Thứ Sáu, 2 tháng 9, 2016

TRUNG ĐOÀN PHÁO BINH 262



TRUNG ĐOÀN PHÁO BINH 262

Trung đoàn pháo binh 262 thành lập tại Hải Phòng năm 1972, là một trong các đơn vị pháo cao xạ thuộc Binh chủng Phòng không – Không quân. Ngay sau khi thành lập, đơn vị được lệnh vào chiến trường miền Đông Nam Bộ, đã lập chiến công đầu tại Bù Đốp (bắn rơi một máy bay vận tải của Mỹ). Cuối năm 1974, đầu 1975, khung trung đoàn bộ Trung đoàn 262 cùng các đơn vị như Tiểu đoàn 8 cao xạ (thuộc Trung đoàn 262) và hai tiểu đoàn pháo mặt đất (của Đoàn pháo 75: gồm Tiểu đoàn 7 – Trung đoàn 28, Tiểu đoàn 9 – Trung đoàn 42) được tổ chức lại thành Trung đoàn pháo hỗn hợp 262.
Từ tháng 5 năm 1976, đến ngày thành lập Sư đoàn 302, Trung đoàn 262 đã tham gia làm kinh tế (trồng cây cao su) ở miền Đông Nam Bộ.
Sư đoàn 302, sư đoàn chủ lực thứ hai của Quân khu 7. Tuy mới ra đời trong cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc trên biên giới Tây Nam, nhưng Sư đoàn 302 – Quân khu 7 là một trong những sư đoàn có bề dày truyền thống lịch sử vẻ vang.
Mặt trận 479 (bắc Campuchia) gồm các tỉnh XiêmRiệp, ỐtĐôMiênChay, BatĐomBoong. Mặt trận 479 được thành lập ngày 14/4/1979, tại thị xã XiêmRiệp, với nòng cốt là Tiền phương Quân khu 7 (được bổ sung thêm một số đơn vị của Quân khu 5). Sư đoàn bộ binh 302 là một trong những sư đoàn chủ lực của Mặt trận 479.
Đội hình chiến đấu cơ bản của Sư đoàn 302 trong thời điểm này có năm trung đoàn bộ binh, trong đó Trung đoàn 271 và Trung đoàn 88 là hai đơn vị cơ động thường trực chiến đấu, đảm nhiệm những địa bàn trọng yếu của sư đoàn trong nội địa.
Ba trung đoàn 201, 429 và 690 đứng chân trên tuyến biên giới ỐtĐôMiênChay và một phần tỉnh BatĐomBoong giáp với Thái Lan.
Trung đoàn pháo binh 262 là đơn vị hỏa lực của sư đoàn cùng chín tiểu đoàn trực thuộc như: Tiểu đoàn 27 trinh sát, Tiểu đoàn 25 công binh, Tiểu đoàn 28 đặc công, thông tin, cao xạ, thiết giáp, vận tải, huấn luyện, quân y… được bố trí trên nhiều địa bàn khác nhau.
Năm 1980 vị trí đứng chân của các đơn vị thuộc đội hình Sư đoàn bộ binh 302 như sau:
- Sư đoàn bộ phía trước ở nam SàmRông.
- Sư đoàn bộ phía sau ở đông ChôngCan I.
- Tiểu đoàn 13 ở bắc SàmRông.
- Tiểu đoàn 30 ở XRay Snam.
- Tiểu đoàn cao xạ ở PôngRô (nam SàmRông).
- Tiểu đoàn 27 trinh sát ở vị trí (64-39).
- Trung đoàn 88 ở Xray Snam (nam ChôngCan I).
- Trung đoàn 271 ở SàmRông.
- Trung đoàn 429 ở KaTum (tây bắc SàmRông).
- Trung đoàn 10 ở CướcMôn (công an vũ trang sau đổi thành Trung đoàn 690).
- Trung đoàn 201 ở RumChếk.
- Trung đoàn 740 ở đông ChiCreng.
- Trung đoàn 262 ở khu vực nam SàmRông 3 km tại (24-42).
- Tiểu đoàn 11 ở khu vực (21-42).
- Tiểu đoàn 10 tăng cường cho các trung đoàn.
Ngày 2/12/1979, Sư đoàn ra mệnh lệnh chiến đấu tiến công địch ngoài địa hình, khóa biên giới, củng cố chính quyền, giúp Bạn xây dựng địa bàn biên giới tỉnh XiêmRiệp. Đội hình sư đoàn gồm ba trung đoàn: 201, 740, 10; Tiểu đoàn 13 đặc công, một đại đội của Tiểu đoàn 2 thiết giáp. Nhiệm vụ cụ thể của sư đoàn giao cho các đơn vị:
1) Trung đoàn 88 có nhiệm vụ đứng chân trên địa bàn huyện XRay Snam, làm lực lượng cơ động của sư đoàn, đồng thời làm lực lượng dự bị cho mặt trận, sẵn sàng chi viện cho các đơn vị trên tuyến biên giới. Liên tục truy quét địch trong khu vực tây, tây bắc XRay Snam. Chỉ đạo chặt chẽ các đội công tác, phát động quần chúng xây dựng chính quyền, xây dựng lực lượng Bạn, đánh địch trà trộn trong dân, trong khu vực trung đoàn đảm nhiệm, củng cố xây dựng đơn vị. Cơ quan trung đoàn có thực binh theo phương án tác chiến thực hành vận động tiến công khu vực tây, tây nam SàmRông.
2) Trung đoàn 262 có nhiệm vụ làm lực lượng tăng cường cho các đơn vị. Trong tháng 1/1980 phải hoàn thành kế hoạch hỏa lực trong bảy phương án của sư đoàn đã xác định, hoàn thành trận địa hỏa lực ở nam SàmRông, chuẩn bị kế hoạch hỏa lực trong ba khu vực ở bên kia biên giới để sẳn sàng cơ động chi viện cho các đơn vị tác chiến trên tuyến biên giới; phát động quần chúng xây dựng chính quyền, xây dựng lực lượng của bạn ở huyện Puốc, bảo vệ an toàn đường giao thông trong phạm vị trung đoàn đảm nhiệm; triển khai huấn luyện đơn vị theo kế hoạch.
3) Trung đoàn 10 công an vũ trang bố trí một tiểu đoàn ở phum Cu, một tiểu đoàn ở khu vực AmPin, một tiểu đoàn cùng cơ quan trung đoàn bộ đứng chân tại CướcMôn để liên tục truy quét địch trong khu vực đảm nhiệm ở bắc và đông bắc phum Cu, bắc-tây bắc AmPin, hiệp đồng bắt liên lạc với Trung đoàn 271, bung lực lượng hoạt động thường xuyên ở khu vực xã Bên. Phát động quần chúng xây dựng chính quyền, xây dựng lực lượng Bạn ở khu vực AmPin, chủ yếu ở CướcMôn, xã Bên. Huấn luyện đơn vị theo kế hoạch, nâng cao sức mạnh chiến đấu cho bộ đội.
4) Trung đoàn 271 được tăng cường ba khẩu 105 ly, hai khẩu 85 ly. Trong quá trình chiến đấu sẽ có ba đến bốn xe M113 phối hợp chiến đấu phòng thủ khu vực then chốt SàmRông, có vị trí là bàn đạp tiến công chi viện cho các Trung đoàn 10, Trung đoàn 429, Trung đoàn 201. Tiếp tục truy quét địch ở các khu vực bắc, tây bắc SàmRông, bắc phum Cu, nam và tây nam SàmRông, giữ vững khu vực then chốt của sư đoàn. Trung đoàn sẵn sàng đánh địch trên các hướng AmPin, PhàOng, AnLongVen.
5) Trung đoàn 429 được tăng cường hai khẩu 105 ly và được cụm pháo của sư đoàn chi viện làm nhiệm vụ phòng thủ khu vực Phà Ong, Núi Cóc và RaVenTao. Liên tục truy quét địch ở khu vực bắc, tây bắc RaVenTao, đông và tây núi Cóc, giữ vững khu vực phòng thủ trọng yếu của sư đoàn. Trung đoàn sẵn sàng cơ động diệt địch trên các hướng bắc và đông bắc AnLongVeng, hiệp đồng chặt chẽ với Trung đoàn 201 .
6) Trung đoàn 201 được tăng cường một đại đội Đặc công (Tiểu đoàn 13), có hai khẩu pháo 105 ly chi viện đảm nhiệm địa bàn huyện VaRin,  ĂngCoChum, bố trí một tiểu đoàn chốt ở AnLongVeng, tiến hành bắt liên lạc với Trung đoàn 29 (Sư 53 của Quân khu 5) ở hướng tây và đông phum Chếch. Phát động quần chúng củng cố chính quyền, xây dựng lực lượng ở huyện VaRin, ĂngCoChum, bảo đảm an toàn hành lang trung đoàn được phân công đảm nhiệm.
7) Trung đoàn 740 có nhiệm vụ truy quét đánh địch trên địa bàn hai huyện SôSmiCum, ChiCreng bằng cách sử dụng một tiểu đoàn hoạt động thường xuyên ở khu vực đông và đông bắc Khơvao, thường xuyên bắt liên lạc với Sư đoàn 317, vừa phát động quần chúng xây dựng địa bàn an toàn, xây dựng chính quyền và lực lượng vũ trang, huấn luyện đơn vị để nâng cao sức mạnh chiến đấu của bộ đội tình nguyện chiến đấu trên đất Campuchia.
Những phần thưởng cao quý của F302 - Mặt trận 479
Cấp sư đoàn:
- 20/12/1979, Sư đoàn 302 được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
- 10/12/1984, theo quyết định số 583KT/HĐNN, Sư đoàn 302 được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trao tặng Huân chương Quân công hạng ba.
- 17/08/1985 theo quyết định số 725KT/HĐ-NN, Sư đoàn 302 được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trao tặng Huân chương Độc lập hạng nhất.
- 09/08/1989, Nhà nước Campuchia tặng Huân chương ĂngCo.
- 21/08/1985, Nhà nước Campuchia tặng Huân chương bảo vệ Tổ quốc hạng nhất.
Đơn vị và cá nhân Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân:
Đơn vị:
1) Trung đoàn bộ binh 88 (tuyên dương hai lần: 20/12/1979 và 30/08/1989).
2) Trung đoàn bộ binh 201 (30/08/1989).
3) Tiểu đoàn 27 trinh sát (25/01/1983).
4) Tiểu đoàn 25 công binh (29/08/1985).
5) Đại đội 21 trinh sát Trung đoàn 429 (20/12/1979).
6) Đại đội bộ binh 1, Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 429 (25/01/1983).
7) Đại đội 21 trinh sát, Trung đoàn 699 (30/08/1989).
Cá nhân:
1) Phạm Đình Thiện (liệt sĩ) - Tiểu đội trưởng trinh sát, Đại đội 21, Trung đoàn 429.
2) Lê Thái Bê - Chính trị viên phó, Đại đội 21, Trung đoàn 429.
3) Quách Văn Thắm (liệt sĩ) - Trung đội phó trinh sát, Đại đội 21, Trung đoàn 429.
4) Trần Đức Cơ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét