TRUNG ĐOÀN PHÁO BINH 262
Trung đoàn
pháo binh 262 thành lập tại Hải Phòng năm 1972, là một trong các đơn vị pháo
cao xạ thuộc Binh chủng Phòng không – Không quân. Ngay sau khi thành lập, đơn
vị được lệnh vào chiến trường miền Đông Nam Bộ, đã lập chiến công đầu tại Bù
Đốp (bắn rơi một máy bay vận tải của Mỹ). Cuối năm 1974, đầu 1975, khung trung
đoàn bộ Trung đoàn 262 cùng các đơn vị như Tiểu đoàn 8 cao xạ (thuộc Trung đoàn
262) và hai tiểu đoàn pháo mặt đất (của Đoàn pháo 75: gồm Tiểu đoàn 7 – Trung
đoàn 28, Tiểu đoàn 9 – Trung đoàn 42) được tổ chức lại thành Trung đoàn pháo
hỗn hợp 262.
Từ tháng 5
năm 1976, đến ngày thành lập Sư đoàn 302, Trung đoàn 262 đã tham gia làm kinh
tế (trồng cây cao su) ở miền Đông Nam Bộ.
Sư đoàn
302, sư đoàn chủ lực thứ hai của Quân khu 7. Tuy mới ra đời trong cuộc chiến
bảo vệ Tổ quốc trên biên giới Tây Nam, nhưng Sư đoàn 302 – Quân khu 7 là một
trong những sư đoàn có bề dày truyền thống lịch sử vẻ vang.
Mặt trận
479 (bắc Campuchia) gồm các tỉnh XiêmRiệp, ỐtĐôMiênChay, BatĐomBoong. Mặt trận
479 được thành lập ngày 14/4/1979, tại thị xã XiêmRiệp, với nòng cốt là Tiền
phương Quân khu 7 (được bổ sung thêm một số đơn vị của Quân khu 5). Sư đoàn bộ
binh 302 là một trong những sư đoàn chủ lực của Mặt trận 479.
Đội hình
chiến đấu cơ bản của Sư đoàn 302 trong thời điểm này có năm trung đoàn bộ binh,
trong đó Trung đoàn 271 và Trung đoàn 88 là hai đơn vị cơ động thường trực
chiến đấu, đảm nhiệm những địa bàn trọng yếu của sư đoàn trong nội địa.
Ba trung
đoàn 201, 429 và 690 đứng chân trên tuyến biên giới ỐtĐôMiênChay và một phần
tỉnh BatĐomBoong giáp với Thái Lan.
Trung đoàn
pháo binh 262 là đơn vị hỏa lực của sư đoàn cùng chín tiểu đoàn trực thuộc như:
Tiểu đoàn 27 trinh sát, Tiểu đoàn 25 công binh, Tiểu đoàn 28 đặc công, thông
tin, cao xạ, thiết giáp, vận tải, huấn luyện, quân y… được bố trí trên nhiều
địa bàn khác nhau.
Năm 1980
vị trí đứng chân của các đơn vị thuộc đội hình Sư đoàn bộ binh 302 như sau:
- Sư đoàn
bộ phía trước ở nam SàmRông.
- Sư đoàn
bộ phía sau ở đông ChôngCan I.
- Tiểu
đoàn 13 ở bắc SàmRông.
- Tiểu
đoàn 30 ở XRay Snam.
- Tiểu
đoàn cao xạ ở PôngRô (nam SàmRông).
- Tiểu
đoàn 27 trinh sát ở vị trí (64-39).
- Trung
đoàn 88 ở Xray Snam (nam ChôngCan I).
- Trung
đoàn 271 ở SàmRông.
- Trung
đoàn 429 ở KaTum (tây bắc SàmRông).
- Trung
đoàn 10 ở CướcMôn (công an vũ trang sau đổi thành Trung đoàn 690).
- Trung
đoàn 201 ở RumChếk.
- Trung
đoàn 740 ở đông ChiCreng.
- Trung
đoàn 262 ở khu vực nam SàmRông 3 km tại (24-42).
- Tiểu
đoàn 11 ở khu vực (21-42).
- Tiểu
đoàn 10 tăng cường cho các trung đoàn.
Ngày
2/12/1979, Sư đoàn ra mệnh lệnh chiến đấu tiến công địch ngoài địa hình, khóa
biên giới, củng cố chính quyền, giúp Bạn xây dựng địa bàn biên giới tỉnh
XiêmRiệp. Đội hình sư đoàn gồm ba trung đoàn: 201, 740, 10; Tiểu đoàn 13 đặc
công, một đại đội của Tiểu đoàn 2 thiết giáp. Nhiệm vụ cụ thể của sư đoàn giao
cho các đơn vị:
1) Trung
đoàn 88 có nhiệm vụ đứng chân trên địa bàn huyện XRay Snam, làm lực lượng cơ
động của sư đoàn, đồng thời làm lực lượng dự bị cho mặt trận, sẵn sàng chi viện
cho các đơn vị trên tuyến biên giới. Liên tục truy quét địch trong khu vực tây,
tây bắc XRay Snam. Chỉ đạo chặt chẽ các đội công tác, phát động quần chúng xây
dựng chính quyền, xây dựng lực lượng Bạn, đánh địch trà trộn trong dân, trong
khu vực trung đoàn đảm nhiệm, củng cố xây dựng đơn vị. Cơ quan trung đoàn có thực
binh theo phương án tác chiến thực hành vận động tiến công khu vực tây, tây nam
SàmRông.
2) Trung
đoàn 262 có nhiệm vụ làm lực lượng tăng cường cho các đơn vị. Trong tháng
1/1980 phải hoàn thành kế hoạch hỏa lực trong bảy phương án của sư đoàn đã xác
định, hoàn thành trận địa hỏa lực ở nam SàmRông, chuẩn bị kế hoạch hỏa lực
trong ba khu vực ở bên kia biên giới để sẳn sàng cơ động chi viện cho các đơn
vị tác chiến trên tuyến biên giới; phát động quần chúng xây dựng chính quyền,
xây dựng lực lượng của bạn ở huyện Puốc, bảo vệ an toàn đường giao thông trong
phạm vị trung đoàn đảm nhiệm; triển khai huấn luyện đơn vị theo kế hoạch.
3) Trung
đoàn 10 công an vũ trang bố trí một tiểu đoàn ở phum Cu, một tiểu đoàn ở khu
vực AmPin, một tiểu đoàn cùng cơ quan trung đoàn bộ đứng chân tại CướcMôn để
liên tục truy quét địch trong khu vực đảm nhiệm ở bắc và đông bắc phum Cu,
bắc-tây bắc AmPin, hiệp đồng bắt liên lạc với Trung đoàn 271, bung lực lượng
hoạt động thường xuyên ở khu vực xã Bên. Phát động quần chúng xây dựng chính
quyền, xây dựng lực lượng Bạn ở khu vực AmPin, chủ yếu ở CướcMôn, xã Bên. Huấn
luyện đơn vị theo kế hoạch, nâng cao sức mạnh chiến đấu cho bộ đội.
4) Trung
đoàn 271 được tăng cường ba khẩu 105 ly, hai khẩu 85 ly. Trong quá trình chiến
đấu sẽ có ba đến bốn xe M113 phối hợp chiến đấu phòng thủ khu vực then chốt
SàmRông, có vị trí là bàn đạp tiến công chi viện cho các Trung đoàn 10, Trung
đoàn 429, Trung đoàn 201. Tiếp tục truy quét địch ở các khu vực bắc, tây bắc
SàmRông, bắc phum Cu, nam và tây nam SàmRông, giữ vững khu vực then chốt của sư
đoàn. Trung đoàn sẵn sàng đánh địch trên các hướng AmPin, PhàOng, AnLongVen.
5) Trung
đoàn 429 được tăng cường hai khẩu 105 ly và được cụm pháo của sư đoàn chi viện
làm nhiệm vụ phòng thủ khu vực Phà Ong, Núi Cóc và RaVenTao. Liên tục truy quét
địch ở khu vực bắc, tây bắc RaVenTao, đông và tây núi Cóc, giữ vững khu vực
phòng thủ trọng yếu của sư đoàn. Trung đoàn sẵn sàng cơ động diệt địch trên các
hướng bắc và đông bắc AnLongVeng, hiệp đồng chặt chẽ với Trung đoàn 201 .
6) Trung
đoàn 201 được tăng cường một đại đội Đặc công (Tiểu đoàn 13), có hai khẩu pháo
105 ly chi viện đảm nhiệm địa bàn huyện VaRin,
ĂngCoChum, bố trí một tiểu đoàn chốt ở AnLongVeng, tiến hành bắt liên
lạc với Trung đoàn 29 (Sư 53 của Quân khu 5) ở hướng tây và đông phum Chếch.
Phát động quần chúng củng cố chính quyền, xây dựng lực lượng ở huyện VaRin,
ĂngCoChum, bảo đảm an toàn hành lang trung đoàn được phân công đảm nhiệm.
7) Trung
đoàn 740 có nhiệm vụ truy quét đánh địch trên địa bàn hai huyện SôSmiCum,
ChiCreng bằng cách sử dụng một tiểu đoàn hoạt động thường xuyên ở khu vực đông
và đông bắc Khơvao, thường xuyên bắt liên lạc với Sư đoàn 317, vừa phát động
quần chúng xây dựng địa bàn an toàn, xây dựng chính quyền và lực lượng vũ
trang, huấn luyện đơn vị để nâng cao sức mạnh chiến đấu của bộ đội tình nguyện
chiến đấu trên đất Campuchia.
Những phần
thưởng cao quý của F302 - Mặt trận 479
Cấp sư
đoàn:
-
20/12/1979, Sư đoàn 302 được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
-
10/12/1984, theo quyết định số 583KT/HĐNN, Sư đoàn 302 được Chủ tịch nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trao tặng Huân chương Quân công hạng ba.
-
17/08/1985 theo quyết định số 725KT/HĐ-NN, Sư đoàn 302 được Chủ tịch nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trao tặng Huân chương Độc lập hạng nhất.
-
09/08/1989, Nhà nước Campuchia tặng Huân chương ĂngCo.
-
21/08/1985, Nhà nước Campuchia tặng Huân chương bảo vệ Tổ quốc hạng nhất.
Đơn vị và
cá nhân Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân:
Đơn vị:
1) Trung
đoàn bộ binh 88 (tuyên dương hai lần: 20/12/1979 và 30/08/1989).
2) Trung
đoàn bộ binh 201 (30/08/1989).
3) Tiểu
đoàn 27 trinh sát (25/01/1983).
4) Tiểu
đoàn 25 công binh (29/08/1985).
5) Đại đội
21 trinh sát Trung đoàn 429 (20/12/1979).
6) Đại đội
bộ binh 1, Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 429 (25/01/1983).
7) Đại đội
21 trinh sát, Trung đoàn 699 (30/08/1989).
Cá nhân:
1) Phạm
Đình Thiện (liệt sĩ) - Tiểu đội trưởng trinh sát, Đại đội 21, Trung đoàn 429.
2) Lê Thái
Bê - Chính trị viên phó, Đại đội 21, Trung đoàn 429.
3) Quách
Văn Thắm (liệt sĩ) - Trung đội phó trinh sát, Đại đội 21, Trung đoàn 429.
4) Trần
Đức Cơ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét