Thứ Sáu, 2 tháng 9, 2016

Chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam



Ngày 14-4-1979, Bộ tư lệnh Mặt trận 479 được thành lập. Tư lệnh đầu tiên của Mặt trận 479 là thiếu tướng Bùi Thanh Vân và Chính uỷ-đại tá Lê Thanh. Tiếp đến là Bộ tư lệnh các Mặt trận 579, 779, 979 được thành lập. Các đoàn chuyên gia quân sự địa phương như đoàn 7701 (Công Pông Thơm), đoàn 7702 (Công Pông Chàm), đoàn 7703 (Xvây-riêng), 7705 (Xiêm Riệp), đoàn 7706 (Prây Veng). Tại tỉnh Bát Tam Băng đoàn chuyên gia quân sự 7704 cũng đã được thành lập, do đại tá Đỗ Huy Trường làm Đoàn trưởng. Khi đồng chí Đỗ Huy Trường về Cục nghiên cứu nhận công tác khác, thì đại tá Phạm Thành Hưng về thay Đại tá Nguyễn Ngọc Doanh làm Đoàn phó chính trị đoàn chuyên gia.
Từ những năm 1980 trở đi, chúng ta đã tổ chức ra các Bộ tư lệnh Mặt trận 479, 579, 779, 979 cho phù hợp với nhiệm vụ đặt ra. Sau các Bộ tư lệnh Mặt trận, hệ thống các đoàn chuyên gia từ trung ương xuống đến địa phương cũng đã được tổ chức một cách kịp thời để giúp Bạn cả về quân sự, chính trị và ngoại giao. Đây là một sự sáng tạo trong giai đoạn lịch sử lúc bấy giờ.
------------------------------------------------------
Tận dụng thời cơ về mặt pháp lý do việc tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari cho quân tiến công trên toàn tuyến biên giới Tây Nam nước ta, đồng thời để bảo vệ hậu phương chiến dịch bị địch uy hiếp, trên cơ sở kế hoạch tác chiến đã được chuẩn bị, Tiền phương Bộ Quốc phòng ra lệnh cho các lực lượng chiến đấu trên tuyến biên giới Tây Nam đồng loạt mở cuộc phản công tiêu diệt quân địch, thực hiện quyết tâm chiến lược đã được Bộ Chính trị thông qua sớm hơn dự định.
Ngay sau khi địch đánh vào Bến Sỏi, ngày 23 tháng 12  năm 1978, Quân đoàn 4 sử dụng 2 sư đoàn (341 và 2), một trung đoàn thuộc Sư đoàn 7, 2 trung đoàn địa phương (Quân khu 7) và một số đơn vị pháo binh, xe tăng, thiết giáp thực hành phản công địch trên hai hướng, hình thành thế bao vây chặt 3 sư đoàn địch ở Bến Sỏi. Ngày hôm sau, địch cho một trung đoàn bộ binh và 15 xe tăng ra phản kích, bị ta chặn đánh quyết liệt phải co lại. Đến ngày 28 tháng 12, ta mở đợt tấn công quyết định, diệt và bắt toàn bộ quân địch xâm lấn khu vực tây bắc Bến Sỏi.
Từ ngày 23 đến 30 tháng 12 năm 1978, trong khi Quân đoàn 4 tập trung tiêu diệt địch ở bắc Bến Sỏi, trên hướng Quân khu 7, ta sử dụng hai sư đoàn (5 và 303) tiến công dọc theo đường 10 và đường 13, đánh chiếm thị xã Kratie, diệt và bắt hơn 1.000 tên, giải phóng 25.000 dân.
Quân khu 5 sử dụng các trung đoàn 143, 726 (Gia Lai - Kon Tum), 94 (Sư đoàn 307), 812 (Sư đoàn 309), 250, 142 (Đắk Lắk) giải phóng bắc và nam sông Xan, Xăm tùng; các điểm cao 302, 328, 308, 336, 222 và Phinay, chọc thủng tuyến phòng ngự vòng ngoài của địch, tạo thành gọng kìm từ hướng sông Xan, uy hiếp Bôkhăm, bắc đường 19, điểm cao 230 và Bôkeo. Đến ngày 30 tháng 12 năm 1978, ta tiêu diệt các mục tiêu đã định, phá vỡ tuyến phòng ngự cơ bản của địch, giải phóng một số tỉnh miền Đông Campuchia.
Trên hướng Quân khu 9, quân ta phản kích địch ở nhiều nơi. Sư đoàn 339 tổ chức nhiều trận đánh ở khu vực Gò Rượi, Gò Viết Thuộc, Gò Châu Giang, Đứt Gò Suông, đuổi địch về bên kia biên giới. Sư đoàn 4, Trung đoàn 2 (Sư đoàn 8) và Trung đoàn 2 (Sư đoàn 330) phối hợp với các lực lượng vũ trang đỉa phương tập trung đánh địch, khôi phục toàn bộ khu vực Rộc Xây. Sư đoàn 8 (thiếu Trung đoàn 2) mở cuộc phản công khôi phục lại khu vực bắc Hà Tiên.
Sau khi hành quân vào vị trí tập kết ở khu vực xã Tri Tôn, huyện Bảy Núi (tỉnh Kiên Giang), Quân đoàn 2 (thiếu Sư đoàn 306) được tăng cường Sư đoàn 8 (Quân khu 9), được Tiền phương Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ phối hợp với Quân khu 9 và hiệp đồng với không quân, hải quân chiến đấu trên dải biên giới từ Châu Đốc ra tới biển và tổ chức chiến dịch tiến công trên hướng Tây Nam. Đối tượng tác chiến trước mắt của Quân đoàn là Quân khu Đông Nam của địch (lực lượng có 4 sư đoàn bộ binh (210, 230, 250, 270) và sư đoàn lính thủy đánh bộ 164. Tổng số quân khoảng 35.000 tên với 5 tiểu đoàn pháo, 1 tiểu đoàn xe tăng và hơn 100 tàu, xuồng chiến đấu). Ngày 31 tháng 12 năm 1978, Quân đoàn 2 và lực lượng vũ trang Quân khu 9 nổ súng đánh địch ở khu vực kênh Vĩnh Tế, thu hồi phần đất cuối cùng của Tổ quốc bị kẻ thù lấn chiếm trái phép.
Trong 9 ngày đêm (từ ngày 23 đến ngày 31 tháng 12 năm 1978), bằng các đòn phản công, tiến công quyết liệt kế tiếp nhau, quân và dân ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đánh đuổi quân Pôn Pốt, thu hồi toàn bộ vùng chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc bị kẻ thù lấn chiếm, kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở  biên giới Tây Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng cách mạng và nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng, xây dựng lại đất nước.
-------------------
Đáp lời kêu gọi của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước và nhân dân Campuchia, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam phối hợp với các lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Campuchia tiến công quân địch trên tất cả các hướng. Sau đòn tiến công giải phóng một số tỉnh miền Đông Campuchia của các đơn vị thuộc Quân khu 5 và Quân khu 7, sáng ngày 31 tháng 12 năm 1978, Quân đoàn 3 mở chiến dịch X88 tiến công giải phóng vùng Đông sông Mê Công, phía Bắc thủ đô Phnôm Pênh và các tỉnh Côngpông Thom, Xiêm Riệp, Báttambang, Puốcxát. Lực lượng tham gia chiến dịch trên hướng Quân đoàn 3 có 4 sư đoàn bộ binh: 10, 320, 31 và 302 (Quân khu 7 tăng cường); các lữ đoàn 273, 234, 40, 7 và Trung đoàn thông tin 29. Lực lượng cách mạng Campuchia phối hợp tác chiến với Quân đoàn 3 có 3 tiểu đoàn bộ binh và 6 đội công tác vũ trang.
Vào 6 giờ ngày 31 tháng 12 năm 1978, chiến dịch tiến công đánh chiếm vùng Đông sông Mê Công của Quân đoàn 3 bắt đầu. Từ hướng Tây Bắc, Sư đoàn 320 đánh vào Đầm Be và Sê Rêkâk, mở đường cho lực lượng thọc sâu đánh chiếm hai vị trí Suông và Chúp, chặn địch rút chạy về thị xã Côngpông Chàm. Sư đoàn 10 đánh tan các ổ đề kháng của địch ở làng 28, điểm cao 125 và 113. Sư đoàn 31 đánh chiếm Phsaâm, Ămpuk và phát triển về phía Krek, Sư đoàn 302 tiến công Phlong, Tànốt, Tàâm phát triển chiếm đường 24, giải phóng vùng Đông sông Mê Công. Ngày 3 tháng 1 năm 1979, Quân đoàn 3 sử dụng Trung đoàn 48 Sư đoàn 320 và hai đại dội thiết giáp tiến công đánh chiếm thị xã Prâyveng.
-------------------------
Ở hướng Quân khu 9 và Quân đoàn 2, sáng 31 tháng 12 năm 1978, quân ta bắt đầu nổ súng tiến công. Sau 30 phút chiến dấu, bộ đội ta đánh tan 2 trung đoàn địch, làm chủ khu vực kênh Vĩnh Tế. Ngày 1 tháng 1 năm 1979, không quân ta ném bom sở chỉ huy tiền phương Quân khu Đông Nam, các sở chỉ huy sư đoàn 250, 210 và các cụm quân địch tập trung ở Tapông, Kirivông, phum Sêkê. Cũng trong thời gian này, Trung đoàn công binh 219 nhanh chóng hoàn thành việc bắc cầu cho quân ta vượt qua kênh Vĩnh Tế, tiến công đánh chiếm các mục tiêu được giao.
Đêm 1 tháng 1 năm 1979, Trung đoàn bộ binh 2 đưa lực lượng bao vây Bà Cò, nơi có 1 tiểu đoàn địch đóng giữ. Quân ta chia thành nhiều mũi, kết hợp giữa tiến công chính diện và vu hồi; địch không chống cự nổi phải bỏ chạy về hướng Bà Ca. Phát huy thắng lợi, Trung đoàn 2 đánh chiếm luôn Bà Ca. Trong thời gian này, Trung đoàn 1 được tăng cường Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 3 tiến công các vị trí của trung đoàn 12 (sư đoàn 210 Pôn Pốt) tại khu vực Ba Súc. Sau 20 phút chiến đấu, bộ đội ta làm chủ các mục tiêu. Trong đêm 2 rạng ngày 3 tháng 1, Trung đoàn 3 cùng lực lượng xe tăng, thiết giáp đánh chiếm khu vực bắc cầu Cây Mít, sau đó phát triển lên Bà Ca, Ba Súc, truy kích tiêu diệt quân dịch và làm chủ khu vực núi Đất, núi Ăng Chao. Phát hiện sở chỉ huy sư đoàn bộ binh 210 địch, Trung đoàn 3 nhanh chóng sử dụng 1 tiểu đoàn và 10 xe M113 cùng 3 xe PT85 của quân khu tăng cường tiến công sở chỉ huy địch, đến 14 giờ 30 ngày 3 tháng 1 năm 1979, các đơn vị của Trung đoàn 3 chiếm được sở chỉ huy sư đoàn 210 của địch ở Prochrey.
Ngày 2 tháng 1 năm 1979, được sự yểm trợ đắc lực của hoả lực pháo binh, lực lượng xe tăng và bộ binh Quân đoàn 2 đột phá tiêu diệt dịch ở phum Tunliếp, Tôliốp, Đông Nam Santâng, các điểm cao 384, 451, 328; phát triển xuống phum Sêkê, diệt 2 trung đoàn (15 và 16) của địch, sau đó thọc sâu vào Kirivông, diệt sở chỉ huy sư đoàn 250 và trung đoàn 17 địch. Phối hợp chặt chẽ với các đòn tiến công của Quân đoàn 2; các sư đoàn 4, 330, 339 của Quân khu 9 và các đơn vị tăng cường đánh chiếm Giồng Bà Ca, Puốcxát, phum Đông, sở chỉ huy sư đoàn 210 địch ở Prochrey, núi Tham Dung, núi Xôm, ngã ba Tà Lập, sau đó phát triển tấn công về Tàkeo.
Ngày 3 tháng 1 năm 1979, Quân đoàn 2 và Quân khu 9 đánh chiếm xong các mục tiêu trong chiến dịch 1. Sau đợt tác chiến này, theo mệnh lệnh của Tiền phương Bộ Quốc phòng, Quân đoàn 2 sử dụng Sư đoàn 304 (được tăng cường xe tăng, pháo binh) làm lực lượng dự bị cho Bộ chỉ huy liên quân sẵn sàng tiến công giải phóng thủ  đô Phnôm Pênh. Các lực lượng còn lại của Quân đoàn tiến công giải phóng Côngpông Trạch, Campốt và hiệp đồng với Hải quân giải phóng cảng Côngpông Xom.
-----------------------------------
Hướng Quân đoàn 4, căn cứ vào quyết tâm của Bộ và qua nắm tình hình địch, trong hai ngày 30 và 31 tháng 12 năm 1978, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Quân đoàn họp tại sở chỉ huy ở Bosmôn nam ngã tư Nhà Thương (dự họp có Trung tướng, Tư lệnh Mặt trận Tây Nam Lê Trọng Tấn) giao nhiệm vụ cho các đơn vị: Sư đoàn 7 đánh chiếm Đônso, phát triển chiếm Preynhây và Côngpông Tràbéc. Sư đoàn 2 đánh chiếm Changtroi, phát triển sang phía tây chiếm Ăngcosa. Sư đoàn 341 chiếm bờ đập tây - bắc Châk, phát triển chiếm Xoàiriêng, Tàthiết. Sư đoàn 9 chiếm Prasốt, Tàcưng và cầu Xoàiriêng. Trung đoàn Long An và Trung đoàn 3 (Quân khu 9) đánh lên Tàkoeng, Tàthiết và đường số 1. Hai trung đoàn (thiếu) Tây Ninh đánh địch xung quanh Côngpông Trạch, nếu có thời cơ sẽ chiếm Côngpông Trạch.
Cuộc họp cũng dự kiến khả năng nếu thắng lợi của ta trên hướng Quân khu 7 đảm nhiệm (tỉnh Krachiê) và đường số 13, Bến Sỏi làm địch tan rã sớm hơn thì quân đoàn sẽ cho Sư đoàn 341 và Sư đoàn 9 cùng nổ súng vào ngày N (1-1-1979), không chờ đến ngày N + 1 như kế hoạch trước.
Ngày 1 tháng 1 năm 1979, Quân đoàn 4, với các lực lượng được trên tăng cường[1] nổ súng đánh địch trên trục đường 1 và vùng ven hai bên bờ sông Mê Công. Các trung đoàn 209, 14 (Sư đoàn 7), 38, 1 (Sư đoàn 2) từ các bàn đạp phía tây đường số 24 tiến công ra đường số 10 - Đônso. Do không thực hiện được luồn sâu chia cắt, các sư đoàn đều phải đột phá chính diện nên thương vong cao (2 sư đoàn bị thương 294 người, hy sinh 49 người).
Trong khi đó, Sư đoàn 341 mở nhiều đợt xung phong cũng không chiếm được bờ đập tây bắc Châk, bị thương hơn 100 người. Ở các hướng khác, quân ta tiến công đều gặp địch chống cự quyết liệt. Để khắc phục khó khăn, Bộ tư lệnh Quân đoàn quyết định chuyển Sư đoàn 341 sang làm nhiệm vụ dự bị. Các sư đoàn 2, 7, 9 và Trung đoàn Long An tạm dừng tiến công để chuẩn bị thêm.
Giữa lúc các đơn vị tạm dừng để củng cố đội hình chuẩn bị cho đợt tấn công mới thì đêm 2 tháng 1 năm 1979, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 nhận được tin cấp trên thông báo: đến ngày 2 tháng 1 năm 1979, ba cụm quân chủ lực địch (mỗi cụm 5 sư đoàn) án ngữ các trục đường số 1, 2, 7 về Phnôm Pênh bị ta tiêu diệt một bộ phận và tan rã, ta đã giải phóng toàn bộ vùng đồng bằng sông Mê Công. Để giữ phần đất còn lại, bộ tham mưu quân Pôn Pốt đã cho rút quân ở đường số 1 và đường số 10 về phòng ngự ở Sacách, Prêyveng, Niếc Lương.
Ngay sau khi nhận được thông báo của trên, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 quyết định: Sư đoàn 341 chuyển từ hướng đường số 10 sang đánh thọc sâu theo đường 244, Sacách - Niếc Lương; các đơn vị còn lại tiếp tục tấn công theo kế hoạch đã định.
Sáng ngày 3 tháng 1 năm 1979, không quân ta đánh phá phía bắc phà Niếc Lương và oanh tạc đội hình rút lui của địch ở khu vực cách Xoàiriêng 12 kilômét. Tận dụng kết quả oanh kích của không quân, các mũi tiến công của Sư đoàn 7 và Sư đoàn 2 nhanh chóng đánh chiếm dường số 10 (đoạn Chân Trai), phát triển chiến đấu ra Preynhây. Chiều ngày 3 tháng 1, Sư đoàn 9 chiếm được bắc ngã ba Tàhô (nằm trên trục đường số 1, phía tây Prasốt). Trên hưởớg Sư đoàn 341 do đường xấu và xe thiết giáp đến chậm, nên trưa ngày 3, các đơn vị mới cơ động triển khai lực lượng chiến đấu.
Trong chiến dịch giúp Bạn giải phóng Phnôm Pênh, Quân đoàn 4 được Bộ Tổng Tham mưu tăng cường 5 trung đoàn bộ đội địa phương của hai quân khu (7, 9), 1 trung đoàn hải quân (Quân khu 9) và 1 trung đoàn công binh của Bộ.
---------------------------------------
Trên hướng biển, Bộ tư lệnh Hải quân thành lập xong sở chỉ huy tiền phương ở đảo Phú Quốc để chỉ huy các lực lượng hải quân ta tham gia tác chiến. Hai biên đội tàu chiến đấu được lệnh vào vị trí tập kết ở khu vực đảo Nam Du và An Thới. Lữ đoàn Hải quân đánh bộ 126 đang ém quân ở đảo Phú Quốc, sẵn sàng đợi lệnh chiến đấu. Các lực lượng hải quân trên vùng biển phía Nam cũng được lệnh sẵn sàng chiến đấu cao, sẵn sàng chi viện cho các lực lượng chiến đấu trên biển khi cần.

Quán triệt chỉ thị của Bộ Chính trị về giải phóng Phnôm Pênh trước ngày 8 tháng 1 (trước khi Hội đồng bảo an Liên hợp quốc bàn về vấn đề Campuchia), sau khi xem xét diễn biến chiến đấu trên toàn chiến trường, Tiền phương Bộ Quốc phòng nhận thấy hướng Quân đoàn 4 đang gặp khó khăn, nên đã quyết định bổ sung nhiệm vụ và chuyển hướng tiến công của Quân khu 9 đang phát triển thuận lợi thành hướng tiến công chủ yếu.
Trưa ngày 5 tháng 1 năm 1979, các đồng chí Lê Đức Thọ, Lê Trọng Tấn, Lê Đức Anh, thay mặt Quân ủy Trung ương và Tiền phương Bộ Quốc phòng, đến Chi Lăng (sở chỉ huy Quân khu 9) trực tiếp giao nhiệm vụ bổ sung cho Quân khu 9. Theo nhiệm vụ mới, Quân khu 9 sẽ đánh chiếm sân bay Pôchentông, Bộ tư lệnh thiết giáp, Đài phát thanh, khu nhà ở và phủ thủ tướng.
Quân đoàn 4 chuyển thành lực lượng phối hợp, có nhiệm vụ “đưa một bộ phận đi trước hỗ trợ Bạn đánh chiếm cầu Mônivông và Bộ Tổng tham mưu dịch, nếu có điều kiện thì đánh chiếm Hoàng Cung[1].
Thực hiện nhiệm vụ được giao, ngày 5 tháng 1 năm 1979, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 quyết định sử dụng Sư đoàn 7 cơ động đánh địch theo trục đường số 1 đến Niếc Lương (trong đó tổ chức 1 trung đoàn vượt sông để tiến công trong hành tiến vào thủ đô Phnôm Pênh). Sư đoàn 341 cơ động triển khai đội hình chiến đấu ở khu vực phía bắc đường số 1, sẵn sàng đưa 1 trung đoàn vượt phà Niếc Lương vào Phnôm Pênh. Sư đoàn 9 sử dụng 1 trung đoàn bao vây núi Sacách, bảo vệ hai bên sườn cho Sư đoàn 7, lực lượng còn lại truy kích địch ở phía nam đường số 1 đến sát sông Mê Công.
Sư đoàn 2 tiếp tục tiến công địch, giữ hành lang nam đường 10, nam bắc đường số 1 (đoạn đông và tây Côngpông Tràbéc). Chiều ngày 5, Sư đoàn 7 tiến quân đến sát bờ sông khu vực bến phà Niếc Lương, Sư đoàn 9 chiếm được khu vực nam đường số 1 - Preynhây, Sư đoàn 3 cơ động đến khu vực Sacách (tây nam Ăngcosa), Sư đoàn 2 chiếm lĩnh được khu vực phía bắc đường số 1, tây bắc Xoàiriêng.
---------------------------------------
6 giờ ngày 6 tháng 1 năm 1979, Tiền phương Bộ Quốc phòng ra lệnh tổng công kích vào thủ đô Phnôm Pênh từ ba hướng:

Quân đoàn 4 sử dụng Sư đoàn 7 (lực lượng chủ yếu) và Sư đoàn 341 (dự bị) cùng lực lượng binh chủng tăng cường (đặc công, xe tăng, pháo binh) vượt sông Mê Công tiến theo trục đường số 1 và đường sông Mê Công, đánh vào Phnôm Pênh. Sau khi ra khỏi khu vực đường lầy, đánh tan các cụm phòng ngự địch, Quân đoàn 4 phát triển tiến công nhanh, Bộ giao lại nhiệm vụ tiến công hướng chủ yếu cho Quân đoàn 4; đồng thời tập trung không quân chi viện đắc lực cho các mũi tiến công của Quân đoàn tiến vào thủ đô Phnôm Pênh.
Sư đoàn không quân 372 sử dụng 142 lượt máy bay đánh phá sở chỉ huy các sư đoàn 260, 271, 703, các trận địa pháo, các tàu xuồng địch trên sông Mê Công, tiêu diệt nhiều sinh lực, phương tiện chiến tranh của chúng, tạo điều kiện cho bộ binh phát triển chiến đấu.
Sau khi hoàn thành đánh mở rộng bàn đạp phía đông Niếc Lương, chiều ngày 6 tháng 1, lực lượng đi đầu của Sư đoàn 7 (Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 14) đã chiếm lĩnh phía tây bến phà Niếc Lương, làm công tác chuẩn bị vượt sông. Đêm 6 tháng 1, với tinh thần khẩn trương nhất, Trung đoàn Hải quân 926 đã triển khai xong các phương tiện vượt sông trên hướng chủ yếu của Quân đoàn 4.
Sáng ngày 7 tháng 1, Sư đoàn 7 phối hợp với Binh đoàn 1 Campuchia vượt sông Mê Công (qua khu vực bến phà Niếc Lương); với lực lượng áp đảo, quân ta nhanh chóng đánh tan sư đoàn 260 dịch. 10 giờ, bộ đội ta đánh chiếm cầu Mônivông, địch chống cự yếu ớt rồi bỏ chạy về phía tây. 11 giờ, các đơn vị của Sư đoàn 7 và Binh đoàn 1 Campuchia tiến vào thành phố Phnôm Pênh, chiếm các cơ quan Trung ương, khu sứ quán và Đài phát thanh.
Trên hướng Quân đoàn 3, sáng ngày 6 tháng 1, quân đoàn tập trung hoả lực chi viện Sư đoàn 320 vượt sông đánh chiếm thị xã Côngpông Chàm. Địch huy động không quân, pháo binh đánh phá ngăn chặn ta rất quyết liệt. Dưới sự chỉ huy của Trung đoàn trưởng Vũ Cối, các đội xung kích của Trung đoàn 64 dùng xuồng máy dũng cảm vượt sông dưới làn đạn địch, đánh chiếm bờ sông phía tây. 8 giờ 30 phút ngày 6 tháng 1, các đơn vị thuộc Sư đoàn 320 mở các đợt xung phong mãnh liệt, đánh chiếm thị xã Côngpông Chàm, đập tan tuyến phòng ngự vững chắc của 2.000 quân địch do Xon Xen, Bộ trưởng Quốc phòng chỉ huy, mở thông cánh cửa quan trọng vào thủ đô Phnôm Pênh.
Sáng ngày 7 tháng 1, được pháo binh chi viện đắc lực Trung đoàn 28 (Sư đoàn 10) do Trung đoàn trưởng Vũ Khắc Đua chỉ huy cùng lực lượng xe tăng, thiết giáp, cao xạ tăng cường tiến công trong hành tiến theo trục đường số 7, đánh tan lực lượng địch ngăn chặn ở núi Phuchê, vượt sông Tông Lê Sáp đánh chiếm kho xăng phía bắc Phnôm Pênh, đánh chiếm khu vực nhà máy xay, nhà máy hoa quả, nhà máy cơ khí, kho súng, kho đạn và phát triển sang phía đông đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu quân Pôn Pốt, bắt liên lạc với các đơn vị của Quân đoàn 4 ở trung tâm thành phố.
Trên hướng Quân khu 9, sáng ngày 6 tháng 1, Sư đoàn 330 tiến công Thnốtbâk, Tani, bị địch ngăn chặn quyết liệt đến 15 giờ chiều mới vượt qua ngã tư Thnốtbâk 2 kilômét. Trung đoàn 10 Sư đoàn 339 tiến công theo đường Anchao - Tani bị địch chặn lại ở Tani.
Trên đường số 2, Sư đoàn 4 được tăng cường xe tăng, thiết giáp tiến công Tàkeo bị địch ngăn chặn cách ngã tư Thnốtbâk 6 kilômét. Trước tình hình đó, chiều ngày 6 tháng 1, Bộ tư lệnh Quân khu 9 lệnh cho Sư đoàn 330 tăng cường lực lượng đánh chiếm đoạn đường từ ngã tư Thnốtbâk đến Tani, mở đường cho các đơn vị thọc sâu theo đường 3. Ngay chiều ngày 6, Sư đoàn 330 đã sử dụng Tiểu đoàn 7 (Trung đoàn 3) và 10 xe thiết giáp từ phía nam đánh thẳng lên núi Sangcông, phối hợp với Trung đoàn 2 ngay trong đêm phát triển đánh chiếm các mục tiêu ở Tani. Quân ta đột phá liên tục, đánh tan 4 tuyến phòng ngự của địch, mở đường cho đội hình thọc sâu tiến vào thủ đô Phnôm Pênh.
Sau khi Sư đoàn 330 chiếm được Tani, lực lượng tiền vệ của Quân khu 9 nhanh chóng đánh chiếm cầu Kal Tuốt, bảo đảm cho Sư đoàn 330 tiếp tục thọc sâu. Được không quân chi viện hoả lực, 11 giờ ngày 7 tháng 1, Sư đoàn 330 đánh chiếm sân bay Pôchentông, ta thu 30 máy bay các loại giao cho Bạn làm cơ sở để thành lập trung đoàn không quân đầu tiên của Quân đội cách mạng Campuchia. Ngay sau đó, các đơn vị của Quân khu 9 phát triển tiến công vào Bộ tư lệnh thiết giáp và Bộ Tổng tham mưu địch. 17 giờ ngày 7 tháng 1, quân ta cùng lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Campuchia hoàn toàn làm chủ thành phố Phnôm Pênh.
Trên hướng biển, 19 giờ ngày 6 tháng 1, lực lượng đổ bộ của Lữ đoàn hải quân 126 áp sát chân núi Tàlơn, địch phát hiện và dùng pháo bắn mạnh vào khu vực đổ bộ của ta. Nhưng chỉ ít phút sau, các trận địa pháo địch đã bị bộ đội đặc công (gồm 87 cán bộ, chiến sĩ đổ bộ trong các đêm 4 và 5 tháng 1) tiến công tiêu diệt; các trận địa pháo tầm xa của ta đặt ớ Phú Quốc, Hòn Đốc cũng kịp thời nổ súng chi viện chế áp các trận địa pháo địch ở các đảo Hòn Nước, Phú Dự, An Tây, Tre Mắm, Kiến Vàng, bắn phá ngăn chặn quân địch ở ngã ba Môke không cho chúng tiến ra Tà Lơn.
Trong lúc các lực lượng đổ bộ đánh chiếm khu vực Tà Lơn thì hai tàu 203 và 215 thuộc Biên đội 2 cảnh giới ở sườn trái bãi đổ bộ phát hiện 2 tàu địch từ khu vực đảo Phú Dự và Hòn Nước tiến về khu vực tàu đổ bộ của ta.

Hai tàu ta lập tức nổ súng đánh chặn, bắn chìm 1 tàu địch, chiếc còn lại bỏ chạy. 1 giờ 30 phút ngày 7, 5 tàu địch từ khu vực cảng Rêam tiến ra biển hòng tiến công vào các tàu đổ bộ của ta. Các tàu HQ-05, HQ-07 được sự phối hợp của tàu 613 nổ súng mãnh liệt, bắn chìm 1 tàu, buộc các tàu còn lại phải tháo chạy. Ở hướng Biên đội 1, các tàu HQ-01, HQ-03, HQ-197 và HQ-205, sau khi hoàn thành nhiệm vụ nghi binh ở hướng Côngpông Xom được lệnh cơ động sang phía quân cảng Rêam (cách khoảng 16 kilômét) dùng pháo tầm xa bắn chi viện bộ binh phát triển tiến công. Ở khu vực biển Kép, các tàu (p.070) ta quần nhau với 4 tàu địch, ta bắn chìm 1 tàu, bắn bị thương 1 tàu khác. Phía ta, tàu 215 trúng đạn địch, một số cán bộ, chiến sĩ anh dũng hy sinh.
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ đổ bộ và đánh chiếm các mục tiêu xung quanh Tàlơn, Lữ đoàn hải quân đánh bộ 126 tổ chức lực lượng đột kích gồm 12 xe tăng, xe bọc thép và một phần lực lượng của Tiểu đoàn 864 đánh chiếm ngã ba Kôki, sau đó toàn bộ lực lượng đổ bộ phối hợp với bộ binh Quân đoàn 2 hình thành hai cánh phát triển tiến công địch về phía cảng Côngpông Xom và cảng Rêam.
Sau khi giải phóng Phnôm Pênh, ngày 8 tháng 1 năm 1979, Hội đồng nhân dân cách mạng Campuchia được thành lập, do ông Hêng Xomrin làm Chủ tịch. Hội đồng nhân dân cách mạng Campuchia ra tuyên bố xoá bỏ hoàn toàn chế độ diệt chủng của bọn Pôn Pốt - Iêng Xari, thành lập chế độ Cộng hoà nhân dân Campuchia; đồng thời yêu cầu các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia tiếp tục giải phóng các tỉnh còn lại. Ngày 8 tháng 1, Sư đoàn 2 giải phóng thị xã Prâyveng, Sư đoàn 4 giải phóng thị xã Tàkeo. Ngày 9 tháng 1, Trung đoàn 24 Sư đoàn 10 Quân đoàn 3 giải phóng thị xã Côngpông Thom. Ngày 10 tháng 1, lực lượng hải quân Vùng 5 và Trung đoàn 66 Sư đoàn 304 (Quân đoàn 2) giải phóng cảng Côngpông Xom, Trung đoàn 9 và Tiểu đoàn 8 Hải quân đánh bộ giải phóng cảng quân sự Rêam. Ngày 11  tháng 1, Sư đoàn 339 (Quân khu 9) giải phóng thị xã Côngpông Chnăng.
Ngày 12 tháng 1 năm 1979, nước Cộng hoà nhân dân Campuchia được thành lập. Trong các ngày từ 12 đến 16 tháng 1 năm 1979, Quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Campuchia tiếp tục phát triển tiến công, giải phóng thị trấn Sisôphôn (Báttambang), thị trấn Sơlông, thị xã Báttambang, thị xã Puốcxát Ốtđômiênchay.

Ngày 16 tháng 1 năm 1979, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương gửi điện khen ngợi toàn thể cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Mặt trận phía Tây Nam Tổ quốc “đã chiến đấu anh dũng, làm nên một thắng lợi lịch sử rất vẻ vang. Bằng một trận thần tốc... đã đánh thắng hoàn toàn cuộc chiến tranh của tập đoàn Pôn Pốt xâm lược  biên giới Tây Nam Tổ quốc ta, phối hợp nhịp nhàng với cuộc tiến công và nổi dậy của nhân dân Campuchia anh em, đánh đổ chế độ diệt chủng tàn bạo bị mọi người lên án. Đây là thắng lợi chung của hai dân tộc Việt Nam và Campuchia. Thắng lợi to lớn này góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới”[1].
Ngày 17 tháng 1 năm 1979, Lữ đoàn hải quân đánh bộ 126 và Trung đoàn 66 (Sư đoàn 304), được không quân chi viện, tiến công giải phóng thị xã Cô Công. Đây là thị xã cuối cùng của Campuchia được giải phóng[2].
Tàu HQ-501 và các tàu thuộc hạm đội 171 trong trận đánh chiếm Cô kông
Ngày 25 tháng 1 năm 1979, nhân dân Campuchia tổ chức lễ mừng chiến thắng giải phóng đất nước khỏi chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Xari.
Chiến thắng ngày 7 tháng 1 năm 1979 của cách mạng Campuchia có ý nghĩa lịch sử vô cùng trọng đại.

VỊ TRÍ CÁC SƯ ĐOÀN SAU KHI GIẢI PHÓNG PHNOM PENH
Trong thời kỳ đầu, nhiệm vụ truy quét tàn quân địch, tiêu diệt các căn cứ, các tổ chức phản động, giữ vững chính quyền cách mạng được xác định là nhiệm vụ hàng dầu của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự ta trên chiến trường Campuchia. Thực hiện chủ trương của Quân ủy Trung ương, các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam (gồm một số đơn vị thuộc các quân đoàn 2, 3, 4; các quân khu 5, 7, 9 và một số đơn vị quân chủng, binh chủng tăng cường) phối hợp chặt chế với lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia mở nhiều đợt truy quét tàn quân dịch, dồn chúng về biên giới phía Tây Bắc Campuchia.
Trên hướng Quân đoàn 2, sau khi hoàn thành các nhiệm vụ được giao trong đợt tổng tiến công, Quân đoàn tổ chức lực lượng đứng chân trên hai khu vực: Sư đoàn 304 và các đơn vị tăng cường đảm nhiệm khu vực đường số 4  cảng Côngpông Xom. Sư đoàn 325 và một số đơn vị binh chủng truy quét dịch ở khu vực tỉnh Campốt.
Sau khi truy quét, tiêu diệt địch ở các căn cứ vùng rừng núi đông đường số 3 (thung lũng, điểm cao 46), đẩy địch ra xa, bảo đảm an toàn cho thị xã Campốt và hậu phương chiến dịch, cuối tháng 1 năm 1979, Sư đoàn 325 chuyển hướng lên hoạt động ở bắc đường số 3, đánh địch ở khu vực từ bắc điểm cao 127 đến tây nam núi Con Sâu, đèo 24. Sau 15 ngày chiến đấu, ta và Bạn loại khỏi vòng chiến đấu gần 700 tên địch, thu một số vũ khí, tạo bàn đạp chuẩn bị tiến công tiêu diệt quân địch ở Trốpsala.
Trong thời gian này, Sư đoàn 304 vừa khẩn trương củng cố khu vực đứng chân, vừa cùng lực lượng Bạn tổ chức tiến công địch từ bắc cầu Côngpông Sơmách đến  Vênhriêng và đánh chiếm khu vực từ Vênhriêng đến nam cầu Tànày. Cuối tháng 1, địch dùng một lực lượng lớn bộ binh, có xe tăng, xe bọc thép yểm trợ chia thành nhiều mũi đánh vào các khu vực phòng thủ của ta từ nam cầu Tànày đến Vênh riêng; ta bắn cháy 3 xe tăng, đập tan các cuộc phản kích của địch, nhưng lực lượng của ta cũng bị tổn thất do chưa nắm chắc thủ đoạn tác chiến của địch, giải quyết cách đánh chưa tốt, còn nặng về đánh chính diện, đánh xua đuổi, không tích cực thực hiện luồn sâu, bao vây chặt nên đã để địch chạy thoát nhiều và bắt dân đi theo.
Đầu tháng 2 năm 1979, Quân đoàn 2 bước vào đánh địch đợt hai, giúp Bạn truy quét tàn quân địch, bảo vệ vùng giải phóng. Phối hợp tác chiến với Quân đoàn có Sư đoàn 320 (Quân đoàn 3) trên hướng Campốt; Sư đoàn 339 và Sư đoàn 4 (Quân khu 9) hoạt động ở Đông Bắc Salakhum; ở hướng đường số 4 và cảng Côngpông Xom có bộ đội Hải quân Vùng 5 và Lữ đoàn Hải quân đánh bộ 126. Rút kinh nghiệm chiến đấu đợt 1,  trong đợt hai, Quân đoàn 2 quyết tâm tập trung lực lượng tiến công liên tục, không cho địch kịp hồi sức; vừa tập trung lực lượng bộ binh đẩy mạnh tiến công địch ở phía trước; đồng thời sử dụng một lực lượng cùng các đơn vị binh chủng tổ chức phòng thủ vững chắc các vùng căn cứ ở phía sau, bảo đảm an toàn giao thông. Trong tác chiến kết hợp chặt chẽ đánh nhỏ, đánh vừa và đánh lớn; kết hợp đánh chính diện với đánh vu hồi; đánh dứt điểm từng khu vực, đánh trúng chỉ huy, phá căn cứ địch; chú trọng dưa dân trở về làng cũ; thu gom triệt để vũ khí trang bị và các kho tàng của địch giao cho Bạn quản lý, triệt nguồn tiếp tế của địch; kết hợp chặt chẽ với lực lượng Bạn thực hiện tiến công về quân sự và đẩy mạnh công tác binh vận; cùng Bạn vận động, tổ chức nhân dân củng cố, xây dựng các vùng giải phóng về mọi mặt.
Ở khu vực Campốt, ngày 2 tháng 2 năm 1979, Trung đoàn 95 Sư đoàn 325 sử dụng 1 tiểu đoàn luồn sâu vào điểm cao 177 (Đông Bắc Trốpsala); đồng thời sử dụng lực lượng còn lại bao vây chặt quân địch co cụm ở Trốpsala. Sau 4 ngày chiến đấu, Trung đoàn 95 diệt và bắt nhiều tên địch, làm chủ Trốpsala. Phối hợp với Trung đoàn 95, Trung đoàn 101 vừa làm nhiệm vụ phòng thủ ở tuyến sau, vừa sử dụng lực lượng đánh địch từ tây điểm cao 23 đến bắc điểm cao 54. Ta tổ chức nhiều mũi truy quét tàn quân địch, giải phóng hàng nghìn dân bị chúng cầm giữ ở Trốpsala; đồng thời (p.087) tổ chức tốt các đợt đánh địch phản kích từ Kaosala xuống hòng chiếm lại khu vực này.
Tại khu vực bắc đèo 244 ngày 7 tháng 2 năm 1979, Trung đoàn 18 liên tiếp đẩy lùi nhiều đợt tiến công của địch, giữ vững trận địa. Ngày 10 tháng 2, Trung đoàn tổ chức trận vận động tiến công trên đường số 37, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, mở rộng địa bàn phòng thủ. Sau đợt tác chiến này, theo lệnh của trên, Sư đoàn 325 phối hợp với các sư đoàn 4, 339, 320 và lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia mở cuộc hợp vây lớn tiêu diệt lực lượng của Quân khu Đông Nam địch đang trập trung ở Chúc và các vùng xung quanh.
Nhận nhiệm vụ tổ chức tiến công truy quét địch từ đông bắc điểm cao 244 đến Kaosala và từ Kasăng đến Chúc, ngày 13 tháng 2 năm 1979, Sư đoàn 325 (thiếu Trung đoàn 101) tổ chức luồn sâu áp sát các căn cứ địch.
Sáng ngày 14 tháng 2, các đơn vị của Sư đoàn đồng loạt nổ súng. Trung đoàn 18 đánh chiếm Trêpêng Sđen, Trung đoàn 95 đánh chiếm Kaosala. Sau khi làm chủ các mục tiêu, Sư đoàn 325 phát triển chiến dấu đánh chiếm Kasăng, Taken, điểm cao 55 tây bắc Chúc và tiếp tục đánh sâu vào vùng căn cứ địch.

Chiều ngày 17 tháng 2, các đơn vị của Sư đoàn 325 chiếm được khu vực Trapengpreng và điểm cao 154, sau đó phối hợp với các đơn vị của Quân khu 9 phát triển chiến đấu ra đường số 3 tiến công địch ở Rútsét, Vátăngcôi và các điểm cao 87, 50. Sau hơn 1 tuần phối hợp chiến đấu cùng các đơn vị Bạn, Sư đoàn 325 đã hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ được giao. Bộ đội ta tiêu diệt sở chỉ huy Quân khu Đông Nam, đánh thiệt hại nặng sư đoàn 230 và trung đoàn 123 địch, góp phần cùng các đơn vị Bạn giải phóng một vùng rộng lớn nằm giữa Chúc, Campốt và Côngpông Trạch, giải phóng gần 100.000 dân.
Ở khu vực đường số 4, Sư đoàn 304 sử dụng Trung đoàn 9 phòng thủ phía sau; Trung đoàn 24 và Trung đoàn 66 phát triển tiến công địch từ bắc cầu Tànày đến đèo Píchnin và khu vực cảng Côngpông Xom. Kết hợp chặt chẽ giữa tiến công chính diện với thọc sâu vu hồi, các đơn vị của Sư đoàn 304 tiêu diệt nhiều sinh lực địch, bảo vệ đường số 4 và khu vực cảng Côngpông Xom. Từ ngày 17 đến 19 tháng 2 năm 1979, được Quân đoàn tăng cường xe tăng, xe bọc thép và pháo tầm xa của Lữ đoàn 164 chi viện, Sư đoàn 304 sử dụng Trung đoàn 66 tiến công khu vực đèo Píchnin. Sau hai ngày chiến đấu, bộ đội ta và Bạn tiêu diệt 2 tiểu đoàn địch, làm chủ khu vực đèo Píchnin, trong đó có nhà máy thủy diện công suất 10.000KW.
Trong 40 ngày đêm phối hợp cùng lực lượng Bạn và các đơn vị của Quân khu 9 truy quét địch trên cả hai hướng Cam Pốt và Côngpông Xom, các đơn vị của Quân đoàn 2 đã tiêu diệt nhiều sinh lực dịch, góp phần giải phóng nhiều vùng dân cư rộng lớn ở Quân khu Đông Nam và Đặc khu Côngpông Xom, giải phóng gần 350.000 dân, thu nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh của địch, giúp Bạn ổn định đời sống nhân dân, củng cố chính quyền cách mạng.
Hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, ngày 27 tháng 2 năm 1979, Quân đoàn 2 được lệnh trở về Tổ quốc nhận nhiệm vụ mới. Quân đoàn 2 vinh dự được Quốc hội và Chính phủ ta tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh; Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Campuchia trao tặng Huân chương Ăng co kèm theo bức trướng mang dòng chữ "Tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, tuyệt vời". Trung đoàn 24 (Sư đoàn 304), Đại đội 7 (Lữ đoàn 203 xe tăng) được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang lần thứ hai; 163 tập thể, 1.260 cán bộ, chiến sĩ có thành tích xuất sắc trong hoạt động giúp Bạn được thưởng Huân chương Quân công và Chiến công các hạng.  Trong khi Quân đoàn 2 rút quân về nước thì Quân đoàn 3 nhận lệnh chuyển đội hình lên phía bắc và tây bắc Campuchia. Quân đoàn chuyển lên vùng sâu, vùng xa, tiếp tế rất khó khăn, địch liên tục đánh phá. Nhiều thử thách dồn dập đến với cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn.
-------------------------------------------
Bộ tư lệnh Quân đoàn 3 quyết định phát động phong trào "Giết giặc lập công", thi đua với quân dân các tỉnh phía Bắc. Với tinh thần "bám dân, bám địa bàn, truy quét triệt để tàn quân địch", ngay trong đợt truy quét đầu, các đơn vị của Quân đoàn đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng Bạn đánh các đồn biên phòng Poipét, Concoóc, tiêu diệt nhiều tàn quân địch trên biên giới Tây Bắc Campuchia.
Ngày 18 tháng 3 năm 1979, Tiền phương Bộ Quốc phòng tăng cường cho Quân đoàn 3 Sư đoàn bộ binh 309; Trung đoàn 726 (Quân khu 5) và Tiểu đoàn 9 (p.090) (Trung đoàn 113 đặc công của Bộ) để mở "chiến dịch 3", phối hợp cùng các đơn vị Bạn truy quét tàn quân địch, tiêu diệt cơ quan Trung ương của Pôn Pốt - Iêng Xari ở khu vực phía tây Báttambang.
Thực hiện nhiệm vụ được giao, từ ngày 22 tháng 3 đến 24 tháng 4, Quân đoàn 3 tập trung 3 sư đoàn bộ binh (10, 31, 309), Trung đoàn 726 và một số đơn vị xe tăng, thiết giáp, pháo binh mở chiến dịch truy quét địch ở phía tây Báttambang, chủ yếu là khu vực Tàsanh, Sămlốt, Tứcsóc.
Mở đầu chiến dịch, từ ngày 22 đến ngày 26 tháng 3, Sư đoàn 10 sử dụng Trung đoàn 66 đánh chiếm các bàn đạp Chisăng, Păngrôlin; Trung đoàn 24 chốt chặn đường 43 ở nam Sămlốt. Sư đoàn 31 sử dụng Trung đoàn 866 tiến công Sênôtức, Thơmin, Trung đoàn 977 làm nhiệm vụ mở rộng hành lang, Trung đoàn 922 đánh chiếm Taghen. Ngày 27 tháng 3, Sư đoàn 10 và Sư đoàn 31 tiến công Tàsanh - Sămlốt từ hai hướng. Sư đoàn 10 đánh vào Sămlốt và ngăn chặn đường rút lui của quân địch sang biên giới Thái Lan. Sư đoàn 31 từ phía đông, đông bắc tiến công căn cứ Tàsanh, sau đó phát triển chiến đấu truy quét tàn quân địch dọc biên giới phía tây nam và tây bắc tỉnh Báttambang.
Ngày 29 tháng 3, ta đánh chiếm dài phát thanh và một số cơ quan trung ương địch đặt ở phum Tứcsóc.
Trong 4 ngày đêm hoạt động, cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 3 tiêu diệt hơn một nghìn tên địch, thu hàng nghìn súng các loại, 5 xe tăng, hàng chục chiếc ô tô và nhiều đồ dùng quân sự.
Phát huy thắng lợi, từ ngày 1 đến 24 tháng 4 năm 1979, Sư đoàn 10 phối hợp với Sư đoàn 309 và Trung đoàn 726 tiến công tiêu diệt tàn quân địch tại Lôvia, Nimít, Poipét, Kaomêlai và Khaocalon, giải phóng một dải biên giới dài hơn 150 kilômét. Trong chiến dịch này, các đơn vị của Quân đoàn đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 4.000 tên dịch, thu hàng nghìn khẩu súng các loại và nhiều vũ khí đạn dược, quân trang, quân dụng, giải phóng hơn 7 vạn dân.
Nhằm triệt phá cơ sở hậu cần chiến lược của quân Pôn Pốt ở thung lũng Kravanh, từ ngày 29 tháng 4 đến 30 tháng 5 năm 1979, Quân đoàn 3 sử dụng hai sư đoàn bộ binh (10 và 31), Lữ đoàn xe tăng 273 và lực lượng của trên tăng cường (các lữ đoàn 7; 234; Trung đoàn 29) phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tiến công tiêu diệt địch ở phía tây tỉnh Puốcxát. Bước vào chiến dịch, từ ngày 29 tháng 4 đến 3 tháng 5, Sư đoàn 10 sử dụng Trung đoàn 24 chốt chặn chiến dịch ở phía tây Pramôi, Trung đoàn 66 đánh chiếm Sapiêng. Sư đoàn 31 sử dụng Trung đoàn 977 tiến công Phlếch; đồng thời sử dụng hai trung đoàn 28 và 866 thực hành luồn sâu, tiến công đánh chiếm các mục tiêu then chốt. Tiểu đoàn 9 đặc công (Bộ tăng cường) đánh chiếm Sơnai Pra. Do nắm chắc tình hình địch và địa hình, các đơn vị đã thực hiện được ý định của bộ chỉ huy chiến dịch là: đánh vỡ thế trận của địch, đánh trúng chỉ huy, truy diệt địch, làm chủ địa bàn, thu vũ khí, phương tiện chiến tranh, kho tàng, giải phóng được nhiều dân bị dịch bắt đi theo.
Trong khi chiến dịch ở phía tây Puốcxát đang tiếp diễn thì ngày 3 tháng 5 năm 1979, Bộ Quốc phòng chỉ thị cho Quân đoàn 3 trong tháng 6 phải hoàn thành nhiệm vụ truy quét địch ở địa bàn tỉnh Puốcxát bàn giao cho đơn vị Bạn và tiến hành cơ động toàn bộ lực lượng, binh khí kỹ thuật ra phía Bắc làm lực lượng dự bị của Bộ.  Thực hiện chỉ thị của bộ, từ ngày 4 đến 30 tháng 5 năm 1979, Quân đoàn 3 tiếp tục tổ chức các đợt truy quét, triệt phá các cơ sở hậu cần của địch, giúp bạn mở rộng vùng giải phóng và phát động nhân dân xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng. Trong chiến dịch này, bộ đội ta đã triệt phá hoàn toàn căn cứ chiến lược Kravanh của địch, giải phóng biên giới phía tây tỉnh Puốcxát, loại khỏi chiến đấu hàng nghìn tên, thu hàng nghìn súng các loại cùng nhiều tài liệu quan trọng của Pôn Pốt, thu hàng trăm tấn lúa gạo, hàng trăm tấn muối, hàng nghìn mét vải, hàng nghìn lít xăng dầu, hàng chục kiện thuốc chữa bệnh bàn giao cho chính quyền cách mạng tỉnh Puốc xát, giải phóng 145.000 dân. Cùng với việc truy quét, đánh dịch, Quân đoàn còn giúp Bạn xây dựng 1 đội du kích, thành lập chính quyền ở 6 phum, tuyên truyền giác ngộ cho 116.641 lượt người, khám chữa bệnh cho 959 người, cứu đói cho dân 115 tấn lương thực.
Sau khi cơ bản hoàn thành nhiệm vụ truy quét tàn quân địch, những ngày đầu tháng 6 năm 1979, Quân đoàn 3 tiến hành bàn giao địa bàn tác chiến cho các đơn vị Bạn. Sư đoàn 320 tăng cường cho Quân khu 9 từ tháng 1 đến tháng 6 cũng hoàn thành tốt nhiệm vụ và được lệnh bàn giao địa bàn trở về dội hình chiến đấu của Quân đoàn[1]. Ngày 17 tháng 6 năm 1979, đơn vị đầu tiên của Quân đoàn 3 rời Campuchia trở về Tổ quốc.
Đến đầu tháng 8 năm 1979, toàn bộ đội hình Quân đoàn hoàn thành việc rút quân khỏi Campuchia về phía Bắc (Việt Nam) nhận nhiệm vụ mới. Đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ quốc tế của Quân đoàn 3 ở Campuchia, Đại tướng Văn Tiến Dũng, ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ghi nhận: Quân đoàn 3 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Quân ủy Trung ương giao cho, thực hiện được yêu cầu: "Đi đến đâu là Bạn tin, dân mến, kẻ thù khiếp sợ và ta thì trưởng thành"[2].
-------------------------------------------------------
1. Từ cuối tháng 1 đến đầu tháng 6 năm 1979, Sư đoàn bộ binh 320 và một phân đội xe tăng của Quân đoàn 3 được phối thuộc cho Quân khu 9 làm nhiệm vụ truy quét tàn quân địch ở phía nam thủ đô Phnôm Pênh. Trong gần 6 tháng đầu năm 1979, Sư đoàn đã đánh hàng trăm trận, tiêu diệt tàn quân của các sư đoàn 210, 250, 270, 805 quân Pôn Pốt, bảo vệ thị xã Tàkeo, khai thông các tuyến đường số 3, 33, 42. Đồng thời giúp Bạn xây dựng chính quyền cách mạng cơ sở và lực lượng vũ trang địa phương. Đầu tháng 6 năm 1979, Sư đoàn 320 được lệnh trở về đội hình Quân đoàn 3
2. Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, Lịch sử bộ đội chủ lực Mặt trận Tây Nguyên - Quân đoàn 3 - Biên niên sự kiện (1964-2000), Nxb QĐND, H. 2002, tr. 560.
---------------------------------
Trên hướng quân đoàn 4, sau khi cùng các đơn vị Bạn hỗ trợ lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia giải phóng đất nước, Quân đoàn 4 tổ chức 1 lực lượng làm nhiệm vụ tiếp quản thủ đô Phnôm Pênh; đồng thời điều Sư đoàn 9 phối hợp với Quân khu 9 truy quét địch ở Uđông, Longvéc, giải toả đường số 5 và đường sắt từ Uđông, Kravanh lên Rômia, bảo đảm giao thông đường sông từ Phnôm Pênh đi Côngpông Chnăng. Sư đoàn 7 cơ động đánh địch ở phía tây sân bay Pôchentông và phía tây bắc thành phố. Sư đoàn 341 sử dụng một lực lượng đánh địch xung quanh thị xã Côngpông Spư, một lực lượng phối hợp với Sư đoàn 2 đánh địch ở khu Bàu Diu, giữ vững đường số 4.
Sau khi phối hợp với Quân khu 9 và lực lượng Bạn giải toả đường số 5, khôi phục khu vực Uđông, Longvéc, mở rộng địa bàn kiểm soát từ Phnôm Pênh lên Côngpông Chnăng và Puốcxát, hình thành vành đai vững chắc bảo vệ thủ đô Phnôm Pênh, thực hiện nhiệm vụ của Tiền phương Bộ giao, Quân đoàn 4 tiếp tục phối hợp với các đơn vị Bạn đánh phá căn cứ địch ở tây nam Côngpông Chnăng. Tại khu vực này, lực lượng Quân khu Tây Nam của địch sau khi rút vào dãy núi Tượng và vùng rừng núi tây nam thị xã Côngpông Spư đã xây dựng các căn cứ, bàn đạp, tiếp tục phản kích ra đường số 2, đường số 4 và thị xã Tàkeo.
Để tiêu diệt chỉ huy địch, triệt phá các kho tàng, căn cứ của chúng trong khu vực từ núi Tượng đến nam đường số 4, tây nam và nam thị xã Côngpông Spư, không cho chúng rút lên phía bắc đường số 4, hỗ trợ Quân khu 9 và Quân đoàn 2 tiến công phá vỡ hệ thống căn cứ địch, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 quyết định sử dụng Sư đoàn 341, được tăng cường Trung đoàn Ba Gia, tiến công trên hướng chủ yếu từ đông bắc đánh xuống tây nam trục dường số 4, phối hợp với các đơn vị của Quân đoàn 2 chốt giữ và kiểm soát các trọng điểm trên đoạn đường này, ngăn chặn không cho địch từ phía nam vượt qua đường số 4; đồng thời sử dụng Sư đoàn 7 (thiếu) đảm nhiệm hướng phối hợp đánh chiếm khu vực phía nam Côngpông Spư đến đường 26 (đoạn bắc Snông), giữ sườn đông nam cho Sư đoàn 341; đồng thời phối hợp với Sư đoàn 341 đánh địch ở đường số 4 và một số đơn vị của Quân khu 9 đánh địch ở nam núi Chàngô.
Ngày 28 tháng 2 năm 1979, Sư đoàn 341 (thiếu) đánh chiếm các điểm cao trên đường số 4 và phát triển chiến đấu xuống phía tây thị xã Côngpông Spư. Sư đoàn 7 đánh chiếm khu vực đông - tây đường 26 đến nam đường số 4. Do lực lượng địch ở khu vực bắc núi Tượng chống cự quyết liệt, các đơn vị của Quân khu 9 chưa giải quyết xong mục tiêu nên ngày 29 tháng 2, bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 quyết định sử dụng 2 trung đoàn của Sư đoàn 7 theo đường 26 lên chi viện cho lực lượng của Quân khu 9; đồng thời sử dụng Trung đoàn 1 (Ba Gia) theo đường số 110 đánh xuống Snăng (tây nam Phnôm Pênh 45 kilômét). Ngày 3 tháng 3 năm 1979, bộ dội ta làm chủ Snăng.
Trên hướng Sư đoàn 341, sau khi đập tan các đợt phản kích của địch vào phía bắc thị xã Côngpông Spư, ngày 5 tháng 3 năm 1979, Sư đoàn sử dụng một trung đoàn phối hợp với các đơn vị của Sư đoàn 7 đánh xuống nam Kanđan, cùng lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng số dân bị địch bắt đi theo. Ngày 9 tháng 3, các đơn vị của Quân đoàn phát triển chiến đấu, kết hợp chặt chẽ với Sư đoàn 339 (Quân khu 9) tiêu diệt quân địch ở Môlúp. Những ngày sau đó, địch cho lực lượng liên tục phản kích hòng chiếm lại điểm cao 212 và tây Kandan, nhưng đều bị các đơn vị của Quân đoàn 4 đập tan.
Trong chiến dịch này, các đơn vị của Quân đoàn 4 loại khỏi chiến đấu hàng nghìn tên, bắt hàng nghìn tên, thu hàng nghìn súng các loại, 200 tấn đạn, giải phóng 14.000 dân bị địch bắt đi theo. Thắng lợi lớn nhất của Quân đoàn trong chiến dịch này là ta đã khống chế hoàn toàn đường số 4 sớm hơn dự kiến 1 ngày; đánh trúng 2 căn cứ cấp sư đoàn của địch, thu hẹp vùng căn cứ của địch, mở rộng vùng giải phóng, đảm bảo an ninh cho thủ đô Phnôm Pênh và các vùng xung quanh.
Sau khi bị ta truy quét, trên địa bàn do Quân đoàn 4 phụ trách, địch bố trí thành ba khu vực: Khu nam đường số 4, tây đường số 3 đến bắc núi Tượng; khu vực nam - bắc Amleng và đường số 14; khu vực đông - tây đường sắt đoạn Puốcxát. Tại khu vực Amleng - Kimri, nơi được mệnh danh là "Phnôm Pênh mới" của Pôn Pốt, địch tập trung các sư đoàn bộ binh 74, 250, 260; sư đoàn 488 pháo binh và sư đoàn 377 thiết giáp cùng nhiều kho tàng, phương tiện dự trữ chiến tranh. Lợi dụng địa hình hiểm trở, chúng xây dựng nơi đây thành một căn cứ lớn hòng chống phá chính quyền cách mạng.
Nhận nhiệm vụ phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tiêu diệt địch ở khu vực Amleng - Kimri, Quân đoàn 4 được Tiền phương Bộ Quốc phòng tăng cường Sư đoàn 5 (Quân khu 7). Quyết tâm của ta và Bạn là tập trung lực lượng tiêu diệt các cơ quan chỉ huy, các căn cứ trung ương và quân khu. Tiêu diệt và làm tan rã phần lớn sinh lực dịch, đánh chiếm các kho tàng trang bị và lương thực của dịch; đồng thời phát động nhân dân xây dựng chính quyền cách mạng, củng cố vùng giải phóng.
Ngày 19 tháng 3 năm 1979, các đơn vị thuộc Sư đoàn 9 đánh chiếm vùng đông và bắc Thmei, diệt nhiều địch, bắt hàng trăm tên, thu 1 kho súng, giải phóng gần  1 vạn dân. Tiếp đó, Sư đoàn tổ chức nhiều đợt truy quét tàn quân địch, giải phóng hàng vạn dân. Trong thời gian này, các đơn vị của Sư đoàn 5 tiến công dịch ở nam đường số 114, Kravanh, Tangpon, giải phóng hơn 15.000 dân, sau đó phát triển về hướng Kimri. Sư đoàn 7 truy quét địch ở các điểm cao từ Khumpous - Tàpeng - Thmei, gây cho địch nhiều thiệt hại.
Trong đợt chiến đấu từ ngày 18 đến ngày 21 tháng 3 năm 1979, các đơn vị của Quân đoàn 4 đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn một nghìn tên dịch, thu nhiều vũ khí, đạn dược, 1.200 tấn lúa, giải phóng gần 5 vạn dân. Từ ngày 23 đến 26 tháng 3 năm 1979, Sư đoàn 9 tiến công tiêu diệt địch ở Longcam, Thmabăng, tây bắc Domei, tây Choen, diệt và bắt nhiều dịch, giải phóng 11.000 dân. Sư đoàn 5 đánh chiếm cao điểm 223, sau đó phát triển lên Domei, bắt liên lạc với Sư đoàn 9. Sư đoàn 7 đánh địch từ khu vực Knôngnam đến núi Kanđan và tây nam Khumpút, diệt và bắt nhiều địch, giải phóng 40(?) vạn dân. Những ngày cuối tháng 3 năm 1979, các đơn vị của Quân đoàn tiếp tục truy quét tàn quân dịch, mở rộng vùng giải phóng. Ngày 31 tháng 3 năm 1979, chiến dịch kết thúc, bộ đội ta giải phóng gần 10 vạn dân, loại khỏi chiến đấu hầu hết các sư đoàn địch, bước đầu làm phá sản âm mưu xây dựng căn cứ lâu dài để chống phá ta của dịch. Do địa bàn tác chiến rộng, địa hình hiểm trở, sự phối hợp giữa các lực lượng chưa nhịp nhàng, nên ta chưa diệt được bộ chỉ huy cao nhất của địch ở khu vực này.
Từ ngày 5 đến ngày 15 tháng 11 năm 1979, Quân đoàn nhận nhiệm vụ phối hợp với Bạn và Quân khu 9 tiến công dịch ở bắc Kirirom. Mở đầu chiến dịch, Quân đoàn sử dụng 2 sư đoàn thiếu (7 và 9) cùng một số đơn vị xe tăng, thiết giáp mở hướng tiến công phối hợp cùng Quân khu 9 từ tây bắc Côngpông Spư 70 kilômét vào hướng Kirirom. Tiếp đó, từ ngày 12 tháng 4, Quân đoàn sử dụng 1 trung đoàn của Sư đoàn 341, 1 trung đoàn của Sư đoàn 9 và Trung đoàn 250, dưới quyền chỉ huy của Ban chỉ huy Sư đoàn 341, đánh địch ở tây bắc  Rômiá, tây sân bay Côngpông Chnăng - nam Pômlây, bảo vệ đường số 5 và đường sắt, tạo bàn đạp cho cuộc tiến công quyết định vào căn cứ địch ở Lếch - Ôran.
Trong chiến dịch này, các đơn vị của Quân đoàn đã loại khỏi chiến đấu gần nghìn tên, giải phóng 12.000 dân, thu nhiều súng đạn, phương tiện chiến tranh giao cho Bạn.
Sau chiến dịch này, Quân đoàn 4 được Tiền phương Bộ giao nhiệm vụ cùng với Quân đoàn 3; Quân khu 7 phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia mở chiến dịch quy mô lớn tiêu diệt quân địch ở căn cứ Ôran - Lếch - Tàsanh. Bước vào chiến dịch, Quân đoàn nhận lệnh trả Sư đoàn 5 về đội hình chiến đấu của Quân khu 7; đồng thời được Tiền phương Bộ tăng cường Trung đoàn 14 công an vũ trang và 3 trung đoàn bộ binh (thiếu) của 3 tỉnh (Bến Tre, Tiền Giang, Hậu Giang) đảm nhiệm tác chiến trên địa bàn 3 tỉnh Canđan, Côngpông Chnăng, Puốcxát.
Trong đợt 1 của chiến dịch, Quân đoàn sử dụng Sư đoàn 341 (được tăng cường Trung đoàn 250) đảm nhiệm hướng tiến công chủ yếu từ đường số 5, Puốcxát và Kracon đánh xuống phía nam Lếch, Sư đoàn 9 (thiếu) làm nhiệm vụ vu hồi, Trung đoàn 165 (Sư đoàn 7) và Trung đoàn 3 (Sư đoàn 9) tấn công truy quét địch ở tây bắc ga Rômía.
Ngày 27 tháng 4 năm 1979, Sư đoàn 9 đánh chiếm được phía nam Lếch, Sư đoàn 7 chiếm được tây bắc Rômía. Trên hướng chủ yếu, Sư đoàn 341 đánh lui các đợt tiến công của địch vào Puốcxát nhưng thương vong của ta khá cao. Trong các ngày từ 29 tháng 4 đến 10 tháng 5, Sư đoàn 341 liên tục tiến công địch, giành quyền kiểm soát khu vực xung quanh Lếch và nam Puốcxát 20 kilômét. Sư đoàn 9 đánh chiếm khu vực phía nam Lếch 20 kilômét đến Nam Bắc đường số 561 và đông nam Bâmnek. Trong trận đánh vào căn cứ Lếch, ta thu được con dấu và giấy giới thiệu của Văn phòng 870 (văn phòng Trung ương của Pôn Pốt), diệt hàng trăm tên, bắt hàng nghìn tù binh, gọi hàng hàng trăm tên, giải phóng gần một vạn dân.

Từ ngày 11 đến 15 tháng 5, Quân đoàn điều Sư đoàn 341 (thiếu) và Sư đoàn 9 (thiếu) được tăng cường Trung đoàn 165 (Sư đoàn 7) trở lại đánh địch ở khu vực đông - tây đường số 28, nam đường số 5, bắc đường sắt và đông nam Bâmnek, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng 500 dân. Từ ngày 20 đến ngày 30 tháng 5 năm 1979, Quân đoàn sử dụng 3 sư đoàn thiếu (341, 7, 9) tiến công địch ở dãy núi Oran, bắc Amleng, nam bắc đường số 124 và từ nam đường số 561 đến nam đường sắt (đoạn tây - nam Rômía) nhằm tiêu diệt hệ thống chỉ huy và các đơn vị thuộc mặt trận đường số 5 địch. Sau 10 ngày chiến đấu, bộ đội ta diệt và bắt hơn 600 tên địch, giải phóng 23.500 dân. Sau đợt tiến công này, Quân đoàn 4 điều chỉnh lực lượng đảm bảo vừa chốt giữ biên giới, vừa đánh địch trong nội địa: Trung đoàn 250 chốt giữ khu vực đông bắc biên giới 30 kilômét; Trung đoàn 14 công an vũ trang chốt tại đông biên giới từ 15 đến 20 kilômét; các trung đoàn địa phương Bến Tre, Hậu Giang, Tiền Giang bố trí tại Canđan, nam Phnôm Pênh, Côngpông Chnăng, Puốcxát. Các sư đoàn 7, 9, 341 tiếp tục làm nhiệm vụ tiến công, truy quét tàn quân địch.
Như vậy, tính từ giữa tháng 1 đến cuối tháng 6 năm 1979, với 5 chiến dịch lớn, nhỏ, Quân đoàn 4 và các đơn vị được Bộ tăng cường đã phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tiêu diệt nhiều sinh lực, phương tiện chiến tranh, căn cứ lớn của địch; giải phóng hàng chục vạn dân, mở rộng vùng giải phóng. Bên cạnh những thành công, trong tác chiến các đơn vị Quân đoàn cũng bộc lộ những mặt còn hạn chế như chưa tạo được yếu tố bí mật, bất ngờ của chiến dịch; chưa xây dựng được những phân đội thiện chiến đánh luồn sâu, vu hồi trên địa hình rừng núi; chưa có kinh nghiệm và thiếu biện pháp bảo đảm để chấp hành nghiêm chỉnh kế hoạch hiệp đồng; cơ động lực lượng còn chậm. Đây là những bài học quý báu được Bộ tư lệnh Quân đoàn nghiêm túc chỉ ra để các đơn vị rút kinh nghiệm trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu những năm tiếp theo.
Song song với nhiệm vụ truy quét tàn quân địch, bảo vệ vùng giải phóng, để thực hiện tốt 6 mặt công tác giúp Bạn theo chỉ thị của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 đã tổ chức 2 hội nghị bàn biện pháp tổ chức giúp Bạn, tập trung vào thực hiện ba nhiệm vụ cơ bản là:
1. Giúp Bạn xây dựng, củng cố chính quyền địa phương và các đoàn thể quần chúng.
2. Tăng cường huấn luyện, trang bị, nâng cao năng lực chỉ huy, tác chiến giúp quân đội cách mạng Campuchia.

3. Giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn đói, từng bước ổn định sản xuất và đời sống.
Để thực hiện các nhiệm vụ trên, các đơn vị trực thuộc quân đoàn đều thành lập các tổ công tác giúp Bạn do Chính ủy hoặc Phó chính ủy phụ trách. Các trung đoàn bộ binh thành lập thêm tiểu đoàn thứ 4 làm nhiệm vụ quản lý địa bàn, giúp Bạn xây dựng lực lượng dân quân du kích, củng cố chính quyền cách mạng trên các địa bàn đứng chân.
Lúc đầu ta chú trọng xây dựng chính quyền và lực lượng vũ trang dọc theo quốc lộ 9 và các tuyến đường sông quan trọng; sau đó mở rộng, tiến tới hoàn chỉnh trong từng khu vực, từng huyện, từng tỉnh. Cùng với các đội công tác, quân đoàn đã thành lập Phòng Dân quân để phối hợp cùng các phòng Dân vận, Địch vận và các ngành khác giúp Đảng ủy và Bộ tư lệnh Quân đoàn chỉ đạo giúp Bạn toàn diện trên các mặt. Tính đến cuối tháng 6 năm 1979, Quân đoàn 4 đã thành lập 28 đội công tác với 488 cán bộ chuyên trách, tổ chức tuyên truyền cho hơn 1,5 triệu lượt người, huy động hơn 16.000 lượt người tham gia các cuộc mít tinh; tổ chức nhiều buổi chiếu phim, biểu diễn văn nghệ, thu hút gần 100.000 lượt người xem, giúp đỡ đưa hơn 83.000 lượt người về quê cũ làm ăn.
Về xây dựng, củng cố chính quyền và các đoàn thể, quân đoàn đã giúp 3 tỉnh Kandan, Côngpông Chnăng và Puốcxát xây dựng chính quyền ở 1.156 phum (ấp) với 3.448 cán bộ; ở 234 khum (xã) với 1.170 cán bộ; các hội thanh niên, phụ nữ, thiếu nhi ở các khum được tổ chức và đi vào hoạt động tương đối nền nếp. Các đơn vị trong quân đoàn còn kết hợp với chuyên gia và ban cán sự tỉnh (người Campuchia) mở nhiều lớp tập huấn cho cán bộ hành chính phum, khum và cán bộ làm công tác vận động quần chúng.
Các đơn vị đứng chân trên các địa bàn đã tích cực giúp Bạn xây dựng, huấn luyện lực lượng vũ trang. Đến tháng 6 năm 1979, tỉnh Puốcxát đã xây dựng được hơn 2.000 dân quân, du kích (522 có súng), tỉnh Côngpông Chnăng có gần 1.600 người (1.200 có súng), tỉnh Kanđan 7.090 người (2.311 người có súng). Tính chung 3 tỉnh, số dân quân, du kích có gần 10.700 người (trang bị 4.033 súng). Dân quân, du kích được tổ chức thành các tổ ở phum và trung dội ở khum. Về xây dựng bộ đội địa phương, ta giúp tỉnh Côngpông Chnăng xây dựng 2 tiểu đoàn bộ đội địa phương, tỉnh Puốcxát xây dựng được 17 đại đội với tổng số quân là 3.456, người trang bị 1. 827 súng. Các đơn vị dân quân, du kích được huấn luyện 10 ngày, bộ đội địa phương được huấn luyện 2 tháng. Cán bộ trung đội, đại đội của Bạn đều được quân đoàn giúp đỡ tập huấn về chỉ huy và chuyên môn. Đặc biệt, quân đoàn đã mở lớp đào tạo cán bộ giúp quân đội Campuchia khoá đầu tiên với 140 học viên tham gia. Ngoài ra, quân đoàn còn giúp Binh đoàn 1 lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia xây dựng, huấn luyện 7 tiểu đoàn với 1.486 quân.
Trong 6 tháng đầu năm 1979, Quân đoàn 4 còn bàn giao cho Quân đội cách mạng Campuchia một khối lượng lớn chiến lợi phẩm, gồm 5.000 tấn lúa, 100 tấn muối, 117 xe ô tô các loại, hơn 100 tấn đường, 70.000 hộp sữa và hơn 30.000 mét vải. Với tình cảm quốc tế trong sáng, cán bộ và chiến sĩ quân đoàn đã tiết kiệm, giúp đỡ nhân dân Campuchia 247 tấn gạo, góp 271.000 ngày công lao động xây dựng và sửa chữa 186 trường học, 1 trại trẻ mồ côi, 32 bệnh xá, 9.181 nhà ở; khám bệnh và phát thuốc cho gần 120.000 lượt người. Những việc làm nghĩa tình đó đã góp phần giải quyết một phần khó khăn, giúp nhân dân Bạn nhanh chóng ổn định cuộc sống.
-----------------------------------
Ở hướng Quân khu 7, sau khi hoàn thành nhiệm vụ trong cuộc tổng tiến công, Quân khu được giao phụ trách địa bàn Báttambang - Xiêm Riệp và 4 tỉnh phía đông thủ đô Phnôm Pênh (Svâyriêng, Côngpông Chàm, Côngpông Thom, Krachiê). Trên địa bàn này, Khơme đỏ đã tập hợp tàn quân với khoảng từ 22.000 đến 25.000 quân, phân bố trên các địa bàn như sau: - Xiêm Riệp khoảng 6.000 quân, hoạt động tại các khu vực Ampin, núi Hồng, tây bắc Crolanh, Anlongveng.
Báttambang khoảng 8.000 quân ở Xixôphôn, Thơmapuốc, Poipét, Pailin, nam đường 10 và ven Biển Hồ.
- Bắc Côngpông Chàm, Côngpông Thom có khoảng 5.000 quân (gồm tàn quân ba sư đoàn 603, 280, 310 và lực lượng ba vùng 41, 42, 43).
- Các sở chỉ huy của Quân khu Trung tâm, Mặt trận đường 7, 2 sư đoàn mới thành lập (512, 515) tập hợp lại ở đông đường 6 dọc tuyến sông Chinít, sông Xan, tây núi Chi, tạo thành các cụm đóng quân từ 200 đến 1.000 tên.
- Krachiê có khoảng 2.000 quân, gồm Trung đoàn 93 (của Sư đoàn 920), tàn quân các sư đoàn 260, 920 và các vùng 505, 801. Lực lượng này phân tán thành nhiều cụm từ vài chục đến vài trăm tên, đóng tại vùng tây, tây bắc Krachiê. Ngoài ra, ở Côngpông Chàm, địch có khoảng hơn 3.000 quân thuộc lực lượng ly khai của Boring, Hiêsonna, Chăhsbtha[1].
Trong giai đoạn đầu, đo lực lượng mỏng, địa bàn rộng, quân khu 7 chủ yếu trập trung truy quét địch, bảo vệ giao thông, giữ một số địa bàn trọng yếu. Sau khi Bộ giao cho Quân đoàn 3 giữ Báttambang - Xiêm Riệp, từ ngày 12 tháng 2 đến 20 tháng 3 năm 1979, Quân khu tập trung 3 sư đoàn (5, 302, 303) và trung đoàn đặc công (thiếu) đánh vào các căn cứ của Quân khu Trung tâm địch từ sông Xan, sông Chinít đến đường 7. Trong chiến dịch này, các đơn vị của Quân khu diệt 546 tên, bắt 1.221 tên, vận động nhân dân kêu gọi 11.124 tên ra hàng, giúp 20.000 dân thoát khỏi sự khống chế của địch.
Ta thu 3.515 tấn thóc, 20 tấn muối, kịp thời cấp cho dân khắc phục nạn đói .
Để tăng cường lực lượng giữ địa bàn, ngày 17 tháng 3 năm 1979, Quân khu 7 điều Sư đoàn 317 mới thành lập (gồm 6 trung đoàn: 775, 747, 115, 770b, 320 và 774 pháo binh) sang Campuchia làm nhiệm vụ chiến đấu ở tỉnh Côngpông Thom. Sư đoàn 317 triển khai Trung đoàn bộ binh 775 đứng chân tại huyện Sonđan, Trung đoàn 747 đứng chân tại huyện Barày, Trung đoàn 115 đứng chân tại huyện Satong, Trung đoàn pháo binh 774 đứng chân tại huytện Sântuk. Trung đoàn 770b đứng chân tại thị xã Côngpông Thom. Từ ngày 23 tháng 3 đến ngày 7 tháng 4 năm 1979, Sư đoàn vừa tổ chức điều tra nghiên cứu tình hình địch, xây dựng các đội công tác vừa làm nhiệm vụ giúp Bạn; đồng thời tổ chức truy quét địch. Trong đợt hoạt động đầu tiên trên chiến trường Campuchia, các đơn vị của Sư đoàn diệt 34 tên, bắt 4 tên, gọi hàng 273 tên, thu 102 súng các loại, bảo vệ được địa bàn và các mục tiêu được giao.
Để tăng cường sự chỉ đạo, chỉ huy đối với Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam hoạt động tại Campuchia, ngày 30 tháng 3 năm 1979, Thường trực Quân ủy Trung ương ra Quyết định số 95/QW-TW chỉ định đồng chí Lê Hai, phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, tham gia Tiền phương Bộ Quốc phòng.
Trước yêu cầu nhiệm vụ mới, theo chỉ đạo của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, từ tháng 4 năm 1979, Tiền phương Quân khu 7 tách làm hai bộ phận để chỉ dạo Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự của Quân khu hoạt động tại Campuchia trên hai mặt trận. Tiếp đó, ngày 11 tháng 5 năm 1979, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 553/QĐ-QP lâm thời tổ chức Bộ chỉ huy Mặt trận 479 trực thuộc Bộ tư lệnh Quân khu 7.
Mặt trận 479 phụ trách hướng bắc Campuchia, gồm các tỉnh Xiêm Riệp - Ôtđômiênchay, Báttambang. Lực lượng nòng cốt là các đơn vị thuộc Tiền phương Quân khu 7, được bổ sung một số đơn vị của Quân khu 5 do đồng chí Bùi Thanh Vân, Phó Tư lệnh Quân khu 7 làm Tư lệnh, đồng chí Lê Thanh, Phó Chính ủy Quân khu làm Chính ủy. Thời kỳ đầu, cơ cấu tổ chức Mặt trận 479 gồm: Bộ tư lệnh, ba cơ quan (tham mưu, chính trị, hậu cần) và các sư đoàn 5, 302, 309, 317; 6 trung đoàn bộ binh trực thuộc (6, 7, 160, 205, 726, 740); 5 trung đoàn binh chủng (145 xe tăng - thiết giáp, 488 pháo binh, 548 công binh, 594 cao xạ, 611 thông tin) và hai đoàn chuyên gia 7704, 7705.
Lực lượng còn lại của Quân khu 7 và một số đơn vị được Bộ tăng cường đảm nhiệm các tỉnh phía đông thủ đô Phnôm Pênh (Côngpông Chàm, Côngpông Thom, Krachiê, Svâyriêng, Prâyveng). Thời gian đầu, các lực lượng này đặt dưới sự chỉ huy của Tiền phương Quân khu 7, sau đổi thành Mặt trận 779. Đây là bước phát triển mới về tổ chức chỉ huy lực lượng chiến đấu trên chiến trường Campuchia của Quân tình nguyện Việt Nam: thành lập các mặt trận do các quân khu chỉ huy và thành lập Bộ tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia sau này.
Sau khi thành lập, các đơn vị thuộc Mặt trận 479 liên tục mở các đợt truy quét tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng dân; đồng thời giúp Bạn xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố chính quyền cách mạng. Đứng chân trong đội hình Mặt trận 479, Sư đoàn 5 đảm nhiệm bảo vệ tuyến biên giới Campuchia - Thái Lan, trên địa bàn 5 huyện phía bắc Báttambang. Trên địa bàn này, địch có 2 sư đoàn (320 và 519) Pôn Pốt và 14 tiểu đoàn thuộc lực lượng của Xon Xan. Dựa vào vùng giáp biên giới Thái Lan, địch ra sức xây dựng lực lượng và củng cố hệ thống căn cứ (Kaomêlai, điểm cao 175, Cola, Chùmrumthơmây, Côngxilốp) dọc biên giới làm bàn đạp để mở đường, lập hành lang đưa người và vũ khí, phương tiện vật chất vào nội địa Campuchia; dùng quân tập kích vào các điểm tựa của ta; dùng tiền bạc mua chuộc, lôi kéo, dụ dỗ bọn Khơme phản động để thành lập "chính phủ ba phái".
Để đối phó với các âm mưu của địch, Sư đoàn 5 (gồm 3 trung đoàn bộ binh 4, 174, 16, Trung đoàn 28 pháo binh và 8 tiểu đoàn trực thuộc) được Mặt trận 479 tăng cường 3 trung đoàn (688, 689, 160) triển khai đội hình trên chính diện 160 kilômét (từ Ôđa, Kaomêlai đến Tàmốc), chiều sâu 94 kilômét (từ Poipét đến Crolanh), làm nhiệm vụ phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tổ chức phòng ngự, bảo vệ biên giới, không cho địch vận chuyển hàng viện trợ vào nội địa; đồng thời kết hợp với lực lượng Bạn truy quét, tiêu diệt, tiêu hao sinh lực dịch, phá các căn cứ lõm của chúng.
Mặc dù địa bàn rộng, hiểm trở, khí hậu vô cùng khắc nghiệt, quân địch thường xuyên đánh phá nhưng cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 5 đã kiên cường trụ bám, bước đầu làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn của địch.
Được Bộ tư lệnh Mặt trận 479 giao nhiệm vụ đảm nhiệm tác chiến trên địa bàn phía tây bắc Mặt trận 479, Sư đoàn 302, dưới sự chỉ huy của Sư đoàn trưởng Nguyễn Văn Phê, Chính ủy Mai Văn Thoạn, triển khai lực lượng trên 10 huyện thuộc các tỉnh Xiêm Riệp - Ốtđômiênchay và một phần tỉnh Báttambang trên tuyến biên giới Campuchia - Thái Lan với chính diện và chiều sâu khoảng 200 kilômét. Để đảm bảo vừa có lực lượng cơ động, vừa có lực lượng chốt giữ địa bàn, sau khi nắm tình hình địch và địa hình, Sư đoàn đã sử dụng 2 trung đoàn (271 và 88) làm nhiệm vụ cơ động; 3 trung đoàn bộ binh (201, 429, 690), Trung đoàn pháo 962*và 9 tiểu đoàn trực thuộc làm nhiệm vụ chốt giữ địa bàn.
Bằng nhiều hình thức tác chiến, Sư đoàn đã tập trung mọi nỗ lực truy quét tàn quân địch, tìm diệt các căn cứ lõm, bảo vệ các trục đường giao thông, ngăn chặn địch tiếp tế từ ngoài biên giới vào trong nội địa; đồng thời tích cực giúp Bạn xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố chính quyền cách mạng, bước đầu hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ được giao.
Trong thời gian này, căn cứ vào nhiệm vụ được Bộ tư lệnh mặt trận giao, các sư đoàn 309, 317 và các trung đoàn trực thuộc Mặt trận 479 đều triển khai lực lượng chốt giữ địa bàn và truy quét địch. Với phương châm tích cực truy quét tàn quân dịch, kết hợp chặt chẽ giữa tác chiến với củng cố địa bàn, xây dựng lực lượng, các đơn vị thuộc Mặt trận 479 đã ngăn chặn có hiệu quả việc tiếp tế viện trợ của địch từ ngoài biên giới vào nội địa, củng cố thế trận, bảo vệ vùng giải phóng, tiêu diệt sinh lực địch, phát triển lực lượng ta; đồng thời giúp đỡ nhân dân đẩy mạnh sản xuất, ổn định cuộc sống.
----------------------------------------------------
Đối với Quân khu 5, sau khi hoàn thành nhiệm vụ trong cuộc tổng tiến công giải phóng Campuchia, Quân khu 5 được giao phụ trách địa bàn 4 tỉnh: Ráttanakiri, Mônđônkiri, Stung Treng, Prếtvihia. Trên địa bàn này, tàn quân các sư đoàn 801, 920, 775, 612, 616 còn khoảng hơn vạn tên lẩn trốn hoạt động. Trong tháng 1 và tháng 2 năm 1979, các đơn vị của quân khu liên tục tổ chức các đợt truy quét, bảo vệ các trục giao thông, các địa bàn chiến lược; đồng thời giúp nhân dân Campuchia xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố chính quyền ở các địa phương. Do lực lượng mỏng, địa bàn rộng, địch lẩn trốn trong dân nên công tác truy quét của ta gặp nhiều khó khăn; ở một số nơi, chính quyền bị địch khống chế, không phát huy được tác dụng.
Để tăng cường lực lượng đáp ứng nhiệm vụ trong giai đoạn mới, đầu tháng 3 năm 1979, Quân khu 5 thành lập 2 sư đoàn (315 và 342). Ngay sau khi thành lập, Sư đoàn 315 nhận nhiệm vụ thay Sư đoàn 309 bảo vệ địa bàn đông sông Mê Công. Sau đó, quân khu bàn giao 2 sư đoàn (309, 342); 2 trung đoàn bộ binh (250, 276), Trung đoàn pháo binh 572b và 4 tiểu đoàn binh chủng (đặc công, xe tăng, pháo binh, công binh) cho Bộ để tăng cường cho các quân khu 7, 9 và các quân đoàn 3, 4.

Ngày 15 tháng 3 năm 1979, Bộ tư lệnh Quân khu 5 giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 315 đảm nhận địa bàn hoạt động của Sư đoàn 309 ở khu vực đông sông Mê Công thuộc vùng Đông Bắc Campuchia. Nhiệm vụ cụ thể là: tiếp tục truy quét tàn quân sư đoàn 801 địch; cùng các đơn vị Bạn bảo vệ an toàn vận chuyển trên trục đường 19; giúp Bạn vận động quần chúng, khôi phục sản xuất, xây dựng cơ sở chính trị, xây dựng chính quyền, cứu đói, chữa bệnh, ổn định đời sống nhân dân.
Vùng Đông Bắc Campuchia gồm 5 tỉnh (Ráttanakiri, Mônđônkiri, Stung Treng, Prếtvihia và Krachiê, (p.105) diện tích trên 10 vạn kilômét vuông, dân số khoảng 10 vạn người. Lực lượng địch trên địa bàn này có tàn quân các sư đoàn 801, 920 và lực lượng các vùng 105, 107.
Chúng dựa vào dãy núi Đăngrếch dọc biên giới Campuchia - Thái Lan để nhận viện trợ từ bên ngoài chuyển vào nội địa, giúp tàn quân Pôn Pốt phá hoại cách mạng Campuchia.
Đảm nhận tác chiến trên một địa bàn rộng, thưa dân, địa hình phức tạp, thời tiết khắc nghiệt, địch thường xuyên đánh phá, Sư đoàn 315 dưới sự chỉ huy của Sư đoàn trưởng Trương Đức Chữ, Chính ủy Trương Trung Thắng vừa tập trung lực lượng truy quét địch, vừa tích cực giúp đỡ Tiểu đoàn 179 (bộ đội địa phương tỉnh Ráttanakiri) xây dựng, phát triển lực lượng đánh địch, bảo vệ địa bàn; đồng thời phối hợp với Trung đoàn công binh 280 và lực lượng thanh niên xung phong đang thi công trên trục đường số 19, bảo đảm giao thông trên tuyến hành lang chính của mặt trận, từ ngầm Ada Đao lên tỉnh Stung Treng.
Cuối tháng 3 năm 1979, tại thị xã Stung Treng, đồng chí Huỳnh Hữu Anh, Tư lệnh Tiền phương Quân khu 5 cùng các đồng chí trong Bộ tư lệnh Mặt trận đã thông qua kế hoạch bố trí lực lượng của Sư đoàn 315 như sau: Trung đoàn bộ binh 142 đứng chân ở Lomphát và một phần về phía nam huyện Bôkeo (Ráttanakiri) đến đông Stung Treng, hoạt động trong khu vực từ nam đường 19 đến giáp giữa Mônđônkiri, Krachiê; đánh dịch ở khu vực giáp ranh ba huyện Lom phát, Bôkeo, Bunglung và khu vực rừng xanh nam sông Sêrêpốc, bảo vệ phà Sêrêpốc đi Cônhek và ngã ba đường 19, 141 và trục đường 141. Sở chỉ huy trung đoàn ở thị trấn Lomphát.
- Trung đoàn 143 bố trí ở khu vực Vonsai (Ráttanakiri), Xiêmpạng (Stung Treng) bắc sông Sê San, hoạt động trong khu vực từ đông sông Mê Công đến biên giới Campuchia - Lào; tập trung đánh địch ở trọng điểm nguồn suối Lalay - Ponglay - Nava - bắc Hátpớ đến làng Nhơn và giúp Bạn xây dựng hai huyện Vonsai, Xiêmpạng. Sở chỉ huy trung đoàn ở Vonsai.

- Trung đoàn 733 đảm nhiệm khu vực Ôchum (bắc Bunglung), vừa tranh thủ huấn luyện, vừa bảo đảm đường 194 đến nam Sê San, đường 194B Bunglung - Taveng và hoạt động trong phạm vi Bunglung, đông Vonsai đến ngã ba biên giới Lào - Campuchia - Việt Nam.
- Trung đoàn pháo binh 729 bố trí ở đông Bunglung, tây Bôkeo; tập trung huấn luyện chuyển binh chủng kết hợp vận động quần chúng bảo vệ địa bàn và đường 19 (đoạn đông Bunglung). Sư đoàn bộ và các đơn vị trực thuộc đứng chân ở thị xã Bunglung, vừa làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ địa bàn đứng chân, vừa giúp dân ổn định cuộc sống.
Cùng với việc triển khai lực lượng giữ địa bàn, các đơn vị trong Sư đoàn 315 vừa tổ chức các đợt truy quét tàn quân địch. Từ ngày 20 tháng 3 đến ngày 14 tháng 4 năm 1979, các đơn vị của Sư đoàn đánh 16 trận, diệt và bắt hàng trăm tên địch, thu một số súng đạn. Tiếp đó, từ ngày 15 đến 25 tháng 4, Sư đoàn sử dụng Trung đoàn 143 phối hợp với Trung đoàn 94 và Tiểu đoàn đặc công 407 bao vây tiêu diệt địch ở tam giác đông nam Xiêmpạng và vùng Ôtầng. Trung đoàn 142 (thiếu 1 tiểu đoàn) phối hợp bộ đội địa phương truy quét địch ở Lomphát nam Bôkeo, bắc sông Sêrêpốc.
Cùng với việc tiến hành truy quét địch và giúp dân phát triển sản xuất, củng cố chính quyền cách mạng, cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 315 bằng hành động thực tế đã gây được niềm tin yêu với nhân dân Campuchia. Có lần địch tung tin sẽ đánh úp cơ quan tỉnh của Bạn ở Vonsai hòng kéo quân ta ra đối phó. Bộ Tư lệnh Sư đoàn đã phán đoán đúng ý định của địch nên chỉ sử dụng 1 lực lượng nhỏ bảo vệ Vonsai còn lại tập trung truy quét tàn quân địch ở khu vực suối Lalay và khu vực biên giới A-tô-pơ (Hạ Lào), diệt nhiều tàn quân địch, giải phóng 3.000 dân, trong đó có con trai đầu và cháu nội của ông Buôn Chuon, Chủ tịch tỉnh Ráttanakiri. Ngoài ra, Sư đoàn còn đưa được nhiều dân ở vùng đông bắc Bôkeo về lập làng mới trên đường số 179. Khi bọn lính Pôn Pốt đến đốt nhà, đuổi dân ra rừng, Trung đoàn 733 đã nhanh chóng cơ động lực lượng đánh địch, bảo vệ an toàn cho dân. Trong dịp Tết cổ truyền Chôn Chnam Thơmây (14 và 15 tháng 4 dương lịch), các đơn vị Sư đoàn 315 tổ chức bảo vệ chu đáo để nhân dân trong vùng được vui chơi, ca hát. Nhiều người dân Campuchia rất cảm động đã ân cần buộc chỉ cổ tay, té nước cầu phúc cho Bộ đội tình nguyện Việt Nam. Những tình cảm cao đẹp đó đã góp phần thắt chặt tình đoàn kết gắn bó tin tưởng giữa Quân tình nguyện, chuyên gia quân sự Việt Nam với Quân đội cách mạng và nhân dân Campuchia.

Từ cuối tháng 4 đến tháng 6 năm 1979, do yêu cầu của nhiệm vụ bảo đảm hành lang vận chuyển và đánh địch bảo vệ địa bàn, Quân khu 5 tổ chức thêm Trung đoàn công binh hành lang 280 và 4 tiểu đoàn bộ đội tỉnh, 15 đại đội huyện để tăng cường cho các tỉnh Đông Bắc của Campuchia.
--------------------------------------------------
Cùng với việc tập trung lực lượng thực hiện tốt nhiệm vụ chủ yếu đánh địch bảo vệ địa bàn, Quân tình nguyện còn cử nhiều đội công tác tham gia giúp Bạn củng cố xây dựng chính quyền cách mạng và các tổ chức đoàn thể. Theo yêu cầu và sự thoả thuận của Trung ương Đảng Bạn, ngày 15 tháng 5 năm 1979, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 75/CT-TW về việc tổ chức các lực lượng chuyên gia Việt Nam tại các tỉnh Campuchia, gồm: các đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam, các đoàn chuyên gia Việt Nam cấp Trung ương, cấp tỉnh và tổ chuyên gia cấp huyện; các đội công tác hoạt động theo từng thời gian về kinh tế, kỹ thuật, y tế, giáo đục, văn học, nghệ thuật. Ban Bí thư phân công một số tỉnh của Việt Nam giúp tỉnh Bạn, các tỉnh ủy được tổ chức một tiểu Ban chuyên trách, do một đồng chí Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch chuyên trách. Các tỉnh Việt Nam không cử các đội công tác sang tỉnh Bạn làm nhiệm vụ phát động quần chúng, xây dựng chính quyền cách mạng và các đoàn thể quần chúng. Nhiệm vụ này do các đơn vị quân đội hoạt động trên tỉnh Bạn được Tiền phương Bộ Quốc phòng và các quân khu giao nhiệm vụ phát động quần chúng, xây dựng chính quyền, có thể tổ chức ra các đội công tác và phải bố trí thêm cán bộ chính trị, cán bộ dân vận làm nhiệm vụ được giao và phối hợp chặt chẽ với đoàn chuyên gia cấp tỉnh.
Thực hiện chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng, các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam vừa làm nhiệm vụ chiến đấu, truy quét tàn quân địch, vừa làm công tác phát động quần chúng, giúp Bạn xây dựng chính quyền cơ sở xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Đến tháng 6 năm 1979, các đơn vị Quân tình nguyện kết hợp giúp nhân dân các địa phương xây dựng chính quyền tự quản ở hầu hết các tỉnh, huyện, xã; giúp Bạn tổ chức 39.000 dân quân tự vệ trang bị 15.000 súng. Đặc biệt, Quân tình nguyện Việt Nam đã giúp Bạn tổ chức quân chủ lực và quân địa phương, biên chế thành một lữ đoàn, 2 trung đoàn, 32 tiểu đoàn bộ dội chủ lực, 36 đại đội địa phương huyện, 111 đội công tác (quân số 15.379 người). Chỉ riêng trên địa bàn do Quân khu 9 đảm nhiệm, Quân tình nguyện đã giúp Bạn xây dựng chính quyền cách mạng ở 20/23 huyện, 216/260 xã; đồng thời giúp 4 tỉnh Bạn xây dựng được 6 tiểu đoàn, 17 đại đội bộ đội địa phương, 3 khung huấn luyện tân binh (tương đương tiểu đoàn) và hàng trăm đội du kích ở các xã, ấp.
Như vậy, sau khi kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên toàn tuyến biên giới Tây Nam, đáp lời kêu gọi của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước và nhân dân Campuchia, Đảng và Nhà nước ta đã quyết định đưa lực lượng Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự sang giúp các lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân  Campuchia đánh đổ tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xari, giải phóng đất nước khỏi hoạ diệt chủng, giành chính quyền về tay nhân dân. Tiếp đó, theo đề nghị của Đảng, Nhà nước Campuchia, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam được Đảng, Nhà nước ta giao nhiệm vụ ở lại Campuchia triển khai lực lượng truy quét tàn quân Pôn Pốt, giúp Bạn củng cố chính quyền cách mạng, bảo vệ vùng giải phóng, góp phấn bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, từng bước ổn định đời sống nhân dân, phát triển kinh tế - xã hội, hồi sinh đất nước.
--------------------------------------------
Trên hướng Quân khu 9, sau khi hoàn thành nhiệm vụ trong tổng tiến công giải phóng đất nước Campuchia, các đơn vị của Quân khu được Tiền phương Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ chuyển sang thực hiện nhiệm vụ truy quét địch từ Puốcxát đến Uđông nhằm giải phóng số dân bị địch bắt đi theo và giúp Bạn xây dựng lực lượng vũ trang, bảo vệ chính quyền cách mạng.
Thời gian này, trên địa bàn Quân khu phụ trách, tàn quân các sư đoàn 1, 502, 261 của địch đã phục hồi; chúng đẩy mạnh hoạt động đánh phá giao thông từ Uđông đến Puốcxát. Trên địa bàn 2 tỉnh Tàkeo và Campốt, tàn quân các sư đoàn 210, 250, 270, 805 cũng đẩy mạnh các hoạt động chống phá chính quyền cách mạng. Chúng lập ra các mặt trận giao thông, tung quân đánh chiếm các địa bàn quan trọng, chia cắt giao thông của ta; đồng thời gom dân, cướp lương thực, vũ khí đưa về xây dựng một số căn cứ ở vùng rừng núi hòng tạo các bàn đạp đánh phá các vùng giải phóng của Bạn.
Để khôi phục các tuyến giao thông, từ giữa tháng 1 năm 1979, Quân khu 9 sử dụng Sư đoàn 339 phối hợp với lực lượng của Quân đoàn 4 tiến hành truy quét địch, mở rộng hành lang bảo vệ tuyến đường 5 từ Côngpông Chnăng đến Uđông. Sư đoàn 330 truy quét địch trên hướng Puốcxát. Sư đoàn 4 và các lực lượng bộ đội địa phương các tỉnh An Giang; Hậu Giang, Bến Tre, Trung đoàn 1 (Gia Định) đánh dịch trên hướng Tàkeo.
Từ ngày 2 đến ngày 8 tháng 2 năm 1979, địch tập trung 2 sư đoàn (210 và 270), có xe tăng và pháo binh yểm trợ, tiến công thị xã Tàkeo. Được Bộ tăng cường thêm Sư đoàn 320 (Quân đoàn 3), Quân khu 9 tập trung lực lượng giải tỏa Tàkeo và các khu vực xung quanh.

Triển khai thực hiện nhiệm vụ do Tiền phương Bộ Quốc phòng giao, từ đầu tháng 2 năm 1979, Quân khu 9 phối hợp với các đơn vị của Quân đoàn 4 và Quân đoàn 2 mở chiến dịch lớn truy quét quân địch ở phía tây nam Campuchia và khu vực từ nam - bắc đường 4 đến Cô Công. Trong chiến dịch này, Quân khu sử dụng Sư đoàn 9 và Sư đoàn 320 thực hành đánh địch và bao vây chiến dịch ở hướng bắc và hướng đông núi Tượng Lăng.
Sư đoàn 4 được tăng cường Trung đoàn 3 độc lập và Tiểu đoàn 198 đặc công Quân khu đánh địch và bao vây chiến dịch ở hướng nam và phía tây núi Tượng Lăng. Sư đoàn 8 ở hướng tây nam (Campốt) sẵn sàng cơ động lực lượng đánh địch trên các hướng khi cần. Lực lượng bộ đội địa phương thuộc các tỉnh của Quân khu và lực lượng Bạn làm nhiệm vụ đánh địch tại chỗ, sẵn sàng cơ động phối hợp với các đơn vị chủ lực.
Ngày 11 tháng 2 năm 1979, trên các hướng theo nhiệm vụ được giao các đơn vị của Quân khu nổ súng đánh địch. Sư đoàn 339 đánh vào phía nam và tây Môlúp. Ngày 17 tháng 2, quân ta chiếm được Salakhum và tiến hành truy quét địch ở phum Ô. Các đơn vị Sư đoàn 4 đánh địch ở đông - bắc Chuk và truy quét địch ở phía bắc đường 3. Sư đoàn 8 đánh địch ở tây - nam Chuk. Đến ngày 18 tháng 2, các đơn vị của Quân khu hoàn thành nhiệm vụ đánh chiếm các mục tiêu xung quanh núi Tượng Lăng và hình thành thế bao vây chiến dịch. Những ngày tiếp theo, Quân khu sử dụng các sư đoàn 4, 339, Sư đoàn 8 (thiếu) và Sư đoàn 320 (Quân đoàn 3 tăng cường) đánh vào vùng Tượng Lăng, Chúp, loại khỏi chiến đấu hàng nghìn tên, thu được nhiều súng các loại và các phương tiện chiến đấu khác của địch, giải phóng 200.000 dân.
Sau chiến dịch, Quân khu điều động Sư đoàn 8 và Sư đoàn 4 lên đảm nhiệm địa bàn tỉnh Campốt và từ nam Chamka Lương đến Píchnin để Quân đoàn 2 rút quân về nước nhận nhiệm vụ mới. Đầu tháng 3 năm 1979, Tiền phương Bộ Quốc phòng tăng cường Sư đoàn 310 (Quân khu 7) cho Quân khu 9 để đảm nhiệm địa bàn khu vực Preynop (tỉnh Campốt). Sau khi điều chỉnh lại lực lượng, Quân khu mở tiếp chiến dịch 2B, đánh địch ở khu vực Tượng Lăng, nam núi Lớn rồi chuyển sang tiến công truy quét địch ở khu vực đường số 4.
Trong thời gian này, Sư đoàn 330 tăng cường cho Quân đoàn 4, sau khi hoàn thành nhiệm vụ truy quét địch ở Lếch, khu vực đường sắt (nam Krako), đánh địch giải toả ở Uđông, các đơn vị của Sư đoàn tiếp tục tham gia chiến đấu cùng các đơn vị Bạn ở phía tây thị xã Côngpông Chnăng, sau đó phát triển vào Rômía. Một lực lượng khác của Sư đoàn cùng Quân đoàn 3 đánh địch ở Puốcxát. Cuối tháng 2 đầu tháng 3, trên hướng đường số 5, Sư đoàn 330 cùng Sư đoàn 339 và một lực lượng của Quân đoàn 4 đánh vào các căn cứ của sư đoàn 1 và sư đoàn 502 địch, tiêu diệt phần lớn lực lượng của chúng. Riêng Sư đoàn 330 trong đợt tác chiến này đã loại khỏi chiến đấu hơn 700 tên, bắn cháy 3 xe tăng, thu 5 chiếc khác và hàng nghìn khẩu súng các loại, góp phần giải toả quốc lộ 5, giải phóng hơn 20.000 dân.
Sau đợt hoạt động này, Tiền phương Bộ Quốc phòng điều Sư đoàn 330 trở lại đội hình Quân khu 9 để tham gia truy quét tàn quân địch, bảo vệ vùng giải phóng.
Trong đợt hoạt động nửa cuối tháng 3 năm 1979, ngoài việc truy quét địch, loại khỏi chiến đấu 2 tiểu đoàn, 7 đại đội, 4 trung đội, diệt nhiều tên, thu gần 400 khẩu súng các loại, giải phóng hơn 3 vạn dân, Sư đoàn còn giúp Bạn tổ chức được 5 đại đội bộ đội địa phương (700 quân, trang bị 571 súng các loại), xây dựng chính quyền và lực lượng vũ trang cho 18 xã (726 du kích, trang bị 273 súng các loại). Tuy Sư đoàn hoàn thành tốt các nhiệm vụ của Quân khu giao, nhưng tổn thất còn cao (hy sinh 317 đồng chí, bị thương 905 đồng chí, cháy 5 xe, hỏng 11 xe quân sự); việc cung cấp hậu cần phục vụ chiến đấu ở nhiều nơi không đáp ứng được kịp thời do đường xa, địa hình phức tạp, địch liên tục đánh phá.
Đầu tháng 4 năm 1979, sau khi ta rút bớt một số lực lượng về nước để bảo vệ Tổ quốc trên biên giới phía Bắc, địch tập trung tàn quân các sư đoàn 210, 250, 230, 164, 502, 460 ở Quân khu Tây Nam ra sức phản kích hòng đẩy lực lượng ta ra khỏi khu vực nam - bắc dường số 4.
Để tiêu diệt tàn quân địch, bảo vệ địa bàn, triệt mọi nguồn tiếp tế, hệ thống kho tàng và các căn cứ lõm của địch, theo kế hoạch của Tiền phương Bộ Quốc phòng, từ ngày 3 đến ngày 30 tháng 4 năm 1979, Quân khu 9 tập trung các sư đoàn 4, 8, 330, 339 và lực lượng trên tăng cường (2 sư đoàn 320 và 310, 6 trung đoàn độc lập và 15 tiểu đoàn bộ đội địa phương của các tỉnh trong Quân khu) mở chiến dịch 3 phối hợp với Quân đoàn 4 truy quét tiêu diệt các căn cứ lõm của dịch ở nam - bắc đường số 4. Theo kế hoạch chung của Tiền phương Bộ Quốc phòng, Quân khu sử dụng các sư đoàn 4, 310, 339 phối hợp với Quân đoàn 4 đánh địch ở phía bắc đường 4; tập trung chỉ đạo các sư đoàn 8, 320, 330, các trung đoàn độc lập và bộ đội địa phương đánh dịch ở nam đường số 4, khu vực núi Chàngô, bắc Tàâm, tây - tây nam núi Tượng Lăng và Đôngkamchay.
Mở đầu chiến dịch, ở phía bắc đường số 4, các sư đoàn 11, 310 cùng lực lượng bộ đội địa phương tỉnh Minh Hải lần lượt đánh chiếm các khu vực Chikho, Chiphắt Kamlot, Thomabang, Tatailơ, Kirirom, Trapenrung, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng hoàn toàn đường 18 từ Sêramben đến Cô Công với gần 3.500 dân.
Sư đoàn 330 đánh địch ở khu vực Chàngô lớn, Chàngô nhỏ, núi Tượng Lăng, Píchnin. Bị ta đánh mạnh ở bắc đường số 4, địch dồn về phía nam đường, Quân khu kịp thời điều sư đoàn 339 (thiếu 1 trung đoàn) tăng cường cho lực lượng phía nam. Bằng nhiều trận đánh bồi, đánh nhồi liên tiếp, quân ta lần lượt đánh chiếm các mục tiêu, trong đó có khu tây phum Ô. Sau khi bị mất khu vực ngã ba Môlúp và bắc Kaosala, rất nhiều tàn quân địch chạy về phía bắc và phía tây phum Ô. Trong các ngày từ 21 đến 27 tháng 4 năm 1979, Quân khu sử dụng Sư đoàn 8 vu hồi từ hướng tây nam kết hợp với một số lực lượng của các sư đoàn 330, 320 từ hướng tây bắc và hướng đông đánh vào phum Ô, diệt hơn 200 tên, thu 14 xe tăng và hàng trăm khẩu súng các loại.
Cũng trong thời gian này, Sư đoàn 8 và lực lượng bộ đội địa phương tỉnh Kiên Giang vừa truy quét, vừa phối hợp với nhân dân kêu gọi hơn 900 lính địch ra hàng.
Các đơn vị bộ đội địa phương của các tỉnh Tiền Giang, Hậu Giang, Bến Tre, An Giang, được pháo binh và thiết giáp Quân khu chi viện, bao vây tiêu diệt quân địch ở Chuk. Trong chiến dịch này, các đơn vị của Quân khu 9 cùng các đơn vị Bạn tiêu diệt và bắt hàng nghìn tên, gọi hàng 1.270 tên, thu 26 xe tăng, 169 xe vận tải, 1.909 súng các loại và hàng trăm tấn đạn dược, lương thực, quân trang, quân dụng; giải phóng các huyện Sêranben, Ptusakô, Chiphát, Thomabăng và bắc đường số 4.
Sau khi điều chỉnh lại lực lượng, từ ngày 1 tháng 5 đến 20 tháng 6 năm 1979, Quân khu 9 tiếp tục mở các chiến dịch 4 và 5 nhằm truy quét tàn quân địch còn lẩn trốn ở các vùng rừng núi, nhất là các khu vực ta dự đoán địch có khả năng lập các kho tàng, sở chỉ huy như phía bắc và đông bắc Kirivông, tây núi lớn, Kasala, đông và nam Tàlơn, tây bắc Campốt. Ở khu vực tứ giác bắc Kirivông, Sư đoàn 339 đã đánh trúng một số kho tàng của địch, diệt hơn 100 tên, thu 100 máy thông tin và nhiều đạn dược. Ở phía nam đường số 4, các sư đoàn 4, 8, Trung đoàn 152 (Kiên Giang) đánh chiếm sở chỉ huy các sư đoàn 210, 230, 250. Lực lượng bộ đội địa phương các tỉnh Tiền Giang, Cửu Long, Minh Hải, Bến Tre, Hậu Giang kết hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia truy quét tàn quân địch ở khu vực tây thị xã Puốcxát và một số huyện của tỉnh Côngpông Chnăng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét