bị thương vào bụng, miệng vẫn còn kêu ta bắn lầm, vì thấy anh
lính của ta mặc áo đen lại đội chiếc nón của quân Pôn Pốt. Tên nầy bị ta
bắt sống, y tá ta băng bó vết thương cho hắn, hắn chỉ khai hắn là trung
đội trưởng, ngòai ra hắn không khai gì hết. Vì vết thương quá nặng, ngày hôm
sau anh em cáng hắn về E tiền phương (lúc nầy Etiền phương đóng ở Đôn Bây), khi
gần đến E tiền phương thì hắn chết. Ngày hôm sau trinh sát phục quân nơi cách
cao điểm 75 khỏang 1km cũng diệt được hai tên. (Chính cao điểm 75 nầy là nơi bố
Sườn tát tai một anh Trung đội trưởng vì để anh em bỏ gác ban ngày mà HR đã
từng kễ ở trang 17).
Chúng tôi quần khắp nơi thêm vài ngày nữa cũng
không phát hiện gì . Sau đó rút về C9 lại về Kra va. Nghỉ được khỏang một tuần,
thì Trinh Sát E phối hợp với Trinh sát D4, nhận nhiệm vụ đi bám địch ở phía
đông nam, Phum Svai chêk, vòng lên phum Veal Thom. kỳ nầy có HR đi, chúng tôi
cắt rừng về phía phum Svai Chêk, cũng cơm vắt chấm muối bột ngọt, vắt ăn
ba ngày, đi không dấu nấu không ra khói, nói không ra tiếng (chỉ ra ám hiệu,
truyền lệnh khe khẻ), những động tác nầy bây giờ đối với anh em đã quá thuần
thục. Chúng tôi cắt rừng một buổi đến gần đầu phum Svai Chêk, đang ngồi nghỉ ăn
cơm vắt thì nghe tiếng đào đất. HR cùng anh Đức (B Trưởng Btrinh sát D)
bám vào, khi đến con suối, nơi đây rừng dây leo và tre rất đầy, không cắt
rừng được, muốn đến nơi phát ra tiếng động, anh em chúng tôi phải bám theo hai
bên bờ suối, mỗi người một bên, tôi nhè nhẹ lội qua suối bên kia, rồi hai anh
em âm thầm bò về phía phát ra tiếng động, Chẳng may tôi đụng phải ổ con heo
rừng, nó vừa chạy rầm rầm vừa học. Lúc đó phía mục tiêu có ba người đứng lên
một nam khỏang 40 tuổi và hai nữ khỏang trên hai mươi tuổi, phát hiện hai chúng
tôi đang bò theo suối, còn khỏang 7 mét tôi chong súng chạy thẳng vào, bắt tất
cã đứng im và dơ tay lên, anh Đức cũng chạy đến sau đó, chúng tôi lục
sóat không phát hiện vũ khí, hai chúng tôi nghỉ họ là thường dân nên thả ra cho
họ đi. Chúng tôi trở về đội hình và hành quân tiếp, băng qua nhánh suối cách đó
chừng 100 mét, chúng tôi bắt gặp một tóan con gái khỏang 10 đứa đang gọt cũ
nầng (lọai củ rừng lúc đó dân K cũng thường xuyên vào rừng lấy để cứu đói).
Không thấy có vũ khí chúng tôi cũng bỏ qua. Đi một đọan gặp một tóan
thanh niên cũng khỏang 10 tên, đang vác chuối đi lên phía đổi, cũng không có vũ
khí, chúng tôi cũng bỏ qua. Chúng tôi tiếp tục đi khỏang 500 mét thì Trinh Sát
E bảo là TS E đã đến vị trí, sau đó TS Edừng lại, còn chúng tôi
phải đi tiếp về phía Veal Thom, khỏang 20 phút sau chúng tôi đang tìm cách vượt
qua trảng dây mắc cở tây, thì nghe phía sau lưng có nổ súng. Theo hợp đồng
chúng tôi quay lại. Đến nơi TS E ngồi nghỉ thấy có dấu máu, và dấu chân anh em
cắt về hướng tây bắc. Chúng tôi về theo đường cũ , phát hiện vỏ đạn của
địch vừa mới bắn. Chúng tôi đi đến tối thì tạm dừng văng võng ngũ lại. Gần năm
giờ sáng nghe tiếng chim te te quạch kêu báo động, chúng tôi mò ra xem, thấy có
tóan người chúng tôi nghi là TS E, sau đó phát ra ám hiệu chúng tôi nhận ra
nhau. Trinh sát E đang cán hai cáng thương, anh Muốn TS E và một anh du kích
bạn bị thương, anh Muốn bị nặng, rách bụng nhưng anh còn rất tỉnh. Chúng tôi
lập tức cuốn võng cùng với TS E cán thương về, chúng tôi chạy đại theo đường
mòn, không cắt rừng nữa vì thấy anh Muốn đang đau quoằn ọai , rất tội anh Muốn
cắn răng chịu đau vì thấy anh em nóng lòng cán chạy trên đường mòn, sợ lại
trúng mìn của địch hy sinh thêm nữa. Nhưng cũng may là về đến cứ của E không sau
cã. Nhưng cũng hết sức đau buồn vì anh Muốn hy sinh khi về vừa đến cứ.
Sau nầy tôi và anh Đức gặp lại nhau, cã hai đều
xác nhận. Chúng tôi đã thả nhầm địch, đó là bộ phận hậu cần của chúng chứ không
phải là dân vì tên nào cũng nhìn chúng tôi với cặp mắt lắm lét, lúc đó chúng
tôi chưa đủ kinh nghiệm để nhận thấy. Hơn nữa dân không ai dám có mặt ở khu đó.
Một cái sai lầm nữa là cho dù họ là dân, chúng tôi cũng phải không để họ thấy
(cũng vì tại con heo rừng). Chúng đã phát hiện rồi, nếu bắt cũng bắt không hết,
khỏang một chục đứa con gái, thêm gần một chục thanh niên, dây đâu chúng tôi
trói). Lần đầu tiên chúng tôi cảm thấy lúng túng khi không rỏ họ là địch hay
dân.
Về cứ nghỉ vài hôm, chúng tôi được lệnh, dẫn D4
hành quân đến đánh vào phum Svai Chêk, vì nhận được tin nơi đó có địch.
chúng tôi đến điểm tập kết và theo hợp đồng thì 5giờ sáng nổ súng vào phum
hoang. D4 chia làm ba cánh một chính diện, hai bọc hai bên sườn. Đại đội đặc
công của E bọc hậu, đúng giờ chúng tôi tiến vào phum, vào hơn nửa phum
thì hướng chính diện nổ súng, cối 61 của C9 nổ ngay lập tức ba phát
bắn vào phum. Sau đó các C và C đặc công gọi cối 82 bắn chi viện. Bố Sườn phát
hiện ra C đặc công gọi cối bắn vào vị trí mũi chính diện, còn mũi chính
diện gọi cối bắn vào vị trí Cđặc công. Sau đó hai bên bắt liên lạc với nhau thì
quân ta đánh quân mình. Cuối cùng lỗi do Cđặc công, vì đợi lâu quá nên nóng
lòng vận động vào phum cũng vì lính Cđặc công cũng có người nhuộm quần áo màu
đen, nên mới nhìn thóang qua, mũi chính diện tưởng đâu là địch, vớt một lọat
AK. Cđặc công trả lại một quả B40, may là chưa có bên nào thương vong.
Cũng chiều hôm đó lại đành nhầm một trận nữa,
kỳ nầy C9 đánh nhầm C11. Khi vừa chuẩn bị qua suối bên kia là trảng trống
từ phía đồi đối diện xuống. chúng tôi nhìn thấy có hai người mặc áo đen mang
bình ton đi xuống suối, chúng tôi chờ đến khi nào còn vài ba mét mới bắn, nhưng
cũng rất may. Còn cách chúng tôi 100 mét tự nhiên hai người dừng lại rối đổi
hướng đi, thấy vậy anh Xuân ra lệnh bắn đi, một trái B40 khai hỏa và gần mười
khẩu AK tiếp theo. Nhờ cự ly xa nên hai anh chỉ bị thương nhẹ do B40, khi nghe
bắn hai anh dạt ra hai bên B40 nổ ở giữa. C9 lập tức bắn hai phát cối lên
đội hình C11, sau đó hô xung phong. C11 nhận biết, hô xung phong trở lại để hai
bên nhận ra nhau. Đúng là cái ngày sui thật. Chuyện thật giống như đùa, không
biết các đơn vị của các bạn có từng đánh lầm nhau chưa.
Đọc bài bác hai ruộng viết bài mà tôi cứ nổi
gai ốc .... Những trận đánh, những địa danh, những đồng đội cũ, những kỷ niệm 1
thời trai trẻ cứ như mới xảy ra hôm qua !
Khi ở khu vực TUP PI - AMTE bọn em nằm ở hướng bắc, có 1 khu rừng toàn chuối
xem kẽ những cây cầy cao vút. Tối gác, heo rừng ra ủi tìm hạt cây cầy, nhai lạo
xạo thấy ớn óc luôn. Võng mắc phải chằng vào 2 ba thân chuối mỗi đầu mà nằm
cũng bị chùng xuống sát đất, bộ đội "sạch" đến độ heo rừng ủi vào tới
đầu võng luôn, những con ve như con ve chó từ heo rừng ra bu cắn vào chỗ nào có
lông trên người, đến khi mưng mủ rồi mới biết, bắt nó đi rồi, ngứa cả vài
năm....Anh Muôn TS E747 (bác nhắc em mới nhớ tên), nhập ngũ từ 75-76, là 1 TS
rất lỳ, lúc nào cũng nhận nhiệm vụ đi trước cắt đường cho đội hình và cũng rất
ba gai với xếp nào "chết nhát", nói chuyện là đệm liên tục, nhưng
chơi với anh em như 1 người anh. Nghe nói anh ấy mồ côi, dân thiếu sinh quân ở
chiến khu. Anh Muôn dính trái KP2, dù đã phát hiện ra nó !!!... thế mới đau

. Tuần sau, bữa nào bác rảnh, AE mình họp tí
đi bác

. Số DT em đã PM cho bác rồi đó. Em lang
thang trên mạng, thấy và đọc QSVN cũng nhiều bài, nhưng thấy ít nhắc tới F317
và E747, nên nhào vào thành viên luôn. Có bác tham chiến ác liệt, em mừng lắm
đấy.

Bản đồ 1:250.000 có các địa danh Krava, Ante,
VealThom
Hai RUỘNG ĐÂY ! Ăng kokrao ơi. Anh MUỐN TS E
không phải hy sinh vì KP2, mà lúc khi qua khỏi suối, TS E bảo là đã đến vị trí
nên nghỉ ở lại, lúc đó tụi mình lại đi tiếp về phía phum Veal Thom. Khi TS E
vừa ngồi nghỉ lại một lát thì bọn địch mà anh em TS D4 và cã HR vừa mới thả ra
(tưởng là dân), chúng bám theo đuôi và bắn vào đội hình TSE đang ngồi nghỉ giải
lao. Anh Muốn và thêm một du kích bạn bị thương. Như mình đã nói ở trên. Mình
đang viết tiếp (kỹ niệm 30 năm .....). có nhiều trận đánh khi viết rồi mình mới
thấy còn sót lại. Số liên lạc của mình đây (ót
- pràm buôn - ót - bây - pràm mui - pràm buôn - prạm - prạm - buôn - pram).
Ăng KO KRAO sđắp ban tê ?
Hai Ruộng xin chào các bạn !
Sau chiến dịch đánh vào phum Svai chếk , chúng
tôi lại rút về Kra VA. Nghỉ được vài hôm TS D4 lại nhận nhiệm vụ đi trinh sát
về phía đông nam từ phum Kra Va và có cã Hai Ruộng đi, chúng tôi đi một
buổi cắt rừng đi qua khu vực bàu nước, gặp một đàn chim, con nào con nấy rất to
lông màu xám, đi khỏang 2km nghe hai trái M79 nổ về phía sau lưng, chúng tôi
tiếp tục đi đến vùng có đất có đặc tính thổ nhưỡng giống như vùng Định Quán,
đất đỏ đậm có những hòn đá ong lồi lên trên mặt đất, nơi đây cũng có
nhiều vườn cây mảng cầu (quả na) giống như vùng Định Qúan của ta , phum nầy rất
trù phú. Chúng tôi nghỉ giải lao một tý thì bắt được liên lạc với anh em F
302, từ phía Kam Pong Chàm lùng sục qua, hai phát M79 do anh em F302 bắn.
Sau đó chúng tôi hành quân về báo cáo D4 không phát hiện địch. Một hai
ngày sau D4 được lệnh hành quân 3C về hướng lộ 7 , gồm C9, C11, C12 (hỏa lực,
một khẩu cối 82 và một khẩu đại liên có hai bánh xe karinớp). Cắt rừng ra chúng
tôi đụng phum Srâlau Tong. Sau đó đóng quân dọc theo lộ 7. Chốt đường cho
Bộ chỉ Huy Mặt Trận hành quân về phía Kam pong Chàm. Đòan xe có M113 đi đầu vừa
chạy vừa bắn đại liên 50 thị uy. (Đọan nầy trước đây đã từng bị địch phục kích
bắn cháy một đòan xe quân sự của ta còn bỏ lại bên đường 5, 6
chiếc. C9 đóng quân bên khu rừng đối diện phum. Vùng nầy nước
giếng màu đen đen. Khi đòan xe đi qua, chúng tôi hành quân về phum Sralau Tong,
thì phát hiện bải đất hết sức khủng khiếp. Một khu vườn khỏang nữa mẩu đất đầy
xương người, xương người chất chồng trong 6- 7 cái giếng nước, chính vì
vậy mà nước giếng xung quanh đây đều có màu đen đen. Trong khu vườn đó ta không
thể nào đi mà không đạp lên xương người được, xương đầu lâu rãi rác như gáo dừa
bên trong còn chất màu trắng nhão như đất sét, ở những giếng nước, đống xương
chất chồng lên cã miệng giếng còn cã quần áo, còn cã lớp da thịt bầy nhầy màu
trăng trắng . Lúc nầy chúng tôi đã trở thành những người lính dạn dày kinh
nghiệm mà nhìn thấy vẫn còn xởn gai óc, nổi da gà. Đó là dấu tích diệt chủng
còn để lại. Đóng quân ở đó vài ngày chúng tôi hỏi thăm những người dân họ kễ
rằng: << Đầu tiên bọn lính Pôn Pốt bắt dân vùng đó đào giếng, mỗi
giếng sâu 6-7 mét cho đến khi có nước. Sau đó ban đêm chúng đưa máy phát
điện đến, rồi mắc đèn pha trên miệng giếng làm sao cho bị chói đèn không nhìn
thấy miệng giếng, đồng thời cho loa phát thanh mở nhạc inh ỏi . Sau đó chúng
dùng xe cam nhông lọai dùng chở đất ben thùng xe lên được. Không biết chúng chở
từ đâu tới, một đêm sáu bảy xe chở đầy ắp người bị trói dính chùm
lại với nhau trên xe. Chúng cho xe lùi tới miệng giếng, chúng ben thùng
xe lên, thế là người trên xe rơi xuống giếng, hết xe nầy đến xe khác, khi nào
đầy giếng, chúng dùng cuốc đập đầu những người trên cùng chết, đè những người
bên dưới chết theo. những người đã rơi xuống giếng rồi chưa chết ngay có khóc
than những người ở xe sau cũng không nghe được vì chúng mở loa phát ra
tiếng nhạc át cã tiếng rên la của nạn nhân >> . Đúng là kiểu giết
người man rợ nhất trên lịch sữ nhân lọai ở thế kỹ nầy.
Như vậy mà khi bộ đội ta đánh sụp đổ chế độ
nầy, khi chúng đã tàn hơi lại có những nước, những thế lực bênh vực, giúp
đở, chi viện mong cho chúng hồi sinh, trong đó có những nước những thế
lực mà ngày nay họ đang lớn tiếng đòi bênh vực Tự Do, Nhân Quyền cho thế
giới. Vì vậy cho nên họ lơ là đối với phiên tòa Quốc Tế để sử tội ác diệt
chủng tại Kam BoDia vừa qua. Đó là chuyện hết sức dễ hiễu.
Sau khi ở đây vài ngày chúng tôi hành quân vượt
qua cây cầu sắt ranh giới Kam pong Chàm và hành quân lùng sục phía
nam lộ 7 vùng đồn điền cao su có cã đường băng sân bay nhỏ trong đồn điền.
Các bạn nhìn vào hình chụp từ vệ tinh vẫn còn nhìn thấy đó là PHUMI CHÂM KAR
CAOUT CHOUC (Tên phum nầy đọc theo âm của tiếng Pháp có nghĩa là phum vườn cao
su). Nơi đây nhân dân bạn trồng rất nhiều đậu xanh, bộ đội mang gạo đổi
đậu xanh, lúc đầu ăn thấy ngon. Sau đó hậu cần thấy đậu rẻ hơn gạo bèn đổi 01
tháng gạo lấy đậu cho anh em ăn. Ăn được vài hôm thấy ngon, sau đó là
ngán, rồi đến sợ luôn món cơm độn đậu xanh.
Chiến dịch kéo dài gần nữa tháng không đụng
địch. Sau đó chúng tôi bắt đầu hành quân về lại Kra Va. Chúng tôi lại bắt đầu
tiếp tục quần nát khu vực Ăng te, Tu bi, Koki Thom, vv… Trong D4 lúc nầy anh em
bị sốt rét trầm trọng, có những chiến sỹ bị sốt ác tính đang nằm phục kích gần
cứ địch đột nhiên lên cơn sốt mê sản la hét om sòm, đơn vị phải bắt đưa
về bệnh xá ngay. Cã D4 không còn một ai là không bị sốt rét, sốt đến nổi nằm
trên võng ói liên tục, ói ra cã mật xanh. Trong rừng thì mìn lỡm ngỡm, E ra
lệnh cấm tất cã các đơn vị hành quân trên đường mòn. đi đâu cũng phải cắt rừng,
đi đường nầy về đường khác. Nếu đơn vị nào để anh em hy sinh trên đường
mòn thì thủ trưởng đơn vị đó phải chịu kỹ luật.
Trình độ phát hiện mìn của anh em cũng nâng
lên, khi đi đến vùng cỏ cao ngã qua ngã lại thì chú ý mìn gài dây (mìn vướng)
khi ta lấy tay vạch cây ra để bước là sẽ bị nổ, còn vùng có vũng nước, cát mịn,
cây ngã ngang đường thường có mìn đạp, khi ta bước qua cây ngã, vì chúng rào
hết chướng ngại vật chỉ còn một chổ để ta bước qua, đi theo đường mà gặp cây to
cạnh đường hoặc nơi có dấu vết đặc biệt, nơi đó thường có mìn (vì chúng gài rồi
chúng cũng phải nhớ chổ để chúng tránh và chúng còn trở lại để gở lên nữa chứ).
Còn nơi đất thịt, đất dẻ không có dấu hiệu đào xới dứt khóat chỗ đó không có
mìn được. Trinh Sát chúng tôi khi đi thì sắn cao quần lên đến đùi, tay áo
sắn sát lên gần đến nách, có như vậy thì nhờ lớp da của mình khi vướn dây
mìn ta có cảm giác, còn nếu mặc quần dài ống thì làm sao có cảm giác được, nón
mềm đội quay lưỡi trai về phía sau để tầm nhìn được rộng, nhiều anh còn
quấn thêm chiếc khăn cà ma lên đầu. Vì vậy khi bất ngờ địch chạm trinh sát
chúng tôi, chúng còn đang ngơ ngác thì đã bị chúng tôi tiêu diệt rồi.
Trình độ gài mìn của địch
cũng phát triển không thua kém gì trình độ phát hiện mìn của ta. Sau nầy khi
gài mìn vướng, chúng kéo lọai cỏ cao, đan qua đan lại một khỏang đường rồi mới
gài mìn , để khi ta vạch đường mệt chán không thấy gì sau đó đi ẩu sẽ dính.
Chúng lấy dây kẻm xỏ vào giữa ống cọng cỏ rồi sau đó mới gài, ta chỉ phát hiện
thấy cọng cỏ chứ không phát hiện thấy dây mìn, khi lấy tay gạt cọng cỏ thấy
vướng vướng nhìn kỹ xuống bụi cỏ mới thấy mìn, nếu rừng già thì chúng dùng luôn
dây leo. Còn mín đạp sau nhiều lần bị ta phát hiện chúng cũng thay đổi cách
gài. Chúng lựa nơi đất thịt khéo léo khét một lỗ vừa bằng trái mìn KP2 nhỏ hơn
lon sửa bò một tý , sau đó đặt trái mìn vào, lắp đất lại nếu để không như vậy
ta sẽ phát hiện dấu đào đất và sẽ phát hiện mìn ngay, chúng mới lấy chỉ một lá
cây thôi đậy lại để che lên chổ đất đào và che luôn ngòi mìn, sau đó bẻ gai
rừng ghim lá xuống đất không cho gió bay chiếc lá. Anh em ta vô tình đạp lên
chiếc lá là dính mìn chết ngay đâu có còn phổ biến kinh nghiệm cho người
sau. Chúng tôi phát hiện được cách gài mìn nầy
do tình cờ khi ngồi giải lao ở đọan đường gần Ăng Te, anh em nhìn thấy chiếc lá
tự nhiên trong rừng không biết có ai đó bẻ cây gai ghim chiếc lá vào đất, tò mò
anh em nhè nhẹ gở chiếc lá ra mới nhìn thấy ngòi trái mìn KP2. Từ đó
chúng tôi không đi đạp trên một chiếc lá rơi cho đến khi E ra lệnh cấm đi trên
đường mòn.
Sau đó D4 bố trí C9 sang đóng quân ở phum Liêu,
ở đây đánh một trận. Sau đó qua Bac Sa Na. Bắt đầu áp dụng chiến thuật
đánh du kích, ta rải quân khắp rừng từng trung đội xen kẽ với địch.
Gần một năm quần nhau với địch, tinh thần bọn
chúng sa sút rất nhiều, chúng từ chổ mang quân vây đánh quân ta ở phum
(hồi còn một D tỉnh đội ĐN), sau một năm E747 về đây họat động, căn cứ của chúng
cũng không còn, vùng ngày xưa chúng cho là bất khả xâm phạm thì nay E747 đã
quần nát, đâu đâu cũng có dấu chân bộ đội E747. Chúng phải xé lẽ. Một số
bị tiêu diệt, một số mất tinh thần bỏ ra hàng, một số không còn tinh thần chiến
đấu, gặp ta đánh là nhanh chân chạy. Vì vậy E thay đổi cách đánh cho bộ
đội chuyển sang đánh du kích. E cho trinh sát E cùng trinh sát D cứ cử ra
một hai anh trinh sát về phối hợp dẫn đường cho một B bộ binh rải ra khắp rừng,
tìm nơi có nước, tìm nơi có lương thực mà vừa đóng quân, vừa phục kích đánh
địch. Nếu phát hiện chúng đông thì điều quân đến đánh. E còn có một đại đội đặc
công, quần nhau suốt với địch ở trong khu vực nầy và đã đánh nhiều trận, diệt
nhiều tên (đại đội đặc công nầy được tuyển chọn từ các C bộ binh ở các D, C9 có
hai anh, anh Đức Định (An Nhơn Gò Vấp) và anh Trung cũng là sv con của phó Gíam
Đốc VIKIMCO (nghe nói thôi không biết có đúng không). Kết hợp với lối đánh hiểm
truyền thống của E do các đồng chí chỉ huy có nhiều kinh nghiệm từ thời chống
Mỹ truyền lại, đó là đợi địch đến thật gần vài ba mét rồi mới bắn. Xạ thủ
B40 đứng lên bắn cắm ghim xuống đất phía trước địch cách đội hình chúng khỏang
2mét và B40 chỉ bắn ở cự ly 7 mét đến 10 mét. Áp dụng cách đánh nầy mà
anh Định (C đặc công) đã bắn một tên cũng cở chỉ huy cấp lớn của địch một
quả B41 sau khi tiếp cận mục tiêu chỉ còn sáu bảy mét tên nầy gần như đứt làm
đôi. Anh em chúng tôi phục kích cũng vậy, đợi khi chúng đến thật gần B40 khai
hỏa trước rồi AK, sau đó xung phong lên lấy súng và rút nhanh khỏi trận địa.
Anh em quen bắn ở cự ly gần đến nổi một anh Trinh Sát E (tôi
đã quên tên) sau khi bắn một phát B40 xong, anh em nổ súng rồi rút nhanh chóng
khi kiểm tra lại thấy mất một người, sau đó anh em nhanh chóng trở lại nơi đánh
thấy anh xạ thủ B40 nằm gục đầu trên súng, xem lại anh hy sinh do mãnh đạn
chính là hạt nổ của quả đạn B40 do anh bắn ra ở cự ly quá gần hạt nổ văng
ngược lại trúng ngay giữa trán va hy sinh.
Cứ với cách đánh như vậy mà các Bthay phiên
nhau, B nầy đi thì Bkia nghĩ. Lương thực của anh em chúng tôi cũng chẵng
có gì mới lạ ngòai cơm vắt chấm múôi, ăn được hai ba ngày sau đó là
ăn gạo rang (gạo đem ngâm nước cho mềm sau đó rang cho vàng, xin thêm một tý
đường thốt nốt ngào vào thành cốm, khi ăn hết cơm vắt rồi thì ngậm lọai lương
thực đó. Cứ như vậy mà đi sâu vào nơi phát hiện dấu vết địch hoặc sát cứ địch
mà nằm phục kích, anh em mài lưỡi lê cho thật bén rồi một tay nắm chặt cành cây
tay kia xắng dao xuống cho đứt êm ru không hề gây ra tiếng động để cắm
ngụy trang nơi phục kích ( vì chặt cây sẽ gây tiếng động địch sẽ hay). Nằm phục
như vậy có khi ba bốn ngày địch mới ra. Bắn xong là rút chạy về ngay.
Chính cách đánh nầy của E đề ra mà chúng phải bỏ vùng Ba Rài rút chạy đi
nơi khác. Một số ra đầu hàng.
Cách đánh nầy anh em ta cũng hết sức hao mòn
sức khỏe, chỉ nằm tại chổ như con ốc, gậm cơm vắt, rồi gạo rang vài ba
ngày, anh em phải thò tay bứt lá vang mọc xung quanh vị trí phục kích mà nhai
cho mát ruột. Cách đánh nầy chỉ có bộ đội ta mới đủ kiên nhẩn để thực hiện nổi
mà thôi. Vừa đánh du kích như vậy, nhưng nếu phát hiện địch tập trung là huy
động quân sẳn sàng vận động đi đánh ngay, lúc chúng tôi đang đóng quân ở
Bacsana. thì C đặc công E phát hiện được một căn cứ của chúng gần capong Kràbây
và tổ chức đánh tiêu diệt được vài tên, chúng bỏ chạy, sau đó anh em xung phong
vào chiếm cứ, gặp một tên địch (nữ) đang nằm thoi thóp trên giường bệnh, anh em
ta không nở hạ sát bèn bỏ đi , vừa mới quay mặt ra thì bị đánh một trái
lựu đạn, anh Định và anh Trung bị thương, phải khiêng về cứ. C9 chúng tôi được
lệnh của E vào ngay nơi ấy để tiếp tục truy đuổi. Khi đi ngang đội hình cáng
thương chúng tôi chỉ kịp nhận ra hai anh, chia tay chúc anh mau bình phục rồi
lại tiếp tục đi ngược về phía địch, đến nơi thì chúng cũng đã mất dấu, lùng sục
một buổi không thấy chúng tôi về lại Bac sa na.
Với lối đánh nầy được khỏang vài ba tháng, tinh
thần của địch đã sa sút rồi cang thêm sa sút địch ra hàng rất nhiều,
nhưng chúng chủ yếu ra hàng với lực lượng du kích bạn, có lần chúng mang cã
khẩu 12ly8 ra hàng du kích. Sau khi anh Muốn TS E hy sinh vài tháng sau thì
chúng tôi nhận được tin E thông báo có mười một, hay mười hai cô nữ Pôn Pốt ra
đầu hàng đầu tiên ở phum của E đóng quân. không biết có phải mười hai cô nầy
chúng tôi đã bắt gặp khi đang ngồi gọt củ nầng hay không ? Khi chúng tôi đi
trinh sát ở vùng gần nơi đó (phum Svai chêk, mà tôi đã kễ ở trang trước ).
Một lần nữa khi C11 đánh vào cứ gần phum TUBI
khi chiếm cứ cũng bắt gặp một bệnh binh nữ của Pôn Pốt sắp chết đang nằm thoi
thóp trên giường, chỉ còn da bọc xương, kiến bu đầy người (đồng đội họ đã bỏ họ
lại khi bỏ chạy) đang nhắm mắt, khi anh em đến đứng nhìn thì cô ta mở mắt
ra thấy bộ đội, cô vội nhắm mắt lại. Bộ đội mình bỏ đi không nở sát hại
để lại cho họ đến lấy, nhưng vài ngày sau trinh sát trở lại thì thấy cô ta đã
chết.
Như vậy không phải một lần mà hai ba lần, anh
em ta gặp kẽ thù khi chúng không có súng trong tay, anh em ta không nở bắn. Một
lần gặp cã nam lẫn nữ gần 15 – 16 tên, anh em tôi không bắn vì sợ rủi lầm nhầm
dân vì lúc đó họ không có súng, cuối cùng anh Muốn phải hy sinh. Lần thứ
hai gặp nữ bệnh nhân nằm thoi thóp sắp chết, hai anh đặc công không nở bắn,
cuối cùng bị ném quả lựu đạn. Một lần chúng tôi để lại người bệnh sắp
chết cho đồng đội chúng đến lấy đi để cứu chữa, nhưng chúng không lấy để
chết nơi cứ hoang. Các bạn đọc đến đây chắc các bạn sẽ thắc mắc tại sao
lại có chuyện như vậy. Chuyện rất khó tin nhưng có thật, những nhân chứng nầy
đều còn sống và hiện đang ở TP HCM cã.
Chúng tôi hầu hết là học sinh sinh viên và
tình nguyện ra mặt trận khi nhìn thấy quân thù vượt qua biên giới, tàn
sát nhân dân đồng bào mình từ già đến trẻ, phụ nữ chúng hãm hiếp xong rồi giết,
trẻ con chúng chẻ làm đôi. Lòng căm thù giặc khiến chúng tôi phải xếp bút
nghiêng tình nguyện lên đường ra mặt trận, thế nhưng tại sao khi đứng
trước kẽ thù đã từng tàn sát đồng bào mình, khi chúng không còn khả năng tàn
ác, không còn vũ khí trong tay, chúng tôi lại yếu mềm, tha thứ cho chúng. Đó là
vì chúng tôi là người << VIỆT NAM>> , một dân tộc có dòng máu
hiền hòa yêu lẽ sống. HR còn nhớ lại khi tình nguyên đi bộ đội phải
dấu gia đình vì sợ má không cho đi, đến khi gần sang K chiến đấu thì HR trốn
đơn vị về cho má hay. Mình cũng không ngờ má mình nói chỉ một câu mà mình nhớ
mãi (dù bà chỉ biết đọc biết viết chứ không có học như anh em mình) : <<
Má đẻ ra con từ còn đỏ hỏn, một con kiến cắn con má cũng đau lòng, bây giờ con
lớn làm trai, nhiệm vụ đối với đất nước con phải đi, trước làn tên mũi đạn, má
lo lắm. Má chỉ dặn con một điều, khi cầm súng trong tay, làm gì con cũng phải
giữ lấy lòng nhân đạo >>. Má tôi hiền hòa chất phác như vậy đó. Sau đó
tôi từ giã má tôi lên đường về đơn vị. Theo tôi đó cũng là một bản chất
chung của QĐNDVIỆT NAM.
HR đã nhìn thấy tấm ảnh của khẩu đội Ăng co
krao chụp ở phum Ăng co krao. Lúc mới lên nhận nhiệm vụ ở Siêm Riệp. Mình có
đánh một trận tại cuối phum Ăng co krao ngay ở đập nước. Hai B (B1 B2 đi phía
Nam con suối, B3 đi phía bắc con suối. Mình đi đến nhà cuối phum dừng lại
đó chờ B3 bên kia đi lên. Lúc đó, B trưởng B1 (Cao Tài Thơi) đi ra khoảng đất
trống phía bên đập nước, thì bị bọn địch nằm ở hàng cây bờ đập bên kia bắn cho
một loạt cày tung đất, anh Thơi nhà ta nhảy lưng tưng như con khỉ, không trúng
viên nào. Lúc đó mình B trưởng B2, vác cây M60 vòng theo bờ đất vận động đến
đầu bờ đập, thấy chúng đang chạy cách 200m vớt cho một loạt, chúng chạy
mất tiêu. B3 vòng lên chưa kịp. Ta và địch vô sự. Đánh xong cho anh em nấu cơm
trưa ăn rồi về phum Cô Bên (lúc nầy C9 đang đóng tại đó còn E 747 hình như đóng
ở cầu đá, hay ở đâu đó mình cũng chưa rõ)
Đễ lần lần mình sẽ viết đến đó, cho đến khi lên núi Hồng rồi về khum Péc
sa Neng, rồi lên phum Cà Tin, phum Trúp. Sau cùng là rút về phum Pênh thơ mây,
lúc nầy mình được gọi về Phum Fluông (cứ E dời về đây) giải quyết chính sách để
về tiếp tục học ĐH, trước khi về hai ngày tại phum Pênh thơ mây, mình còn dẫn
hai anh em với mình là ba người vận động cắt rừng đi theo đường tắt bắt sống
được một tên nộp cho Trung Đoàn, khi bọn nầy vừa tập kích bằng B40 và AK vào B
của mình làm một chiến sỹ mới (Con Cuông Hà Tỉnh) bị thương ..
Như vây là từ mùa mưa năm trước cho đến bắt đầu
mùa khô thứ hai, gần hai năm máu và mồ hôi của anh em E747, cùng với
anh em du kích bạn (sau nầy du kích của bạn đánh cũng rất nhiệt tình), đã
đổ xuống vùng Ba Rài. Nhân dân nơi đây đã có dấu hiệu hồi sinh, những đêm trăng
sáng, đâu đó đã bắt đầu vang lên tiếng trống Lâm Thôn, rộn rã. Bóng dáng địch
đã xa dần, rồi không còn nữa. Một C của D4, hành quân từ KraVa băng qua
vùng Tu Bi – Ăng Te – Koki thom (vùng mà anh em E747 gọi là <<Tấp bi –
Anh tè .. . Bây giờ mà gặp mấy anh em đào ngũ mà nhắc đến vùng nầy có khi còn
rởn tóc gáy) – chúng tôi qua tận Băng La Via bắt tay với F310, rồi trở về không
phát hiện dấu vết gì của địch. Chúng tôi đóng ở phum Bac Sa Na, 03 anh em
chúng tôi ban đêm mang đèn đi săn thỏ, đi sâu về hướng đông, dọc theo sông Chi
Nít, vào tận gần phum hoang (trước kia mà vào vùng nầy địch sẽ bắt sống chúng
tôi ngay). Như vây F517 của địch buộc lòng phải bỏ vùng họat động nầy.
Sau nầy D4 còn đánh tập kích vào cứ Trung đòan bộ của địch gần phum Đôn Kđa,
phía bên kia sông Chi Nít, gần đường lên múi Chi. Tin tức do E khai thác từ
hàng binh (tham mưu phó trung đòan của địch), cuộc tập kích thành công lớn
(trận nầy HR bị sốt rét nặng không có tham gia).
Sau một vài tuần dưỡng quân và bổ xung quân mới
(bổ xung lần thứ hai từ khi sang k). Chúng tôi chuẩn bị hành quân lên vùng núi
Chi. Đánh núi Chi lần này lực lượng du kích bạn tham gia cũng rất đông. Lúc nầy
gần mùa đông vùng núi Chi rất lạnh, chúng tôi được lệnh phải mang theo áo trấn
thủ. Sau đó bắt đầu hành quân về phía Bắc, đến phum Cong pong Sđách,
chúng tôi vượt sông bằng xuồng độc mộc. Sau khi vượt sông chúng tôi dừng quân
ban đêm tại khu rừng lớn sát bờ sông Chi Nít, dù là cán bộ B nhưng tôi
vẫn gác cùng anh em vì B chỉ có bảy tám người thôi. Tôi bố trí chốt gác dọc
theo đường mòn, khỏang chín giờ tối đang ngồi im bất động để quan sát, tôi còn
nhớ đêm nay trăng rất sáng, ánh trăng xuyên qua khỏang trống của tán
rừng, rọi trên đường mòn một bóng trăng to bằng mịêng giếng.
Ở bóng trăng, một chú thỏ rừng hiện ra, sau khi ngó quanh quất thăm dò động
tịnh, thấy an tòan, chú ta bắt đầu nhảy múa, sau đó một đàn bốn năm
con lần lượt bước ra nơi có bóng trăng, cã đàn dựng hai chân trước lên
ngắm trăng mà nhảy múa. Tôi ngồi lặng im thưởng thức vẽ đẹp sân khấu thiên
nhiên của núi rừng. Một lát sau tôi cựa mình thấy động tỉnh, cã đàn biến mất
trong nháy mắt (tôi lẩm bẩm “ồ ! thỏ giởn trăng”). Sau hai ba ngày hành
quân bộ hết đường mòn rồi lại băng rừng, vượt sông Chi Nít. Sau nầy nơi đây
công binh bắt chiếc cầu vượt sông bằng bốn cây rừng mà xe Din có thể qua được.
Vừa đi vừa dò mìn. Đến một phum hoang nằm ở chân phia nam ngọn núi cạnh bên bàu
nước nằm ở phía đông phum. Nơi đây rất nhiều thú hoang như trâu rừng, nai, heo
rừng, mễn vv. Vùng nầy lạnh còn hơn ở Đà Lạt. Chúng tôi mặc áo trấn thủ, rồi
phải quấn thêm tấm ca su để ngồi gác mà vẫn lạnh buốt. Về võng nằm ngủ phải đốt
lữa bên dưới võng mới ngũ được, có vài anh em ngũ quên đã bị cháy võng. Ngày
hôm sau khi đi lùng sục xung quanh vị trí đóng quân chúng tôi săn được một con
trâu rừng rất to. Mỗi B một cái đùi to tướng, bù lại những tháng ngày ăn cơm
muối. Bộ lòng anh nuôi đại đội (anh Hường, ở Thị Nghè, nhỏ con anh em thường
gọi là Văn Hường vì anh hay ca vọng cổ) nấu cho một nồi cháo, cã C ăn không hết
(C khỏang 30 anh em). Có đại đội không cần đi săn, tới giếng nước là đã gặp heo
rừng rớt xuống giếng.
Một vài ngày sau D4 hành quân qua bàu nước, đến
bờ sông ở phía đông và tổ chức bơi vũ trang qua sông
sông đọan nầy tương đối sâu ngập đầu. Khi D4
vừa qua hết bên kia sông, mới bắt đầu hành quân là bị địch nổ súng trước, chúng
bắn một lọat vào đội hình trinh sát đi đầu nhưng không trúng ai. Sau đó chúng
tôi nhanh chóng truy đuổi chúng, chúng tôi hành quân lùng sục về hướng Đông,
vượt qua thêm vài nhánh suối nhỏ, rồi đến con suối lớn, sau đó đi dọc theo
suối, phát hiện cứ địch vừa bỏ chạy, chúng tôi đóng lại cứ của chúng mấy ngày,
chia nhiều cánh đi lùng sục xung quanh nhưng cũng không gặp địch. Khi hành quân
qua suối nước ngập ngang ngực xảy ra chuyện anh em phải ôm bụng cười. C9 có anh
Thanh B trưởng B2 (người mà từng đánh trái lựu đạn vào công sự địch để cứu lấy
khẩu 12ly

, anh nầy lùn quá cở, khi hành quân trong
rừng anh em phải chui khom cã người vô cùng vất vả, thì anh Thanh cười tụi bây
coi tao nè << ẻn , chui qua cây không cần phải khom>> , đến khi qua
suối trinh sát đi đầu nước chỉ ngập ngang ngực nên không cần phải truyền lệnh
tháo súng ống đạn dược để bơi vũ trang, anh Thanh cũng không tháo bao xe đạn,
đến khi qua giữa suối, mọi người chỉ ngập ngang ngực còn anh Thanh ngập lút
đầu, vì không tháo đạn nên bơi không nổi, uống nước suối chỉ còn cái chóp nón
cối thụt lên thụt xuống . Bố Sườn bảo đứa nào ở gần đó kéo nó lên, anh em để
cho uống thêm vài ngụm nữa mới kéo lên theo luật bù trừ). Ở lại vài ngày
nữa sau đó D4 rút về lại phum ban đầu nằm dưới chân núi Chi. Khi hành quân về
tôi lại lên cơn sốt mảnh liệt, bước lê từng bước, chân nặng trịch, có cảm giác
như bước qua dây rừng nhưng khi bước qua lại vướng té rối lại đứng
lên đi tiếp, lần lần tôi rớt lại đội hình lúc nào không biết, chỉ còn anh Nam
Khẩu đội trưởng cối còn ở lại theo dìu tôi đi, hai chúng tôi thụt lại đội
hình hai ba cây số lần theo dấu mòn mà về. Chúng tôi người nào cũng
chừa lại cho mình một quả lựu đạn da láng, đường cùng thì cưa quyết không để
cho chúng bắt sống, nhưng rất may là chúng không dám bám theo đội hình
ta. Chiều tối chúng tôi cũng về kịp với anh em. Đơn vị định đi tím chúng
tôi. Chúng tôi đóng quân ở đây khỏang 10 ngày. Vài ngày sau địch ra hàng rất
đông ở bên D5 hay D6 gì đó (tôi quên mất). Hàng binh đi sắp hàng lũ lượt đi qua
vị trí đóng quân của chúng tôi để về thị trấn (khỏang vài trăm tên). Sau đó
chúng tôi rút về phum Kra Va. Chuẩn bị chiến dịch khác. Hai ruộng xin có
vài lời với các bạn trẻ.
Thời chinh chiến của chúng tôi đã qua 30 năm
đến bây giờ các bạn trẻ sẽ không biết được trước đây không có Inter net, các
bạn thêm mù tịt thông tin, nhưng khi có mạng, một số ít người sống ở nuớc
ngòai thay gì chung tay góp sức để cùng nhau xây dựng đất nước Việt Nam ngày
càng giàu đẹp. Thì họ lại có thái độ hằn học như một số bài tôi đọc được
từ nước ngòai, họ ngồi bên kia để tưởng tượng để xuyên tạc sự thật. Họ cho rằng
Bộ đội Việt Nam xâm lược Kam pu Chia. Nếu các bạn theo dõi những bài viết của
chúng tôi các bạn sẽ thấy thành quả mà anh em bộ đội chúng ta đổi bằng xương
máu và mồ hôi, gíup cho nhân dân Cam Pu Chia hồi sinh như thế nào. Các bạn có
nhận thấy không ? trong cuộc chiến nầy không có việc trao trả tù binh như các cuộc
chiến tranh khác khi quân đội chúng ta rút về nước và chiến tranh kết thúc.
Điều nầy nói lên sự tàn ác của kẽ thù, khi bắt được quân ta, chúng tàn sát hết
sức dã man, không tha cho một người nào cã, anh em ở D6 E747 khi bị chúng
tập kích vào bắt được chúng chặt làm hai làm ba khúc vùi xuống bãi
bùn sau nầy khi chiếm lại anh em ta phải đi tìm từng khúc một. Còn quân
ta sau khi bắt được tù binh hoặc hàng binh đều chuyển qua cho chính
quyền bạn để giải quyết.
Tranh thủ lúc hàng binh địch ngồi nghỉ giải lao
khi họ đi ngang nơi chúng tôi đóng quân, tôi hỏi một người hàng binh lớn tuổi.
<< Vì sau các anh ra hàng trể như vậy ? Họ trả lời rằng vì họ không biết,
họ tưởng ra hàng là bị quân ta giết, họ bảo năm 1969, quân đội của tướng Đỗ Cao
Trí trong cuộc hành quân Lam Sơn
gì đó) gặp người dân Kam pu chia ở đâu là bắn giết ở đó để trả thù cho
Việt kiều chúng ta bị giết tại Kam Pu Chia >> (Tướng Đỗ Cao Trí là
tướng của quân đội Chính quyền Sài Gòn cũ, chỉ huy cuộc hành quân Càn quét sang
Kam Pu Chia, các bạn xem trang web của các cựu chiến bịnh thời đánh Mỹ sẽ
rỏ). Sau nầy dần dần chính họ thấy bộ đội chúng ta hiền khô, họ mới ra hàng.
Đầu tiên họ cho đàn bà trẻ con ra hàng trước, sau đó mới lính tráng của họ ra
hàng sau. Khi chính quyền của bạn vững mạnh, quân ta rút về nước không hề mang
theo một tài sản gì quí báu. Như vậy các bạn tự suy nghĩ xem ta có
xâm lược Kam pu Chia hay không ?
Hai Ruộng xin chào các bạn . Xin cảm ơn các bạn
theo dõi bài viết nầy . Ngày mai D4 theo Trung Đòan về truy quét quân Xê
ri Ka ở vùng sát biên giới Việt Nam.
Hai Ruộng tìm ra vị trí D4 đóng quân ở tọa độ
(21, 70). Dọc hai bên con đường mòn cạnh hồ nước cạn (đầu mùa khô không có nước
là không đóng quân được). Xung quanh bàu nước là trảng cỏ xen lẫn bụi cây sim
kéo rộng ra cho đến đầu nhánh suối phía đông nam, nơi anh em săn được con trâu
rừng. Hai ngày sau hành quân cặp theo suối đi về phía nam một đoạn, sau đó bơi
vũ trang vượt suối (đoạn suối nầy nước không chảy , sâu ngập đầu, rộng khoảng 7
mét, suối nước đục rất nhiều cá. Sau đó hành quân về phía đông bắc chủ yếu tìm
các ngã ba suối để tìm cứ của địch (vì chúng cũng phải đóng quân gần nơi có
nước). Lùng sục đến ngã ba suối lớn tọa độ ô (22,79). con suối nầy lớn nhưng
cạn, nước trong chảy về phía đông. sau đó vượt suối đi dọc một đoạn khoảng một
km về phía đông phát hiện cứ địch đã bỏ đi khoảng vài ngày . Sau đó D4
rút về ngã ba suối và lùng sục sang con suối nhỏ khác ở phía Nam, đóng
bên bờ con suối nhỏ có thể phóng bước chân từ bờ bên nầy sang bờ bên kia được,
nước toàn phèn đỏ hoạch không có một con cá, hai bên toàn cây mật cật, vùng rất
khó xác định tọa độ trên bản đồ, vì có nhiều ngã ba suối dễ nhầm lẫn, trinh sát
phải mò mẩm hai ba ngày sang các khu vực xung quanh, mới chấm được tọa độ. D4
nghỉ mát ở đó vài hôm rối về chân núi chi (phum hoan ban đầu). Đợt hành quân
nầy mình đang bị sốt rét, nên không tham gia cùng anh em trinh sát, nên cũng
không nắm rỏ kế hoạch hành quân cho lắm, chỉ nhớ loáng thoáng như vậy thôi. Cám
ơn RX chi viện bản đồ cho mình kịp thời.
Sau gần hai năm E747 truy quét khu vực Ba Rài
và khu vực núi Chi, bọn địch ra đầu hàng rất nhiều, một số bị tiêu diệt tại
chổ, một số không chịu nổi rút chạy về phía bên kia biên giới Thái Lan, trả lại
sự bình yên cho phum xóm. Quân ta cũng hao hụt không kém, một số các đ/c hy
sinh, một số bị thương do mìn, trái mất sức chiến đấu, một số sốt rét
nặng rụng gần hết tóc, một số không chịu được khó khăn gian khổ và hiểm ngu ,
phần thì không biết làm nhiệm vụ đến bao giờ mới được về nước, vì khi mới vào
trận trên phổ biến chỉ kéo dài chiến dịch chừng vài ba tháng, thế mà đã hơn hai
năm nên đơn vị đã có hiện tượng đào, bỏ ngũ. Tuy nhiên đa số anh em cốt
cán đã vững niềm tin và trụ lại với đơn vị. Trung Đòan nhận nhiệm vụ tiếp tục
hành quân vượt sông Mê Kông về phía biên giới Việt Nam để truy quét bọn phản
bội XêRi Ka. Bọn nầy họat động khu vực các tỉnh Sòai Riêng, Prey Ven, Căn
Đan,vv… Về hình thức họat động bọn nầy thường đóng quân trong các vùng rừng
tràm gần biên giới Việt Nam, khu vực thượng nguồn sông vàm cỏ (bên đất K, sát
vùng Gò Dầu, Mộc Hóa, gần biên giới tỉnh Long An), ở vùng xa sôi hẻo
lánh. Sau đó thường xuyên tập kích vào các đơn vị chính quyền bạn và bộ đội địa
phương của bạn còn non trẻ. Tập kích thường xuyên các đơn vị của ta thuộc
quân khu 9 làm nhiệm vụ bảo vệ cho chính quyền bạn (có nhiều lần chúng dùng xe
ngựa mặc quân phục bộ đội K tập kích cã ban ngày vào các lực lượng của ta và
bạn). Khiến các đơn vị của ta phải kêu cứu. Về nguồn gốc, bọn nầy có khỏang vài
ba trăm tên, tên cầm đầu tên là <<Chanh Sao>>. Được ta cho
học ở Hà Nội về làm bí thư tỉnh ủy Sòai Riêng, có lẽ tư tưởng chao đảo do
cuộc chiến kéo dài, phần thì do các thế lực thù địch tuyên truyền nên
nghĩ rằng Việt Nam ta xâm lược và phản lại chúng ta. Họ chỉ thấy vùng nầy yên
ổn không còn quân Pôn Pốt, nhưng họ không biết rằng bộ đội Việt Nam còn đang đổ
máu ở các vùng phía bắc Kam pu Chia và các tỉnh giáp biên giới Thái. E 747 mà
về đánh bọn nầy thì quá nhàn, hơn nữa hành quân về đồng bằng trù phú là cơ hội
để cho anh em phục hồi sức khỏe, tránh khỏi bệnh sốt rét rừng quái ác. Vì vậy
bài viết nầy mình xin phép Ban Quản Lý Mạn, cho phép Hai Ruộng nói lên tâm
tư tình cảm của anh em bộ đội lúc bấy giờ (Đề tài ngòai trận đánh)
E747 bắt đầu lên xe hành quân từ khi mờ sáng,
đòan xe lăn bánh rời khỏi vùng rừng núi đi về phía lộ số 6 sau đó rẽ về
phía Cam Pong Chàm. Sau hai năm lặn lội trong rừng sâu núi thẳm quang cảnh sầm
uất dần dần hiện ra, cảnh chợ búa, cảnh học sinh cắp sách đến trường, loang
lóang hiện dần ra rồi lùi xa khuất, Đòan quân xa tung bụi mù. Xa xa trong tầm
mắt thành phố Kam pong Chàm hiện ra. Từ những chấm đỏ thắm điểm trong làn cây
màu xanh mát, như những bông hoa, giờ đã hiện ra là những mái ngói của căn nhà
sàn xinh đẹp và ấm cúng. Những thanh niên nam, nữ của nước bạn, giờ cũng đã lột
xác, các chàng trai bạn rất thích áo mầu xanh đậm hay đỏ đậm, quần tây dài,
chân mang dép Thái, nhiều anh còn mang cã đồng hồ sáng bóng. Có anh còn tậu
được cã chiếc xe bò đễ đi ra chợ, chiếc xe bò phải có càng xe cong vút lên phía
trước, có chạm trổ hình đầu rắn, cuối cùng là sợi dây căn từ cáng xe cho đến
mui chiếc xe bò, trên dây đính những tấm vải màu xanh, đỏ hình tam giác
như những lá cờ đuôi nheo. Cổ xe được đánh dầu sơn bóng láng, xung quanh mui xe
treo rèm xanh đỏ, nhiều chiếc xe có cã Rađiô treo lũng lẵng. Cặp bò thì
phải to con, lông vàng óng, xung quanh cổ treo đủ lọai lục lạc, khi đi trên
đường khua leng keng. Cây roi quất bò cũng thế, cán roi bịt đồng, nhôm
trông rất đẹp mắt , ngọn roi có thắt miếng vải màu. Người thanh niên làm chủ xe
bò rất hãnh diện đội chiếc nón đang bằng lá thốt nốt, xung quanh được
viền vải màu đậm cã quai nón cũng phải vải màu đậm làm viền nón nổi bật
lên . Ở nước bạn phụ nữ cưới nam giới cho nên anh nào không lo sắm xe bò là anh
đó ế vợ. Còn phụ nữ thì bây giờ xinh xắn hơn nhiều. Các cô vận xà rông màu sặc
sở, có cã dây thắt lưng bằng kim lọai sáng lóang, có những cô lai dân tộc chàm
nước da trắng mịn, thon thả, dịu dàng làm anh em bộ đội ta nhìn say đắm (nhìn
thôi chứ rớ vào là bị kỹ luật). Chẳng mấy chốc đòan xe đã vào thành phố, đi về
hướng bến phà. Chúng tôi xuống xe, cơm nước chúng tôi đã mang theo, hơn nữa
chiến tranh vẫn còn phía trước, chúng tôi cũng chẵng biết mua cái gì ngòai
thuốc hút, vài cái bánh chia nhau ăn cho vui hoặc là cùng nhau uống vài ly nước
mía. khi chưa kịp uống xong ly nước chiếc xe phía trước chúng tôi đã xuống phà
, một số anh em đi trên xe đó phải chạy xuống theo xe, có người chưa kịp trả
tiền. Người chủ bán nước mía đếm lại thấy không đủ tiền , lúc đó chiếc xe jeép
của chú Tư Đáp (Trung Đòan Trưởng vừa dừng lại) . Thấy chú Tư mang súng ngắn,
ông ta đến đòi tiền, người phiên dịch nói cho chú Tư nghe. Chúng tôi nhìn thấy
chú Tư mò túi không đủ tiền, chú liền tháo chiếc nhẫn đang đeo ở nơi tay ra đễ
trả cho họ. Trung đòan trưởng của chúng tôi thương lính và chấp hành tốt chính
sách dân vận như vậy đó.
Chúng tôi xuống phà vuợt sông Mê Kông, tôi nhìn
về phía thành phố Kam pong Chàm soi bóng dọc theo bờ sông xanh biếc êm
đềm , mới thấy hết vẽ đẹp của nó . Tôi nhớ lại ngày 17 tháng 03 năm 1979, Sư
Đòan 317 hành quân qua đây, khói chiến tranh còn bao trùm mù mịt, bên kia sông
kho lúa cao như núi còn nghi ngút cháy và nồng nặc mùi thuốc sâu do địch hủy
họai lương thực trước khi chúng bỏ chạy. Trong thành phố không một bóng
người, rãi rác là xác chết của địch, khu chợ trung tâm bị bom đánh sập,
nhưng dòng sông vẫn cứ êm đềm và thơ mộng. Thành phố Kam pong Chàm như nàng
công chúa lọ lem mặt còn bám đầy khói súng, nay mới có hai năm bình yên mà
thành phố xinh đẹp như nàng ÁPSARA hồi sinh.
Tiếp tục lên xe và hành quân về phía Sòai
Riêng. Tôi lại thả hồn vào ký ức. Nhớ ngày nào còn ở Thành Phố Hồ Chí Minh, còn
đang ngồi ghế nhà trường. Nhớ lại bài hát << Chia Tay >> .
<< Chưa yên vui trong trọn ngày, áo lính
vội khóac vào ngay. Chưa xây xong lâu đài, súng thép vội vã cầm tay. Tiếng kêu
núi sông vội đáp ngay. Trong bao nhiêu năm học trò, chưa bao nhiêu lần hẹn hò.
Kẽ thù tràn qua biên giới , hòng giềm đời mình trong tăm tối. hãy bước mau ra
chiến trường….>> .
Ngồi trên xe ngẫm nghĩ sao bài hát quá hay, nó
nói lên hòan cảnh và tâm tư người lính. Những chàng trai đang ngồi ghế nhà
trường, đang ngồi trên giảng đường đại học. Ước mơ chưa trọn vẹn, niềm vui hòa
bình chưa hưỡng được bao nhiêu, lại phải cầm súng
<< Đêm nay mình chia tay bóng đêm dài vô
tận, ngày mai đường chia hai, hậu phương và Mặt Trận, ước gì có hình em trong
ba lô anh mang nặng, ước gì có tình em theo bàn chân anh bước … Anh ơi cứ đi đi
chiến trường đang vẫy gọi, anh ơi cứ đi đi ở nhà em vẫn đợi …>> .
Đêm chia tay của người lính bình thường, dãn
dị, người lính ra đi vội vã tấm hình người yêu cũng không kịp chụp mà sao lắng
động mãi trong tâm tư, của người đi ra nơi trận địa lẫn người ở lại hậu phương
<< Đường dài vượt ngàn khe trăm suối,
đường dài vượt qua biên giới, có bóng em sánh cùng …>> . Trách nhiệm làm
trai ra mặt trận là chuyện bình thường khi thời chiến, nhưng còn lại những
người em gái ở hậu phương, dù chưa bao lần hẹn hò, nhưng em vẫn đợi ….. Bài hát
sao quá tuyệt vời. Lời bài hát theo chúng tôi theo mỗi bước hành quân. Cho đến
bây giờ mình vẫn còn nhớ từng lời từng chữ.
Đòan xe đã bắt đầu đến nơi rải quân, E747 bắt
đầu bố trí đội hình, riêng D4 thì đến tỉnh Prey veng thì mới xuống xe và
tiếp tục hành quân trong đêm đến điểm tập kết. Đợt chiến dịch nầy, C9 không có
nổ súng, suốt chiến dịch chỉ có bắn mấy phát ak bắt liên lạc mà thôi. Cho nên
mình cũng không nhớ hết tên phum, gần như không còn nhớ tên một phum nào cã.
Chỉ nhớ là đi truy quét sát biên giới Việt Nam từ giáp Sòai Riêng
về phía nam, khu vực nầy đồng trống nhiều chỉ có rừng tràm sát biên giới ta mà
thôi. Phum sóc trù phú, thịt gà rẽ như gạo (1kg gà ngang giá một kg gạo), nhiều
đầm nước, vì là vùng thượng nguồn của con sông Vàm Cỏ Tây. Chỉ có khổ một nổi
là mùa khô nên thiếu rau xanh. Còn cá thì rất nhiều dễ đánh. Nhờ vậy mà chiến
dịch kéo dài hơn một tháng anh em ta phục hồi sức khỏe rất nhiều.
Sốt rét thì chưa khỏi hẳn nhưng lâu lâu mới lên cơn sốt một lần. Từ lúc sang K
làm nhiệm vụ đến nay tiền trợ cấp anh em đến giờ mới được lãnh bù, nhờ vậy mà
anh em ta mua gà bồi dưỡng thỏai mái. Mình nhớ một nồi quân dụng mà nấu đến bốn
năm con gà, mỗi con gần một kg . Để nấu cháo. Ở đây có lọai tôm (giống như con
ruốc) họ đem muối chua ăn rất ngon, nhà nào cũng chứa năm sáu lu to hơn 100lít.
Còn nước thốt nốt thì khỏi chê. Ở Kampu Chia họ không làm đường mía như
VN ta, mà họ làm đường từ cây thốt nốt (mình kễ đễ cho các bạn trẻ biết, anh em
mình thì quá rành), một lọai cây giống như cây cọ, ở lăng Ông Bà Chiểu có mấy
cây. Họ trồng khỏang sáu năm thì bắt đầu khai thác lấy đường, thời gian khai
thác có khi đến gần 40 năm, mỗi năm khai thác vào mùa khô. Mùa mưa vì có nước
mưa vào nên nước thốt nốt không ngưyên chất, vì vậy họ tạm ngưng để dưỡng sức
cho cây. Họ trồng từng cụm, hoặc từng hàng sát nhau . Sau đó dùng cây tre chặt cành
chừa gần gang tay để làm thang leo. Sau đó cột chặt cây tre vào cây thốt nốt là
thành thang leo từ cây nầy họ bắt cầu
bằng tre ở trên ngọn cây, có thể chuyền từ cây nọ sang cây kia không cần phải
leo xuống. Đến mùa lấy nước họ dùng cây kẹp tre để kẹp cho dập cuống hoa của
cây sau đó dùng dao thật bén cắt ngang cuốn hoa treo ống tre vào đó
để hứng nước, một đêm có thể gần đầy ống tre gần hai lít nước, cứ mỗi
ngày phải leo lên lấy và cắt bỏ vết cắt củ, để tạo thành vết cắt mới. Nếu muốn
làm rượu thì bỏ men vào thế là thành rượu thốt nốt (thanót chu), còn để làm
đường thì họ chặt một lọai cây có vị đắng bỏ vào, bỏ nhiều thì đường càng
trắng, nhưng không ngon bằng đường màu mở gà vì càng trắng càng có vị đắng
tăng. Đường thốt nốt mà nấu chè hoặc uống trà thì khỏi chê vào đâu được.
Nước Thốt nốt uống cũng rất ngon, ai chưa quen
lần đầu khó uống vì hôi mùi khói, do họ dùng lá thốt nốt khô để xông khói vào
ống tre, nhờ có mùi khói mà ruồi hay côn trùng không bu vào ống nuớc. Đang hành
quân mệt lã người mà uống đựơc một ngụm nước thốt nốt thì khỏe lại ngay. Nhất
là nước đã nấu gần thành mật, ngon tuyệt. Anh em ta gặp xin nước thốt nốt bỏ
vào bình toon, vặn chặt nắp lại đi một đọan đường là bình toon phình tròn vo,
do nước thốt nốt có sẳn ga bốc lên làm căng tròn bình toon nhôm. Hầu hết
lính ta anh nào cũng có cái bình toon tròn vo cã. Còn nước thotnot chu (rượu
thốt nốt) thì khỏi chê, không có lọai bia nào sánh bằng, nhất là rượu thốt nốt
mà nhậu với thịt chó thì không còn gì bằng, Ngọc Hòang còn phải ngây ngất
(Ăng koKrao mà đọc đến đây thì chắc nuốt nước miếng ừng ực rồi đấy). Ở C9 có
anh Nam (tay cối cừ khôi của D4) đã từng thắng cá độ với anh em là anh ta
uống nước thốt nốt đúng một tháng trời không ăn cơm, cũng tại khu vực nầy. Cứ
mỗi lần anh em ăn cơm là anh ta uống một ca nước thốt nốt. Thốt nốt còn có
nhiều công dụng khác, cây thốt nốt già thân cây được đẽo làm thuyền độc mộc. Lá
thốt nốt dùng để lợp nhà, làm nón, đan chiếu (đệm). Đến nổi trái thốt nốt già
rụng xuống họ đem làm bánh có mùi vị rất thơm. Trái non thì sắt nấu canh, vừa
thì chặt lấy cơm như cơm dừa (chỉ có cây không lấy nước mới có trái).
Chính vì công dụng nhiều và mọc khắp nơi như vậy mà cây Thốt Nốt được
coi là biểu tượng của đất nước chùa Tháp.
Còn cá thì vùng nầy cá nhiều lắm, vì vậy mà có
bao nhiêu lựu đạn đều thả cho cá ăn hết. Chỉ có điều là hơi khó đánh vì đầm
nước nó cứ lài lài không giống như ở sông hay suối, muốn đánh có nhiều cá thì
phải lội ra nơi sâu, mà nước sâu thì ném lựu đạn không xa, nhiều khi chỉ đánh
cách mình khỏang bốn năm thước, đánh xong quay mặt lại đưa lưng về phía trái
nổ, nổ rầm ê lưng một cái là xong. Có lần mình và anh Nam gặp trái cối 120mm
lép nằm bên lề đường từ thới chống Mỹ (không rỏ của bên nào). Hai đứa chúng tôi
thay phiên nhau vác mỗi người một hơi về nơi phum đang đóng quân, sau đó vác ra
ngòai đồng vắng, hai đứa tháo kíp, mình ngồi lên trái cối, dùng búa và khúc gổ
để gỏ nhẹ tháo kíp ra , anh Nam tưới nước vào kíp không cho nóng, tháo xong kíp
nổ to bằng nắm tay, dài gần một tấc. Tháo xong kíp mất gần một buổi sáng.
Sau đó mượn cây sà beng đục thuốc TNT ra đục được nữa trái, nữa
trái còn lại đốt bỏ, cháy gần một buổi mới hết. Thuốc đục ra xin hai ống thốt
nốt dồn chặt vào nối hai ống lại cột chặt như bọc phá sào, khoan lỗ tra
kíp số 8 vào, đem ra đầm đánh cá. Mình bơi ra gần giữa đầm , gài trái nổ xuống
đáy hồ sau đó lên chỗ nước cạn dật dây, dây bị đứt, không nổ. Đinh bỏ
nhưng lại sợ dân không biết vào đầm lưới cá rũi vướn nổ thì nguy. Nên
mình phải đi vòng phía trên sóng lặn từ từ để tiếp cận. May là mình nhớ cũng
tốt, mò vào đúng nơi gài trái, thế là bóp luôn chốt giật, cắn đứt dây lôi lên
bờ làm lại. Sau khi thấy chắc ăn đem gài lại. Lúc nầy có mấy người dân bạn đi
theo, thấy bộ đội đánh cá, họ xin văng lưới bén để khi cá chết trôi xuống
vào lưới của họ. Mình cho họ giăng cách trái nổ chừng sáu bảy mét. Khi xong lên
bờ, mình giật một phát, nổ ầm, cột nước to như cái nhà. Anh em mình ào vào vớt
cá. Tội cho mấy ông nông dân bạn, vì giăng lưới quá gần, nên khi giở lưới lên
thì chỉ còn sợi dây cước phía trên lưới mà thôi, còn lưới thì không biết bay
mất đi đâu. Tay vừa giở lưới miệng vừa mếu <<O- hơi, O – hơi >>.
Lúc đó lưới bén phải đổi bằng vàng.
Còn địch thì quân ta cứ dí cho chúng chạy, bọn
địch nầy nó chỉ quen đóng ở nhà dân, chứ đóng trong rừng chúng cũng không quen
và không chịu nổi, phía bên kia là biên giới Việt Nam, tha hồ cho nó chạy. Quân
ta cứ thủng thẳng đuổi. Đến lúc sát biên giới ta rồi (nay mình cũng không nhớ
là vùng nào), nơi đó có dảy rừng tràm cao khỏang hơn hai mét, mọc xen lẫn
với bụi tre. C9 được lệnh chặn hướng Nam, còn các C còn lại chặn các hướng
khác. Một C luồn vào phía Việt Nam (hướng trên gió), đốt rừng tràm. Vì là lọai
cây có dầu, gặp mùa khô, nên cháy cuồn cuộn. Sau đó bắn vài trái cối 61 hù dọa,
vậy mà chúng kéo ra hàng sáu bảy chục tên. Các tên còn lại trốn
thóat, bọn nầy rã đám. B mình được lệnh phục kích xung quanh nhà tên
Chanh Sau mấy ngày liền, nhưng hắn đã trốn mất không dám về nhà. Sau đó
rút ra gần quốc lộ tuần sau xe đến và hành quân về Kam pong
thom. E 747 không có thương vong, nhưng khi hành quân về tới chổ quanh thì một
xe chở D5 bị lật , cũng mất mấy em.
Về đến bến phà Kam pong Chàm, đợt nầy chú Tư
Đáp Trung Đòan Trưởng không cho bộ đội xuống xe nữa. Chắc có lẽ do chú Tư
Đáp đã hết không còn chiếc nhẫn nào. (O - rờ - liệng).
Hai Ruộng xin chào các bạn !. Hôm nay mình nghỉ
giải lao một bửa tạm ngưng kễ chuyện <<kỹ niệm 30 năm ....>> để bửa
khác kể tiếp . Bửa nay mình kể chuyện tếu có thật cho anh em nghe.
Anh Nam (khẩu đội trưởng cối 61, anh em gọi là
Nam Địa Bàn), tay nầy có nhiều chuyện rất đáo để. Ngoài tài bắn nhanh cối ứng
dụng, rồi tài uồng nước thốt nốt một tháng không ăn cơm. Còn nhiều chuyện cũng
rất nổi tiếng. Chuyện ở dơ: Nam Địa Bàn nổi tiếng ở dơ, võng, quần
áo không bao giờ giặt, người thì mồ hôi dầu cho nên võng của NĐB thành màu đen
mưa xuống không thấm nước. Nhờ vậy mà nữa đêm rũi có trời mưa, anh em phải tháo
võng chạy vào tránh mưa (thỉnh thoảng trời mưa vào cuối hè, vì hành quân liên
tục nên anh em lười biếng căng tăng, chỉ mắc võng thôi). Còn anh N.Đ.B nhà ta
cứ say sưa ngũ vì nước mưa không thắm được vào võng do lớp mồ hôi dầu bảo vệ,
giống như con heo rừng lăng chai. Áo quần không bao giờ giặt. Có lần
mình thấy quần áo của N.Đ.B mắc ở đầu võng còn anh ta thì mặc quần đùi đi chơi
đâu đó, mình mới lấy quần áo của N.Đ B vứt vào đống phân bò ( đống phân mà dân
họ gom lại để làm phân bón), để khi anh ta về nhìn thấy ớn mà đem quần áo đi
giặt. Nhưng không ngờ, Khi đi chơi về, tìm không thấy quần áo, ngó quanh, ngó
quất thấy nó ở trên đống phân bò. Anh ta cằn nhằn << thằng nào chơi kỳ
quá >>. Tưởng anh ta giặt, không dè N.Đ.B cầm lên giũ phạch phạch vài cái
rồi mặc vào luôn. Anh em lắc đầu chào thua một keo nữa.
Có lần chú Tư Đáp xuống thăm D4 lúc còn đóng ở
KraVa, thấy N.Đ.B ở dơ quá, chú Tư bắt ra giếng đọc lệnh nghiêm sau đó ra lệnh
cho hai chú liên lạc của chú Tư, múc nước giếng tắm và kỳ cọ cho N.Đ.B. Vừa
được tắm vừa được nghe giảng bài. Chuyện này cã C ai cũng biết. Tuy ở dơ như
vậy mà nấu ăn thì rất ngon, đặc biệt là món chim cu đất rô ty, HR chuyên đi bắn
cu đất về cho N.Đ.B rô ty ăn không ai chê vào đâu được. Kễ cã món dồi chó rồi
chiên lại cho vàng, anh Xuân C Trưởng mê món nầy của N.Đ.B lắm.
Có lần khi còn đóng quân ở phum Kompong Sđách
kế bên sông Chi Nít. Mình với N.Đ.B thu được trái B40 do địch bắn vào ta bị
lép. Mình tháo bỏ đuôi và ngòi nổ, sau đó dùng lê AK khoang một lổ bên hông ,
rồi tra kíp số 8 vào đề đánh cá, vì ngòi cháy chậm bị dập nên phải cắt bỏ phần
dập, phần còn sử dụng được chỉ còn độ chưa tới hai lóng tay. Mình ngồi mũi
xuồng, N.Đ.B bơi sau lái xuôi theo chiều nước chảy, đến đoạn nước sâu, bảo
N.Đ.B ngưng chèo thả trôi (sợ động nước cá chạy). Sau khi mình rít một hơi để
cho đầu điếu thuốc đỏ rực, rồi mình mới châm vào ngòi cháy chậm, khi nhìn thấy
dây cháy chậm xịt lửa, mình mới buôn trái B40 xuống mũi xuồng. Thay vì chèo tới
luôn, thì N.Đ.B lại bơi lùi, xuồng còn đang trớn, lại bơi ngược chiều nước chảy
nên chiếc xuồng gần như dứng tại chổ quay vòng, mình nhìn thấy bọt nước do ngòi
cháy chậm cháy trồi lên, đếm được khoảng sáu bọt. ẦM, nổ ngay giữa xuồng, cã
xuồng và hai thằng ngu bay khỏi mặt nước chừng một mét, may là ở nước sâu không
có miểng đạn, cã hai an toàn, nhưng chiếc xuồng độc mộc bị vở làm đôi, hai
chúng tôi bèn kéo xác chiếc xuồng vào cột ở gốc cây gần đó để trả lại cho dân
sau đó nhanh chóng vớt hai con cá to, lặn mò lại khẩu ak và trốn mất, sợ dân
bắt thường chiếc xuồng. Vài hôm sau cũng nghe dân phàn nàn , nhưng dân cũng
châm chước cho bộ đội vì còn biết cột chiếc xuồng bể vào gốc cây, nếu không thì
trôi đi mất. Trên đường về tôi cằn nhằn tại sau mầy không bơi tới luôn mà bơi
lùi chi vậy, anh ta trả lời, tại vì tao thấy mầy bỏ trái xuống ngay mũi xuồng,
nếu bơi tới thì trái sẽ nổ gần tao hơn, nên tao bơi lùi để cho nó nổ ngay giữa
xuồng cho đều hai đứa.
Như vậy là ba lần, mình được ngắm nhìn thành
phố Kampong Chàm thơ mộng. Lần đầu ngày 17 tháng 3 năm 1979, dù nơi đây còn mịt
mù khói súng, xác chết còn rải rác đó đây, thần chết vẫn còn rìn rập đâu
đó. Nhưng cũng không dấu được vẽ đẹp của thành phố đáng yêu nầy. Lần thứ hai,
khi thành phố đã hồi sinh, đơn vị mình hành quân về sát biên giới nước ta để
dẹp bọn phản bội SêriKa. Bây giờ lại hành quân ra phía trước. Dù ngược hay xuôi
thành phố nầy vẫn đẹp cái đẹp làm đắm say tâm hồn người lính trẻ Đã bao nhiêu
người lính trẻ Việt Nam qua đây dù không phải là nhà thơ, cũng cố làm sao gọt
dũa câu văn của mình để nói lên nét đẹp của thành phố, nhưng dù cố gắn đến đâu
cũng cảm thấy vụng về trước vẽ đẹp thiên nhiên ban tặng. Thôi thì đành mượn bài
thơ của bà Huyện Thanh Quan vây:
<< Trời chiều bẻn lẻn , bóng hòang hôn .
Lách cách xa đưa tiếng bước dồn .
Gác mái ngư ông về viễn phố .
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
Ngàn mai gió cuốn chim bay mõi (rừng mai gió
cuốn chim bay mõi)
Dặm liễu sương sa , tiếng trống dồn .
Kẽ chốn chương đài người lữ thứ .
Lấy ai mà kễ nổi hàn ôn >>
Nổi hàn ôn của những người chiến sỹ F 317, bao
giờ mới tỏ …Nhìn dòng sông Mê Kông, bắt nguồn từ phương bắc xa xôi. Dòng nước
có cuộn trào hung dữ đến đâu, nhưng khi qua đến đây, từ Miến Điện, Thái, Lào,
Kam pu chia và Việt Nam gặp phải dân cư đôi bờ, hiền hòa, chất phác. Dòng sông
phải phẳng lặng cúi chào, chảy êm đềm, trước khi về với mẹ hiền là bỉên cả mênh
mông. Dòng sông nầy mãi mãi sẽ là biểu tượng cho tình đòan kết của nhân dân ba
nước Đông Dương. Đòan quân xa cứ tiếp tục tung bụi mù phủ trùm lên cã đòan
quân hướng về hậu cứ Ba Rài. Đến ngã ba rẻ vào Kra Va, chúng tôi còn nhớ nơi
đây một C Trưởng của đại đội trinh sát E, phải hy sinh khi làm nhiệm vụ khảo
sát tiền trạm cho đơn vị. Nay vùng nầy đã trở thành hậu cứ của E747.
Nghĩ giải lao chưa tới một tháng. Anh Mơ
(Dphó) cùng, trinh sát E747 và B trinh sát D4 và luôn cã Hai Ruộng, lên
Trung Đòan nhận nhiệm vụ mới. Lên Siêm Riệp làm nhiệm vụ tiền trạm khảo sát vị
trí đóng quân của Trung Đòan. Thế là chúng tôi lại ruột tượng gạo và ba lô lên
đường. Chúng tôi hành quân bằng xe GMC và một chiếc xe jeep lùn của E .
Chúng tôi hành quân từ tờ mờ sáng, rồi qua thị
xã Cam Pong Thom, qua dòng sông SAIN, qua ngôi chùa trước kia là quân y viện
của F317 mượn tạm nơi nầy và cũng là nơi đóng quân tạm thời của Sư Bộ, khi mới
đầu chiến dịch. Chính nơi đây cũng đã từng bị một bộ phận của F515 của
địch tập kích để cướp thuốc men. Đồng chí Sư Trưởng Năm Mân, phải
trực tiếp cầm súng đánh lại chúng. Rồi lần lần qua ngã ba đường 12, nơi gần cứ
của Sư Bộ 317. Rồi xe lần lần đến phum Prey Pros nơi có chiếc cầu sắt dài nhất
KampongThom. Nơi đây trước kia là nơi đóng quân của D4. Bao nhiêu kỹ niệm lại
hiện ra. Sau khi đánh các trận lớn ngày 15/4 /79 và 26/5 /79. D4 về nơi đây
đóng quân. Xe tiếp tục đi đến ngã ba gần huyện lỵ Xtung. Tới ngã ba rẽ vào khu
vực khum Kraya. Chúng tôi nhớ lại các trận đánh ác liệt ngày nào, từ trận
đánh nở hoa trong lòng địch do D4 đánh vào giữa nơi đóng quân của F515 của Pôn
Pốt ngày 15/5 mà HR đã kễ ở trang số 1 (lúc đó mình quen gọi là phum Ca dia).
cho đến lúc đánh vào quân khu Miền Đông của địch ngày 26/5 /79. Hai trận đánh
đã làm nên lịch sữ của trung Đòan 747 và kễ từ đó F515 mỗi lần gặp E747 là chạy
dài. Đặc biệt là trong vùng nầy có cánh rừng mai tuyệt đẹp nơi mà người
du kích bạn đầu tiên hy sinh khi giúp cho D4, đó là Bòn Hon, mà ở tập 1 mình
nhớ lầm là Bòn Dân. Rồi trước khi vào trận ngày 26 tháng 5 đợt hành quân
mà có cã mấy cô nữ văn thư của E747 đi theo E tiền phương. Trước khi vào trận
đánh chúng tôi hành quân qua một khu rừng sim rất đẹp .<< Trời vừa hừng
sáng chúng tôi đã hành quân, đòan quân nhấp nhô băng qua rừng sim tím cánh sim
còn động lại sương đêm, phản chiếu lấp lánh ánh mặt trời vừa mới mọc . Đòan
quân rẽ rừng về phía đông, đòan người bước đi như gợn sóng >> . Ôi hình
ảnh đó đẹp làm sao cho đến bây giờ trong tâm trí của những người lính chúng tôi
vẫn không phai mờ được.
Hết Xtung bắt đầu vào địa phận Siêm Riệp.
Chúng tôi bắt đầu quan sát kỹ địa hình. Vùng nầy rừng không nhiều bằng Kampong
Thom. hầu hết là rừng xen lẫn với phum xóm. Dân tình có vẽ thân địch hơn thân
ta. Ở đây bọn địch đóng quân gần như ở trong phum hoặc cạnh phum của dân
luôn chứ không ở trong rừng như Kam pong Thom.
Đến tối chúng tôi đến vị trí, đó là phum dọc
theo đường số 6 còn gần 10 cây số thì tới huyện lỵ Puốc. D4 chúng tôi dừng tại
đó, ngày hôm sau đi về các phum ở phía bắc đường 6, sau đó vòng về phía
Nam cho tới cuối hồ Ba Rai. Trinh sát E cũng xong nhiệm vụ. Chùng tôi
cùng nhau hành quân về đơn vị ở Kam pong Thom đợi ngày chuyển quân. Lúc nầy đã
vào mùa mưa, chúng tôi ngồi trên xe quân sự lãnh trọn đám mưa cã ngày. Hai
Ruộng xin cảm ơn các bạn theo dõi trang viết nầy. Còn tiếp….
-----------------------------
Chiến dịch núi Hồng – Năm 1981
(14/5/1981)
Tài liệu CIA
Kể từ
giữa tháng 2/1981, đã có các dấu hiệu tăng cường các hoạt động quân sự trong
khu vực rừng núi (mà Quân đội nhân dân Việt Nam gọi là núi Hồng), cách thành
phố Siem Riep về phía Bắc – Đông Bắc khoảng 40km. Các lực lượng Campuchia dân
chủ (DK) với số lượng và đơn vị không xác định tiếp tục chiếm giữ khu vực
rừng núi này.
Vào
giữa tháng 2, các bộ phận của Trung đoàn 747 QDND VN thuộc Sư đoàn 317 đóng tại
khu vực Angko Vat bắt đầu cùng với các lực lượng quân sự không được xác định của
Cộng hòa Nhân dân Campuchia từ thành phố Siem Riep tiến hành chiến dịch tấn
công vào khu vực “Núi Hồng”.
Khoảng
ngày 20/2, QDND VN cùng với Quân đội CHND Campuchia bắt đầu mở chiến dịch tấn
công, gồm khoảng 50% lực lượng từ Trung đoàn bộ binh 775 và 50% từ Trung đoàn
pháo binh 774, Sư đoàn 317. Binh lính của Tiểu đoàn pháo - cao xạ 24, 4 khẩu
pháo 105mm của trung đoàn pháo 774 tham gia trận đánh từ làng Chhuk, gần khu
vực mục tiêu.
Từ giữa
tháng 2/1981 đến giữa tháng 3/1981 có khoảng 700 lính quân đội CHND Campuchia
từ các đơn vị không xác định được đi dọc theo đường 5 đến Sisophon, theo đường
6 đến Siem Riep để tham gia vào chiến dịch.
Cuối
tháng 2, trên 1 đại đội của Tiểu đoàn công binh 25 – Sư đoàn 317 đã được gửi
dén để sửa chữa đường sá và cầu cống, rà phá mìn trên tuyến đường dẫn tới khu
vực “Núi Hồng”. Một số lính của Tiểu đoàn công binh 25 quay trở lại làng SaLa
Krao từ khu vực chiến đấu, đã báo cáo, các đơn vị QDND VN và QDND Campuchia đã
bị thương vong vừa phải trong chiến dịch. Lính công binh báo cáo hàng
ngày về dấu hiệu các chuyến xe chở lính hy sinh về chôn cất tại nghĩa trang
Siem Riep. Cùng thời điểm này, một số lượng không xác định lính bị thương được
chuyển đến tại bệnh viện 7 của Mặt trận 479 trong thành phố Siem Riep để cứu
chữa.
Giữa tháng
3, chỉ huy của Tiểu đoàn công binh 25 ra lệnh cho đơn vị sẽ bảo đảm cho các đơn
vị QDND Campuchia và bộ phận của Sư đòan 317 chiến đấu chống lại quân Campuchia
dân chủ tại khu vực núi Hồng. Lực lượng Việt Nam hỗ trợ QDND Campuchia bằng
pháo binh và vũ khí nặng. Trong quá trình chiến dịch, lực lượng còn lại của
Trung đoàn 747 tại Angko Vat đã bị lực lượng Campuchia dân chủ (DK) quấy rối,
tập kích. Lực lượng DK sử dụng cối 60mm cứ 2 hoặc 3 ngày lại bắn và rút, tấn
công bằng các đơn vị nhỏ trang bị súng phóng lựu (RPG ). Không rõ số lượng
thương vong của QDND VN.
Tháng
3, chỉ huy Tiểu đoàn cao xạ 24 và Tiểu đoàn công binh 25 ra lệnh cho đơn vị của
mình chuẩn bị cho kế hoạch bầu cử trong tháng 4 của Cộng hòa ND Campuchia. Tất
cả các đơn vị của Sư đòan 317 vẫn còn đóng tại làng Chhuk sẽ được điều động để
bảo vệ cho các quan chức CHND Campuchia trong quá trùnh bầu cử. Theo kế hoạch,
mỗi 1 trung đội của Sư đòan 317 sẽ bảo vệ cho 1 làng ở khu vực phía Đông
Sisophon, dọc hai bên đường 6. Các đơn vị khác của Trung đoàn 160 Long An sẽ
bảo vệ Bắc, Đông Bắc, và Đông Nam của thị trấn huyện Sisophon trong bầu cử.
Trong
tháng 2 và 3, Trung đoàn 775 và 774 đã gửi 1 số trung đội được huấn luyện các
hoạt động tuyên truyền cho dân làng Campuchia hợp tác trong quá trình bầu cử.
--------------------------------------
Hết-------------------------------------
Khỏang cuối tháng 6 năm 1980, vào mùa mưa. E747
bắt đầu bàn giao địa bàn Ba Rài cho đơn vị bộ đội Kam pu Chia, sau đó chia tay
nhân dân hành quân lên Siêm Riệp. Bọn lính trẻ chúng mình thì tình cảm đã gữi
lại hết ở quê nhà, ở thành phố thân yêu. Nên chia tay cũng không có gì
sâu đậm. Chỉ còn tình cảm của các má Kam pu Chia ở những nơi mà nơi mình đóng
quân tương đối lâu như bà má ở phum Tà Pu, Hai vợ chồng bác nông dân ở phum
Liêu, tuy nghèo khổ túng thiếu nhưng lúc nào cũng chia sẽ với bộ đội từ củ
khoai cho đến trái bắp khô. Và còn chia sẽ cã máu của đứa con trai 6 tuổi của
mình, khi bị địch bắn trái AT Tăng trúng nóc nhà, đứa con trai bị mảnh đạn
trúng tim và đã chết, chỉ vì bộ đội ở xung quanh nhà. Đòan xe bắt đầu lăn bánh,
rời bỏ con đường đất đỏ lầy lội tiến về phía đường trải nhựa rồi đi về hướng
Tây. Vậy là chúng tôi xa tổ quốc thêm 300km nữa. Buổi chiều chúng tôi đến Siêm
Riệp. Đỉnh cao của tháp Ăng Kor đã bắt đầu hiện lên trên nền rừng phía Tây Bắc,
dù còn cách chúng tôi đến 60 cây số nữa. D4 lại hành quân về phía đền Ăng Kor.
Khác với nơi chúng tôi đi tiền trạm. D4 rải quân từ cổng phía tây đền Ăng Kor
Watt đến gần sân bay Siêm Riệp. C9 đóng quân tại cuối phum Cò Khuyên, cạnh phum
là đầm nước, phía Bắc là hồ Ba ray cách nơi đóng quân chừng 500mét. Các
đơn vị tạm thời đào công sự đóng quân, nhận thêm quân, huấn luyện lại trong lúc
trinh sát thăm dò địch. Chúng tôi đóng quân ở đây cho đến Tết, tình hình tương đối
yên ổn. Chỉ có một trận là vào khỏang tháng 9 khi nghe B40 nổ dồn dập ở cửa bắc
đền Ăng Kor Thom, trinh sát D cùng với một B của mình vận động nhanh đến chi
viện, đến nơi ngã ba vào phum Fluông thì thấy chiếc xe kéo gổ của
Mặt Trận bị chúng phục kích bắn cháy, chúng tôi phải chạy bộ 3 cây số đến nơi
thì địch đã bỏ đi.
Đến tết năm 81, C9 chúng tôi bắt thăm may
mắn được ăn tết ngay ngày mùng một âm lịch, C9 coi như trúng số độc đắc
vì có bao giờ bộ đội được ăn tết, lễ đúng ngày đâu. C tổ chức gói bánh chưng, giết
gà, mổ heo để năm nay ăn tết lớn. Đúng giao thừa cã đại đội tập hợp hàng ngũ
chỉnh tề đễ nghe Bác Tôn Đức Thắng chủ tịch nước chúc tết qua đài rađio
của Đại đội. Vừa mới nghe Bác TÔN nói : << kính chào đồng bào cã nước,
các chiến sỹ đang làm nhiệm vụ bảo vệ đất nước, ở biên cương, hải đảo và
các chiến sỹ đang làm nhiệm vụ quốc tế … >> thì hai tiếng nổ
lớn ầm, ầm hai lằn lửa của H12 bay vút qua đầu chúng tôi từ phía bờ
hồ barai bay về phía Siêm Riệp. Phản ứng của người lính chúng tôi tự động lập
tức chụp lấy vũ khí chạy về phía công sự sẳn sàng chiến đấu, nửa giờ sau điện
từ E gọi lại cho các C sáng mai cử quân đi tìm xem pháo của ai bắn vào sân bóng
đá Siêm Riệp. Chúng tôi đã biết địa điểm nên sáng hôm sau ra xem cho có lệ, vì
chúng tôi biết chỉ có vài thằng thôi chúng đắp đất sau đó chặt cành cây làm giá
để phóng hai trái H12. (Khách không mời chúng đến chúc tết ta). Không có gì
thay đổi D4 ra lệnh C9 vẫn tiếp tục ăn tết cho đến 3 giờ chiều. Ăn tết
vừa xong 3 giờ chiều, anh em còn say bí tỷ, đ/c Xuân Ctrưởng lệnh
cho tôi dẫn một B của mình ra chốt ngay cửa Nam đền Ăng Kor Thom, sát chân núi
Ba Khên ba ngày, thay cho một trung đội của C10 về ăn Tết. Say thì say nhưng
lệnh phải thi hành, tôi dẩn một B say xỉn đi ra chốt, đến nơi vừa mắc vỏng xong
là anh nào cũng lăn ra ngủ chỉ còn tôi là còn tỉnh táo, khỏang 5 giờ chiều tôi
nhìn thấy một tay đi xe đạp vừa đạp xe chầm chậm vừa ngó vào đội hình đóng quân
của tôi, tên nầy đi hai lần, vì nó không có súng nên ta không làm gì được, có
lẽ nó thấy anh em ta say cã. Trời vừa tối, tôi thấy anh em say xỉn như
thế nầy không thể nào chiến đấu được, địch đánh vào chỉ có nước chết, với kinh
nghiệm của trinh sát, tôi nhận thấy có điều không ổn, tôi lôi từng đứa dậy và
ra lệnh cho tháo võng, tòan bộ nồi niêu gạo thóc dấu vào trong bụi rậm, tôi dẫn
cã B leo lên núi Ba Khên ngủ tạm, bỏ vị trí chốt đêm nay. Đến 7 giờ tối là
chúng tập kích, chúng nã B40 vào chỗ chúng tôi ngủ liền 4,5 trái. Một trái bay
vào trúng bộ đội K đang đóng ở phía sau chúng tôi, bị thương một hai anh, ngay
ở góc thành tây Ăng kor watt. Nghe nổ chúng tôi giật mình tỉnh dậy, ở trên ngọn
núi Ba Khên (tất cả đều lăn ra ngủ không còn người nào gác nổi). Chúng tôi đặt
cây đại liên M60 trong bàn chân phật trên đỉnh núi, vận động xuống đánh cũng
không được, còn bắn B40 xuống thì uổng đạn, vì cây cối mịt mù có thấy mục tiêu
đâu mà bắn, nên tôi không cho anh em bắn trả, còn vận động xuống, thì bậc thang
ngắn khó bước, có khỏang chừng trăm bậc chỉ té thôi cũng đủ chết. Vì vậy cho
nên trung đội nằm yên trên đó luôn. Nghe nổ súng D gọi điện đến chúng tôi,
chúng tôi cũng báo cáo sự thật là anh em chúng tôi bỏ chốt. Sáng hôm sau về
điểm chốt lôi bao nồi ra còn nguyên ven, còn chỗ chúng tôi nằm thì nát
bấy, sáng nay tỉnh táo chúng tôi tiếp tục chốt lại ba ngày. Sau đó về tiểu đòan
chịu tội, nhưng khi về đến Tiểu đòan thì Anh Mơ thấy anh em về đủ Tiểu Đòan quá
mừng, tưởng đâu là cã B tiêu hết, vì Tiểu Đòan cũng biết là cã B đều say xỉn.
Dù bỏ vị trí chốt nhưng bù lại tôi lanh trí cho rút kịp thời bảo tòan được sinh
mạng cho anh em, vì vậy không bị kỹ luật.
Sau tết D4 hành quân lên đóng ở phum Cô Bên, C9
đóng ở đập nước, ở cửa tây Ăng kor Thom. Sau khi ổn định chổ đóng quân, chúng
tôi bắt đầu lùng sục về phía Bắc. Chúng tôi đi 02 B và tăng cường một A. Đi
lùng sục vùng phum Ăng Kor Krao, phum nầy nằm ở phía tây cách phum Fluông
khỏang 2-3 cây số (lúc nầy Ban chỉ huy Trung đòan còn đóng ở gần cầu đá, dọc
theo con suối ở góc đông bắc đền Ă KOR WATT. Từ Cô Bên chúng tôi đi cặp
theo cánh đồng trống tiếp cận đến đầu phía đông của phum ĂNG KORKRAO. Chia ra
hai cánh, một cánh do B3 đi bọc phía Bắc phum bên kia con suối. Còn một
cánh B2 và một A của B1 đi dọc phía Nam con suối, dọc theo phum, hai cánh đều
hướng về phía cuối phum ở phía Tây, phum nầy hai bên suối đều có nhà, nhưng
phía bờ Bắc nhà ít hơn. Hai cánh đến cuối phum chưa phát hiện địch. Khỏi phum
về phía Tây còn có đập nước dài tiếp theo là rừng chồi. Khi đến hai nhà cuối
phum ở hai bên suối thì hai cánh quân đều dừng lại ăn cơm vắt. Bọn địch
nằm yên bên kia bờ đập nước vì khỏang cách hơn trăm mét nên chúng chưa
bắn chúng tôi. Ăn cơm vừa xong anh Thơi Btrưởng B1 đi ra bãi đất trống về phía
đập nước, đi đến giữa bải bị chúng bắn một lọat, đạn cày dưới đất, anh Thơi
nhảy lưng tưng như khỉ, chúng bắn thêm một trái AT tăng cũng không trúng. Tôi
nhanh chóng chụp khẩu M60 của chiến sỹ để ở gần, vận động theo bờ ruộng đi về
phía đập nước, thấy chúng đang bỏ chạy , quất một lọat vì cự ly xa hơn trăm mét
nên cũng không trúng tên nào. Sau đó chúng tôi rút về phum, coi như cho anh em
tân binh tập đánh trận.
Lúc đóng quân ở đây C9 chúng tôi có lân nhận
nhiệm vụ từ Trung Đoàn hành quân bằng xe vào ban đêm di chuyển cấp tốc lên phum
Kha Na Săn Day, cùng với một đại đội bạn cắt đường vào yểm trợ cho phum TBeng,
ở chân núi Hồng, chúng tôi ở đây gần một tuần vì địch chuẩn bị đánh vào bộ đội
K đang đóng ở đây khi chúng thấy có bộ đội VN chúng không dám đánh. Chúng tôi
rút về phum Cô Bên.
Sau đó ít lâu chúng tôi lên đóng quân ở Phum PA Sát Cha, phum nầy ở phía bên
kia con suối cánh Ăng KOR Krao 3km về phía Tây Bắc.
Sa khi phát hiện nhóm địch ở phum ĂNG KOR KRAO.
C9 được điều lấn vào đến phum Pa Sát Cha, nơi đây có ngọn tháp cổ. Khi
đầu tiên mới đến phum, xin đóng quân ở nhà dân, không nhà nào đồng ý cã, khi
thấy bộ đội mình quyết tâm ở lại, dân họ đào công sự, anh em ta biết địch ở gần
đâu đây. Nhưng việc đầu tiên và mấu chốt là làm tốt công tác dân vận. Mình cùng
vài anh em nữa giúp chủ nhà đào công sự trú ẩn cho chủ nhà trước, sau đó mới
đào công sự cá nhân cho mình. B của HR bố trí đầu phía Đông Nam của phum. Ngày
hôm sau vận động cã anh em B3 làm vệ sinh giếng nước cho cã khu nhà nơi
hai B cũng đóng, quét dọn sân sạch sẽ, anh em dậy sớm xách nước cho cã gia đình
cùng sử dụng chung lu nước với bộ đội ta. Chỉ vài ngày sau thái độ chủ nhà thay
đổi rỏ rệt, có rau cỏ bầu bí gì cũng chia cho chúng tôi. Nhờ công tác dân vận
tốt như vậy mà sau nầy chúng tôi rất có lợi trong công tác nắm tình hình địch.
Nhưng ở chưa được bao lâu thì C9, cùng với tất cã các C rút về Cô Bênh để
nghe phổ biến lệnh hành quân cho chiến dịch đánh núi Hồng. Từ Cô Bên D4 hành
quân bộ theo ngã cửa tây đền Ăng kor THOM, qua cửa bắc vòng lên phum Kha Na
Săng Day, qua phum Tà Beng. Tập kết tại đó chờ trinh sát đi nắm địa hình, tuần
sau D4 chúng tôi hành quân lên núi, phối hợp cánh chúng tôi còn có thêm một đại
đội của bạn có hai cô nữ y tá của bạn đi cùng. Bố SƯỜN chọn nơi có độ dốc
khó leo nhất để lên núi. Vì lúc đó địch ở trên núi gần ngàn tên, trên ngọn núi
rộng lớn chì có một đường lên núi, chúng bố trí sẳn các công sự để chờ quân ta
lên, và chúng sử dụng lợi thế đánh ta từ trên cao đánh xuống. Vì vậy bố Sừờn
chọn điểm khó leo là một bất ngờ đối với chúng, nhưng chúng tôi phải vượt
qua vất vã đễ lên được ngọn núi, chúng tôi hành quân qua khỏi vị trí đặt
pháo 105 của F, sau đó bí mật vào trong rừng già dưới chân núi từ sáng sớm nên
chúng không phát hiện được chúng tôi lên núi ngay chỗ nào, khỏang 7 giờ sáng
chúng tôi đến địa điểm chân núi, và bắt đầu leo núi, dốc gần như thẳng đứng, có
những phiến đá to, chúng tôi phải cho người trèo giỏi leo lên trước, sau đó cột
dây kéo súng hỏa lực lên, khổ nhất là khẩu cối 82 và 12ly8, DK Z 82, đợt nầy có
cã trinh sát pháo 105 đi theo đội hình chúng tôi. Sườn núi không hề có một khe
nước, chúng tôi phải tiết kiệm nước cho cã ngày hôm sau. Một ngày vật lộn vất
vã chúng tôi vừa lên được ngọn núi thì trời sụp tối. Đóng quân tại đó
luôn , hai cô y tá bạn leo cũng giỏi không thua gì chúng tôi. D4 chúng tôi đã
có mặt ở trên ngọn núi mà địch chưa hề biết. Sáng hôm sau, chúng tôi đi về hướng
suối Siêm riệp (vì con suối nầy chảy từ ngọn núi Hồng về Siêm Riêp, gặp suối,
D4 chia làm hai cánh: một cánh lùng theo suối, C9 tách ra một cánh đi về phía
phum gần suối (dân họ gọi là Phum Thmây), nơi phum nầy có con đường tắt đi
xuống núi ra ngay phum Tà kun, rồi ra thẳng phum Tà Beng. Trên đường đi thì
cánh Tiểu Đòan đụng địch trước. Cứ chúng gần thác nước, nơi có hang đá,
có phum gần đó, chúng lấy nơi đây làm nơi huấn luyện quân. Bị ta đánh bất ngờ
bọn chúng rút chạy, sau khi bị ta tiêu diệt một mớ. Bọn địch c1 nhiệm vụ phục
kích chờ đánh ta ở mép ngọn núi chổ C9, cũng rút chạy luôn. C9 vào phum Thmây
không có nổ súng phum nầy có dân ở. Sau khi đánh xong, Tiểu Đòan rút về phum
Thmây cùng với C9, bố trí đào công sự nghỉ đêm tại đó trên ngọn núi cao
như vậy mà vùng nầy vừa đào công sự sâu chừng vài ba tấc đất là nước trào lên,
sáng hôm sau truy đuổi địch về phía Đông Nam, đến trưa chúng tôi nghỉ giải lao
ở phum có cây sòai lớn, đang nghỉ thì thình lình có vài tên địch vơ tình lọt vô
phum , chúng phát hiện chúng tôi trước bắn một lọat nhưng không trúng ai và bỏ
chạy, tôi cử hai chiến sỹ đuổi theo thu được nón trung quốc vải mới toanh.
Chúng tôi tiếp tục truy đuổi đến phum có dân ở chúng tôi dừng lại đào công sự
ngũ đêm. Ở đây chúng tôi được pháo 105 của sư bắn một quả làm chuẩn để có gì
yêm trợ cho chúng tôi. Ngày hôm sau chúng tôi đi tiếp lên ngọn núi phía Nam,
nơi đây chúng tôi cón nhìn thấy những tảng đá được đẽo vuông vức, có những bức
tượng chạm trổ bị vứt lại, có lẽ do phế phẩm, nên không được đưa đi xây cất đền
Ăng kor (nơi nầy chính là nơi lấy đá xây đền Ăng kor cách Siêm Riệp 60 km đường
chim bay. Nơi đây anh em trinh sát bị cướp cò một quả M79, đầu đạn chỉa xuống
đất quay vòng vòng trước mặt bốn năm người, nhưng không nổ. Sau đó D4 bắt tay
với F302 lên núi từ phía bắc về. Lực lượng ta mạnh như thế cho nên bọn Pôn Pốt
chỉ có bỏ cứ mà chạy thôi. Tôi cũng xin quả quyết một điều là trên núi Hồng chỉ
có lực lượng Pôn Pốt, không hề có bóng dáng của một tên KHER TỰ DO nào cã.
Những tên địch chúng tôi tiêu diệt và phát hiên hòan tòan mặc quân phục
Pôn Pốt, đội nón ga bạc đin Trung Quốc, áo quần ga bạc đin Trung Quốc xanh như
rừng, bắn ak tòan vỏ đạn đồng mới ao, B40, B41 đều của Trung Quốc. Chỉ có
khác lạ là bọn chúng không đi dép râu mà tòan giầy bốt của Mỹ, còn chữ USA mới
toanh, có cã thịt hộp Mỹ. chúng tôi tiêu diệt lấy luôn cã giầy làm chiến
lợi phẩm. Sau đó chúng tôi rút về đóng quân ở phum ban đầu và tổ chức lùng sục
tiếp. Cho đến lúc nầy D4 chưa có ai thương vong. Giai đọan đóng quân ở lại núi
Hồng. Chính giai đọan nầy anh em chúng tôi bị thương vong nhiều do phải xuống
núi lấy gạo để ăn, chúng tôi ở trên núi một tháng, cứ mỗi tuần đi lấy gạo là
phải đổi bằng máu. Địch còn sót lại trên núi chỉ có vài nhóm nhỏ, nhưng rừng
mênh mông ta rất khó truy lùng. Tiểu đòan về đóng ở phum bên bờ suối lớn nơi cứ
của chúng, ban đêm lạnh anh em đốt lửa bị chúng phát hiển bắn B40 vào, anh Ytá
D4 bị hy sinh. Bố Sườn và anh Quyền CTV D phải thay phiên nhau thắp nhang canh
xác cho anh em. Chúng tôi tổ chức lùng sục khắp ngọn núi vì vậy anh em trúng
mìn cũng nhiều, có khi anh em hy sinh, cáng xuống núi lại hy sinh tiếp do vướng
mín. Vì đường xuống núi mà cáng anh em được chỉ có một con đường duy nhất đi ra
ngay phum Tà kun, phum nầy dân theo địch hơn theo ta. Chú Năm Mân Sư Trưởng mất
ngủ là như vậy. Bọn địch sau khi bị ta chiếm trên núi, thì chúng chạy xuống
núi. Có một tên giả dạng thầy tu, gọi là Tà Ngọ. Tên nầy ở ngay phum C9 đóng,
nhưng khi điện từ Sư xuống cho bắt lập tức tên nầy, thì hắn vừa mới đi xuống
núi qua chốt gác của B tôi. Vừa nhận được điện từ thông tin đưa xuống, chúng
tôi đuổi theo nhưng không tìm thấy. Ở trên núi tu khỏang một tháng, sau đó
chúng tôi rút về TàBeng, và sau đó về vị trí cũ, tức về khu vực Cô Bên, Cô
ThNốt. bên bờ bắc hồ Ba Rai. C9 lại về phum Pa Sát Cha. Thấy B chúng tôi về đầy
đủ chủ nhà rất mừng. Người dân ở đây cho chúng tôi biết khi chúng tôi đi đánh
núi Hồng có một nhóm địch đến đây đo đạc vị trí chúng tôi đóng quân để bắn cối
và tuyên truyền họ là quân của KHMER Tự Do. Nhưng nhân dân phát hiện ra họ tòan
là quân Pôn Pốt, cũng quân phục giống như bọn trên núi Hồng. Người dân họ không
gọi bọn nầy là KHER TD, mà họ gọi trại đi là Khmót (con ma). Nhân dân còn
khuyên chúng tôi dời chỗ đóng quân vì lo cho chúng tôi sợ bị bọn chúng bắn cối.
Chúng tôi vẫn đóng quân tại chổ cũ vì chúng tôi đã có cách phòng bị cho mình.
Chúng cũng chẵng bắn được quả cối nào như tài liệu báo cáo của CIA mà các bạn
đưa trang trước. Từ tình hình chiến trận cụ thể, từ nguồn tin trong dân, từ tài
liệu báo cáo của CIA. Ta có thể tổng hợp và suy ra điều như sau :
Tài liệu CIA :
Kể từ giữa tháng 2/1981, đã có các dấu hiệu
tăng cường các hoạt động quân sự trong khu vực rừng núi (mà Quân đội nhân dân
Việt Nam gọi là núi Hồng), cách thành phố Siem Riep về phía Bắc – Đông Bắc khoảng
40km. Các lực lượng Campuchia dân chủ (DK) với số lượng và đơn vị không xác
định tiếp tục chiếm giữ khu vực rừng núi này.
Vào giữa tháng 2, các bộ phận của Trung đoàn
747 QDND VN thuộc Sư đoàn 317 đóng tại khu vực Angko Vat bắt đầu cùng với các
lực lượng quân sự không được xác định của Cộng hòa Nhân dân Campuchia từ thành
phố Siem Riep tiến hành chiến dịch tấn công vào khu vực “Núi Hồng”.
Khoảng ngày 20/2, QDND VN cùng với Quân
đội CHND Campuchia bắt đầu mở chiến dịch tấn công, gồm khoảng 50% lực lượng từ
Trung đoàn bộ binh 775 và 50% từ Trung đoàn pháo binh 774, Sư đoàn 317. Binh
lính của Tiểu đoàn pháo - cao xạ 24, 4 khẩu pháo 105mm của trung đoàn pháo 774
tham gia trận đánh từ làng Chhuk, gần khu vực mục tiêu.
Từ giữa tháng 2/1981 đến giữa tháng 3/1981 có
khoảng 700 lính quân đội CHND Campuchia từ các đơn vị không xác định được đi
dọc theo đường 5 đến Sisophon, theo đường 6 đến Siem Riep để tham gia vào chiến
dịch.
Cuối tháng 2, trên 1 đại đội của Tiểu đoàn công
binh 25 – Sư đoàn 317 đã được gửi dén để sửa chữa đường sá và cầu cống, rà phá
mìn trên tuyến đường dẫn tới khu vực “Núi Hồng”. Một số lính của Tiểu đoàn công
binh 25 quay trở lại làng SaLa Krao từ khu vực chiến đấu, đã báo cáo, các đơn
vị QDND VN và QDND Campuchia đã bị thương vong vừa phải trong chiến dịch.
Lính công binh báo cáo hàng ngày về dấu hiệu các chuyến xe chở lính hy sinh về
chôn cất tại nghĩa trang Siem Riep. Cùng thời điểm này, một số lượng không xác
định lính bị thương được chuyển đến tại bệnh viện 7 của Mặt trận 479 trong thành
phố Siem Riep để cứu chữa.
Giữa tháng 3, chỉ huy của Tiểu đoàn công binh
25 ra lệnh cho đơn vị sẽ bảo đảm cho các đơn vị QDND Campuchia và bộ phận của
Sư đòan 317 chiến đấu chống lại quân Campuchia dân chủ tại khu vực núi Hồng.
Lực lượng Việt Nam hỗ trợ QDND Campuchia bằng pháo binh và vũ khí nặng. Trong
quá trình chiến dịch, lực lượng còn lại của.
Trung đoàn 747 tại Angko Vat đã bị lực lượng
Campuchia dân chủ (DK) quấy rối, tập kích. Lực lượng DK sử dụng cối 60mm cứ 2
hoặc 3 ngày lại bắn và rút, tấn công bằng các đơn vị nhỏ trang bị súng phóng
lựu (RPG ). Không rõ số lượng thương vong của QDND VN.
Như vậy: Chúng ta dể hiểu rằng . Do Lúc đó
chính quyền Mỹ rất là thù địch với Việt Nam chúng ta, cho nên trong lúc tàn
quân Pôn Pốt sắp sửa bị tiêu diệt. Thì nhà cầm quyền Mỹ va Trung Quốc lại
cùng nhau chi viện bằng tiền của, bằng súng đạn cho tàn quân Pôn Pốt, một nhà
cầm quyền mang tội diệt chủng và tàn ác bị chính nhân dân Kam pu Chia và thế
giới lên án không thể chối cải được. Muốn hợp thức hóa việc làm mờ ám nầy hồng
che mắt nhân dân thế giới cho việc trả thù bẩn thỉu ấy, nhà câm quyền Mỹ và CIA
dựng lên tổ chức gọi là KHMER Tự Do, nghe có vẽ hấp dẫn và hoa mỹ quá, nhưng
lực lượng lấy đâu ra, bọn chạy theo tự do quen ôm chân đế quốc, ăn sung mặc
sướng, chúng yêu bơ sửa đô la còn hơn cã tự do, có thằng nào dạy mà đâm đầu về
chỗ chết. Chỉ có một số ít thằng xem phim hành động của Mỹ rồi nổi máu
khùng, ôm súng nhảy vào định làm người hùng, nhưng chiến tranh đâu phải
trò đùa, người hùng chưa thấy đã phơi thây, không lý tưởng, không vì dân vì
nước thì làm sao chịu nổi khổ cực. CIA tung đô la đăng tuyển mãi mà đựơc mấy
thằng đâu. Vì vậy nên phải đánh bóng lại đám tàn quân Pôn Pốt, bọn nầy nổi
tiếng lỳ lợm và quen chịu khổ, vì chúng cũng đã từng kháng chiến cùng với Việt
Nam chống Mỹ, đã từng được bộ đội VN rèn luyện chỉ dạy, tính ra đám nầy ngon ăn
hơn đám quen bơ sữa kia nhiều. Vì vậy mà CIA chi viện cho một mớ đô la
sau đó gắn bảng hiệu là KHER TD để tuyên truyền lừa gạt thiên hạ. Chỉ buồn cười
ở chỗ màn kịch quá vụng về, nên chính nhân dân Kam pu Chia còn phát hiện được
cho nên thay gì gọi là KHMER tự do một cách hoa mỹ, họ gọi trại đi là kha mót
(có nghĩa là thằng ma). Chính vì bọn nầy cũng chỉ là bình mới rượu củ mà
thôi cho nên hình dạng quân trang của chúng dị hợm. Súng đạn, mũ nón
áo quần Trung Quốc, người thì Pôn Pốt, chỉ có đôi giầy là của USA và một ít đồ
hộp ăn vài bửa. Một điều mà người hiểu biết về thời cuộc không thể nào tin được
khu vực núi Hồng là lãnh địa củ a KHER Tự do, ai mà chẳng biết, khi Pôn Pốt nắm
quyền, bọn lính tay sai cho Mỹ chạy còn không kịp, lớp thì bị đập đầu, tên nào
nhanh chân lắm thì chạy trối chết sang Thái, làm gì có gan mà ở lại núi Hồng
làm lãnh địa, nghe buồn cười quá. Nhờ mẹo nầy mà bây giờ khi tòa án Quốc
Tế xử tội diệt chủng, Mỹ mới thóat được. Người Mỹ có thể trả lời rằng họ Viện
trợ cho KHMER Tự Do, chứ có viện trợ cho Pôn Pốt diệt chủng đâu. Người Mỹ nghĩ
như vậy chứ chưa chắc gì ai tin. Từ bài học ngày xưa mà ta rút ra bài học ngày
nay. Các nhà tự xưng là dân chủ ngày nay nghĩ gì từ bài học ngày xưa ?
Hồi bọn nầy đóng ở cửa tây đền Ăng ko chỗ đập
nước. Ở đó có hai ba tượng áp sa ra ai bỏ trong đám cỏ bọn nầy ban đêm làm biến
gác, dựng tượng lên bên công sự sau đó đội nón cối vào , thế là tha hồ
ngủ . Sáng ra lại xô xuống công sự dấu , để tối mai gác tiếp . Nhờ có thần áp
sa ra phò hộ mà địch nó không vào cắt cổ.
Nguyễn Văn Vàng hy sinh mình có mặt ở đó. Té ra
có khi hai anh em mình cũng đã từng chia cơm vắt với nhau rồi đó. Sau khi đi
đánh phum SKE Côn, nằm ở gần con suối cạn chảy ngang đầu phum Cà Tin , Phum Ske
Kôn là phum hoang ,phía nam cách phum Cà Tin khoảng 3km đường chim bay . Lúc
nầy là ông Kiệm tạm thời về thay bố Sườn chỉ huy D4 . D4 bắt được một tù binh
trói hai tay dẫn về phum Pẹc Sa NENG. D bộ đóng gần cây cầu gổ, có con đường
tắt về phía phum Pẹc Sa Neng Cha. Tên tù binh vụt chạy, anh trinh sát tên Nị
(ngày trước là lính của mình, bèn bắn theo một trái B40, không trúng địch, đạn
bay qua phía C Cối 82, C Cối tưởng bị địch tập kích bèn bắn lại về hướng
B40 vừa bắn ra, lúc đó B HR đóng sát bên đó chưa kịp nghỉ tay sẳn súng còn trên
tay HR huy động thêm vài anh em chạy theo rượt tên tù binh, thì nghe cối 82 nổ
sau lưng. Tên tù binh trốn mất, tìm một hồi không thấy, trở về thì mới biết,
anh Vàng hy sinh. Nị hiện nay đang ở gần nhà mình .
Ăng ko Thom và Ăng ko watt là một quần
thể đền đài, thành quách của đế chế Ăng ko. Tiếng Việt Nam chúng ta gọi là đế
Thiên, đế Thích. Ăng Ko dịch ra tiếng Việt có nghĩa là thành, Ăng ko Thom có
nghĩa là thành lớn, Ăng Ko watt có nghĩa là thành chùa (ngôi đền để thờ cúng).
Đền Ăng ko Thom nằm ở phía bắc đền Ăng ko watt. Ăng ko Thom được sử dụng cho
mục đích quân sự, còn Ăng ko watt dùng để sử dụng cho mục đích lễ nghi, thờ
cúng.
Thành Ăng ko Thom được xây dựng theo
nguyên tắc phòng thủ bốn cạnh, kết hợp với lũy cao –hào sâu, thành hình vuông,
mỗi cạnh 3km, bốn cửa giữa thành nằm theo bốn hướng, đông tây nam bắc, Mỗi cổng
thành là một cái tháp bằng đá chắc chắn, cửa phía tây còn lại cả hai cánh cửa
bằng đá, lọai đá được lấy từ trên núi Hồng (phnum Kulên) nằm phía đông đông bắc
cách Ăng Ko trên 40 km. Xung quanh thành có bờ đê trồng tre làm rào cản giặc,
sau đó là hào sâu, rộng khỏang 10 mét, bốn cửa thành đều có cầu bằng đá khối
bắc qua hào sâu để vào cổng thành, vách thành xây thẳng đứng, làm bằng khối đá
ong, kích thước mỗi khối (1,5x0,8x0,8 m3) được xây xếp chồng lên nhau, trên bờ
thành xây hình răng cưa mà ta thường thấy ở các dạng thành cổ, bên trong thành
đổ đất tạo thành như dãy đồi dọc theo thành, có độ thấp dần, để quân lính bên
trong lên mặt thành dể dàng. Khác với vạn lý trường thành ở điểm này, vạn lý
trường thành, quân lính bên trong thành cũng như bên ngòai muốn lên thành hay
xuống thành rất khó. Còn ở đây nhờ bờ thành phía bên trong lài như vậy, nên
binh lính bên trong thành muốn lên mặt thành chổ nào cũng được, trên mặt hành
bố trí các lọai công cụ phòng thủ và súng thần công. Bên trong khu trung tâm
của thành được xây hòan tòan bằng đá, nơi ngủ nghỉ của vua, quan, có hồ dùng
tắm ngựa, có hồ chưa nước tòan được xây bằng đá, góc phía tây nam, các cụ già
bảo còn có hầm bí mật thông ra ngòai thành. Từ cửa tây có con đường dài về phía
tây, hình cánh cung, đi đến biên giới Thái, cứ cách một khỏang chừng 3km có xây
một tháp canh, gọi là Pa Sát, mỗi Pa Sát cũng xây bằng đá, xung quanh cũng có
hào sâu, nơi đây chính là một đồn lính, cứ như vậy rải dài cho đến biên giới
Thái. Phía nam cánh cung nầy sát với thành Ăng Ko là hồ nước nhân tạo tên là hồ
Ba Rai (ba rai có nghĩa là hồ nước). Hồ nầy rộng 1,5 km hình chữ nhật dài 7km,
là nơi chứa nước ngọt khi thành bị vây và cũng là công trình thủy lợi
dùng để tưới tiêu cho đồng ruộng phía nam thành. Hướng bắc cũng tương tự, có
con đường và các hệ thống đốn lính kéo dài từ đến Ăng Ko cho đến Bành Tê Srây.
Hai con đường tạo thành hai cánh cung hướng về phía Thái và biên giới Lào, tạo
thành mặt trận phòng ngự vững chắc.
Trong khu vực cánh cung nầy mỗi một tên
phum đều gắn liền với một câu chuyện lịch sữ của dân tộc Kam pu Chia. Chẳng hạn
như phum Péc sa Neng gắn liền với câu chuyện như sau: Trong triều
đại vua Ang ko có một vị vua thích săn bắn và trồng dưa , ông ta lập rẩy dưa ở
khu vực gần núi Liếp, ông ta cử một người để trông rẩy và cho phép
người nầy có quyền bắn chết (bắn cung) bất cứ người nào dám trộm dưa của vua.
Một hôm nhà vua đi săn khi gần đến rẩy dưa, ông ta bèn cải trang vào trộm
thử dưa của mình, ông ta máng áo mão vào cành cây, và vào trôm dưa, người
giữ dưa không biết là nhà vua bèn bắn chết. Triều đình xét xử thấy người
giữ dưa không có tội mà lại thực hiện nghiêm túc lệnh của nhà vua, nên tôn
người giữ dưa lên làm vua. Nơi nhà vua máng áo mão sau nầy thành phum gọi là
phum Péc Sa neng (péc có nghĩa là máng vào, Sa neng có nghĩa là áo mão). Còn
tên phum Fluông có nghĩa là vấp té (giống như Gò Vấp của bác Ăng co Krao
ấy), Khi nhà vua bị bắn lầm chết, quân lính khiêng về đến phum Fluông thì vấp
té, sau nầy thành phum Fluông (Gò té) .
Vì sao thành Ăng ko kiên cố như vậy mà
thất thủ được , tôi được một bà má ở Phum Péc sa neng (nhà bà ở gần trường học
gần cầu , bà má không có con, nhà má có chiếc máy khâu , HR sửa được máy khâu
cho má nên má thương HR như con) kễ cho nghe: Quân Siêm (Thái Lan) sau khi công
thành nhiều lần bị thất bại, họ mới tìm hiểu nguyên nhân đánh không được là do
bờ tre gai , thêm với thành cao, hào sâu nên rất khó đánh. Họ thay đổi cách
đánh, họ dùng mũi tên bịt vàng để bắn vào hàng rào tre gai, khi dân Kam pu chia
phát hiện được mũi tên có bịt vàng bèn xúm nhau chặt phá tre để tìm vàng, dần
dần bờ tre bị phá sạch (âm mưu diễn biến hòa bình đấy các bạn). Một mặt họ cho
lính pháo binh (súng thần công) trá hàng quân Ăng Ko rồi dần dần tạo uy
tín. Khi nhà vua Ăng ko tin tưởng cho biên chế vào pháo binh của nhà vua,
đến giờ G thay gì bỏ thuốc súng vào súng thần công, họ trộn đất cát vào, vì vậy
súng bắn không nổ, hàng rào tre thì dân tự phá sạch vì vậy mà kinh thành Ăng Ko
thất thủ.
Nghe dân họ bảo ngày xưa đến Ăng ko
được vát bằng vàng, nhưng chúng tôi không thấy vàng đâu nữa chúng tôi chỉ thấy những người dân đi đãi
vàng. Họ tìm những nơi có dòng nước chảy đọng lại họ đải đất để tìm vàng, hạt
vàng như hạt cát nhỏ li ti.
Còn đền Ăng ko Watt thì nhỏ hơn, cạnh
hình vuông chỉ dài 1km, xung quanh đào hào trồng sen. Đền nầy chỉ có hai cửa,
cửa phía tây là cửa chính. Con đường vào rộng thênh thang lát bằng đá khối,
được mài nhẳn bóng, đầu đường là chiếc cầu đá bắc qua hào nước trồng sen, hai
bên đừơng chạm hai con rắn chín đầu, đầu rắn ở cổng vào to bằng người ôm,
hai con rắn đá dài dọc hai bên con đường dài hơn hai trăm mét dùng làm rào cản
an tòan. Mỗi một cọc hàng rào là pho tượng người lính bằng đá , trong cã trăm
pho tượng người lính mỗi pho tạc hình một người có nét mặt khác nhau không ai
giống ai cã. Qua hào sâu là vòng rào đầu tiên, Gồm dãy nhà có chỗ nằm của quân
lính tòan bằng đá , dãy nhà lợp nóc cũng bằng đá , hàng cột thẳng băng không
sai lêch một ly, tất cã lắp ráp với nhau bằng phương pháp đục lỗ , khắc mọng,
cửa vào cho mỗi lớp rào là ngọn tháp có chạm các nàng ÁP SARA thân hình
căng đầy nhựa sống. Những cột đá tròn vo theo hình chuổi như tiện , cột
nào giống như cột nấy. Tôi cứ thắc mắc mãi thời đó máy tiện ở đâu ra mà
họ tiện cây cột tròn vo. Sau nầy khi nhìn dân Kam pu Chia tự chế tạo bánh xe bò
tôi mới phát hiện ra phương pháp tiện cột đá. Người xưa tiện bằng phương pháp
đục hai đầu khối đá cho có lỗ sau đó dùng gỗ chống tâm vào đó , vài ba người
dùng chân lăn cho khối đá quay, một người thợ cầm cây đục tỳ vào khối đá, cứ
như vậy tùy thuộc vào sự khéo tay của người thợ mà cây cột đá được tiện ra.
Trong vòng rào nầy còn có một hồ sen, có rất nhiều cá, hồ sen cạnh ngôi chùa
cổ. Vào khu đền phía trong, được lát đá cao hơn ngôi đền ngòa , trên vách tường
đá chạm trổ các bức tranh, có nội dung nói lên lịch sữ hình thành đất nước Kam
Pu Chia, những bức tranh thể hiện nền văn minh có trình độ cao dần của dân tộc
Kam pu chia. Đầu tiên gần như thời đại ăn lông ở lỗ, dần dần có quần áo, xe
ngựa, vua quan, có áo bào võng lọng. Những bức tranh mô tả các trận đánh, các
tù binh bị bắt đem về làm nhân công, để xây dựng đền ăng ko. Nhưng đến vách
phía nam có một đọan chưa hòan thành, sau nầy được khắc chạm thêm bằng xi măng,
chứng tỏ rằng việc xây dựng Ăng ko wat chưa xong thì đã bị giặc chiếm. Khu đền
trung tâm cao hơn hết, lên trên đó nhìn rõ sân bay Siêm Riệp, nằm về phía tây
cách đền khỏang 5km. Giữa đền là ngọn tháp cao nhất có tượng thần bốn
mặt, cao đến nổi chúng ta cách đền 60km nhìn thấy tượng thần cao sừng
sửng trên nền rừng xanh thẳm. Những người lính F317 chúng tôi may mắn được
chiêm ngưỡng vẽ đẹp của kỳ quan thế giới xếp hàng thứ bảy nầy gần hai năm. Đây
cũng là niềm tự hào về nền văn minh của dân tộc bạn.
Đất nước Kam pu chia những người lính
chúng tôi trên bước đường chinh chiến gần như đi trọn từ biên giới Việt Nam cho
đến biên giới Thái, chúng tôi tìm hiểu và làm quen từ giọng nói cho đến
tính tình của người dân từng vùng, có vùng giọng nói nghe rất nặng như
vùng Kam pong Thom, những vùng nói gịong không chuẩn như Sòai Riêng, PHNom Pênh
và các vùng phía đông KPC, còn người dân Siêm Riệp là dân cố đô nên giọng nói
họ rất chuẩn theo chữ viết của họ. Dân vùng Siêm Riệp cũng có trình độ hiểu
biết về lịch sữ dân tộc họ cao hơn nơi khác, cho nên khi nói chuyện với những
cụ già ở đây rất là thú vị. Chúng tôi trao đổi với họ về lịch sử dân tộc Việt
Nam bốn ngàn năm giữ nước. Có những đêm khi về dưỡng quân, ngồi trên nhà
sàn , bên bình trà nóng được gữi từ Việt Nam sang do anh em về phép, cùng
với đường thốt nốt , nói chuyện với chủ nhà là thầy giáo, chủ và khách say sưa
trao đổi với nhau những nét văn hóa của dân tộc mình. Bạn hỏi Việt Nam có thành
nào to và vững chắc như thành Ăng ko không. Tôi trả lời rằng lịch sữ ông ,cha
chúng tôi giữ nước không phải bằng thành lũy, mà giữ nước bằng cách đánh,
khi tiến khi thì lui, khi thì bỏ thành, khi thì công thành, tùy cơ ứng biến.
Tôi đưa ra ý kiến, thành ăng ko nguy nga tráng lệ mà thất thủ là do ông,
cha các bạn quá phung phí sức dân, sức lính vào việc xây thành, làm cho đất
nước kiệt quệ, dân quân ngao ngán. như vây làm sao mạnh được, họ gật đầu chấp
nhận. Chúng tôi trao đổi với nhau về chế độ Pôn Pốt. Dân vùng Siêm Riệp là dân
kháng chiến của Cách Mạng KPC cho nên họ hiểu về Bác Hồ, họ hiểu nguồn gốc của
Pôn Pốt. Nói chuyện với họ nhiều khi cũng thú vị lắm. Họ kễ về Pôn Pốt như sau
: Pôn Pốt, Iêng sa Ry, Khiêu săm Phon không phải là người vô học, những
người nầy đều du học và tốt nghiệp đại học ở Pari. Họ nhìn thấy sự lỗi thời,
lạc hâu thời SIHANÚC. Thời SIHA NÚC, KPC thịnh vượng nhưng không phải do chính
sức mạnh của người KPC, mà do nguồn sửa từ bên ngòai bơm vào, khi thì khối Công
Sản, khi thì khối Tư Bản. SIHANÚC giống như người làm xiếc đi dây, bên nào bơm
vào mạnh là ngã về bên đó. Vì vậy SIHANUC đổ là phải. Họ dẫn chứng cã đất nước
KPC giàu có như vậy mà nền công nghiệp gần như không có, các nhà máy cao su đều
do Pháp làm chủ cả, trường đại học thì chỉ có trường sư phạm, trường y, trường
hành chánh học ra để làm quan. Còn trường kỹ thuật, trường nông nghiệp thì
không có, không ai quan tâm. Thanh niên cứ tới tuổi lao động là đi tu, tạo nên
thói lười biếng, ỷ lại. Đa số trong xã hội chỉ có công chức, người làm công cho
nước ngòai, người thành thị là giàu có, còn đa số người dân thì nghèo khổ. Tình
hình đất nước như vây có cuộc cách mạng là cần thiết. Nhưng khi làm cuộc cách
mạng thì Pôn Pốt lại sai lầm hơn, vì nghiêng về phía quá cứng rắn. Sau khi
KHMER Đỏ giải phóng PHNOM PÊNH, các thành phần xì ke, ma túy, gái điếm, cướp
giật, là bắn tại chổ không cần tóa án, không cần xét xử. Ăng ca cho rằng thành
phần đó là cặn bả của xã hội. Chùa chiền phá sạch, nhà sư phải hòan tục vì cho
rằng nhà sư tu hành không lao động. Xóa chợ búa, xóa đi thành phần bốc lột, tất
cã phải lao động hết. Xóa bỏ gia đình, xáo trộn các thành phần trong gia đình,
đặt lại tên mới cho mỗi người, biên chế theo độ tuổi lao động, nam theo nam, nữ
theo nữ, trẻ con theo trẻ con, già theo già, tất cả xã hội theo đội ngủ xóa bỏ
gia đình. Chia dân ra làm ba lọai, trí thức và nhưng người đi lính, hoặc
theo LÔNNÔL đều bị giết . Càng ngày Pôn Pốt càng gây tội ác. Còn bộ đội Việt
Nam thì hiền, nhưng tin thì họ chưa tin, họ nói khéo với tôi rằng : trong tự
điển KPC có câu châm ngôn <<người dân khmer đừng quên nổi mất nuớc của
dân tộc Chàm>>.
Như vậy rỏ ràng là bộ đội Việt Nam làm
nhiệm vụ quốc tế không phải dễ dàng đâu các bạn ạ! Họ sợ Mình xâm lược. Vào
thời điểm đó làm sao họ hiểu được vì tình thế bắt buộc nên muốn giữ bình yên
cho đất nước chúng ta, bọn mình phải làm nhiệm vụ quốc tế.






100% các tượng Phật nằm trong đền
Angkor Watt, không có đầu khi tôi tới đó đầu 1981, chỉ loe ngoe vài chân nhang
nhét vào kẽ tượng và xung quanh. Chỉ có dịp Tết Chô Chơnăm Thơmây, dân K mới
tới đây lễ và nhét tiền Riel lẻ vào kẽ tượng (Ngôi chùa trong khuôn viên đền,
Sư bị Pốt lùa đi còn chưa đi bộ về tới nữa

).

Dấu đạn trong đền Angkor lúc đó đã có, nhưng
không phải là do cố ý nhắm bắn vào các phù điêu và tượng đài trong đó đâu các
bác . Tôi nghe kể lại khi bộ đội VN (Sư 302?) tiến qua KV đền này bằng xe, Pốt
trụ trong đền bắn ra, bộ đội mình chỉ dùng đạn nhọn để đánh, không dùng hỏa lực
B/DK để tránh hư hỏng cho ngôi đền này! (Chuyện này nhờ bác yta262 kiểm tra
giúp với !). Thời gian 1981, ngang dọc khu vực đền Angkor Watt chỉ có lính E bộ
747 và các C trực thuộc (đóng ở con suối Spean Angko) băng qua đền để ra Siêm
Riệp ! Lâu lâu mới thấy vài tay tây ba lô lui cui dùng giấy can và bút chỉ để
can các phù điêu nhỏ trong đền ! Họ nhìn bộ đội mình cũng thân thiện lắm (dám
không thân thiện lúc đó ? 2 Lính đi chợ cũng có ít nhất 1AK và 2 băng đạn buộc
ngược đầu).
Có một số phù điêu APSARA còn bị
đục cả khuôn mặt, nhưng không phải bộ đội, dân Hoa buôn đổ cổ từ SG và TL nó
lội qua đấy ! Anh em C17 đi chợ về thấy, bắt giao cho vệ binh E xử tiếp.
Một điểm lạ nữa: lúc đó dân K
không vào câu cá, hái rau gì trong KV đền Angko cả, họ chỉ vào nhặt củi và nước
Thốt Nốt. Mặc dù hồ bao quanh Angko Watt và cái bàu nước trong đền Angkor Thum
rất nhiều lươn, cá, bông súng, mấy cái bàu nước phía cổng tây đầy rau muống và
ốc bươu.
Lúc hậu cứ E bộ 747 rút vào bàu
nước gần cổng bắc Angkor Thum khi đơn vị đi Núi Hồng, số anh em ở lại coi cứ đi
cả đêm để bắt tắc kè trong các ngách đá Bayon. Bắt nhiều đến nỗi phải phơi khô
gởi cho AE ở tiền phương "nhắm" đỡ !
@ bác tai_lienson: Coi trên ảnh
cái cổng Angkor Thum nhỏ vậy thôi, chứ xe REO của E747 qua vẫn vừa khít, dù 2
bên thành đá có rất nhiều dấu hằn do thành xe va quẹt (dấu rất cũ + dấu mới),
cái cổng đá vẫn đứng vững. Cái dàn chống chắc làm sau 1982, chứ hồi em ở đó
không có. Cái ảnh này bác DK-Saigon chụp từ trong đền chụp ra, hay chụp cổng
bắc ? Cổng nam từ Angkor Thum nhìn vào 2 dẫy tượng đá bên mặt dữ, bên mặt hiền
ôm con rắn không bị thê thảm như hình đâu.
Thời gian đầu 1979, có sư 302
& F31 của QĐ3 đã đến chiếm Xiêm Riệp. Đúng như Angko Krao nói, trong đền
chỉ còn mấy tượng gỗ vô giá, mất đầu mất tay tùm lum, vậy mà sau này vào năm
2004, em vào đền thì thấy tượng đá và gỗ trả lại khá nhiều. Xiêm Riệp là khu
vực tranh chấp của nhiều thế hệ, hết Xiêm La, cho đến chúa Nguyễn đến bảo hộ,
rồi Pháp, Khmer Đỏ, rồi cố vấn Trung Quốc, rồi mới tới bộ đội VN mình là 1
trong những lính cuối cùng đến đây, các bác họ Đổ tên thừa vừa vừa thôi ạ

... Chuyện tượng bị mẻ hay phù điêu apsara
được/bị làm láng không phải chỉ có bộ đội mình. Trong số những người lấy cắp
tượng ở Angko còn có 1 tay tổ người Pháp André Malraux mướn xe bò định chở cả
đống tượng và phù điêu ở Banteay Srei và Angkor Wat về Pháp (nhưng bị thực dân
ở Đông Dương bắt và kết án), mỉa mai thay sau này André lại được cử làm bộ
trưởng Thông Tin và Tổng trưởng Văn hoá cho chính phủ De Gaulle (nhờ ông ta có
công theo De Gaulle kháng chiến chống phát xít Franco Tây Ban Nha) nguồn
http://en.wikipedia.org/wiki/Andre_Malreaux
http://chimviet.free.fr/lichsu/chung/vids050.htm!
Em đi chơi viện bảo tàng Bangkok còn thấy rất nhiều tượng và phù điêu của
Kampuchia, họ còn đem trưng đền Angkor cứ như là đền thuộc về người Thái vậy,
nhìn thấy mà tức cho dân K.! Trong văn hóa Campuchia, yta biết rằng người dân
K. rất ngưỡng mộ nữ thần apsara, ai muốn có con thì hàng năm đến vuốt hết các
tượng apsara (độ 1 ngàn tượng ở tầng thứ 1 và thứ 2 của đền) ở Angko Wat thì sẽ
được toại nguyện, cho nên tượng láng chỗ đó là vì dân K., bộ đội mình ăn thua
gì.
Dân
K hình như ở đâu cũng vậy bác angkokrao ơi! họ sống có vẻ đạm bạc vô tư, nông
dân có lúa gạo rồi đổi chác thêm cá của dân chuyên làm nghề cá ( sông Mêkong,
biển hồ...) làm mắm bò hóc, vậy là tưng tửng sống suốt năm, đờn ca lễ hội, thơ
bon suốt!
rau họ cũng ít trồng, loanh quanh mấy loại
bầu bí trong vườn nhà, rau muống họ chê, bông súng càng không rớ đến! he he bởi
vậy bộ đội ta mới có cái để cải thiện! đóng ở nơi có cái bàu mênh mông bông
súng thế mà chỉ một tháng là sạch boong! he , bởi vậy mấy hào nước quanh đền
ăngko giờ sạch bông tuyệt chủng bông súng từ 30 năm trước !
Mà sao
món bông súng chấm cá linh kho ngon tuyệt vậy mà dân họ không biết ăn nhỉ! 
Sau chiến dịch núi Hồng. C9 lại
trở về phum PaSát Cha. Lúc nầy anh Hải là C trưởng, thay cho anh Xuân từ khi
lên núi Hông. Về lại phum kỳ nầy, nhân dân thay đổi hẳn thái độ đối với anh em
ta nhờ làm tốt chính sách dân vận. Những ngày sáng trăng dân mở hội múa
Lăm Thôn, vui thì cũng vui, nhưng đó cũng là cơ hội để địch trà trộn vào, vì
không chỉ có dân trong phum tham dự mà cón có dân ở những nơi khác đến, vô cùng
phức tạp. Những ngày dân vui múa, anh em chúng tôi phải tăng cường phục kích,
tăng cường gác sách. Có lần mình dẫn một Tiểu đội đi phục kích nơi ngã ba
đường, xung quanh là rẫy lúa vừa mới gặt xong, chỉ còn một lùm bụi cây cao
ngang ngưc, gần ngã ba, hỏa lực gồm có một RPD và một B40. Mình bí mật bố
trí anh em trong lùm cây đó. Trăng sáng tỏ cánh đồng. Trong phum tiếng trống
lâm thôn thúc giục, các cô gái chàng trai Kam pu Chia, lũ lượt kéo đến chuyện
trò rôm rả. Vô tình các cô lại chọn lùm cây anh em mình phục kích để tụ họp đợi
chờ nhau, có mấy cô ngồi sát HR mà không hề hay biết, mình sợ lộ bí mật nằm im
không dám ho, không dám thở mạnh. Có cô còn ngồi xuống đánh dấu giang sơn cạnh
chúng tôi rồi mới chịu đi . Anh em chúng tôi cố gắng nín cười gần chết.
Lúc đó mà chúng tôi chỉ cần đứng phắt lên một phát là có vài cô chết ngất.
Còn một số anh em đi múa lăm
thôn, nhưng lại làm nhiệm vụ. Bộ đội ta không có quyền khám xét dân bạn. vì vậy
anh em nghĩ ra cách, thấy thanh niên là mừng rở ôm chào xum ma ki. vừa thân mật
ôm vừa vuốt xem có mang vũ khí ở trong không ? Chốt gác cũng phải bố trí lại vì
địch lợi dụng việc nầy để chúng thăm dò trinh sát quân ta . đúng là mệt bở hơi
tai.
Khi chúng tôi lên núi Hồng thì
một tốp địch đến đo đạc khỏang cách, khi về nhân dân đã báo cho chúng tôi biết
và khuyên chúng tôi nên thay đổi chổ ở . Chúng tôi vẫn giữ nguyên vì nhưng chổ
chúng tôi ở chỉ là ở nghi binh , ban đêm trời tối chúng tôi đều ra sát công sự
để ngủ. Chốt gác cũng là chốt gác nghi binh, tôi chọn sát bên đường đi, tôi cho
anh em đào công sự gác, quét sạch tạo ra dấu mòn để nghi binh là chúng tôi ngồi
gác ở đó, trời có trăng tầm nhìn xa thì bố trí anh em ngồi gác nơi đó thật, còn
khi trời tối, hay trăng vừa lặn, thì người gác phải vận động ra xa gần trăm mét.
Chổ ngủ cũng thế trời có trăng , tầm nhìn xa thì ngủ ở dưới gốc cây sòai có cây
thốt nốt vươn cao, ban đêm rất dễ nhận dạng mục tiêu. Ban ngày cũng mắc võng
nghĩ nơi đó. Từ bìa rừng nhìn vào có thể thấy, hoặc ban ngày, người qua kẽ lại
đều nhìn thấy. Bên ngòai Phum nơi B chúng tôi và B3 đóng quân là cánh đồng
trống xa 1km mới tới bìa rừng, trên ruộng là những bờ ruộng ngang, trời tối bờ
ruộng nầy là vật che đở rất tốt cho phía ngoài phum tấn công vào, còn bên hông
chúng tôi thì có rải rác các bụi sim, nhưng địa hình không có vật che đở. Trên
cơ sở phân tích trên. Tôi nhận định nếu địch đánh chúng sẽ đánh vào lúc trời
tối và sẽ đánh vào ở hướng có bờ ruộng che chắn cho chúng, hơn nữa chúng tôi
tạo chốt gác nghi binh trông có vẽ sơ hở . Lúc nầy Btôi chỉ có 8 người kễ cả
tôi, nên chỉ bố trí được hai chốt gác. Cánh bên hông chúng tôi chỉ gài trái,
khi kiểm tra đội hình đóng quân thấy bố trí chốt gác quá sơ hở bố Sườn hỏi tôi,
khi tôi trình bày trình bày ý kiến trên bố đồng ý.
Ngày nào tôi không còn nhớ,
đúng như dự đóan sau hai ba đêm trăng sáng và phum tổ chức múa lâm thôn, bọn
trinh sát chúng ra vào thấy chúng tôi ngồi gác gần chổ ngũ lại ngũ duới gốc cây
sòai có cây thốt nốt mọc vươn cao lên, ban đêm chỉ nhìn sơ là xác định được
điểm. Nên chúng tổ chức đánh. Trời vừa tối lại ngay ca gác của tôi (thiếu quân
cán bộ B cũng phải gác) ca gác đầu hôm, trời vừa sập tối tôi ra gác nơi góc bờ
cặp theo hàng cây, trong phum tổ chức múa lâm thôn, ngồi chừng 10 phút, có một
người cầm súng đi dọc từ hướng sau lưng tôi ra phía trước, bên phạm vi của B3,
cách bên trái tôi chừng 2 mét. Lúc đầu tôi tưởng là anh em bên B3 , định hỏi
nhưng lại thôi không hỏi , khi đi khỏi tôi đến bờ ruộng bên B3 cao khỏi đầu ,
cách tôi chừng 5mét tên nầy ngồi xuống, và nghe tiếng mở khóa an tòan súng
<<cách>>. Lúc nầy tôi cũng còn tưởng là lính B3. Sau đó nghe
tiếng Kam pu chia, tôi mới biết nó là địch. Như vây tên nầy đột nhập vào phía
B3 sau khi đi một vòng trinh sát đến giáp Btôi nó trở ra gọi đồng đội vào tập
kích, sau khi chúng phát hiện B3 chưa ra gác, anh em B3 và cả A cối qua B3 còn
chong đèn ngồi uống trà, ăn đường thốt nốt (món khóai khẩu của Nam Địa
Bàn), và địch đã phát hiện thời cơ tốt cho chúng. Cũng may là vì chúng gọi đồng
đội vận động lên để tập kích nên tôi phát hiện ra, lúc nầy tên đi đầu đã
ngồi khuất sau bờ ruộng, vì vậy tôi rút chốt trái da láng cho bung mỏ vịt
đếm đến 3, rồi ném, vừa nghe bịt là nổ liền. Bọn địch đang vận động lên, bị tôi
đánh bất ngờ chúng nằm đại giữa ruộng mà bắn, chúng bắn qua cây thốt nốt chỗ B
tôi nằm (bố trí nghi binh), nơi đây lãnh trọn 5-6 trái B40 còn lại chúng
bắn rải rác, lúc nầy tôi mới thấy bọn chúng đông, khỏang trên mười tên. Chúng
bắn tất cã tôi đếm được 14 trái B40, có một tên núp sau ụ mối cách tôi khỏang
10 mét, nổ AK liên tục, vì không cón lựu đạn nữa, nên tôi bắn trả để cầm chân
chúng vì tôi biết bọn chúng có bờ ruộng che chắn nên bắn cũng không ăn
thua gì, bắn điểm xạ, vừa bắn vừa lăn theo bờ ruộng. Vì vậy chúng tưởng
bọn tôi cũng có 6 , 7 người nên rút chạy. Còn B3 bị đánh bất ngờ và cả
NAM ĐB, cũng bị kẹt ở B3 nên khi chúng đã chạy rồi mới mang cối ra bắn. B tôi
lính cũng có vài anh sang B3 uống trà, sau khi chúng ngừng tâp kích B40 rồi anh
Phạm Ngọc Hà là người đầu tiên chạy về và vác cây M60 ra cho tôi, cũng chỉ bắn
hú họa thôi, nó đã chạy mất. Sáng hôm sau báo cáo lên E tôi đánh 02 trái lựu
đạn, thực sự tôi chỉ đánh 01 trái, còn một trái do anh Thơi đánh cá nên sẳn đó
nhờ tôi khai, vì vậy mà tôi bị trên E chất vấn tại sao đánh hai trái lựu đạn mà
địch không bỏ xác lại tên nào? Ngày hôm sau dân báo tin, chúng chết 1, bị
thương 1, do trái lựu đạn. Như vậy ta đã nghi binh dụ được chúng, nhưng khổ nổi
không biết chúng đánh ta lúc nào, phục riết rồi chán, đâm ra chủ quan, hơn nữa
lại đầu hôm nên một số anh em bỏ vị trí chiến đấu, đi sang B3 uống trà chưa về,
may mà tôi phát hiện và đánh chúng bất ngờ nếu không với lực lượng hỏa lực như
vậy, mà chúng tiếp cận vào B3, thì nhóm uống trà xóa sổ.
Sau ở phum nầy chúng tôi đánh
thêm một trận nữa, lúc chúng tôi mới nhận tân binh bổ xung, B tôi được 03 em,
mới nhận ngày hôm trước sáng hôm sau dân
báo phát hiện địch đang lãng vãng gần suối. Tôi hỏi anh em tân binh có ai muốn
đi đánh trận không, có một em xung phong, tôi dẫn một cũ một mới, anh Thơi B
Trưởng B1và một lính mới nữa, tổng cộng 05 người. Tất cã đều ở trần mặc quần
đùi, B40 thì chỉ cầm một trái, một trái ở trong nòng, tôi sách M60, anh Hồ văn
Mấy xách B40, lính mới AK, Anh Thơi B40, lính mới AK. Chúng tôi đi khỏang 1km,
nơi đây rừng sim cao ngang ngực, súng chúng tôi sách bên dưới , nên khi nhìn
chúng tôi chỉ thấy đầu mà không thấy súng, anh Mấy quấn cái khăn cà ma đi đầu,
vừa ra khỏi bụi sây là phát hiện địch khỏang 7 -8 tên, mặc quần áo ga bạc
đin TQ, đi giấy bốt, đang ngồi ăn cơm sau ụ mối, bọn chúng cũng rất khôn, ngối
ăn cơm bên kia đồng trống, nên khi ta phát hiện được chúng thì chúng cũng phát
hiện ta, nhưng vì chúng không thấy ta mang súng nên chúng vẫn ngồi ăn
cơm, ta cũng không còn cách nào tiếp cận chúng được, nên ở cự ly gần 200mét,
đánh là không hiệu quả, nhưng vì hai bên đã lỡ đá lông nheo với nhau rồi, nên
tôi cho nổ súng. Tôi nâng M60 lên làm một lọat, chỗ chúng đang ngồi bụi bay mịt
mù, hai anh B40, mỗi người làm một quả, chúng trả lại 02 quả B40 và nhanh chân
chạy mất. Chúng tôi chạy đón đầu phục nơi chiếc cầu, độc mộc bắt ngang suối,
nhưng chúng cũng rất khôn chạy đường khác. Bọn địch như vậy đấy, chúng nhanh
chân như sóc. Về nhà anh lính mới mặt còn xanh tái mét. Tuởng chúng tôi nói
chơi ai dè đánh nhau thiệt, như là đi chợ vậy. Hai bên không bên nào thương
vong.
Từ đó phum nầy không thấy bóng
tên địch nào nữa. Như vậy từ một phum ban đầu chúng tôi đến, dân chúng cương
quyết không cho chúng tôi đóng quân ở nhà, lần lần quen, có cảm tình, rồi đùm
bọc cho chúng tôi, phát hiện địch là dân báo chúng tôi ngay. Sau nầy anh em còn
đi vào rừng phát rẩy cho dân, đi chỉ một mình, dân đưa áo cho mặc, đưa
nón cho đội, súng dấu trong lùm cây, phát rẩy giúp dân. Địch đến không
phát hiện được ta hay dân. Ta thắng địch là ở chỗ đó.
Nhờ bác Hai Ruộng và Angkor Krao
xác định xem có đúng chỗ lại các phum mà 2 bác và E747 đã chiến đấu:
Tên Việt
Tên trên bản đồ
--------------
------------------
Mông
Moung
Đôn Em
Don Em
PaSát Cha
Prasat Trav
Bantê Sơ Rây Bânteay
Srei
Péc Sa neng
Péak Sneng (rớt áo mão)
Flu ông
Phlông (gò té)
Angkor Krao
Ângkôr Krau
Puốc
Puók
Yta nhớ con đường máu lửa mà cánh vận tải sợ nhất là lộ 662 (được em khoanh
tròn màu xanh dương). Đường này chạy từ Angkor Thum tới gặp lộ 68 tại phum
Chông Kal (Ebộ 88 đóng tại phum Chông Kal này). Theo yta biết, lộ 662 là nơi
xuất phát chính của các cánh quân của F302 (và sau này là 7705 của haanh từ
phum Mông) đến phối hợp để bao vây Núi Hồng từ năm 1981 trở về sau.

Sau hai lần đóng quân ở phum
Pasat Cha và hai lần chạm địch. Bọn chúng không dám họat động ở vùng nầy nữa,
anh em bộ đội C9, dã dạng nhân dân k đi phát rừng làm rẫy giúp dân ở cánh rừng
phía bắc phum sâu váo 4,5 cây số cũng không chạm địch. Thời gian sau chúng tôi
được lệnh D4 huy động làm nhiệm vụ bảo vệ cho nhân dân bạn bầu cử, theo kế
họach, ở địa bàn nào bầu cử chúng tôi sẽ có mặt ở đó. Các phum như FLUÔNG,
ANGKOKRAO, một vài phum ở khu vực phía bắc quanh khu vực đền Ăng kor, như phum
Trà Peng, vv… cuộc bầu cữ được thành công. Thời tiết bắc đầu vào mùa mưa dầm,
D4 chúng tôi tạm rút quân về vùng phía đông nam thị xã Siêm Riệp, gần Biển Hồ,
để dưởng quân và huấn luyện. C9 đóng ở phum Kha Na, nơi đây cách chợ Siêm Riệp
khỏang 3km, nhân dân sống bằng nghề trồng rau. Lúc đầu vào xin ở nhà dân cũng
rất khó khăn họ không cho, nhưng sau đó chúng tôi làm tốt công tác dân vận,
càng ngày dân càng thương mến bộ đội Việt Nam, có nhiều gia đình, bà má coi
chúng tôi như người thân ruột thịt, cho đến tận bây giờ tôi vẫn chưa quên, mong
có ngày nào đó mình sẽ được trở về nơi chiến trường xưa, nơi mình đã từng đóng
quân để gặp lại những người thân thiết. Dưỡng quân nơi đây vài ba
tháng tôi học được rất nhiều chữ Kam pu chia, lúc đó tôi có thể đọc được sách
vở, tài liệu bằng chữ K, nay đã gần 30 năm không sữ dụng nên chữ gần như trả
lại hết.Dưỡng quân một thời gian chưa hết mùa mưa chúng tôi lại vào chiến dịch.
D4 hành quân lên phum Bà Đrạ, gần góc phía đông bắc đền Ang ko, nơi ngã ba từ
Siêm Riệp lên và từ phum Fluông ra, nơi đây địch thường phục kích xe chở gạo
của ta vận chuyển lên Bành Tia Srây. Chúng tôi đóng quân ở đây một hai tuần,
sau đó bung ra chốt bên ngòai thực hiện lệnh nội bất xuất, ngọai bất nhập để
các đơn vị bạn (đơn vị bộ đội K) tảo thanh bên trong phum. Nơi phum nầy địch ở
trong dân rất nhiều. Khi tảo thanh đơn vị bạn bắt cũng vài chục tên cho đến gần
trăm tên. Khi ta đánh lên núi Hồng thì địch bỏ chạy về ẩn náo khu vực núi Liếp
và xung quanh núi Liếp như : Péc saneng, Cà tin (Ting), Trúp, khu vực xung
quanh núi Liếp. Sau khi tảo thanh một số phum theo đường lên Bành tia SRây.
Chúng tôi hành quân lên phum KHANA Săng Đai. đóng quân ở đây vài hôm, sau
đó bí mật hành quân cắt rừng về phía tây, đi vào khu vực rừng dọc theo con suối
Siêm Riệp, chiến dịch nầy do bố Sườn chỉ Huy D4, khi qua suối bộ phận đi đầu
phát hiện cứ, chúng cũng phát hiện ta nên chỉ nổ súng vài lọat chưa triển khai
đội hình là chúng bỏ chạy. D4 tiếp tục hành quân, mục tiêu tiếp theo là phum
Stưng, Chúng tôi đến đây vào lúc chiều chập tối, chúng tôi ăn cơm vắt và
sau đó tiếp cận phum, bao vây xung quanh phum. C9 ngay vị trí đầu phum, khỏang
9 giờ tối, anh em khát nước quá, tôi phải lén mò vào phum lấy nước, vào nhà đầu
phum thấy hai ba nhà tập trung lại nói cười vui vẽ bên ngọn đuốc, tôi nghi là
địch đã rút đi rồi, tôi âm thầm bò về phía giếng nước và ôm luôn một gàu nước
ra cho anh em, những người dân không hề hay biết. Mờ sáng hôm sau, D4 ra lệnh
cho các C nhanh chóng vận động đánh úp vào phum, khi vào địch đã rút mất trước
một ngày, có lẽ ngày chúng phát hiện ta ở bờ suối, bọn địch ở đây chúng chạy
luôn. Chúng tôi trả lại gàu nước, chủ nhà chưng hững. Chủ nhà bảo đêm qua
vừa mới múc gàu nước lên để ở đó vô nhà một lát trở ra thấy gàu nước mất tiêu,
như là ma nhát vậy. Chúng tôi đóng quân tại đây, để trinh sát D4 tiếp tục mò
vào phum Péc Saneng. Sau khi phát hiện địch trong phum, trinh sát về báo cáo
D4. Tiểu đòan tổ chức đánh, cũng bí mật hành quân ban đêm, sau đó áp sát mục
tiêu, đợi trời vừa sáng là xung phong. Khi vào cũng phum không có địch, B chúng
tôi đánh vào chổ dọc theo dường ra núi Liếp, sau khi vào phum D4 bố trí B
chúng tôi đóng luôn tại ngôi nhà gần sát ngã ba đường đi núi Liếp, nhà nầy của
anh thầy giáo, có hai đứa con trai một đứa khỏang 7 tuổi một đứa khỏang 5 tuổi
rất kháo khỉnh dễ thương. Ở Phum nầy nhà nào cũng đều có công sự trú ẩn vững
chắc. Chúng tôi nhìn thấy nét mặt dân lúc nào cũng lo âu, lúc nào cũng quanh
quẩn bên công sự, tôi có linh cảm kẻ địch lẫn khuất đâu đây không xa lắm. Sau
khi vào phum chúng tôi đóng quân tại đây đào công sự và tổ chức lùng sục ra
xung quanh phum nhất là hai bên con suối, chúng tôi phát hiện cứ chúng vừa mới
bỏ chạy ở dọc theo hai bên con suối cách phum chừng 1km về phía đông phum
Pẹc sa Neng Thmây. Khi lên đánh vùng nầy chúng tôi thấy bọn địch ở đây có nhiều
điểm khác với bọn địch ở Kam pong Thom. Bọn nầy được trang bị mạnh hơn rất
nhiều, còn hơn cã bộ đội ta, quần áo, quân trang mới toanh, đạn cũng mới toanh,
ak tòan đạn đồng, đi giầy bốt Mỹ. Lương thực bọn nầy gần như không quan tâm
đến. Chúng tôi lùng khắp rừng không hề phát hiện cứ hậu cần hay kho dự trữ. Còn
chính quyền ở khu vực nầy hầu hết là chính quyền hai mặt, khi ta đến thì chính
quyền trựu tập dân cho bộ phận xây dựng chính quyền của ta họat động. Nhưng khi
ta rút đi, địch đến thì chính quyền nơi đây cũng là bộ phận tập trung dân để
thu góp lương thực cho địch. Còn địch nơi đây chúng cũng rất khôn, chúng không
đóng quân trong phum. Chúng đóng ở ngòai phum, chỉ một bộ phận nhỏ ở lại trong
phum, khi ta ít thì chúng tập kích tiêu diệt hoặc phục kích, khi ta mạnh thì
chúng bỏ chạy. Vì vậy mà trinh sát F 317 bị chúng phục kích làm thiệt hại nặng
tại ngôi chùa hoang trên đường 662 (từ Fluông đi lên pec saneng, Trup vv), sau
khi đến Pẹc Saneng không phát hiện địch quay về đến ngôi chùa hoang thì bị phục
kích. Hình như nơi đây bọn địch đã xây dựng được mạng lưới hậu cần và tình báo
ở trong dân. Ở PecSa Neng vài tuần D4 Hành quân lên khu vực núi Liếp, dọc theo
con suối từ Pẹc sa Neng lên. Sau khi lùng sục cã khu vực rộng lớn xung quanh
núi Liếp chúng tôi cũng chỉ phát hiện những cứ chúng mới bỏ đi. Như vậy khi
đánh hơi thấy E747 đến khu vực nầy chúng lại chạy đi khu vực khác. Tính ra con
suối bắt nguồn từ núi Liếp chảy dọc theo về phía nam vòng qua phía bắc phum
Pasat Cha chảy về hồ Ba Rai dài trên trăm cây số chúng tôi qua nhiều chiến dịch
gần như đi trọn con suối nầy.
Ở lại khu vực núi Liếp gần một
tuần chúng tôi quay về Pẹc SA Neng, C9 dời vềđóng quân phía bắc cây cầu B HR
đóng quân tại nhà bà má có chiếc máy may, mình chỉnh sửa lại chiếc máy may cho
bà và bà rất thương mình từ đó. Đóng quân ở đây B mình đánh hụt một trận
tại Péc SA neng Cha. Khi dân phát hiện một tốp địch khỏang 15 tên di chuyển từ
núi Liếp căt ngang con đường về phía phum Péc Sa Neng Cha. HR dẫn một B lập tức
đón đánh, khi đến nơi phát hiện chúng đã vào phum, đang bắt gà của dân, vì dân
ở phum nầy cất nhà tập trung rất đông nên đánh vào sợ chết dân, mình mới dẫn
anh em phục kích đường từ phum ra đi về phía tây, phục đến sáng, không ngờ bọn
chúng lại đi con đường phía Nam để ra khỏi phum. Con đường nầy dẩn về khu rừng
phía bắc phum Pa SÁt CHA, nằm phía sau lưng vùng chiến dịch của ta, tôi về báo
cáo đại đội. Không biết trên có nắm hay không sau đó cũng thấy bỏ qua luôn. Lúc
nầy cán bộ từ E cho đến D đều thay đổi. Ông Mao TMT tạm chỉ huy Trung Đoàn, bố
Sườn hình như đi họp đâu đó, C9, đại đội trưởng cũng thay mới, ông Thương thiếu
úy, dân hậu cần đệ tử của sếp Lan, sau một thời gian phục vụ hậu cần được cất
nhắc đi học sỹ quan, đưa về làm đại đội trưởng vì cấp đại đội là khó chết rồi.
Vì vậy sau nầy nhiều chuyện cười ra nước mắt xảy ra trong đơn vị.
Sau đó vài tuần D4 hành
quân lên phía phum Cà Tin (Cting). E Tiền phương lên 747, lên đóng ở Pẹc SA
Neng. Từ Pẹc sa neng, E vận động dân phát trống hai bên đường mỗi bên
100mét về tận phum Fluông. Cứ của E747 cũng dời về phum Fluông. Nơi đây
tổ chức diển văn nghệ do anh em nghệ sỹ TP HCM lên biểu diển, lúc đó Hai Ruộng
cũng được xem, vì đang dự đợt tập huấn chính trị cho cán bộ B. Tuy phát hoang
hai bên đường nhưng thỉnh thỏang bọn địch cũng thường phục kích, nhưng anh em
mình cũng chẳng sợ, cứ thích là xin phép đơn vị đi ra Siêm Riệp chơi, mua
thuốc hút, bột ngọt cho anh em, nhiều khi đi một mình, bị địch bắn cứ chạy đại,
hoặc là nhảy xuống các hố đào lấy đất có sẳn ở hay bên đường để đánh lại,
ở khỏang cách trăm mét AK còn khó trúng huống chi B, đánh nhau bao nhiêu năm
lính mình cũng nhanh như sóc, viên đạn đầu có trúng thì trúng chứ còn lọat đạn
sau thì vô tư.
Ngài thiếu úy C Trưởng mới về C9,
có gốc xuất phát từ lính hậu cần, có quá trình cúc cung phục vụ Sếp nên được cất
nhắc cho học sỹ quan rồi phong C Trưởng nên anh em chúng tôi nói
thật không có cảm tình gì mấy. Hơn nữa khác với các đ/c C Trưởng trước như Anh
Mơ, Anh Xuân, Anh Long (đã hy sinh), Anh Đức Vượng, Anh Minh Hải dù người Nam
hay Bắc anh em đều rất yêu quý vì Các đ/ c nầy hòa đồng với lính, đồng cam cộng
khổ với anh em. Còn ngài C trưởng nầy rất quan cách, cái gì cũng muốn có người
phục vụ (có lẽ quen gần các quan trên), thích tung hô chào hỏi, thích tỏ vẻ
quyền uy. Trong khi Bố Sườn là đại Uý, nhưng chúng tôi thấy ít khi nào bố
đeo quân hàm cã, chúng tôi gọi cấp chỉ huy là bố, coi như người cha thực sự, bố
gọi anh em chúng tôi là mấy thằng nhóc, có khi gọi tụi bây ra đây tao bảo. Có
lần bố đánh anh chuẩn úy Btrưởng một bạt tay vào mặt vậy mà anh nầy rơi nước
mắt vì thấy bố đánh là phải, không giận mà càng thêm tin tưởng vào bố. Còn tài
chỉ huy của ngài Ctrưởng nầy như thế nào thì dần dần các bạn sẽ rỏ.
Bố Sườn ra lệnh cho mỗi C để lại
một B giử cứ còn lại hành quân truy lùng về phía núi Liếp, cách Péc Sa Neng
khỏang trên 10 km về phía bắc. Các tọa độ đã được giao trước cho các C. C 9 đi
dọc theo con suối từ Pec sa neng lên ngã ba gần núi Liếp. Một C vào
phum Liếp, một C vòng lên núi. C9 cắt rừng theo cách bờ suối 500mét, đi một
ngày thì tới ngã ba suối phía dưới (vì vừa đi vừa lùng sục nên đi rất lâu),
ngày hôm sau đến khỏang 4giờ chiều thì đến tọa độ qui định , phát hiện dấu chân
địch khỏang vài chục tên vừa mới đi nước còn đục, chúng tôi lùng sục một
đọan sau đó xác định đã đúng tọa độ báo với ngài CTrưởng để cho thông tin báo
về D4 , Tiểu đòan ra lệnh cho đào công sự chốt lại đó. Mới phát hiện dấu của
địch thôi mà nhìn mặt ngài C Trưởng đã tái mét. Sáng hôm sau D4 ra lênh cho C9
vẫn chốt tại đó và cữ một B lùng sụt về phía bắc sang một trảng trống gần
núi Liếp, cách nơi đang đóng quân khỏang 2km để bắt liên lạc với một bộ
phận từ núi LIẾP cữ ra (cách của bố Sườn để kiểm tra xem các cánh quân có đi
đúng tọa độ không anh em chúng tôi đã quen thuộc). Lúc đầu ngài C Trưởng cử một
B của HR đi, sau khi cử xong anh em chúng tôi định đi thì ngài đổi ý, có lẽ
ngày thấy lạnh gáy vì chỉ có hai B mà cữ đi một còn lại chỉ có trên mười
tay súng, hơn nữa vốn là lính hậu cần có lần nào cắt rừng sâu như vậy đâu, chạy
còn chưa biết đường chạy huống chi đánh địch, vì thế ngài đổi ý. Ngài giữ tôi
lại chỉ để anh em đi không. Anh em lại bảo không có tôi đi anh em không dám đi.
Cù cưa mãi, tôi mới đưa ra phương án, tôi và hai chiến sỹ nữa là ba người đi là
đủ, không cần đi đông , ngài mới đồng ý. Tôi đề nghị đưa bản đồ địa bàn để
chúng tôi đi, ngài cũng sợ, cúối cùng ngài giữ bản đồ đưa cho tôi địa bàn. Cầm
chiếc địa bàn mà tôi thầm cười trong bụng, ở trong rừng sâu mà giữ tấm bản đồ
địa bàn không có thì cũng chỉ vô dụng mà thôi. Ba chúng tôi đo hướng sau đó âm
thầm cắt rừng êm ru không một tiếng động. Đi gần một giờ nghe tiếng chim cu
gáy, tôi bảo anh em cắt về phía đó sẽ có ruộng lúa đó chính là trảng trống ta
tìm. Anh em cắt ra phía đó gặp trảng lúa thật, nơi đó có một cái chòi có đôi vợ
chồng đang ở đó. chúng tôi cẩn thận chưa vội ra, đợi một lát gặp anh em phía
bên C khác đến, hai bên bắt liên lạc về báo cáo cho đơn vị. Sau đó D4 ra lệnh
C9 rút về Phum Liếp luôn. Chốt lại vài ba hôm ăn hết gạo trong ruột tượng rồi
lại về Pec sa Neng giải lao tiếp. Gỉai lao xong rồi lại tiếp tục đi lùng.
Có lần cũng ở nơi Péc sa Neng
khỏang 7 giờ tối địch bắn vào khu vực BCH tiền Phương E, sáu bảy quả đạn
cối, lúc nầy chỉ có Sếp Mao ở lại chỉ huy E, nghe anh em trên Trung Đòan nói
chuyện tếu với nhau là Sếp Mao khi bị địch cối vào vị trí chỉ huy đã bốc nhầm
điện thọai gọi cho C 12LY 8 ra lệnh cho bắn cối chi viện, còn gọi cho C
cối 82 (Cối của Ăng ko Krao) bắn 12ly 8 chi viện. Việc nầy không biết có không
nhờ Ăng ko krao kiểm tra lại.
Tội cho ngài C trưởng vì
đóng quân ở sát E nên phải tổ chức giao ban gác ngày cho ra vẻ chính quy. Anh
em có tật chủ quan ban ngày thường bỏ gác, nhưng vì thay vì nếu vị C trưởng có
uy tín gặp anh em bỏ gác thét một cái là anh em sợ ngay. Đằng nầy ngài lại chơi
dấu súng của A trưởng, cũng không báo cho tôi biết, đến khi tỉnh dậy thấy mất
súng, anh Atrưởng đến hỏi tôi tôi cũng không hay, cã B đi tìm gần chết cũng
không thấy. Chiều giao ban ngài lên lớp cho tôi một trận, tôi im lặng rút kinh
nghiệm vì để anh em chủ quan bỏ gác. Sau đó ngài ra lênh tôi về bảo anh A
trưởng lên gặp ngài. A trưởng lên, Ngài Ctrưởng chưa kịp kiểm điểm đã bị A
trưởng đang tức chữi cho một trận. Tại sao ông bắt gặp tôi ngủ gục ông không
kêu tôi dậy mà kiểm điểm tôi, ông lại đi dấu súng của tôi, lần sau nếu tôi đang
ngủ mà ông vào lấy súng, tôi giật mình tôi bắn chết ông ráng mà chịu, nói xong
bước vào Cbộ lấy súng về. C trưởng không nói được tiếng nào.
Một lần nữa, cũng vì tật thích ra
oai, bắt anh em ôn lại điều lệnh đội ngủ bắt anh em tập hợp đứng sắp hàng
hô nghiêm nghỉ một hồi, có anh lính nổi khùng lên làm một lọat Ak, phớt qua đầu
C trưởng, mặt ngài không còn chút máu. Bắn xong anh lính còn nói. Ông có ngon
thì cho tôi đi ở tù luôn đi, khỏi đánh nhau, khỏi chết, chứ còn gặp ông tôi
chán lắm rồi. Sau đó một thời gian thấy ngài chạy thuốc rút đi đâu mất.
Anh em trong đơn vị đã trụ lại
với nhau gần bốn năm, vượt qua bao gian nan nguy hiểm, những người thiếu bản
lãnh đã đào ngũ từ lâu. Đôi khi anh em có hành động vô tổ chức, vô kỹ luật, đó
là cái sai của anh em, nếu không sửa chửa đơn vị sẽ không mạnh. Nhưng về người
chỉ huy, tại sao các vị trước anh em đều kính mến, đều phục tùng răm rắp dù cho
lao vào chỗ chết, còn vị nầy anh em xem thường, đây là đơn vị bộ đội chiến đấu,
không phải huấn luyện, anh em đã dám hy sinh thì không còn sợ gì hết, anh em
chấp hành mệnh lệnh từ trái tim của mình trước niềm tin và đức độ của cấp chỉ
huy mà anh em cảm phục. Còn vị nầy lấy cái uy từ cấp bậc, từ cái thói lươn lẹo,
khôn khéo mà ngài có được trong đời thường để ra oai với anh em.
Gần cuối mùa mưa năm 1981, E747
được bổ xung quân, kỳ nầy hầu hết tân binh quê ở vùng Nghệ An – Hà Tỉnh, đa số
anh em rất trẻ, gần một nửa là người dân tộc, khu vực huyện Con Cuông. B mình
nhận 4 chú, Cuội, Thành, Hợp, Phóng, các em rất còn trẻ thơ, ca hát hồn nhiên,
có nhiều chú còn sợ ma, chúng tôi coi như em út vậy.
Mỗi lần nhận quân là mỗi lần vất
vả cho đơn vị, dù tân binh đã được huấn luyện ở quân trường 03 tháng,
nhưng so với nhu cầu thực tế ở chiến trường thì 03 tháng quân trường gần như là
con số 0, hơn nữa kẽ địch trình độ chúng cũng lão luyện vì chúng đã tham chiến
nhiều năm. Vì vậy chúng tôi phải huấn luyện truyền đạt lại từ đầu, vất vả và
nguy hiểm nhất là cán bộ B. Đã có vài trường hợp ban đêm Btrưởng kiểm tra gác
bị chiến sỹ mới bắn lầm và hy sinh, tôi cũng một lần súyt chết khi kiểm
tra anh em gác ban đêm. Sự việc nầy xảy ra sau khi chiến dịch núi Hồng, khi
nhận quân bổ xung là các chiến sỹ cán bộ khung của E huấn luyện 477 ở Quang
Trung, anh em nầy đã là cán bộ A dùng để huấn luyện Tân binh chứ không phải là
tân binh nữa.
Đầu tiên thì bố trí một chiến sỹ
cũ gác cùng một chiến sỹ mới, chúng tôi chỉ rỏ từng động tác quan sát và lắng
nghe côn trùng vào ban đêm, cho đến lắng nghe tiếng động phát ra để phân biệt
được tiếng động nào là do người, tiếng động nào là do thú, ngòai chiến trường
phát hiện người là không hỏi, quan sát kỹ nếu chắc chắn là địch thì đợi đến gần
vài ba mét nổ súng tiêu diệt luôn, vì nếu ta ngồi khơi khơi mà hỏi nếu đúng là
địch thì người chết trước là ta. Vì vậy qui định cách đi đứng ban đêm là rất
quan trọng. Nếu là ta thì đi phải thẳng lưng, không được cầm súng lăm lăm trong
tư thế chuẩn bị bắn trong khu vực đóng quân của ta. Còn địch khi vào tập
kích ta thì chắc chắn nó phải cầm súng lăm lăm trong tay và chúng đã mở sẳn
khóa an tòan, đi ở tư thế khom. Gặp trường hợp nầy mà ta hỏi là ta bị địch bắn
chết trước. Cho đến cách đổi gác như thế nào để giữ được bí mật khi đổi
gác, vì địch thường bò vào gần vị trí nghi là có ta ngồi gác rồi nằm im ở đó
chờ ta đổi gác, nếu ta sơ ý lúc đổi gác làm chúng phát hiện được nơi gác, coi
như chổ gác đó không còn tác dụng nữa. Kinh nghiệm nầy là của ta khi mò vào tập
kích địch vì một đêm ít nhất cũng phải đổi gác 4-5 lần.
Phổ biến kỹ cách quan sát ban
đêm, ban ngày phải dẩn anh em ra nơi gác bắt anh em nhận diện vị trí những gốc
cây vì ban đêm, khi ngồi gác anh em mới còn sợ thần kinh quá căng thẳng làm cho
hoa mắt thấy gốc cây chuyển động qua lại giống như có người bò. Chính vì trường
hợp nầy mà các tân binh thường hay nổ súng vào ca gác đêm mà không thấy địch đâu
cã làm lộ chốt gác, bố trí một chỗ gác tốt là rất khó chọn.
Dần dần thấy quen, rút đi lính
cũ, bố trí hai lính mới gác chung với nhau. Từ giai đọan nầy trở về sau là B
trưởng cần thiết phải đi kiểm tra và phải phổ biến thật kỹ cách bàn giao gác
như thế nào. Vì anh em có khi còn sợ ma kết hợp với sợ địch, cã hai anh đều mới
nên không ra gác đúng vị trí, có khi sợ quá ngồi gác luôn trên võng. Trường hợp
nầy mà địch tập kích vào, cã B không tài nào trở tay kịp chết chùm trên
võng là cái chắc. Hoặc là một anh vào trước kêu đổi gác rồi lại vào
ngủ luôn ca sau ca sau ra không tới vị trí gác vì sợ, đến khi anh gác
trước đợi lâu không thấy ai ra, mò vào, ca nầy nhìn thấy tưởng là địch bắn lầm.
Phổ biến thật kỹ và phai đi kiễm tra thì mới anh em vững tâm được.
Dần dần khi anh em quen rút xuống
cho gác một mình, lúc nầy Btrưởng cũng phải kiểm tra xem coi anh có còn
sợ địch không. Nhiều khi chúng tôi bố trí chốt gác cách xa cỗ anh em ngủ gần
trăm mét, vì ở cự ly nầy thì khi người gác phát hiện địch nổ súng tiêu diệt .
Chúng có nổ súng lại thì anh em đang ngủ mới đủ thời gian tỉnh hồn và ra công
sự kịp. Nhờ vậy mà chúng tập kích chúng tôi nhiều lần nhưng chúng không làm gì
được. Tôi súyt chết khi kiểm tra gác ở trường hợp nầy. Lúc nầy chiến sỹ mới
từng là A trưởng huấn luyện ở E477 (Quang Trung). Khi đi kiểm tra cũng phải giữ
bí mật cho chốt gác, nên tôi qui định khi nào có cục đất nhỏ ném vào chổ gác là
tôi sẽ bò ra kiễm tra. Khi tôi bò đến gần chỗ chốt gác còn khỏang 5 mét tôi ném
một cục đất nhỏ vào anh gác, ví quá căng thẳng nên anh nầy không hay, tôi tưởng
anh ta biết rồi tôi tiếp tục bò ra đến sát sau lưng, tôi vổ nhẹ vào vai
anh ta. Anh ta đứng ngay lập tức quay ngoắt khẩu AK vào ngực tôi, tôi cũng phản
ứng nhanh, đưa tay trái gạt luôn nòng AK ra vừa quát Tao, Anh chiến sỹ mới run
như cầy sấy, run đến miệng lắp bắp: <<anh chậm tý nữa là em siết nguyên
băng rồi>>.
Cũng một lần tôi súyt bắn lầm
chiến sỹ của mình vì thực hiện sai qui định gác. Lần đó ở phum Fluông lúc mới
về Ăng co trong đợt bảo vệ cho nhân dân K bầu cữ. Lần nầy B chúng tôi bố trí
độc lập xa đội hình C9. một B chỉ còn khỏang 9 chiến sỹ. chỉ bố trí được hai
chốt gác, như vậy còn một phía phải bỏ trống. Tôi qui định ban đêm anh em nào
có nhu cầu vệ sinh đi về phía nầy và khi đi phải đi xổng lưng, không được đi
khom. Phổ biến xong hỏi anh em rỏ chưa anh em trả lời rỏ, đến ca gác thứ hai,
anh nầy là A trưởng và giữ khẩu M60, trước khi ra gác sách khẩu m60 ra gữi tôi
(vì tôi luôn luôn ngủ ở vị trí gần chốt gác, để có gì xử lý cho lẹ) và mượn
khẩu AK của tôi ra gác, gác gần một tiếng thì trời có cơn giông chuẩn bị mưa,
lúc đó tôi cũng chưa ngủ, bổng nghe có tiếng húyt gió phía ngang hông nơi tôi
qui định hướng đó không có gác (bỏ trống), tôi tỉnh ngủ nằm trên võng quan sát
về phía đó không thấy động tịnh gì khỏang gần một giờ sau tôi nghe tiếng
động nhè nhẹ, mở mắt ra thấy có bòng người lăm lăm súng đi từ hướng đó thẳng về
phía tôi chỉ còn độ 3 mét vì tôi ngủ trong bụi chuối nên chắc chắn rằng
nó không bao giờ thấy tôi, nhưng cũng không dám cữ động vì sợ địch phát hiện,
đồng thời dùng chân phải móc cây M60 lên, móc không nổi, lúc đó thì bóng người
đã vào sát bụi chuối, tôi bèn nằm im chờ cho hắn đi khỏi sẽ bắn từ sau lưng.
Nhưng thay gì đi qua khỏi bụi chuối tay này quay lại vòng về phía võng tôi ngủ,
tôi nghi là địch đã phát hiện ra chổ ngủ của mình, khi hằn vừa đến đầu võng là
tôi nhào xuống, một tay nắm nòng súng đẩy ra, một tay ôm cổ vật xuống hai người
cùng té, lúc nầy bóng người mới la lên là:<<tôi >>. Chúng tôi
nhận ra nhau. Tôi mới hỏi vì sao anh gác chổ kia, mà sao lại đi vào hướng nầy.
Anh ta bảo: <<lúc ngồi gác nghe tiếng có người húyt gió, nên tôi bò
qua xem có địch không, chờ một chút không phát hiện gì, thấy gần hết giờ gác
nên vào gọi đổi gác và trả luôn khẩu Ak cho anh >>. Cũng may là vì anh nầy
mựơn khẩu Ak của tôi để lại khẩu M60 quá nặng, nếu không thì chắc tôi đã nổ
súng từ lúc anh đi ngang sát bụi chuối nếu lúc đó tôi đặt AK trên
bụng khi nằm ngủ, chỉ cần mở mắt là có thể bắn liền. Đến gần sáng có tiếng húyt
gió một lần nữa, cũng không thấy địch, khi trời sáng, một đôi chim chìa vôi làm
tổ trong bọng cây thốt nốt bay ra, chúng tôi mới ngớ người. Như vậy khi
trời có gió mạnh cây bị đung đưa làm cho hai vợ chồng chim chìa vôi thức giấc
chúng thủ thỉ với nhau, làm anh em mình súyt bắn lầm nhau vì tưởng rằng tiếng
ám hiệu của địch. Chỉ chuyện gác sách thôi ở chiến trường sơ hở là trả bằng
mạng sống.
Ngòai ra còn phải hường dẫn anh
em tân binh đủ thứ, từ lúc uống nước khi hành quân. Chúng tôi phải kiên quyết
luyện tập, không để anh em lính mới mang bình ton nước khi hành quân vì có bình
ton bên mình anh em lính mới ngữa cổ uống cho đến khi đã khát nước, uống như
vậy chỉ cần đi khoảng mười km là khiêng luôn đi không nổi nữa. Chúng tôi mỗi
lần uống chỉ một nắp bình ton cho thắm giọng thôi, khi nào rèn được mới giao
cho bình ton. Chúng tôi huấn luyện từ cách đeo bao xe đạn, đeo như thế nào để
khi vận động đánh nhau thì gọn nhanh nhẹn, đi không khua, mà không bị ép
vào ngực. Cho đến cách mang bình ton chỗ nào đi bình ton không kêu óc ách, ở trong
rừng ban đêm chỉ cần bình ton nước kêu óc ách là kẽ địch có thể phát hiện được
ta cách vài chục mét. Quần áo phải gài như thế nào để đi không nghe sọc sạch,
cho đến trái lựu đạn phải mang ở đâu để cây rừng không vướng vào làm sút chốt
khi hành quân, mà đánh lại nhanh, cho đến cách đánh lựu đạn, đánh như thế nào
để địch không chụp quả lựu đạn ném lại ta.
Dạy cách căng tăng, mắc võng, chỉ
cách đào bếp, lấy nước trong rừng vào mùa khô, cách tìm củi nấu cơm vào mùa
mưa. Cho đến cách cắt rừng, tìm những lá cây trong rừng nhai đở khát nước,
những lá nào ăn được.
Còn nhiều kinh nghiệm chúng tôi
chưa được chỉ lại cho anh em, như nhìn khu rừng có thể đóan xem chổ nào có thể
có nước, có những khu rừng phải sử dụng nước hết sức cẩn thận, có thể chết
khác, ví dụ như rừng dầu mà con sóc, con chim cũng không thấy coi chừng
chết khác, tìm nước không ra. Hoặc là rừng già, có suối có nước mà không có
mễn, không có thú, không có heo rừng, dứt khóac là có địch gần đâu đây. Cho đến
cách phát hiện cứ của chúng như thế nào tìm chốt gác của chúng ra sao. Thường
khi lập cứ chúng chọn khu rừng rậm rạp, sau đó đốt cỏ xung quanh cho trống một
khỏang để chúng ở bên trong dể quan sát ta ở bên ngòai. Chốt gác của chúng còn
khó phát hiện hơn nữa cho dù ban ngày, thiếu kinh nghiệm khó mà phát hiện được,
dù cho đứng cách một hai mét.
Cách phát hiện mìn như thế nào,
cũng chưa kịp chỉ cho anh em, có lần cho anh em đi chốt đường, dân báo cho biết
là phát hiện địch lảng vảng ở khu đó, tôi nhắc nhở anh em cẩn thận tránh mìn,
tôi ở nhà lắng nghe anh em đi, tôi không cho đi đường mòn, phải cắt rừng, bận
đi không sao, khi bận về thì bị đạp mìn, tôi dẫn một tiểu đội còn lại chạy ra
chi viện, đến nơi mới biết người đạp mìn là A trưởng chứ không phải lính mới.
Đau quá tôi hỏi vì sau chiến đấu bao nhiêu năm rồi để đạp mìn trên đường mòn
vậy, A trưởng trả lời rằng :<< lúc đi tôi nghe lời anh cắt rừng không sao
cả, khi về nhìn thấy có dấu lằn bánh chiếc xe đạp đi rồi nên tôi cho anh em đi
theo đường mòn, tôi đi đầu đựơc một khỏang đường thì đạp phải mìn cụt mất bàn
chân phải>>. Tôi cho đưa anh em ra quân y viện 7E. Sau đó về kiểm tra lại
nơi trận địa thì mới phát hiện ra là, có dấu xe đạp đã đi qua thật, nhưng khi
nhìn kỹ thì thấy, dấu bánh xe đạp chỉ in nhẹ trên cát mà không lún xuống cát,
tôi mới phát hiện ra: sau khi chôn mìn trong cát, địch dùng vỏ (lốp) xe đạp lăn
lên, tạo thành dấu xe đạp đã đi qua để đánh lừa ta, lại một bài học kinh nghiệm
bằng máu. Nơi nầy xảy ra ở khỏang giữa phum Spiên Thmây và phum có chùa hoang
mà Trinh Sát E đã từng bị phục.
Các bạn hỏi riếc đâm ra lộ một
phần bí mật. Sử dụng mật khẩu khi nào đã chắc chắn không phải là địch rồi mới
hỏi để xác nhận 100% là ta, thường áp dụng ở tuyến sau. Còn tuyến trước thường
xuyên địch mò vào, nếu ta hỏi, thì lúc đó ta đã báo cho đối phương biết là ta
đang ngồi ở đây, nếu đối phương là bạn thì sẽ trả lời theo mật khẩu, còn nếu
đối phương là địch thì ngu dạy gì chúng trả lời, mà chúng sẽ hướng về phía
người gác mà siếc cò, lúc đó người gác chưa kịp nhận ra địch thì đã chết. Chúng
tôi đi trinh sát cũng thế, càng vào sâu trong lòng địch, rủi cho tên địch nào
đang ngồi gác gặp phải chúng tôi, chúng chưa kịp thò tay rờ vào súng đã bị
chúng tôi diệt gọn. Còn tuyến đầu chốt gác là tuyệt đối phải giử cho được bí
mật. Vì chỉ cần để lộ chốt gác mà bọn mình biết được, lúc cã đơn vị địch đang
ngủ say, chỉ cần một tổ ba người thôi là bọn mình đủ sức diệt cả đại đội không
cần nổ một phát súng.
Sau một thời gian ngắn cũng cố
đơn vị, D4 lại tiếp tục hành quân đi về phía bắc, trong lúc tòan D4 hành quân
lên phum Cà Tin (Cting). B HR nhận nhiệm vụ do Tiểu Đòan giao, lợi dụng lúc
hành quân đi lên Cà Tin, D nghi binh để B mình hành quân cắt rừng về núi
Liếp sau khi ra khỏi phum Pẹc saNeng một đọan, cắt rừng bám dọc theo con
suối phía bờ bắc, sau một buổi cắt rừng chúng tôi đến địa điểm do bố Sườn chỉ
định, đó là ngã ba suối cách phum Liếp khỏang 1km, cách con đường mòn từ phum
Liếp về phum Pec sa Neng, ở ngay đọan có nhánh suối cắt ngang đường, tôi lựa vị
trí thuận lợi để bố trí B sau cho chỉ cần một chổ gác. Sau đó thực hiện mệnh
lệnh của Bố, tạo điểm phục kích cho một tổ sát con đường mòn. Tôi chọn một ổ
mối to như đóng rơm sát cách con đường 3 mét tạo ổ phục kích bí mật bố trí một
khẩu RPD, một khẩu B40 và một AK. Anh em luân phiên ra phục cã ngày lẫn đêm.
Ban ngày nhiều người dân, cã xe bò đi qua lại nhưng không hề hay biết. Nhưng
đánh địch cũng không phải dễ, chúng tôi kiên trì phục một tuần mà không hề đụng
địch, ăn hết gạo, cho thông tin báo cáo lên bố, bố ra lệnh cho cắt rừng rút về
phum Cà Tin, lúc nầy là gần tết cổ truyền Việt Nam năm 1982. Thời điểm nầy anh
Xuân lại về phụ trách Đại đội. Anh Xuân tổ chức cho cã C9 vào rừng đốn cây, đào
lò hầm than, cữ người canh lò than, chỉ huy kỹ thuật là anh Xuân, sau vài ngày
hầm than, khỏang hai hoặc ba lò gì đó. Số lượng than thu được cũng nhiều, Anh
Xuân giao cho quản lý đại đội cùng với vài anh, thuê xe bò mang ra Siêm Riệp
bán. Không ngờ được tiền nhiều ra phết. Mua được một con bò to, cã gà, cã thịt
heo, rau quả, bột ngọt thuốc lá tha hồ ăn tết. Năm nay nhờ làm kinh tế tranh
thủ mà anh em chúng tôi ăn tết lớn. Anh em vui sướng vô cùng. Đón giao thừa vừa
ăn tết vừa chiến đấu, bên bình trà nóng anh Xuân Tâm sự với anh em chúng tôi
về, cuộc đời riêng tư của mình về vợ con ngòai bắc, anh ước gì khi hết chiến
tranh tất cã anh em mình về quê anh, quê anh gần biển làm nghề đánh cá, ở đó
rất nhiều con sứa, gỏi sứa rất ngon và chính tay anh sẽ làm món gỏi sứa (món
nộm) để đãi tất cã anh em mình ngay trên thuyền đánh cá. Nhưng nào ai có ngờ
đâu sau nầy khi chia tay nhau quá đột ngột mỗi người một phương trời. Cho đến
bây giờ tôi vẫn chưa gặp được người đại đội trưởng yêu mến đó.
Qua tết, D4 hành quân lên phum
Trúp, C9 đóng ở cuối phum phía nam, phum nầy rất lớn, D4 đóng ở đây khá lâu, ở
phía bắc cuối phum có bàu nước cạn, sáng sớm chúng tôi đi tuần phát hiện dấu
chân cọp (hổ) ra đây uống nước, có hôm lúc trời sáng trăng dân đến báo có hổ
vào nhà dân bắt heo, tôi cho một tổ ra săn, khi anh em đến một lùm sậy lớn,
nghe tiếng gầm gừ trong lùm sậy, cho trung liên bắn vào, thế là nó cỏng cã con
heo chạy mất chỉ để lại vết sậy và dấu máu, ở đây xung quanh phum heo rừng cũng
nhiều lắm, khỏang một tuần sau có một tên địch ra hàng chúng tôi.
Khỏang một tháng vào buổi sáng,
anh Ngọc đen, tay trinh sát giỏi của Tiểu Đòan đã lập nhiều chiến công, thấy
địch tình yên tỉnh, anh vác AK sang chơi C11 dọc theo đường bị địch phục kích,
chúng định bắt sống, nên chúng bắn tắc cú vào chân, bắn viên đầu trượt, anh
Ngọc tưởng đâu anh em đi săn bắn lạc đạn, viên thứ hai trượt tiếp, quay lại
nhìn kỹ thì thấy một đám địch lố nhố bên đường, anh vừa xuống súng định bắn lại
thì chúng đồng lọat nổ súng, một viên trúng vào mông bên phải làm anh rớt khẩu
Ak. Vì chúng đông quá, anh Ngọc nhanh chân chạy tạt vào phía bên nây rừng,
chúng đuổi theo truy lùng, nhưng với kinh nghiệm nhiều năm dù rơi vào tình thế
rất ngặt nghèo, anh Ngọc bình tỉnh chạy một đọan, lợi dụng rừng anh bẻ ngoặt
vòng ngược về phía sau lưng địch, chúng cứ đuổi theo hướng anh chạy ban đầu vì
vậy càng lúc chúng càng xa anh. Một hồi sau vết thương thắm đau anh phải
lết mới về đến đơn vị.
Ở phum nầy gần nhà mình đóng quân
có một cụ làm nghề thầy bói, vô tình mình đến chơi thế là cụ bảo lên đây cụ xem
cho, mình cũng lên, sau một hồi ngắm mình cụ bảo khỏang một tháng nữa mình sẽ
được về nước, mình cảm ơn cụ rồi lẵng lặng đi xuống cầu thang. Ở đây một thời
gian, lùng sục khắp nơi cũng không phát hiện cứ của địch. D4 rút dần dần về
phía Péc sa Neng theo kiểu cuốn chiếu, rút đi nhưng để lại một B
phục kích đầu phum kiểu núi Liếp. Khi vừa rút khỏi phum Cà Tin thì chiều
hôm đó địch mò vào, bị tổ phục kích của ta diệt sạch hai mạng (do anh Phụng
bắn, cũng để địch mò đến gần còn hai ba mét mới bắn nên không thằng nào chạy
khỏi).
Khi về đến Péc Sa Neng, thì D4 cử
một C đi lùng ở phum Ske kun. Bất thình lình đụng địch quân số rất đông có thể
gần trăm tên, có cã cối 82, C10 bị một trận bất ngờ, nhưng chỉ có vài người bị
thương, không ai hy sinh. Ngày hôm sau cã Tiểu Đòan hành quân vào thì địch rút
sạch trận nầy do Ông Kiệm chỉ huy, trên đường hành quân về bắt được một tên
trinh sát của chúng ở bên bờ suối cạn, chúng tôi lấy dây võng trói ké dẫn về,
đến phum Péc sa neng vừa về đến cứ thì tên nầy chạy, anh Nị bắn theo một
quả B40, trượt, đạn bay về phía cối 82, Cối 82 tưởng bị địch tập kích bắn phản
pháo liền một quả rớt ngay con đường chúng tôi đang đuổi theo tên tù binh, may
tôi vừ chạy khỏi nghe tiếng cối nổ sau lưng, tên tù binh chạy mất, lùng sục
trong rừng một hồi không thấy tôi cho anh em rút về mới hay cối ta bắn làm anh
Vàng khẩu 12ly 8 hy sinh.
Đóng đây một thời gian, E Tiền
Phương rút về phum Spên Thmây, đóng nơi trường học. D4 vẫn còn ở lại Péc sa
Neng, nhưng C9 thì rút về phum Spên Thmây theo ETiền Phương. C9 bố trí đóng đầu
phum phía bắc gần cây cầu gỗ. Chúng tôi bố trí đội hình xong Bmình đóng chận
ngay đầu phum. Ngày hôm sau Sếp Mao TMT lúc nầy chỉ huy Trung Đòan đi kiểm tra
vị trí đóng quân, khi đến Bmình, Sếp ra lệnh cho cữ một A ra ở ngay phía dưới
căn nhà sàn nhỏ nằm giữa đồng vì Sếp cảm thấy hở sườn ở phía đó. Tôi không chấp
hành mệnh lệnh vì thấy vô lý. Tôi không bố trí anh em ở đó vì căn nhà sàn nhỏ
nằm giữa đồng trống không có vật che đở cũng như che khuất, xung quanh đồng
trống cách căn nhà chưa tới 60 mét bao bọc xung quanh là rừng chồi, bố trí chốt
gác ở trong sát rừng chồi thì làm sau quan sát được địch khi chúng đã vào rừng
chồi, có phải là đưa một A ra đó làm bia cho địch nó bắn hay không, tôi xin vẫn
để một A ở luôn bên nầy đồng trống như củ, chỉ tổ chức thêm một chốt gác quan
sát ngay dưới nhà sàn, ông ta không chịu, có cã C trưởng đứng đó (lúc nầy là
anh Hải), ông ta khăng khăng không chịu và bảo rằng tôi bể chiến đấu, chống
lệnh. Tôi tức quá nói luôn , ông có ngon thì cùng với tôi văng võng ngủ tại đó
để cho anh em ở trong nầy, ông có dám không. Ông không nói gì hết phăng phăng
về E Tiền Phương, ngày hôm sau ra lệnh cho C Trưởng tổ chức họp hội đồng kỹ
luật xét kỹ luật tôi. Tôi vẫn trình bày như thế và vẫn cho anh em đóng quân như
cũ.
Vài ngày sau anh A trưởng (đáng
lẻ phải đóng quân ở nhà sàn) , tôi ra lệnh cho chốt đường khi về thì đạp Mìn (trái
mìn mà địch chôn rồi lấy vỏ xe đạp lăn lên để ngụy trang), anh bị cụt mất bàn
chân phải. Vài ngày sau chúng tập kích vào B tôi, lúc 2 giờ chiều, làm một
chiến sỹ bị thương, tôi lập tức triển khai đội hình rồi nhanh chóng dẫn hai
chiến sỹ nữa với tôi là ba người cắt rừng chăn đường chúng, vừa ra khỏi rừng
gặp dấu chân chúng mới vừa đi qua, chúng tôi bám theo, đến nhà sàn đầu phum
(phum có chùa hoang, nơi đây trước kia chúng đã từng phục kích trinh sát Sư,
nơi gài mìn mà một A trưởng của tôi vừa mới đạp cách đây vài ngày) thấy
dấu chân tập trung nơi đây và có một dấu chân còn dính cát leo lên nhà, nhà
đóng cửa, tôi đạp bung cửa, một tên địch đứng sau cửa té đái ướt cã quần, mặt
còn đóng khói B40, súng chúng đã dấu nơi khác, đang bắt tên nầy, thì trong phum
chúng ra ám hiệu từ nhà nầy truyền qua nhà kia, vì có ít người chúng tôi nhanh
chóng rút và lôi tên nầy về nộp cho E.
Hai ngày sau buổi trưa tôi được
lệnh hành quân về phum FLUÔNG trả vũ khí và về nước học đại học, cùng với tất
cã anh em học sinh sinh viên tình nguyện tham gia bộ đội vào ngày 4 tháng 11
năm 1978. Buổi tối chia tay hết sức bất ngờ với anh em, tôi không cầm được nước
mắt. Liên hoan cho buổi chia tay là một con gà gần một kg, do đổi cái áo, khi
nồi cháo gà chín thì trời vừa tối, anh em phải ra gác ai còn lại cùng
nhau liên hoan trong bóng đêm , nói với nhau khe khẻ vì vậy mà buổi chia
tay không bao giờ quên được, bình ton tấm dù để lại cho anh em, tôi chỉ mang
chiếc võng nylon cũ rít về vì chiếc võng nầy là của anh Y Tá Tiểu Đòan
khi hy sinh ở trận đánh trên núi Hồng, chiếc võng còn vết đạn và còn cã vết máu
của đồng đội giặt không phai, sau đó cấp cho tôi khi võng tôi bị rách, chiếc
võng nầy hiện nay vẫn còn trong ba lô kỹ niệm của tôi.
Năm 1988 tôi vào “tình nguyện”
vào cơ quan tiền phương TCHC đóng tại trai Đa Vít ở Tân Sơn Nhất của Mỹ cũ. Với
chức danh: Trợ lý kỹ thuật TCHC rất oai, quân hàm đại úy. Phòng KT của tôi
ở Hà Nội đảm nhiệm rất nhiều việc: bảo đảm KT cho toàn bộ các nghành nghề
chuyên môm cho TCHC, trong đó có cả ban khoa học hâu cần kể cả quân y học, tập
chí Hậu cần. Nhưng thực chất năng lực thì chủ yếu là xe và tàu thuyền. Nên ở
trong Nam nó cũng rứa nhất là chỉ có một mình tôi. Nên ngoài việc tàu xe ra mà
gặp việc khác thì tôi chỉ lưu CV theo thủ tục hành chính và kính chuyển các
nơi. Ở phía nam, riêng lực lượng vận tải có e33 vận tải oto đóng ở Biên Hòa,
e685 vận tải ôtô + 1 tiểu đoàn tàu pha sông biển, đóng ở Tân Cảng, e685 vân tải
ôtô vận tải ôtô đóng ở câu sập Nongpeng ngoài ra còn rất nhiều những đơn vị
trực thuộc khác: các kho quân lương quân trang ở Gò Vấp, kho QY ở Tô Hiến
Thành, kho vật tư ở Tân Cảng, các xí nghiệp may đ x28,x32 .v.v.. nhiều lắm tất
cả xe đều mang biển TH…. Cái thời cơ chế xin cho mà để một thằng đại úy nhưng
tôi quản thì không thể được. Nên tất tật tôi chỉ là người đề xuất (kèm chữ ký
của mình), tiếp sau là chữ ký của một phó phòng KH TCHC, chữ ký cuối cùng là
đại tá tham mưu phó TCHC, một số trường hơp phải thiếu tướng phó chủ nhiệm TCHC
quyết mới xong.
Lúc ấy phải nói quyền tôi to lắm,
nhưng không hề lạm dụng (nhiều người nói là ngu), tôi đã giải quyết công việc
mà dưới quí, trên tin. Thực sự để làm được điều này không dễ đâu, vì mình phải
hiểu cái nào là đòi hỏi quá mức của cơ sơ, cái nào là cần thiết cho họ nhưng có
những cái chả ảnh hưởng đến ai thì tôi chiều, nên dưới quí là vậy.
Duy có một lần tôi giải quyết hơn
100 bình điện mà chỉ viết giấy “ bướn”, tôi đã phá lệ và anh em coi kho cũng
phá lệ. Cuộc rút quân của bộ đôi tình nguyện K năm 1989, chúng tôi đã làm KH
bảo đảm xong xuôi, kiểm tra các khâu hoàn chỉnh, chỉ chờ ngày xuất quân. Trước
hai ngày xuất quân thì phó chủ nhiệm kỹ thuật e33 (bây giờ đang là cục trưởng
cục vân tải TCHC) lên, mặt tái mét :” Phong Quảng ơi ! Đêm qua bọn trộm Tam
Hiệp nó vào mang cả xe lam lấy hết số bình đang nạp ở xưởng rồi.”
Hai anh em ngồi bàn đi tính lại chỉ còn cách cấp mới để kịp hoàn thành nhiệm vụ
(bình mới phải nạp theo qui trình phụ thuộc vào thời gian) và nghĩ báo lên trên
lòng vòng sợ không kịp. Tôi viét một giấy tay cho chủ nhiệm kho và mọi cái đều
đúng như ý đồ. (Bác nào trong đợt rút quân ấy êm ả là nhờ có tui đó, không thì
ít nhất một trung đoàn nào đó còn mằn lại đấy, kể công chút xíu mà).
Sau khi rút quân thắng lợi, tham
mưu phó gọi tui lên hạch :
_ Sao cậu không báo cáo tớ

_ Tôi phân trần rằng sợ không đủ
thời gian và rồi nhiều lý do nữa
Xếp cười tuơi và nói :” Cậu không
tin tớ à !!!”
Hóa ra được xếp khen, Thực
sự cái bộ sậu hậu cần phía Nam chúng tôi làm công việc bảo đảm cho anh em bên K
đã làm hết mình. Các bác lính K và cả phía bắc nữa rất khổ đấy nhưng đất nước
lúc ấy thực sự khó khăn.
Khi bác 2 ruộng dẫn tên tù binh
về phum Piệc chơ năng, thì tôi đang mặc tà lỏn đứng tắm ngay cái giếng, khẩu AK
dựng ở gốc dừa bên phải tấm hình này, và tôi nhớ không lầm thì có múc nước cho
1 anh D4 đi đầu tạt vào rửa mặt, tốp AE đi sau tạt vào các nhà dân ven đường,
không đi sát thằng tù binh, nó quan sát thấy phía sau chỉ có 1 người mang B40,
nên nó vùng chạy vào đường mòn về hướng phum Piệc ChơNăng Cha.
Căn nhà trong hình là nhà kho của
Pốt bỏ hoang, B DKZ của C17, dùng làm bếp. Từ hướng bắc bác 2 về qua căn nhà
này là tới cây cầu gỗ. Khẩu DK82 nằm ở bìa rừng sau căn nhà gỗ này, nòng hướng
vào phía núi. Tấm hình này tôi chụp chung với Mạnh (B phó B 3 DKZ ), khoảng 3
bốn ngày trước khi Vàng hy sinh. B trưởng B 3 (anh Thụ) luôn bị đau thần kinh
tọa nên thường xuyên giữ cứ ở phum Angkor Krao

, rất ít khi đi chiến dịch. Vàng là chiến sĩ
cối 82, thuộc trung đội 2-C17 đi tăng cường cho B1 của tôi trong chiến dịch
này.
Tên tù binh bắt ở gần O Chek kun,
anh em mình quen gọi là (ske kon), khi đưa về Pec sa neng nó chạy, tay giữ cây
B40 mà Ăng ko krao mà nhìn thấy đó là Nị (lùn ) trước kia là lính của mình sau
nầy điều lên trinh sát, lúc đó B của mình đóng gần nhà ở trường học cũng gần
cái giếng nước, khu vực bên nây cầu chỉ có một cái giếng nước đó thôi. Còn gần
phum Liếp có nhánh suối cắt qua con đường mòn đi về péc saneng (Peak sneng) là
nơi B mình phục kích, sau đó cắt băng ngang khu rừng già về phum cà tin (phum
TING) khi cắt qua rừng già anh em mình còn gặp một con gấu. Hình Ăng ko krao
chụp có phải do tay thầy giáo nhà ở Péc saneng cạnh nhà má có máy may không ?
Tay nầy chuyên chụp hình cho bộ đội, chụp hình chổ nào là chổ đó bị tập kích,
Ăng ko krao có để ý việc nầy không ?
Bản đồ nầy hình như lâu lắm thì
phải. Ở péc saneng Cha con đường mòn thì đúng, có lần mình phục kích ở con
đường ra hướng tây, thì địch lại ra con đường hướng nam, nên nó thoát được, lúc
đó nhà dân ở hai cụm, phía bắc con đường ở tập trung là đúng rối. bọn địch bắt
gà ở đây mình nằm sát phum nhìn thấy nhưng không dám bắn vì sợ dân chết nhiều.
Như vậy ở bài viết trước sau khi phục kích hụt mình về báo cáo nhưng E không để
ý lúc nầy sếp Mao chỉ huy, rỏ ràng là một vùng rừng phía sau lưng chiến dịch,
E747 đã bỏ sót không hề có cuộc truy lùng nào.
Còn ở Pẹc saneng Thmây thì đã có
trường học nhưng chỉ có một cái nhà lúc mình đánh nhau là khoảng ba, bốn cái
nhà ở bên đó lận, cái giếng ở bên đó luôn, lúc 7 giờ sáng có lần B mình bị nó
bắn B40 vào giếng khi thấy anh em mình tập trung tới đó rửa mặt đánh răng, mình
bắn trả ngay một trái B40 liền sau đó.
TP HỒ CHÍ MINH Ngày 19 tháng 6
năm 2009
Kỹ niệm 30 năm những tháng ngày
truy đuổi địch .
Tâm tư những người lính.
Hai Ruộng xin chào các bạn.
Sau 3 năm 11 tháng 27 ngày phục
vụ trong quân đội. Đây là khỏang đời đẹp nhất, dù rất khó khăn gian khổ, nhưng
nơi đây thể hiện cuộc sống và những bài học thực tế đầy tình người tình đồng
chí, đồng đội. Những tấm gương không bao giờ phai như đ/c thượng úy CTV Tiểu
Đòan Phạm Thanh Mai hy sinh vì cứu người lính liên lạc của mình, đ/c đại úy
Tiểu Đòan Trưởng Đàm Văn Sườn mà anh em cã tiểu đòan yêu mến gọi là bố Sườn,
người chỉ huy đầy quả cảm, bình tỉnh và thông minh đ/c là chổ dựa tinh thần của
anh em trong đơn vị, lúc mới qua anh em trinh sát phát hiện mìn, sau đó ngần ngại
không dám đi tiếp, bố rút súng ngắn cầm tay và bảo: << tụi bây không dám
đi để tao đi, bố cứ đi ào ào bạt mạng>>, anh em trinh sát thấy vậy mới
nói, bố ơi bố xuống đi để tụi con đi đầu, bố mà chết thì tụi con ăn nói làm
sao. Cã bốn năm trời bao nhiêu trân đánh quan trọng đều do bố chỉ huy, có bố
chúng tôi yên tâm vững chí. Còn bao nhiêu cán bộ sỹ quan khác trong đơn vị cũng
vậy như anh Mơ, anh Đấu, anh Long, anh Trị, anh Xuân, dàn cán bộ đại đội ai
cũng gần gủi và gắn bó với anh em. Hàng ngũ trung đội, tiểu đội và anh em chiến
sỹ cũng vậy, mỗi người, mỗi cái tên sao vô cùng thân thiết, chia sẽ với nhau
từng vắt cơm chấm múi, từng vắt gạo rang vàng, cho đến điếu thuốc quấn
bằng lá cây rừng. Nhớ từng câu chuyện tếu, từng câu chuyện thật cười ra nước
mắt.
Các đồng chí chỉ huy cấp Sư Đòan,
Trung Đòan, cũng vậy nơi nào anh em cũng kính trọng và thân thiết, anh em chiến
sỹ không gọi cấp chỉ huy của mình theo cấp bậc mà gọi là <<Chú …>>
. Như Chú Năm Mân, Chú Tư Đáp, Chú Ba Thắng, Chú Sáu Thành, Chú Bảy Ga,v .v …
Hình ảnh cú Tư Đáp tháo chiếc nhẫn kỹ niệm riêng của mình ra để trả tiền nước
mía cho những anh lính tục tạc ở bến phà Kam Pong Chàm mà không hề mắng mỏ lính
một câu, hình ảnh một vị trung đòan Trưởng tắm cho lính, những hình ảnh đó anh
em làm sao mà quên được. Mỗi lần đến thăm lính là chú Tư cho lái xe chạy xuống
bất ngờ không hề thông báo cho đơn vị biết để mà ra chốt giữ, đã có lần chú Tư
bị chúng phục kích bắn trượt quả B40, chú Tư xuống đơn vị khi thì trong tay
khẩu AK, khi thì khẩu M79 như lính vậy, anh em làm sao không quí trọng được. Vì
thương và vì kính trọng chú nên mỗi lần chú xuống đơn vị là anh em tự nguyện ra
chốt giữ để chú Tư về được an tòan Đó là những tình cảm sâu đậm của đơn
vị đã khắc vào sâu vào tâm trí của từng người lính không thể nào phai dù cho
người lính đó hiện nay đang sống ở nơi đâu và làm gì đi nữa. Tuy nhiên trong xã
hội lúc nào cũng có cái tốt và cái xấu, cái tốt là cơ bản của đơn vị do nhiều
người trung thực, quả cảm dựng nên. Cũng còn một số rất ít người lúc nào
cũng khôn khéo, lúc nào cũng toan tính với anh em đồng đội. Trong khi anh
em cực khổ gặm cơm vắt, có khi còn là bo bo vắt thay cơm vậy mà cũng có Sếp bữa
cơm nào cũng có kẽ hầu người hạ, buổi cơm nào cũng có cá có gà, thuốc hút thì
tòan là SAMIT, GOLD CITY, thì hỏi anh em làm sao kính trọng được. Có lần anh em
trinh sát chúng tôi lên trung Đòan nhận nhiệm vụ mắc võng ngũ ở gần BCH Trung
Đòan, ban đêm mấy đứa em bò vào cắt hết bầu bí của Sếp, mấy đứa cắt cớ chỉ cắt
ngang nữa trái thôi trái nào cũng cắt, sáng hôm sau nấu cơm chuẩn bị hành quân
thấy anh em mang bí ra nấu canh, tôi hỏi được bí ở đâu ra, mấy đứa em trả lời,
hồi tối bò vào cắt của Sếp, hỏi tại sao không xin, anh em bảo cắt bỏ ghét, anh
em lôi ra nửa bao quân dụng tòan bầu với bí non. Khi trinh sát xong địa bàn về
cứ anh Mơ hỏi, tụi bây phá gì của Sếp mà khi tụi bây đi rồi Sếp điện về Tiểu
Đòan chữi <<quân các ông là quân ăn cướp>>, anh em mới kể cho anh
Mơ nghe, anh Mơ bảo tụi bây dại, tụi bây bò vô như vậy rũi vệ binh Trung Đòan
phát hiện được vệ binh tưởng tụi bây là địch, nó bắn tụi bây thì tao trả lời ra
sao. Đúng là dại dột.
Chúng tôi thương cho bố Sườn, từ
đầu chí cuối xông pha trận mạc vậy mà khi sang K bố mang quân hàm thượng úy,
đến khi về cũng chỉ có đại úy mà thôi, còn Sếp khi sang K mang quân hàm trung
úy, khi về mang quân hàm thiếu tá, tài năng của Sếp thể hiện với cấp trên như
thế nào anh em lính lác chúng tôi không sao hiểu nổi. Nhưng đối với anh em lính
lác thì Sếp nầy gần như lính không nể phục chút nào dù cho Sếp nắm sinh mạng
chính trị của anh em.
Chúng tôi về Trung Đòan ở lại một
đêm, tụi nghiệp anh em văn thư phải đốt đèn dầu suốt đêm để viết lý lịch và các
lọai giấy tờ cho anh em chúng tôi, đưa lý lịch quân nhân cho chúng tôi khai bổ
xung ghi vào tham gia bao nhiêu trận đánh, chúng tôi đều bỏ trống, không ghi gì
cả, trưa hôm sau hành quân về Đòan 585 ở bên bờ nam hồ Ba Rài, về đây chúng tôi
ăn xong rồi ra hồ tắm thỏai mái, hai ngày sau có đòan quân xa chở quân lên,
chúng tôi lên xe về nước. Đến đây chúng tôi gặp lại hầu hết các anh em hồi còn
là tân binh huấn luyện ở số 2 BIS XVNT. Khi huấn luyện thì hơn trăm người hầu
hết là học sinh sinh viên, nay còn hơn bốn chục người, anh em tay bắt mặt mừng
trào nước mắt. Đòan xe đưa chúng tôi về KP Thom ngủ lại một đêm, ngày hôm sau
đi tiếp về gần Kam pong Chàm rồi rẽ về phía PHNÔM PÊNH, ngủ tại đây một đêm.
Chúng tôi tranh thủ đi chơi suốt đêm cho đến sáng, rồi lên xe về nước theo ngã
phà NECK LUÔNG về thành phố tập trung ở Đòan 583, cho chúng tôi về phép
rồi sau đó trở lên lại để giải quyết chính sách. Khi tôi về đến quê nhà từ thị
xã lội bộ hơn 10 km thì đến nhà lúc 10 giờ đêm, kêu cửa má tôi cầm chiếc đèn
dầu ra mở cửa khi nhận ra con, má tôi kêu tên tôi rồi ngồi lịm xuống
không nói được lời nào. Nghĩ lại gia đình tôi cũng còn nhiều may mắn, so với
anh em đồng chí đồng đội đã để lại một phần thân thể ở chiến trường, hay đã nằm
lại vĩnh viễn ở nghĩa trang. Hết phép chúng tôi lên nhận quyết định chuyển
ngành. Cã tập thể anh em chúng tôi chỉ nhận được một tờ giấy ghi nợ của Trung
Đòan là đủ tiêu chuẩn nhận Huân Chương Chiến Công H3, và HCCSVV hạng 3, tờ giấy
nầy nay đã nhòe hết chữ, nhưng Huân chương thì không nơi nào cấp cã, nơi nầy
đùn đẩy qua nơi khác.
Còn một chuyện nữa mỗi lần
nhớ đến là tôi cảm thấy hết sức ân hận, đó là việc tôi đề nghị khai trừ Đòan
đối với hai anh em chiến sỹ là Đòan Viên , lúc đó tôi là bí thư chi đòan
hai anh em rất tốt, chiến đấu rất dũng cảm, sống với anh em rất có tình có
nghĩa chỉ vì không chấp hành nghiêm kỹ luật, bỏ đơn vị đi chơi, lúc đó kỹ
luật cũng là đích đáng, nhưng nghĩ rằng vài tháng rồi sẽ cho phục hồi Đòan trở
lại. Đến khi về nước đột ngột không ai nhớ đến. Rồi sau khi chúng tôi ra đi,
nghe nói đơn vị cũng ghép qua ghép lại, nên không ai nhớ đến việc nầy nữa. Khi
đơn vị về nước theo Binh Đòan Cữu Long, lúc ra quân anh em cầm lý lịch bị khai
trừ Đòan, lúc đó anh em cầm lý lịch đi xin việc không nơi nào nhận hết. Đó
là Đặng Thiện Duy và Phạm Ngọc Hà (Hà nhỏ con nhưng khi địch tập
kích vào phum Prasat Cha một mình Hà ôm cây đại liên M60 vận động gần trăm mét
ra cho tôi bắn. Vừa mới bị khai trừ Đòan xong khi chạm địch tôi hô xung phong
là Hà chạy lên trước rượt địch chạy đến rớt nón. Mãi đến vài năm sau tôi mới
tìm gặp Hà và Duy, anh em tay bắt mặt mừng , nhưng lòng tôi đau nhói.
Nhớ lại bài thơ của Phạm Sỹ Sáu,
lúc đó anh em chúng tôi ai cũng thuộc << Gữi bạn làm xong nghĩa vụ
>>. Xin phép đ/c Phạm Sỹ Sáu cho phép chép vào đây nhé.
Mai mầy về Thành phố dang rộng tay
Đón mầy và đón bao thằng xong
nghĩa vụ
Mai mầy về bình yên trong giấc
ngủ
Có nhớ bạn bè biên giới ướt sương
đêm
Có nhớ tụi tao khát khao hôn lên
mái tóc mềm
Của con gái một thời thương nhớ
nhất
Mầy về mùa mưa quần áo không lắm
lem bùn đất
Dép sa bô gỏ trên phố chiều vàng
Quen tính hay đi mầy cưởi xe đạp
lang thang
Có nhớ tụi tao cởi trần đi phục
Hãy mở mắt ra nhìn đời trong đục
Nhìn thật bao dung và cũng thật
là người
Hãy nhớ trong gian lao bọn mình
vẫn cười
Trong thiếu thốn vẫn kiên trì
khắc phục
Đừng chùn chân nếu chạm vào tiêu
cực.
Dấu ấn chiến trường nào dễ phôi
phai
Mai mầy về với người yêu trong
tay
Hãy hôn giùm tao những nụ hôn đời
lính
Hãy nói giùm tao trong phút giây
trầm tỉnh
Rằng cám ơn nàng đã yêu lính biên
cương
Gặp cô gái nào mầy thấy dễ thương
Hãy chào giùm tao nụ cười mong
nhớ
Mầy đã trãi qua những đêm nằm
trăn trở
Cái riêng trong lòng đã chia sẽ
cho nhau
Vết thương nào không quằn ọai cơn
đau
Lại mơ thấy đôi tay mềm chăm sóc
Tụi mình con trai lúc lòng chùng
chực khóc
Đâu phải yếu mềm khi vuốt tóc bạn
thân
Mai mầy về đi dưới phố cây xanh
Nếu gặp nắng đừng đưa tay che vội
Hãy nhớ tụi tao trầm mình trong
nắng dội
Khát dòng sông như khát thuở
thanh bình
Phố lên đèn ánh điện sáng lung
linh
Có nhớ tụ tao bên nầy đêm bóng
tối
Mấy tháng ròng giọt dầu hôi không
biết tới
Nên rất trẻ thơ muốn trăng sáng
bốn tuần
Mầy về ra nông trường xưởng máy hay
cơ quan
Hãy làm việc bằng tinh thần người
lính
Cái thiếu ở chiến trường mầy đâu
cần làm sổ tính
Hãy làm thật nhiều sản phẩm giúp
tụi tao
Mai mầy về thành phố rợp cờ sao
Tao nhớ năm xưa tụi mình đi phấn
khởi
Buổi tụi mình lên đường chưa có
bài <<Em vẫn đợi>>
Nên tay cô gái nào đứng vẫy mãi
theo xe
Và thư đến với tụi mình trong
rừng khộp rừng le
Thành sức mạnh trên đầu lê xuất
kích
Mầy đi xi nê có nhớ những lần bám
địch
Nòng thép dài thay tay mõi bàn
tay
Tiển mầy về gió lốc bụi mù bay
Cho tóc bám ngập đầy đường đất
nắng
Trong trung đội thiếu mầy tao
càng thấy vắng
Nhưng vững tin đội ngũ vẫn còn
mầy
Tao chừ còn nặng nợ với cỏ cây
Nên chẳng biết nói sao cho mầy rõ
Đất nước mình hòa bình và súng nổ
Ở mặt trận nào cũng cần có niềm
tin
Trong thời đại chúng mình đất
nước sẽ bay lên
Bằng trí tuệ và mồ hôi tuổi
trẻ
<<Vì Nhân Dân …>>bài
hát dậy trong lòng mạnh mẻ
Mai mầy về tao xin gữi bài thơ.
Bài thơ sao hay quá, đừng chùng
chân nếu chạm vào tiêu cực, dấu ấn chiến trường nào dễ phôi phai, câu thơ như
nhắc nhở người lính khi về đời thường, luôn giữ lấy phẩm chất cao quí của mình
đã được tôi luyện ở chiến trường … Đất nước mình hòa bình và súng nổ, ở mặt
trận nào cũng cần vững niềm tin, thời đại chúng mình đất nước sẽ bay lên, bằng
trí tuệ và mồ hôi tuổi trẻ, <<vì nhân dân >> bài hát dậy trong lòng
mạnh mẻ.
Khi về gia đình bắt tôi phải cưới
vợ ngay. Vợ tôi chính là cô gái đã chờ tôi từ lúc ra đi <<Đường về
vàng tươi sắc nắng … Đường về ngập tràn hoa chiến thắng, có bóng em sánh
cùng>>. Nay mình cũng đã có hai con, cô con gái lớn đang là sinh viên năm
thứ ba đại học Y Khoa TP HCM, còn cậu con trai đang lớp 11, đã đến tuổi đăng ký
NVQS.
Cuộc đời qua nhanh như một giấc
mơ, mới ngày nào còn là thư sinh, chưa biết nấu cơm, thế mà bốn năm trãi qua
đời lính, chúng tôi thấy mình học hỏi và trưởng thành nhiều lắm
<<Dấu ấn chiến trường nào dễ phôi phai …>> . Ngày đầu tiên khi qua
sông MÊKÔNG, nơi thành phố Kam Pong Chàm thơ mộng. Cảnh đẹp thiên nhiên làm cho
tôi nhớ đến bài thơ của bà Huyện Thanh Quan: Tôi xin lặp lại.
Trời chiều bẽn lẻng bóng hòan
hôn.
Lách cách xa đưa tiếng bước dồn
Gác mái ngư ông về viễn phố.
Gỏ sừng mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mõi.
Dặm liễu sương sa tiếng trống
đồn.
Kẽ chốn chương đài người lữ thứ.
Lấy ai mà tỏ nỗi hàn ôn.
Nổi hàn ôn của bà Huyện Thanh
Quan như thế nào tôi chưa rỏ, nhưng nỗi hàn ôn của người chiến sỹ F317 đã 30
năm trời nay mới được tỏ cùng anh em đồng đội và các bạn gần xa.
HẾT
Xin cảm ơn các bạn theo dõi trọn
bài viết << kỹ niệm 30 năm những tháng ngày truy đuổi địch >> Hai
Ruộng
Phong tục
tập quán của nhân Dân Kam Pu Chia qua những người lính Tình Nguyện Việt Nam
Kam Pu
Chia sơ lược về địa lý có diện tích hơn 1/3 so với đất nước chúng ta. Đất nước
K gần như hình tam giác. Biên giới thiên nhiên gần như có ba dãy núi, phía giáp
Thái Lan có dãy núi ĐON RÉCK (có nghĩa là cái đòn gánh), kéo dài từ Bát Đom
Boong kéo dài cho đến Biên giới Lào, trên dãy núi nầy có đền PRết Vey Hia. Biên
giới phía Lào có con sông Mê Kông chảy xuống. Biên giới phía đông giáp với Việt
Nam là dãy Trường Sơn, từ tỉnh cực bắc Kat Ta Na Ki Ri xuống phía nam là tỉnh
Svoayrieng. Biên giới thiên nhiên phía nam là vịnh Thái Lan, ở ven bờ có dãy
núi Các Đa Mon, kéi dài từ Cam Pôt (giáp Hà Tiên) cho đến Po Xat (giáp Thái
Lan). Như vậy phần biên giới thiên nhiên gần như được bao bọc trọn vẹn bởi ba
dãy núi hiễm trở, phần còn lại là đồng bằng hình tam giác, có con sông Mê
Kông chảy qua, từ biên giới Lao đến Phnom Pênh rồi chia ra một nhánh chảy
về Biển Hồ (TONG LE SAP), có nghĩa la biển nứớc ngọt, Biển Hồ hình chiếc lá kéo
dài từ Phnom Pênh đến Siêm Riệp với chiều dài khỏang 150 km, chiều ngang chổ
rộng nhất khỏang 15km, chổ sâu nhất vào mùa nước nổi có nơi đến 8-9 mét, còn
một nhánh rẽ về phiá Việt Nam.
Về lịch
sử , dân tộc Kam Pu Chia có nguồn gốc ảnh hưởng văn hóa trực tiếp từ Ấn Độ mang
nét đặc trưng chung của các nước như Thái Lan, Miến Điện, các nét đặc
trưng nầy được thể hiện qua chữ viết, chùa chiền, tập quán tu hành của các vị
sư, lối kiến trúc và phong tục ở nhà sàn, cho đến lịch ngày tháng, ấn định ngày
tết của các nước nầy đều giống nhau, chỉ khác nhau tiếng nói của từng nước. Dân
tộc hầu hết là dân tộc Khmer, chia ra làm hai nhóm: Khmer lơ và Khmer Krom.
Khmer lơ tập trung vùng phía bắc, gồm các tỉnh như Kam pong Thom Siêm Riệp trở
lên có giọng nói phát âm nặng hơn, nhưng phát âm đúng chính tả hơn so với chữ
viết của họ. Còn Khmer Krom sinh sống ở các tỉnh phía nam, một số theo dòng
sông Mê Kông xuống định cư vùng đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam. Tôn giáo
hầu hết là Phật giáo và cũng là Quốc giáo, hiện nay cũng cò một số chùa vừa là
trường học các nhà sư cũng là thầy giáo. Kam Pu Chia có mối quan hệ với Việt
Nam từ Thời nhà Nguyễn Gia Long, đầu tiên là mối quan hệ cầu viện giúp đở lẫn
nhau, sau đó cũng có những xung đột của thời phong kiến, mạnh được yếu thua, có
một thời quân của nhà Nguyễn sang đóng tận gần Siêm Riệp đặt vùng Phnom Pênh
thành một trấn gọi là Trấn Tây Thành, vua nhà Nguyễn cho xây các thành như
thành La Bích, thành La Liêm và đã từng đóng quân ở thành Thành U Đông Siêm
Riệp (muốn tìm hiểu thêm các bạn tìm cuốn Việt Nam sử lược sẽ rỏ), thành La
Bích hay La Liêm hiện nay là thành Phnom Pênh, sau nầy đến thời Minh Mạng
thì nhân Dân Kam pu Chia nổi lên giành lại , quan quân Minh Mạng phải rút về.
Sau nầy
trong chiến tranh chống pháp, Cách Mạng Kam Pu Chia luôn luôn gắn bó với phong
trào Cách Mạng của Việt Nam, đến năm 1954, khi ký kết hiệp định Giơ Neo thì
Cánh Mạng Kam Pu Chia bị các thế lực mạnh hơn ép phải giải giáp tại chỗ,
Cách Mạng Việt Nam cố gắng bênh vực nhưng không được, lực bất tòng tâm. Đến
chiến tranh chống mỹ, đất nước Kam Pu Chia do nhà vua Xi Ha Núc lãnh đạo
(XOMĐACH XIHANÚC, chữ XOMĐACH có nghĩa là vua hay là hòang tộc,
XOMĐACH HUNSEN, tức là ông Hun Sen được nhà vua thương yêu cho vào hòang
tộc nên được gọi là XOMĐACH Hun Sen). Nhà vua lãnh đạo đất nước theo
đường lối trung lập, mới nhìn thì thấy đường lối rất khôn ngoan, ai cũng chơi,
ai cũng bang giao, nhưng rất nguy hiểm, khi còn học phổ thông thầy giáo của tôi
khi giảng về Kam PU Chia thầy ví dụ XIHANÚC giống như diễn viên xiếc đang
biểu diễn trò đi dây thăng bằng, hai bên là hai hai thế lực Tư Bản và Cộng Sản,
khi Tư Bản cho một món quà thì XIHANÚC nghiêng về phía Tư Bản, vì vậy Cộng Sản
phải cho thêm một món quà để cân bằng và thầy giáo tôi tiên đóan rằng dứt khóac
XIHANUC sớm muộn gì cũng phải đổ vì Tư Bản hay Cộng Sản đều khôn hơn
XIHANUC nhiều, vài năm sau XIHANUC đỗ thật, do Mỹ dựng lên chính quyền tay sai
lấy tên là chính quyền Tự Do, do LÔN NÔL cầm đầu, như vậy chẵng bao năm Kam Pu
Chia lại nội chiến. Thời nầy chính quyền Ngụy Sài Gòn, đem quân sang giúp chính
quyền Ngụy Lôn Nôl nên có cuộc bắn giết dã man vào nhân dân Kam Pu Chia, để trả
thù cho Việt Kiều Tại Kam Pu Chia bị tàn sát do binh biến. Chính vì thế mà nhân
dân ở vùng Kam pong Chàm hay gần biên giới Việt Nam phải bỏ chạy vào rừng khi
có bộ đội Việt Nam tấn công sang sợ bộ đội ta trả thù dân tộc, mãi sau nầy khi
thấy bộ đội mình hiền không bắn giết trả thù ai cã họ, mới kéo về.
Còn
nguyên nhân vì sau Mỹ xúi giục Lôn Nol lật đổ XIHANÚC. Nếu Các bạn có điều kiện
tìm đọc cuốn sách nước Mỹ và Đông Dương do một phóng viên người ÚC viết thì các
bạn sẽ rõ. Mình xin tóm tắt như thế nầy: << Sau năm 1954, khi chính quyền
Ngô Đình Diệm ra đạo luật 10/59, các gia đình có thân nhân tập kết hay đã
tham gia Cách mạng đều bị bắt bớ. Vì vậy các gia đình nầy tìm cách chạy sang
Kam pu Chia làm ăn sinh sống, tôi cũng có thân nhân chạy sang Kam pu Chia sinh
sống dạng nầy. Hầu hết những gia đình nầy đều có cảm tình với Cách Mạng Việt
Nam, nên có nhiều đóng góp, giúp đở cho Mặt Trân Gỉai Phóng. Hơn nữa vì XIHANÚC
trung lập nên con đường chi viện cho chiến trường miền Nam từ ngòai Bắc công
khai qua cảng trung gian Kam pu Chia. Vì vậy lật XIHANÚC là việc người Mỹ
phải tính tới. Sau khi lật đổ Ngô Đình Diệm, Nguyễn văn Thiệu lên thay. đường
lối chiến lược thay đổi theo chiều hướng khôn ngoan, thâm hiểm hơn. Khi Lon Nol
lật đỗ XIHANUC, thế lực thân mỹ lên cầm quyền, dưới sự xúi giục của CIA, một mặt
họ giết hại Việt Kiều tại Kam Pu Chia có chiều hướng thân Cách Mạng. Một mặt họ
cho quân lính Sài Gòn bốc Việt Kiều về Việt Nam, một mặt họ xúi giục binh
lính Sài Gòn trả thù dân tộc gây mối thù chia rẻ giữa Việt Nam và Kam Pu
Chia đồng thời triệt phá lực lượng ủng hộ Cách Mạng Việt Nam tại
Kam Pu Chia. Vào lúc nầy một số rất nhiều Việt kiều bị giết thả trôi theo sông
Mê Kông, một số bị bốc về sống ở các trại tỵ nạn ở Việt Nam, vì sinh kế một số
thanh niên ở trại tỵ nạn phải đăng lính cho Chính quyền Sài Gòn. Còn lại phần
lớn Việt Kiều chạy thóat vào vùng giải phóng, để theo Cách Mạng.
Cũng
chính vì những nguyên nhân lịch sữ sâu xa trên, mà chúng tôi là con cháu thế hệ
sau nầy, khi sang làm nhiệm vụ Quốc Tế. Dù anh em bộ đội chúng ta hết sức
nghiêm chỉnh, hiểu được nhiệm vụ chính trị của mình do Đảng giao. Nhưng chúng
ta không thể nào tránh được sự hiểu lầm từ nhân dân bạn, đó là điều hết sức khó
khăn cho thế hệ chúng tôi. Nhưng chúng tôi tin tưởng rằng, sau nầy mối quan hệ
Việt Nam và Kam Pu Chia sẽ tốt đẹp mãi mãi từ khi chúng ta cứu dân tộc bạn được
hồi sinh , với tinh thần quốc tế trong sáng mà anh em ta phải đổ bằng xương máu
lẫn mồ hôi.
Tính tình
nhân dân bạn rất hiền hòa thật thà và chất phát, do ảnh hưởng của Phật Gíáo. Họ
thích màu đậm, đỏ thì đỏ đậm, xanh thì xanh đậm, vàng thì vàng đậm, màu vàng
dùng cho các nhà sư. Họ rất giữ lời hứa. Nhưng họ rất ghét tính gian dối, lừa
đảo, trộm cắp, ở xứ của họ nếu người nào trộm cắp hay lừa đảo họ, họ ít
khi thưa ra chính quyền mà nhân dân họ tự xử luôn (chém bỏ ngòai rừng). Về
phong tục mỗi năm có ngày lễ CHÔI SNĂM THMÂY, chính là ngày tết cổ truyền của
họ, tết của họ theo lịch của họ cũng dựa vào mặt trăng để tính tóan như là âm
lịch của ta, nhưng khác với ta họ hơn ta ở chổ, họ chọn ngày đầu năm vào lúc
trăng sáng tỏ, tức là ngày rằm hay mười sáu âm lịch của ta, để làm ngày mùng
một đầu năm của họ, nên năm nào dân tộc họ cũng ăn tết vào lúc trăng sáng. Cái
lễ thứ hai là lễ ĐÔL TA (tức là lễ thờ cúng tổ tiên hay là ngày giỗ tổ ).
Dân tộc bạn khác với chúng ta ở chổ, họ tổ chức ngày giỗ cho ông bà không theo
ngày mất của ông bà họ, mà cã nước họ tập trung giỗ chỉ một ngày, đó là ngày
Đôn Ta, cã nước ngừng lao động sản xuất, tập trung nấu nướng và mang lên chùa
để cúng tổ tiên, không phân biệt giàu nghèo, cúng xong cã gia đình và tập thể
cùng ăn uống no say tại chùa (điểm nầy tôi thấy họ văn minh và gọn hơn phong
tục chúng ta nhiều). Còn những sinh họat văn hóa hàng ngày thì từ lúc còn nhỏ,
trẻ con đã học múa truyền thống của dân tộc, ai cũng biết múa, múa rất
dẽo vì ai cũng được dạy từ nhỏ, bộ đội ta dù ai có bắt chước được giọng nói hay
cách ăn mặc có giống người K đi nữa thì họ cũng phát hiện dược người nước ngòai
qua các điệu múa.
Mỗi phum
đều có tổ chức nhóm múa người đứng đầu do một phụ nữ gọi là MÊ RUM. Người nầy
phải chưa có chồng, nếu có chồng coi như không còn tham gia nhóm múa nữa. Còn
đàn ông thì không giới hạn già, hay trẻ gì cũng múa được. Vào những đêm trăng
sáng lúc nông nhàn đâu đâu cũng rộn ràng tiếng trống lăm thôn. Một nét văn minh
nữa là ai cũng tự giác chấp hành qui định khi múa, thanh niên không hề có
chuyện đánh nhau vì việc giành đào múa, muốn thích múa với cô nào cũng được,
múa từng cặp nam nữ. Người múa càng khéo thì điệu múa càng lượn lờ uốn éo, tay
chân và cã thân hình đong đưa theo tiếng trống, tiếng đàn, càng uốn lượn sát
thân hình người phụ nữ chừng nào, động tác múa càng tôn vinh đựợc nét đẹp của
giai nhân, người múa càng điêu luyện, mê hồn. Một điều cấm kỵ tuyệt đối là khi
múa không được chạm vào thân hình của người đẹp dù cho vô tình hay cố ý. Vì vậy
mà những đàn ông càng lớn tuổi càng nhiều kinh nghiệm múa càng dẽo càng hay.
Nhóm múa nào cũng vậy trước khi múa họ đều cùng nhau hát một bài cúng tổ rồi
mới múa. Ở Kam pu Chia con gái cưới con trai, trong lễ cưới, ngày đưa dâu
(đưa rễ về nhà cô dâu) là một buổi rước múa, mọi người đều tham gia múa có
cã những cô gái ở bên đàn trai múa để tiển đưa chú rễ về nhà cô dâu, họ múa dọc
theo đường từ nhà chú rễ cho đến nhà cô dâu.
Đất nước
bạn thời đó nông nghiệp là chính, Biển Hồ gần như nuôi sống cã đất nước. Xung
quanh vùng Biển Hồ họ trồng lúa vào mùa khô là vụ chính của họ. Khi nuớc rút
đến đâu là họ cấy đến đó, khi nước cạn dần cũng là lúc lúa chín. Còn trên
rừng thì họ làm lúa rẫy. Cã gia đình chọn khu rững nào tốt là họ chặt cây lúc
đầu múa khô, ai ruồng được nhiều thì cấy được nhiều. Sau khi đốn cây xong họ
gom lại để đốt dọn đất, đất rừng tốt họ không phại cày xới hay bón phân. Khi
gieo hạt họ dùng cây nhọn như chày giã gạo, một người đi trước cắm cây nhọn
xuống đất tạo thành lỗ, người đi sau bỏ hạt giống vào, rồi lắp đất lại. Họ làm
rất thành thục, họ cho hạt giống vào chai, cầm chai trút nhanh xuống sa cho chỉ
vài hạt rớt vào lỗ. Khi gieo lúa họ phải gieo kèm theo, bắp, khoai. Nếu gieo
lúa không thì do đất quá nhiều phân cho nên lúa phát tirển lá nhiều dẫn tới
không có hạt. Vì vậy họ trồng bắp cây bắp sẽ lên cao hơn cây lúa khi thu
họach bắp xong là còn lại lúa thu họach sau. Xong mùa, họ làm chòi cao trong
rừng cạnh rẩy lúa, họ chặt cây làm kho lúa cất tại rừng bên rẫy lúa, khi nào ăn
họ ra đó giã thành gạo rồi mang về, không sợ trộm cắp.
Xong mùa
ruộng rẩy là đến mùa cá, thiên nhiên ban tặng họ Biển Hồ là một bể đầy cá. Dân
ở khắp nơi từ rừng núi kéo về Biển Hồ để bắt cá. Họ kéo cã gia đình mang theo
cã gạo, các lọai cũ, quả để ăn, đi đến đâu đói là dừng lại nấu cơm như
đòan du mục, cã phum lũ lượt ngồi trên chiếc xe bò, đi từng đòan về phía Biển
Hồ, vừa đánh bắt cá vừa chế biến ngay tại chỗ. Cá lớn họ làm khô, cá nhỏ vừa
làm cá sấy (cá hong khói) , hai món nầy bộ đội ta rất thích ăn. Còn một món ăn
rất dân tộc của họ không thể thiếu đó là món bò hóc. Muốn làm món nầy cá phải
để ươn, hai ba ngày rồi mới ướp muối. Thịt cá bị phân hủy thành lọai sền sệt,
nặng mùi. Ai chưa quen thì rất khó ngữi. Nhưng đã quen rồi thì đó là món nêm vào
các lọai canh không thể nào thiếu. Ở K bốn năm tôi cũng chỉ ăn được món
bò hóc nầy sau khi chế biến vài ba món mà thôi, ví dụ như tôi được một bà má ở
phum Kha Na gần thị xã Siêm Riệp nấu cho ăn món bò hóc chưng với thịt, rất
ngon. Má mua thịt ba rọi về băm nát, trộn với bó hóc, thêm cã củ hành tây, sau
đó chưng cách thủy, ăn với dưa leo vừa mới hái, nhờ mùi hành tây át đi mùi bò
hóc ăn nó ngon làm sao. Còn bà má ở phum Peck Sneng, lúc nào tôi ghé má
cũng nấu cho tôi ăn món << sầm lọ cà cô >> và má chỉ cho tôi cách
nấu, thỉnh thỏang tôi vẫn nấu cho gia đình ăn, cã nhà đều khen ngon (không có
bò hóc tôi thay bằng mắm). Món đó nấu như sau : Nguyên liệu gồm : Măng tầm
vong (phải là măng tầm vong mới ngon), sắc mỏng, lá rau ngót hoặc là lá dây
bình bát, cá trê hay cá sấy, một nắm gạo lức giã nhỏ (tấm gạo). Nấu nước sôi bỏ
cá vào đến khi sôi nêm bò hóc, rồi thả măng khi sôi lại thả rao ngót hay
lá bình bát vào, sau đó bỏ thêm nắm gạo lức giả nhỏ. Vị lá bình bát và gạo lức,
làm cho măng không còn the mà thêm ngọt, nước canh màu đục trắng như nước vo
gạo, khi chín cho thêm hành vào. Nấu đơn giản mà rất là ngon.
Còn một
món ăn nữa mà bộ đội ta ưa thích đó là món xôi Cà Lanh. Người dân họ dùng ống
tre lồ ô, cưa từng đốt. Sau đó dùng gạo nếp trộn với đậu đỏ, ngâm nước cốt
dừa một đêm sau đó cho vào ống tre, lấy rơm nút lại, rồi đem ống tre đi
đốt, đến khi chín họ gọt bỏ phần võ của ống tre chỉ còn lại võ lụa, treo lên
nóc nhà, khi nào ăn chỉ cần lấy tay tách lớp võ ra, rồi bẻ từng khúc. Ăn ngon
hơn bánh dừa của ta vì ngòai vị ngọt của nếp, vị béo của dừa, vị bùi của đậu
còn có vị ngọt từ ông tre. Ăn rất ngon mà để lâu làm lương khô cũng được.
Nông
nghiệp nước bạn còn một nét đặc trưng nữa đó là khai thác đường thốt nốt, tôi
đã viết ở các trang trước nên xin phép không viết lại nữa. Về nghệ thuật những
hình thức cao xa như múa cung đình ÁPSARA thì chúng tôi chưa từng thưởng thức
nhưng nghệ thuật dân gian thì chúng tôi cũng từng được thưởng thức, như
hát tuồng họ gọi là La BĂM, ngòai ra trong dân gian còn một lọai hình nghệ
thuật chỉ có ở vùng Siêm Riệp là có đó là hát Là dây (có nghĩa là hát đối đáp,
gióng như hò đối đáp ở miền Nam), Nhưng ở đây hát có nhạc cụ đệm đầy đủ, người
hát phải có kiến thức về văn học về nhạc, vừa sáng tạo, vừa có khả năng đối đáp
giỏi. Ở D4 có một A trưởng hát được lối hát nầy, để đối đáp tham gia văn
nghệ với nhân dân bạn, kỳ đó xảy ra tại phum Cà Tin (Cting), nhiều người dân vỗ
tay tán thưởng.
Về nhân
chủng thì dân tộc Khmer có nhân dạng khác với dân tộc Việt Nam ở chỗ. Nếu các
bạn nào nhìn vào các bức phù điêu ở đền Ăng Ko thì sẽ thấy nét khác biệt, cái
tài hoa của bức phù điêu là nói lên cái khác biệt rất cụ thể khó nhận biết của
dân tộc họ đó là cánh mũi. Nếu đễ ý các bạn sẽ thấy cánh mũi của dân tộc KHMER
sẽ to hơn và cong hơn so với các dân tộc xung quanh họ. Bộ đội chúng tôi sau
khi tham gia trận đánh về đóng quân trong dân. Lúc đầu họ còn sợ nhưng sau đó
thấy chúng tôi sống hòa đồng cùng với dân, thấy dân làm chuyện gì cũng giúp, từ
phát rừng làm rẫy cho đến giã gạo, quét nhà, lấy nước. Vì vây mà dân yêu mến,
nhờ vậy mà tầm hiểu biết của chúng tôi từ từ được nâng lên lúc nào chúng
tôi không biết so với các nhà nghiên cứu thì chúng tôi còn thua xa. Với
tấm lòng chúng tôi muốn đóng góp lên cư dân trên mạng. Nên còn gì sai sót mong
các bạn góp ý. Hai Ruộng xin cảm ơn các bạn.
Cách nấu
cơm nhanh.
Khi còn ở
huyện Xtung, lúc đuổi gần kịp sư 515 của Pốt, sau khi đánh hụt chúng ở phum gần
phum KRAYA. Chúng tôi hành quân theo con kênh đào chưa xong, nên lòng kênh còn
khô cạn. đến khỏang 3 giờ chiều. E lệnh cho D4 trong vòng 30 phút phải tổ chức
nấu cơm xong và vừa hành quân vừa ăn cơm vắt để đuổi kịp địch. Dù đang hành
quân mõi mệt, thấy có nhiều dấu hiệu đuổi gần kịp địch chúng tôi cố gắng chấp
hành lệnh của E. Nơi dừng quân 30 phút là bờ đê bên cạnh vũng bùn nước đục
ngầu, tắm còn chưa được lấy nước đâu mà nấu cơm. Nhưng nhờ sự hướng dẫn của các
đ/c thời chống Mỹ rốt cuộc chúng tôi cũng nấu được cơm ăn trong vòng 30 phút.
Vừa có lệnh dừng quân là trung đội phân công ngay, một tổ đi hái củi (đang mùa
khô củi dễ tìm , tìm củi có cành nhỏ mau cháy). Một tổ đào bếp, một tổ lựa thóc
trong gạo (thời điểm nầy, thóc lẫn trong gạo rất nhiều, vừa nhặt sạn, đất lẫn
trong gạo. Còn một tổ đào giếng lấy nước, tổ nầy quan trọng nhất. Tổ đào giếng
đến bên sát vũng bùn khoết một lỗ to bằng chiếc nồi đào xuống chừng bốn
năm tấc là có nước, nhưng nước bùn đục ngầu, mấu chốt là phải giải quyết nước
nầy ra sau. Rất đơn giản, lấy ca nhôm tát nước bùn ra, cứ tát nước thật nhanh,
nước bùn ra hết thì lớp nước sau được lớp đất lọc lại thành nước sạch, trong
vắt. Múc một nồi vừa đủ nấu cơm chưa tới 10 phút. Tổ đào bếp vừa xong là tổ tìm
cũi cũng vừa về, nhóm lửa ngay, chỉ cần một que diêm thôi là phải nhóm được
lửa, lửa cháy bùng lấy nồi đặt lên (cái nồi không), nồi vừa nóng là nước vừa về
đổ vào luôn chừa lại đất cát lắng ở đáy nồi, đậy nắp lại, chất ủi lên cã nắp
nồi đốt luôn, trong phút chốc nhìn thấy hơi nước bốc lên là nước đã sôi. sau đó
gạt lửa trên nắp nồi, để múc một phần nước sôi cho vào bình ton pha trà, còn
nước vừa đủ đổ gạo vào, lúc nầy gạo cũng đã nhặt sạch thóc, sạn, đất, đá. Đậy
nắp lại chất cũi lên cã trên nắp nồi đốt tiếp, khi nào nghe có
tiếng lách tách trong nồi là cơm đã cạn nước, tắt lữa chỉ còn lại
lửa than thôi. Trong khi đó tổ lấy nước đã lấy thêm được một nồi nữa, anh em
lấy khăn nhúng vào nước cho ướt khăn. xong dở nắp nồi ra cơm vừa chín, vắt cơm
luôn. B chúng tôi vừa nấu và vắt cơm xong là đúng 30 phút, lại còn có cã nước
trà uống. Đúng 30 phút E ra lệnh cho D4 tiếp tục hành quân thật. Chúng tôi vừa
hành quân vừa ăn cơm vắt với múôi. cũng có một vài B do khâu lấy nước chậm, nên
cơm chưa kịp chín, hoặc là trong quá trình nấu, mở nắp nhiều lần để thăm cơm
chín hay chưa nên mất nhiệt lượng nhiều, vì vậy làm cho cơm lâu chín. Các B nầy
phải chặt cây khiêng nồi vừa đi vừa cầm lửa theo đốt. Đêm đó sau khi qua
nhánh suối chúng tôi đã đuổi kịp tốp trinh sát của địch bố trí chận hậu và
khỏang một đại đội địch nằm cạnh trung đội trinh sát của chúng vào lúc 9giờ
đêm, trên trời trăng non còn soi sáng. Lần đầu tiên chúng tôi gặp địch, bốn đứa
chúng tôi đi đầu, vừa lên đến đỉnh đồi thấy một đám địch đang đi ở dưới
thung lũng bên trái, cánh B40 của chúng cọ vào cành cây nghe lẽng xẽng.
lúc đó cã B chúng tôi tưởng đâu là quân ta, đi xong xong với chúng, đến gò mối
cao như đóng rơm, nghe tiếng hỏi << Nặc na>> (tức là ai đó) , tên
nầy đứng ở thế lom khom thủ thế tay lăm lăm súng, chúng tôi chưa kịp phản ứng
đã bị tên nầy bắn một băng AK, những tên khác ngồi bậc dậy. Bốn đứa chúng
tôi đi đầu ngã rạp xuống theo phản xạ tự nhiên, B40 tôi bóp cò hai lần đều bị
thối. sau đó các anh em bắn trả, chúng bỏ lại một xác chết, hai khẩu Ak, tên
chết có cã địa bàn Mỹ đeo trên cổ. Tiểu Đòan bắn cối vào đội hình địch, cho bắn
cã 12ly 8 lần đầu tiên nghe 12l8 nổ dòn thật, nghe tiếng đạn bay xé rừng ào ào
dội lại. Chúng rút chạy tán lọan bỏ cã máy ngắm cối 82, mìn Kp2. Bốn đứa chúng
tôi dàn hàng ngang đi đầu thóat chết. Đó là trận đánh đầu tiên và cũng là lần
thóat chết đầu tiên nhờ chưa tới số. Khi nổ súng xong, anh Mơ gọi tên từng đứa
trong bốn đứa chúng tôi (vì anh vừa phân công bốn đứa chúng tôi đi đầu dàn hàng
ngang), chúng tôi lên tiếng. Anh mơ còn bảo HR mò khắp người xem có trúng viên
nào không, vì HR gần phía địch nhất. HR báo cáo: “dạ còn khô queo, chưa có chảy
máu”. Anh Mơ bảo mạng mầy lớn lắm, khoảng cách chưa tới bảy mét, nó bắn mầy lửa
đỏ rực mà không trúng viên nào mới lạ.