NGÃ BA CON VOI
Chào các bạn, tôi tham gia chiến trường
biên giới Tây Nam được 3 mùa khô và 4 mùa mưa, trong đội hình tiểu đoàn 3,
trung đoàn 4, sư đoàn 5, quân khu 7 (sau 4/79 trực thuộc mặt trận 479) đã từng
trãi qua những trận đánh ở Âm-leng tháng 3/79, công-xi-lốp tháng 6/80 và thường
xuyên đi đánh Phnom Melai trong các năm 80-81-82, tôi thường hành quân vào Cao
Mê-lai từ hướng đít của con voi, nên tôi đặt tên tập hồi ký của mình là NGÃ BA
CON VOI.
Đối với lính trung đoàn 4 thì ngã ba con
voi (Nimith) và Cao Mê-lai là những địa danh cháy bỏng lòng người... tôi quyết
định sẽ kể ra đây cho các bạn nghe và tôi hy vọng rằng sau này sẽ có những quyển
hồi ký hay hơn nửa về MỘT THỜI MÁU ĐỔ THÌ NHIỀU MÀ HOA THÌ KHÔNG CÓ ĐÂU!
Những chuyện tôi sẽ kể ra đây thì sẽ tốn
nhiều thời gian của các bạn đấy, tôi xin lập chủ đề mới là NGÃ BA CON VOI, mong
các bạn xem và đóng góp ý kiến cho truyện của tôi thêm hoàn hảo.
Thú thật là tôi rất ngưỡng mộ văn phong của
bac trungsy1, nhưng cách hành văn của tôi chắc chắn không bằng, xin các bạn
thông cảm.
Xin gởi các bạn xem trước ba hồi đầu trong
tập NGÃ BA CON VOI.
Lời quê góp nhặt đôi lời, mua vui cũng được
một vài trống canh.
Chuyện của tôi thì buồn nhiều hơn vui, xin
các bạn thông cảm.
1.
RA CHIẾN TRƯỜNG
Chúng tôi đến Kompong Thom vào một buổi
trưa trung tuần tháng 2/1979. Đêm qua chúng tôi ngũ tại Sa Mát trong nhà một bà
mẹ đang để tang ai đó, chúng tôi ngũ trong tiếng mõ và tiếng kinh cầu siêu trầm
buồn ray rức... Sáng nay, sau khi qua biên giới Campuchia, xuyên qua những con đường
đất đỏ bụi mù, đứng trong thùng xe GMC chúng tôi đón nhận những rừng cánh tay của
phụ nữ và trẻ em Campuchia vẫy chào đoàn quân tình nguyện Việt Nam qua đánh đuổi
bọn diệt chủng Pôn Pốt.
Thỉnh thoảng ngược chiều với hướng di chuyển
của chúng tôi, một vài chiếc GMC chở xác tử sĩ căng phồng trong những bọc
nylon, phía trên là những cành lá ngụy trang che nắng. Đường đất đỏ gập ghềnh
làm những bọc xác tử sĩ nẩy phập phồng...
Tôi là một tân binh nghĩa vụ mới bước qua
tuổi 19 được 2 tháng đang háo hức bước vào cuộc chiến tranh bắt buộc với hành
trang là 80 ngày huấn luyện quân sự và chưa có bất kỳ một khái niệm nào về chiến
thuật tấn công hoặc phòng ngự trận địa...
Đoàn xe dừng lại trước một dãy nhà sàn dọc
con đường đất đỏ bụi mù, đây là hậu cứ của sư đoàn 5 bộ binh, sư đoàn anh hùng
thời kỳ chống Mỹ.
Dân Kompong Thom đãi đám tân binh chúng
tôi những ống nước thốt nốt ngọt lịm, mát rượi. Đây là lần đầu tiên trong đời
tôi được uống thứ nước thơm ngon, ngọt ngào đó. Nó tươi nguyên mới từ trên cây
mang xuống trong ống trúc lồ ồ.
Chúng tôi được phân tán ra từng phân đội
nhỏ đóng rải rác trong một cánh rừng dầu thưa thớt, đâu đó có tiếng súng tiểu
liên nổ râm ran phát một.
Tôi đi theo một cựu binh vác súng AK vào rừng,
anh này đi săn chim và tôi đi theo... bắn ké. Bắn được vài phát thì vệ binh tới,
bảo lệnh trên cấm bắn súng.
Ăn không ngồi rồi mấy ngày thì một hôm,
vào buổi xế trưa có lệnh tập họp. Một cán bộ quân lực đến, báo cáo là mấy hôm
nay đơn vị bận đi đánh nhau (nguyên văn) nên hôm nay mới đến nhận quân. Sau đó
tôi được đọc tên và biên chế vào đại đội 13, tiểu đoàn 3, trung đoàn 4 trong buổi
chiều hôm đó.
Tôi được bổ sung vào trung đội 7, chỉ huy
trung đội của tôi là đồng chí Nông Tiến Dũng, dân tộc Tày, gốc Thái Nguyên. Buổi
cơm chiều đầu tiên tại đơn vị chiến đấu của tôi có cơm thơm mùi gạo mới, có rất
nhiều thịt bò xào, có thể ăn thịt thay cơm được. Những cựu binh trong trung đội
ăn ít và uể oải, chỉ có chúng tôi, những tân binh mới bổ sung về đơn vị lần đầu
tiên trong đời lính được ăn no thứ thịt bò tươi xào muối, bột ngọt và cơm ăn
không hết. Một loại cơm nấu bằng gạo trắng hơi lẩn gạo lứt đỏ thơm mùi lúa mới.
Những anh em trong trung đội thu nhận
chúng tôi, những tân binh mới bổ sung bằng một bửa cơm ngon và no đến như vậy.
Qua đợt bổ sung quân này, trung đội của tôi tăng lên được vài người, quân số hiện
thời của trung đội khoảng 7, 8 người.
Với thể trạng cao 1m 67, nặng 50 kg, tôi lập
tức được phân công vác hỏa lực B41 với 6 trái đạn.
B41 là một loại pháo không giật, được
trang bị cho bộ binh nhằm chống tăng và phá hủy công sự rất hiệu quả. Khẩu súng
tôi vác trên vai do Liên xô sản xuất nặng khoảng 5,5 kg. Mỗi trái đạn nặng khoảng
2,2 kg. Có 2 loại đạn, khoan nổ và chạm nổ. Đạn trang bị cho bộ binh vận động tấn
công trên chiến trường thông thường là loại chạm nổ, uy lực mãnh liệt, tiếng nổ
đanh gọn, đinh tai điếc óc, quầng lửa phản lực màu sáng trắng, hầu như không thấy
khói. Đạn đi tới mục tiêu rất mau, khi lâm trận nghe bùng bình một tiếng là đạn
nổ văng mảnh rồi. Bùng là tiếng đạn phát hỏa bay ra khỏi nòng, bình là tiếng đạn
chạm mục tiêu phát nổ.
2.
VÀO CHIẾN DỊCH
Không một ngày ngơi nghỉ, chúng tôi hành
quân liên tục. Nắng tháng hai đổ lửa trên đầu, đường đất đỏ xuyên qua những
cánh đồng rộng bao la, và xa xa là những rặng cây thốt nốt, báo hiệu chuẩn bị
đi tới một phum làng.
Chúng tôi thận trọng tiến vào phum theo đội
hình hàng dọc, mỗi người cách nhau 10m, đạn AK lên nòng, khóa an toàn bật mở.
Tôi được lệnh đẩy đạn B41 vào khấc, tay lăm le cò súng.
Cái phum này yên phăng phắc, địch đã bỏ chạy
từ lâu, giếng nước đã bị vứt cây che lấp. Chúng tôi kéo các cành lá lấp giếng
nước ra, mong kiếm được nguồn nước giải khát. Nước trong giếng đen thui, hôi
thúi mùi hữu cơ phân rã không uống được. Lại có lệnh hành quân đi tiếp, đến chiều
tối chúng tôi dừng chân ở một nơi nào đó, có
nước để nấu cơm ăn uống, lấy sức ngày mai đi tiếp.
Hành quân dài ngày khiến khẩu súng B41
ngày mỗi thấy nặng, vai áo ka ki của tôi đã sờn rách một lớp vì nó, thỉnh thoảng
chúng tôi lại đi trên một con đường nhựa nóng, trời nắng chang chang, lòng bàn chân phồng lên, mọng nước, rồi cái mọng
nước vỡ ra, ướt lép nhép lẫn với mồ hôi và huyết tương tươm ra từ lớp da bị
bong tróc. Vậy mà vẫn cứ đi, đi không thấy đau, đầu óc mụ mị, nóng và khát.
Khẩu súng B41 vác trên vai không muốn nổi
nửa, mõi quá rồi, tôi quàng dây đeo súng lên cổ, ôm súng vào lòng, vai gồng lên
gánh 4 trái đạn trên lưng mà đi lặc lè (viên đạn thứ 6 đã có người mang hộ).
Trung đội trưởng Dũng thấy tôi đi bệ rạc quá, kêu tôi vác súng lên vai đi thẳng
dậy, nhưng đại đội trưởng Chính, người Nghệ Tỉnh gạt ngang bảo: “Thôi”. Ý anh ấy
nói là để tôi đi sao cũng được miễn là tới nơi.
Sáng nay đã có một đồng đội của tôi, nhập
ngũ cùng đợt nằm bật khóc nức nở giữa đường
vì kiệt sức. Anh này lý lịch không phải tầm thường: “Con trai của viên tướng
Sài gòn giác ngộ cách mạng Nguyễn Hữu Hạnh”.
Chúng tôi đang bước vào một cuộc hành quân
lớn. Sư đoàn chúng tôi đang phối thuộc quân đoàn 4 truy quét tàn quân Pôn Pốt
trên một diện rộng từ Takeo đến Kompong Speu, Kompong Chnang. Chúng tôi di chuyển
liên tục bằng mọi phương tiện, đi bộ, đi xe GMC, xe tăng T54...
Thỉnh thoảng chúng tôi được đánh phối hợp
với tăng, các trung đội của chúng tôi ít người, mỗi trung đội nhảy lên một chiếc
T54, chúng tôi bương qua những cánh rừng thưa, xe chồm lên, hụp xuống trên những
địa hình mấp mô ụ mối... Gặp địch chúng tôi nhảy xuống, dàn hàng ngang nổ súng
tiến lên, khí thế như chẻ tre.
Với khí thế như vậy, chúng tôi đánh là thắng,
những cánh quân Pôn Pốt nhỏ lẻ trong thế cờ tàn làm sao đương đầu nổi sức tấn
công của chúng tôi có tăng T54 yểm trợ với hỏa lực cực kỳ mãnh liệt.
Sau này đại tá Trần Đối, anh hùng quân đội
về làm sư trưởng, trong một lần đi thăm cán bộ chiến sĩ tiểu đoàn 3, ông đã biểu
dương là tiểu đoàn 3 đánh với tăng giỏi nhất sư đoàn 5, sư đoàn 5 đánh với tăng
giỏi nhất quân đội nhân dân Việt Nam, và ông kết luận là tiểu đoàn 3 đánh với
tăng giỏi nhất quân đội nhân dân Việt Nam. Lính tiểu đoàn 3 nhớ mãi câu nói đó
và thấy lòng mình tự hào về truyền thống đơn vị.
Chúng tôi liên tục di chuyển và chạm súng
nhỏ lẻ... Rồi bỗng dưng một sáng nọ, chúng tôi tiến vào một cánh rừng dầu, tiếng
súng giao tranh xãy ra rất gần, một đơn vị nào đó của ta đang đánh địch.
Đột nhiên tiếng súng im bặt, rừng dầu nín
thở yên phăng phắt, chúng tôi dàn quân đứng nấp sau những gốc cây dầu, những
cây dầu vươn cành lá thẳng lên trời, cao trên 20m, gốc không lớn lắm, đường
kính khoảng 30, 40cm thôi. Chợt một cái gì đó nhẹ nhàng rơi bộp trên vai tôi,
làm tôi khẽ giật mình... thì ra đó là một cánh hoa dầu.
Là dân thành phố, đây là lần đầu tiên tôi
thấy cánh hoa dầu, nó rơi rơi, xoay tròn trong không khí, rồi nhẹ nhàng đáp lên
vai người lính, rồi rơi xuống mặt đất
làm phong phú thêm thảm thực vật trong cánh rừng dầu mùa khô 1979.
Đó là một buổi sáng trong lành, tiếng súng
đã im lặng lâu rồi, đội hình của chúng tôi được bố trí lại, tôi được phân công
đứng gát trên một ụ mối, phía trước là một con đường mòn nhỏ, trung đội rải ở
phía sau... Tôi đứng gát như vậy thật lâu, lâu lắm, mãi đến giờ ăn trưa mới có
người lên thay tôi canh gát.
Cũng trong cánh rừng dầu này, phía trước lại
có một đơn vị chạm súng với địch, mật độ chạm súng càng lúc càng dày, ngay
trong đêm tối vẫn có tiếng súng giao tranh khốc liệt. Chúng tôi chỉ cách trận địa
một tầm đạn vậy mà cảm thấy rất yên lành, vẫn ăn ngũ bình thường, tất nhiên là
luôn luôn cắt cử người thay phiên canh gát.
Trong những ngày này, đại đội tôi có thêm
người, trên ban chỉ huy có đồng chí Hội đại đội phó quân sự, còn trung đội tôi
có hạ sĩ Trọng, tiểu đội trưởng trở về sau thời gian nằm quân y viện.
3.
MỘT TRẬN ĐÁNH LỚN
Hạ sĩ Trọng về làm tiểu đội trưởng của tôi
hôm trước thì hôm sau chúng tôi xuất kích, nên tôi không có dịp chuyện trò nhiều
với anh, thậm chí gương mặt của anh thế nào tôi cũng không nhớ được, bởi vì
ngay trong ngày xuất kích đó đồng chí đã anh dũng hy sinh.
Trong trận đánh đó tôi là người ăn đạn đầu
tiên, nhưng tôi không chết, mà tôi nằm đó nghe tiếng đồng đội hô xung phong. Tiếng
hô xung phong vang dội của hạ sĩ Trọng đến giờ sau 30 năm vẫn còn ấn tượng
trong đầu tôi, một thương binh mới trở lại chiến trường sao máu đến như vậy...
Mấy tiếng đồng hồ sau, khi trận địa tương đối yên tiếng súng, đồng đội kéo xác
hạ sĩ Trọng về, tôi thấy rõ ràng anh chết đổ ruột trên chiến trường.
Trận này chúng tôi tổn thất nhân mạng lớn
là phải, hướng tiến công của cả tiểu đoàn hoàn toàn thất thế, bởi chúng tôi từ
đồng trống đánh lên. Trong khi đó lực lượng của địch là lính chính qui, tinh thần
vững vàng, hỏa lực đầy đủ, công sự kiên cố. Địch lập trận địa phòng ngự trên một
cái phum lớn, đây là đất của địch, chúng thông thuộc địa hình, địa vật như
trong lòng bàn tay, chúng bày binh bố trận,
chờ chúng tôi đến là sẳn sàng tiếp chiến trong tư thế hoàn toàn chủ động.
Chúng dàn quân trên bờ đê, nhìn thấy rõ
chúng tôi từ trong cánh rừng cây lưa thưa phía chính diện xông ra.. Khi chúng
tôi xung phong thì phải chạy xuyên qua một cánh đồng khô rộng đến mấy trăm mét,
thế thì chúng rãi đạn vào những cái bia thằng người di động đó. Không một người
lính nào chạy được quá vài chục bước chân mà lành lặn.
*
* *
Trời hửng sáng, chúng tôi vừa được trinh
sát dẩn vào vị trí xuất kích thì đâu đó có tiếng súng nổ rộ. Tôi vác khẩu B41
trên vai, đứng trước một ụ mối, nấp sau một thân cây sẳn sàng trong tư thế xung
phong. Đột nhiên tôi thấy một tốp lính chừng 10 tên mặc đồ gar-ba-din Trung quốc
mới cáu, chạy lúp xúp theo hàng cây thốt nốt, tôi chỉ cho đồng chí Vịnh xem. Đồng
chí hô bắn B41, đồng chí Thạch cản lại khoan, vì tôi đứng trước ụ mối, nếu tôi
bắn sẽ bị lửa phản lực dội vào ụ mối bật ngược lại làm cháy cả bọn.
Tôi loay hoay tìm chổ bắn thì thằng Pôn Pốt
đã nổ trước, một trái cối 60 ly Trung quốc nổ oành ngay chổ tôi quỳ. Tôi thấy
nhói và nóng ngay mông, đưa tay ra rờ thì thấy máu đổ, cái bi đông nước của tôi
cản dùm cho tôi một mảnh đạn, còn một mảnh khác chui thẳng vào mông, làm máu
tôi đổ chan hòa cùng nước bi đông còn đang nóng. Tôi kêu lên, tôi bị thương rồi.
Đồng chí Vịnh chạy tới băng bó vết thương
cho tôi, vừa xong thì có lệnh xung phong, đồng chí để cây AK lại cho tôi, còn đồng
chí xách khẩu B41 và giá đạn lao lên phía trước.
Hỏa lực tiểu đoàn hổ trợ bộ binh xung
phong bắn cấp tập, trước mặt tôi một khẩu 12 ly 8 được đặt triển khai song song
với hướng xung phong đại đội bắn cùng cùng, cùng cùng đầy uy lực... Tiếc thay
hướng xuất kích của chúng tôi quá xấu, trước mặt là đồng trảng không có vật che
khuất, che đở, nên ngay lập tức chúng tôi bị chặn lại bởi hỏa lực của Pôn Pốt từ
trên bờ đê bắn trả. Nhiều loạt đạn được bắn thẳng về hướng chúng tôi và cối của
địch rót tập trung vào đội hình xung phong.
Người ta nói tiên hạ thủ vi cường, khá
khen thay thằng chỉ huy Pôn Pốt đã làm đúng điều đó. Chúng đã đánh chúng tôi bằng
con pháo đầu và trong loạt pháo đó lượm ngay con tốt là tôi, chiến sĩ hỏa lực của
trung đội. Sau loạt pháo đầu, chúng bắt đầu chỉnh cối vào đội hình xung phong của
tiểu đoàn, cây 12 ly 8 bắn hết đạn rút ra tránh cối, còn bộ binh nằm tại chổ
đưa lưng chịu trận.
Cối cứ bay vo vo trên đầu, hết tầm nó xé
gió rít lên rồi nổ oành một tiếng, trúng ai người đó chịu. Đạn nhọn mình còn nằm
dán mình xuống đất, chúi đầu vào bờ ruộng mà tránh, còn cối pháo đánh cầu vồng
thì chịu!
Súng đạn vô tình, trời kêu ai nấy dạ.
Quân ta lại phát động đợt xung phong lần
thứ hai, hạ sĩ Trọng, tiểu đội trưởng của tôi hô rất hào hùng, tôi nằm đó sau
lưng ụ mối nghe tiếng hô xung phong khí thế của anh mà lòng đầy cảm phục... Nhưng làm sao mà lên được
trên cái địa hình trống trãi này, trong khi hỏa lực của địch còn rất mạnh.
*
* *
Qua 2 đợt xung phong, một số đồng đội tôi
đã ngã xuống, đang chờ kéo xác về, những đồng chí còn lại đang nằm dán bụng xuống
đất, đưa lưng cho cối nện mà chịu trận. Lúc này đây, những động tác huấn luyện
căn bản ở quân trường được binh sĩ sử dụng một cách tự giác và triệt để, đó là
các động tác lăn, lê, bò, toài. Anh chỉ cần đứng khom lưng lên thôi, chưa kịp nhảy
qua bờ ruộng là lập tức ăn đạn. Trong lúc chỉ huy bộ đội xung phong, đồng chí Hội
đại đội phó quân sự, mới trở về cầm quân đi đánh trận này đã bị trúng đạn gãy
chân ngay tại trận.
Đến khoảng 10 giờ trưa thì các thương binh
chúng tôi được đưa về tuyến sau. Còn đây là diển tiến trận đánh đó do đồng đội
thuật lại sau này:
Bọn địch phòng ngự trên bờ đê tiếp tục kiểm
soát mọi động tỉnh của chúng tôi, nhúc nhích là bắn. Anh em bò lên kéo tử sĩ về,
núp không kín để hở người ra là nó bắn, đã có người bị bắn chết kiểu như vậy!
Chúng bắn cầm chừng đủ để khống chế chúng tôi phát động tấn công.
Đến trưa chúng bắn đạn lửa đốt đồng cỏ, mục
đích thiêu cháy chúng tôi. Đồng chí Ơn về đơn vị cùng đợt với tôi bị bắn chết
trong đợt xung phong hồi sáng, lại tiếp tục bị thiêu cháy lần nửa, mất cả hạ bộ,
đúng là người chết hai lần, thịt da nát tan...
Đến chiều pháo binh của ta được điều tới bắn
thẳng vào trận địa địch, mãi đến tối chúng tôi mới xung phong chiếm lĩnh trận địa
được.
Đây là trận đánh lớn cuối cùng của tiểu
đoàn 3 trong năm 1979. Trận này rốt cuộc rồi chúng tôi cũng thắng, nhưng tổn thất
về nhân mạng quá lớn!
*
* *
Nếu ngay từ đầu, với địa hình bằng phẳng
và trống trải này, từ trong rừng chúng ta triển khai hỏa lực cực mạnh, dàn tăng
pháo ra đối diện với quân địch, bắn cấp tập, hủy diệt triệt để trận địa phòng
ngự của địch trên bờ đê. Rồi cho bộ binh xung kích ồ ạt cùng xe tăng, thiết
giáp yểm trợ sau lưng thì chắc chắn chúng ta đã giải quyết trận đánh nhanh hơn,
tổn thất nhân mạng ít hơn!
Lực lượng vũ trang của ta vào thời điểm đó
dư sức làm điều này, tại sao chúng ta không làm như vậy? Tại sao chúng ta lại
triển khai bộ binh xung phong trong một địa hình cực kỳ bất lợi như vậy? Có cái
gì đó không ổn? Chủ quan chăng?
Bài học trên chiến trường thấm đẩm máu
xương của biết bao đồng chí, đồng đội. Chúng ta phải lấy những bài học xương
máu này mà huấn luyện cho binh sĩ của ta sau này. Phải luôn nhớ rằng biết người
biết ta trăm trận trăm thắng.
Đưa quân vào chiến trận mà địch tình không
nắm, chủ quan khinh địch, tổn thất là điều chắc chắn. Tiểu đoàn 3 đánh nhiều trận,
hy sinh nhiều quân nhưng mãi không được anh hùng có lẽ vì vậy... Vì chúng ta thắng
không ngon, diệt không gọn, tổn thất nhân mạng lớn!
Trong khi chờ đợi các bác CCB nhớ lại và
thông tin thêm về trận đánh này (tháng 3/79, theo quân sử (sư 5) thì hình như
là diễn ra ở căn cứ Âm-leng)tôi xin gởi thêm hồi 4 trong quyển Ngã ba con voi
xem co gợi ý gì cho các bác nhớ hay không?
1.
TRẠM PHẨU TIỀN PHƯƠNG
Gọi là trạm phẩu tiền phương, bệnh xá
trung đoàn hay K23 cũng đều đúng. Trạm phẩu này, bệnh xá này có bác sĩ Mai Cẩm
Tú, đại đội trưởng K23 là người nổi tiếng toàn trung đoàn và khắp vùng chiến sự
quanh ngã ba Nimith, đó là về sau này khi trung đoàn 4 hùng cứ một phương trời ở
khu vực ngã ba con voi (anh nổi tiếng cũng có lẽ vì tên anh quá đẹp!). Còn ngay
tại thời điểm này thì nó cực kỳ dã chiến, trạm phẩu không giống, trạm xá càng
không phải.
Anh đang mùa hành quân
Pháo lăn dài chiến dịch...
Toàn trung đoàn đang xuất kích đánh địch
và cái phẩu tiền phương này cũng theo sát đoàn quân tiên phong, nó chỉ cách tiền
tuyến chừng 10 phút đi bộ.
*
* *
Trời càng lúc càng nắng. Kiến trong ụ mối
nghe tanh hơi máu, nó bò ra và tìm tôi mà cắn. Nằm trong cái hố tiền tiêu của
thằng Pôn Pốt đào sẳn trên ụ mối thì đở nắng vì có tàn cây che khuất, nhưng lại
bị kiến và mấy thằng Pôn Pốt khốn nạn cứ nhè chổ tôi ẩn mình chờ chết mà bắn, đạn
cứ chíu chíu vào hướng tôi nằm nổ lụp bụp thật là khó chịu.
Tôi kéo súng, tụt ra sau lưng ụ mối mà nằm,
chịu nắng nhưng mà tránh được kiến và đạn. Tháng 3 trời nắng lắm và tôi càng
lúc càng khát. Cái bình toong của tôi bị mảnh đạn bắn thủng, nước chảy gần hết,
còn một ít nước dưới đáy bình đã bị tôi uống cạn từ sáng rồi.
Nấp dưới ụ mối, dưới cái nắng thiêu đốt,
người tôi nóng ran, khát khô cổ họng. Tôi suy nghỉ miên man, nghỉ rằng mình sẽ
được đưa về nước chữa trị. Về nước lần này phải uống một trận nước đá lạnh cho
đã. Hơn một tháng nay, trên cái đất nước khô khan nóng bức này tôi thật không hề
được thưởng thức qua một ngụm nước đá.
Mặt trời lên cao, cao lắm rồi! Mãi mới thấy
mấy anh em tiếp thương tải đạn vận dụng địa hình địa vật chạy lên.
Thấy đồng chí Đinh Văn, chiến sĩ cối 60,
nhập ngũ cùng đợt, lên tham gia tiếp thương, là người thân quen, tôi xin đồng
chí ấy nước để uống cho đở khát. Anh ngần ngừ không muốn, vì bài học trên chiến
trường chúng tôi thuộc nằm lòng là không cho thương binh mất máu uống nước nhiều,
vì như vậy càng làm vết thương chảy máu, càng dễ chết.
Tôi nài nỉ:
- Xin một hớp thôi!
Anh đưa bình toong cho tôi, tôi rót ra một
nắp bi đông rồi uống.
Thật đúng là một hớp! Không đã đâu vào
đâu!
Tôi trả bình toong lại cho anh, anh cầm
bình toong ngạc nhiên, uy tín thiệt, quả đúng là một hớp! Thông thường thì khi
người khát gặp nước thì uống ừng ực mà...
Đồng đội kéo xác hạ sĩ Trọng về, anh nằm
đó, lấm lem đất cát với vết thương đổ ruột trên người. Đại đội phó Hội bị bắn
gãy chân cũng được anh em kè nách xốc về, anh đứng đó, mồ hôi chảy ròng ròng, mặt
mày đỏ gay, nhăn nhó, đau đớn nhưng gan lì, không kêu rên một tiếng.
Hạ sĩ Trọng được đặt vào cái võng của anh
để cáng thương mang đi, đồng chí Hội mới từ quân y viện trở về không có võng...
Đồng chí Thạch, chỉ huy trung đội xử:
- Lấy võng của thằng Hùng cáng anh Hội,
còn thằng Hùng để anh em kè về.
Có một đồng chí nào đó nghe lệnh bước tới,
kè vai xốc nách tôi lên. Tôi gượng đứng thẳng dậy, xua tay:
- Khỏi, để tôi tự đi.
Theo đoàn quân cáng thương trở về tuyến
sau, anh em mạnh tay khỏe chân đi trước, tôi lết bết theo sau. Cái chân trái khỏe
tôi bước tới một bước, cái chân phải kéo lê lên một bước, rồi đứng trụ lại, cho
anh chân khỏe bước tới, tôi cứ thế mà đi theo nhịp điệu cà nhắc, cố gắng không
làm đau vết thương sau mông bên phải. Đi được một đoạn thấy hai chiến sĩ gánh một
thùng nước đi tới, tôi rề lại xin nước uống.
Một đồng chí hỏi, vẻ quan tâm:
- Sốt rét hả, thấy mặt xanh quá!
Tôi cười cười đáp lể, không trả lời, khụy
chân xuống, ghé miệng vào thùng nước, uống ừng ực. Đã ơi là đã!
Tôi cảm ơn hai anh bạn, rồi cà nhắc đi về
gặp quản lý đại đội của mình. Quản lý đại đội là đồng chí Bùi, lính Bắc, người
dong dỏng cao, anh chững chạc và khá là vui tính. Anh kêu tôi ở lại ăn cơm, rồi
viết giấy cho tôi đi phẩu trung đoàn.
*
* *
Sau khi đồng chí Vịnh băng bó, vết thương
của tôi đã ngưng chảy máu, hồi nảy nằm trên ụ mối, bị kiến chui vào người đốt, tôi
đã tháo băng ra bỏ, để phủi kiến. Cái quần tôi bị xé ra lúc băng bó, máu me và
rách nát, tôi vất bỏ nó đi không thương tiếc. Lấy quần áo mới thay vào, người
tôi lúc này trông cũng đã khá lại.
Vẫn còn khát, tôi tranh thủ uống nước nhiều
hơn ăn cơm. Vết thương tôi đã cầm máu lâu rồi, nên tôi thoải mái uống nước
không ai ý kiến gì.
Cơm nước xong xuôi, tôi cầm giấy của quản
lý đại đội đi lên phẩu trung đoàn. Phẩu trung đoàn cũng gần ngay đó, tôi bước tới
bàn phẩu xuất trình giấy giới thiệu rồi đứng đó... Tôi nghe văng vẳng bên tai
hình như đài phát thanh đang phát chương trình văn nghệ chiều chủ nhật thì phải,
và hình như nói cái gì đó về ngày sinh nhật đoàn 26 tháng 3. Cả tháng qua, hành
quân chiến đấu liên tục tôi thực sự không biết hôm nay là thứ mấy, ngày gì. Trận
đánh này xãy ra ở đâu, vào ngày nào, đến nay tôi thực sự cũng không tường tận.
Tôi không phải là nhà viết sử, và cũng không có nguồn tài liệu nào để truy cập
chính xác thời gian, địa điểm trận đánh, tôi chỉ viết lại những gì mình còn nhớ
sâu đậm trong ký ức một thời chinh chiến, một thời ngang dọc.
Có tiếng ai đó giọng chỉ đạo:
- Làm lọc.
Tôi đứng bên bàn phẩu, đưa cái mông bên phải
ra cho đồng chí quân y sĩ tiêm thuốc tê, rồi lấy kéo cắt thịt nghe sựt sựt, sựt
sựt... Không thấy đau, trong tai tôi tiếng đài phát thanh văng vẳng, văng vẳng.
Tiếng dao kéo rổn rảng, đồng chí quân y sĩ
đã làm lọc vết thương xong, đã khoét một cái lổ sâu hoắm trong cái mông của
tôi, ước cở ngón tay đút vô lọt. Đồng chí trét một loại thuốc mỡ màu xanh vào
cái lỗ đó, rồi băng miệng vết thương lại bằng keo dán, vậy là xong. Vậy là
trong người tôi vẫn còn mảnh đạn cối 60 Trung quốc mà tôi không hề hay biết!
Tôi không hề hay biết gì về cái mảnh đạn để
đời đó. Mãi đến năm 2008, chân tôi bị đau, đi cà nhắc, tôi tưởng bị thấp khớp,
tôi tưởng cái cổ xương đùi của tôi có vấn đề, tôi đi chụp X quang để tìm bệnh...
Bác sĩ phát hiện một dị vật phản quang
ngay sau mông gần đốt xương cùng, ông hỏi tôi trước đây có bị thương không. Tôi
trả lời có, trước đây đi ở lính Campuchia tôi có bị thương. Ông bác sĩ nói vậy
là còn mảnh đạn đó, rồi chỉ cho tôi cái dị vật phản quang kia. Nó nằm đó đã hơn
29 năm, trong phần mềm sau mông tôi, hình thoi, nhỏ thôi, dài gần một phân rưởi,
còn rộng không tới một phân.
Nó làm tôi thốn, làm tôi khó chịu, tôi muốn
lấy nó ra cho đời bớt khổ!!! Tôi đến phòng mạch của một ông thạc sĩ bác sĩ ở Bến
Tre nhờ ông thu xếp mổ cho tôi, ông lắc đầu:
- Coi vậy chứ khó lấy ra lắm, có khi phải
rạch nát cái mông ra mới thấy nó.
Tôi nghĩ là do phương tiện y khoa ở Bến
Tre không được hiện đại nên bác sĩ họ ngại. Tôi lên Sài gòn, đến bệnh viện Hoàn
Mỹ, tôi nhờ bác sĩ khám và mổ cho tôi. Ông bác sĩ nhìn phim chụp thẳng, rồi
nhìn phim chụp nghiêng, rồi lắc đầu nói:
- Khó lấy ra lắm, nó nằm yên như vậy lâu rồi
thì cứ để cho nó yên.
Tôi nói bác sĩ xem cố gắng mổ lấy ra có được
không, chứ nó làm tôi thốn lắm!
Ông này trả lời cũng y như ông bác sĩ ở Bến
Tre:
- Không dễ lấy nó ra đâu, có khi phải rạch
nát mông đó.
Thấy tôi có vẽ chưa phục, ông mới nói rõ:
- Mảnh đạn này chỉ có thể mổ khi nào nó di
chuyển, nó làm mủ, khi đó mình lần theo đường mũ mà lấy nó ra.
Ông nói như vậy thì quá ư là khoa học, quá
ư là biện chứng rồi, thôi đành chấp nhận chung sống hòa bình với nó vậy!
Thế nhưng tôi vẫn còn tức cái ông mảnh này
lắm! Dặn vợ con tôi khi nào tôi chết, thiêu tôi xong, khi hốt cốt tôi, nhớ kiếm
cái mảnh đạn này, lấy ra để nguyên đó, đặt lên dĩa (như dĩa cúng trái cây), đem
lên bàn thờ, để trước di ảnh của tôi, để cho tôi nhìn thấy cái mặt thằng tay
sai Bắc Kinh, cái thằng Made in China này. Tại nó nên tôi mới phải ra trận, tại
nó nên tôi mới phải bị thương đi cà nhắc... và bây giờ thỉnh thoảng lại lên cơn
đau với nó.
Rời bàn phẩu, tôi đi qua trạm xá. Đây là một
cái nhà sàn cao và rộng rãi, lính tráng ồn ào đang tụ hội đánh tiến lên, sàn
nhà dơ bẩn, tàn thuốc đầy rẩy, tôi bị đau ở mông, không nằm võng được, mà cũng
không còn võng đâu mà nằm. Coi bộ nằm ở đây không ổn, lính đông quá, nằm dưới
sàn nhà sợ bị anh em nó đi qua đi lại đá trúng mông thì khổ. Tôi đi qua cái nhà
sàn kế bên, một căn nhà sàn thấp nhỏ và sạch sẽ. Tôi dọn vệ sinh chổ tôi nằm
cho tươm tất xong thì có kẻng cơm.
Tôi khập khiểng đi lãnh phần cơm của mình,
một phần cơm trắng với một gói bột nêm (giống như cái gói bột nêm mì gói bây giờ).
Tôi đong cho mình một bi đông nước, chỉ đong 2 phần 3 bình thôi, vì cái bình
toong này nó đã bị lủng một lổ ở phía trên, khi tôi ăn trái đạn cối 60 của thằng
Pôn Pốt hồi sáng sớm.
Tôi lếch thếch trở về, gặp một anh quân y
sĩ dáng vẽ thông cảm, hỏi:
- Đau không?
Tôi gượng cười trả lời:
- Đau ít thôi!
Ăn cơm với bột nêm vậy mà ngon miệng. Thông thường, nhiều bửa chúng tôi
chỉ được ăn cơm với nước muối pha một ít nước gạo rang cho có màu vàng vàng, rồi
nêm bột ngọt. Thế thôi!
Sáng hôm sau thức dậy, tôi lấy kem và bàn
chải ra đánh răng tử tế, xúc miệng bằng chỉ một ngụm nước còn sót lại trong bi
đông.
Tôi đang hòa nhập vào cuộc sống ở trạm xá
trung đoàn một cách nhẹ nhàng, cơm ngày ba bửa, nước đun sôi để nguội uống thoải
mái mỗi bửa 2 phần 3 cái bình toong thủng...
Tối đó tôi lên cơn sốt, nằm rên hừ hừ
trong căn nhà sàn nhỏ bé của mình. Cái mảnh đạn tôi ăn hôm qua, hôm nay nó hành
cho tôi sốt.
Vậy mà sáng ra tôi lại tỉnh như không, tôi
vẫn đi lãnh cơm ăn bình thường, tôi còn rảnh rổi đi thăm ngôi làng tôi đang nằm
dưỡng thương nửa chứ. Tôi đi vào một căn nhà sàn lớn hư hại nham nhở, nồi niêu,
chén bát ngổn ngang, có cả màn, gối, chăn, chiếu, nhưng chẳng có cái nào lành lặn
để mà tận dụng. Nhiều căn nhà bị đốt cháy nham nhở... Rồi tôi kiếm được ở đâu
đó một ống nylon trắng, đó là ống đựng đạn B41. Tôi đốt chảy cái nhựa nylon cao
cấp đó ra, nhỏ vào cái lổ thủng của bình
toong để vá. Vậy mà vá được, cái bình toong của tôi lại chứa nước ngon lành.
Tối hôm đó đang nằm ngũ thiêm thiếp thì
tôi giật mình tỉnh giấc vì có quá nhiều tiếng động trên con đường đất đỏ trước
nhà. Người, quá trời là người! Dân Campuchia bồng bế nhau về làng, đi suốt đêm
như trảy hội. Người khá giả đi bằng xe bò, người nghèo lội bộ gánh con, phụ nữ
đội thúng trên đầu... Đoàn người áo đen đông đảo nhưng không ồn ào, con nít
không quấy phá, một trật tự đáng kinh ngạc. Chế độ Pôn Pốt đã thủ tiêu hoàn
toàn ý chí kháng cự của những con người này, đến con nít nhỏ cũng không dám cười,
dám khóc, sợ Ăng-ca bực mình, đập cho một cái cán cuốc là tiêu đời.
Chiến dịch giải phóng các tỉnh đồng bằng
sông Mê-kông trên phần đất Campuchia của quân đoàn 4 và sư đoàn 5 chúng tôi
đang phát huy tác dụng: Hàng vạn, hàng vạn người dân được giải thoát từ các trại
tập trung đang quay trở về làng bản của mình.
Chúng tôi những thương bệnh binh K23 kéo cả
ra đường để xem cuộc hành hương vĩ đại này. Một anh lính nào đó kêu tôi lại, dạy
cho tôi một câu tiếng Campuchia, rồi chỉ cho tôi đến chổ một cô gái xinh đẹp,
dáng người cao ráo, nước da ngăm đen, nét mặt buồn buồn đang đứng nghỉ chân, hỏi:
- Ôn sa lanh boòng tê?
Một anh lính Bắc đứng kế bên buộc miệng chửi
liền:
- Bôi bác.
Còn anh lính dạy tôi câu nói tiếng
Campuchia đó khoái chí đứng cười ha hả.
Riêng tôi thì quê xệ, lui ra đứng ngẩn ngơ
nhìn cô gái. Cô không nói gì cả, thong thả đội thúng lên đầu bỏ đi, vẽ mặt vô cảm
như người mất hồn.
Tôi lính mới tò te, đây là lần đầu tiên
tôi được tiếp xúc với dân, được dạy cho một câu nói tiếng Campuchia để nói chuyện
với dân, vậy mà trớt quớt...
Sau này tôi mới hiểu nghĩa của cái câu ôn
sa lanh boòng tê? Tức là em có thương anh không? Câu hỏi này trong hoàn cảnh đó
quả là trớt quớt, làm tôi nhớ mãi.
Hành trình trở về quê hương của những người
dân Campuchia đau khổ đến mất hồn này kéo dài mấy ngày mới ngớt. Nổi đau diệt
chủng của Pôn Pốt để lại quá lớn, trên gương mặt thất thần của những con người
đang lũ lượt kéo nhau đi trước mắt chúng tôi.
*
* *
Vết thương của tôi lành rất mau, mấy ngày
sau thay thuốc, tôi thấy cái lổ đạn sâu hoắm đó giờ chỉ còn sâu khoảng hơn một
đốt ngón tay.
Trung đoàn tiếp tục hành quân theo chiến dịch,
tôi bây giờ thuộc quân số K23, cũng lên xe hành quân theo chiến dịch trong đội
hình khối hậu cần. Nhờ quân y cho thuốc mát tay, nên tôi di chuyển lúc này cũng
đở khổ, không còn lết bết như lúc mới vào viện.
Trong thời gian hành quân trong đội hình
khối hậu cần, tôi đã trãi qua nhiều phum làng trù phú. Có một cái phum rất đẹp,
nhà hai bên đường lợp ngói đỏ rất bắt mắt, không biết là xây cho ai ở?
Thường thì chúng tôi lên xe đi một buổi, dừng
lại vài ngày rồi đi tiếp. Trong khoảng thời gian này tôi không khám phá được gì
nhiều, vì bị thương đi đứng khó khăn nên ít di chuyển. Nhưng có một chuyện làm
tôi nhớ mãi:
Sáng này, theo sự chỉ dẩn của dân địa
phương, một đơn vị của ta xuất kích đi truy quét và bắt được 4 thằng Pôn Pốt
mang về, bốn thằng này là chỉ huy Ăng-ca có nợ máu với nhân dân, bị dân địa
phương căm thù sâu sắc. Bộ đội bàn giao 4 thằng này cho dân làng xử.
Buổi chiều hôm đó, ăn cơm xong, mấy thằng
nằm viện chung rủ tôi cùng đi xem dân làng xử tội Pôn Pốt. Chúng tôi kéo nhau
đi, cũng gần đây thôi, cách trạm xá vài trăm bước.
Pháp trường là một bãi đất trống ven đường
đất đỏ, một đám người đông đúc quay tròn quanh bãi. Xa xa, cách đó vài chục bước
chân, người ta đang đào hố chôn tập thể, và xa hơn nửa, mặt trời chênh chếch xế
về Tây, tuôn trào lửa đỏ, trời tháng tư hầm hập nóng. Tôi xen vào đám đông cùng
xem cảnh dân Campuchia hành quyết bọn Ăng-ca.
Trước mắt chúng tôi là bốn người đàn ông
Campuchia vạm vở, đen đúa, trần trùng trục, quấn xà-rông, nằm sấp dưới đất, tay
bị trói thúc ké ra sau lưng bằng khăn cà-ma, đầu bê bết máu... Máu loang lổ
trên nền đất khô, trên những thân thể đang nằm thoi thóp. Họ bị đập đầu cũng đã
lâu, máu trên đầu đang khô lại. Có người thở phì phọp, máu từ trong miệng người
đó thổi ra từng bong bóng nhỏ, phồng lên, xẹp xuống, phồng lên, xẹp xuống...
Một ông già dáng người quắt thước, vẽ mặt
căm phẩn, đi vòng quanh, cầm cây đập thẳng cánh vào đầu từng thằng nghe bốp bốp...
Những người bị đập đầu có vẽ tê liệt rồi, không nghe la, không dẫy dụa, chỉ thấy
một người còn sức co giật từng cơn nhẹ nhẹ.
Một phụ nữ trọng tuổi, dáng người ốm yếu,
mắt mũi ròng ròng, bà vừa đánh, vừa khóc, vừa kể, cảnh tượng thật bi ai, thê thảm!
Không biết tiếng, nhưng tôi hiểu bà đang kể tội mấy thằng này đã giết chồng bà,
giết con bà, để lại một mình bà đau khổ tàn tạ trong tuổi xế chiều. Bà không có
sức, bà đánh không đau, bà đánh như mẹ đánh con, không hung ác, không giận dữ.
Bốn thằng Pôn Pốt đó sắp chết rồi, không
thấy phản xạ vì trước những cái đánh của bà. Chỉ thấy máu trên đầu chúng bê bết,
bê bết trên những cái đầu đen, tóc quăn tít.
Đứng coi hoài cũng chán, tôi bỏ ra, đi về.
Đầu nghỉ mông lung, đúng là nợ máu trả bằng máu. Mình giải quyết mấy thằng
Ăng-ca theo cách này quá hay, những người
dân của cái làng này vậy là không còn đường lùi, phải triệt để xây dựng chính
quyền mới, triệt để tiêu diệt Pôn Pốt, không để nó có cơ hội quay về trả thù khốc
liệt.
5.
NGÃ BA ĐÔNG DƯƠNG
Sau hơn hai tuần điều trị tại trạm xá
trung đoàn, khi vết thương chưa lành hẳn, vẫn còn mang băng, tôi được trả về
đơn vị với lời dặn có gì thì xin thêm thuốc y tá đại đội uống. Có một cán bộ về
trung đoàn họp và tôi được gởi theo đồng chí đó về đơn vị.
Về đến nhà thì trời tối mịt, anh em kêu
tôi lên gặp anh Vịnh, trung đội trưởng mới của tôi, người Quảng Ninh. Đồng chí
Vịnh nói với tôi là anh em thấy tôi bị trúng cối, tưởng tôi chết rồi, bị thương
như vậy là may lắm đó. Rồi giở ba lô ra, lấy cho tôi mấy trái xoài xanh dú gần
chín, anh bảo tôi qua đồng chí Thạch xin lại cái vỏ chăn mà khi đi viện anh ấy
giữ dùm cho tôi.
Tôi qua chổ đồng chí Thạch, anh vui vẽ trả
lại cho tôi cái vỏ chăn mà anh đã mang dùm tôi trong khoảng thời gian tôi mang
khẩu B41 và 6 trái đạn, cũng như suốt thời gian tôi nằm viện.
Sáng hôm sau chúng tôi hành quân bộ ra bờ
sông Tôn-lê-sáp, tôi còn nhớ hình như hai bên bờ sông đạn pháo các loại cắm vào
tua tủa như lông nhím... Tại đây tôi gặp lại anh Lê Hùng Dũng, lính nhập ngũ
cùng đợt 03/12/78 với tôi, anh này là bạn làm việc chung cơ quan thành đoàn
Thanh niên cộng sản thành phố Hồ Chí Minh với chị tôi. Anh em gặp nhau tay bắt
mặt mừng, biết tôi không có võng nằm, anh cho tôi một xấp vải katê xanh thu được
của Pôn Pốt để làm võng, tôi cám ơn anh và nhớ mãi tấm lòng tốt này. Anh là
lính C12, cùng tiểu đoàn với tôi, rồi chúng tôi sẽ còn gặp nhau nhiều.
Tối đó, chúng tôi ngũ lại ven sông, trời
nóng nực, không có gió, mũi vo ve. Cái tấm vải anh Dũng cho, tôi dùng dây võng
cột chặt hai đầu, treo vào thân cây rồi tôi nằm xuống, được một chút thì tôi rớt
phịch, đập đít xuống đất. Đứng lên, cột lại, rồi nằm, rồi té mấy lần như vậy...
Quả thật không ổn!
Trong cái khó ló cái khôn, tôi lấy cái vỏ
chăn ra, lấy dây võng cột chặt hai đầu làm võng thì lại ổn. Thì ra do vỏ chăn
hai lớp, thịt nhiều, dầy cơm nên dây võng níu chắc được, lại thêm cái võ chăn
còn được may gấp nếp nên khi túm lại cái nếp gấp này làm thành cái khất. Dây
võng mắc vào cái khấc đó khá là chắc chắn. Làm được cái võng này rồi, tôi mới ổn
định mà nhắm mắt ngũ được qua đêm.
Chúng tôi đóng ở bờ sông Tôn-lê-sáp được một
vài ngày thì có lệnh chuyển quân, chúng tôi lên xe qua phà, cái phà công binh bằng
thùng sắt bồng bềnh coi vậy mà chắc, đủ sức đưa cả một sư đoàn qua sông. Đơn vị
của tôi được bố trí đi bằng xe Hồng Hà của Trung quốc mới cáu, đây là chiến lợi
phẩm tịch thu của Pôn Pốt.
Sư đoàn 5 hành quân cơ giới trên mấy trăm
chiếc xe tải thành một đoàn dài hàng chục cây số, khí thế dời non lấp biển. Trời
đã về chiều, rồi chúng tôi đến một ngã ba, xuống xe dừng lại rất lâu, nghe lính
tráng xầm xì bàn tán, đây là ngã ba Đông Dương đi Việt Nam, Miên, Lào.
Campuchia hoàn toàn giài phóng rồi, hay là mình về Việt Nam?
Nghe bàn tán về Việt Nam, lòng tôi vui mừng
vô hạn, rúng động tận đáy lòng và cứ hy vọng mãi là sẽ mau chóng được trở về
quê hương, xây dựng quân đội, bảo vệ tổ quốc.
Mới qua Campuchia được hai tháng chúng tôi
đã đi qua khá nhiều địa danh trên cái đất nước chùa tháp này. Xuất phát từ Sa
Mát ở Việt Nam chúng tôi qua Kompong Cham, Kompong Thom, rồi Takeo, Kompong
Speu, Kompong Chnang, một nửa đất nước Campuchia theo chiều ngang từ Đông sang
Tây và chiều dọc từ Nam lên Bắc đã có dấu chân người lính mới của trung đoàn 4
đi qua.
Đoàn xe mấy trăm chiếc của chúng tôi lại
hùng dũng lên đường, được một lát một lát thì trời tối, toàn bộ đội hình dừng lại,
xuống xe, dạt ra hai bên đường ăn uống, nghỉ ngơi qua đêm rồi sáng mai đi tiếp.
Ý nghĩ được về Việt Nam vẫn còn nung nấu
trong tôi, sáng hôm sau đứng trong thùng xe mà tôi cứ quan sát mãi: Việt Nam,
Việt Nam ở đâu? Tôi là lính mới, ngây ngô không hề biết rằng đoàn quân của
chúng tôi đang càng ngày càng rời xa tổ quốc.
Chúng tôi đang tiến lên phía trước. Tôi cứ
ngóng, ngóng mãi, ngóng mãi... chỉ thấy xa xa là một dãy núi, và dãy núi này đã
đồng hành với đoàn quân của chúng tôi suốt buổi sáng hôm đó, dãy núi đó tên là
gì tôi thực sự không biết. Đất nước này tuy quen mà lạ, quen vì tôi đã đổ biết
bao nhiêu là mồ hôi và cả máu nửa trên đất này, lạ vì đây là lần đầu tiên tôi
đi hết chiều dài nước Campuchia theo trục Nam Bắc.
Tối đó chúng tôi dừng quân tại một nơi nào
không rõ, cũng như tối qua, xuống xe ăn uống rồi ngũ qua đêm. Sáng lại lên xe
và đi tiếp.
Được một lát, đoàn xe dừng lại trên đường
phố của một thành phố xanh và đẹp. Xanh vì có những công viên cây xanh rộng lớn.
Đẹp vì có những kiến trúc dinh thự kiểu Pháp tường vàng ngói đỏ. Nghe ai đó nói
đây là thị xã Xiêm Riệp, ấn tượng của tôi về Xiêm Riệp, nơi có nền văn minh
Ăng-co vĩ đại chỉ có vậy thôi! Vì chúng tôi chỉ dừng chân ở đó, đứng ngay tại
chổ đó một khoảng thời gian chừng mười phút rồi lại nhảy lên xe đi tiếp.
Đoàn xe của chúng tôi lại lên đường, đến
chiều thì đến phum Diêng, huyện Sisophon, tỉnh Battambang. Đây là vùng đất nằm ở
cực Tây Bắc của Campuchia giáp biên giới Thái Lan.
6.
PHUM VIÊNG THÁNG 4/79
Tại phum Diêng, đại đội chúng tôi được bố
trí vào một cánh rừng dầu nằm ở phía Bắc lộ 5, sát ngay đường lộ. Một anh lính
Pôn Pốt, mặc đồ bà ba đen, ngang lưng thắt một cái võng còn khá mới, nằm nhe
hàm răng trắng nhởn, cười hết cở nhát ma chúng tôi.
Chúng tôi thận trọng đi qua anh, thực sự
tôn trọng, không dám đá vào người anh. Anh là tử sĩ, phơi thây trên chiến địa,
da thịt đã tan rã, chỉ còn bộ xương khô với cái đầu lâu trắng nhởn. Chúng tôi
nhìn anh vô cảm, không thù, không oán. Chết là hết!
Chúng ta là binh sĩ, ra trận bắn giết lẩn
nhau theo mệnh lệnh chỉ huy. Cũng có khi anh chỉ là một lương dân vô tội, bị bắt
đi lính, bị bắt cầm súng, bắn bắn, giết giết theo lệnh của bè lũ bạo tàn trong
tập đoàn phản động Pôn Pốt – Iêng Xary.
Chúng tôi rải quân trong một cánh rừng dầu
thưa thớt dọc quốc lộ số 5, đối diện chúng tôi bên kia đường là phum Viêng, một
cái phum hoang tàn và lạnh lẽo, không một bóng người.
Tôi căng tăng làm lều để ở và lấy giấy ra
viết thư gởi về gia đình. Giấc mộng trở về Việt Nam từ ngã ba Đông Dương đã thực
sự tan rồi, đây là giờ phút tôi trải lòng với gia đình tôi ở Việt Nam.
Trời không cho tôi viết thư...
Giông gió nổi lên, thổi tung đồ đạc, rồi
mưa rơi xuống. Đây là cơn mưa chuyển mùa đầu tiên của mùa mưa năm 1979 trên cái
phum Viêng hoang tàn trơ trọi này.
Cơn mưa chuyển mùa, do tích tụ năng lượng
của cả mùa khô, nên giông gió quằn quại, vặn vẹo mãnh liệt như đàn bà đau bụng
đẻ. Vậy mà mưa chỉ chút đỉnh rồi thôi, để lại thằng tôi ướt chèm nhẹp, đồ đạc
mang ra cũng bị ướt át lem nhem cả, cái thư đang viết đành bỏ dở. Tôi thu dọn đồ
đạc rồi khăn gói ra hồ nước phum Viêng tắm.
Đứng trên bờ đê, tôi mới thấy cái hùng vĩ
của cái đập nước này. Phải gọi cái hồ này là cái đập mới đúng, vì nó hình thành
do người ta đắp đập ngăn nước. Lúc đó tôi cũng không có đủ kiến thức để bàn luận
đâu là hồ, đâu là đập đâu... Chỉ thấy từng cơn sóng lớn vỗ vào thân đê, từng đợt,
từng đợt sóng, lớp sau đè lớp trước...
Tôi tắm rửa qua loa rồi xách nước trở về,
đi qua chổ anh lính mặc đồ Ăng-ca đang nằm, anh lại nhe răng cười nhát ma tôi.
Đọng lại trong cái nhìn của tôi: Cái võng anh cài ngang thắt lưng trông còn mới
quá.
Không phải chỉ mình tôi thấy cái võng đó mới,
mà chính ông Thư già, hơn tôi 10 tuổi, dân Củ Chi, nhập ngũ cùng đợt, cũng để ý
tới cái võng.
Biết tôi không cò võng nằm, hôm sau gặp
tôi, anh ấy bảo:
- Hùng, tao thấy cái võng đó còn mới lắm.
Mày lấy xài đi.
Tôi trả lời:
- Thôi đi, nó ngấm nước xác chết rồi, tôi
không dám xài đâu.
Chiều hôm đó có một anh trong đội, đi lãnh
cơm về, thấy cái đầu lâu nhe răng cười trắng nhởn trong ánh chiều tà, anh ta sợ
quá vùng chạy, vừa chạy vừa la ma, ma...
Hôm sau có người lấy đá chọi cái đầu lâu
văng đi đâu mất, rồi cái võng cũng không thấy nửa.
Phum Viêng tháng 4 năm 1979 vào thời điểm
mới thành lập mặt trận 479 là như vậy.
Sau đó ít lâu, trung đoàn bộ của trung
đoàn 4 đặt chỉ huy sở tại đây, nơi đây bỗng dưng trở thành một cứ điểm đông vui
kéo dài tới ngã ba con voi cách đó 2 cây số.
7.
NGÃ BA CON VOI
Vào một buổi sáng tinh mơ hạ tuần tháng 4
năm 1979, chúng tôi từ phum Viêng theo lộ 5 đi về hướng Đông trở ra ngã ba con
voi. Từ ngã ba này, nếu bạn đi tiếp về hướng Đông khoảng 30km là đến Sisophon,
còn nếu quay trở ra hướng Tây khoảng 15km là đến cửa khẩu Poipet giáp Thái Lan,
cái cửa khẩu nổi tiếng là sòng bạc quốc tế hiện nay, vào thời điểm đó là địa
bàn phòng thủ của tiểu đoàn 1, trung đoàn 4 anh hùng.
Ngay ngã ba này án ngữ một bức tượng con
voi bằng bê tông cốt thép, đầu quay ra Bắc, đuôi hướng về Nam. Ý nghĩa của bức
tượng này theo lời các bà mẹ Campuchia ở phum Sophia, phum Sophi (huyện
Sisophon tỉnh Battambang, nay thuộc tỉnh Banteay Meanchey) kể lại thì do khí hậu
ở phía Nam khắc nghiệt, rừng thiêng nước độc nên to khỏe như voi cũng không ở
được, phải bỏ nó mà đi ra phương Bắc nơi địa hình thông thoáng, bằng phẳng, đất
đai phì nhiêu hơn để sống.
Từ ngã ba con voi, có đường đất đỏ đi thẳng
về phương Nam được vài cây số thì hết... muốn đi tiếp nửa phải cắt rừng mà đi
vào đến Cao Mê-lai, giáp ranh biên giới Thái Lan.
Đường Cao Mê-lai từ 1980 trở về sau này
mìn nhiều lắm, những người lính chúng tôi thường nghêu ngao hát: Con đường Cao
Mê-lai, người ta kéo dây mìn, thế là anh hết đi...
Qua khỏi ngã ba con voi, cũng theo lộ 5,
chúng tôi đi tiếp chừng non 100m thì tới ngã ba Nimith. Ngã ba này là điểm khởi
đầu của một con đường đất đỏ chạy thẳng lên hướng Bắc đi Đăng-cum, nơi đó là địa
bàn phòng thủ của tiểu đoàn 2 thời bấy giờ. Tiểu đoàn chúng tôi đang men theo
con đường đất đỏ đó để vào phum Sophia,
cách ngã ba Nimith 2km.
Khí trời buổi sáng mát rượi, chúng tôi vào
phum chậm rải khoan thai, bình an vô sự, như một đứa con chinh chiến phương xa
nay trở về xóm làng của mình.
Trên đường vào phum, từ xa xa chúng tôi thấy
có hai cây phượng vĩ đang ra hoa. Màu phượng đỏ báo hiệu hè về, tự dưng nhớ đến
tuổi học trò. Văng vẳng đâu đây trong đầu: Mỗi năm đến hè lòng man mác buồn,
chín mươi ngày qua chứa chan tình yêu...
Bài ca thì buồn nhưng lòng tôi không buồn,
tôi còn đang trẻ, trong người mạnh khỏe, buổi sáng yên lành, khí trời mát mẻ, hồn
tôi phơi phới, bay bổng với phượng đỏ, hè về, hè về!
Đến ao nước đầu làng, chúng tôi hạ vũ khí,
cởi ba lô, dừng lại trên bãi đất trống xanh mơn mởn màu cỏ non. Tôi thoải mái
vươn vai, ngồi xuống bên cạnh một hòn đá lớn đầu tròn, ngoi lên từ vùng đất thịt
mịn màng của xóm làng trù phú Sophia. Đồng chí Sau (mới được bổ sung vào trung
đội hồi chúng tôi đi đánh phối thuộc quân đoàn 4) nói với tôi hòn đá này là hòn
đá sống đấy, nó có chân, rồi từ từ nó sẽ ngoi lên từ lòng đất và lớn lên. Nghe cũng có lý... đến nay đã hơn 30
năm rồi, không biết hòn đá sống của đồng chí Sau ở phum Sophia, cách ngã ba con
voi hai cây số nay đã lớn tới đâu rồi, chúng ta phải cố mà về thăm lại chiến
trường xưa thôi, các đồng chí cựu chiến binh trung đoàn 4 ạ!
Đại đội 13 được bố trí hướng chính diện là
hướng Bắc, kéo một vòng qua hướng Tây theo đường vòng cung như hình rẻ quạt,
phía sau vòng cung đó là đại đội bộ.
Trung đội chúng tôi được bố trí phòng thủ về hướng Tây của phum, tại đây vào những
buổi chiều tà, tôi nằm võng mà nghe xa xa từ trong phum vọng lại tiếng người
huyên náo, tiếng trẻ nô đùa, báo hiệu một sức sống mới đang phát triển từ đống
tro tàn của chế độ diệt chủng Pôn Pốt – Iêng Sary.
Đêm đó làng mở hội lăm thôn mừng chô
chơ-năm thơ-mây (vào năm mới). Vừa thoát khỏi chiến tranh, dân cực kỳ nghèo,
dân không có quần áo đẹp để chưng diện, không có rượu để uống, để nhảy cho bốc,
không có cả gạo lẩn thức ăn ngon, người dân ăn tết bằng vũ điệu lăm thôn, tay
thì múa và chân thì xoay theo điệu nhạc, tôi cũng được tham gia vào những cuộc
vui này nhưng rất bở ngở vì không biết múa, rất lọng cọng, ngượng ngịu nhưng vẫn
thấy vui, tràn đầy phấn khởi, chứa chan tình đoàn kết samaki.
Sau mấy ngày mở hội lăm thôn ăn tết, người
dân Sophia hăm hở bắt tay vào việc xây dựng công sự cho bộ đội đồn trú. Còn
chúng tôi thì bắt tay vào việc xây dựng lán trại, với 6 cây cọc gỗ đào sâu cắm
thẳng vào lòng đất thịt, 4 cây xà, 5 cây đòn tay và chừng 6 tấm tôn chúng tôi
đã dựng được 1 mái nhà cho cái tổ tam tam (3 người) của mình, nhà là nhà tạm để
trú mưa thôi, chứ người lính cơ động có rất nhiều việc để làm, không bao giờ ở
yên một chổ.
Giai đoạn này chúng tôi thường hành quân cấp
trung đội nhằm thông tuyến từ phum
Sophia đến suối cạn, suối sâu ở hướng Bắc rồi quay về. Thỉnh thoảng có những cuộc
hành quân lớn hơn đi sâu về hướng Bắc. Tuy liên tục có các đợt hành quân truy
quét nhưng không có cuộc chạm súng nào, tình hình phía Bắc Nimith trong giai đoạn
này hoàn toàn yên tỉnh.
Tháng 7 năm 1979 có đợt bổ sung quân lớn từ
nguồn lính thành phố Hồ Chí Minh nhập ngũ tháng 3/79. Tôi được phong làm tiểu đội
trưởng, đồng chí Sau làm tiểu đội phó, lính trong tiểu đội thì tân binh nhập
ngũ tháng 3/79 có, cựu binh nhập ngũ 78, gốc thành phố Hồ Chí Minh có, quân khu
3 có.
Lính quân khu 3 lúc rảnh rỗi thường trêu
chọc nhau bằng những mẫu chuyện khôi hài như: Thái Bình có cái cầu Bo, Hà Nam
Ninh quê hương chín củ thành mười, Thái Nguyên chủ tịch xã cởi trâu đi họp -
báo suất cơm suất cỏ, Hải Hưng bánh chưng đất, dân Thanh Hóa ăn rau má phá đường
tàu...
Trong các chuyện lính kể khôi hài bôi bác
nọ, tôi nhớ nhất là chuyện ba chú vô Nam, xin kể các bạn nghe chơi để nhớ lại một
thời lính tráng rất tiếu lâm, kể nhau nghe cho vui thôi, không nhằm mục đích
khích bác ai cả, xin anh em quê bọ đừng phiền:
Thời kỳ chống Mỹ, trước khi hành quân vô
Nam bằng đường Trường Sơn, các chú bộ đội phải dừng chân nghỉ qua đêm tại Quãng
Bình, ở xứ này người ta kêu bố bằng bọ.
Có một nhà nọ chứa ba chú bộ đội, sáng hôm
sau, trước khi các chú lên đường vào Nam, ông bọ muốn xin một đôi giày,
nên nói:
- Các chú có giày cho bọ xin một đôi.
Các chú
trả lời :
- Chúng con mỗi người chỉ có một đôi giày
thôi ạ!
Ông bọ cố xin mới nói :
- Ba chú vô Nam, thế nào cũng có chú chệt,
chú sống lấy giày của chú chệt mà mang, thế thì cho bọ xin một đôi.
Các chú không muốn cho, nên trả lời :
- Nhưng mà chúng con đi giày đủ cở, bọ làm
sao mang vừa.
Ông bọ nài nỉ :
- Ồ bọ mang dễ lắm, giày 38, 39, 40, cở nào
bọ mang cũng được tuốt.
Bôi
bác thế này thì bố ai chịu được! Anh lính quê bọ đang ngồi uống nước, quăng bát
nhào vô định ăn thua đủ liền. Anh kia bỏ võng bật dậy, chạy vòng vòng, vỗ tay
cười ha hả...
Các người lính trêu chọc nhau, bôi bác lẩn
nhau, gân cổ cãi nhau ầm ỉ, nhưng lại rất thương yêu đùm bọc lẩn nhau, chia ngọt
sẻ bùi, điếu thuốc hút chung, không mất đoàn kết, lính Nam lính Bắc tình cảm
chan hòa.
Qua đợt bổ sung này, quân số mỗi tiểu đội
đạt khoảng 5 đồng chí, mỗi trung đội có gần hai chục tay súng, hỏa lực có trung
liên RPD, B40, B41 đủ cả. Đây là thời kỳ cũng cố rất cần thiết sau những năm
dài chiến tranh biên giới Tây Nam. Trong thời gian này có một số cán bộ cấp
trung đội, đại đội được đưa đi học bổ túc khóa 6 tháng tại trường sĩ quan lục
quân 2. Riêng tôi cuối tháng 9/1979 được đưa về Sisophon, nơi đóng đại bản
doanh của sư đoàn để học trường hạ sĩ quan D30.
Hồi 8: Sisophon
(Năm 82 đi Síophon, lúc đó đi chưa biết
bác tran479 thông tin sư D29, chắc gần D30? Nếu biết thì ghé rủ bác đi uống rượu
chơi, không biết bác tran479 có từng ngồi quán ba chị em chưa? Có giai thoại gì
vui kể cho anh em nghe chơi)
1.
THỊ TRẤN SISOPHON
Từ ngã ba con voi nhìn về hướng Đông,
chúng ta thấy sừng sững một khối núi
hình mu rùa... đó là Sisophon, thị trấn nằm bên cạnh ngọn núi đá. Khoảng cách từ
ngã ba con voi về Sisophon là 30 km, xe quân sự chạy 1 tiếng đồng hồ là tới.
Trường hạ sĩ quan D30 đóng ngay chân ngọn
núi đá, thao trường của chúng tôi là một bãi hoang rộng lớn, đất cát trắng lổn
nhổn đá và đầu lâu. Nơi đây có những hố chôn tập thể của Pôn Pốt, người dân bị
Pôn Pốt hành hình, đập đầu quăng xuống hố, nay xương tàn, cốt rụi chỉ còn lại
những hố đầu lâu nhe răng cười trắng nhởn.
Đại đội trưởng đơn vị huấn luyện của tôi
là một thiếu úy, người Hải Phòng có gương mặt đẹp trai sáng sủa. Anh đón chúng
tôi ở mức độ niềm nở vừa phải, không thân thiện nhưng cũng không quá xa lạ. Sự
đón tiếp trong chừng mực đó là phù hợp vì chúng tôi ở xa đến, học ở đây không
bao lâu, chừng tháng rưỡi là hết chương trình.
Những buổi huấn luyện của chúng tôi trên
cái thao trường lổn nhổn đá và đầu lâu này thực sự bổ ích. Chúng tôi được học
chiến thuật các cấp từ tiểu đội, trung đội, đại đại bộ binh tấn công, phòng ngự
trận địa, chiến thuật phục kích: chặn đầu, khóa đuôi, xung phong diệt gọn...
Có những sáng sớm chúng tôi được phân công
tuần tra trên núi, chúng tôi xách súng men theo lộ đá mà đi. Núi không cao,
lưng chừng núi có một ngôi đền, trong đền có hai ngôi mộ đặt song song, hai
ngôi mộ đã bị bật nắp trong đó lộ ra trần truồng hai bộ xương khô nam nữ. Không
biết bàn tay của ai đó đã quá ác tâm khi quật mồ người ta, để lộ hai bộ xương
khô nằm nghiêm chỉnh trong cái mộ phần của mình.
Cách doanh trại huấn luyện của chúng tôi
không xa có một cái chợ tự phát, mọc ra dưới bóng cây độc mộc, tàn lá xum xuê.
Cái chợ này bán thực phẩm, hàng ăn uống và thuốc lá. Mỗi người lính Việt Nam ở
Campuchia ngoài tiền phụ cấp của quân đội, mỗi tháng chúng tôi còn được chính
phủ Hun Sen trợ cấp 5 Riel (1 Riel ăn 3 đồng Việt Nam lúc bấy giờ). Chúng tôi lấy
tiền đó mua thuốc lá thơm Gold City để hút, mua ít thôi khi thì một gói, khi
vài điếu thuốc lá lẻ để có cái mà đi chợ. Đi chợ chơi, không ăn không uống gì cả,
chỉ dành tiền mua thuốc lá thôi.
Nơi đây là huyện lỵ, vậy mà suốt 1 tháng
rưởi ở đây tôi chưa một lần bước chân ra thị trấn Sisophon, không biết mặt mũi
cái sư đoàn bộ ra làm sao, nhà cửa người dân và cuộc sống của họ như thế nào?
Khoảng thời gian này tôi chỉ quanh quẩn
trong đơn vị và ngoài thao trường, không đi đâu cả ngoài cái chợ chồm hổm dưới
bóng cây độc mộc kia... Bởi vì không quen biết ai ở cái thị trấn này, cả dân lẩn
lính!
Phải đến giữa mùa mưa 1982 tôi mới có dịp
hiên ngang trở lại Sisophon. Hiên ngang là bởi vì lúc này chúng tôi là đoàn cán
bộ cấp trung đội, đại đội đi nhận chiến sĩ mới về bổ sung cho đơn vị mình. Tân
binh đợt này là lính quân khu 9, con em của các tỉnh miền Tây nam bộ... Tội
nghiệp đợt lính này về tham gia tiểu đoàn 3 trong lúc chúng tôi đang nằm sâu
trong Tà-cuông Krao, đang xây dựng căn cứ hành quân Năm-sấp, đang làm nhiệm vụ ở
phía Nam cao điểm Mê-lai, nơi mà những con thú vật gốc bản địa, to như con voi
cũng phải quay đít mà đi, rời bỏ chốn thâm sơn cùng cốc, sơn lam chướng khí mà
về hướng Bắc, về với đồng bằng Battambang cò bay thẳng cánh, đầy rẩy suối
sông tôm cá.
Trong thời gian chờ đón tân binh, chúng
tôi được ở nhà khách sư đoàn, ở chung với một đoàn văn công của quân khu 7 do một
sĩ quan cấp tá dẩn đầu, chúng tôi kêu ông bằng bố. Xin bố già cho các em văn
công biểu diễn văn nghệ cho chúng tôi xem, ông bố không chịu mà nói để ngày mai
sẽ biểu diễn cho cả sư đoàn cùng coi.
Ở trung đoàn chúng tôi chưa bao giờ được
văn công phục vụ, vì toàn bộ đội hình trung đoàn đóng quân đều nằm trong tầm pháo kích của địch.
Còn nếu pháo kích không tới thì thằng Pôn Pốt cũng có cách quấy rối là đêm đêm
đem vài tay súng tới bắn vài trái B40, tuôn vài loạt AK khuấy động quân tình
chơi!
Ở nhà khách mãi cũng buồn, tối đó chúng
tôi 3 thằng lính C13 rủ nhau đi uống rượu. Ba đứa hùn tiền mua 1 chai rượu mùi
Đà Lạt trong một quán nước có 3 cô gái Campuchia làm chủ, chúng tôi gọi là quán
ba chị em.
Chai rượu này ở đây bán với giá tương
đương nửa chỉ vàng thời bấy giờ, chúng tôi ngồi nhâm nhi rượu ngọt trong một
cái quán nước ấm cúng ở thị trấn Sisophon. Nơi đây có điện, có đèn, có nhạc, có
gái đẹp bản xứ ngồi tiếp chuyện, thấy đời cũng đáng sống, tạm thời quên đi cái
căn cứ hành quân Năm-sấp tối tăm muỗi vắt sau lưng... Cũng cùng là lính sư
đoàn, nhưng những người lính trung đoàn 4, và nhất là tiểu đoàn 3 giờ này đang cực lắm, đơn vị chúng
tôi đang ở Nam Cao Mê-lai, nơi ngay cả con voi gốc bản địa cũng quay đít bỏ đi!
Rồi cái buổi văn công quân đội biểu diển
văn nghệ cho cán bộ chiến sĩ sư đoàn xem cũng tới. Chiều hôm đó cơm nước xong
xuôi, chúng tôi ăn bận gọn gàng, tươm tất rồi tà tà thả bộ đi xem văn nghệ. Cả
một rừng người háo hức xem văn công biểu diễn, tôi đứng ở xa xa, coi nhảy múa
chập choạng, thấy anh em biểu diễn coi bộ cũng công phu lắm, nhưng xem không thấm,
không có cảm giác gần gủi, ca nhạc cũng vậy, cũng thấy nhạt nhạt... Nói chung
là không ấn tượng gì cả, chúng tôi ra về với cảm giác trống rỗng, vô vị. Ngày
mai chúng tôi sẽ nhận quân và trở về cái căn cứ nơi rừng sâu, nước độc của
mình.
*
* *
Trong khoảng thời gian chúng tôi đi học lớp
hạ sĩ quan ở chân núi Sisophon thì ở nhà có chuyện: Toàn bộ đại đội 13 được lệnh
xuất kích tiến vào Cao Mê-lai, đại đội hành quân mà không biết rằng ở nhà đồng
chí quân lực đã lập danh sách trích ngang của anh em để báo cáo về trên, chuẩn
bị hậu sự... Sau những tổn thất lớn về nhân mạng ở trận đánh giữa cuối tháng
3/79, nay đồng đội của chúng tôi lại bước vào vùng đất lành ít dữ nhiều.
Khóa học hạ sĩ quan của chúng tôi cũng được
rút gọn lại và kết thúc sớm hơn dự kiến một chút để kịp thời trả quân về các
đơn vị chuẩn bị chiến dịch mùa khô năm 1980.
9.
DON THOMO
Thượng tuần tháng 12/79 tôi trở về Nimith,
đêm đó tại bãi tập kết quân giữa phum Sophia trăng sáng vằng vặt, tôi viết thư
về nhà mà không cần dùng tới ánh đèn. Lính tráng đốt lửa để sinh hoạt, còn tôi
thì tận dụng ánh lửa đó để viết thư. Tôi đang nằm chờ tại đây để hội quân với
đơn vị của mình đang trở về từ Cao Mê-lai.
Đại đội chúng tôi trở về Sophia cũng trong
đêm đó, đợt xuất kích này không có tử sỉ, nhưng quân binh tàn tạ vì sơn lam chướng
khí, hầu hết quân số đều mang bệnh sốt rét mãn tính. Chỉ còn tôi và một số đồng
chí đi học về là mạnh khỏe, là nòng cốt của đơn vị lúc này
Đội quân bệnh hoạn này không tự hành quân
được, xe GMC của trung đoàn đưa chúng tôi tiến vào Don Thomo từ hướng Bắc phum
Diêng..
Don Thonmo, nghĩa tiếng Việt có nghĩa là
Giếng Đá (don là giếng, thomo là đá). Đây là địa điểm mà thời trước, người ta
đã cho khai thác đá để làm quốc lộ số 5 và đường sắt đi Poipet.
Đơn vị bạn để lại căn cứ Don Thomo cho
chúng tôi cũng đầy đủ nhà ở, công sự, giao thông hào nên chúng tôi cũng không vất
vả lắm về việc cũng cố doanh trại... Đại đội ngày càng thưa thớt, các bệnh binh
lần lượt được chuyển lên tuyến trên điều trị, có người vào trạm xá trung đoàn,
những người nặng hơn thì chuyển về bệnh xá sư đoàn ở Sisophon, nặng hơn nửa thì
đi bệnh viện 7E ở Xiêm Riệp.
Cả tiểu đoàn vào đợt cũng cố, ban ngày đào
hào cũng cố công sự, tối đến thắp đèn tập bài bắn ban đêm với mục tiêu là bia mẹ bồng con, tượng
trưng cho hai thằng xạ thủ đang bắn đại liên.
Đêm đêm chúng tôi ngồi canh gát trước đội
hình, nhìn về phía Tây thấy sáng rực một góc trời, đó là ánh sáng đô thành... của
một thị trấn Thái Lan yên bình, chúng tôi đang ở rất gần cửa khẩu Poipet và cái
thị trấn đó, không tới 10km đường chim bay.
Chúng tôi sinh hoạt ở Don Thomo vào mùa
khô khá thoải mái nhờ vào các giếng đá tích trữ đầy nước mùa mưa, vào mùa khô mọc
đầy bông súng, chúng tôi bứt bông súng làm nộm ăn cải thiện trong những tháng
mùa khô hiếm hoi rau cỏ này.
Các bệnh binh được đưa đi điều trị rồi
cũng lần lượt trở về. Doanh trại ngày càng được hoàn thiện hơn, các tuyến giao
thông hào được nối mạng thông suốt.
Khu rừng dầu nơi chúng tôi đóng quân, thỉnh
thoảng lại có heo rừng đến viếng, nửa đêm nó theo đường mòn, chạy vào đội hình,
vướng mìn nổ oành một tiếng. Chúng tôi xách súng ra thăm chừng, đôi khi lại có
thịt rừng mà xơi.
Có 1 lần nghe tiếng mểnh kêu tát tát, tôi
leo lên cây mà coi, thấy rõ ràng một con mểnh to khoảng 30, 40 kg lông vàng lườm,
tướng tá giống như con nai. Tôi xuống, xách súng, leo lên cây... thì nó chạy
đâu mất rồi!
Trong đơn vị tôi có đồng chi Vi, đại đội
phó quân sự, dân tộc Tày, người Thái Nguyên giỏi săn bắn. Một chiều nọ anh vác
súng vào rừng săn được một con mểnh to, anh lắt bỏ hai hòn dái của nó (cho thịt
khỏi hôi) rồi về đơn vị kêu anh em đi khiêng xác con vật về cải thiện.
Cuối năm 1979, với nhiều chiến công đạt được trong chiến tranh biên giới Tây Nam,
trung đoàn 4 của chúng tôi cùng với trung đoàn 174 và sư đoàn 5 được tuyên
dương danh hiệu đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang lần thứ hai.
Những cơn gió lạnh kéo về từng đợt, từng đợt
báo hiệu năm hết tết đến. Năm nay chúng tôi ăn Tết lớn, một cái tết đầu tiên
sau ngày Campuchia hoàn toàn giải phóng khỏi họa diệt chủng. Các thương bệnh
binh đã trở về đơn vị đông đủ, quân số toàn đai đội lúc này khoảng trên 50 người,
tất cả phấn khởi hồ hởi đón Tết.
Heo, bò, gà, trà, rượu, thuốc đủ cả. Năm
đó chúng tôi đã ăn một cái Tết hoành tráng nhất trong đời lính. Bếp đại đội, bếp
trung đội rộn ràng, rồi lính tráng các đơn vị qua lại ồn ào thăm viếng lẩn
nhau, vui thì thật vui, nhưng vui lắm thì buồn nhiều...
Xa quê hương nhớ mẹ hiền, cái buồn nhớ làm
những người lính làm liều chơi ngông. Đầu têu cuộc chơi là cái anh pháo cao xạ
37 ly: Anh nhậu đã đời, rồi anh buồn tình, anh kéo pháo ra, anh nạp đạn vào,
anh bắn đạn lửa, đạn vạch đỏ trời... trong cái đêm giao thừa 30 tết năm 1980.
Sáng ngày mùng 1, theo chương trình chúng
tôi lên đại đội chúc tết. Chúc tết xong, rượu mới ngà ngà, chúng tôi trở về
trung đội ăn tết tiếp... bổng dưng súng nổ thay pháo. Đầu tiên là nổ ở hướng
trung đoàn bộ, rồi tiểu đoàn, rồi các đại đội, rồi các trung đội... Vui quá,
tôi cũng chơi luôn!
Tôi xách cây trung liên RPD ra, dựng chân
chống trên nóc chiến hào, chơi luôn nguyên nồi đạn 100 viên. Súng nổ, giật cành
cành, cành cành liên tu bất tận, hết dây đạn 25 viên này thì súng tự động xả
dây ra, kéo tiếp dây mới. Tôi say sưa bắn, hết dây thứ hai, sang dây thứ ba, thứ
tư, tiếng đạn nổ liên thanh làm tôi cực kỳ phấn khích, nổi buồn nhớ cha, nhớ mẹ
tan biến đâu mất! Máu chảy rần rần, mặt đỏ bừng bừng, mồ hôi ròng ròng, nòng
súng đỏ rực, tôi còn muốn bắn tiếp nửa, tiếp mãi... thì đại đội trưởng Tý chạy
xuống la:
-Ngưng bắn, ngưng bắn, tiểu đoàn nó chửi
tôi!
Phục tùng mệnh lệnh người chỉ huy gương mẫu
của mình, tôi lật đật xách súng chạy vô, trong lúc vội vàng phần da non cánh
tay phải của tôi chạm vào cái nòng súng cháy đỏ, lập tức nó lột da tay ngay tức
khắc, để lại lớp mỡ trăng trắng, mấy năm sau vẫn còn thấy thẹo.
Chúng tôi đã ăn cái Tết chiến thắng đầu
tiên trên đất bạn vào cái năm đó với rất nhiều rượu thịt và tiếng nổ của đại
bác, pháo cao xạ, đạn tiểu liên... một cái tết huy hoàng, ồn ào và mất trật tự.
Đang là thời chiến và trước mắt chúng tôi
là quãng đời lính dài vằng vặc phía trước, chúng tôi đi không biết ngày về. Tất
cả sĩ quan binh sĩ trên chiến trường đều hiểu như vậy và thấm thía nổi nhớ
nhà... nên dù cái Tết năm ấy lính tráng chúng tôi bắn phá hao tốn như vậy,
nhưng tất cả chúng tôi đều bình an vô sự, không ai bị kỹ luật gì, còn khiển
trách rút kinh nghiệm thì đương nhiên là có, rồi thôi.
Năm 1981 chúng tôi cũng ăn một cái tết
hoành tráng như vậy, hậu phương và nước bạn Campuchia chung sức chăm sóc cho những
người lính xa nhà chúng tôi ăn một cái tết đầy đủ rượu thịt, nhưng cái tết đó
bình an, yên tỉnh, không một tiếng nổ mất trật tự.
Chúng tôi chỉ được ăn 2 cái tết ở Don
Thomo thôi, rồi phải đột ngột rời xa nó tức tưởi! Để rồi không biết đến cái tết
thứ ba, bởi vì cái tết năm đó toàn bộ tiểu đoàn chúng tôi đã luồn sâu vào Nam
Cao Mê-lai rồi.
10.
PHNOM MELAI
Cụm cao điểm này thực ra không cao lắm, ngọn
núi cao nhất chỉ chừng ba trăm mét thôi. Nhưng cái hiểm trở ở đây là mùa khô
không có nước, những người lính phải đào đá ra mà chắc lấy nước, cái chất nước
rỉ ra từ trong đá đó trắng nhờ nhờ, đùng đục như nước vo gạo, uống vào chắc chắn
là mang bệnh, còn không uống thì bị chết khát, anh chọn cái nào?
Đây là vùng đất của bệnh sốt rét nổi tiếng
khắp nước Campuchia, đến nổi người ta phải đúc tượng con voi quay đít bỏ Cao
Mê-lai mà đi.
Cao Mê-lai là cứ điểm cuối cùng của tàn
quân Pôn Pốt ở ngã ba con voi, vậy mà chúng tôi cứ truy kích tới hoài, cho nên
chúng chống trả quyết liệt bằng mọi thủ đoạn như gài mìn, phục kích, tập kích
nhằm tiêu hao sinh lực của ta.
Cuối năm 1979 đại đội 13 vào tiếp quản Cao
Mê-lai một cách êm thắm, không phải hy sinh một anh lính nào, nhưng giữ được nó
thì cực kỳ khó... Rừng thiêng nước độc, sơn lam chướng khí đã quật đổ từng người,
từng người lính một.
Việc vận chuyển lương thực thực phẩm tiếp
tế cho bộ đội giữ chốt cũng rất khó khăn, gian khổ, phải cắt đường mới, luồn rừng
mà đi, tuyệt đối không đi vào lối mòn chắc chắn là vướng phải mìn.
Cũng không được làm lộ đội hình hành quân,
đã có một đơn vị vận tải chủ quan dừng lại dọc đường, ăn uống ồn ào bị Pôn Pôt
tập kích một trận chết cả chục quân.
Sau khi đại đội 13 rút khỏi Mê-lai, có một
đơn vị của tiểu đoàn 1 thay thế đóng chốt, trong giai đoạn này thỉnh thoảng
chúng tôi có những đợt hành quân ngắn ngày mang vác gạo đạn trực chỉ Mê-lai để
tiếp tế cho đơn vị bạn.
Chúng tôi từ hướng đít con voi đi vào, đi
hết đoạn đường bộ có quân ta chốt giữ thì cắt đường rừng trực chỉ Cao Mê-lai,
chúng tôi luồn rừng thận trọng, nhẹ nhàng, yên phăng phắc, nhiều lần chúng tôi
phải dừng lại chờ trinh sát mở đường. Dây leo chằng chịt, đường rừng mấp mô, thỉnh
thoảng cắt ngang đường hành quân là một con suối đá cạn dòng. Phát hiện ra dấu
chân voi còn mới, cả đoàn quân lại phải càng thêm thận trọng, đôi khi phát hiện
cả phân voi nóng.
Tránh voi không xấu mặt nào...
Chúng tôi thận trọng vậy thôi, chứ đi Cao
Mêlai cả chục chuyến rồi, chúng tôi chưa từng chạm mặt với voi lần nào.
Đường vào Cao Mê-lai nhiều suối to, nhưng
mùa khô hoàn toàn khô cạn, trơ toàn sỏi đá. Cây rừng rậm rạp, có nhiều cây bằng
lăng cổ thụ, thân gồ ghề, gốc chia thành nhiều phiến lớn như phiến đá, ba bốn
người ngồi trong những phiến cây đó vẫn kín đáo an toàn. Nhiều dây leo chằng chịt
to bằng cổ tay, dùng dao chặt đứt, nó lòi ra sớ gỗ màu đỏ bầm, có thể vắt lấy
nước mà uống. Nói là có thể, chứ tôi chưa từng thấy ai vắt nó ra lấy nước uống,
vì gỗ nó sơ cứng, rắn chắc lắm, thực khó mà vặn ra lấy được nước. Nhưng nó vắt
ra nước được đấy, đó là bài học đi rừng của những người lính Cao Mêlai nơi nước
uống cực kỳ quí hiếm! Những khi chết khát thì cái dây rừng này nó sẽ là cứu bạn
đấy, bạn hãy chặt nó ra hoặc cắn xé nó ra mà mấp lấy nước, mấp lấy cái dưỡng chất
đang nuôi sống nó để duy trì cái mạng sống của bạn.
Một lần đi truy quét Cao Mê-lai, chúng tôi
dừng chân trên một con đường đất đỏ, có
lệnh đi lấy nước, tôi và anh Ba Duy (dân quận 4, nhập ngũ cùng đợt) đi ra phía
sau đội hình hành quân để lấy nước... đến khi trở lên thì mất hút đội hình hành
quân của mình.
Hai chúng tôi đi men theo con đường đất đỏ
một đoạn, thấy phía trước có một thân cây lớn đổ chận ngang đường, chưa kịp
quan sát thì thằng Pôn Pốt đã nổ súng, một
loạt đạn AK xé gió lao tới, cự ly bắn quá gần, đạn nổ chát chúa bên tai. Không
suy nghĩ, không quan sát, chúng tôi bương thẳng vào rừng cây sát ngay bên cạnh.
Trên đoạn đường đó, tôi đã đạp phải một
bãi phân của lính Pôn Pốt, nó xả ra ngay
phía trước đội hình phòng ngự của nó... Đuổi kịp đội hình hành quân của mình rồi tôi mới nghe thúi, tôi chùi giày vào
cỏ cây đất cát xung quanh vẫn không hết mùi. Mìn của nó đã chen vào rãnh của đế
giày, đi cả đêm hôm đó và cả ngày hôm sau nó biến ra thành đất nhảo.
Mỗi lần đi vận tải cho Cao Mêlai, tôi đều
tranh thủ ghé thăm anh bạn đồng hương quận Bình Thạnh, anh tên là Dần, bạn học
từ thời cấp 1, làm lính thông tin tiểu đoàn 1, nay không biết ở đâu? Anh có đọc
truyện này thì liên lạc với tôi nhé.
10. PHNOM MELAI (tiếp theo)
Cần phải có một đơn vị chuyên trách Cao
Mê-lai, nhiệm vụ này được giao cho trung đoàn 2 công an vũ trang đảm nhiệm vào
năm 1980. Từ ngày trung đoàn này đảm nhiệm Cao Mê-lai, công việc của chúng tôi
nhẹ đi rất nhiều.
Những người lính của trung đoàn 2 chốt giữ
Cao Mê-lai yên như bàn thạch, ấn tượng của tôi về những người lính này rất đẹp.
Họ cũng là những người lính lam lũ, rách rưới như chúng tôi, nhưng không hề
nghe họ phàn nàn kêu khổ. Họ rất cực vì ở một nơi khắc nghiệt nhất trên chiến
trường và đã họ hoàn thành nhiệm vụ cực tốt mà chắc là ít ai biết tới họ.
Bởi vì họ ở cái chốn khỉ ho cò gáy, cái chốn
bị người đời quên lãng, có chăng nó chỉ đọng lại trong ký ức của những người
lính bộ binh trung đoàn 4, những người lính trung đoàn 2 công an vũ trang... và
những bà mẹ Campuchia ở Sophia.
Chúng tôi đi chiến dịch Cao Mê-lai trở về
tàn tạ và bệnh hoạn, các bà mẹ Campuchia xúm xít hỏi thăm tin tức mấy đứa
con... Các bà mẹ suýt xoa nói chuyện với nhau, thương cảm mấy đứa con bệnh hoạn,
câu nói cửa miệng của các bà mẹ luôn là: “Khỏe như voi còn bỏ Cao Mê-lai mà đi,
tội nghiệp các con phải đem thân vào chốn rừng thiêng nước độc”.
Quân đội của chúng ta có truyền thống đi
dân mến ở dân thương, hình như trên đất nước chùa tháp này chỉ có duy nhất những
người lính của quân đội nhân dân Việt Nam mới xưng con với các bà mẹ. Những người
phụ nữ Campuchia chất phát, lam lũ và hiền lành có được những người con ăn ở phải
phép như vậy tất nhiên là rất hả dạ, dù việc chăm sóc các đứa con nuôi này chắc
chắn cũng gây khó khăn không ít cho các bà mẹ, vì dân Campuchia những năm đó
nghèo lắm, thiếu thốn lắm, một gói thuốc rê, con gà, kí gạo có giá trị rất lớn.
Ghi chú 1: Khi viết xong truyện, tôi ngồi
rà lại bản đồ của Google Maps và Google Earth mục đích là để kiếm cái tên Phnom
Mê-lai... nhưng không thấy, vì các loại bản đồ của Google cung cấp trên mạng là
bản đồ dân sự, họ không quan tâm tới chiến trường xưa của mình!
Không nản chí, tôi tiếp tục tìm kiếm trên
mạng, vào mục một thời máu và hoa của quansuvn.net tìm thì thấy anh em cựu chiến
binh mình thời 78-80 trở về sau sinh hoạt trên diễn đàn này nhiều vô kể... lính
Nam, lính Bắc đủ cả. Trên diễn đàn này anh em chỉ cho nhau biết địa chỉ truy cập
bản đồ Đông dương trên mạng... và tôi đã vào trang web www.tuaans.110mb.com và
trực tiếp vào thư mục
www.tuaans.110mb.com/Maps/CamMap_files/05-ND-48-09.jpg thì tìm thấy rõ ràng cái
Phnom Melai của mình, cái vùng đất con voi bỏ đi ấy hiện rõ mồn một trên bản đồ
quân sự với những đường bình độ ghi chú độ cao 322 và chữ PHNOM MELAI in hoa
nghiêm chỉnh. Không những vậy, tất cả các địa danh khác như Takong Krao, phum
Sophy, phum Preav, Yeang Đang Kum, Sisophon, Poipet... đủ cả.
Tuân thủ cách ghi tên địa danh trên
cái bản đồ quân sự đã quá quen thuộc với
anh em mình những năm 79, 80... tôi ghi nguyên si tên địa danh như vậy trong
các hồi mục chính của quyển truyện này như một cách ôn lại kỹ niệm một thời máu
và hoa của chúng ta. Tuy nhiên, trong
khi kể chuyện ngã ba con voi thì tôi vẫn viết tên địa danh theo cách gọi của
anh em mình như Takong Krao là Tà-cuông Krao hoặc Preav là Prê-ao, để anh em đọc
khỏi thấy lạ... Mong các đồng đội và bạn đọc thông cảm với cách ghi địa danh
không thống nhất trước sau như một của tôi.
Tìm được địa danh Phnom Melai trên một tấm
bản đồ quân sự cách đây hơn 30 chục năm, tôi thực sự bồi hồi xúc động: Phnom
Melai đây rồi, Cao Mê-lai đây rồi, còn kia là Nam Cao Mê-lai ở phía Nam... của
Phnom Melai.
Những cái địa danh ác ôn trên thực địa này đã lấy đi biết bao nhiêu sinh mạng, mồ
hôi và xương máu của những người lính trung đoàn 4 bộ binh, trung đoàn 2 công
an vũ trang những năm đó!
Thấy địa danh Phnom Melai trên cái bản đồ
quân sự được in ra cách nay trên 30 năm, tự dưng tôi thấy mình như ngây ngấy sốt,
rùng mình nhớ lại những cơn sốt rét triền miên năm 1982 trên con suối cạn ngày
28 tết và trong những cánh rừng nguyên sinh ở phía Nam cao Mêlai ve kêu rôm rả...
Ghi chú 2: Trường hợp tìm không được bản đồ
Đông dương của bạn tuaans trên mạng, các bạn hãy vào Google Earth tìm Cambodia,
rồi vào tọa độ 13 độ 32 phút vĩ Bắc và 102 độ 24 phút kinh Đông thì Phnom Melai
chắc chắn nằm ở đó.
Hồi thứ 11. PHUM SOPHI
Một buổi chiều tháng 3/1980, đồng chí Thạch
trung đội trưởng đi họp giao ban đại đội về phổ biến nhiệm vụ mới của trung đội
là ngày mai đi làm nhiệm vụ xây dựng chính quyền xã Sophi. Tôi mừng lắm: - Reo
lên là ngày mai được ra dân ở rồi!
Chốt mãi trong rừng buồn lắm, đóng quân
trong phum là niềm vui sướng của các người lính. Cả trung đội ai cũng mừng và
chuẩn bị hành trang sáng mai lên đường sớm.
Từ Don Thomo chúng tôi lội bộ ra phum
Diêng, ra tiếp ngã ba Nimith, đi tiếp nửa thì đến ngã ba Sophi, chúng tôi đi
liên tục từ sáng đến xế trưa mới tới ngã ba Sophi. Đường vào phum Sophi đất đỏ
và rất xa, chắc trên 6 cây số, đang đi thì bỗng dưng cẳng chân bên phải của tôi
bị đau (giờ tôi nghĩ lại: chắc do hội chứng mảnh đạn cối 60 còn lại trong
mông), phải đi cà nhắc và phải thường xuyên dừng lại nghỉ rất lâu cho đở đau!
Đồng chí Thạch dẩn trung đội đi trước, còn
đồng chi Vi đại đội phó thì nán lại để chờ tôi. Vào sâu bên trong thì cảnh tượng
hai bên đường lại khá đẹp, có ruộng vườn, có rừng cây thốt nốt, có chim bay, cò
bay. Trời chiều man mát, cảnh nên thơ, nhưng do cẳng đau nên tôi không có hứng
thú mà ngắm nghía cảnh vật... Đến nay tôi vẫn còn ấn tượng đẹp với cái phum
này, cảnh vật hữu tình lắm.
Sophi là một phum làng trù phú, đầu làng
có ao nước trong veo, sạch sẽ. Ẩn sau hàng cây cao xanh mát là một mái chùa Phật
giáo nguyên thủy nhỏ nhắn và thanh thoát, chùa nhìn thẳng ra ao làng.
Từ đầu phum có đường trục xuyên qua phum,
đến cuối phum thì thấy một cánh đồng rộng, khô khan cỏ cháy dưới ánh nắng xế chiều tháng ba rực rỡ,
xa xa là hàng cây thốt nốt. Trung đội tôi đóng ở đó, cuối phum, chúng tôi treo
võng nằm rải rác dưới các nhà sàn của những người dân khá giả.
Tôi và anh Thạch giăng võng dưới một căn
nhà sàn cao ráo, mặt sàn cao hơn 2m, chúng tôi ở dưới đất có thể đứng thẳng
lưng cũng không sợ đập đầu vào các thanh gỗ đà sàn. Cột nhà làm bằng gỗ dầu đen
bóng, đường kính khoảng 20cm rất vững chải.
Chủ nhà là một bà mẹ lớn tuổi, có cô con
gái biết tiếng Pháp, làm cán bộ phụ nữ xã. Bà mẹ này rất ngưỡng mộ vua Sihanut,
bà thường nói thời vua Sihanut dân ở đây giàu lắm, thơ xe-re mui chơ-năm xi bây chơ-năm (làm ruộng một
năm ăn ba năm).
Chiều đó, tôi ra ao làng đứng tắm, bắt chước
đồng đội, tôi gánh về 2 thùng nước để phục vụ sinh hoạt tập thể: nấu nước, đánh
răng, rửa mặt .v.v.
Xuất thân là dân thành phố, đây là lần đầu
tiên trong đời tôi gánh nước, dù đã cẩn thận ngắt lá súng phủ lên mặt nước,
chân bước cẩn trọng, hai tay ghìm chặt 2 cái móc sắt, nhưng thùng nước vẫn đong
đưa, sóng sánh và đổ ra ngoài. Từ đầu phum đến cuối phum chừng 300m, mà tôi đã
làm đổ mỗi bên 1 phần 3 thùng.
Vạn sự khởi đầu nan, mới đầu gánh nước coi
khó vậy chứ chỉ sau một vài lần tôi đã quen nhịp, chân bước thoăn thoắt, không
cần lá súng, không cần bặm môi, tôi vẫn gánh đủ hai thùng nước về nhà, tuy sóng
sánh chút đỉnh nhưng cũng còn đầy, không hao hụt nhiều như lúc đầu.
Công việc hàng ngày của chúng tôi rất đơn
giản. Ban ngày quanh quẩn trong phum trực chiến, thỉnh thoảng được phân công
xách súng đi tuần tra khu vực. Lâu lâu lại tới phiên ra ao nước đầu làng gác
đêm. Khi nào có bầu cử thì chúng tôi kéo nhau đi bảo vệ khu vực bỏ phiếu.
Những khi có lễ hội thì chúng tôi được
làng đãi cho một bửa ăn ngon, còn thường thì chúng tôi ăn bếp ăn tập thể, rất
khô khan đạm bạc, chúng tôi phải bứt rau rừng, hoặc ra ruộng hái rau muống dại,
rau dền dại về nấu canh ăn cải thiện. Đôi khi bứt nhằm rau dền dại có gai nửa
chứ!
Chúng tôi còn trẻ, khỏe, hăng hái và yêu đời,
ăn uống đạm bạc không làm chúng tôi buồn, áo bạc màu, quần chó táp... không tới
cũng không làm chúng tôi mặc cảm. Làng này con gái đẹp nhiều lắm, nhiều khi
chúng tôi cũng thấy tiếc, phải chi mình có quần áo đẹp mặc lấy le với mấy
em chơi!
Ở Campuchia lâu ngày chúng tôi đã cảm được
cái duyên dáng mặn mà chân quê của các cô thôn nữ. Côn sơ-rây (con gái)
Campuchia tuy đen đúa nhưng nét mặt, nụ cười, ánh mắt rất nét, rất duyên, răng
trắng đẹp...
Một đồng đội của tôi, đồng chí Nghĩa, lính
nhập ngũ tháng 3/79 rất thích một cô Campuchia xinh đẹp, bà mẹ của cô ta thường
đùa, đưa độp tần-lâng đây me gã cho (tức là nộp mười cây vàng thì mẹ gã con
gái). Đùa vậy thôi chứ kỹ luật trên chiến trường Tây Nam không cho phép bộ đội
Việt Nam lấy con gái Campuchia, các bà mẹ Campuchia cũng biết luật này. Vì bộ đội
với dân rất gần gũi khăng khít, có gì cũng nói cho nhau nghe.
Thường thì sau buổi cơm chiều, hôm nào
không phải đi canh gát thì chúng tôi cũng quanh quẩn chẳng phải làm gì!
Tôi đến Sophi hôm trước thì hôm sau trời vừa
chạng vạng có một anh trung niên kéo tôi đi, anh kêu mô, mô, ý nói là đi theo
anh. Tôi xách súng đi theo mà lòng phân vân không biết xấu tốt thế nào, tôi với
anh chưa quen biết nên tôi còn có tư tưởng cảnh giác với anh, sợ anh là Pôn Pốt
dụ tôi đi theo rồi lừa thế đập đầu lấy súng của tôi.
Phum này rất an ninh, là cơ sở của ta xây
dựng chính quyền xã Sophi nên sự cảnh giác chỉ thoáng qua trong chốc lát mà
thôi và tôi vẫn tin cậy đi theo anh. Anh dắt tôi về nhà, dẩn tôi giới thiệu vợ
anh, rồi nói với tôi cái gì đó, ý như là nhận anh em kết nghĩa với tôi.
Tứ hải giai huynh đệ, tất nhiên là tôi nhận.
Tôi 20 tuổi, còn anh khoảng 30, dáng người khỏe mạnh, mặt mày chất phát, lâu
ngày rồi tôi không còn nhớ tên anh, nhưng tôi biết là anh rất quan tâm với tôi.
Tôi thích một cô gái Campuchia, cô làm thợ
may, ba cô người Việt, mẹ cô người Hoa. Dân Campuchia gọi người lai như vậy là
“Chênh”, thấy tôi ngày nào cũng sang nhà may của cô ấy chơi, anh chọc tôi xa
lanh bòn Chênh hơi, ý nói là tôi thương cô Chênh rồi.
Thương thì chắc là chưa thương, nhưng cái
rung động của một anh con trai trước một cô gái đẹp thì có rồi. Tôi 18 tuổi đi
lính khi chưa có một mảnh tình vắt vai, nay bước sang tuổi 20 cảm thấy tâm hồn
rung động trước một bông hoa xinh tươi miền thôn dã là điều tất nhiên thôi.
Cô gái này con ông già biết tiếng Việt vậy
mà cô không nói được tiếng Việt. Dưới thời Pôn Pốt nói tiếng Việt là tự mang bản
án đập đầu trước bọn Ăng-ca rồi, nên ông già cô dấu biệt tiếng Việt, do đó cô
chỉ biết nói tiếng Campuchia mà thôi.
Nhiều khi cô hỏi chuyện với tôi, cô chỉ
vào một món đồ nào đó, như là chỉ vào tấm vải cô đang may rồi hỏi Việt Nam tha
dang mach? Ý hỏi Việt Nam gọi là gì?
Vậy thôi, chúng tôi chỉ trò chuyên với
nhau chút đỉnh như vậy. Vậy mà về nhà nằm võng tôi lại nhớ ong ong trong đầu
cái câu Việt Nam tha dang mách của cô, để rồi hôm sau lại đến để tiếp tục câu
chuyện tha dang mách?
Mãi 29 năm sau, nay viết lại câu chuyện
này tôi vẫn bồi hồi xúc động. Xúc động vậy thôi chứ sự rung động lúc bấy giờ của
tôi chẳng là gì với cô gái đó cả. Trong khoảng thời gian tôi ở phum Sophi cô đã
tự động rời bỏ căn nhà cô ngồi may đó, để tôi lẻ loi tìm đến căn nhà này, ngồi
chơi với bà mẹ Campuchia. Mẹ nói tiếng Campuchia, con nói tiếng Việt, vậy mà
chúng tôi cũng hiểu được nhau chút chút, bà mẹ này thường nói với tôi về cái thời
kỳ gian khổ của mẹ trong chế độ Pôn Pốt, thiếu ăn. Nếu tìm được cái ăn thêm
(như cóc nhái hoặc củ khoai lang, khoai mì) thì phải ăn dấu, ăn giếm, lở à Pôt
nó bắt được, nó cắt cổ mổ họng, nhiều người bị như vậy rồi!
Một hôm bà mẹ Campuchia có cái nhà cho cô
Chênh ngồi may nói với tôi là có một bà mẹ muốn nhận tôi làm con nuôi, rồi bà dắt
tôi qua gặp bà mẹ nuôi của mình.
Đó là một bà mẹ Campuchia lớn tuổi, bà là
một tu sĩ, bà cạo đầu, mặc bộ đồ nữ tu màu trắng của Phật giáo nguyên thủy, bà
tên là Lênh, tôi gọi là me Lênh. Mọi người chung quanh gọi là dây Lênh (dây tức
là bà), vì cháu nội của bà cũng đã 16 tuổi rồi.
Nhà me Lênh nghèo, ông anh kết nghĩa của
tôi cũng nghèo, tôi thường được bà mẹ nuôi cũng như ông anh kết nghĩa cho ăn
khi thì vài trái xoài dú chín, khi thì điếu thuốc lá thơm, khi thì một nhúm thuốc
rê. Của thì ít nhưng lòng rất nhiều, dạt dào tình yêu thương chân chất, làm tôi
nhớ mãi đến ngày hôm nay.
Rồi chô chơ-năm thơ-mây đến, tiếng trống bập
bùng, tiếng đờn kèn rộn rã kéo chúng tôi vào vòng lễ hội. Đây là bài dân vũ
Campuchia thông dụng mà tôi thường được nghe, tôi xin trích một đoạn, tiếng
phiên âm thôi:
Oh Xơ-vai-chăn-ti, náry ôn ơi, cùm a vô
bơ-đây....
Chăm boong bang thơ-thây, boong tinh lang
thơ-mây ối ôn chi liền...
Tôi xin tạm dịch, đại ý:
Ôi Xơ-vai Chăn-ti, em ơi, hãy khoan lấy chồng.
Chờ anh giàu có, anh mua xe mới chở em đi
chơi...
Người dân Campuchia không ăn tết âm lịch
như mình, cái tết lớn nhất trong năm là chô chơ-năm thơ-mây. Cái nhà sàn cao và
rộng rãi của bà mẹ cho cô Chênh ngồi may, nay là tụ điểm cho các cô gái tụ hội
trang điểm. Chúng tôi cùng vào đó chơi, các cô hỏi có muốn xức nước hoa không,
có muốn trang điểm vẽ mặt không? Tất nhiên là chúng tôi trả lời là không. Rồi
các cô khúc khích cười kéo nhau vào buồng thay xiêm áo mới.
Dân Sophi khá giả, các cô gái ăn mặc lộng
lẩy, phấn son thơm ngát, mắt sáng long lanh, ngực nở eo thon, tràn đầy sức sống.
Đêm đó, lửa trại bập bùng, trống kèn rộn rả,
chúng tôi cùng mọi người bước vào vũ điệu lăm-thôn. Một cô gái xinh đẹp rạng ngời,
xiêm y rực rở, ánh mắt long lanh cùng tôi đối diện trong vòng tròn ca múa... Âm
nhạc làm chúng tôi sôi lên mà nhảy vào vòng, chứ thực ra tôi múa dở ẹt, điệu bộ
cứng nhắc vậy mà được múa chung với một cô gái đẹp nhất nhì trong hội, quả là một
diễm phúc bất ngờ.
Tôi thực sự ngẩn ngơ trước sắc đẹp của cô
nàng, sáng ra dò hỏi đồng đội cô gái đẹp hôm qua múa lăm-thôn với tôi là ai? Có
người biết chuyện, bảo với tôi rằng cô này là mê-mai (bà góa), đẹp lắm, trước bị
bắt làm vợ lính Pôn Pốt, nay thằng chồng chạy mất xác, chắc là chết rồi, hiện
giờ ở giá, gọi là mê-mai.
Trong thời gian ở Sophi, thỉnh thoảng tôi
có chạm mặt cô mê-mai này, cô nhìn tôi e lệ với đôi mắt sắc lẽm, nước da ngăm
đen, chúng tôi chẳng biết nói chuyện gì với nhau. Vì tôi có rành rẽ tiếng
Campuchia gì đâu, chỉ hiểu được khoảng vài chục từ ngữ thông dụng. Vả lại tôi
là con trai mới lớn, thấy gái đẹp là ngại, không dám làm quen, thậm chí tôi
cũng chẳng biết nhà cô này nằm ở chổ nào trong cái phum rộng lớn cấp xã này.
Qua cái tết được ít lâu, bỗng một hôm
trong đêm tối, chúng tôi nghe tiếng súng ì đùng từ phía Nam lộ 5 dội lại, tiếng
súng văng vẳng trong đêm khuya báo hiệu một điều chẳng lành!!!
Mà chẳng lành thật, ở nhà việc xuất quân
đi đánh Tà-cuông Krao của tiểu đoàn 3 bị bại lộ. Quân báo địch chắc chắn nằm
trong dân ở ngã ba Nimith, nó báo tin cho thằng Pôn Pốt ở Tà-cuông biết trước,
chúng dùng kế không thành, đang đêm chờ ta đưa quân vào trận, rồi xông vô tập
kích bất ngờ, tiêu diệt gọn một trung đội của đại đội 11... Bị đánh sau lưng,
tiểu đoàn 3 vỡ trận, các đại đội tự động rút quân, nhiều đồng chí lạc đội hình,
không tìm được đường về, chết khát trên trận địa.
Đại đội tôi có đồng chí Hóa, dân Thủ Đức,
nhập ngũ tháng 3/79, khi anh em mình ở tuyến sau xông lên tiếp cứu thì thấy đồng
chí ấy chết gụt trên đường rồi, vậy mà cứu lại được, nhưng sống dở, mất sức chiến
đấu, trung đội cho làm anh nuôi chuyên nghiệp đến khi ra quân luôn.
Trận này kiểm điểm lại thì thất bại cũng một
phần do thông tin bộ đàm đến giờ G lại bị tắt nghẽn, kế hoạch hợp đồng tác chiến
bất thành, tiểu đoàn không lệnh được đại đội, mạnh ai nấy đánh, mạnh ai nấy
rút... Thương vong lớn, không hoàn thành nhiệm vụ, chỉ huy các cấp trong đơn vị
bị trên xuống rủa te tua, bạc đầu, sói trán! Cả tiểu đoàn suốt ngày họp kiểm thảo
rút kinh nghiệm, rồi được trên đưa vào diện cũng cố để chuẩn bị bước vào một trận
đánh khác, qui mô lớn hơn... đó là trận công-xi-lốp do sư trực tiếp chỉ huy tác
chiến.
12. CĂN CỨ CÔNG-XI-LỐP
Chúng tôi ở Sophi được khoảng 3 tháng yên
lành thì có lệnh rút về trở về đại đội. Đang cao điểm mùa mưa 1980, trước hôm rời
Sophi tôi lên nhà me Lênh từ biệt mẹ. Trời về khuya, tôi xôm-lia me (tạm biệt mẹ)
rồi bước xuống cầu thang. Trời xui đất khiến thế nào, một con bò cạp chúa nó trốn
trời mưa lạnh lẽo, nó chui vào giày tôi nằm cho ấm cúng, tôi thọt chân vào, nó
giật mình chích tôi cái bụp.
Buốt ơi là buốt, nhức ơi là nhức! Cái nhức
buốt này đau hơn hẳn cái trái cối 60 ly của thằng Pôn Pốt đầu năm 1979. Tôi kêu
lên đau đớn, bà mẹ nuôi của tôi, anh con trai của bà, chị con dâu của bà đở tôi
lên sàn nhà nằm đó để bà chạy thuốc chữa trị cho tôi theo phương pháp y học dân
gian. Bà nhai lá thuốc rịt cho tôi, bà lấy trứng gà luộc lăn lên vết cắn cho
tôi, lấy khăn chườm mát cho tôi, lấy thuốc cho tôi uống...
Nọc con bò cạp chúa làm tôi sốt mê man,
chân sưng phù, to húp. Bà mẹ cứ lăn trứng, thay khăn chườm mát cho tôi, những
lúc tôi tỉnh dậy hé mắt ra nhìn thì thấy mẹ chong đèn ngồi đấy, suốt đêm lâm
râm đọc kinh cầu an cho tôi mau lành bệnh.
Tôi thực sự cảm động với tấm lòng thương
yêu tôi như con đẻ của bà, để rồi sang năm 1982, tôi lại trở về Sophi lần thứ
nhì để tìm tới nhà bà.
Trung đội rút quân về trước, để tôi nằm lại
nhà me Lênh điều trị, chờ lành mạnh thì về sau với mấy anh chuyên gia Việt Nam
đang ở lại trong phum tham gia xây dựng chính quyền xã.
Bệnh tình tôi thuyên giãm rất nhanh, sáng
ra thì tôi ngồi ăn cháo uống nước được, rồi tiêu tiểu, đi đứng bình thường, chỉ
có mu bàn chân phải chổ con bò cạp chích thì còn sưng. Được vài ngày, dân Sophi
đánh xe bò đưa chúng tôi rời phum ra lộ 5 để trở về đơn vị, đại đội 13 nay đã lại
chuyển về Sophia.
Cuối tháng 6/1980 gần như toàn bộ lực lượng
của trung đoàn 4 (trừ những đơn vị của tiểu đoàn 1 chốt ở Poipet) tiến quân vào
Đăng-cum hội quân với tiểu đoàn 2 để đánh một trận lớn vào căn cứ Công- xi-lốp
của lực lượng Sơ-rây Ka, một tổ chức vũ trang phản động của Campuchia thời bấy giờ.
Công-xi-lốp là một căn cứ nằm giữa biên giới
Thái Lan- Campuchia, đây là một khu vực nhạy cảm vì nó có một phần nằm trên đất
Thái Lan (hình như giáp với bản Nong-chan của Thái, nhưng vì lý do tế nhị không
thấy ghi trong sử sách nên tôi cũng không chắc, các bác trinh sát sư 5 nào biết
lên tiếng nhe).
Một buổi sáng cuối tháng 6 năm 1980, chúng
tôi xuất kích từ đầu phum Sophia trước sự
chứng kiến của dân làng, những bà mẹ Campuchia bằng ánh mắt đăm chiêu, thương cảm
đưa tiển những đứa con của mình ra trận. Chúng tôi hành quân hàng dọc mỗi người
cách nhau 10m, mấy trăm tay súng của tiểu đoàn trải dài trên đoạn đường nhiều cây
số, xen lẩn trong đó là các đại đội hỏa lực trực thuộc trung đoàn, tham mưu,
thông tin, trinh sát đủ cả. Đây có lẽ là một cuộc hành quân lớn nhất của trung
đoàn 4 từ sau ngày thành lập mặt trận 479.
Đường ra trận mùa mưa bùn sình lầy lội,
chúng tôi mang nặng gạo đạn trên vai để đi đánh trận dài ngày. Chúng tôi hành
quân tiến lên hướng Bắc rất chậm, đêm đó chúng tôi ngủ tại Đăng-cum và được
quán triệt nhiệm vụ là sẽ đánh căn cứ Công-xi-lốp bằng chiến thuật vây lấn (như
cách đánh Điện Biên Phủ).
4 giờ sáng chúng tôi được đánh thức, cho
ăn sáng, rồi kéo quân vào trận địa. Hướng tiến của tiểu đoàn bùn sình lầy lội,
trời sáng hẳn thì chúng tôi được lệnh dàn quân hàng ngang, tiến rất chậm và có
lệnh đào công sự chiến đấu. Sau đó, theo lệnh chỉ huy chúng tôi lại tiến lên từng
nấc một, mỗi nấc vài trăm, vài chục bước chân gì đó... cũng có những lúc chúng
tôi chạy việt dã trên địa hình lầy lội, ngã dúi dụi vì trơn trợt, hai trái lựu
đạn hơi MK3 dùng để đánh công sự đeo bên thắt lưng rơi lúc nào tôi cũng không
hay.
Đội hình cứ thế mà chầm chậm nâng lên, lên
mãi. Rồi đến xế chiều, tự dưng chúng tôi tiến vào một vùng đất đen, cao và khô
ráo. Chiến trường yên tiếng súng, chỉ thỉnh thoảng nghe tiếng cắc bùm, cắc bùm
của đạn bắn tỉa. Tôi áp vào một ụ mối, ụ mối này cũng đã có một đồng đội của
tôi chiếm lĩnh rồi.
Áp sát
ụ mối rồi, lợi dụng khoảng trống giữa hai thân cây to bằng cổ chân mọc
trên đỉnh ụ mối, tôi thò đầu vào đó đảo mắt nhìn trận địa đối phương, chưa kịp
thấy gì thì bên tai tôi nghe nổ một cái toát. Một thằng bắn tỉa đã chơi tôi một
phát, may mà không trúng, chỉ trúng cái cây mọc trên đỉnh ụ mối đó.
Chúng tôi đang ở trên một khu vực thoai
thoải cao hơn xung quanh, ụ mối tôi đứng cách tuyến phòng ngự của địch khoảng
100m, ở cự ly này chỉ cần hô xung phong chạy một phát là tới. Từ phía sau, tôi
thấy đồng chí Ê tiểu đoàn trưởng, tay cầm súng ngắn, tay cầm bản đồ, hiên ngang
đi tới, miệng hô:
- Lên đi, lên đi mấy em, tụi nó chạy rồi!
Thằng bắn tỉa chơi liền một phát, may
mà không trúng. Nhanh như cắt, đồng chí ấy
lủi vào ụ mối chửi:
- Đ.M nó còn!
Trời chạng vạng, chúng tôi dàn hàng ngang,
súng lăm lăm trên tay, đằng đằng sát khí tiến vào trận địa, không phải nổ phát
nào, thằng địch hoàn toàn tháo chạy, chiến thuật vây lấn thành công mỹ mãn.
Tôi đứng trên nóc chiến hào, ngắm nhìn trận
địa, hình như tôi thấy phía bên kia lố nhố bóng người, rồi thấy một trái B40
rơi đánh huỵch trước mắt tôi, tôi còn thấy nó nảy lên một chút, trượt tới một
chút rồi mới dừng lại. Không biết là tôi mơ hay tỉnh đây, chắc là mơ!!! Mình đã
chiếm lĩnh trận địa rồi mà, chẳng lẽ đồng đội lại bắn nhầm mình? Không nghe tiếng
nổ và không thấy chớp lửa đầu nòng từ phía bên kia, vậy chắc là mơ? Còn trái đạn
B40 rớt xuống, nảy lên, rồi dừng lại và nằm ngay trước mắt tôi nó là thiệt mà,
sao lại là mơ? Hôm nay viết chuyện này ra đây, tôi vẫn còn thắc mắc với trái
B40 này? Không biết có phải là nó đã rơi trước mặt tôi trên nóc chiến hào
Công-xi-lốp năm 1980 đó không? Hay là tôi ngũ mơ mà thấy vậy? Đây là lần đầu
tiên trong đời tôi thấy mình lẩn lộn giữa mơ và thật! Nhưng cũng cứ viết ra đây
cho mọi người chiêm nghiệm. Theo tôi nghĩ kỹ lại thì chắc là mơ... nhưng chẳng
lẽ ký ức một thời chiến tranh lại sâu đậm đến thế sao? Lại chui vào giấc ngũ đời
thường của tôi ngay tại một nơi chẳng dính dáng gì tới chiến tranh sao?
Trận này ngồi nghiệm lại, tôi thấy như là
mình dùng sức ép... cho nó rút vậy. Chúng tôi dàn quân hàng ngang xông tới,
túng thế thì nó rút chạy qua Thái Lan là xong.
Hướng tấn công của tiểu đoàn 3 trung đoàn
4 đại khái là như thế, tuy nhiên bên phía các đơn vị bạn và nhất là trên hướng
tấn công của trung đoàn 174 thì không phải đơn giản như vậy... Nhưng tôi thấy
không tiện khi viết ra đây những lời của lính tráng truyền miệng, sợ không
chính xác. Hy vọng là sau này sẽ có nhiều bài viết của lính 174 kể chuyện đời
lính cho mọi người cùng nghe và chiêm nghiệm thì hay quá!
Chúng tôi tuần tra một đoạn cái căn cứ
mình vừa chiếm được, tôi tiến vào một căn hầm chỉ huy bằng bê tông cốt thép, có
lỗ châu mai đàng hoàng (như công sự của Việt Nam cộng hòa trước đây) đồ vật
vương vãi... Tôi lấy một xấp giấy pơ-luya-pho còn mới cáu cạnh làm chiến lợi phẩm,
ý là dùng để viết thư về gia đình, có thuốc Tây nằm rơi vãi dưới sàn nhà, tôi hốt
lấy một mớ lọ thuốc Peniciline và một bộ đồ rằn ri của lính Pa-ra (sắc lính nào
mặc đồ rằn ri thì chúng tôi gọi là lính Pa-ra) còn mới cứng tôi cho vào ba lô
luôn. Bộ đồ này mặc ngầu lắm, nó lớn hơn hẳn so với khổ người của tôi (chắc đồ
viện trợ chiến tranh của địch), tôi có mặc nó vài lần rồi cho ai, hoặc đô
thà-nam chụa (đổi thuốc lá hút) lúc nào không nhớ.
Ngay lúc đó có lệnh di chuyển, nên tôi chỉ
thu được nhiêu đó. Đại đội tôi được bố trí tại một vùng đất ướt lép nhép ở bên
ngoài căn cứ, nhiệm vụ là chốt chặn đề phòng địch phản kích, sẳn xấp giấy
pơ-luya chiến lợi phẩm tôi lấy ra chia cho anh em lót ba-lô, súng đạn. Vậy là
không còn giấy viết thơ, nhưng không thành vấn đề, chỉ cần một cuốn tập 100
trang có hình cô gái Thái Lan xinh đẹp là đủ dùng cho tôi cả năm rồi.
Hoàn thành nhiệm vụ, trung đoàn 4 kéo quân
trở về với rất nhiều chiến lợi phẩm, hầu như toàn bộ gạo đạn của các nước đế quốc
viện trợ cho cái ổ phản động lưu vong, cái căn cứ kháng chiến của chính phủ
Xon-xan này bị chúng tôi tịch thu hết, có cả xe máy, tranh ảnh, tài liệu... Đó
là phần nổi để các xếp trung đoàn báo công, còn mấy cái linh tinh nhẹ nhàng như
quần áo, thuốc men, nhu yếu phẩm, các anh lính bộ binh chúng tôi nhặt sạch,
cũng chẳng làm giàu làm có gì, đô mia chút đỉnh dằn túi, có anh làm được cái nhẩn
“bây chi”, riêng đại đội tôi vì có lệnh đi chốt chặn sớm, nên tôi chỉ kiếm được
chút cháo như đã khai báo ở đoạn trên.
Tiểu đoàn 3 rút ra lập trận địa phòng ngự
tại một địa điểm gần căn cứ Công-xi-lốp vài ngày, rồi có lệnh phá hủy công sự,
rút quân trở về, sẳn mìn MK3 được trang bị lúc đánh Công-xi-lốp, lính tráng rút
chốt thảy vô hầm nổ ụp ụp cho sập xuống là xong.
Riêng đại đội tôi được phân công ở lại lập
trận địa phòng ngự tại một địa điểm khác cũng gần căn cứ gần Công-xi-lốp, trung
đội tôi được bố trí nằm bên tay phải một con đường bò từ trong nội địa của ta
đi đến cái căn cứ này.
Chúng tôi sống ở đây cũng khá đàng hoàng,
sáng dậy chúng tôi nấu nước pha trà uống lai rai. Rồi một sáng nọ chúng tôi
đang uống trà thì có một anh bạn C12 trên đường đi truy quét ghé vào uống nước.
Đó là anh Lê Hùng Dũng dân thành đoàn, nhập ngũ cùng ngày với tôi, học chung
trường huấn luyện tân binh, chung trường huấn luyện hạ sĩ quan, trước đây lại
làm việc chung cơ quan thành đoàn với chị tôi nên chúng tôi rất thân.
Tôi luôn coi anh là bậc đàn anh của mình,
tôi vẫn còn nhớ tháng 4/79, gặp anh bên bờ sông Tôn-lê-sáp, anh cho tôi 2m vải
katê xanh để tôi cột làm võng nằm đở. Vậy mà có nằm được đâu, khổ vải nhỏ quá,
dây võng không níu được, nó cứ tuột ra làm tôi ngã đập đít xuống đất mấy lần,
hôm sau đồng đội trong đơn vị kêu tôi lấy nó ra đổi cá ăn cải thiện... Cái ơn
nghĩa đó đến nay tôi còn vẫn nhớ.
Anh Dũng uống vài chén trà nhạt rồi dẩn tiểu đội đi tiếp...
Mấy tiếng đồng hồ sau, đồng đội
khiêng anh về trong cái võng màu xanh
quân đội. Đến chốt của tôi, tốp lính đó dừng lại vào uống nước, tôi hỏi:
- Ai vậy?
Có tiếng trả lời:
- Anh Dũng tiểu đội trưởng.
Có người nào đó trong đội nói:
- Anh này số chết, lẽ ra là tiểu đội trưởng
anh không phải đi đầu, vậy mà lúc gần tới Công-xi-lốp thì anh lại giành đi đầu,
bị lính Pa-ra nấp trong cứ bắn tỉa một phát, chết ngay tại trận.
Tôi lật võng ra nhìn, thấy mặt anh vàng bợt,
anh chết lâu rồi, xác đã cứng, dáng anh thư sinh, nằm gọn lỏn trong chiếc võng
hai lớp.
Mắt anh còn mở, anh chết trẻ và đột ngột
như vậy làm sao mà nhắm mắt cho yên được! Tôi vuốt mắt cho anh, thật lâu, thật
lâu. Cố làm sao cho cái hơi ấm từ lòng bàn tay của mình làm mềm mi mắt anh lại,
để anh nhắm mắt xuôi tay mà yên nghĩ.
Và rồi mắt anh cũng hơi khép lại. Nhìn anh
tôi thấy lòng mình bâng khuâng xúc động. Đậy võng lại, tôi chép miệng:
-Tại số thôi!
Cũng ngay trận địa Công-xi-lốp này, cách
nay mấy ngày tôi đã bị bắn tỉa mà không chết. Căn cứ này bị triệt thoái rồi, vậy
mà nay vẫn còn có thằng vào đó nấp mà bắn tỉa, hạ được anh. Không phải tại anh
vắn số là gì?
Than ôi, con người sống chết có số, một
đoàn viên ưu tú như vậy, một tiểu đội trưởng ngon lành như vậy, vậy mà vắn số!
Viết tới anh Lê Hùng Dũng, bỗng dưng tôi
nhớ tới khí thế của những quân nhân nhập ngũ ngày 03/12/1978, toàn là đoàn viên
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, trong đó có những cán bộ thành đoàn như anh Lê
Hùng Dũng, anh Nguyễn Văn Hoan (anh Hoan hy sinh năm 1979, đi truy quét bị lính
Pôn Pốt bắn chết trên một con đường sắt, tôi không chứng kiến tận mắt, chỉ nghe
anh em C12 nói lại), nhớ tới một anh bạn mặt mụn, anh tên Trung thì phải? Dáng
anh cao cao, gặp ai cũng kêu là Sáu Bảnh, anh có cùng tôi đi đánh cái trận
(hình như ở Âm-leng) cuối tháng 3/79, trận này D3 bị chết nhiều, không biết anh
có hy sinh không ? Tôi nhớ trước khi dàn quân vào trận đánh, anh cũng vác khẩu
B41 như tôi, còn đứng nói chuyện pha trò Sáu Bảnh, sau trận này tôi không gặp lại
anh nửa, hay là anh đã hy sinh trong trận đánh đó rồi!
Nhớ tới dân thành đoàn nhập ngũ ngày 3/12,
tự dưng tôi nhớ tới những bài hùng ca một thời được các anh cầm càn hát rôm rả
trên cái thao trường nắng đỏ da người của trung tâm huấn luyện Quang Trung cuối
năm 1978:
Cùng nhau đi hồng binh
Đồng tâm ta đều bước
Đừng cho quân thù thoát
Ta quyết chí hy sinh...
Các anh em bạn của tôi nhập ngũ ngày đó,
đã hy sinh nhiều lắm trong những trận đánh năm 1979, 1980 nay không biết có ai
thống kê xem còn lại được bao nhiêu người?
Tôi nhớ cái anh bạn tên Nguyễn Văn Mười Một,
nước da ngăm đen, trong thời gian ở trung tâm huấn luyện Quang Trung vẫn thường
cùng tôi tha thẩn đi chơi hoặc ngồi uống nước căng-tin nói chuyện đời thường.
Sáng chủ nhật hai đứa thường kéo nhau ra Vườn Tao Ngộ chơi, dù chúng tôi không
có người yêu, nhưng vẫn cứ ra đó, may ra gặp được người nhà. Anh ở đâu? Sao từ
ngày đi K đến giờ tôi không gặp lại anh, hai đứa mình đứt liên lạc với nhau khi
nào vậy cà? Tôi Hùng, còn sống đây, có gì liên lạc với tôi qua email
hung19602000@yahoo.com , tôi không thích nghe điện thoại, mỗi lần nghe chuông
điện thoại tôi mệt tim lắm, nên tôi không ghi số điện thoại ra đây, mong anh em
thông cảm.
Hồi thứ 13. PHUM PREAV
Chốt ở đường bò đó khoảng 1 tuần thì đại đội
13 được lệnh phá hủy công sự trở về Sophia, riêng trung đội tôi lại được phân
công chốt giữ phum Prê-ao nhằm bảo vệ từ xa trận địa pháo 105 đóng ở suối cạn,
hướng Bắc phum Sophia.
Prê-ao là một vùng đất cát nằm giữa trục
đường từ ngã ba Nimith đi Đăng-cum, từ Prê-ao đi theo hướng Nam 2km vể tới suối
sâu, đi tiếp 3km nửa là về tới suối cạn, đi tiếp 3km nửa là về tới phum Sophia,
vị chi là 8km. Phum Prê-ao có rất nhiều cây dừa, có cả những cây dầu cổ thụ
cành lá xum xuê, trung đội chúng tôi quân số khoảng trên 10 người chốt giữ ở
đây, trung đội trưởng là đồng chí Thành (anh em thường gọi là Thành bao tử, vì
anh thường hay lên cơn đau bao tử).
Phum Prê-ao bỏ hoang từ lâu lắm rồi, chắc
từ thời Pôn Pốt, nhà cửa chẳng còn cái nào nguyên vẹn, nhưng vật liệu xây dựng
từ các căn nhà hoang tàn đổ nát thì nhiều, chúng tôi vác những cột gỗ tròn to bằng
bắp vế làm nóc công sự hình chữ U cực kỳ kiên cố, lấy gỗ, tôn làm lán trại dã
chiến.
Vật liệu có sẳn, đất cát lại dễ đào, nên
chỉ trong một ngày là chúng tôi đã làm xong công sự chiến đấu và nhà ở. Hàng
ngày chúng tôi tổ chức đi truy quét lên hướng Bắc hoặc xuống hướng Nam một đoạn
vài cây số rồi quay về.
Không biết tại sao tiểu đội tôi lại thường
hay được phân công đi truy quét về hướng Nam. Chúng tôi đi một đoạn khoảng 2
cây số, đến khu vực suối sâu đứng nấp đâu đó, quan sát cảnh giới một chập rồi
quay về.
Về cách nhà chừng một cây số thì chúng tôi
đi ngang qua một rừng hoa dại mọc ven đường, tại chổ này có một thân cây bằng
lăng đổ, tôi thường dừng lại tại đó, cho anh em phân tán ra nghỉ. Cái cây này
thế nó ngã đẹp lắm, gốc nó nằm ven đường lộ, nó ngã vào bên trong vuông góc với
lộ, gốc nó lại to, cao tới thắt lưng. Nằm sau cái cây này tận dụng nó làm công
sự chiến đấu thật tốt, chỉ cần một người ngồi canh gát, còn lại toàn bộ nằm ngũ
cũng chẳng sao. Nói vậy chứ sao mà ngũ được, nhưng nằm ngắm cảnh thì tuyệt vời.
Tại đây, tôi thường cởi bao-xe đạn ra, lấy
nó gối đầu, mặt quay về hướng lộ, còn
mình thì nằm trên thảm hoa dại màu tim tím. Thảm hoa này mọc tập trung, khá rộng,
ra hoa thường xuyên, tôi ở Prê-ao một tháng, ra đây nằm thưởng thức hoa lá mây
trời cũng được vài lần. Hoa này tên gì tôi không biết, cánh hoa của nó mảnh mai
như sao nhái, hơi giống hoa cúc dại màu tím của mình nhưng chỉ thấp hơn chỉ cao
ngang đầu gối.
Nằm giữa thảm hoa, hai bên mắt tôi toàn là
hoa và lá, cảnh tượng thật nên thơ, rung động lòng người lính trẻ... Tôi ngước
mắt nhìn trời, tháng bảy mưa ngâu, trên trời mây trắng rất nhiều. Bầu trời
trong xanh, từng cụm, từng cụm mây trắng lửng lờ trôi, chúng tuần tự diễu hành
qua đôi mắt của tôi, thiên hình vạn trạng, không cụm mây nào giống cụm mây nào.
Nhìn trời xanh, mây trắng
Gió thổi hiu hiu, hoa lay lất phất...
Tôi cảm thấy đời lính của mình tuy gian
khó nhưng lúc này sao lại quá nên thơ, lãng mạn như một thước phim hay.
Có lẽ khoảng thời gian ngắn ngủi say sưa với
trời đất này, cái rung động trước cảnh ngàn năm mây bay này, nó đã thôi thúc
tôi quyết định về vườn sớm. Năm 46 tuổi tôi dứt khoát rời bỏ Sài gòn về quê tôi
ở Bến Tre sống, để hòa mình với thiên nhiên, thưởng thức trời, trăng, mây nước...
Nhưng cảnh vật thiên nhiên ở thị xã Bến Tre quê tôi lúc này đô thị hóa rồi,
không nên thơ đâu! Chỉ đáng vài điểm so với cái thiên đàng trời-mây-hoa-lá của
tôi ở Prê-ao 10 điểm.
Thường thì tôi chỉ nằm ngắm nghía cảnh vật
chừng mười lăm phút rồi kéo quân về. Mười lăm phút ấy biết bao nhiêu tình, tôi
đã từng dặn với lòng mình là phải miêu tả lại cho được cái cảnh đẹp rung động
lòng người này cho mọi người thưởng thức, nhưng không biết là tôi tả cảnh có
hay không? Chắc chỉ đáng vài điểm so với cảnh vật ngoài đời 10 điểm.
Ban ngày thì tôi làm bạn với trời mây, đêm
tối tôi lại làm bạn với tắc kè. Hàng đêm chúng tôi chia nhau canh gát cực kỳ
nghiêm ngặt, vì mình chốt độc lập, lạnh lưng nên rất cảnh giác! Một phiên gát
đêm rất lâu, tiểu đội chỉ mấy người, nên mỗi người phải gát tới mấy tiếng đồng
hồ. Đêm khuya thanh vắng, không gian cực kỳ tỉnh lặng, tôi đeo súng đi qua đi lại
chán, rồi kiếm chổ khuất mà đứng, đứng đã rồi kiếm chổ mà ngồi, đầu óc trống rỗng,
vô tư không lo nghĩ điều gì. Chỉ có mấy con tắc kè trên cây là bạn với tôi, thỉnh
thoảng nó lại kêu một tràng tiếng tắc kè, tắc kè...
Nhiều lúc tôi cũng để ý đếm xem tắc kè kêu
bao nhiêu tiếng, chẳn lẻ thế nào. Theo lời truyền miệng thì người ta thường đếm
xem tắc kè kêu bao nhiêu tiếng để đoán hên xui, tôi không biết cách tính hên
xui như thế nào, nên cũng chẳng quan tâm. Nhưng chẳng có việc gì làm thì đếm tiếng
tắc kè kêu cho qua ngày đoạn tháng, mà thực ra tôi cũng chẳng nhớ tắc kè kêu mấy tiếng. Hình như nó kêu nhiều
lắm, cả chục tiếng thì phải, không phải một con mà có tới mấy con thay nhau
kêu.
Tôi nhờ có mấy con tắc kè này làm bạn
trong khoảng thời gian hiu quạnh đó, nên giờ còn nhớ tới nó. Đã hai mươi chín
năm trôi qua rồi, mấy con bạn tắc kè này, nay chắc đã đầu thay chín kiếp!
Rồi một buổi sáng nọ, tôi dẩn tiểu đội của
mình đi thông đường về phía suối sâu. Chúng tôi đi hàng dọc, AK đi trước, hỏa lực
theo sau, cách nhau người 10m, cẩn trọng hành quân trong sự yên lặng, cảnh
giác. Đến suối sâu, tôi phân tán cho anh em đứng nấp sau các thân cây dầu to
ven đường mà nghỉ chân, cảnh giới.
Phía sau chúng tôi có tiếng ồn ào, một tốp
lính đang cáng bệnh từ trong tiểu đoàn 2 ở Đăng Cum đi ra K23 ở ngã ba
Nimith... Đột nhiên có một tràng tiểu liên AK quất thẳng vào cái đám người ồn
ào đó.
Ngay lập tức, anh bệnh binh đang nằm thiêm
thiếp trên cáng, bật dậy như lò xo, chạy thẳng một hơi vượt qua suối sâu về
Nimith, để lại mấy anh lính mang võng lót tót chạy phía sau, quay lại mếu máo
nói với chúng tôi:
- Đ.M nó bệnh sắp chết mà chạy còn nhanh
hơn tụi này!
Tôi mĩm cười lắc đầu chẳng biết nói sao.
Anh ta không có súng trong tay, tẩu vi thượng sách.
Chúng tôi lúc này cứng cựa rồi, ba cái vụ
tập kích nhỏ lẻ như vậy ăn nhằm gì, chúng tôi có hỏa lực mạnh trong tay, đã
trãi qua chiến trận, được huấn luyện chiến đấu bài bản... Và chúng tôi đang chờ
xem diển biến tiếp theo của trận tập kích này là gì?
Thằng Pa-ra coi vậy mà lại sợ, không dám
nhào ra chơi tiếp, nó co giò chạy thục mạng vào rừng sâu. Khu vực suối sâu lại
yên tỉnh, tốp lính tải bệnh lội qua suối sâu, đi tiếp về tuyến sau, còn chúng
tôi quay trở lại trận địa của mình trong trạng thái căng thẳng và thấy càng phải
cảnh giác hơn vì sự quấy rối vừa rồi.
Ta đang
ngoài sáng, còn địch trong tối.
Đi qua cây bằng lăng cổ thụ trốc gốc, qua
thảm cỏ hoa của mình, tôi chép miệng từ giả mày nhe! Tình cảnh này không thể nằm
ngắm trời-mây-hoa-lá nửa rồi, chúng tôi đi thẳng về nhà báo cáo tình hình.
Không phải bọn địch chỉ phá rối trên tuyến
đường này đâu, chúng còn có những hoạt động đánh phá khác, mạnh hơn... vào điểm
yếu cố hữu của bất kỳ đoàn quân viễn chinh nào, đó là đánh vào con đường hậu cần,
tiếp lương, tải đạn.
Đoàn xe hậu cần chở thực phẩm từ Việt Nam
sang tiếp tế cho chúng tôi ở tuyến trên bị phục kích... Kết quả là không có muối
phát cho bộ đội, thiếu muối lập tức
chúng tôi bị suy giãm về thể lực, vì lý do đó trung đội tôi được lệnh rút quân
về Sophia.
Chúng tôi cắt đường rừng về đại đội, chỉ 8
cây số thôi vậy mà đi từ trưa đến chiều mới tới, vì đường rừng khó đi, vì sức
khỏe anh em bị suy giãm. Nói sức khỏe kém là nói chung thôi, chứ riêng tôi, lúc
đó tôi thấy sức mình còn chịu đựng được.
Về đến đầu phum Sophia tôi thấy làng mình
lúc này coi bộ đông vui hơn trước nhiều. Công sự ngay đầu làng do một anh bạn
vui tính đóng chốt, đó là anh Minh heo, lính nhập ngũ tháng 3/79, tôi cũng
không biết tại sao anh có biệt danh này, nhưng coi bộ anh không buồn phiền gì lắm
với cái danh hiệu bất nhã đó.
Chúng tôi tấp vào chốt của anh Minh ngồi
chơi xơi nước, còn trung đội trưởng thì đi nhận địa điểm bố trí quân.
Nói đến cái chốt đầu phum Sophia tự dưng
lính tiểu đoàn 3 nhớ ngay đến nhà bà tiếng
Việt, bà này thực ra cũng còn trẻ, U40 thôi, bà có một cô con gái: chơ chuôn
Campuchia nước da đen dòn, hàm răng trăng bóc (chơ chuôn nghĩa là nhân dân). Cô
này xinh lắm, nhiều anh để ý, trong đó chắc là có anh Minh nhà mình. Anh cắm chốt
ở đó, ngay hậu phương nhà bà, cai quản luôn cái khu vực tắm rửa và vườn chuối
nhà bà, cái vườn chuối này hai mẹ con bà mỗi ngày vẫn thường hay ra... bứt cỏ
khi cần thiết.
Anh nằm đó, ngắm nghía cô em hàng ngày,
không biết có thấy gì không?
Nhiều chuyện vui lắm về mẹ con bà này
nhưng kể ra không tiện. Thấy mới tin, tôi chỉ kể chuyện mình thấy thôi, còn
chuyện lính tráng truyền miệng thì không dám viết ra đây, sợ không chính xác
anh em bắt lỗi.
Trong số những người ái mộ cô con gái bà
tiếng Việt này có tôi trong đó, nhưng tôi chỉ là fan hâm mộ thôi:
Vì cô trẻ trung, xinh xắn, nhỏ nhắn, xinh
tươi...
Chứ thật ra tôi thích cô khác.
14.
TÌNH CẢM QUÂN DÂN SOPHIA
Về lại Sophia trung đội chúng tôi được bố
trí ngay vào khu vực đầu phum, bên phải con lộ đất nối ngã ba Nimith đến
Đăng-cum. Phía sau trung đội tôi chừng 100m có 1 hồ nước nhỏ, núp sau lùm cây rậm
rạp, bây giờ lên Google Maps vẫn còn nhìn thấy nó nằm trong cụm 3 hồ nước nhỏ,
cái phum Sophia (không có tên trên bản đồ) nằm cách ngã ba Nimith 2 cây số qua
gần 30 năm tôi thấy ít thay đổi, có lẽ vì năm 1981 dân làng bị di dời, cái phum
này bỏ hoang, không ai rãnh mà vô đây san lấp, xây dựng, sửa chữa .v.v.
Từ ngày thành lập mặt trận 479 đến nay, tiểu
đoàn 3 luôn luôn được phân công là đơn vị cơ động của trung đoàn 4, chúng tôi
chốt ở đây kể như là hưởng nhàn, vì phum Sophia là khu vực trung tâm của trung
đoàn, không có địch... Tuy nhiên cái gì cũng có luật bù trừ của nó, chốt ở
Sophia thì sướng, nhưng ở yên không được bao lâu, vài tháng một lần chúng tôi lại
phải lên đường đi truy quét hoặc đánh điểm, hy sinh, gian khổ, hiểm nguy nhiều
lắm! Rồi từ từ tôi kể bạn nghe.
Tiểu đoàn 1 lúc đó chốt ở cửa khẩu Poi Pet
giáp biên giới Thái Lan coi vậy mà... êm, vì chủ trương của Thái Lan là không
trực tiếp đụng chạm đến Việt Nam, họ chỉ tiếp tay cho Pôn Pốt và các thế lực phản
động lưu vong của Campuchia đánh Việt Nam thôi. Chỉ có những cao thủ mới chơi
được nước cờ này: Kẻ thù của kẻ thù là bạn của mình. Bắc Kinh cũng chơi cái nước
cờ này: Nó nuôi dưỡng kẻ thù của Việt Nam để đánh Việt Nam. Chỉ tội nghiệp cho
những thằng lính chúng tôi gồng lên mà chịu trận!
Tiểu
đoàn 2 đóng ở Đăng-cum tuy vững như bàn thạch, nhưng bấy giờ cũng đang oải lắm,
vì hay bị địch quấy nhiểu, như cái kiểu thằng Pa-ra bắn lén vài phát ở suối sâu
kể ở chương trước. Nếu ta chủ quan khinh địch, ngũ quên trên chiến thắng, thì kẻ
thù xông vô làm thịt ta liền!
Nhận chốt, ổn định chổ ở xong xuôi, chiều
hôm sau chúng tôi lò dò ra phum chơi, cùng đi có anh Thạch trung đội trưởng. Từ
cái chốt của tôi, bước ra đầu phum chỉ khoảng hơn 100m là tới lộ. Tôi đi tà tà
trên trục lộ chính, được vài chục bước chân thì ghé vào một nhà dân. Nhà này
đang giã gạo, một cô gái dáng người cao ráo, ngực nở eo thon, vận chiếc áo sơ
mi trắng bó sát thân hình cân đối, đang đứng đạp cối.
Cô nhún lên cái cần giả gạo, để cần giả bật
lên theo nguyên tắc đòn bẩy, rồi thả lỏng chân ra cho cái chày nện vào cái cối.
Cứ thế mà giả cho hạt thóc tróc vỏ ra thành gạo.
Anh Thạch thấy gái đẹp thì muốn làm quen, kéo tôi vô liền,
xin cho coong tôp Việt Nam giả gạo với (coong tôp nghĩa là bộ đội). Cô cười
tươi, xin mời và né ra.
Tôi không rành tiếng Campuchia tất nhiên
là tôi phải giả gạo rồi! Còn anh Thạch thì đứng nói chuyện với người đẹp. Nói
chuyện một hồi thì cô xôm lia, và lịch sự mời chúng tôi ghé nhà chơi.
Chúng tôi ở đó giả gạo cho xong, nói chuyện
với bà mẹ Campuchia chủ căn nhà đó chút đỉnh rồi cũng xôm lia me chúng tôi đi.Vừa
rời khỏi nhà, anh Thạch rủ tôi tới nhà cô gái hồi nảy chơi đi. Tất nhiên là tôi
đi liền, bụng bảo dạ: Không phải chỉ mình anh thích cô ta đâu, tôi cũng thích
chứ bộ! Tướng tá cô đẹp như người mẫu mà đám con trai chúng tôi không thích thì
chắc là bị bệnh ghét đàn bà của mấy ẻm quá! Chúng tôi lính tráng, nam tính đầy
mình mà.
Thế là chúng tôi hiên ngang lên đường đi
thăm nhà người đẹp, nhà cô bên kia đường, theo con đường mòn nhỏ chừng 100m thì
tới. Căn nhà sàn của gia đình cô cao ráo, rộng rãi, vững vàng. Tiếp đón hai anh
em tôi là ba mẹ và anh trai của cô ấy, còn cô thì có vẽ e lệ, thục thò. Tất
nhiên thôi, con gái mà, chẳng lẽ gặp trai thì nhào ra tiếp chuyện liền sao?
Ở Campuchia thời điểm đó dân thương bộ đội
lắm, bộ đội tới nhà chơi, cả nhà ra đón. Rồi chúng tôi biết tên cô là Thêng, là
con gái thứ của gia đình. Cô có một người anh có vợ ở riêng gần đó và mấy đứa
em.
Số tôi số... hưởng, công anh Thạch làm quen
vậy mà tôi lại được cảm tình của cô Thêng và của cả nhà cô. Có lẽ do bận làm
quen với mấy em mê-mai khác chịu chơi hơn mà anh Thạch từ từ lui ra, để lại một
mình tôi thường xuyên lui tới nhà cô Thêng để chơi... với ba cô, với người anh
trai của cô và cái chính là để được gặp gỡ nói chuyện với cô.
Thỉnh thoảng cô mời tôi ở lại ăn cơm, mời
rất trang trọng, phi-xa bai boòng (Ở Campuchia phân biệt rõ 3 loại từ ăn, xi
bai là ăn cơm - tiếng thông dụng - thường chỉ nói với mấy đứa con nít, hốp bai
là ăn cơm - tiếng lịch sự - để nói với người đồng lứa, phi-xa bai là dùng cơm -
tiếng trang trọng để nói với người trênkẻ trước)... Tôi vẫn thường được ăn những
bửa cơm ngon tại nhà em Thêng, cơm gạo trắng giả tay ăn với canh cá nấu với mắm
bò hốc, rất ngon, rất đậm đà.
Có một lần tôi còn được anh trai cô ấy mời
dùng cơm với món đặc sản là canh thịt gà nấu mắm bò hốc và lá cần sa (một loại
lá hút gây ảo giác như ma túy). Lá cần sa ở Campuchia rẻ thôi, mười bath (tiền
Thái) một bó, (bằng giá vài gói thuốc lá thơm). Lá cần sa giống lá tần ô, dân
Campuchia lấy lá cần sa nấu canh như mình nấu canh rau tần ô với cá thác lát.
Món canh đó ngon lắm, tôi chỉ được thưởng thức một lần trong đời, nay hương vị
ra sao tôi chẳng tài nào nhớ nổi.
Do thấy tôi đàng hoàng, chửng chạc, nên ba
em Thêng rất quí tôi, ông thường ngồi tiếp cơm tôi trên phòng khách, bát đĩa trắng
tinh được em Thêng dọn ra trang trọng. Tôi dùng cơm với ông mà bụng dạ để ở nhà
dưới, nơi em Thêng đang ngồi ăn với mẹ và mấy đứa nhỏ, có lần tôi ra nhà sau rửa
miệng, lấy nước uống, thấy em Thêng đang ngồi bốc cơm ăn rất ngon lành, gặp tôi
em lúng túng, mắt lúng la lúng liếng, miệng lúng ba lúng búng, mời phi-xa bai
boòng... Thì ra cái mâm cơm tôi ăn với ông già trên phòng khách thuộc loại mâm
cao cổ đầy, còn nhà dưới chỉ ăn cơm mắm, bốc tay, qua ngày thế thôi! Tôi tuổi
trẻ vô tâm, chưa lịch duyệt sự đời đã từng ăn uống nhiều lần món ngon, vật lạ của
các ba, các mẹ, các anh, các chị Campuchia mà chưa lần nào bày tỏ được một tiếng
or-cuôn trân trọng tận đáy lòng để người cho hả dạ.
Cái công chúng tôi đổ mồ hôi xương máu
đánh đuổi Pôn Pốt đã được người dân Campuchia đền đáp hậu hỉ bằng chính miếng
ăn của họ. Hơn hẳn cái sự đãi ngộ của các cơ quan thẩm quyền của Việt Nam đối với
chúng tôi khi về nước. Huân chương họ cũng xù luôn không cấp... tất nhiên đây
là lỗi của mấy anh làm chính sách, chứ theo chính sách thì tốt lắm, lính hoàn
thành nghĩa vụ ở K về đều được thưởng huân chương.
Nghĩ mà buồn cho thế thái nhân tình, đối xử
với những người lính chiến như thế, hỏi khi hữu sự ai dám bỏ mạng cho mình, hay
nó sẽ chạy tét ghèn như đám lính Pa-ra ở Công-xi-lôp, để lại nguyên cái kho hậu
cần mời anh xơi... Đây thuộc phạm trù tư tưởng đấy, mấy anh chính trị viên đại
đội rất hiểu điều này, nhờ vậy được lính nể, ra trận hô xung phong thì lính
tráng hò nhau xung phong, biết rằng ăn đạn, đá mìn cũng lên... Trong quân đội
cũng có một số anh ù lì, tục tạt, nhưng số này ít thôi, bị anh em ghét bỏ như
chó, vì nó không làm thì anh em phải làm, cuốc xẻng phát từ dưới phát lên mà.
Thế mới biết tại sao bộ đội tình nguyện Việt
Nam ở Campuchia lại nặng tình với dân Canpuchia nơi họ đóng quân như vậy. Vì họ
đã được đối xử rất NGƯỜI, được dân thương yêu đùm bọc cơm áo, nghĩa tình.
Nợ tiền không nặng.
Nợ cơm áo, nợ nghĩa tình, mới là nặng nợ!
Đang là cao điểm mùa mưa năm 1980, nên lúc
này tiểu đoàn 3 ít khi phải đi đánh trận, chỉ ở nhà cũng cố hầm hào, luyện tập
kỹ chiến thuật... Chúng tôi được huấn luyện kỹ thuật đặc công, học cách di chuyển
trong đêm, thu gọn thân mình, chân bước ngang, đầu không nhấp nhô... để thằng địch
ngồi gác không phát hiện được. Chúng tôi còn được tập cách di chuyển trong
kinh, rạch, đồng lầy: Hai ngón chân của anh đi sau kẹp nhượng chân của anh đi
trước không cho bùn rớt xuống gây tiếng động. Chúng tôi còn được dạy cách mặc
quần đùi, cởi trần bôi than, hóa trang cho phù hợp với địa hình, bò trên trận địa
gở mìn, đột nhập căn cứ địch, đánh bộc phá mở cửa mở .v.v. Những kỹ thuật đặc
công này nó làm cho những người lính chúng tôi thấy mình trưởng thành lên rất
nhiều và thấy càng khâm phục hơn những anh lính đặc công tinh thông kỹ thuật đột
nhập, ra vào trận địa địch như chổ không người.
Có những ngày mưa nghỉ, hoặc sau thời gian
tập luyện... mát trời đi chơi, chúng tôi lũ lượt kéo nhau ra dân. Gia đình ruột
của tôi tất nhiên là nhà ba má em Thêng, ông Thư già thì chúng tôi đã gán cho
bà tiếng Việt, chú Lợi trố thì kết nhà mê-mai Phương, anh Sau thì có mê-mai
Phon, chú Thái liên lạc có me Liên, chú Cử thì chị nuôi là boòng Mit .v.v.
Dân rất thương yêu bộ đội, cánh đàn ông mà
tiếp bộ đội thì cái quí nhất của họ là rượu, thì họ đem rượu ra cho uống. Những
khi đi thăm nhà cô Thêng, ngang qua nhà anh cô, có rượu mới cất thì anh cô
Thêng lấy cái cà-toong ra (cà-toong về hình thức thì hơi giống như cái ngăn
gò-mên cơm bên mình) múc từ trong khạp ra nửa cà-toong rượu, mời tôi uống
samaki, không uống là không samaki.
Rượu gạo do dân Sophia nấu uống rất đằm. Uống
vào có cảm giác êm, ngọt hậu, thơm ngon, không nặng đô như rượu Nàng Hương đóng
chai, uống xong phải khè một cái cho bớt nồng! Nó ngon như rượu đế Gò Đen cao cấp...
tửu lượng kém như tôi uống 1 xị tỉnh bơ, 2 xị thì vừa đủ, xung lên 1 lit cũng
chơi... nhưng ói! Tiếc thay thời trai trẻ, có sức lại không có rượu để uống,
nay đau bao tử kinh niên, gặp rượu là sợ!
Đúng ra uống rượu và biết cách uống rượu
có cái hay là nó tạo cho mình thêm dạn dĩ, dễ xóa bỏ khoảng cách xa lạ ban đầu,
để anh em thân nhau hơn, hiểu và thương nhau hơn... Giống như tôi và các bác
quansuvn.net đây, sau này có gặp nhau, tuy là chiến hữu K hội ngộ, nhưng cảm
giác xa lạ lúc đầu sẽ làm chúng ta lượng sượng... thế mà chỉ cần nâng ly lên uống
vài tua thì chúng ta sẽ dạn dĩ lên, bổ bả hơn, không khách sáo nửa... thì thì
chúng ta trở thành bạn thân được rồi đó. Chúng ta có một yếu tố cực kỳ quan trọng
để trở thành bạn thân vì có máu lính trong người, có sự đồng cảm sâu sắc với sự
hy sinh gian khổ mà những người lính ở chiến trường K chịu đựng.
Do không rành tiếng Campuchia, hơn nửa
tính tình tôi chửng chạc, thương ai để ở trong lòng, không nói ra, không tán tỉnh
nên tình cảm của tôi với cô Thêng vẫn như bạn bè, không tiến triển. Điều này
cũng có cái tốt, tôi và cô được tự do đi lại theo con đường của mình, không ai
ràng buộc ai. Ba mẹ cô thương tôi như con đẻ, anh em cô đối xử với tôi quá sức
tình người! Vậy là tốt quá rồi, đòi hỏi gì nửa? Năm 1981 phum Sophia bị giải tỏa
trắng, tôi cũng mất cô Thêng luôn cho tới nay. Nay chắc cô cũng già như tôi, có
khi là cô có cháu nội rồi. Hy vọng là vẫn còn dáng người và nét đẹp như xưa. Tuổi
thọ con người ngày được nâng cao, 50 chưa gọi là già được.
Thực ra, giữa mùa mưa 1982 tôi đã từng cất
công lội bộ cả ngày đường từ căn cứ hành quân Năm-sấp ở sâu trong Nam Cao
Mê-lai ra thăm cái phum Sophia bị di dời ra ven đường quốc lộ số 5 cách ngã ba
Cốp-tút vài cây số.
Hôm đó, tôi xung phong đi chợ mua nhu yếu
phẩm cho trung đội với một ý nghĩ là kết hợp thăm dân Sophia, luôn tiện tranh
thủ tìm kiếm dáng hình người đẹp tên Thêng của mình. Tuổi trẻ đa tình, tôi chấp
nhận lội bộ đi về 40 cây số với một mục
đích ba trong một như vậy và háo hức lên đường bất kể nắng mưa.
Chúng tôi từ Năm-sấp đi ra Tà-cuông Krao,
đoạn này chỉ vài cây số thôi, từ Tà-cuông ra Cốp-tút dài vằng vặc, đi trên con
đường đất đắp trên địa hình trảng thấp, thỉnh thoảng nhảy xuống lội mương vì
không có cầu bắt qua các dòng chảy cắt ngang con đường. Hai bên đường là đồng
ruộng mênh mông của đồng bằng Batttambang trù phú. Đang là thời chiến, trên trục
đường này không có người ở. Trời trưa nắng gắt trên đầu, chúng tôi ráng đi đến
bóng mát của đám mây đen trước mặt để được che nắng, đi hết bóng mát, chúng tôi
lại đuổi theo cái bóng mát của cụm mây đen tiếp theo mà rong ruổi đường trường.
Đến Cốp-tút chúng tôi mua vài thứ lặt vặt
cần thiết theo đơn đặt hàng của anh em trong trung đội, rồi đi tiếp, mãi đến
chiều mới vào đến cái phum Sophia bị di dời ra đường quốc lộ.
Vào một nhà quen của anh bạn trong nhóm
nghỉ ngơi, ăn uống và ngủ qua đêm nơi đó. Chủ nhà có nói cho chúng tôi biết là
đêm qua ở phum này đã xãy ra một vụ cướp, đang đêm cướp xách súng xông vào nhà,
nên tình hình lúc này không được an ninh. Chúng tôi nghe vậy thì biết vậy,
không nghỉ ngợi gì về vấn đề an ninh trong vùng, chúng tôi có súng trong tay, sợ
gì cướp bóc chô phơ-lon.
Vậy mà ngũ có yên đâu, đêm đó một anh
chuyên gia Việt Nam cấp xã, kéo theo khoảng
mười tay súng đến bao vây nhà chúng tôi đang ngũ, rồi lên tiếng gọi cửa.
Từ trên nhà sàn, chúng tôi bước xuống tới
đất thì thấy mình đã bị bao vây tứ phía rồi, anh lính chỉ huy trong bọn nói:
- Chúng tôi đến kiểm tra các anh.
Tôi hơi bực:
- Kiểm tra cái gì? Chúng tôi trong Năm-sấp
ra đây đi chợ cho đại đội, rồi đi thăm dân không được sao?
Nghe nói từ trong căn cứ Năm-sấp ra, anh
chuyên gia dịu giọng:
- Đêm qua có lính vào nhà dân ăn cướp, chúng tôi có trách nhiệm bảo vệ cái phum này.
Mấy anh theo tôi về.
Tốp lính đó kéo nhau đi, chúng tôi đi theo
mà cảm thấy bức bối trong lòng. Người chủ nhà cũng ái ngại, nói gì đó với anh
chuyên gia Việt Nam. Anh gật đầu trấn an họ, kiểu như là không có gì đâu, tôi
đem mấy anh này về thôi mà.
Về trạm chốt của chuyên gia, họ điện thoại
về chỉ huy của chúng tôi ở Năm-sấp để kiểm tra tông tích chúng tôi, được đơn vị
tôi xác nhận là có cho 4 anh lính này về Cốp-tút đi chợ. Chúng tôi ở đó đến
sáng thì kéo nhau trở về cái căn cứ trong thâm sơn cùng cốc của mình...
Vậy là tôi phải bất đất dĩ xa dân Sophia
và em Thêng từ cái đêm hôm đó. Đến nay ngồi viết truyện, thấy bồi hồi, nôn nao
trong dạ, thấy thương cái phum vì chiến cuộc mà phải di dời ra ven đường quốc lộ,
không có cây trái huê lợi gì cả, cái phum trơ trọi, lỏng chỏng trên đồng ruộng
mênh mông nước hai bên lộ 5, mùa mưa năm
1982.
15. MỘT TRẬN VẬN ĐỘNG CHIẾN
Gần cuối mùa mưa 1980, trong khoảng thời
gian chúng tôi đang học kỹ thuật đặc công thì được thông báo là chuẩn bị đón
lính Pa-ra ra hàng theo chủ trương hòa giải - hòa hợp dân tộc của chính phủ
cách mạng Campuchia... Và bọn chúng ra hàng thật, chúng tôi thấy từng đoàn lính
Pa-ra vui vẻ kéo nhau trở về theo chủ trương của chính phủ Hun-xen, chúng đi
qua đội hình đóng quân của chúng tôi như chổ không người, vì chúng tôi đã được
thông báo trước nên án binh bất động nhìn chúng đi qua, dửng dưng!
Lính Pa-ra vô chính phủ lắm, thằng nào
hàng thì hàng, thằng nào đi ăn cướp thì cướp... Một sáng nọ, đại đội chúng tôi
đang dàn quân luyện tập chiến thuật thì có lệnh xuất kích vì được tin lính
Pa-ra xuất hiện trên đường buôn ăn cướp ở khu vực đường bình độ (tức là khu vực
đất nổi cao hơn xung quanh) gần suối cạn, cách phum Sophia 3km về hướng Bắc.
Chúng tôi vận động nhanh ra đó thì phát hiện
mục tiêu, trung đội tôi được lệnh vận động qua đường, phát triển dọc theo bên
kia đường không cho địch dạt qua đó, số
còn lại thì dàn hàng ngang và phát triển dọc theo mé bên này đường để lùa địch
vào vòng.
Địch chỉ có hai thằng, bị chận đánh hai
bên đường, như cá nằm trên thớt, nó hết đường chạy nên núp vào ụ mối cố thủ. Từ
bên kia đường, tôi thấy rõ ràng đại đội phó Vi đứng hô khẩu lệnh: B41, thước ngắm
100, bắn. Tuân theo hiệu lệnh, đồng chí Long xạ thủ B41 thổi vô ụ mối một phát
bùng bình liền, hai thằng Pa-ra chết ngay tại trận. Do tôi đứng phía bên kia đường
bò nên không thấy hai thằng kia chết ra sao, chỉ thấy anh em chạy lên thu chiến
lợi phẩm, nhưng không được xài, vì bị đồng chí Tý chính trị viên đại đội bắt nộp
về trên.
Trận này không tính thành tích vì trên xác
định hai thằng lính này thuộc loại lính ra hàng, tranh thủ ra đường buôn kiếm
chút cháo làm vốn trước khi về làm dân, xui cho nó mới ra ăn cướp, chưa kịp chạy
thì bị chúng tôi làm thịt.
Mấy thằng Pa-ra này bị chúng tôi làm thịt
trên đường buôn hoài, có lần chúng tôi vận động ra tới nơi thì thấy có mấy thằng
nằm đó rồi, đã có một toán lính nào đó ra tay trước, toán lính chúng tôi đâu phải
tay vừa, khi xung phong qua đường, tiện tay lại bắn găm, bắn gần, bồi thêm mấy
phát rồi mới tiếp tục hành tiến.
Sau này coi phim hành động, chúng ta thường
thấy cảnh một nhân vật bị bắn gụt nằm tại trận, chờ bên kia chạy qua, rồi bật dậy
cầm súng bắn theo, hạ gụt đối thủ, thấy quá xạo! Gặp tay tôi (hoặc bất kỳ người
lính Việt Nam nào) thì chúng tôi cũng phải bắn bồi thêm vài phát cho chắn ăn,
khỏi sợ bị đâm sau lưng chiến sĩ, rồi mới tiếp tục vận động tiến lên phía trước
theo tiếng gọi bầy đàn.
Nói chung trong năm 1980, tại khu vực ngã
ba con voi trên hướng Bắc lộ 5, tiểu đoàn 3 hoàn toàn làm chủ tình thế, lính
Pa-ra nghe danh là sợ, từ chạy trốn tới đầu hàng.
16. MỎ VẸT
Cuối năm 1980 đại đội 13 lại chuyển về Don
Thomo, sau đó chúng tôi nhận lệnh đi truy quét sâu trong khu vực mỏ vẹt ở phía
Nam phum Viêng, nơi đặt bản doanh của trung đoàn bộ. Chúng tôi đi theo con đường đê bị vỡ - do
lính Pôn Pốt gài mìn phá hoại trước đó - để vào mỏ vẹt.
Mỏ vẹt là một mũi đất của Thái Lan (có
hình dạng giống như cái mỏ của con vẹt) thọc sâu vào nội địa của Campuchia, tàn
quân Pôn Pốt ẩn náo ở đó và thường hay tập kính hỏa lực vào các đơn vị trực thuộc
trung đoàn bộ.
Có lần, chúng tôi ra thế chốt cho một đại
đội trực thuộc của trung đoàn 4 đi làm nhiệm vụ. Đơn vị này đóng ở phía Bắc lộ
5, gần chổ mà đại đội chúng tôi đã từng chốt hồi mới đến phum Diêng tháng 4/79,
nơi có bộ xương khô mặc đồ bà ba đen nằm nhe răng nhát ma bộ đội.
Đêm đó thằng Pôn Pốt từ trong mỏ vẹt ra tập
kích chúng tôi. Đầu tiên nghe bùng bình một tiếng, sau đó là tiếng tiểu liên
AK, rồi tiếp tục nửa là tiếng cối nổ oành, oành. Tôi và đồng chí Hạn, lính nhập
ngũ 3/79 nằm úp người trên nền đất ẩm ướt mà chịu trận, mà nghe tiếng đạn bay,
cối nổ...
Mấy thằng này bắn dở, đạn AK thì bay quá
nóc nhà, cối toong thì trật hướng, chúng tôi nằm kế bên cái công sự hình chữ U
đầy nước... nhưng chẳng thèm nhảy vào đó làm chi cho thêm dơ dáy, vì hỏa lực của
Pôn Pốt giả không trúng đội hình của mình, có trúng chăng thì trúng cái sân...
chào cờ của đại đội ở phía trước.
Các đại đội cối pháo của trung đoàn lập tức
lên tiếng, hỏa lực của ta rót trả ngay vào cái mỏ vẹt đó. Chuyện này xãy ra như
cơm bửa, riết rồi cũng nhàm, hình như những cuộc tập kích kiểu này chỉ gây căng
thẳng chứ khó gây thương vong cho ai.
Chắc chắn là mấy anh Thái biết chúng tôi
vào mỏ vẹt (làm gì không có quân báo Thái Lan nằm ở ngã ba con voi này), anh lấy
làm khó chịu, anh cho máy bay trinh sát L19 bay tuần tra cái mỏ vẹt, tất nhiên
là trên phần đất nhà anh. Anh bay vè vè trên đầu chúng tôi, anh dòm dòm, ngó
ngó.
Chúng tôi phát hiện L19 ngay bởi tiếng kêu
è è của nó. Chúng tôi dừng đội hình hành quân tại chổ, ẩn vào các gốc cây rừng.
Có rừng cây che khuất, dễ gì anh thấy tôi, anh bay khuất tầm thì chúng tôi đi
tiếp.
Từ Mỏ Vẹt chúng tôi đi dọc theo đường biên
giới, truy quét sâu vào khu vực Cao Mê-lai, rồi vòng lại, cho đến một hôm ra đến
chân một cây cầu cháy bắt qua một con suối lớn ở sâu trong hướng đuôi con voi
Nimith thì dừng chân.
Tại cầu cháy, chúng tôi nhận được thư nhà
và nhu yếu phẩm. Những điếu thuốc lá Đà Lạt lúc đó sao mà đậm đà thơm ngon đến
như vậy, hút chỉ một điếu mà cảm thấy đầu mình lâng lâng như say thuốc. Chúng
tôi nghỉ ngơi tắm giặt ở đây sau nhiều ngày chịu khô hạn ở trong rừng.
Cũng tại cây cầu cháy này tôi lần đầu tiên
trong đời tôi biết thế nào là đĩa đeo, tôi thấy trong bẹn mình ướt ướt, lạnh lạnh,
nhớt nhớt rờ vô thì thấy chảy máu, loãng thôi, định thần nhìn kỹ thì ra tôi bị
đĩa đeo trong lúc tắm suối, tôi nắm lấy con đĩa từ từ lôi ra, máu chảy ra theo
nó tức thì, sẳn gói thuốc lá Đà Lạt mới lãnh đang hút dở trong túi, tôi xé ra nửa
điếu lấy sợi thuốc đắp lên vết cắn, mãi hồi lâu vết cắn mới khô miệng, kéo mài.
Sau đó chúng tôi được lệnh quay về, khoảng
nửa đêm hôm đó chúng tôi mới về đến Don Thomo. Đợt hành quân này kết thúc năm
1980 nhiều kỷ niệm.
Gió bấc lạnh từng cơn thổi về, chúng tôi
đang đóng quân ở Don Thomo, cực Tây Bắc của lãnh thổ Campuchia, tại một địa điểm
có độ vĩ Bắc là 13 độ 40 phút, ngang với ranh giới tỉnh Phú Yên và Bình Định của
Việt Nam. Hình như ở vĩ độ này (cao hơn hẳn thành phố Hồ Chí Minh và đồng bằng
sông Cửu Long) thời tiết cuối năm lạnh hơn thì phải?
Những đêm giáp tết âm lịch năm đó trời lạnh
lắm! Chúng tôi khuân về từng gốc cây dầu khô đường kính cở bắp vế, đốt lên và
ngồi quanh lửa hồng sưởi ấm, anh nào đi ngũ thì xách một thùng than cây cháy đỏ
vào lán của mình, để dưới vạt giường mà nằm cho ấm.
Tình hình Don Thomo yên tỉnh nên chúng tôi
mới dám đốt lửa sưởi ấm kiểu này, chứ ở Đăng-cum thì không dám đâu, ăn đạn B40
liền!
Hàng ngày chúng tôi vẫn thường xuyên tổ chức
đi truy quét ra phía trước đội hình, có lần cả đại đội chúng tôi đi xa lắm, qua
khỏi rừng cây xanh, đến một con đường lớn và trống trãi (không phải đường bò,
vì nó bằng phẳng, trong khi đường bò thì nó hằn vết bánh xe bò). Con đường này
ăn sâu trong cánh rừng thưa trụi lá, thấy dấu vết của lính tráng phía bên kia để
lại trên đường, nó vẽ chữ giun nghệch ngoạc cái gì đó...
Chúng tôi đi đến đó là muốn hết tấm bản đồ hành quân của đại đội, chiều chúng tôi lên họp
giao ban, cùng các anh chỉ huy đại đội lật bản đồ ra xem mà cứ thắc mắc mãi về
những cái dấu vết địch để lại trên cái con đường này...
Và chúng tôi đã ăn cái tết đầu năm 1981 tại
cái Giếng Đá đó một cách êm thắm.
Hồ thứ 17. MỘT TRẬN TẬP KÍCH ĐIỂN HÌNH
Cuối tháng 2/1981 tiểu đoàn chúng tôi được
lệnh xuất quân tập kích căn cứ
Ang-sa-la-tức của lực lượng Sơ-rây-ca, nằm ở hướng Bắc lộ 5, chắc gần phum
Đăng-cum của tiểu đoàn 2.
Căn cứ này đã bị cấp trên chúng tôi ngắm
nghía từ lâu, trinh sát kỹ lắm, chỉ huy đại đội đều được dắt đi điều nghiên thực
địa trước. Tôi biết điều này qua 1 sự kiện sau: Sáng sớm một hôm nọ, trung đội
tôi được điều đi cáng xác tử sĩ về, anh này tên Thao, trinh sát tiểu đoàn, nghe
nói mới 17 tuổi, trong khi thi hành nhiệm vụ thì đá phải mìn, chết ngay tại trận.
Các anh chỉ huy lấp xác trong bụi, rồi tiếp tục trinh sát trận địa địch, sáng
ra kêu trung đội tôi đi lấy xác về.
Chúng tôi hành quân vào lúc nửa đêm, ưu
tiên trang bị hỏa lực mạnh, tôi là tiểu đội trưởng vẫn phải mang B40 với 6 trái
đạn. Cuộc hành quân được chỉ huy rất bài bản, trước khi lên đường, lính tráng
phải chạy khởi động tại chổ xem có va chạm, phát ra tiếng động không. Chúng tôi
đang đóng quân ở Don Thomo, sâu trong cánh rừng dầu phía Bắc phum Viêng, trận
ra quân đầu năm này hoàn toàn bí mật, một yếu tố cực kỳ quan trọng trong chiến
đấu.
Đang vào đầu con trăng hạ tuần tháng
giêng, chúng tôi lặng lẽ đi trong gió mát, trăng thanh, không mang gạo, chỉ
mang đúng 1 cơ số đạn nên hành quân rất thoải mái, đi chừng 2 tiếng là đến điểm
phân chia đội hình, từng đơn vị được trinh sát dẩn vào vị trí xuất kích của
mình.
Đây là một trận tập kích cấp tiểu đoàn có
tăng cường hỏa lực cực kỳ bài bản, như một buổi diễn tập chiến thuật, sau đây
là diển tiến trận đánh:
4 giờ sáng, nằm trên hướng xuất kích của
mình, bên hông ụ mối, dưới ánh trăng hạ tuần, nhìn lên phía trước, tôi thấy rõ
thằng lính gác ngồi hút thuốc lá đỏ rực. Đã gần hết đêm, đây là thời điểm người
ta chủ quan nhất.
Đến giờ G (đúng 4 giờ sáng), cối pháo các
loại đi theo bộ binh khai hỏa đồng loạt mở màn trận tập kích, theo kế hoạch hợp
đồng tác chiến, hỏa lực bộ binh cùng tham gia bắn hủy diệt trận địa địch... Tôi
nằm trên mặt đất mát lạnh, gióng khẩu B40 vào hướng thằng lính hút thuốc khi
nãy, thổi liền cho nó một phát.
Hỏa lực tập kích vẫn còn vang dội, tôi
bình tỉnh nạp thêm một quả B40 nửa vào nòng nhắm vào hướng địch mà mình đã canh
me sẳn, bồi thêm phát nửa. Đạn không nổ! Đúng theo bài bản được huấn luyện, tôi
bình tỉnh đợi một chút, sợ hạt nổ bị ẩm phát hỏa chậm... Không động tỉnh gì, vậy
là hạt nổ bị lép! Tôi lôi nó ra, xoay quả mới vào, bắn tiếp một phát, thì có lệnh
xung phong.
Cả đoàn quân bật dậy hò nhau xung phong
mãnh liệt, chúng tôi dàn hàng ngang, hướng lên phía trước, theo tiếng gọi bầy
đàn mà chạy, vừa chạy vừa hô, thở hào hển vì vận động quá sức.
Rồi chúng tôi dừng lại bên một bờ đất thấp,
khói súng mù mịt che khuất tầm nhìn. Quì xuống, lấy bờ đất làm vật che đở, thở
lấy hơi, tiếp tục gióng súng bắn thẳng vào những khối vật chất hiện ra đen đen
trước mặt. Lại một đợt hò nhau xung phong vang dội, chúng tôi ào lên chiếm lĩnh
trận địa.
Chiếm được trận địa, chưa kịp lục soát,
theo sự phân công từ trước, đại đội
chúng tôi lập tức triển khai đội hình phòng ngự, đề phòng địch phản
kích... Trên hướng phòng ngự của mình, tôi thấy rõ ràng trước mắt có cái gì đó
đang phát sáng. Trời tranh tối, tranh
sáng, mấy cái đốm sáng này chập chờn, ẩn hiện ánh lân tinh ma quái, tôi đứng
đó, nghỉ mệt trong khí trời mát dịu, mồ hôi đang từ từ khô trên người.
Và những vật phát sáng đó từ từ hiện rõ
trước mặt tôi, đó là mấy cái đầu lâu... của bộ đội ta bị Pa-ra bắn chết, chặt đầu
đem về lấy thưởng. Và chỉ huy của chúng đã cắm những cái đầu đó lên cọc để thị
uy thiên hạ, để xác định số má trên chốn
giang hồ miền biên viễn này.
Ngay lúc đó tôi chỉ biết là đầu lâu xương
sọ thôi, nhưng sau này xâu chuổi lại các sự kiện tôi khẳng định rằng: Tôi biết
chủ nhân những cái đầu lâu này... vì trung đội tôi đã từng cáng trên vai 3 cái
xác cụt đầu của lính D2 chết trên một con đường bò, gần suối cạn, phía Bắc phum
Sophia. Buổi trưa hôm đó, được tin dân báo là có xác chết của bộ đội chết trên
đường buôn, trung đội chúng tôi lập tức được lệnh xuất kích và chúng tôi đã gặp
xác đồng đội mình nằm ven con đường bò đó...
Lính Pa-ra đã tập kích bất ngờ, bắn chết 3
anh lính này, cắt đầu mang đi. Chúng tôi đã cáng 3 cái xác không đầu đó về phẩu
trung đoàn, 3 cái xác cụt ngủn, gọn lỏn nằm trong cáng, chảy hết máu nên người
nhẹ tênh, Cứ hai người lính mang 1 cái cáng, không cần xoay tua, chúng tôi đi một
hơi về bàn giao cho ban chánh sách trung đoàn làm hậu sự.
Chúng tôi đã trả thù cho các anh tử sĩ D2
hôm nọ bằng một trận tập kích tuyệt vời, quá sức đẹp, quá bài bản, không thương
binh, không tử sĩ. Toàn bộ quân địch trong cái căn cứ này đã bị chúng tôi đánh
tan tác, chết ngổn ngang trên trận địa, số còn lại dông tuốt vào rừng.
Như một buổi diển tập hợp đồng tác chiến,
đoàn quân thắng trận trở về theo đội hình cuốn chiếu, trung đội của tôi rút ra
sau cùng, trời đang dần sáng... Mấy thằng Pa-ra chạy thoát vào rừng lúc nãy,
bây giờ tỉnh hồn, quay lại, thấy chúng tôi lui quân, tưởng ngon ăn, dí theo bắn
liền mấy loạt đạn, miệng hô chô chô. Đại đội trưởng Tý đi cùng trung đội, lệnh
cho tôi bắn liền. Tôi căn khẩu B40 gióng theo ánh lửa đầu nòng của đối phương,
đang tiến rất gần, bắn găm một phát bùng bình đinh tai điếc óc, rồi chạy theo đội
hình của mình, để lại sau lưng mấy thằng lính nín khe, sống chết ra sao không
biết... Chắc là tiêu, vì không nghe chô chô, mà cũng chẳng có tiếng súng bắn
vét đuôi nửa.
Uy lực của B40 (và B41) rất mãnh liệt, dù
anh có nấp sau ụ mối, vẫn chết vì sức chấn động. Đã có hai thằng lính Pa-ra bị
đồng chí Long, xạ thủ B41 bắn chết như vậy trên con đường Nimith Đăng-cum, đoạn
đường bình độ 25m phía Bắc phum Sophia.
Trận này tôi mang 6 trái B40, bắn hết 5
(trong đó lép 1), còn 1 trái nằm trong
nòng súng ung dung vác vai trở về nhà. Đến khi tắm rửa giặt đồ, thấy cháy sém hết
một bên quần... thì ra hơn 1 năm nay làm A trưởng sử dụng AK quen nằm bắn góc
30 độ, nay dùng B40 cũng nằm góc 30 độ (đúng ra súng với người nằm bắn thành một
góc 45 độ), bị lửa phản lực phà cháy sém một bên quần.
Đại đội trưởng Tý là người khen thưởng
công minh, anh đề bạt sư đoàn cấp bằng khen cho tôi về thành tích chiến đấu
trong trận thắng oanh liệt (nhưng dễ dàng) này.
Hồi thứ 18. PHUM KHÔNG TÊN
MỘT TRẬN PHỦ ĐẦU
Vào đầu mùa mưa 1981 tiểu đoàn lại nhận mệnh
lệnh hành quân, đại đội tôi có sự thay đổi
nhân sự, đại đội trưởng Tý về nước, chỉ
huy đại đội là đồng chí Ánh, chính trị viên, người miền Bắc và đồng chí Ma Văn
Thảo, người dân tộc Tày, đại đội phó quân sự. Hai anh chỉ huy đại đội đi đánh
trận này, trung đội trưởng của tôi là đồng chí Thạch, còn tôi là tiểu đội trưởng
với vỏn vẹn cả tiểu đội chỉ gồm có 3 người.
Cũng như bất kỳ cuộc hành quân dài ngày
nào, quản lý đại đội nhồi gạo vào ruột tượng cấp cho các trung đội, mỗi ruột tượng
nặng khoảng mười kg, anh nào vác AK thì mang gạo, những anh vác hỏa lực như trung liên RDP,
B40, B41 thì miễn.
Mỗi khẩu AK mang 400 viên đạn (có khi 600
viên) gồm 1 băng đạn 30 viên trong súng, 3 băng đạn trong bao-xe mang trước ngực, còn 4 cái túi
cóc thì nhét thêm được 6 hộp đạn 20 viên nửa, số còn lại chúng tôi cho vào ruột
tượng, cột ngang thắt lưng, dây thắt lưng thì đeo bi đông nước và... hai cục
cơm vắt để ăn hai ngày đường.
Không như trong phim ảnh mà chúng ta thường
thấy cảnh lính tráng hành quân ca hát yêu đời. Chúng tôi khoát tất cả súng đạn,
cơm nước vào người, ruột tượng gạo vắt lên vai è cổ, cảm thấy rõ sức nặng trên
đôi vai của mình. Tâm trạng chúng tôi
khi đó rất nặng nề, cảm thấy mình như con trâu đeo ách vào cổ, trâu cày
còn có thời gian nằm nhai lại cỏ, chúng tôi đã vác súng lên vai thì cực ghê gớm,
di chuyển liên tục, liên tục.
Chúng tôi đi đánh Cao Mê-lai từ hướng đít
con voi. Hành quân xa, mang vác nặng, chúng tôi đi rất thận trọng.
- Thưa ra, cách nhau 10m.
Đó là lệnh của chỉ huy luôn luôn được truyền
lên phía trên để duy trì cự ly hành
quân.
Máy
bay L19 của Thái Lan bay vè vè trên đầu, chúng tôi phải thường xuyên dừng lại, ẩn
vào cây để tránh tầm nhìn của nó.
Xế trưa hôm đó, trinh sát đi đầu phát hiện
phía trước có một đoàn quân Pôn Pốt mặc đồng phục màu xanh quân đội nghiêm chỉnh
đang di chuyển cắt mặt đội hình hành quân của chúng tôi. Nằm trong toán quân đi
đầu, nên tôi cũng tận mắt nhìn thấy đám tàn quân này, đông lắm, ước cả trăm
tên.
Sau này có đồng chí chỉ huy trong đơn vị
tiếc, phải chi hôm đó mình giá súng 12 ly 8, rồi dàn quân đánh úp cái đám quân
Pôn Pốt này thì chắc thắng lớn vì có yếu tố bất ngờ, đở phải di hại về sau!
Nhưng nhiệm vụ của chúng tôi lần này là đi
đánh phum không tên, chứ không phải đi truy quét, nên cái mục tiêu di động đó
đã bị bỏ qua một cách quá đáng tiếc.
Chúng tôi hành quân rất chậm, trưa hôm sau
khi chúng tôi đang trên đường hành tiến thì thằng địch phát hiện và tập kích
chúng tôi liền... Chúng tôi đang hành quân và thực tình là chưa xác định được
hướng địch. Trung đội tôi nằm trong một cánh rừng thưa xen lẩn các bụi tre, bờ
đất. Tôi dán người sát đất, chúi đầu vào một bờ đất thấp, nằm đó chịu trận.
Bị tấn công bất ngờ, chưa biết hướng địch,
chưa có lệnh xung phong, nên chúng tôi nằm trụ tại đó đợi lệnh. Anh Tý liên lạc
đại đội chạy tới nói nằm yên tại chổ, giữ vững đội hình, rồi chạy đi B khác...
Bổng dưng oành một tiếng, một quả đạn cối đã rơi trúng anh liên lạc, anh kêu la
thảm thiết, gãy cả hai chân, chết ngay tại trận.
Chúng tôi nằm sát đất, nghe tiếng đạn nhọn
veo véo bay trên đầu nhưng khinh, chúng tôi có cái bờ đất che chở, không sợ đạn
nhọn, chỉ sợ cối pháo rơi trúng lưng mình. Địch đang toong cối về phía chúng
tôi, cối của nó bay vo vo trên đầu, rồi xé gió rớt xuống đất nổ oành, oành. Địch
đã canh tầm hơi bị xa, đạn rơi ra phía sau lưng chúng tôi, trùng hướng di chuyển
của anh Tý liên lạc, khiến anh phải hy sinh đau đớn.
Đã từng nằm chịu trận cho đạn cối Pôn Pốt
nện, tôi rút ra kinh nghiệm là nghe cối bay vo vo trên đầu là nó còn tầm, nó
bay tiếp và nổ ở sau lưng. Khi nào nó xé gió lao xuống là tới số rồi đó...
Trời tự dưng đổ mưa, không thấy chuyển, mà
trời lại mưa, mưa lất phất thôi, chỉ vừa tưới ướt thân người và cây cỏ. Đám lính Pôn Pốt này hỏa
lực còn xung, nó cối chúng tôi lâu lắm, may mà nó canh chệch hướng, đạn rơi
phía sau nên trung đội tôi không hề hấn gì.
Hết đợt pháo kích của địch thì có lệnh
xung phong, chúng tôi súng lăm lăm trong tay, dàn hàng ngang chạy lên và không
phát hiện ra phòng tuyến của địch.
MỘT TRẬN ĐÔI CÔNG
Mưa không đủ giải nhiệt nên trời hầm hập
nóng, vận động nhiều khát khô cả cổ! Chúng tôi đang chiếm lĩnh một khu rừng chuối,
khát quá, chúng tôi chặt những cây chuối non, ăn cái lõi của nó cho đã cơn
khát, bất chấp cái vị chát của nó. Thực ra nước trong bi đông còn chút đỉnh,
nhưng chúng tôi không dám uống hết phần nước trong ngày của mình, sợ hết nước sẽ
chết khát. Cơn mưa hồi nảy chẳng ra gì, chỉ làm ướt chút đỉnh những thân cây
chuối non bằng bắp chân mà chúng tôi đang ngã ra làm thịt.
Lại tiếp tục hành tiến, đến tối cả tiểu
đoàn dừng lại bên một con đường đất đỏ, ăn cơm vắt nghỉ qua đêm. Cầm nửa nắm
cơm vắt khô cứng trên tay, tôi thực sự không muốn ăn tí nào, bẻ bỏ cái vỏ cứng
của nó, tôi nhắm nháp cái ruột còn mềm mềm nhai cho qua bửa, rồi xung phong đi
lấy nước cho trung đội.
Đeo một xâu bi đông lủng lẳng bên hông,
tay xách súng, tôi và nhiều đồng chí nửa cùng kéo nhau đi lấy nước. Theo con đường
đất đỏ đi về phía sau, đi lâu lắm, mấy tiếng đồng hồ mới tới được một cái bàu
nước.
Chúng tôi đi ra giữa bàu, ngâm mình dưới
nước, vừa nhận bình toong xuống lấy nước, vừa hụp mặt xuống uống nước, vừa ngâm
mình vào nước mà nghe da thịt mình nở ra thấm từng giọt, từng giọt nước mát. Bù
lại mấy ngày hành quân mất nước thì nhiều mà chỉ được tiếp tế một ngày một bình
toong nước, chẳng đủ đâu vào đâu!
Đong đầy các bình toong và uống nước đã đời
rồi chúng tôi hăm hở trở về. Về đến nơi thì trời mờ sáng, chúng tôi lại chuẩn bị
lên đường đi đánh cái phum không tên.
Xế chiều hôm đó, trong cơn mưa nhẹ, tiểu
đoàn chúng tôi chiếm được mục tiêu của mình một cách dễ dàng, không cần phải nổ
súng... Địch đã nhường cho chúng tôi cái phum này và nó sẽ tặng lại cho chúng
tôi những loạt đạn cối và những trận tập kích dai dẳng... Chúng tôi đang đối diện
với một địch thủ quá sức lợi hại, nó đang chống lại chúng tôi bằng một cuộc chiến
tranh du kích, lấy ít đánh nhiều!
Đồng chí Ánh chính trị viên vừa bố trí đội
hình cho các trung đội phòng ngự xong, anh giữ lại tiểu đội 3 người của tôi để
làm công tác liên lạc (thay cho anh Tý liên lạc tử thương hôm qua), đồng thời
kiêm luôn công tác tiếp thương, tải đạn cho tuyến phòng thủ phía trên.
Ba trung đội dàn quân theo hình vòng cung
trong cánh rừng dày phía trước, đại đội bộ chiếm lĩnh một ụ mối lớn phía sau
các trung đội chừng mấy chục mét đường rừng dày đặc, tiếp sau là khẩu đội cối,
và sau nửa là tiểu đội của chúng tôi cũng nấp trong một ụ mối nhỏ có khoét sẳn
hố cá nhân dã chiến.
Ngồi trong hố nhỏ tôi đã chứng kiến tận mắt
trận đấu cối của đại đội tôi với kẻ địch trong cái phum không tên này... Đầu
tiên là các trung đội phía trên chạm súng mãnh liệt với địch, khẩu đội cối 60 của
đồng chí Đinh Văn được lệnh bắn, cối của anh bắn ra cấp tập nhưng trái được,
trái thất, có trái bay lẹt đẹt vì liều phóng bị ẩm, tôi thấy nó mới bay qua khỏi
ngọn cây thì hết tầm rớt lại xuống đất, may là không trúng đầu bộ binh... Trong
khi đó cối địch thì khác, thằng địch đã để cho chúng tôi chiếm lĩnh trận địa
đúng vào cái bẫy mà nó đã dành sẳn, nó đã kéo thước đo cự ly sẳn, bây giờ ta lọt
vô rồi thì nó xách cối ra nó bắn, nó
cũng chơi cối 60 như mình.
Loạt cối đầu tiên của nó giã trúng ngay
chóc cái khẩu đội của đồng chí Văn, cả khẩu đội đều bị trúng mảnh, may mà không
có anh nào chết.
Khẩu đội cối của anh Văn im tiếng rồi mà
nó vẫn còn toong, và tôi thấy rõ cái ụ mối của đồng chí Ánh cùng với anh lính
thông tin bộ đàm đang bị nó dộng cối nẩy cà tưng, cà tưng... từng phát cối chắc
nịch dộng vào cái ụ mối nổ oành, oành... Hôm đó đồng chí Ánh và anh thông tin
được thần Dớt che chở nên không ai trúng cái mảnh cối nào, quả là phước lớn, mạng
lớn. Tôi cũng được thần Dớt che chở, không trái cối nào kiếm cái ụ mối nhỏ nhoi
của tôi mà nện.
MỘT TRẬN TẬP KÍCH
Tiểu đội 3 người của chúng tôi chạy như
con thoi từ đại đội xuống các trung đội, đồng chí Ánh luôn miệng nhắc nhở tiết
kiệm đạn, còn các trung đội thì cứ kêu thêm đạn.
Ngưng tiếng súng thì chúng tôi chạy lên tiếp
đạn, thằng địch phía trước thỉnh thoảng lại nổ súng tấn công vào các trung đội
của chúng tôi phía trên... Đêm đó tuy hai bên không đấu súng với nhau, nhưng
chiến sự căng như sợi dây đàn, hai phe ghìm nhau, trắng đêm.
Tình hình hôm sau cũng như vậy, địch ở
ngoài bắn vô, ta ở trong bắn ra, dai dẳng, tốn kém đạn dược không biết bao
nhiêu mà kể. Tiểu đoàn tải đạn lên không kịp, chúng tôi phải chạy về tiểu đoàn
bộ đóng trong cái phum chúng tôi vừa chiếm
được để lấy thêm đạn về cung cấp cho các trung đội phía trên.
Đánh hoài coi bộ mệt, tối đó thằng Pôn Pốt
ngưng bắn, tôi mệt quá, hết phiên gát, ngã lưng ra nằm trên công sự lộ thiên lấp
xấp nước, mang cả giày, quấn nylon đội mưa mà ngũ, như chết... Không biết các
trung đội phía trước có ngũ được không, hay phải lỏ mắt canh gát suốt đêm.
Rồi tình hình bắt đầu yên tỉnh, sáng hôm
sau đồng chí Ánh kêu chúng tôi lên đào công sự chiến đấu trên một ụ mối tiếp
giáp giữa 2 trung đội, chúng tôi tuân lệnh, vác AK đi... Đang đào, thì tôi nghe
tiếng chạm súng kịch liệt ở hướng sau lưng mình, rồi tôi thấy đồng chí Ánh chạy
lên, mặt cắt không còn chút máu kêu B9 xuống cứu nguy đại đội! Anh Thạch cùng
chúng tôi xách súng chạy xuống, đến đại đội bộ thì thằng địch đã bỏ chạy.
Đến hầm ban chỉ huy đại đội, tôi thấy một
cái xác chết gục trên miệng hầm chữ U, nóc hầm xổ ra một đống óc bầy nhầy như
tàu hủ. Phải... giống như tàu hủ, đây là
lần đầu tiên tôi nhìn thấy óc người nên ấn tượng rất sâu đậm!
Tôi chưng hửng:
- Ai vậy cà?
Anh Thạch nhìn ra ngay:
- Thằng Thảo chứ ai.
Trận này đại đội phó Ma Văn Thảo anh dũng
hy sinh ngay trận địa, với vết thương khủng khiếp, văng mất đỉnh đầu và phọt óc
ngay trên nóc công sự.
Tôi và anh Thạch khiêng xác anh Thảo ra đặt
nằm trên mặt đất, rồi chui xuống hầm kéo anh Cường y tá đại đội lên... anh đang
kêu la thảm thiết vì vết thương quá nặng!
Thằng Pôn Pốt đã quăng một trái lựu đạn
vào hầm làm cánh tay phải của anh đứt tiện lòi xương, còn chân thì gãy lặt
lìa... Chúng tôi lôi anh lên, đặt anh nằm yên trên mặt đất, kéo cái chân gãy
xuôi theo đúng tư thế anh nằm. Anh đang dãy chết, tay phải của anh bị mảnh lựu
đạn tiện đứt ngang, tuốt thịt gần tới khủy, trơ ra hai cẳng xương cánh tay một
lớn một nhỏ đang co giật nhấp nhấp, như níu kéo một cái gì... Cái túi thuốc y
tá cứu thương của anh luôn mang bên mình đã bị thằng Pôn Pốt giật mất!
Chúng tôi đang chiếm giữ cái phum của thằng
Pôn Pốt bỏ. Nó thuộc lòng nằm lòng địa hình, nó cho một tốp lính nhỏ, vận động
xuyên qua khoảng hở chổ tiếp giáp giữa hai đại đội. Rồi nó thọc sâu vào đại đội
bộ của C13, nơi đồng chí Thảo đang trấn giữ, chỉ một mình đồng chí đứng trong
công sự, làm sao chống nổi hỏa lực một tốp lính thiện chiến.
Chúng tôi đang chiến đấu với một đội quân
thiện chiến của Khơme đỏ, không ô hợp như cái đám lính Pa-ra ở hướng Bắc Nimith
đâu! Tụi này ăn miếng trả miếng với chúng tôi sòng phẳng và đang chiếm thế thượng
phong vì địa lợi. Chúng tôi đang bất lợi hoàn toàn, ngay cả cái phum này không
ai biết tên của nó là gì, gọi nó là phum không tên!
Rồi thằng Pôn Pốt không tập kích chúng tôi
nửa, thấy tình hình yên tỉnh, đồng chí Ánh kéo chúng tôi luồn ra phía trước xem
xét địch tình. Địch đã ra đi, để lại những hố cá nhân đối diện tuyến phòng thủ của chúng tôi.
Chúng tôi cũng rời bỏ cái phum đó đi luôn,
một đi không trở lại. Trận này chúng tôi tổn thất nặng, chỉ riêng đại đội bộ hy
sinh 3 và bị thương nguyên khẩu đội cối. Xong trận, toàn khối đại đội bộ chỉ
còn trơ trọi duy nhất một đồng chí Ánh chính trị viên.
MỘT CHỨNG NHÂN LỊCH SỬ
Giống như mọi chuyến hành quân từ Cao
Mê-lai trở về, chúng tôi lại tấp vô con voi, hạ vũ khí nghĩ mệt, anh nào có đồng
hương quanh đó thì tấp vô kiếm đồng hương - đồng khói. Riêng tôi, tôi đứng đó,
tại bức tượng con voi, sờ mình voi, vỗ đít voi rất đổi thân tình, con voi này
lúc đó dân dã lắm, đen thui, mốc thích, xù xì, quạu quọ... rất hạp với mấy thằng
lính chúng tôi, đầu bù tóc rối, thất tha thất thểu, ngồi núp nắng dưới bóng con
voi, rồi lại hò nhau đi về, để lại con voi bê tông... trơ gan cùng tuế nguyệt.
Chào voi, tao sẽ trở lại thăm mày. Mày lúc
này ấm rồi, được o bế, sơn phết để làm du lịch, có nhớ mấy thằng bạn Việt Nam
thưở hàn vi vẫn thường hay ngồi mình voi và vuốt... đuôi voi không?
Bạn bè thưở xa xưa lâu ngày gặp nhau mới
quí, chúng tao sẽ lặn lội đường xa về thăm mầy, chắc là mày mừng lắm! Hôm qua
nhờ bác bichuoi gởi hình lên mạng mà tao thấy lại mặt mầy, tao cảm động lắm, phải
chi mà mày đen thui mốc thích như ngày xưa thì chắc là tao khóc rồi... vì nó gợi
lại nổi niềm gian khổ lúc xa xưa của chúng tao với mày, mày đã bỏ Phnom Melai
mà đi, trong khi đó chúng tao lại phải đâm đầu vào, mày biết hết, mày là chứng
nhân lịch sử mà! Mày phải thương tao, cũng như tao đã thương mày. Mày là linh vật,
chúng tao nói ngoa cho mày bẻ cổ.
Nói thật, tao vẫn thích mày đen thủi, đen
thui, xù xì, ốc mít như xưa, vì mày là voi rừng Phnom Melai mà, đâu phải voi kiểng
trong sở thú.
Mấy thằng chủ sau này của mày hình như
đánh giá trị tinh thần của mày thấp quá!
Hồi thứ 19. TAKUNG KRAO
Sau trận phum không tên, tiểu đoàn trở về
Don Thomo làm công tác cũng cố và huấn
luyện quân sự hàng năm theo chương trình của Bộ quốc phòng, thời gian này không
có những cuộc đụng độ quân sự nào đáng kể. Tháng 8/1981 tôi nhận quyết định bổ
nhiệm chức vụ trung đội phó, cũng trong thời điểm đó chúng tôi lại kéo nhau đi
đánh Tà-cuông Krao.
Tiểu đoàn xuất kích lần này có một đại đội
quân K (chúng tôi gọi là lính Hunsen, do trung đoàn đào tạo) phối thuộc với
chúng tôi. Lần xuất quân này không phải mang vác nặng vì chúng tôi được cấp
phát cơm sấy mang theo ăn đường. Tà-cuông Krao là chổ quen biết cũ, nhiều duyên
nợ với tiểu đoàn 3 từ năm 1980, nay chúng tôi nhận được tin Pôn Pốt chiếm Tà-cuông
nên kéo quân đi đánh.
Chúng tôi cắt rừng, lội nước bì bõm trên
những cánh đồng rộng lớn, hoang hóa của đồng bằng Battambang để tiến vào
Tà-cuông. Xế trưa hôm đó, cái mục tiêu tấn công hiện ra ngay phía trước, chúng
tôi dàn hàng ngang tiến vào... Có tiếng nổ súng, ngay lập tức cả tiểu đoàn hô
xung phong, trọng liên 12 ly 8 đi theo đại đội chúng tôi lập tức triển khai bắn
chéo cánh sẻ yểm trợ cho chúng tôi băng băng từ đồng ruộng lao vào, khí thế
hung hãn.
Mỗi khi chúng ta hô xung phong, theo tiếng
gọi bầy đàn, cả một đoàn quân cùng hô đáp ứng, tạo khí thế cho chúng tôi xông
pha mãnh liệt, súng nẩy trong tay, lửa đạn khạt ra, mồ hôi dầm dề, chân chạy
băng băng, tiến lên phía trước... Đến một bờ ruộng có thể núp được, chúng tôi dừng
lại thay băng đạn, thở muốn đứt hơi. Chúng tôi điều hòa nhịp thở, rồi lại tiếp
tục hò nhau xung phong, tiếp tục chạy tới, thở hào hển trên chiến trường, hít lấy
mùi cay nồng của thuốc súng, rồi như say máu lại hô xung phong, chạy lên phía
trước, bắn găm, bắn gần, chiếm lĩnh trận địa... Với khí thế như vậy, chúng tôi
giải quyết xong trận đánh chỉ trong vòng năm phút, đám lính Pôn Pốt giữ
Tà-cuông yếu thế bỏ chạy.
Hoàn thành nhiệm vụ, tiểu đoàn được lệnh
rút quân, ra khỏi Tà-cuông một đoạn thì thằng Pôn Pốt nổ súng bắn đuổi vào đội
hình, nhưng đạn ăn lên trời nên chẳng chết ai.
Đang giữa mùa mưa, nước mênh mông trên cái
đồng bằng rộng lớn này, hoàn toàn không có chổ để ngồi nghỉ. Chúng tôi phải đi
liên tục, trời đã về chiều, anh nào đói thì moi cơm sấy ra nhai, uống nước sống
trừ bửa.
Phải đến tối, mới đến một địa hình có thể
nghỉ, chúng tôi trải nylon ra ụ mối mà trú qua đêm hôm đó. Nằm ụ mối rất khó
ngũ, độ dốc làm chúng tôi cứ bị tụt xuống. Tụt xuống đến khi chạm nước lạnh
chân thì tự động trồi lên, vậy mà ngũ cũng được. Cái ưu việt của sức trẻ là dễ
ăn, dễ ngũ, sức đề kháng tốt, không đau lưng, nhức mõi.
Chúng tôi đi xa vác nặng, đổ nhiều mồ hôi
nên phải uống bù nước. Mùa mưa trên đường hành quân nước có sẳn dưới chân. Khát
thì cứ lấy nón cối, bước ra vài bước, lựa chổ nước trong, múc một nón uống tại
trận, rồi đi tiếp, không biết đau bụng, ỉa chảy là gì? Bây giờ tuổi bắt đầu
cao, sức bắt đầu yếu, uống nước nấu không chín là muốn có chuyện rồi, chưa kể
phong thấp, nhức mõi tay chân, đau lưng, đau bao tử...
Sáng sớm hôm sau chúng tôi đi tiếp, càng
ra đến gần Cốp-tút thì địa hình càng cao, có những đoạn chúng tôi đi thong
dong, nước ngang đầu gối. Không như chiều hôm qua, khi ra khỏi Tà-cuông nước
sâu ngang hông, có chổ ngang ngực. Chúng tôi cứ gióng la bàn cắt đường mà đi,
không theo lối mòn, sợ mìn Pôn Pốt.
Vậy mà không thoát, vào đến Cốp-tút, chúng
tôi đang đi phía trước, chợt nghe ành một tiếng khô khốc ở phía sau... một anh
lính Campuchia đã dẫm phải một trái mìn đạp nổ.
Đây là mìn K58 do Trung quốc chế tạo, nó lớn
hơn hộp hồ dán giấy của học trò một chút. Tiếng nổ đanh gọn, uy lực không cao
(nguời nào đạp người đó chịu) nhưng tác
hại thì lớn, Việt Nam mình sau này có nhiều anh thương binh cụt chân, chống tó
là tại cái mìn này.
Anh lính Campuchia đạp phải mìn, cái mu
giày của anh bay lên trời ngay, nhìn lên cây... tôi thấy cái mu giày của anh
đang máng trên cành, ở độ cao chừng 3m.
Do đại đội lính K này là con đẻ của trung
đoàn, nên hôm đó chúng tôi được điều xe lên ngã ba Cốp-tut lần lượt chở quân về
nhà.
Mấy ngày sau lên trận địa pháo 105 (nằm gần
trung đoàn bộ ở phum Diêng) thăm đồng hương Bình Thạnh, anh bạn pháo binh tên
Tâm cho biết, sau cuộc hành quân đạp mìn này, lính K dông tuốt... chỉ còn lại mỗi
bộ khung của đại đội.
Tôi nói ra điều này để những người ngoài
cuộc biết tại sao quân tình nguyện Việt
Nam phải ở lại Campuchia mãi đến cuối năm 1989 mới rút hết về nước được... Vì
lính nghĩa vụ của chính phủ Campuchia những năm đó tinh thần chiến đấu kém,
không phải là đối thủ của tàn quân Pôn Pốt.
Nói là tàn quân, nhưng nhờ nhận được viện
trợ thường xuyên của quan thầy, nên nó hồi phục lại, cũng có quân chủ lực mặc đồ
bar-ba-din Trung quốc mới cáu, cũng có súng đạn, mìn trái đầy đủ, bày bố thiên
la địa võng, giăng bẫy mìn sẳn sàng tiêu diệt đối phương... Những bãi mìn mà
Pôn Pốt cài đặt đã gây tổn thất biết bao nhiêu nhân mạng của chúng tôi trong thời
điểm cuối chiến dịch C81.
Hồi thứ 20. CHIẾN DỊCH C81
CÔNG TÁC CHUẨN BỊ
Sau cái trận Takung Krao đó, chúng tôi trở
về Don Thomo được một thời gian ngắn, rồi lại có lệnh hành quân. Bấy giờ đang
là thời điểm giao nhau giữa hai mùa mưa nắng, mùa mưa 1981 đang kết thúc và mùa
khô 1982 đang đến. Chúng tôi lại đi về hướng Nam, vượt qua một con suối sâu, nước
cuồn cuộn. Tôi biết bơi chút đỉnh, nhưng chỉ là bơi trong hồ thôi, ra suối lớn nước
chảy xiết, tưởng bở tôi súng đeo vai, tay trái cầm bao nylon bọc ba lô quần áo,
tay phải quạt nước bơi qua suối. Vừa hụt tầm chân đứng, sức của nước đẩy tôi chới
với xuống hạ lưu liền. Nhìn về phía hạ lưu dòng chảy, tôi thấy rõ một hàng đăng
bằng tre, được giăng sẳn ngang dòng nước để bắt cá... đang chờ tôi.
Có hai anh lính đứng dọc theo đường dây
căng ngang suối (để bộ đội phăng theo dây đó mà lội qua) không anh nào với tới
tôi, dòng nước đang đẩy tôi xuống hạ nguồn, xuống cái hàng đăng đang chờ sẳn...
Bỗng dưng có bàn tay tay rắn chắc của một anh nào đó, đẩy tôi vào bờ .
Chúng tôi tập kết bên kia dòng chảy, vắt đồ
ướt, phơi phóng đồ đạc, nghỉ ngơi ăn uống.
Hôm đó, chúng tôi vào một điểm cách
Tà-cuông Krao khá xa để ém quân, ăn uống cực khổ, thiếu thốn đủ thứ, nhất là
thuốc hút. Được khoảng mười ngày thì lui quân về Don Thomo.
Sau này nghe anh em nói lại là do vướng
cái suối sâu chặn đường hành quân, nên mặt trận không triển khai chiến dịch vào
thời điểm đó được, tạm thời rút chúng tôi về.
Anh em nói sao biết vậy, chứ cái chiến dịch
này được giữ bí mật lắm, đến cấp đại đội không hề hay biết gì.
Hôm đó là ngày 25 tết, tôi nhớ rõ... Vì
hôm đó tôi dắt trung đội đi truy quét trước đội hình đóng quân của tiểu đoàn ở
Don Thomo, cùng đi với chúng tôi có anh Dũng đại đội phó đi kèm. Đến trưa chúng
tôi về đến nhà thì cả tiểu đoàn đã đột ngột kéo quân vào Cốp-tút rồi, hậu cứ chỉ
còn lại mấy bệnh binh mất sức ở lại trông coi.
Chúng tôi vào Cốp-tút, thì tiểu đoàn đã
vào Tà-cuông. Hôm sau, chúng tôi vào Tà-cuông thì tiểu đoàn đã đi vào rừng rồi.
Chúng tôi quanh quẩn ở Tà-cuông đợi lệnh,
ra hồ Tà-cuông rửa ráy và đong nước vào bình toong, nước hồ vào mùa lạnh trong
veo, từng đàn đĩa nghe hơi người lội tới lúc nhúc, kiểu bơi của chúng hệt như
kiểu bơi của người nhái mà ta thấy trong phim...
Rửa mặt, đong nước bình xong xuôi, chúng
tôi tà tà đi qua một căn lều trại dã chiến, đứng lại nhìn vào thì thấy mấy ông
tướng tá mặt trận 479 đứng vây quanh bản đồ, chỉ trỏ, bàn luận hội ý ở đây. Vệ
binh mang súng kè kè đứng gác xung quanh, dòm dòm, ngó ngó chúng tôi, chúng tôi
thấy không tiện đứng đó lâu, làm ảnh hưởng kế hoạch hành quân của các xếp nên
kéo nhau đi mà bàn tán rằng chuẩn bị có đánh lớn đây... Thực sự đến lúc đó
chúng tôi cũng chưa biết là mình đang tham gia chiến dịch C81.
Trưa 27 tết chúng tôi bắt kịp tiểu đoàn của
mình, anh em đang đong nước vào bi-đông và tất cả cái gì... có thể đựng được nước
để ra trận.
Cả tiểu đoàn hành quân vào trận với súng đạn,
gạo và nước rất nặng nề, chúng tôi mang theo nước uống rất nhiều. Bởi vì chúng
tôi đang vào Nam Cao Mê-lai giữa cao điểm mùa khô khốc liệt.
Ở đây chỉ có hai mùa
Nắng không có nước, còn mưa rừng lầy...
Những câu thơ của đại tá Văn Lê, nhà văn
quân đội rất đúng với hoàn cảnh của chúng tôi lúc này.
VÀO TRẬN ĐÁNH
Đường vào trận vậy mà lại... đẹp!
Chúng tôi đang đi trên một con đường đất đỏ,
sạch sẽ tinh tươm, không dấu chân người, không vết bánh xe, không bụi bặm. Những
hàng tre hai bên đường đan lại với nhau thành vòm che nắng chúng tôi, bóng nắng
chiếu qua vòm lá thành những hình rằn ri trên áo lính bạc màu sương gió.
Hết rừng tre chúng tôi bước vào rừng dầu,
tiếng ve rừng rền vang trong tiết trời cuối đông mát mẻ. Tiếng ve rừng kêu lúc
liên tu bất tận, lúc im lặng nín thinh, dường như đang tuân theo sự chỉ huy của
một vị nhạc trưởng quyền uy tột đỉnh.
Dừng chân trong lòng một con suối cạn,
chúng tôi ngồi đó nghe tiếng máy thông tin vô tuyến điện rè rè liên lạc về sở
chỉ huy chiến dịch đóng ở Tà-cuông Krao: A lô, a lô, hai không một, hai không một...
Sáng 28 tết, cơn sốt rét đầu tiên trong đời
lính quật đổ tôi trên con suối cạn Nam Mê-lai. Tôi nằm run rẩy trong lòng con
suối đầy sỏi đá, nước mắt tự động ứa ra...
Cơn sốt đầu tiên đi qua rất mau, rồi chúng
tôi dàn quân vào trận đánh.
Cũng như bất kỳ cuộc tấn công nào, chúng
tôi bình tỉnh đợi hiệu lệnh tấn công.
Hiệu lệnh tấn công luôn luôn bắt đầu bằng
pháo lệnh.
Căn cứ vào điểm nổ của loạt đạn pháo,
chúng tôi dàn hàng ngang tiến vào trận địa.
Chúng tôi chỉ nổ súng và hô xung phong khi
nào thấy địch, thường thì địch bắn trước, vì nó yên, ta động, nên nó phát hiện
ra ta trước.
Trận này chúng tôi không thấy địch nên
không phải bắn và cũng chẳng phải hô xung phong...
Đám lính Pôn Pốt đã bỏ căn cứ mà tháo chạy
ngay sau loạt pháo đầu tiên.
Trung đội chúng tôi từ dưới suối xông lên
và đặt chân lên căn cứ địch, không nổ súng và không đổ máu. Cái chúng tôi thu được đầu tiên trên
căn cứ này là quả mìn định hướng ĐH 10, nó gióng vào hướng bờ suối, ngay chổ
trung đội chúng tôi mới từ đó xông lên.
Nhìn quả mìn, tôi thầm nghĩ may mà địch chạy,
nếu nó tử thủ ở đây chắc chắn chúng tôi đã
thương vong nặng từ quả ĐH này.
Phía sau quả ĐH là lán trại của bọn lính,
chúng tôi thu được những bó cải khô, đây là một loại cải giống như cải ngọt bên
mình, nhưng nấu canh ăn hơi the the. Những bó cải này được lính Pốt tăng gia sản
xuất trong mùa mưa và phơi khô để ăn dần.
Chúng tôi chốt giữ cái căn cứ này suốt mấy
ngày tết. Lính công binh C18 tiến hành đào giếng và chúng tôi thu được một loại
nước trắng nhờ nhờ như nước vo gạo. Nhờ vậy mà chúng tôi có nước nấu cơm và nấu
canh với cái đám cải khô thu được của lính Pốt.
Đại đội 13 được bố trí nằm ven trục lộ đất
đỏ, đây là con đường mà chúng tôi đã theo nó xuất kích hôm nọ, tới đây nó vẫn
còn chạy tiếp và đến một nơi nào đó tôi hoàn toàn không rõ.
Chúng tôi bảo vệ tuyến đường này và hàng
ngày có nhiệm vụ đi thông đường lên phía trước để bắt liên lạc với một lực lượng
ở phía trên, không biết đơn vị nào, nhưng chắc chắn không phải là trung đoàn 4,
vì tiểu đoàn 3 là đơn vị phát triển lên cao nhất trong đội hình trung đoàn .
Tôi chỉ nhớ rằng cứ mỗi lần có tăng từ
phía trên đi xuống thì tôi nghe tiếng súng họ bắn rất dữ dội vào hai bên rừng.
Có một lần đi thông lộ lên phía trên bắt liên lạc được với họ rồi, lúc về ngồi
trên thiết giáp M113, họ đi đội hình hai chiếc, không hiểu tại sao đại liên
trên tăng vẫn cứ bắn xối xả vào hai bên rừng. Làm như vậy chắc là để trấn áp
lính Pốt, không cho nó tiếp cận xạ kích chăng? Đã có một xe vận tải hậu cần bị
lính Pốt phục kích bắn trúng, tài xế ráng chạy thoát thân về tới đội hình chúng
tôi, sau đó anh này bị phẩu cắt mất một cái chân.
NAM CAO MÊ-LAI
Chiều mồng 3 tết, chúng tôi được lệnh rang
gạo để ăn đường, rồi hành quân truy quét suốt một loạt cao điểm dọc dãy Nam
Mê-lai.
Những ngọn núi trong dãy Nam Mê-lai không
cao, thường chỉ khoảng một hai trăm mét. Chúng tôi đi hàng dọc lên những cao điểm
có rừng cây thưa làm vật che khuất, lên đến đỉnh nhìn sang đất Thái thấy phía
dưới nhà ngói đỏ lô nhô, xe cộ di chuyển trên đường thảnh thơi, bình an vô sự.
Chúng tôi đang hành quân truy quét trên những
cao điểm thuộc phía Nam phnom Mê-lai, dọc
theo biên giới Thái Lan. Chúng tôi không xâm phạm vào lãnh thổ của người Thái
và hình như người Thái cũng không có động tịnh gì chứng tỏ họ biết chúng tôi
đang có mặt trên núi, đang nhìn ngó sang đất nước của họ. Đứng nhìn nhà cửa, xe
cộ của họ chạy trên đường, tự dưng tôi có ý nghĩ đứng trên trái núi này, chỉ cần
thả lỏng người, chạy một hơi là xuống đến đất Thái rồi, bên đó không có mìn,
không có giặc, chỉ có nhà tường ngói đỏ, có xe chạy ung dung trong cảnh thanh
bình, tự nhiên chạnh lòng tự nghĩ ở Việt Nam mình lúc này cũng còn đang tết.
Cái tết âm lịch của người Việt xa xứ rất
thiêng liêng, những ngày đầu tham gia chiến dịch C81 tôi chỉ lấy chuẩn thời
gian là những ngày giáp tết năm đó: 25 hành quân, 28 chiếm cứ địch, mùng 3 khởi
hành đi truy quét Nam cao Mê-lai, qua rằm lại tiếp tục đi đánh cứ...
Trong thời gian này, mỗi ngày chúng tôi được
tiếp tế một vắt cơm và uống mỗi ngày một bi đông nước. Cơm và nước được vận tải
từ trên lưng của bộ đội vượt núi băng rừng tới đây tiếp tế cho chúng tôi.
Hành quân dài ngày trong chốn sơn lam chướng
khí này, quân số hao hụt rất nhanh, lúc này trung đội của tôi chỉ còn 4 người.
Một sáng sớm, trên một cao điểm nọ, chúng
tôi đang hội quân và ngồi rải rác ở tiểu đoàn bộ chờ nhận nhiệm vụ tiếp theo
trong ngày. Đài thông tin vô tuyến điện đang rà sóng liên lạc với sở chỉ huy tiền
phương theo giờ hẹn định kỳ.
Chúng tôi đang yên lặng chờ nghe tin từ
cái đài vô tuyến nọ thì bỗng dưng nghe tiếng xoong nồi khua loảng xoảng dưới
chân, nghe rõ tiếng chửi thề:
- Chuây me à Duôn (Đ.M thằng Việt)
Chúng tôi biết rõ đó là mấy thằng Pôn Pốt
bị động ổ đang dời nhà đi chổ khác, tức mình nó vừa đi vừa chửi. Bình thường, nếu
đang là đội hình hành quân và đang sung sức (như thời kỳ ở Sophia) thì chỉ cần
hô một tiếng chúng tôi có thể đuổi theo truy kích tiêu diệt bọn này nhờ yếu tố
bất ngờ.
Nhưng lúc này đang ngồi chờ lệnh và đang
thiếu nước uống, thử hỏi chúng tôi thiết tha gì về chuyện đánh đấm nửa? Trong đầu
tôi còn nghĩ tới viễn cảnh nếu mình bị bao vây thì chắc là chết khát, vì đây là
đất địch, hậu phương ở rất xa, không thể nào chi viện kịp thời.
Tư tưởng lớn gặp nhau, chỉ huy của chúng
tôi có sạn trong đầu về chuyện binh đao... Việc ai người đó làm! Chúng tôi cứ
đi theo mệnh lệnh của cái đài vô tuyến mà mỗi lần đến giờ liên lạc, lính thông
tin phải đeo ăng-ten leo lên cây cắm để tăng độ cao, rồi mới rà được sóng.
Một buổi chiều chạng vạng nọ, trinh sát tiểu
đoàn đang cắt đường lên núi tìm chổ nghỉ thì đá phải mìn, tối đó chúng tôi qua
đại một quả núi kế chia đội hình ra kiếm chổ giăng võng nằm ngũ.
Rồi chúng tôi không đi lang thang vô định
theo cái đài vô tuyến nửa mà được cắm chốt
trên một quả núi lớn đủ sức chứa bảy, tám chục tay súng của tiểu đoàn... Vâng,
cả tiểu đoàn giờ chỉ còn bấy nhiêu đó quân.
Các đại đội bộ binh đóng ở lưng chừng núi,
đại đội 13 đóng kế bên trung đội ĐKZ của đại đội 14, phía dưới là tiểu đoàn bộ...
Đây là một ngọn núi đất đá xen kẻ, có nhiều tán cây lớn, lá rụng đầy. Có đêm tối
trời, nghe tiếng khua loảng xoảng, loạt xoạt, anh em bảo đó là tiếng lông nhím
va chạm nhau lúc chạy trên lá vàng khô.
Ở đây được một vài ngày thì thằng Pôn Pốt
biết, nó bắn pháo vào đội hình chúng tôi nhưng không trúng, rơi ra phía sau
lưng chúng tôi xa lắm. Tiểu đoàn hạ lệnh phản pháo, đứng gần đó tôi thấy rõ khẩu
ĐKZ 82 đặt trên vai chiến sĩ hỏa lực C14 gầm lên, bay ra phía trước hồi lâu mới
nổ.
Đấu pháo qua lại cho có, chứ thật ra làm
gì nhau: Cò ỉa miệng chai, dễ gì mà trúng.
VÀO TỌA ĐỘ CHẾT
Rồi một đêm nọ, vào khoảng nửa đêm về sáng,
từ cái núi đá có con nhím chạy loảng xoảng đó, chúng tôi xuất kích đánh một căn
cứ của địch. Cái cứ điểm này được chấm trên bản đồ hành quân chứ thực sự chưa
ai bước chân vào.
Nghe lính tráng nói với nhau, sở dĩ chúng
tôi có chiến dịch này là do vệ tinh trinh sát của Liên Xô phát hiện, họ thấy có căn cứ địch
trên dãy Nam Cao Mê-lai nên cung cấp thông tin cho ta, trinh sát ta phải luồn rừng
cả tháng trời để nắm địch... Đó là tin của lính, chúng tôi viết chuyện đời lính
nên nghe sao nói vậy! Sau này, tôi đọc quyển hồi ký viết về cuộc chiến tranh bắt
buộc của đại tá Nguyễn Văn Hồng (đăng trên quansuvn.net) thì biết rằng ông đã
phát hiện ra khu căn cứ này khi ngồi trên máy bay trực thăng. Thế mới biết,
thông tin của lính sáng tạo ra phong phú thật.
Kế hoạch tác chiến được vạch ra cho trận
đánh này là chúng tôi sẽ dùng mìn định hướng để thổi bay mìn của địch làm cửa mở
xung phong. Đơn giản như... đang giởn!
Tôi trung đội phó, phụ trách trung đội 4
người của mình, hỏa lực bao gồm 1 B40, một
trung liên RPD và hai cây AK, đi đầu đội hình hành quân của tiểu đoàn. Riêng
tôi, tôi đeo thêm một quả mìn ĐH 10 (chiến
lợi phẩm thu được của Pôn Pốt) chúng tôi đi theo trinh sát tiểu đoàn tiến quân
vào trận địa.
Chúng tôi hành quân từ lúc nửa đêm dưới
ánh trăng trung tuần tháng giêng. Dù đi trong địa hình rừng núi, nhưng ánh
trăng vàng rực ấm áp hôm đó vẫn đủ sức chiếu sáng đường chúng tôi đi.
Khoảng 4 giờ sáng thì đến điểm. Đội hình
chiến đấu dừng lại chờ trinh sát mở đường thì mìn nổ. Không biết ai chết, nhưng
tôi biết có đồng chí Nghĩa, trung đội phó trinh sát tiểu đoàn bị thương, sau đó
được đưa lên cáng thương và đi tiếp.
Lần này, trinh sát mở đường từ hướng khác
thì mìn lại nổ tiếp, đồng chí Nghĩa lại bị thương tiếp lần thứ hai. Sau trận
đó, anh nổi tiếng khắp tiểu đoàn vì là người bị trúng mìn hai lần... mà không
chết. Anh này là dân Thủ Đức, nhập ngũ tháng 3/79, hồi ở phum Sophi tôi và anh
cùng trung đội của anh Thạch, tôi có nhắc tới anh trong câu chuyện nhỏ, bà mẹ
cô gái anh thích thường đùa với anh: Đưa me mười cây vàng me gã con gái cho. Số
bà này có con gái đẹp mà không được hưởng của, cô này do đẹp quá mà bị người
yêu... bắt làm vợ. Số là cô có quen một anh trong phum (tất nhiên là người
Campuchia), anh này không có mười cây vàng nộp cho bà già vợ, thế là anh và người
nhà của anh canh me cô này đi ra ngoài đường trùm bao bố lên người cô, vác cô
lên vai mang về làm vợ, tiền dâm hậu thú, ván đã đóng thuyền, thế là xong, thế
mới đểu, không biết anh Nghĩa có buồn không? Sao lúc đó tôi thấy anh vẫn tỉnh
bơ như không... Sau trận đó, do mất sức chiến đấu, anh được đồng chí tiểu đoàn
trưởng ưu ái phân công là trợ lý tác chiến kiêm trực ban chuyên nghiệp.
Từ ngày anh Nghĩa lên làm trực ban chuyên
nghiệp, cánh cán bộ trung đội chúng tôi khỏi phải mất công ăn cơm đại đội đánh
kẻng tiểu đoàn... Nói vậy chứ tôi thấy rõ tính ưu việt của chế độ cán bộ trung
đội trực ban tiểu đoàn và tuần tự như vậy mà lên cao hơn nửa, hoặc cán bộ tiểu
đội trực ban đại đội .v.v... Nó có cái hay là tập cho cán bộ cấp thấp quen dần
với công việc của cấp trên trong việc duy trì nề nếp sinh hoạt của đơn vị, để
sau này khi hữu sự có thể lên làm lãnh đạo mà đở bị bở ngở, vì đã được tập làm
chỉ huy từ trước.
Trinh sát tiểu đoàn chỉ còn duy nhất một
người là đồng chí tiểu đội trưởng Lê Văn Rô, nhập ngũ tháng 3/79, nhà ở phường
4, quận 1 (phường Tân Định bây giờ). Anh này tôi nhớ rõ vì chúng tôi có nhiều
duyên nợ trong trận đánh không... thành này!
Trời dần sáng, lần thứ ba trinh sát được
chỉ huy tiểu đoàn ra lệnh cắt rừng mở đường khác để đưa bộ binh vào trận, tôi
đang ở đầu hàng quân, thứ ba từ trên xuống, nghe rõ tiếng rừng núi chuyển mình
về sáng, nghe thấy đâu đây tiếng cười gằn của tử thần trong cánh rừng cây thâm
u trước mặt.
Và tôi thấy rõ đồng chí Rô mặt tái mét
đang từ dưới đi lên, anh xiểng niểng đi
ngang qua người tôi, tôi còn né người qua để nhường chổ cho anh bước tới. Mệnh
lệnh hành quân của cả một hệ thống quân giai đang ép lên anh, người lính trinh
sát cuối cùng!
NGƯỜI LÍNH TRINH SÁT CUỐI CÙNG
Chúng tôi đi rất chậm, cực kỳ cảnh giác,
thưa ra - cách nhau mười mét, là mệnh lệnh hành quân được nhắc đi nhắc lại từ
chỉ huy ở phía sau truyền lên phía trước.
Có dấu bẻ cò
Trinh sát Rô vừa cắt rừng vạch đường đi, vừa
báo về phía sau là anh phát hiện có dấu bẻ cò.
Đi trong rừng để đánh dấu đường đi, người
ta thường bẻ quặt một cành lá trên đường mình đi qua, cái dấu bẻ quặt đó cánh
lính chúng tôi gọi là dấu bẻ cò.
Có dấu bẻ cò
Tôi vừa truyền lại câu báo cáo đó ra phía
sau thì nghe bình một tiếng chát chúa, tôi nghe một luồng hơi nóng và lá cây
bay xạt qua rát mặt, hai chiến sĩ của trung đội đi phía trước bỏ chạy ngay ra
phía sau nói là bị thương.
Ngay lúc đó, đại đội phó Nông Tiến Dũng đi
lên kêu: Hùng lên phía trước xem sao? Tôi và anh thận trọng tiến lên phía trước.
Lê Văn Rô chết tức thì ngay sau tiếng nổ.
Nghe tiếng bình chát chúa, chúng tôi biết
chắc chắn là anh đã vướng mìn KP2.
KP2 là loại mìn vướng nổ do Trung quốc chế
tạo, mìn được gài bằng dây rừng hay dây gì bất kể miễn đồng màu với địa hình, hể
bị vướng thì cái dây đó kéo cái chốt an toàn ra, kim hỏa đập vào hạt nổ, hạt nổ
kích thích liều phóng, mìn phóng ra khỏi ống phóng, lên cao khoảng 1,2m thì
phát nổ.
Với tầm nổ này người bị vướng mìn chắc chắn vỡ tim, banh ruột chết ngay lập
tức. Mảnh của nó còn văng ra xa, bán kính sát thương dày đặc 10m, 20m tiếp theo
vẫn còn khả năng sát thương. Hai chiến sĩ trong đội của chúng tôi đã bị thương
kiểu như vậy, do chúng tôi duy trì tốt khoảng cách, nên hai anh này chỉ bị sây
sát chút đỉnh, y sĩ tiểu đoàn băng bó sơ qua rồi bắt ra trận tiếp, không được về
tuyến sau, vết thương ngoài da mà.
Trước mắt chúng tôi, anh Rô nằm bật ngửa,
ruột đổ xuống đất. Tôi hai tay hốt ruột của anh nhét lại vào trong bụng, ruột
đã đổ thì nó xổ và nở ra, nhét vào không hết. Tôi phải lấy cái nón cối của anh
úp lên chổ ruột còn nằm bên ngoài ổ bụng. Anh Dũng đi chặt cây làm cáng, chúng
tôi đặt anh vào võng thật gọn gàng, cột chặt dây võng vào cáng thương, để anh nằm
đó chờ lệnh.
LỐI VỀ ĐẤT MẸ
Đầu óc tôi ong ong vì hậu quả của tiếng nổ
và vì căng thẳng, lúc này cả trung đội chỉ còn tôi và một đồng chí hỏa lực RPD.
AK đi trước, hỏa lực đi sau là nguyên tắc hành quân trên chiến trường. Vậy nếu
đi tiếp thì tôi phải đi đầu đội hình, chết là cái chắc!
Tôi đang là cái mũi nhọn duy nhất trên đầu
mệnh lệnh hành quân của cả hệ thống quân giai. Tiểu đoàn chúng tôi đang chấp
hành mệnh lệnh hành quân của trung đoàn. Nhận lệnh của trung đoàn thì tiểu đoàn
lệnh xuống đại đội, đại đội lệnh xuống trung đội, trung đội không còn ai nhận lệnh
thì tôi phải trực tiếp thi hành cái mệnh lệnh đó... Đi tiếp chắc chắn là đá phải
mìn.
Cả trung đội trinh sát của tiểu đoàn 3 đã
bị thương vong sạch sẽ. Vậy ai cắt đường dẩn quân vào trận? Đây là tình huống
khó... Tất nhiên tình huống này theo hệ thống quân giai sẽ được báo cáo lên
trên và lên trên nửa để xử lý?
Thật lâu sau đó, chúng tôi được lệnh trở về
cái núi đá nơi mình xuất phát hồi nửa đêm... Tạm thời để lại cái căn cứ nằm
trong bãi mìn đó cho Pôn Pốt.
Không biết thằng Pôn Pốt trong cái căn cứ
đó có biết rằng những bãi mìn dày đặc của nó đã bẻ gãy một cuộc hành quân lớn của
Việt Nam và loại bỏ hoàn toàn một trung đội trinh sát ra ngoài vòng chiến đấu
không?
Chắc là thằng Pôn Pốt không biết. Nhưng
lính tiểu đoàn 3 tham gia chiến dịch năm đó thì nhớ mãi trận đánh bất thành
này.
Cuối tháng 4 năm 2005 tôi ngồi bên mộ phần
của Lê Văn Rô trong nghĩa trang liệt sĩ thành phố Hồ Chí Minh, thấy ghi ngày
tháng năm hy sinh của anh là 31/12/1982, ghi như vậy là không đúng! Anh Rô đã
hy sinh vào một buổi sáng sớm mùa xuân năm 1982, trong khoảng thời gian mới qua
rằm tháng giêng âm lịch được ít hôm, vì hôm xuất kích đó, trăng giữa đêm sáng lắm,
sáng mãi đến... sáng.
Trung đội 4 người của chúng tôi được phân
công mang xác anh Rô. Cả tiểu đoàn về tới núi đá thì trời đổ mưa, một cơn mưa đầu
năm bất chợt. Chúng tôi nhờ trận mưa này mà có nước uống giải khát, có nước nấu
cơm ăn bên cạnh cái xác của đồng đội mình và đêm đó chúng tôi đã ngũ ngay bên cạnh
cái xác lạnh của anh.
Nhờ uống nước cơn mưa trái mùa đó mà chúng
tôi phục hồi sức lực, hôm sau chúng tôi đủ sức cáng cái xác anh Rô đi đúng một
ngày đường rừng núi mấp mô để mang anh về tuyến sau làm hậu sự.
Xác của anh đã bốc mùi, chúng tôi chịu đựng
cái mùi đó của anh không ghê tởm, không oán trách. Tôi còn nhớ người anh nhỏ gọn
nên chúng tôi cáng anh không đến nổi è ạch lắm. Bước qua những gốc cây to đổ
trong rừng, võng anh trượt trên thân cây và rồi tiếp tục lắc lư trên vai chúng
tôi với cái mùi đặc trưng không lẩn đâu vào đâu được.
Trời chập tối chúng tôi mới ra tới đường
cái, đây là con đường đất đỏ mà chúng tôi thường đi tuần, con đường đã lấy đi của
anh lính lái xe một cái chân. Không biết cái anh thương binh cụt chân đó giờ
này ở đâu? Anh không biết tôi, nhưng tôi biết anh qua câu chuyện lính tráng
kháo nhau: Khi tỉnh dậy, anh đã tức tối - khóc lóc - kể lể như thế nào khi thấy
cái chân mình bị mất.
Chúng tôi ngồi nghỉ trong một cái chốt ven
đường đất đỏ của lính công binh, không biết có phải là công binh C18 trung đoàn
4 không? Điều này không quan trọng, nhưng cái tôi nhớ nhất là những chén trà và
điếu thuốc mà chúng tôi được thưởng thức trong cái chốt ven đường đó.
Cái tình cảm tương thân tương ái của những
người lính đối với nhau trên chiến trường tốt lắm. Anh lính đóng chốt luôn sẳn
sàng chia sẽ với anh lính ngoài mặt trận, sẳn sàng đãi anh những món ngon mình
có sẳn. Trà và thuốc, nhất là thuốc lá là món chúng tôi luôn luôn thiếu thốn,
luôn luôn thèm thuồng trong những chuyến hành quân xa.
Chúng tôi bàn giao cái xác của anh Rô để
tiếp tục chuyển về tuyến sau ngay tại cái chốt công binh đêm hôm đó.
NHỮNG CƠN SỐT RÉT
Chiến dịch chưa kết thúc, hôm sau chúng
tôi quay trở lại cái núi đá có con nhím chạy loảng xoảng chốt ở đó một thời
gian nửa rồi mới quay ra trở về cái căn cứ mà chúng tôi chiếm được hôm 28 tết.
Mấy ngày sau, từ cái căn cứ đó, chúng tôi
lại tiếp tục đi truy quét. Chúng tôi đi ngược lại con đường đất đỏ, trở về hướng
chúng tôi xuất phát hôm 27 tết.
Đi được một đoạn, tiểu đoàn dừng lại để
trinh sát cắt đường rẽ vào rừng thì tôi lên cơn sốt mê man, tiểu đoàn để tôi nằm
đó, vào rừng hành quân theo bản đồ tác chiến được giao. Tỉnh dậy, tôi quay trở
về cái căn cứ của mình, đi được một đoạn thì lên cơn sốt, tôi ngã ra nằm trên
con đường tôi vừa đi, trước khi mê man, tôi còn nhớ quay mũi súng về hướng đi của
mình để lúc tỉnh dậy đi tiếp.
Tỉnh dậy, dù đã cẩn thận quay mũi súng chỉ
đường, nhưng đầu óc tôi mê muội không biết hướng nào mà đi, tôi cứ đi đại, đi
mãi thì đến chổ ngã ba mà hồi sáng tôi nằm lại trước khi tiểu đoàn rẽ vào rừng.
Vậy là sai hướng rồi, uổng công tôi đi từ sáng đến giờ, mệt mõi và kiệt sức,
tôi bật ra mê man bên đường...
Chính cái sức trẻ đã cứu tôi, nó dựng tôi
dậy và đi một hơi trở về cái căn cứ của mình. Cái căn cứ mà chúng tôi chiếm được
hôm 28 tết, giờ đã là hậu cứ đông vui của cả trung đoàn 4.
Về đến hậu cứ thì trời đã về chiều, tôi
ghé vào chốt của trung đội vệ binh đóng ở đầu cứ uống nước, tôi được anh em cho
thuốc uống rồi tôi đi tiếp đến điểm đặt hậu cứ của tiểu đoàn, giăng võng dưới mấy
bụi tre bên bờ suối cạn, lăn ra ngũ mê man mấy ngày đêm liền, tôi còn nhớ đồng
chí Tý đại đội trưởng của tôi mới từ Việt Nam sang, lắc võng hỏi tôi cái gì đó,
tôi cũng mê man ú ớ trả lời cái gì đó, khi tỉnh dậy thì đồng chí đã đi chiến
trường rồi... Vậy mà sau đó tôi lại tỉnh dậy được, lại tiếp tục cùng tiểu đoàn
đi lùng sục Nam Cao Mê-lai nửa... Và căn bệnh sốt rét mãn tính lại quật ngã tôi
một lần nửa trên con đường hành quân liên tục của tiểu đoàn.
Bây giờ đang là tháng 3 năm 1982.
Có mùi cơm chín, hôi thật là hôi... Khi
anh bị sốt rét nặng, anh sẽ ngửi mùi thơm của cơm chín ra mùi hôi và tất nhiên
anh ăn không được!
Tôi cũng vậy, tôi ngã ra võng nằm tiếp!
Ngũ cho đã, cho qua cơn sốt thì bật dậy thu võng quay về hậu cứ.
Về đến hậu cứ trung đoàn, chúng tôi do bị
bỏ lại chiến trường, không có giấy giới thiệu của đơn vị chủ quản nên không được
nhập viện, đồng chí nào đó đã phát cho tôi một vốc thuốc lớn để dành uống trị bệnh.
NHỮNG NGÀY Ở SOPHI
Và với vốc thuốc đó trong túi, tôi tự động
trở về hậu phương của mình, hậu phương của tôi là nhà me Lênh ở tận phum Sophi
phía Bắc lộ 5... Không hiểu bằng cách nào mà tôi xoay xở về được tới phum Sophi
cách đó hơn 20 cây số trong điều kiện sức khỏe tồi tệ, sốt rét mãn tính, ngũ
mê, ngũ mệt.
Với vốc thuốc của đồng chí K23 tốt bụng
phát cho và sự tận tâm chăm sóc của me Lênh, tôi dần khỏi bệnh.
Phum Sophi lúc đó là đơn vị hành chánh cấp
xã, chính quyền mạnh, có chuyên gia kè cặp và lính tráng bảo vệ nên rất an
ninh. Tất cả bệnh binh và lính trốn trận đều lần lượt kéo nhau về đây nghĩ dưỡng.
Tôi có một anh bạn tên Hà Phước Tú nhập ngũ cùng đợt, làm phiên dịch cho chuyên
gia, anh nói với tôi là anh được chỉ thị phải ghi chép tên tuổi lính bỏ về đây
để sau này kỹ luật. Tôi nghe, nhưng mặc kệ, tôi không trốn trận, tôi bị bệnh bỏ
lại chiến trường, tôi về đây vì ở đây tôi có mẹ nuôi chăm sóc, cho tôi ăn uống...
Tôi nằm dưỡng bệnh tại nhà me Lênh với mấy
anh lính trẻ nửa, nhập ngũ sau tôi và không phải là lính tôi... Người đông, ăn
uống tốn kém, nhà me Lênh lại nghèo, tôi nghe cô cháu nội của me Lênh nói với mấy
anh lính trẻ là or ăng-co hốp (hết gạo ăn). Tôi nghe rõ câu nói đó, nhưng không
phản ứng gì, đến nay tôi vẫn còn ân hận về sự vô tâm của mình.
Mấy anh lính trẻ đó chắc chắn là nghe và
hiểu, rồi không biết có đi kiếm gạo cho me Lênh nấu không? Tôi bệnh hoạn nửa
mơ, nửa tỉnh, chỉ biết rằng tôi đã nằm an dưỡng ở nhà me Lênh rất lâu, chắc là
hơn nửa tháng trời và đến nay tôi vẫn còn ân hận gì đã kéo thêm lính về ăn tàn
ăn hại nhà me. Thực ra nếu hiểu đời, lúc đó
tôi có quyền đi kiếm hậu cần đòi tiêu chuẩn gạo của mình để mang về cho
mẹ nấu cơm.
Lúc đó tôi có nghe anh em nói phong thanh
là có cấp phát gạo cho lính nằm chờ đơn vị ở Sophi, nhưng tôi không biết là
mình có đi lãnh gạo mang về cho mẹ không? Chắc là không, nếu có thì tôi đã
không phải áy náy về cái câu or ăng-co hốp đó rồi!
Được tin đơn vị chuẩn bị trở về, chúng tôi
lại kéo nhau vào Tà-cuông Krao. Trước khi tôi về Tà-cuông, me Lênh đã tặng tôi
một tấm hình để làm kỹ niệm, đó là tấm ảnh me cạo đầu mặc bộ đồ nữ tu màu trắng.
Tôi giữ tấm ảnh đó cẩn thận, mãi đến năm 1996 nhà tôi bị cháy, cháy tiêu luôn tấm
ảnh, cùng tập nhật ký chiến sĩ, cả những tờ bằng khen của quân đội cấp cho tôi
cũng trở thành tro tàn.
Lúc me Lênh tặng tôi tấm ảnh, tôi không hề
nghĩ đó là lần gặp gỡ cuối cùng của hai mẹ con tôi, tôi sẽ không còn dịp gặp lại
mẹ! Nhưng mẹ là người già cả, mẹ hiểu, mẹ biết rằng tôi đã hoàn thành 3 năm
nghĩa vụ quân sự, chắc chắn là tới đây tôi sẽ về nước, khó có cơ hội gặp lại mẹ,
mẹ đã tặng tôi tấm ảnh để làm kỹ niệm, để còn nhớ mẹ.
Và tôi nhớ thật, nhớ mãi đến bây giờ. Cái
nhớ pha lẩn bức rức, tôi nghĩ rằng đến nay mẹ không còn nửa, hoặc nếu còn thì
cũng đã ngoài 90 rồi, tôi phải làm sao đây? Phải về thăm lại chiến trường xưa,
thăm lại mái nhà xưa của bà mẹ nuôi của mình, như vậy mới phải đạo làm người.
TÀN CHIẾN CUỘC
Về Tà-cuông Krao, chúng tôi nhận địa điểm
bố trí của đơn vị mình, đóng cọc, trãi tăng nylon ra làm vật chứa, rồi đi xách
nước trong hồ Tà-cuông đổ vào, chuẩn bị
sẳn sàng để anh em về nấu cơm, nấu nước phục vụ anh em.
Quân tiền tuyến trở về từng đoàn, từng
đoàn, nước hồ Ta-cuông cạn trơ đáy, bùn sình lầy lội nổi lên. Không đủ nước để
sử dụng, nhiều đơn vị phải cho xe tải lên phía trước chở nước về dùng. Thế là
có chuyện:
Chiều hôm đó, ra đường đất đỏ đứng ngóng
đơn vị của mình thì tôi thấy một xe chở nước trờ tới, xe này vừa bị lính Pốt phục
kích bắn B40, lái xe đã bình tỉnh chạy
thoát về Tà-cuông.
Tôi thấy rõ ràng, hai anh lính đứng trong
thùng xe tải, cong lưng, vận sức kéo từ phuy nước ra... một xác lính bị gãy gập
làm đôi và bị nhấn lọt thỏm vào phuy nước. Anh này đã lãnh nguyên một trái B40
vào người và sức đẩy của trái đạn này đã nhận thẳng cánh anh vào thùng phuy chứa
nước luôn (loại phuy xăng 220 lit).
Tổn thất nhân mạng của chiến dịch C81 tạm
gọi là kết thúc ở đây, sau cái chết của người chiến sĩ đi lấy nước lúc tàn chiến
cuộc!
Tiểu đoàn của chúng tôi cũng về Tà-cuông
Krao ngày hôm đó chỉ với mấy mươi tay súng tàn tạ vì thiếu ăn, thiếu uống, bệnh
hoạn!
Các đơn vị tham gia chiến dịch C81 lần lượt
rút khỏi Tà-cuông, riêng tiểu đoàn tôi thì còn nán lại tại đó một thời gian để
bảo vệ cái phum này.
Đầu mùa mưa 1982 Tà-cuông Krao đã trở
thành một căn cứ hậu cần lớn của trung đoàn 4... Trước đó, tôi thấy từng đoàn
xe tải lần lượt chở gạo, chở đạn đến chất đầy có ngọn trong chùa Tà-cuông,
riêng đạn được chất tràn cả ra khoảng đất trống phía sau chùa. Đợt vận tải kết
thúc thì mùa mưa 1982 cũng chính thức bắt đầu.
Hồi thứ 22: XÂY DỰNG CĂN CỨ HÀNH QUÂN
NĂM-SẤP
Đầu mùa mưa 1982 tiểu đoàn 3 lại được bố
trí về Sophia, xóm làng bây giờ hoàn toàn vắng lặng vì dân đã bị di dời ra hai
bên lộ 5. Đại đội bộ đóng gần hồ nước giữa phum, tôi còn nhớ mùa mưa năm đó, tại
cái hồ này chú Thái liên lạc bắt được một con cá lóc, nó đang lóc ngược giòng
nước chảy vào hồ, mới đầu mùa mưa mà cái hồ này đã đầy nước.
Thời gian này quân số đơn vị đã hồi phục lại,
mỗi trung đội được 7, 8 người. Trung đội của chúng tôi được bố trí ở phía đông
phum, trước mặt là một con mương nhỏ, bên kia là một cánh đồng rộng mênh mông,
trơ trọi vài cây độc mộc giữa đồng, chim trời về đậu trên những cành cây đó. Có
lúc rảnh rổi tôi xách súng đi bắn chim cải thiện, nhưng giữa đồng trống không
tiếp cận được nó, thấy tôi lội ruộng bì bỏm vào, nó đập cánh bay đi.
Giai đoạn này chúng tôi luyện tập chiến
thuật phòng ngự trận địa, vận động tấn công trên chiến trường từ cấp đại đội đến
cấp tiểu đoàn .v.v. Riêng khoa mục tiểu đoàn bộ binh vận động tấn công trên chiến
trường thì ban chỉ huy tiểu đoàn đích thân dàn quân diễn tập, có ban chỉ huy
trung đoàn xuống kiểm tra và đánh giá kết quả học tập. Việc huấn luyện này theo
tôi là rất quan trọng để cán bộ các cấp trong tiểu đoàn hiểu ý nhau hơn trong
phối hợp tác chiến và các xử lý tình huống xãy ra trong chiến đấu.
Giai đoạn cũng cố và huấn luyện mùa mưa
1982 trôi qua rất mau, giữa mùa mưa 1982 chúng tôi lại trở về Tà-cuông Krao với
nhiệm vụ mới nghe lần đầu là... xây dựng căn cứ hành quân.
Trở về Tà-cuông, thời gian đầu chúng tôi
ban đêm ngũ ở Tà-cuông, ban ngày kéo nhau vào Năm-sấp xây dựng căn cứ hành
quân. Trong thời gian này đơn vị tôi có nhiều thay đổi, anh Tý đại đội trưởng
được lên chức qua tiểu đoàn 1 làm tiểu đoàn phó, anh Nông Tiến Dũng lên làm quyền
đại đội trưởng, anh Thạch được điều qua tiểu đoàn 2 làm đại đội phó. Riêng
trung đội tôi, anh Thư trung đội trưởng (sĩ quan) đi phép về nắm lại trung đội,
anh là dân Củ Chi, giỏi nghề mây tre lá. Anh chỉ huy trung đội xây cất lán trại,
đan tranh lợp nhà, chẻ tre làm giường .v.v. Nhờ vậy chúng tôi tuy ở trong rừng sâu nhưng cơ sở vật chất tương đối đầy đủ,
tươm tất. Tôi lui về vị trí trung đội
phó của mình với tâm niệm cấp phó lúc có, lúc không. Đây là lúc tôi thảnh thơi,
tối tối nằm nghe mưa rơi tí tách trên mái lá, thỉnh thoảng đốt đèn dầu, nằm giường
tre viết thư gởi về nhà hoặc ghi hồi ký chơi.
Tôi đã từng dẩn trung đội vào rừng tuần
tra khu rừng rậm phía trước đội hình (tất nhiên là có trinh sát dẩn đường, vì rừng
rậm khó đi, không có la bàn thì lạc mất đường về). Phía trước đội hình đóng
quân của chúng tôi là rừng tre dày đặc, chen chân không lọt.
Với cái địa hình này không thể nào dàn
quân hàng ngang tấn công được, giỏi lắm là anh chỉ len lách được trong rừng tre
theo hàng dọc mà thôi... Vậy là êm, với cái rừng này lính Pôn Pốt khó mà làm gì
được chúng tôi.
Phía trước chúng tôi là rừng tre, còn chổ
chúng tôi đóng lại là rừng tạp, tức là có cây dầu, cây bằng lăng, cây tre, cây
mây, dây leo... đủ loại.
Lần đầu tiên tôi bứt cái dây mây, tôi nắm
nó mà kéo, cái võ lụa gai tua tủa của nó bị vướng vít trong cành lá nên tuột
ra, để lộ cái dây mây trắng ngà sạch đẹp. Khi tôi bứt dây, cả rừng cành lá phía
trên bị nó lôi theo mà chuyển động.
Người ta nói bứt dây động rừng là vì vậy.
Dây mây già tới tuổi rất dẻo dai, đu không
đứt, bứt không rời, chỉ có cách kéo dây xuống tới chừng nào căng quá thì thôi,
thì kê cái dây đó vô thân cây, lấy dao đi rừng phập một cái là xong.
Giữa mùa mưa năm 1982, chúng tôi có một đợt
bổ sung quân lớn. Đợt bổ sung quân này lấy lính từ miền Tây, quân khu 9. Đất miền
Tây dễ sống nên lính miền Tây hay trốn... Lính miền Tây trốn rất dữ, qua
Campuchia 10 em, cuối cùng chắc chỉ còn lại 7 em, còn 3 em chém vè về nước đủ
cách: trốn trên đường chuyển quân, trên đường
hành quân ra mặt trận, thậm chí vào tới tuyến đầu rồi... vẫn trốn.
Tiểu đoàn tôi phân công người đi đón tân
binh tới cấp trung đội, tức là mỗi trung đội có một anh tham gia đi nhận quân.
Chúng tôi đi Sisophon đón quân cẩn thận như vậy, đưa vào tới tận Tà-cuông Krao
an toàn rồi, cho các em ngũ đêm tại đó, vậy mà sáng hôm sau lại có thêm một số
em tự động rời bỏ chúng tôi... không một lời từ giả.
Tôi có một chuyện ở Tà-cuông xin nói luôn
ra đây cho đủ bộ: Chúng tôi đi nhận quân, cấp trên trực tiếp của chúng tôi thì
có anh Nông Tiến Dũng (trung đội trưởng lúc tôi mới vào đơn vị, nay anh quyền đại
đội trưởng). Đêm đó tại Tà-cuông, anh rủ tôi nằm võng nói chuyện, tôi căng võng
nằm bên cạnh anh... anh không dông dài gì cả, anh kêu tôi ở lại để chi bộ kết nạp
Đảng cho tôi. Tôi thành thật trả lời anh là tôi cám ơn anh, nhưng thôi, tôi muốn
ra quân, tôi muốn trở về Việt Nam.
Là người dân tộc chân chất, anh không nói
gì thêm và tôi cũng vậy! Về Việt Nam là niềm mong muốn tột cùng cháy bỏng trong
tâm khảm mỗi người lính chúng tôi, thực lòng anh cũng như tôi, ai cũng muốn về
Việt Nam cả! Anh thông cảm với tôi và không muốn lôi kéo tôi chi thêm vướng bận
ở cái đất nước... không phải của mình này.
Tôi lúc đó thực sự muốn trở về Việt Nam,
luật 3 năm nghĩa vụ quân sự đã có, tôi đã dư thời gian phục vụ trong quân đội,
còn chần chừ gì nửa mà không về? Tôi thực sự thương yêu và tự hào với màu áo
lính, tôi thích làm sĩ quan quân đội vì bản chất con người tôi luôn luôn muốn
ngoi lên phía trước, không bao giờ muốn dừng chân tại chổ. Nhưng tôi không thể
đánh đổi tất cả những cái đó bằng mạng sống của mình, nhất là tôi đang nhớ nhà,
kinh khủng... vì các đồng đội nhập ngũ 77, 78 đã và đang lần lượt phục viên trở
về địa phương.
Tôi
đã ba lần bị địch bắn vào người mà không chết, lần thứ nhất bị trúng một trái cối,
lần thứ hai trên đường đi lấy nước gần Phnom Melai bị Pôn Pốt bắn cho một loạt
đạn, lần thứ ba bị một viên đạn bắn tỉa tại Công-xi-lốp. Bất quá tam, đối diện
tử thần ba lần như vậy là đủ rồi, xin giã từ vũ khí...
Thực ra nguyên nhân sâu xa khiến tôi giã từ
vũ khí không phải vì ba lần chết hụt đó! Mà thú thật, cái tôi sợ nhất là mìn! Nếu
đánh trận tay đôi, thời điểm đó đám tàn quân Pôn Pốt không làm chúng tôi sợ,
nhưng còn mìn thì miễn bàn, nó giết người từ tốn, nhưng tốn hoài, chịu sao cho
thấu? Nhớ tới cái trận tôi chỉ huy trung đội đi đầu hàng quân, tận mắt chứng kiến
cảnh trung đội trinh sát ba lần tiến lên, ba lần đạp mìn, hy sinh đến anh trinh
sát cuối cùng thì quá đáng lắm rồi! Tôi không muốn hy sinh như vậy!
Sau này ra quân, đi làm kiếm tiền vất vả,
tôi vẫn thường nhớ tới thời kỳ đi lính tuy gian khổ nhưng oai hùng của mình,
tung hoành ngang dọc khắp chiến trường, đánh đuổi Pôn Pốt chạy cùng trời cuối đất,
được chỉ huy và đồng đội tin cậy, được nhân dân nước bạn thương yêu và đùm bọc...
Nếu địa điểm tôi và anh Dũng nằm võng tâm
sự trong cái đêm nhận quân đó xãy ra tại Việt Nam thì chắc chắn tôi sẽ ở lại để
vào Đảng và tất nhiên sẽ được thăng chức, thăng quân hàm sĩ quan phục vụ lâu
dài trong quân đội theo như đề bạt của đồng
chí chỉ huy trực tiếp của mình, người anh em - đồng chí - đồng đội của tôi từ
lúc tôi chân ướt, chân ráo bước chân vào đơn vị.
Lính miền Tây về bổ sung cho đơn vị tuy
hao hụt, dù dọt dọc đường vậy chứ vẫn còn đông. Trung đội tôi nhận được tới 6,
7 em. Nâng quân số trung đội lên trên 15 người. Người đông thế mạnh, chúng tôi
đóng thêm bàn ghế ngồi ăn uống đàng hoàng, hàng ngày phân công anh em vào rừng
đốn măng mang về cải thiện. Lính miền Tây sành việc ruộng đồng, đi rừng đốn
măng mỗi ngày mấy ba lô, luộc ăn không hết, chúng tôi ngâm chua để dành...
Những người lính mới bổ sung đợt này do đã
được tự động sàng lọc, anh nào không chấp nhận gian nan nguy hiểm thì đã trốn
chạy, anh nào xác định tốt tư tưởng ở lại quân đội thì nhiệt tình công tác, hòa
đồng mau, ý thức tự giác tốt. Làm chỉ huy cũng... khỏe, không phải hầm hừ kiểm
điểm lẩn nhau.
Cuối tháng 9/1982 tôi được phát lý lịch kê
khai để làm thủ tục ra quân, sau đó tôi được ở lại Tà-cuông Krao chờ ngày về.
Anh em tiểu đoàn 3 ở Năm-sắp lại được điều động lên phía trước tham gia với
công binh đi ngăn suối đắp đập chứa nước dự trữ
mùa khô.
Anh em hành quân lên phía trên, mùa khô
thiếu nước, tôi để cả cái bi đông nước nhiều kỷ niệm lại cho anh em, không còn
lại gì ngoài chăn màn trong ba lô và hai
bộ đồ dính da, võng cũng đã bỏ vì mục rách.
Tôi tay không qua Campuchia và cũng tay
không trở về Việt Nam, đó là hình ảnh chung nhất của những người lính tình nguyện
Việt Nam trở về sau khi hoàn thành nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia.
Hồi thứ 23: VỀ TỔ QUỐC
Ngày 10/10/1982 cầm quyết định phục viên
trong tay, chúng tôi những người lính trung đoàn 4 ra quân cùng đợt hăm hở tiến
ra ngã ba Cốp-tút chờ xe của trung đoàn đưa trở về Sisophon.
Chúng tôi ngủ một đêm ở Sisophon nghe lính
tráng tụ tập nhậu nhẹt ca hát ì xèo suốt đêm, đến sáng sớm được xe tải đưa về hồ
Ba-rai ở Xiêm Riệp giáp biển hồ. Chổ này gần chợ Xiêm Riệp, sáng hôm sau tôi đi
chợ Xiêm Riệp chơi, mua một xấp vải quần tây và vài cục xà bông tắm. Ra khỏi chợ
thì thấy anh em ngồi xe lôi kéo nhau đi thăm đền Ăng-co, tôi chạy theo nhưng
anh em xua tay: Đông quá rồi, xe chạy không nổi!
Quả thật là đông, không còn chổ nhét. Tôi
cũng không cố nhảy lên xe vì trong tay bận cầm xấp vải và mấy cục xà bông.
Về đến nhà tôi vẫn còn thấy tiếc bởi hụt
chuyến đi vừa rồi, luẩn quẩn ở trạm giao liên chờ đón mấy người bạn đi chơi trở
về. Tới xế chiều anh em về kể chuyện đi chơi Ăng-co, tôi đã tiếc lại càng thấy
tiếc!
Vậy là 4 năm ở Campuchia tôi chưa từng được
đi thăm đền Ăng-co lần nào!
Đợi ở hồ Ba-rai ít ngày để chờ tàu,
tôi nóng ruột về Việt Nam nên chẳng thiết
tha đi dạo chơi thăm thú cảnh vật quanh vùng, chỉ biết chắc rằng nơi đây thuộc
phạm vi Ăng-co rồi. Bấy giờ đang là thời chiến, lính Pốt vẫn còn ẩn náo đâu đây
chờ dịp ra tay đánh lén, do đó chúng tôi được khuyến cáo là không được đi đâu
xa. Đường bộ từ Xiêm Riệp về Việt Nam thỉnh thoảng lại bị phục kích nên chúng
tôi được đưa về bằng đường sông cho an toàn.
Rồi cũng đến ngày xuống tàu về Việt Nam,
chúng tôi đi trên tàu Hải quân có trang bị pháo cao xạ ở nóc ca bin tàu, tàu
tăng tốc ra khơi, chúng tôi đang đi giữa biển hồ. Cuối mùa mưa mặt nước hồ rộng
như biển, bởi vậy dân mình mới gọi nó là biển hồ, chúng tôi ngoài khơi, nhìn thấy
bờ bến mịt mùng, mông lung. Mãi đến quá trưa tàu mới vào sông Tôn-lê-sap, đến chiều
mới đến trạm giao liên nằm bên bờ sông Tôn-lê-sáp gần thành phố Phnôm Pênh.
Sáng hôm sau, từ Phnôm Pênh chúng tôi được
xe ca quân đội đưa về tới ngã tư Bảy Hiền thì trời đã tối, anh em tự động rã
ra, ai về nhà nấy. Tôi đi xe lam về tới chợ Bà Chiểu, xuống xe lội bộ về nhà.
Về đến nhà cô em gái út nhận không ra kêu:
Má ơi có chú bộ đội vào nhà, khi tôi đi bộ đội em mới 4 tuổi, nay lên 8 hoàn
toàn không nhớ mặt tôi.
Hồi thứ 24: LỜI KẾT
Những năm đó, lính Việt Nam đi đánh trận Campuchia trở về rất hụt hẩng, cảm thấy tự ti
mặc cảm hơn là danh dự tự hào, cảm nhận rõ ràng là mình bị tụt hậu, bị những
thanh niên cùng trang lứa qua mặt vì... mình ít học, không có chuyên môn nghiệp
vụ.
Cuộc sống thường dân sau những ngày mặc áo
lính không đơn giản, thời gian đầu chúng tôi thường xuyên qua lại thăm viếng lẩn
nhau, thông cảm với những khó khăn đời thường của nhau: anh làm bảo vệ, anh lao
động chân tay, có anh ngồi vĩa hè bán... trà đá.
Tôi học hành dang dở, nay lại phấn đấu
ngoi lên bằng con đường học vấn. Vừa làm vừa học, lấy bằng tốt nghiệp bổ túc
văn hóa cấp 3 xong, tôi ghi danh học trường đại học kinh tế lớp đêm, rồi lấy bằng
cử nhân kinh tế. Rồi đi lên bằng con đường sản xuất kinh doanh, làm ăn tuy kiếm
được nhiều tiền nhưng tôi luôn luôn bức bối, cảm thấy mình bị làm khó dễ từ những
quan chức nho nhỏ, công lao chẳng là gì so với những người lính đổ xương đổ máu
trên chiến trường!
Những ký ức về khoảng thời gian nằm trên
thảm hoa ngắm trời xanh, mây trắng ở chốn rừng xanh heo hút gần cái phum Prê-ao
vắng lặng luôn luôn là kỹ niệm đẹp... Luôn luôn thôi thúc tôi trở về với thiên
nhiên, nơi cội nguồn gốc rể con người, nó làm tôi quyết định về vườn khi tuổi
còn trẻ, nhưng tâm hồn thì hình như đang già cổi đi không sao cải thiện được!
Một thời gian khá lâu sau khi ra quân, các
người lính chúng tôi từ từ tụ hội lại, gặp nhau một năm hai lần thông qua ban
liên lạc cựu chiến binh trung đoàn 4. Cuối tháng tư hàng năm, chúng tôi vẫn thường
xuyên vào nghĩa trang liệt sĩ thành phố Hồ Chí Minh viếng thăm đồng đội, thắp
hương tưởng niệm các anh em đã hy sinh vì nghĩa lớn. Nhìn hàng hàng lớp lớp nấm
mồ qui tụ lại thành từng nhóm 6 cái , chúng tôi vẫn thường gọi vui là 6 em một
mâm, như mâm cơm ngày nào trong trường huấn luyện.
Nghĩa trang liệt sĩ thành phố không phân
biệt già trẻ, chỉ phân chia theo quê quán của người lính. Do đó các thế hệ liệt
sĩ chống Pháp, chống Mỹ, chiến trường Tây Nam nằm xen kẻ nhau một cách tự nhiên
và hợp lý, bởi nếu không có thế hệ đi trước nhiều kinh nghiệm kềm cặp thế hệ đi
sau trẻ khỏe thì chúng ta dựa vào đâu để đánh thắng kẻ thù?
Kẻ thù của chúng ta còn đó, ngoài biển...
Đang rất hung hăng và ngạo mạn!
Tại sao ta không cài thế để chống đở lại kẻ
thù ngoài biển, chúng ta có hiệp hội các nước Đông Nam Á, có các kẻ thù của kẻ
thù sẳn sàng tiếp sức ta đương đầu kẻ địch.
Cái anh ba Đại Hán hung hăng đòi mở rộng
lãnh thổ ra Nam Hải đang làm anh hai chướng mắt, anh cao bồi vùng Viễn Tây cũng
bực bội vì bị cản trở đường lui tới biển Đông của anh.
Trên bàn cờ biển Đông, cái cách hùng hục
đưa tốt qua sông như anh ba đang làm, chỉ tổ khiến người ta ghét thôi!
Chuyện binh đao không phải của riêng
mình... các vua Trần đã hoàn toàn có lý khi triệu tập hội nghị Diên Hồng hỏi
các bô lão và ba quân tướng sĩ: Giặc đến nhà nên hoà hay chiến?
Để bày tỏ lòng yêu nước và ý chí hào hùng
của cả dân tộc, ông cha ta kể lại câu chuyện cậu bé Trần Quốc Toản 16 tuổi bóp
nát trái cam trong tay thề: Phá cường địch báo hoàng ân.
Trong 3 lần đối đầu đó, quân ta đều thắng
và câu chuyện: Người lính già đầu bạc, nhắc mãi chuyện Nguyên phong... Luôn
luôn làm chúng ta cảm thấy tự hào. Theo tôi, nếu cần thiết thì chúng ta cũng
nên dựng tượng tôn thờ hình tượng người
lính già đầu bạc để nâng cao lòng yêu nước, ý chí tự hào dân tộc. Nếu cứ ép người
quá đáng như thế này thì chúng ta phải làm một cái gì đó để phản kháng chứ?
Mục đích tôi viết lên những mẫu chuyện này
nhằm ôn lại một thời ngang dọc của quân tình nguyện Việt Nam trên khắp đất nước
Campuchia, từ Nam lên Bắc, từ Đông sang Tây để đuổi tận, giết tuyệt một chế độ
diệt chủng kinh hoàng đã biến cả nước Campuchia thành một địa ngục trần gian
giai đoạn 1975-1979. Khi tôi viết chuyện, hình ảnh những anh em, đồng chí, đồng
đội đã hy sinh lần lượt trôi qua trước mắt tôi, như tiếp sức, như nhắn nhủ một
điều gì? Xin tặng những trang viết này cho các anh thay lời tưởng niệm.
Tôi còn chứng kiến, còn tiếp xúc, còn mang
vác nhiều thân xác liệt sĩ nửa, nhiều lắm, không kịp biết tên vì chỉ tình cờ gặp
nhau trên chiến trận... Cho tôi giành một phút để nhớ đến anh, một anh lính
trinh sát trung đoàn đã giãy chết trong cáng thương trên vai tôi (và anh Thạch)
trên con đường mòn Cao Mê Lai hiểm ác những năm 1980.
Tôi viết tập hồi ký này tuy chân thật và cảm
động nhưng chắc là không hay, vì tôi không phải là nhà văn, thậm chí chưa từng
qua một khóa huấn luyện sơ cấp nào về cách viết... Tuy nhiên giống như trong một
buổi tọa đàm, phải có người phát biểu trước để mở màn câu chuyện. Hy vọng sau
phát pháo đầu thô kệch này sẽ nổ ra những câu chuyện hay hơn về một thời chinh
chiến, một thời máu đổ từ giữa cuối những năm 1970 và kết thúc bằng hoa vào cuối
những năm 1980 khi toàn bộ quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia rút về nước.
Đọc xong quyển hồi ký này, thế nào cũng có
bạn đặt câu hỏi tại sao tôi chỉ đề cập đến những hy sinh, mất mát, sao không
nói đến những thắng lợi, dễ làm mất nhuệ khí quân mình. Xin thưa, tôi không có
số liệu thống kê, tôi không có thời gian đếm xác kẻ thù... Có những trận đánh
trên đường biên giới, chúng tôi đánh nhanh, thắng to, rút gọn nhưng thường thì
chúng tôi không được tham gia thu dọn chiến trường mà phải dàn quân chốt chặn đề
phòng địch phản kích... Đó là nhiệm vụ người lính, là kỹ luật chiến trường, nếu
anh nào cũng nhào vô đếm xác chết, thu đồ cổ, địch phản kích thì chắc chắn vỡ
trận.
Đối với người lính, những trận đánh nhiều
hy sinh, gian khổ thường làm chúng tôi nhớ sâu sắc, còn những trận thắng, nhất
là những trận đánh thắng quá nhanh, nhiều khi chúng tôi không kịp đưa vào bộ nhớ
và cho nó qua luôn. Lính mà, hình như không biết kể công mà thường là kể khổ.
Cuộc chiến đã đi qua ít nhất là 20 năm đối
với những cựu chiến binh thời kỳ ấy, đây cũng là thời gian tích lũy cần thiết để
một anh thanh niên trở thành một người tri thiên mệnh. Cùng với thời gian, những
tích lũy về văn hóa, về kinh nghiệm sống và nhất là với những trăn trở chín muồi
về một cuộc chiến đã đi qua, tôi tin rằng rồi đây sẽ có nhiều tác phẩm hay viết
về đề tài này.
Giữa mùa mưa 2009
Thượng sĩ Hùng
NGÃ BA CON VOI
Chào các bạn, tôi tham gia chiến trường
biên giới Tây Nam được 3 mùa khô và 4 mùa mưa, trong đội hình tiểu đoàn 3,
trung đoàn 4, sư đoàn 5, quân khu 7 (sau 4/79 trực thuộc mặt trận 479) đã từng
trãi qua những trận đánh ở Âm-leng tháng 3/79, công-xi-lốp tháng 6/80 và thường
xuyên đi đánh Phnom Melai trong các năm 80-81-82, tôi thường hành quân vào Cao
Mê-lai từ hướng đít của con voi, nên tôi đặt tên tập hồi ký của mình là NGÃ BA
CON VOI.
Đối với lính trung đoàn 4 thì ngã ba con
voi (Nimith) và Cao Mê-lai là những địa danh cháy bỏng lòng người... tôi quyết
định sẽ kể ra đây cho các bạn nghe và tôi hy vọng rằng sau này sẽ có những quyển
hồi ký hay hơn nửa về MỘT THỜI MÁU ĐỔ THÌ NHIỀU MÀ HOA THÌ KHÔNG CÓ ĐÂU!
Những chuyện tôi sẽ kể ra đây thì sẽ tốn
nhiều thời gian của các bạn đấy, tôi xin lập chủ đề mới là NGÃ BA CON VOI, mong
các bạn xem và đóng góp ý kiến cho truyện của tôi thêm hoàn hảo.
Thú thật là tôi rất ngưỡng mộ văn phong của
bac trungsy1, nhưng cách hành văn của tôi chắc chắn không bằng, xin các bạn
thông cảm.
Xin gởi các bạn xem trước ba hồi đầu trong
tập NGÃ BA CON VOI.
Lời quê góp nhặt đôi lời, mua vui cũng được
một vài trống canh.
Chuyện của tôi thì buồn nhiều hơn vui, xin
các bạn thông cảm.
1.
RA CHIẾN TRƯỜNG
Chúng tôi đến Kompong Thom vào một buổi
trưa trung tuần tháng 2/1979. Đêm qua chúng tôi ngũ tại Sa Mát trong nhà một bà
mẹ đang để tang ai đó, chúng tôi ngũ trong tiếng mõ và tiếng kinh cầu siêu trầm
buồn ray rức... Sáng nay, sau khi qua biên giới Campuchia, xuyên qua những con đường
đất đỏ bụi mù, đứng trong thùng xe GMC chúng tôi đón nhận những rừng cánh tay của
phụ nữ và trẻ em Campuchia vẫy chào đoàn quân tình nguyện Việt Nam qua đánh đuổi
bọn diệt chủng Pôn Pốt.
Thỉnh thoảng ngược chiều với hướng di chuyển
của chúng tôi, một vài chiếc GMC chở xác tử sĩ căng phồng trong những bọc
nylon, phía trên là những cành lá ngụy trang che nắng. Đường đất đỏ gập ghềnh
làm những bọc xác tử sĩ nẩy phập phồng...
Tôi là một tân binh nghĩa vụ mới bước qua
tuổi 19 được 2 tháng đang háo hức bước vào cuộc chiến tranh bắt buộc với hành
trang là 80 ngày huấn luyện quân sự và chưa có bất kỳ một khái niệm nào về chiến
thuật tấn công hoặc phòng ngự trận địa...
Đoàn xe dừng lại trước một dãy nhà sàn dọc
con đường đất đỏ bụi mù, đây là hậu cứ của sư đoàn 5 bộ binh, sư đoàn anh hùng
thời kỳ chống Mỹ.
Dân Kompong Thom đãi đám tân binh chúng
tôi những ống nước thốt nốt ngọt lịm, mát rượi. Đây là lần đầu tiên trong đời
tôi được uống thứ nước thơm ngon, ngọt ngào đó. Nó tươi nguyên mới từ trên cây
mang xuống trong ống trúc lồ ồ.
Chúng tôi được phân tán ra từng phân đội
nhỏ đóng rải rác trong một cánh rừng dầu thưa thớt, đâu đó có tiếng súng tiểu
liên nổ râm ran phát một.
Tôi đi theo một cựu binh vác súng AK vào rừng,
anh này đi săn chim và tôi đi theo... bắn ké. Bắn được vài phát thì vệ binh tới,
bảo lệnh trên cấm bắn súng.
Ăn không ngồi rồi mấy ngày thì một hôm,
vào buổi xế trưa có lệnh tập họp. Một cán bộ quân lực đến, báo cáo là mấy hôm
nay đơn vị bận đi đánh nhau (nguyên văn) nên hôm nay mới đến nhận quân. Sau đó
tôi được đọc tên và biên chế vào đại đội 13, tiểu đoàn 3, trung đoàn 4 trong buổi
chiều hôm đó.
Tôi được bổ sung vào trung đội 7, chỉ huy
trung đội của tôi là đồng chí Nông Tiến Dũng, dân tộc Tày, gốc Thái Nguyên. Buổi
cơm chiều đầu tiên tại đơn vị chiến đấu của tôi có cơm thơm mùi gạo mới, có rất
nhiều thịt bò xào, có thể ăn thịt thay cơm được. Những cựu binh trong trung đội
ăn ít và uể oải, chỉ có chúng tôi, những tân binh mới bổ sung về đơn vị lần đầu
tiên trong đời lính được ăn no thứ thịt bò tươi xào muối, bột ngọt và cơm ăn
không hết. Một loại cơm nấu bằng gạo trắng hơi lẩn gạo lứt đỏ thơm mùi lúa mới.
Những anh em trong trung đội thu nhận
chúng tôi, những tân binh mới bổ sung bằng một bửa cơm ngon và no đến như vậy.
Qua đợt bổ sung quân này, trung đội của tôi tăng lên được vài người, quân số hiện
thời của trung đội khoảng 7, 8 người.
Với thể trạng cao 1m 67, nặng 50 kg, tôi lập
tức được phân công vác hỏa lực B41 với 6 trái đạn.
B41 là một loại pháo không giật, được
trang bị cho bộ binh nhằm chống tăng và phá hủy công sự rất hiệu quả. Khẩu súng
tôi vác trên vai do Liên xô sản xuất nặng khoảng 5,5 kg. Mỗi trái đạn nặng khoảng
2,2 kg. Có 2 loại đạn, khoan nổ và chạm nổ. Đạn trang bị cho bộ binh vận động tấn
công trên chiến trường thông thường là loại chạm nổ, uy lực mãnh liệt, tiếng nổ
đanh gọn, đinh tai điếc óc, quầng lửa phản lực màu sáng trắng, hầu như không thấy
khói. Đạn đi tới mục tiêu rất mau, khi lâm trận nghe bùng bình một tiếng là đạn
nổ văng mảnh rồi. Bùng là tiếng đạn phát hỏa bay ra khỏi nòng, bình là tiếng đạn
chạm mục tiêu phát nổ.
2.
VÀO CHIẾN DỊCH
Không một ngày ngơi nghỉ, chúng tôi hành
quân liên tục. Nắng tháng hai đổ lửa trên đầu, đường đất đỏ xuyên qua những
cánh đồng rộng bao la, và xa xa là những rặng cây thốt nốt, báo hiệu chuẩn bị
đi tới một phum làng.
Chúng tôi thận trọng tiến vào phum theo đội
hình hàng dọc, mỗi người cách nhau 10m, đạn AK lên nòng, khóa an toàn bật mở.
Tôi được lệnh đẩy đạn B41 vào khấc, tay lăm le cò súng.
Cái phum này yên phăng phắc, địch đã bỏ chạy
từ lâu, giếng nước đã bị vứt cây che lấp. Chúng tôi kéo các cành lá lấp giếng
nước ra, mong kiếm được nguồn nước giải khát. Nước trong giếng đen thui, hôi
thúi mùi hữu cơ phân rã không uống được. Lại có lệnh hành quân đi tiếp, đến chiều
tối chúng tôi dừng chân ở một nơi nào đó, có
nước để nấu cơm ăn uống, lấy sức ngày mai đi tiếp.
Hành quân dài ngày khiến khẩu súng B41
ngày mỗi thấy nặng, vai áo ka ki của tôi đã sờn rách một lớp vì nó, thỉnh thoảng
chúng tôi lại đi trên một con đường nhựa nóng, trời nắng chang chang, lòng bàn chân phồng lên, mọng nước, rồi cái mọng
nước vỡ ra, ướt lép nhép lẫn với mồ hôi và huyết tương tươm ra từ lớp da bị
bong tróc. Vậy mà vẫn cứ đi, đi không thấy đau, đầu óc mụ mị, nóng và khát.
Khẩu súng B41 vác trên vai không muốn nổi
nửa, mõi quá rồi, tôi quàng dây đeo súng lên cổ, ôm súng vào lòng, vai gồng lên
gánh 4 trái đạn trên lưng mà đi lặc lè (viên đạn thứ 6 đã có người mang hộ).
Trung đội trưởng Dũng thấy tôi đi bệ rạc quá, kêu tôi vác súng lên vai đi thẳng
dậy, nhưng đại đội trưởng Chính, người Nghệ Tỉnh gạt ngang bảo: “Thôi”. Ý anh ấy
nói là để tôi đi sao cũng được miễn là tới nơi.
Sáng nay đã có một đồng đội của tôi, nhập
ngũ cùng đợt nằm bật khóc nức nở giữa đường
vì kiệt sức. Anh này lý lịch không phải tầm thường: “Con trai của viên tướng
Sài gòn giác ngộ cách mạng Nguyễn Hữu Hạnh”.
Chúng tôi đang bước vào một cuộc hành quân
lớn. Sư đoàn chúng tôi đang phối thuộc quân đoàn 4 truy quét tàn quân Pôn Pốt
trên một diện rộng từ Takeo đến Kompong Speu, Kompong Chnang. Chúng tôi di chuyển
liên tục bằng mọi phương tiện, đi bộ, đi xe GMC, xe tăng T54...
Thỉnh thoảng chúng tôi được đánh phối hợp
với tăng, các trung đội của chúng tôi ít người, mỗi trung đội nhảy lên một chiếc
T54, chúng tôi bương qua những cánh rừng thưa, xe chồm lên, hụp xuống trên những
địa hình mấp mô ụ mối... Gặp địch chúng tôi nhảy xuống, dàn hàng ngang nổ súng
tiến lên, khí thế như chẻ tre.
Với khí thế như vậy, chúng tôi đánh là thắng,
những cánh quân Pôn Pốt nhỏ lẻ trong thế cờ tàn làm sao đương đầu nổi sức tấn
công của chúng tôi có tăng T54 yểm trợ với hỏa lực cực kỳ mãnh liệt.
Sau này đại tá Trần Đối, anh hùng quân đội
về làm sư trưởng, trong một lần đi thăm cán bộ chiến sĩ tiểu đoàn 3, ông đã biểu
dương là tiểu đoàn 3 đánh với tăng giỏi nhất sư đoàn 5, sư đoàn 5 đánh với tăng
giỏi nhất quân đội nhân dân Việt Nam, và ông kết luận là tiểu đoàn 3 đánh với
tăng giỏi nhất quân đội nhân dân Việt Nam. Lính tiểu đoàn 3 nhớ mãi câu nói đó
và thấy lòng mình tự hào về truyền thống đơn vị.
Chúng tôi liên tục di chuyển và chạm súng
nhỏ lẻ... Rồi bỗng dưng một sáng nọ, chúng tôi tiến vào một cánh rừng dầu, tiếng
súng giao tranh xãy ra rất gần, một đơn vị nào đó của ta đang đánh địch.
Đột nhiên tiếng súng im bặt, rừng dầu nín
thở yên phăng phắt, chúng tôi dàn quân đứng nấp sau những gốc cây dầu, những
cây dầu vươn cành lá thẳng lên trời, cao trên 20m, gốc không lớn lắm, đường
kính khoảng 30, 40cm thôi. Chợt một cái gì đó nhẹ nhàng rơi bộp trên vai tôi,
làm tôi khẽ giật mình... thì ra đó là một cánh hoa dầu.
Là dân thành phố, đây là lần đầu tiên tôi
thấy cánh hoa dầu, nó rơi rơi, xoay tròn trong không khí, rồi nhẹ nhàng đáp lên
vai người lính, rồi rơi xuống mặt đất
làm phong phú thêm thảm thực vật trong cánh rừng dầu mùa khô 1979.
Đó là một buổi sáng trong lành, tiếng súng
đã im lặng lâu rồi, đội hình của chúng tôi được bố trí lại, tôi được phân công
đứng gát trên một ụ mối, phía trước là một con đường mòn nhỏ, trung đội rải ở
phía sau... Tôi đứng gát như vậy thật lâu, lâu lắm, mãi đến giờ ăn trưa mới có
người lên thay tôi canh gát.
Cũng trong cánh rừng dầu này, phía trước lại
có một đơn vị chạm súng với địch, mật độ chạm súng càng lúc càng dày, ngay
trong đêm tối vẫn có tiếng súng giao tranh khốc liệt. Chúng tôi chỉ cách trận địa
một tầm đạn vậy mà cảm thấy rất yên lành, vẫn ăn ngũ bình thường, tất nhiên là
luôn luôn cắt cử người thay phiên canh gát.
Trong những ngày này, đại đội tôi có thêm
người, trên ban chỉ huy có đồng chí Hội đại đội phó quân sự, còn trung đội tôi
có hạ sĩ Trọng, tiểu đội trưởng trở về sau thời gian nằm quân y viện.
3.
MỘT TRẬN ĐÁNH LỚN
Hạ sĩ Trọng về làm tiểu đội trưởng của tôi
hôm trước thì hôm sau chúng tôi xuất kích, nên tôi không có dịp chuyện trò nhiều
với anh, thậm chí gương mặt của anh thế nào tôi cũng không nhớ được, bởi vì
ngay trong ngày xuất kích đó đồng chí đã anh dũng hy sinh.
Trong trận đánh đó tôi là người ăn đạn đầu
tiên, nhưng tôi không chết, mà tôi nằm đó nghe tiếng đồng đội hô xung phong. Tiếng
hô xung phong vang dội của hạ sĩ Trọng đến giờ sau 30 năm vẫn còn ấn tượng
trong đầu tôi, một thương binh mới trở lại chiến trường sao máu đến như vậy...
Mấy tiếng đồng hồ sau, khi trận địa tương đối yên tiếng súng, đồng đội kéo xác
hạ sĩ Trọng về, tôi thấy rõ ràng anh chết đổ ruột trên chiến trường.
Trận này chúng tôi tổn thất nhân mạng lớn
là phải, hướng tiến công của cả tiểu đoàn hoàn toàn thất thế, bởi chúng tôi từ
đồng trống đánh lên. Trong khi đó lực lượng của địch là lính chính qui, tinh thần
vững vàng, hỏa lực đầy đủ, công sự kiên cố. Địch lập trận địa phòng ngự trên một
cái phum lớn, đây là đất của địch, chúng thông thuộc địa hình, địa vật như
trong lòng bàn tay, chúng bày binh bố trận,
chờ chúng tôi đến là sẳn sàng tiếp chiến trong tư thế hoàn toàn chủ động.
Chúng dàn quân trên bờ đê, nhìn thấy rõ
chúng tôi từ trong cánh rừng cây lưa thưa phía chính diện xông ra.. Khi chúng
tôi xung phong thì phải chạy xuyên qua một cánh đồng khô rộng đến mấy trăm mét,
thế thì chúng rãi đạn vào những cái bia thằng người di động đó. Không một người
lính nào chạy được quá vài chục bước chân mà lành lặn.
*
* *
Trời hửng sáng, chúng tôi vừa được trinh
sát dẩn vào vị trí xuất kích thì đâu đó có tiếng súng nổ rộ. Tôi vác khẩu B41
trên vai, đứng trước một ụ mối, nấp sau một thân cây sẳn sàng trong tư thế xung
phong. Đột nhiên tôi thấy một tốp lính chừng 10 tên mặc đồ gar-ba-din Trung quốc
mới cáu, chạy lúp xúp theo hàng cây thốt nốt, tôi chỉ cho đồng chí Vịnh xem. Đồng
chí hô bắn B41, đồng chí Thạch cản lại khoan, vì tôi đứng trước ụ mối, nếu tôi
bắn sẽ bị lửa phản lực dội vào ụ mối bật ngược lại làm cháy cả bọn.
Tôi loay hoay tìm chổ bắn thì thằng Pôn Pốt
đã nổ trước, một trái cối 60 ly Trung quốc nổ oành ngay chổ tôi quỳ. Tôi thấy
nhói và nóng ngay mông, đưa tay ra rờ thì thấy máu đổ, cái bi đông nước của tôi
cản dùm cho tôi một mảnh đạn, còn một mảnh khác chui thẳng vào mông, làm máu
tôi đổ chan hòa cùng nước bi đông còn đang nóng. Tôi kêu lên, tôi bị thương rồi.
Đồng chí Vịnh chạy tới băng bó vết thương
cho tôi, vừa xong thì có lệnh xung phong, đồng chí để cây AK lại cho tôi, còn đồng
chí xách khẩu B41 và giá đạn lao lên phía trước.
Hỏa lực tiểu đoàn hổ trợ bộ binh xung
phong bắn cấp tập, trước mặt tôi một khẩu 12 ly 8 được đặt triển khai song song
với hướng xung phong đại đội bắn cùng cùng, cùng cùng đầy uy lực... Tiếc thay
hướng xuất kích của chúng tôi quá xấu, trước mặt là đồng trảng không có vật che
khuất, che đở, nên ngay lập tức chúng tôi bị chặn lại bởi hỏa lực của Pôn Pốt từ
trên bờ đê bắn trả. Nhiều loạt đạn được bắn thẳng về hướng chúng tôi và cối của
địch rót tập trung vào đội hình xung phong.
Người ta nói tiên hạ thủ vi cường, khá
khen thay thằng chỉ huy Pôn Pốt đã làm đúng điều đó. Chúng đã đánh chúng tôi bằng
con pháo đầu và trong loạt pháo đó lượm ngay con tốt là tôi, chiến sĩ hỏa lực của
trung đội. Sau loạt pháo đầu, chúng bắt đầu chỉnh cối vào đội hình xung phong của
tiểu đoàn, cây 12 ly 8 bắn hết đạn rút ra tránh cối, còn bộ binh nằm tại chổ
đưa lưng chịu trận.
Cối cứ bay vo vo trên đầu, hết tầm nó xé
gió rít lên rồi nổ oành một tiếng, trúng ai người đó chịu. Đạn nhọn mình còn nằm
dán mình xuống đất, chúi đầu vào bờ ruộng mà tránh, còn cối pháo đánh cầu vồng
thì chịu!
Súng đạn vô tình, trời kêu ai nấy dạ.
Quân ta lại phát động đợt xung phong lần
thứ hai, hạ sĩ Trọng, tiểu đội trưởng của tôi hô rất hào hùng, tôi nằm đó sau
lưng ụ mối nghe tiếng hô xung phong khí thế của anh mà lòng đầy cảm phục... Nhưng làm sao mà lên được
trên cái địa hình trống trãi này, trong khi hỏa lực của địch còn rất mạnh.
*
* *
Qua 2 đợt xung phong, một số đồng đội tôi
đã ngã xuống, đang chờ kéo xác về, những đồng chí còn lại đang nằm dán bụng xuống
đất, đưa lưng cho cối nện mà chịu trận. Lúc này đây, những động tác huấn luyện
căn bản ở quân trường được binh sĩ sử dụng một cách tự giác và triệt để, đó là
các động tác lăn, lê, bò, toài. Anh chỉ cần đứng khom lưng lên thôi, chưa kịp nhảy
qua bờ ruộng là lập tức ăn đạn. Trong lúc chỉ huy bộ đội xung phong, đồng chí Hội
đại đội phó quân sự, mới trở về cầm quân đi đánh trận này đã bị trúng đạn gãy
chân ngay tại trận.
Đến khoảng 10 giờ trưa thì các thương binh
chúng tôi được đưa về tuyến sau. Còn đây là diển tiến trận đánh đó do đồng đội
thuật lại sau này:
Bọn địch phòng ngự trên bờ đê tiếp tục kiểm
soát mọi động tỉnh của chúng tôi, nhúc nhích là bắn. Anh em bò lên kéo tử sĩ về,
núp không kín để hở người ra là nó bắn, đã có người bị bắn chết kiểu như vậy!
Chúng bắn cầm chừng đủ để khống chế chúng tôi phát động tấn công.
Đến trưa chúng bắn đạn lửa đốt đồng cỏ, mục
đích thiêu cháy chúng tôi. Đồng chí Ơn về đơn vị cùng đợt với tôi bị bắn chết
trong đợt xung phong hồi sáng, lại tiếp tục bị thiêu cháy lần nửa, mất cả hạ bộ,
đúng là người chết hai lần, thịt da nát tan...
Đến chiều pháo binh của ta được điều tới bắn
thẳng vào trận địa địch, mãi đến tối chúng tôi mới xung phong chiếm lĩnh trận địa
được.
Đây là trận đánh lớn cuối cùng của tiểu
đoàn 3 trong năm 1979. Trận này rốt cuộc rồi chúng tôi cũng thắng, nhưng tổn thất
về nhân mạng quá lớn!
*
* *
Nếu ngay từ đầu, với địa hình bằng phẳng
và trống trải này, từ trong rừng chúng ta triển khai hỏa lực cực mạnh, dàn tăng
pháo ra đối diện với quân địch, bắn cấp tập, hủy diệt triệt để trận địa phòng
ngự của địch trên bờ đê. Rồi cho bộ binh xung kích ồ ạt cùng xe tăng, thiết
giáp yểm trợ sau lưng thì chắc chắn chúng ta đã giải quyết trận đánh nhanh hơn,
tổn thất nhân mạng ít hơn!
Lực lượng vũ trang của ta vào thời điểm đó
dư sức làm điều này, tại sao chúng ta không làm như vậy? Tại sao chúng ta lại
triển khai bộ binh xung phong trong một địa hình cực kỳ bất lợi như vậy? Có cái
gì đó không ổn? Chủ quan chăng?
Bài học trên chiến trường thấm đẩm máu
xương của biết bao đồng chí, đồng đội. Chúng ta phải lấy những bài học xương
máu này mà huấn luyện cho binh sĩ của ta sau này. Phải luôn nhớ rằng biết người
biết ta trăm trận trăm thắng.
Đưa quân vào chiến trận mà địch tình không
nắm, chủ quan khinh địch, tổn thất là điều chắc chắn. Tiểu đoàn 3 đánh nhiều trận,
hy sinh nhiều quân nhưng mãi không được anh hùng có lẽ vì vậy... Vì chúng ta thắng
không ngon, diệt không gọn, tổn thất nhân mạng lớn!
Trong khi chờ đợi các bác CCB nhớ lại và
thông tin thêm về trận đánh này (tháng 3/79, theo quân sử (sư 5) thì hình như
là diễn ra ở căn cứ Âm-leng)tôi xin gởi thêm hồi 4 trong quyển Ngã ba con voi
xem co gợi ý gì cho các bác nhớ hay không?
1.
TRẠM PHẨU TIỀN PHƯƠNG
Gọi là trạm phẩu tiền phương, bệnh xá
trung đoàn hay K23 cũng đều đúng. Trạm phẩu này, bệnh xá này có bác sĩ Mai Cẩm
Tú, đại đội trưởng K23 là người nổi tiếng toàn trung đoàn và khắp vùng chiến sự
quanh ngã ba Nimith, đó là về sau này khi trung đoàn 4 hùng cứ một phương trời ở
khu vực ngã ba con voi (anh nổi tiếng cũng có lẽ vì tên anh quá đẹp!). Còn ngay
tại thời điểm này thì nó cực kỳ dã chiến, trạm phẩu không giống, trạm xá càng
không phải.
Anh đang mùa hành quân
Pháo lăn dài chiến dịch...
Toàn trung đoàn đang xuất kích đánh địch
và cái phẩu tiền phương này cũng theo sát đoàn quân tiên phong, nó chỉ cách tiền
tuyến chừng 10 phút đi bộ.
*
* *
Trời càng lúc càng nắng. Kiến trong ụ mối
nghe tanh hơi máu, nó bò ra và tìm tôi mà cắn. Nằm trong cái hố tiền tiêu của
thằng Pôn Pốt đào sẳn trên ụ mối thì đở nắng vì có tàn cây che khuất, nhưng lại
bị kiến và mấy thằng Pôn Pốt khốn nạn cứ nhè chổ tôi ẩn mình chờ chết mà bắn, đạn
cứ chíu chíu vào hướng tôi nằm nổ lụp bụp thật là khó chịu.
Tôi kéo súng, tụt ra sau lưng ụ mối mà nằm,
chịu nắng nhưng mà tránh được kiến và đạn. Tháng 3 trời nắng lắm và tôi càng
lúc càng khát. Cái bình toong của tôi bị mảnh đạn bắn thủng, nước chảy gần hết,
còn một ít nước dưới đáy bình đã bị tôi uống cạn từ sáng rồi.
Nấp dưới ụ mối, dưới cái nắng thiêu đốt,
người tôi nóng ran, khát khô cổ họng. Tôi suy nghỉ miên man, nghỉ rằng mình sẽ
được đưa về nước chữa trị. Về nước lần này phải uống một trận nước đá lạnh cho
đã. Hơn một tháng nay, trên cái đất nước khô khan nóng bức này tôi thật không hề
được thưởng thức qua một ngụm nước đá.
Mặt trời lên cao, cao lắm rồi! Mãi mới thấy
mấy anh em tiếp thương tải đạn vận dụng địa hình địa vật chạy lên.
Thấy đồng chí Đinh Văn, chiến sĩ cối 60,
nhập ngũ cùng đợt, lên tham gia tiếp thương, là người thân quen, tôi xin đồng
chí ấy nước để uống cho đở khát. Anh ngần ngừ không muốn, vì bài học trên chiến
trường chúng tôi thuộc nằm lòng là không cho thương binh mất máu uống nước nhiều,
vì như vậy càng làm vết thương chảy máu, càng dễ chết.
Tôi nài nỉ:
- Xin một hớp thôi!
Anh đưa bình toong cho tôi, tôi rót ra một
nắp bi đông rồi uống.
Thật đúng là một hớp! Không đã đâu vào
đâu!
Tôi trả bình toong lại cho anh, anh cầm
bình toong ngạc nhiên, uy tín thiệt, quả đúng là một hớp! Thông thường thì khi
người khát gặp nước thì uống ừng ực mà...
Đồng đội kéo xác hạ sĩ Trọng về, anh nằm
đó, lấm lem đất cát với vết thương đổ ruột trên người. Đại đội phó Hội bị bắn
gãy chân cũng được anh em kè nách xốc về, anh đứng đó, mồ hôi chảy ròng ròng, mặt
mày đỏ gay, nhăn nhó, đau đớn nhưng gan lì, không kêu rên một tiếng.
Hạ sĩ Trọng được đặt vào cái võng của anh
để cáng thương mang đi, đồng chí Hội mới từ quân y viện trở về không có võng...
Đồng chí Thạch, chỉ huy trung đội xử:
- Lấy võng của thằng Hùng cáng anh Hội,
còn thằng Hùng để anh em kè về.
Có một đồng chí nào đó nghe lệnh bước tới,
kè vai xốc nách tôi lên. Tôi gượng đứng thẳng dậy, xua tay:
- Khỏi, để tôi tự đi.
Theo đoàn quân cáng thương trở về tuyến
sau, anh em mạnh tay khỏe chân đi trước, tôi lết bết theo sau. Cái chân trái khỏe
tôi bước tới một bước, cái chân phải kéo lê lên một bước, rồi đứng trụ lại, cho
anh chân khỏe bước tới, tôi cứ thế mà đi theo nhịp điệu cà nhắc, cố gắng không
làm đau vết thương sau mông bên phải. Đi được một đoạn thấy hai chiến sĩ gánh một
thùng nước đi tới, tôi rề lại xin nước uống.
Một đồng chí hỏi, vẻ quan tâm:
- Sốt rét hả, thấy mặt xanh quá!
Tôi cười cười đáp lể, không trả lời, khụy
chân xuống, ghé miệng vào thùng nước, uống ừng ực. Đã ơi là đã!
Tôi cảm ơn hai anh bạn, rồi cà nhắc đi về
gặp quản lý đại đội của mình. Quản lý đại đội là đồng chí Bùi, lính Bắc, người
dong dỏng cao, anh chững chạc và khá là vui tính. Anh kêu tôi ở lại ăn cơm, rồi
viết giấy cho tôi đi phẩu trung đoàn.
*
* *
Sau khi đồng chí Vịnh băng bó, vết thương
của tôi đã ngưng chảy máu, hồi nảy nằm trên ụ mối, bị kiến chui vào người đốt, tôi
đã tháo băng ra bỏ, để phủi kiến. Cái quần tôi bị xé ra lúc băng bó, máu me và
rách nát, tôi vất bỏ nó đi không thương tiếc. Lấy quần áo mới thay vào, người
tôi lúc này trông cũng đã khá lại.
Vẫn còn khát, tôi tranh thủ uống nước nhiều
hơn ăn cơm. Vết thương tôi đã cầm máu lâu rồi, nên tôi thoải mái uống nước
không ai ý kiến gì.
Cơm nước xong xuôi, tôi cầm giấy của quản
lý đại đội đi lên phẩu trung đoàn. Phẩu trung đoàn cũng gần ngay đó, tôi bước tới
bàn phẩu xuất trình giấy giới thiệu rồi đứng đó... Tôi nghe văng vẳng bên tai
hình như đài phát thanh đang phát chương trình văn nghệ chiều chủ nhật thì phải,
và hình như nói cái gì đó về ngày sinh nhật đoàn 26 tháng 3. Cả tháng qua, hành
quân chiến đấu liên tục tôi thực sự không biết hôm nay là thứ mấy, ngày gì. Trận
đánh này xãy ra ở đâu, vào ngày nào, đến nay tôi thực sự cũng không tường tận.
Tôi không phải là nhà viết sử, và cũng không có nguồn tài liệu nào để truy cập
chính xác thời gian, địa điểm trận đánh, tôi chỉ viết lại những gì mình còn nhớ
sâu đậm trong ký ức một thời chinh chiến, một thời ngang dọc.
Có tiếng ai đó giọng chỉ đạo:
- Làm lọc.
Tôi đứng bên bàn phẩu, đưa cái mông bên phải
ra cho đồng chí quân y sĩ tiêm thuốc tê, rồi lấy kéo cắt thịt nghe sựt sựt, sựt
sựt... Không thấy đau, trong tai tôi tiếng đài phát thanh văng vẳng, văng vẳng.
Tiếng dao kéo rổn rảng, đồng chí quân y sĩ
đã làm lọc vết thương xong, đã khoét một cái lổ sâu hoắm trong cái mông của
tôi, ước cở ngón tay đút vô lọt. Đồng chí trét một loại thuốc mỡ màu xanh vào
cái lỗ đó, rồi băng miệng vết thương lại bằng keo dán, vậy là xong. Vậy là
trong người tôi vẫn còn mảnh đạn cối 60 Trung quốc mà tôi không hề hay biết!
Tôi không hề hay biết gì về cái mảnh đạn để
đời đó. Mãi đến năm 2008, chân tôi bị đau, đi cà nhắc, tôi tưởng bị thấp khớp,
tôi tưởng cái cổ xương đùi của tôi có vấn đề, tôi đi chụp X quang để tìm bệnh...
Bác sĩ phát hiện một dị vật phản quang
ngay sau mông gần đốt xương cùng, ông hỏi tôi trước đây có bị thương không. Tôi
trả lời có, trước đây đi ở lính Campuchia tôi có bị thương. Ông bác sĩ nói vậy
là còn mảnh đạn đó, rồi chỉ cho tôi cái dị vật phản quang kia. Nó nằm đó đã hơn
29 năm, trong phần mềm sau mông tôi, hình thoi, nhỏ thôi, dài gần một phân rưởi,
còn rộng không tới một phân.
Nó làm tôi thốn, làm tôi khó chịu, tôi muốn
lấy nó ra cho đời bớt khổ!!! Tôi đến phòng mạch của một ông thạc sĩ bác sĩ ở Bến
Tre nhờ ông thu xếp mổ cho tôi, ông lắc đầu:
- Coi vậy chứ khó lấy ra lắm, có khi phải
rạch nát cái mông ra mới thấy nó.
Tôi nghĩ là do phương tiện y khoa ở Bến
Tre không được hiện đại nên bác sĩ họ ngại. Tôi lên Sài gòn, đến bệnh viện Hoàn
Mỹ, tôi nhờ bác sĩ khám và mổ cho tôi. Ông bác sĩ nhìn phim chụp thẳng, rồi
nhìn phim chụp nghiêng, rồi lắc đầu nói:
- Khó lấy ra lắm, nó nằm yên như vậy lâu rồi
thì cứ để cho nó yên.
Tôi nói bác sĩ xem cố gắng mổ lấy ra có được
không, chứ nó làm tôi thốn lắm!
Ông này trả lời cũng y như ông bác sĩ ở Bến
Tre:
- Không dễ lấy nó ra đâu, có khi phải rạch
nát mông đó.
Thấy tôi có vẽ chưa phục, ông mới nói rõ:
- Mảnh đạn này chỉ có thể mổ khi nào nó di
chuyển, nó làm mủ, khi đó mình lần theo đường mũ mà lấy nó ra.
Ông nói như vậy thì quá ư là khoa học, quá
ư là biện chứng rồi, thôi đành chấp nhận chung sống hòa bình với nó vậy!
Thế nhưng tôi vẫn còn tức cái ông mảnh này
lắm! Dặn vợ con tôi khi nào tôi chết, thiêu tôi xong, khi hốt cốt tôi, nhớ kiếm
cái mảnh đạn này, lấy ra để nguyên đó, đặt lên dĩa (như dĩa cúng trái cây), đem
lên bàn thờ, để trước di ảnh của tôi, để cho tôi nhìn thấy cái mặt thằng tay
sai Bắc Kinh, cái thằng Made in China này. Tại nó nên tôi mới phải ra trận, tại
nó nên tôi mới phải bị thương đi cà nhắc... và bây giờ thỉnh thoảng lại lên cơn
đau với nó.
Rời bàn phẩu, tôi đi qua trạm xá. Đây là một
cái nhà sàn cao và rộng rãi, lính tráng ồn ào đang tụ hội đánh tiến lên, sàn
nhà dơ bẩn, tàn thuốc đầy rẩy, tôi bị đau ở mông, không nằm võng được, mà cũng
không còn võng đâu mà nằm. Coi bộ nằm ở đây không ổn, lính đông quá, nằm dưới
sàn nhà sợ bị anh em nó đi qua đi lại đá trúng mông thì khổ. Tôi đi qua cái nhà
sàn kế bên, một căn nhà sàn thấp nhỏ và sạch sẽ. Tôi dọn vệ sinh chổ tôi nằm
cho tươm tất xong thì có kẻng cơm.
Tôi khập khiểng đi lãnh phần cơm của mình,
một phần cơm trắng với một gói bột nêm (giống như cái gói bột nêm mì gói bây giờ).
Tôi đong cho mình một bi đông nước, chỉ đong 2 phần 3 bình thôi, vì cái bình
toong này nó đã bị lủng một lổ ở phía trên, khi tôi ăn trái đạn cối 60 của thằng
Pôn Pốt hồi sáng sớm.
Tôi lếch thếch trở về, gặp một anh quân y
sĩ dáng vẽ thông cảm, hỏi:
- Đau không?
Tôi gượng cười trả lời:
- Đau ít thôi!
Ăn cơm với bột nêm vậy mà ngon miệng. Thông thường, nhiều bửa chúng tôi
chỉ được ăn cơm với nước muối pha một ít nước gạo rang cho có màu vàng vàng, rồi
nêm bột ngọt. Thế thôi!
Sáng hôm sau thức dậy, tôi lấy kem và bàn
chải ra đánh răng tử tế, xúc miệng bằng chỉ một ngụm nước còn sót lại trong bi
đông.
Tôi đang hòa nhập vào cuộc sống ở trạm xá
trung đoàn một cách nhẹ nhàng, cơm ngày ba bửa, nước đun sôi để nguội uống thoải
mái mỗi bửa 2 phần 3 cái bình toong thủng...
Tối đó tôi lên cơn sốt, nằm rên hừ hừ
trong căn nhà sàn nhỏ bé của mình. Cái mảnh đạn tôi ăn hôm qua, hôm nay nó hành
cho tôi sốt.
Vậy mà sáng ra tôi lại tỉnh như không, tôi
vẫn đi lãnh cơm ăn bình thường, tôi còn rảnh rổi đi thăm ngôi làng tôi đang nằm
dưỡng thương nửa chứ. Tôi đi vào một căn nhà sàn lớn hư hại nham nhở, nồi niêu,
chén bát ngổn ngang, có cả màn, gối, chăn, chiếu, nhưng chẳng có cái nào lành lặn
để mà tận dụng. Nhiều căn nhà bị đốt cháy nham nhở... Rồi tôi kiếm được ở đâu
đó một ống nylon trắng, đó là ống đựng đạn B41. Tôi đốt chảy cái nhựa nylon cao
cấp đó ra, nhỏ vào cái lổ thủng của bình
toong để vá. Vậy mà vá được, cái bình toong của tôi lại chứa nước ngon lành.
Tối hôm đó đang nằm ngũ thiêm thiếp thì
tôi giật mình tỉnh giấc vì có quá nhiều tiếng động trên con đường đất đỏ trước
nhà. Người, quá trời là người! Dân Campuchia bồng bế nhau về làng, đi suốt đêm
như trảy hội. Người khá giả đi bằng xe bò, người nghèo lội bộ gánh con, phụ nữ
đội thúng trên đầu... Đoàn người áo đen đông đảo nhưng không ồn ào, con nít
không quấy phá, một trật tự đáng kinh ngạc. Chế độ Pôn Pốt đã thủ tiêu hoàn
toàn ý chí kháng cự của những con người này, đến con nít nhỏ cũng không dám cười,
dám khóc, sợ Ăng-ca bực mình, đập cho một cái cán cuốc là tiêu đời.
Chiến dịch giải phóng các tỉnh đồng bằng
sông Mê-kông trên phần đất Campuchia của quân đoàn 4 và sư đoàn 5 chúng tôi
đang phát huy tác dụng: Hàng vạn, hàng vạn người dân được giải thoát từ các trại
tập trung đang quay trở về làng bản của mình.
Chúng tôi những thương bệnh binh K23 kéo cả
ra đường để xem cuộc hành hương vĩ đại này. Một anh lính nào đó kêu tôi lại, dạy
cho tôi một câu tiếng Campuchia, rồi chỉ cho tôi đến chổ một cô gái xinh đẹp,
dáng người cao ráo, nước da ngăm đen, nét mặt buồn buồn đang đứng nghỉ chân, hỏi:
- Ôn sa lanh boòng tê?
Một anh lính Bắc đứng kế bên buộc miệng chửi
liền:
- Bôi bác.
Còn anh lính dạy tôi câu nói tiếng
Campuchia đó khoái chí đứng cười ha hả.
Riêng tôi thì quê xệ, lui ra đứng ngẩn ngơ
nhìn cô gái. Cô không nói gì cả, thong thả đội thúng lên đầu bỏ đi, vẽ mặt vô cảm
như người mất hồn.
Tôi lính mới tò te, đây là lần đầu tiên
tôi được tiếp xúc với dân, được dạy cho một câu nói tiếng Campuchia để nói chuyện
với dân, vậy mà trớt quớt...
Sau này tôi mới hiểu nghĩa của cái câu ôn
sa lanh boòng tê? Tức là em có thương anh không? Câu hỏi này trong hoàn cảnh đó
quả là trớt quớt, làm tôi nhớ mãi.
Hành trình trở về quê hương của những người
dân Campuchia đau khổ đến mất hồn này kéo dài mấy ngày mới ngớt. Nổi đau diệt
chủng của Pôn Pốt để lại quá lớn, trên gương mặt thất thần của những con người
đang lũ lượt kéo nhau đi trước mắt chúng tôi.
*
* *
Vết thương của tôi lành rất mau, mấy ngày
sau thay thuốc, tôi thấy cái lổ đạn sâu hoắm đó giờ chỉ còn sâu khoảng hơn một
đốt ngón tay.
Trung đoàn tiếp tục hành quân theo chiến dịch,
tôi bây giờ thuộc quân số K23, cũng lên xe hành quân theo chiến dịch trong đội
hình khối hậu cần. Nhờ quân y cho thuốc mát tay, nên tôi di chuyển lúc này cũng
đở khổ, không còn lết bết như lúc mới vào viện.
Trong thời gian hành quân trong đội hình
khối hậu cần, tôi đã trãi qua nhiều phum làng trù phú. Có một cái phum rất đẹp,
nhà hai bên đường lợp ngói đỏ rất bắt mắt, không biết là xây cho ai ở?
Thường thì chúng tôi lên xe đi một buổi, dừng
lại vài ngày rồi đi tiếp. Trong khoảng thời gian này tôi không khám phá được gì
nhiều, vì bị thương đi đứng khó khăn nên ít di chuyển. Nhưng có một chuyện làm
tôi nhớ mãi:
Sáng này, theo sự chỉ dẩn của dân địa
phương, một đơn vị của ta xuất kích đi truy quét và bắt được 4 thằng Pôn Pốt
mang về, bốn thằng này là chỉ huy Ăng-ca có nợ máu với nhân dân, bị dân địa
phương căm thù sâu sắc. Bộ đội bàn giao 4 thằng này cho dân làng xử.
Buổi chiều hôm đó, ăn cơm xong, mấy thằng
nằm viện chung rủ tôi cùng đi xem dân làng xử tội Pôn Pốt. Chúng tôi kéo nhau
đi, cũng gần đây thôi, cách trạm xá vài trăm bước.
Pháp trường là một bãi đất trống ven đường
đất đỏ, một đám người đông đúc quay tròn quanh bãi. Xa xa, cách đó vài chục bước
chân, người ta đang đào hố chôn tập thể, và xa hơn nửa, mặt trời chênh chếch xế
về Tây, tuôn trào lửa đỏ, trời tháng tư hầm hập nóng. Tôi xen vào đám đông cùng
xem cảnh dân Campuchia hành quyết bọn Ăng-ca.
Trước mắt chúng tôi là bốn người đàn ông
Campuchia vạm vở, đen đúa, trần trùng trục, quấn xà-rông, nằm sấp dưới đất, tay
bị trói thúc ké ra sau lưng bằng khăn cà-ma, đầu bê bết máu... Máu loang lổ
trên nền đất khô, trên những thân thể đang nằm thoi thóp. Họ bị đập đầu cũng đã
lâu, máu trên đầu đang khô lại. Có người thở phì phọp, máu từ trong miệng người
đó thổi ra từng bong bóng nhỏ, phồng lên, xẹp xuống, phồng lên, xẹp xuống...
Một ông già dáng người quắt thước, vẽ mặt
căm phẩn, đi vòng quanh, cầm cây đập thẳng cánh vào đầu từng thằng nghe bốp bốp...
Những người bị đập đầu có vẽ tê liệt rồi, không nghe la, không dẫy dụa, chỉ thấy
một người còn sức co giật từng cơn nhẹ nhẹ.
Một phụ nữ trọng tuổi, dáng người ốm yếu,
mắt mũi ròng ròng, bà vừa đánh, vừa khóc, vừa kể, cảnh tượng thật bi ai, thê thảm!
Không biết tiếng, nhưng tôi hiểu bà đang kể tội mấy thằng này đã giết chồng bà,
giết con bà, để lại một mình bà đau khổ tàn tạ trong tuổi xế chiều. Bà không có
sức, bà đánh không đau, bà đánh như mẹ đánh con, không hung ác, không giận dữ.
Bốn thằng Pôn Pốt đó sắp chết rồi, không
thấy phản xạ vì trước những cái đánh của bà. Chỉ thấy máu trên đầu chúng bê bết,
bê bết trên những cái đầu đen, tóc quăn tít.
Đứng coi hoài cũng chán, tôi bỏ ra, đi về.
Đầu nghỉ mông lung, đúng là nợ máu trả bằng máu. Mình giải quyết mấy thằng
Ăng-ca theo cách này quá hay, những người
dân của cái làng này vậy là không còn đường lùi, phải triệt để xây dựng chính
quyền mới, triệt để tiêu diệt Pôn Pốt, không để nó có cơ hội quay về trả thù khốc
liệt.
5.
NGÃ BA ĐÔNG DƯƠNG
Sau hơn hai tuần điều trị tại trạm xá
trung đoàn, khi vết thương chưa lành hẳn, vẫn còn mang băng, tôi được trả về
đơn vị với lời dặn có gì thì xin thêm thuốc y tá đại đội uống. Có một cán bộ về
trung đoàn họp và tôi được gởi theo đồng chí đó về đơn vị.
Về đến nhà thì trời tối mịt, anh em kêu
tôi lên gặp anh Vịnh, trung đội trưởng mới của tôi, người Quảng Ninh. Đồng chí
Vịnh nói với tôi là anh em thấy tôi bị trúng cối, tưởng tôi chết rồi, bị thương
như vậy là may lắm đó. Rồi giở ba lô ra, lấy cho tôi mấy trái xoài xanh dú gần
chín, anh bảo tôi qua đồng chí Thạch xin lại cái vỏ chăn mà khi đi viện anh ấy
giữ dùm cho tôi.
Tôi qua chổ đồng chí Thạch, anh vui vẽ trả
lại cho tôi cái vỏ chăn mà anh đã mang dùm tôi trong khoảng thời gian tôi mang
khẩu B41 và 6 trái đạn, cũng như suốt thời gian tôi nằm viện.
Sáng hôm sau chúng tôi hành quân bộ ra bờ
sông Tôn-lê-sáp, tôi còn nhớ hình như hai bên bờ sông đạn pháo các loại cắm vào
tua tủa như lông nhím... Tại đây tôi gặp lại anh Lê Hùng Dũng, lính nhập ngũ
cùng đợt 03/12/78 với tôi, anh này là bạn làm việc chung cơ quan thành đoàn
Thanh niên cộng sản thành phố Hồ Chí Minh với chị tôi. Anh em gặp nhau tay bắt
mặt mừng, biết tôi không có võng nằm, anh cho tôi một xấp vải katê xanh thu được
của Pôn Pốt để làm võng, tôi cám ơn anh và nhớ mãi tấm lòng tốt này. Anh là
lính C12, cùng tiểu đoàn với tôi, rồi chúng tôi sẽ còn gặp nhau nhiều.
Tối đó, chúng tôi ngũ lại ven sông, trời
nóng nực, không có gió, mũi vo ve. Cái tấm vải anh Dũng cho, tôi dùng dây võng
cột chặt hai đầu, treo vào thân cây rồi tôi nằm xuống, được một chút thì tôi rớt
phịch, đập đít xuống đất. Đứng lên, cột lại, rồi nằm, rồi té mấy lần như vậy...
Quả thật không ổn!
Trong cái khó ló cái khôn, tôi lấy cái vỏ
chăn ra, lấy dây võng cột chặt hai đầu làm võng thì lại ổn. Thì ra do vỏ chăn
hai lớp, thịt nhiều, dầy cơm nên dây võng níu chắc được, lại thêm cái võ chăn
còn được may gấp nếp nên khi túm lại cái nếp gấp này làm thành cái khất. Dây
võng mắc vào cái khấc đó khá là chắc chắn. Làm được cái võng này rồi, tôi mới ổn
định mà nhắm mắt ngũ được qua đêm.
Chúng tôi đóng ở bờ sông Tôn-lê-sáp được một
vài ngày thì có lệnh chuyển quân, chúng tôi lên xe qua phà, cái phà công binh bằng
thùng sắt bồng bềnh coi vậy mà chắc, đủ sức đưa cả một sư đoàn qua sông. Đơn vị
của tôi được bố trí đi bằng xe Hồng Hà của Trung quốc mới cáu, đây là chiến lợi
phẩm tịch thu của Pôn Pốt.
Sư đoàn 5 hành quân cơ giới trên mấy trăm
chiếc xe tải thành một đoàn dài hàng chục cây số, khí thế dời non lấp biển. Trời
đã về chiều, rồi chúng tôi đến một ngã ba, xuống xe dừng lại rất lâu, nghe lính
tráng xầm xì bàn tán, đây là ngã ba Đông Dương đi Việt Nam, Miên, Lào.
Campuchia hoàn toàn giài phóng rồi, hay là mình về Việt Nam?
Nghe bàn tán về Việt Nam, lòng tôi vui mừng
vô hạn, rúng động tận đáy lòng và cứ hy vọng mãi là sẽ mau chóng được trở về
quê hương, xây dựng quân đội, bảo vệ tổ quốc.
Mới qua Campuchia được hai tháng chúng tôi
đã đi qua khá nhiều địa danh trên cái đất nước chùa tháp này. Xuất phát từ Sa
Mát ở Việt Nam chúng tôi qua Kompong Cham, Kompong Thom, rồi Takeo, Kompong
Speu, Kompong Chnang, một nửa đất nước Campuchia theo chiều ngang từ Đông sang
Tây và chiều dọc từ Nam lên Bắc đã có dấu chân người lính mới của trung đoàn 4
đi qua.
Đoàn xe mấy trăm chiếc của chúng tôi lại
hùng dũng lên đường, được một lát một lát thì trời tối, toàn bộ đội hình dừng lại,
xuống xe, dạt ra hai bên đường ăn uống, nghỉ ngơi qua đêm rồi sáng mai đi tiếp.
Ý nghĩ được về Việt Nam vẫn còn nung nấu
trong tôi, sáng hôm sau đứng trong thùng xe mà tôi cứ quan sát mãi: Việt Nam,
Việt Nam ở đâu? Tôi là lính mới, ngây ngô không hề biết rằng đoàn quân của
chúng tôi đang càng ngày càng rời xa tổ quốc.
Chúng tôi đang tiến lên phía trước. Tôi cứ
ngóng, ngóng mãi, ngóng mãi... chỉ thấy xa xa là một dãy núi, và dãy núi này đã
đồng hành với đoàn quân của chúng tôi suốt buổi sáng hôm đó, dãy núi đó tên là
gì tôi thực sự không biết. Đất nước này tuy quen mà lạ, quen vì tôi đã đổ biết
bao nhiêu là mồ hôi và cả máu nửa trên đất này, lạ vì đây là lần đầu tiên tôi
đi hết chiều dài nước Campuchia theo trục Nam Bắc.
Tối đó chúng tôi dừng quân tại một nơi nào
không rõ, cũng như tối qua, xuống xe ăn uống rồi ngũ qua đêm. Sáng lại lên xe
và đi tiếp.
Được một lát, đoàn xe dừng lại trên đường
phố của một thành phố xanh và đẹp. Xanh vì có những công viên cây xanh rộng lớn.
Đẹp vì có những kiến trúc dinh thự kiểu Pháp tường vàng ngói đỏ. Nghe ai đó nói
đây là thị xã Xiêm Riệp, ấn tượng của tôi về Xiêm Riệp, nơi có nền văn minh
Ăng-co vĩ đại chỉ có vậy thôi! Vì chúng tôi chỉ dừng chân ở đó, đứng ngay tại
chổ đó một khoảng thời gian chừng mười phút rồi lại nhảy lên xe đi tiếp.
Đoàn xe của chúng tôi lại lên đường, đến
chiều thì đến phum Diêng, huyện Sisophon, tỉnh Battambang. Đây là vùng đất nằm ở
cực Tây Bắc của Campuchia giáp biên giới Thái Lan.
6.
PHUM VIÊNG THÁNG 4/79
Tại phum Diêng, đại đội chúng tôi được bố
trí vào một cánh rừng dầu nằm ở phía Bắc lộ 5, sát ngay đường lộ. Một anh lính
Pôn Pốt, mặc đồ bà ba đen, ngang lưng thắt một cái võng còn khá mới, nằm nhe
hàm răng trắng nhởn, cười hết cở nhát ma chúng tôi.
Chúng tôi thận trọng đi qua anh, thực sự
tôn trọng, không dám đá vào người anh. Anh là tử sĩ, phơi thây trên chiến địa,
da thịt đã tan rã, chỉ còn bộ xương khô với cái đầu lâu trắng nhởn. Chúng tôi
nhìn anh vô cảm, không thù, không oán. Chết là hết!
Chúng ta là binh sĩ, ra trận bắn giết lẩn
nhau theo mệnh lệnh chỉ huy. Cũng có khi anh chỉ là một lương dân vô tội, bị bắt
đi lính, bị bắt cầm súng, bắn bắn, giết giết theo lệnh của bè lũ bạo tàn trong
tập đoàn phản động Pôn Pốt – Iêng Xary.
Chúng tôi rải quân trong một cánh rừng dầu
thưa thớt dọc quốc lộ số 5, đối diện chúng tôi bên kia đường là phum Viêng, một
cái phum hoang tàn và lạnh lẽo, không một bóng người.
Tôi căng tăng làm lều để ở và lấy giấy ra
viết thư gởi về gia đình. Giấc mộng trở về Việt Nam từ ngã ba Đông Dương đã thực
sự tan rồi, đây là giờ phút tôi trải lòng với gia đình tôi ở Việt Nam.
Trời không cho tôi viết thư...
Giông gió nổi lên, thổi tung đồ đạc, rồi
mưa rơi xuống. Đây là cơn mưa chuyển mùa đầu tiên của mùa mưa năm 1979 trên cái
phum Viêng hoang tàn trơ trọi này.
Cơn mưa chuyển mùa, do tích tụ năng lượng
của cả mùa khô, nên giông gió quằn quại, vặn vẹo mãnh liệt như đàn bà đau bụng
đẻ. Vậy mà mưa chỉ chút đỉnh rồi thôi, để lại thằng tôi ướt chèm nhẹp, đồ đạc
mang ra cũng bị ướt át lem nhem cả, cái thư đang viết đành bỏ dở. Tôi thu dọn đồ
đạc rồi khăn gói ra hồ nước phum Viêng tắm.
Đứng trên bờ đê, tôi mới thấy cái hùng vĩ
của cái đập nước này. Phải gọi cái hồ này là cái đập mới đúng, vì nó hình thành
do người ta đắp đập ngăn nước. Lúc đó tôi cũng không có đủ kiến thức để bàn luận
đâu là hồ, đâu là đập đâu... Chỉ thấy từng cơn sóng lớn vỗ vào thân đê, từng đợt,
từng đợt sóng, lớp sau đè lớp trước...
Tôi tắm rửa qua loa rồi xách nước trở về,
đi qua chổ anh lính mặc đồ Ăng-ca đang nằm, anh lại nhe răng cười nhát ma tôi.
Đọng lại trong cái nhìn của tôi: Cái võng anh cài ngang thắt lưng trông còn mới
quá.
Không phải chỉ mình tôi thấy cái võng đó mới,
mà chính ông Thư già, hơn tôi 10 tuổi, dân Củ Chi, nhập ngũ cùng đợt, cũng để ý
tới cái võng.
Biết tôi không cò võng nằm, hôm sau gặp
tôi, anh ấy bảo:
- Hùng, tao thấy cái võng đó còn mới lắm.
Mày lấy xài đi.
Tôi trả lời:
- Thôi đi, nó ngấm nước xác chết rồi, tôi
không dám xài đâu.
Chiều hôm đó có một anh trong đội, đi lãnh
cơm về, thấy cái đầu lâu nhe răng cười trắng nhởn trong ánh chiều tà, anh ta sợ
quá vùng chạy, vừa chạy vừa la ma, ma...
Hôm sau có người lấy đá chọi cái đầu lâu
văng đi đâu mất, rồi cái võng cũng không thấy nửa.
Phum Viêng tháng 4 năm 1979 vào thời điểm
mới thành lập mặt trận 479 là như vậy.
Sau đó ít lâu, trung đoàn bộ của trung
đoàn 4 đặt chỉ huy sở tại đây, nơi đây bỗng dưng trở thành một cứ điểm đông vui
kéo dài tới ngã ba con voi cách đó 2 cây số.
7.
NGÃ BA CON VOI
Vào một buổi sáng tinh mơ hạ tuần tháng 4
năm 1979, chúng tôi từ phum Viêng theo lộ 5 đi về hướng Đông trở ra ngã ba con
voi. Từ ngã ba này, nếu bạn đi tiếp về hướng Đông khoảng 30km là đến Sisophon,
còn nếu quay trở ra hướng Tây khoảng 15km là đến cửa khẩu Poipet giáp Thái Lan,
cái cửa khẩu nổi tiếng là sòng bạc quốc tế hiện nay, vào thời điểm đó là địa
bàn phòng thủ của tiểu đoàn 1, trung đoàn 4 anh hùng.
Ngay ngã ba này án ngữ một bức tượng con
voi bằng bê tông cốt thép, đầu quay ra Bắc, đuôi hướng về Nam. Ý nghĩa của bức
tượng này theo lời các bà mẹ Campuchia ở phum Sophia, phum Sophi (huyện
Sisophon tỉnh Battambang, nay thuộc tỉnh Banteay Meanchey) kể lại thì do khí hậu
ở phía Nam khắc nghiệt, rừng thiêng nước độc nên to khỏe như voi cũng không ở
được, phải bỏ nó mà đi ra phương Bắc nơi địa hình thông thoáng, bằng phẳng, đất
đai phì nhiêu hơn để sống.
Từ ngã ba con voi, có đường đất đỏ đi thẳng
về phương Nam được vài cây số thì hết... muốn đi tiếp nửa phải cắt rừng mà đi
vào đến Cao Mê-lai, giáp ranh biên giới Thái Lan.
Đường Cao Mê-lai từ 1980 trở về sau này
mìn nhiều lắm, những người lính chúng tôi thường nghêu ngao hát: Con đường Cao
Mê-lai, người ta kéo dây mìn, thế là anh hết đi...
Qua khỏi ngã ba con voi, cũng theo lộ 5,
chúng tôi đi tiếp chừng non 100m thì tới ngã ba Nimith. Ngã ba này là điểm khởi
đầu của một con đường đất đỏ chạy thẳng lên hướng Bắc đi Đăng-cum, nơi đó là địa
bàn phòng thủ của tiểu đoàn 2 thời bấy giờ. Tiểu đoàn chúng tôi đang men theo
con đường đất đỏ đó để vào phum Sophia,
cách ngã ba Nimith 2km.
Khí trời buổi sáng mát rượi, chúng tôi vào
phum chậm rải khoan thai, bình an vô sự, như một đứa con chinh chiến phương xa
nay trở về xóm làng của mình.
Trên đường vào phum, từ xa xa chúng tôi thấy
có hai cây phượng vĩ đang ra hoa. Màu phượng đỏ báo hiệu hè về, tự dưng nhớ đến
tuổi học trò. Văng vẳng đâu đây trong đầu: Mỗi năm đến hè lòng man mác buồn,
chín mươi ngày qua chứa chan tình yêu...
Bài ca thì buồn nhưng lòng tôi không buồn,
tôi còn đang trẻ, trong người mạnh khỏe, buổi sáng yên lành, khí trời mát mẻ, hồn
tôi phơi phới, bay bổng với phượng đỏ, hè về, hè về!
Đến ao nước đầu làng, chúng tôi hạ vũ khí,
cởi ba lô, dừng lại trên bãi đất trống xanh mơn mởn màu cỏ non. Tôi thoải mái
vươn vai, ngồi xuống bên cạnh một hòn đá lớn đầu tròn, ngoi lên từ vùng đất thịt
mịn màng của xóm làng trù phú Sophia. Đồng chí Sau (mới được bổ sung vào trung
đội hồi chúng tôi đi đánh phối thuộc quân đoàn 4) nói với tôi hòn đá này là hòn
đá sống đấy, nó có chân, rồi từ từ nó sẽ ngoi lên từ lòng đất và lớn lên. Nghe cũng có lý... đến nay đã hơn 30
năm rồi, không biết hòn đá sống của đồng chí Sau ở phum Sophia, cách ngã ba con
voi hai cây số nay đã lớn tới đâu rồi, chúng ta phải cố mà về thăm lại chiến
trường xưa thôi, các đồng chí cựu chiến binh trung đoàn 4 ạ!
Đại đội 13 được bố trí hướng chính diện là
hướng Bắc, kéo một vòng qua hướng Tây theo đường vòng cung như hình rẻ quạt,
phía sau vòng cung đó là đại đội bộ.
Trung đội chúng tôi được bố trí phòng thủ về hướng Tây của phum, tại đây vào những
buổi chiều tà, tôi nằm võng mà nghe xa xa từ trong phum vọng lại tiếng người
huyên náo, tiếng trẻ nô đùa, báo hiệu một sức sống mới đang phát triển từ đống
tro tàn của chế độ diệt chủng Pôn Pốt – Iêng Sary.
Đêm đó làng mở hội lăm thôn mừng chô
chơ-năm thơ-mây (vào năm mới). Vừa thoát khỏi chiến tranh, dân cực kỳ nghèo,
dân không có quần áo đẹp để chưng diện, không có rượu để uống, để nhảy cho bốc,
không có cả gạo lẩn thức ăn ngon, người dân ăn tết bằng vũ điệu lăm thôn, tay
thì múa và chân thì xoay theo điệu nhạc, tôi cũng được tham gia vào những cuộc
vui này nhưng rất bở ngở vì không biết múa, rất lọng cọng, ngượng ngịu nhưng vẫn
thấy vui, tràn đầy phấn khởi, chứa chan tình đoàn kết samaki.
Sau mấy ngày mở hội lăm thôn ăn tết, người
dân Sophia hăm hở bắt tay vào việc xây dựng công sự cho bộ đội đồn trú. Còn
chúng tôi thì bắt tay vào việc xây dựng lán trại, với 6 cây cọc gỗ đào sâu cắm
thẳng vào lòng đất thịt, 4 cây xà, 5 cây đòn tay và chừng 6 tấm tôn chúng tôi
đã dựng được 1 mái nhà cho cái tổ tam tam (3 người) của mình, nhà là nhà tạm để
trú mưa thôi, chứ người lính cơ động có rất nhiều việc để làm, không bao giờ ở
yên một chổ.
Giai đoạn này chúng tôi thường hành quân cấp
trung đội nhằm thông tuyến từ phum
Sophia đến suối cạn, suối sâu ở hướng Bắc rồi quay về. Thỉnh thoảng có những cuộc
hành quân lớn hơn đi sâu về hướng Bắc. Tuy liên tục có các đợt hành quân truy
quét nhưng không có cuộc chạm súng nào, tình hình phía Bắc Nimith trong giai đoạn
này hoàn toàn yên tỉnh.
Tháng 7 năm 1979 có đợt bổ sung quân lớn từ
nguồn lính thành phố Hồ Chí Minh nhập ngũ tháng 3/79. Tôi được phong làm tiểu đội
trưởng, đồng chí Sau làm tiểu đội phó, lính trong tiểu đội thì tân binh nhập
ngũ tháng 3/79 có, cựu binh nhập ngũ 78, gốc thành phố Hồ Chí Minh có, quân khu
3 có.
Lính quân khu 3 lúc rảnh rỗi thường trêu
chọc nhau bằng những mẫu chuyện khôi hài như: Thái Bình có cái cầu Bo, Hà Nam
Ninh quê hương chín củ thành mười, Thái Nguyên chủ tịch xã cởi trâu đi họp -
báo suất cơm suất cỏ, Hải Hưng bánh chưng đất, dân Thanh Hóa ăn rau má phá đường
tàu...
Trong các chuyện lính kể khôi hài bôi bác
nọ, tôi nhớ nhất là chuyện ba chú vô Nam, xin kể các bạn nghe chơi để nhớ lại một
thời lính tráng rất tiếu lâm, kể nhau nghe cho vui thôi, không nhằm mục đích
khích bác ai cả, xin anh em quê bọ đừng phiền:
Thời kỳ chống Mỹ, trước khi hành quân vô
Nam bằng đường Trường Sơn, các chú bộ đội phải dừng chân nghỉ qua đêm tại Quãng
Bình, ở xứ này người ta kêu bố bằng bọ.
Có một nhà nọ chứa ba chú bộ đội, sáng hôm
sau, trước khi các chú lên đường vào Nam, ông bọ muốn xin một đôi giày,
nên nói:
- Các chú có giày cho bọ xin một đôi.
Các chú
trả lời :
- Chúng con mỗi người chỉ có một đôi giày
thôi ạ!
Ông bọ cố xin mới nói :
- Ba chú vô Nam, thế nào cũng có chú chệt,
chú sống lấy giày của chú chệt mà mang, thế thì cho bọ xin một đôi.
Các chú không muốn cho, nên trả lời :
- Nhưng mà chúng con đi giày đủ cở, bọ làm
sao mang vừa.
Ông bọ nài nỉ :
- Ồ bọ mang dễ lắm, giày 38, 39, 40, cở nào
bọ mang cũng được tuốt.
Bôi
bác thế này thì bố ai chịu được! Anh lính quê bọ đang ngồi uống nước, quăng bát
nhào vô định ăn thua đủ liền. Anh kia bỏ võng bật dậy, chạy vòng vòng, vỗ tay
cười ha hả...
Các người lính trêu chọc nhau, bôi bác lẩn
nhau, gân cổ cãi nhau ầm ỉ, nhưng lại rất thương yêu đùm bọc lẩn nhau, chia ngọt
sẻ bùi, điếu thuốc hút chung, không mất đoàn kết, lính Nam lính Bắc tình cảm
chan hòa.
Qua đợt bổ sung này, quân số mỗi tiểu đội
đạt khoảng 5 đồng chí, mỗi trung đội có gần hai chục tay súng, hỏa lực có trung
liên RPD, B40, B41 đủ cả. Đây là thời kỳ cũng cố rất cần thiết sau những năm
dài chiến tranh biên giới Tây Nam. Trong thời gian này có một số cán bộ cấp
trung đội, đại đội được đưa đi học bổ túc khóa 6 tháng tại trường sĩ quan lục
quân 2. Riêng tôi cuối tháng 9/1979 được đưa về Sisophon, nơi đóng đại bản
doanh của sư đoàn để học trường hạ sĩ quan D30.
Hồi 8: Sisophon
(Năm 82 đi Síophon, lúc đó đi chưa biết
bác tran479 thông tin sư D29, chắc gần D30? Nếu biết thì ghé rủ bác đi uống rượu
chơi, không biết bác tran479 có từng ngồi quán ba chị em chưa? Có giai thoại gì
vui kể cho anh em nghe chơi)
1.
THỊ TRẤN SISOPHON
Từ ngã ba con voi nhìn về hướng Đông,
chúng ta thấy sừng sững một khối núi
hình mu rùa... đó là Sisophon, thị trấn nằm bên cạnh ngọn núi đá. Khoảng cách từ
ngã ba con voi về Sisophon là 30 km, xe quân sự chạy 1 tiếng đồng hồ là tới.
Trường hạ sĩ quan D30 đóng ngay chân ngọn
núi đá, thao trường của chúng tôi là một bãi hoang rộng lớn, đất cát trắng lổn
nhổn đá và đầu lâu. Nơi đây có những hố chôn tập thể của Pôn Pốt, người dân bị
Pôn Pốt hành hình, đập đầu quăng xuống hố, nay xương tàn, cốt rụi chỉ còn lại
những hố đầu lâu nhe răng cười trắng nhởn.
Đại đội trưởng đơn vị huấn luyện của tôi
là một thiếu úy, người Hải Phòng có gương mặt đẹp trai sáng sủa. Anh đón chúng
tôi ở mức độ niềm nở vừa phải, không thân thiện nhưng cũng không quá xa lạ. Sự
đón tiếp trong chừng mực đó là phù hợp vì chúng tôi ở xa đến, học ở đây không
bao lâu, chừng tháng rưỡi là hết chương trình.
Những buổi huấn luyện của chúng tôi trên
cái thao trường lổn nhổn đá và đầu lâu này thực sự bổ ích. Chúng tôi được học
chiến thuật các cấp từ tiểu đội, trung đội, đại đại bộ binh tấn công, phòng ngự
trận địa, chiến thuật phục kích: chặn đầu, khóa đuôi, xung phong diệt gọn...
Có những sáng sớm chúng tôi được phân công
tuần tra trên núi, chúng tôi xách súng men theo lộ đá mà đi. Núi không cao,
lưng chừng núi có một ngôi đền, trong đền có hai ngôi mộ đặt song song, hai
ngôi mộ đã bị bật nắp trong đó lộ ra trần truồng hai bộ xương khô nam nữ. Không
biết bàn tay của ai đó đã quá ác tâm khi quật mồ người ta, để lộ hai bộ xương
khô nằm nghiêm chỉnh trong cái mộ phần của mình.
Cách doanh trại huấn luyện của chúng tôi
không xa có một cái chợ tự phát, mọc ra dưới bóng cây độc mộc, tàn lá xum xuê.
Cái chợ này bán thực phẩm, hàng ăn uống và thuốc lá. Mỗi người lính Việt Nam ở
Campuchia ngoài tiền phụ cấp của quân đội, mỗi tháng chúng tôi còn được chính
phủ Hun Sen trợ cấp 5 Riel (1 Riel ăn 3 đồng Việt Nam lúc bấy giờ). Chúng tôi lấy
tiền đó mua thuốc lá thơm Gold City để hút, mua ít thôi khi thì một gói, khi
vài điếu thuốc lá lẻ để có cái mà đi chợ. Đi chợ chơi, không ăn không uống gì cả,
chỉ dành tiền mua thuốc lá thôi.
Nơi đây là huyện lỵ, vậy mà suốt 1 tháng
rưởi ở đây tôi chưa một lần bước chân ra thị trấn Sisophon, không biết mặt mũi
cái sư đoàn bộ ra làm sao, nhà cửa người dân và cuộc sống của họ như thế nào?
Khoảng thời gian này tôi chỉ quanh quẩn
trong đơn vị và ngoài thao trường, không đi đâu cả ngoài cái chợ chồm hổm dưới
bóng cây độc mộc kia... Bởi vì không quen biết ai ở cái thị trấn này, cả dân lẩn
lính!
Phải đến giữa mùa mưa 1982 tôi mới có dịp
hiên ngang trở lại Sisophon. Hiên ngang là bởi vì lúc này chúng tôi là đoàn cán
bộ cấp trung đội, đại đội đi nhận chiến sĩ mới về bổ sung cho đơn vị mình. Tân
binh đợt này là lính quân khu 9, con em của các tỉnh miền Tây nam bộ... Tội
nghiệp đợt lính này về tham gia tiểu đoàn 3 trong lúc chúng tôi đang nằm sâu
trong Tà-cuông Krao, đang xây dựng căn cứ hành quân Năm-sấp, đang làm nhiệm vụ ở
phía Nam cao điểm Mê-lai, nơi mà những con thú vật gốc bản địa, to như con voi
cũng phải quay đít mà đi, rời bỏ chốn thâm sơn cùng cốc, sơn lam chướng khí mà
về hướng Bắc, về với đồng bằng Battambang cò bay thẳng cánh, đầy rẩy suối
sông tôm cá.
Trong thời gian chờ đón tân binh, chúng
tôi được ở nhà khách sư đoàn, ở chung với một đoàn văn công của quân khu 7 do một
sĩ quan cấp tá dẩn đầu, chúng tôi kêu ông bằng bố. Xin bố già cho các em văn
công biểu diễn văn nghệ cho chúng tôi xem, ông bố không chịu mà nói để ngày mai
sẽ biểu diễn cho cả sư đoàn cùng coi.
Ở trung đoàn chúng tôi chưa bao giờ được
văn công phục vụ, vì toàn bộ đội hình trung đoàn đóng quân đều nằm trong tầm pháo kích của địch.
Còn nếu pháo kích không tới thì thằng Pôn Pốt cũng có cách quấy rối là đêm đêm
đem vài tay súng tới bắn vài trái B40, tuôn vài loạt AK khuấy động quân tình
chơi!
Ở nhà khách mãi cũng buồn, tối đó chúng
tôi 3 thằng lính C13 rủ nhau đi uống rượu. Ba đứa hùn tiền mua 1 chai rượu mùi
Đà Lạt trong một quán nước có 3 cô gái Campuchia làm chủ, chúng tôi gọi là quán
ba chị em.
Chai rượu này ở đây bán với giá tương
đương nửa chỉ vàng thời bấy giờ, chúng tôi ngồi nhâm nhi rượu ngọt trong một
cái quán nước ấm cúng ở thị trấn Sisophon. Nơi đây có điện, có đèn, có nhạc, có
gái đẹp bản xứ ngồi tiếp chuyện, thấy đời cũng đáng sống, tạm thời quên đi cái
căn cứ hành quân Năm-sấp tối tăm muỗi vắt sau lưng... Cũng cùng là lính sư
đoàn, nhưng những người lính trung đoàn 4, và nhất là tiểu đoàn 3 giờ này đang cực lắm, đơn vị chúng
tôi đang ở Nam Cao Mê-lai, nơi ngay cả con voi gốc bản địa cũng quay đít bỏ đi!
Rồi cái buổi văn công quân đội biểu diển
văn nghệ cho cán bộ chiến sĩ sư đoàn xem cũng tới. Chiều hôm đó cơm nước xong
xuôi, chúng tôi ăn bận gọn gàng, tươm tất rồi tà tà thả bộ đi xem văn nghệ. Cả
một rừng người háo hức xem văn công biểu diễn, tôi đứng ở xa xa, coi nhảy múa
chập choạng, thấy anh em biểu diễn coi bộ cũng công phu lắm, nhưng xem không thấm,
không có cảm giác gần gủi, ca nhạc cũng vậy, cũng thấy nhạt nhạt... Nói chung
là không ấn tượng gì cả, chúng tôi ra về với cảm giác trống rỗng, vô vị. Ngày
mai chúng tôi sẽ nhận quân và trở về cái căn cứ nơi rừng sâu, nước độc của
mình.
*
* *
Trong khoảng thời gian chúng tôi đi học lớp
hạ sĩ quan ở chân núi Sisophon thì ở nhà có chuyện: Toàn bộ đại đội 13 được lệnh
xuất kích tiến vào Cao Mê-lai, đại đội hành quân mà không biết rằng ở nhà đồng
chí quân lực đã lập danh sách trích ngang của anh em để báo cáo về trên, chuẩn
bị hậu sự... Sau những tổn thất lớn về nhân mạng ở trận đánh giữa cuối tháng
3/79, nay đồng đội của chúng tôi lại bước vào vùng đất lành ít dữ nhiều.
Khóa học hạ sĩ quan của chúng tôi cũng được
rút gọn lại và kết thúc sớm hơn dự kiến một chút để kịp thời trả quân về các
đơn vị chuẩn bị chiến dịch mùa khô năm 1980.
9.
DON THOMO
Thượng tuần tháng 12/79 tôi trở về Nimith,
đêm đó tại bãi tập kết quân giữa phum Sophia trăng sáng vằng vặt, tôi viết thư
về nhà mà không cần dùng tới ánh đèn. Lính tráng đốt lửa để sinh hoạt, còn tôi
thì tận dụng ánh lửa đó để viết thư. Tôi đang nằm chờ tại đây để hội quân với
đơn vị của mình đang trở về từ Cao Mê-lai.
Đại đội chúng tôi trở về Sophia cũng trong
đêm đó, đợt xuất kích này không có tử sỉ, nhưng quân binh tàn tạ vì sơn lam chướng
khí, hầu hết quân số đều mang bệnh sốt rét mãn tính. Chỉ còn tôi và một số đồng
chí đi học về là mạnh khỏe, là nòng cốt của đơn vị lúc này
Đội quân bệnh hoạn này không tự hành quân
được, xe GMC của trung đoàn đưa chúng tôi tiến vào Don Thomo từ hướng Bắc phum
Diêng..
Don Thonmo, nghĩa tiếng Việt có nghĩa là
Giếng Đá (don là giếng, thomo là đá). Đây là địa điểm mà thời trước, người ta
đã cho khai thác đá để làm quốc lộ số 5 và đường sắt đi Poipet.
Đơn vị bạn để lại căn cứ Don Thomo cho
chúng tôi cũng đầy đủ nhà ở, công sự, giao thông hào nên chúng tôi cũng không vất
vả lắm về việc cũng cố doanh trại... Đại đội ngày càng thưa thớt, các bệnh binh
lần lượt được chuyển lên tuyến trên điều trị, có người vào trạm xá trung đoàn,
những người nặng hơn thì chuyển về bệnh xá sư đoàn ở Sisophon, nặng hơn nửa thì
đi bệnh viện 7E ở Xiêm Riệp.
Cả tiểu đoàn vào đợt cũng cố, ban ngày đào
hào cũng cố công sự, tối đến thắp đèn tập bài bắn ban đêm với mục tiêu là bia mẹ bồng con, tượng
trưng cho hai thằng xạ thủ đang bắn đại liên.
Đêm đêm chúng tôi ngồi canh gát trước đội
hình, nhìn về phía Tây thấy sáng rực một góc trời, đó là ánh sáng đô thành... của
một thị trấn Thái Lan yên bình, chúng tôi đang ở rất gần cửa khẩu Poipet và cái
thị trấn đó, không tới 10km đường chim bay.
Chúng tôi sinh hoạt ở Don Thomo vào mùa
khô khá thoải mái nhờ vào các giếng đá tích trữ đầy nước mùa mưa, vào mùa khô mọc
đầy bông súng, chúng tôi bứt bông súng làm nộm ăn cải thiện trong những tháng
mùa khô hiếm hoi rau cỏ này.
Các bệnh binh được đưa đi điều trị rồi
cũng lần lượt trở về. Doanh trại ngày càng được hoàn thiện hơn, các tuyến giao
thông hào được nối mạng thông suốt.
Khu rừng dầu nơi chúng tôi đóng quân, thỉnh
thoảng lại có heo rừng đến viếng, nửa đêm nó theo đường mòn, chạy vào đội hình,
vướng mìn nổ oành một tiếng. Chúng tôi xách súng ra thăm chừng, đôi khi lại có
thịt rừng mà xơi.
Có 1 lần nghe tiếng mểnh kêu tát tát, tôi
leo lên cây mà coi, thấy rõ ràng một con mểnh to khoảng 30, 40 kg lông vàng lườm,
tướng tá giống như con nai. Tôi xuống, xách súng, leo lên cây... thì nó chạy
đâu mất rồi!
Trong đơn vị tôi có đồng chi Vi, đại đội
phó quân sự, dân tộc Tày, người Thái Nguyên giỏi săn bắn. Một chiều nọ anh vác
súng vào rừng săn được một con mểnh to, anh lắt bỏ hai hòn dái của nó (cho thịt
khỏi hôi) rồi về đơn vị kêu anh em đi khiêng xác con vật về cải thiện.
Cuối năm 1979, với nhiều chiến công đạt được trong chiến tranh biên giới Tây Nam,
trung đoàn 4 của chúng tôi cùng với trung đoàn 174 và sư đoàn 5 được tuyên
dương danh hiệu đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang lần thứ hai.
Những cơn gió lạnh kéo về từng đợt, từng đợt
báo hiệu năm hết tết đến. Năm nay chúng tôi ăn Tết lớn, một cái tết đầu tiên
sau ngày Campuchia hoàn toàn giải phóng khỏi họa diệt chủng. Các thương bệnh
binh đã trở về đơn vị đông đủ, quân số toàn đai đội lúc này khoảng trên 50 người,
tất cả phấn khởi hồ hởi đón Tết.
Heo, bò, gà, trà, rượu, thuốc đủ cả. Năm
đó chúng tôi đã ăn một cái Tết hoành tráng nhất trong đời lính. Bếp đại đội, bếp
trung đội rộn ràng, rồi lính tráng các đơn vị qua lại ồn ào thăm viếng lẩn
nhau, vui thì thật vui, nhưng vui lắm thì buồn nhiều...
Xa quê hương nhớ mẹ hiền, cái buồn nhớ làm
những người lính làm liều chơi ngông. Đầu têu cuộc chơi là cái anh pháo cao xạ
37 ly: Anh nhậu đã đời, rồi anh buồn tình, anh kéo pháo ra, anh nạp đạn vào,
anh bắn đạn lửa, đạn vạch đỏ trời... trong cái đêm giao thừa 30 tết năm 1980.
Sáng ngày mùng 1, theo chương trình chúng
tôi lên đại đội chúc tết. Chúc tết xong, rượu mới ngà ngà, chúng tôi trở về
trung đội ăn tết tiếp... bổng dưng súng nổ thay pháo. Đầu tiên là nổ ở hướng
trung đoàn bộ, rồi tiểu đoàn, rồi các đại đội, rồi các trung đội... Vui quá,
tôi cũng chơi luôn!
Tôi xách cây trung liên RPD ra, dựng chân
chống trên nóc chiến hào, chơi luôn nguyên nồi đạn 100 viên. Súng nổ, giật cành
cành, cành cành liên tu bất tận, hết dây đạn 25 viên này thì súng tự động xả
dây ra, kéo tiếp dây mới. Tôi say sưa bắn, hết dây thứ hai, sang dây thứ ba, thứ
tư, tiếng đạn nổ liên thanh làm tôi cực kỳ phấn khích, nổi buồn nhớ cha, nhớ mẹ
tan biến đâu mất! Máu chảy rần rần, mặt đỏ bừng bừng, mồ hôi ròng ròng, nòng
súng đỏ rực, tôi còn muốn bắn tiếp nửa, tiếp mãi... thì đại đội trưởng Tý chạy
xuống la:
-Ngưng bắn, ngưng bắn, tiểu đoàn nó chửi
tôi!
Phục tùng mệnh lệnh người chỉ huy gương mẫu
của mình, tôi lật đật xách súng chạy vô, trong lúc vội vàng phần da non cánh
tay phải của tôi chạm vào cái nòng súng cháy đỏ, lập tức nó lột da tay ngay tức
khắc, để lại lớp mỡ trăng trắng, mấy năm sau vẫn còn thấy thẹo.
Chúng tôi đã ăn cái Tết chiến thắng đầu
tiên trên đất bạn vào cái năm đó với rất nhiều rượu thịt và tiếng nổ của đại
bác, pháo cao xạ, đạn tiểu liên... một cái tết huy hoàng, ồn ào và mất trật tự.
Đang là thời chiến và trước mắt chúng tôi
là quãng đời lính dài vằng vặc phía trước, chúng tôi đi không biết ngày về. Tất
cả sĩ quan binh sĩ trên chiến trường đều hiểu như vậy và thấm thía nổi nhớ
nhà... nên dù cái Tết năm ấy lính tráng chúng tôi bắn phá hao tốn như vậy,
nhưng tất cả chúng tôi đều bình an vô sự, không ai bị kỹ luật gì, còn khiển
trách rút kinh nghiệm thì đương nhiên là có, rồi thôi.
Năm 1981 chúng tôi cũng ăn một cái tết
hoành tráng như vậy, hậu phương và nước bạn Campuchia chung sức chăm sóc cho những
người lính xa nhà chúng tôi ăn một cái tết đầy đủ rượu thịt, nhưng cái tết đó
bình an, yên tỉnh, không một tiếng nổ mất trật tự.
Chúng tôi chỉ được ăn 2 cái tết ở Don
Thomo thôi, rồi phải đột ngột rời xa nó tức tưởi! Để rồi không biết đến cái tết
thứ ba, bởi vì cái tết năm đó toàn bộ tiểu đoàn chúng tôi đã luồn sâu vào Nam
Cao Mê-lai rồi.
10.
PHNOM MELAI
Cụm cao điểm này thực ra không cao lắm, ngọn
núi cao nhất chỉ chừng ba trăm mét thôi. Nhưng cái hiểm trở ở đây là mùa khô
không có nước, những người lính phải đào đá ra mà chắc lấy nước, cái chất nước
rỉ ra từ trong đá đó trắng nhờ nhờ, đùng đục như nước vo gạo, uống vào chắc chắn
là mang bệnh, còn không uống thì bị chết khát, anh chọn cái nào?
Đây là vùng đất của bệnh sốt rét nổi tiếng
khắp nước Campuchia, đến nổi người ta phải đúc tượng con voi quay đít bỏ Cao
Mê-lai mà đi.
Cao Mê-lai là cứ điểm cuối cùng của tàn
quân Pôn Pốt ở ngã ba con voi, vậy mà chúng tôi cứ truy kích tới hoài, cho nên
chúng chống trả quyết liệt bằng mọi thủ đoạn như gài mìn, phục kích, tập kích
nhằm tiêu hao sinh lực của ta.
Cuối năm 1979 đại đội 13 vào tiếp quản Cao
Mê-lai một cách êm thắm, không phải hy sinh một anh lính nào, nhưng giữ được nó
thì cực kỳ khó... Rừng thiêng nước độc, sơn lam chướng khí đã quật đổ từng người,
từng người lính một.
Việc vận chuyển lương thực thực phẩm tiếp
tế cho bộ đội giữ chốt cũng rất khó khăn, gian khổ, phải cắt đường mới, luồn rừng
mà đi, tuyệt đối không đi vào lối mòn chắc chắn là vướng phải mìn.
Cũng không được làm lộ đội hình hành quân,
đã có một đơn vị vận tải chủ quan dừng lại dọc đường, ăn uống ồn ào bị Pôn Pôt
tập kích một trận chết cả chục quân.
Sau khi đại đội 13 rút khỏi Mê-lai, có một
đơn vị của tiểu đoàn 1 thay thế đóng chốt, trong giai đoạn này thỉnh thoảng
chúng tôi có những đợt hành quân ngắn ngày mang vác gạo đạn trực chỉ Mê-lai để
tiếp tế cho đơn vị bạn.
Chúng tôi từ hướng đít con voi đi vào, đi
hết đoạn đường bộ có quân ta chốt giữ thì cắt đường rừng trực chỉ Cao Mê-lai,
chúng tôi luồn rừng thận trọng, nhẹ nhàng, yên phăng phắc, nhiều lần chúng tôi
phải dừng lại chờ trinh sát mở đường. Dây leo chằng chịt, đường rừng mấp mô, thỉnh
thoảng cắt ngang đường hành quân là một con suối đá cạn dòng. Phát hiện ra dấu
chân voi còn mới, cả đoàn quân lại phải càng thêm thận trọng, đôi khi phát hiện
cả phân voi nóng.
Tránh voi không xấu mặt nào...
Chúng tôi thận trọng vậy thôi, chứ đi Cao
Mêlai cả chục chuyến rồi, chúng tôi chưa từng chạm mặt với voi lần nào.
Đường vào Cao Mê-lai nhiều suối to, nhưng
mùa khô hoàn toàn khô cạn, trơ toàn sỏi đá. Cây rừng rậm rạp, có nhiều cây bằng
lăng cổ thụ, thân gồ ghề, gốc chia thành nhiều phiến lớn như phiến đá, ba bốn
người ngồi trong những phiến cây đó vẫn kín đáo an toàn. Nhiều dây leo chằng chịt
to bằng cổ tay, dùng dao chặt đứt, nó lòi ra sớ gỗ màu đỏ bầm, có thể vắt lấy
nước mà uống. Nói là có thể, chứ tôi chưa từng thấy ai vắt nó ra lấy nước uống,
vì gỗ nó sơ cứng, rắn chắc lắm, thực khó mà vặn ra lấy được nước. Nhưng nó vắt
ra nước được đấy, đó là bài học đi rừng của những người lính Cao Mêlai nơi nước
uống cực kỳ quí hiếm! Những khi chết khát thì cái dây rừng này nó sẽ là cứu bạn
đấy, bạn hãy chặt nó ra hoặc cắn xé nó ra mà mấp lấy nước, mấp lấy cái dưỡng chất
đang nuôi sống nó để duy trì cái mạng sống của bạn.
Một lần đi truy quét Cao Mê-lai, chúng tôi
dừng chân trên một con đường đất đỏ, có
lệnh đi lấy nước, tôi và anh Ba Duy (dân quận 4, nhập ngũ cùng đợt) đi ra phía
sau đội hình hành quân để lấy nước... đến khi trở lên thì mất hút đội hình hành
quân của mình.
Hai chúng tôi đi men theo con đường đất đỏ
một đoạn, thấy phía trước có một thân cây lớn đổ chận ngang đường, chưa kịp
quan sát thì thằng Pôn Pốt đã nổ súng, một
loạt đạn AK xé gió lao tới, cự ly bắn quá gần, đạn nổ chát chúa bên tai. Không
suy nghĩ, không quan sát, chúng tôi bương thẳng vào rừng cây sát ngay bên cạnh.
Trên đoạn đường đó, tôi đã đạp phải một
bãi phân của lính Pôn Pốt, nó xả ra ngay
phía trước đội hình phòng ngự của nó... Đuổi kịp đội hình hành quân của mình rồi tôi mới nghe thúi, tôi chùi giày vào
cỏ cây đất cát xung quanh vẫn không hết mùi. Mìn của nó đã chen vào rãnh của đế
giày, đi cả đêm hôm đó và cả ngày hôm sau nó biến ra thành đất nhảo.
Mỗi lần đi vận tải cho Cao Mêlai, tôi đều
tranh thủ ghé thăm anh bạn đồng hương quận Bình Thạnh, anh tên là Dần, bạn học
từ thời cấp 1, làm lính thông tin tiểu đoàn 1, nay không biết ở đâu? Anh có đọc
truyện này thì liên lạc với tôi nhé.
10. PHNOM MELAI (tiếp theo)
Cần phải có một đơn vị chuyên trách Cao
Mê-lai, nhiệm vụ này được giao cho trung đoàn 2 công an vũ trang đảm nhiệm vào
năm 1980. Từ ngày trung đoàn này đảm nhiệm Cao Mê-lai, công việc của chúng tôi
nhẹ đi rất nhiều.
Những người lính của trung đoàn 2 chốt giữ
Cao Mê-lai yên như bàn thạch, ấn tượng của tôi về những người lính này rất đẹp.
Họ cũng là những người lính lam lũ, rách rưới như chúng tôi, nhưng không hề
nghe họ phàn nàn kêu khổ. Họ rất cực vì ở một nơi khắc nghiệt nhất trên chiến
trường và đã họ hoàn thành nhiệm vụ cực tốt mà chắc là ít ai biết tới họ.
Bởi vì họ ở cái chốn khỉ ho cò gáy, cái chốn
bị người đời quên lãng, có chăng nó chỉ đọng lại trong ký ức của những người
lính bộ binh trung đoàn 4, những người lính trung đoàn 2 công an vũ trang... và
những bà mẹ Campuchia ở Sophia.
Chúng tôi đi chiến dịch Cao Mê-lai trở về
tàn tạ và bệnh hoạn, các bà mẹ Campuchia xúm xít hỏi thăm tin tức mấy đứa
con... Các bà mẹ suýt xoa nói chuyện với nhau, thương cảm mấy đứa con bệnh hoạn,
câu nói cửa miệng của các bà mẹ luôn là: “Khỏe như voi còn bỏ Cao Mê-lai mà đi,
tội nghiệp các con phải đem thân vào chốn rừng thiêng nước độc”.
Quân đội của chúng ta có truyền thống đi
dân mến ở dân thương, hình như trên đất nước chùa tháp này chỉ có duy nhất những
người lính của quân đội nhân dân Việt Nam mới xưng con với các bà mẹ. Những người
phụ nữ Campuchia chất phát, lam lũ và hiền lành có được những người con ăn ở phải
phép như vậy tất nhiên là rất hả dạ, dù việc chăm sóc các đứa con nuôi này chắc
chắn cũng gây khó khăn không ít cho các bà mẹ, vì dân Campuchia những năm đó
nghèo lắm, thiếu thốn lắm, một gói thuốc rê, con gà, kí gạo có giá trị rất lớn.
Ghi chú 1: Khi viết xong truyện, tôi ngồi
rà lại bản đồ của Google Maps và Google Earth mục đích là để kiếm cái tên Phnom
Mê-lai... nhưng không thấy, vì các loại bản đồ của Google cung cấp trên mạng là
bản đồ dân sự, họ không quan tâm tới chiến trường xưa của mình!
Không nản chí, tôi tiếp tục tìm kiếm trên
mạng, vào mục một thời máu và hoa của quansuvn.net tìm thì thấy anh em cựu chiến
binh mình thời 78-80 trở về sau sinh hoạt trên diễn đàn này nhiều vô kể... lính
Nam, lính Bắc đủ cả. Trên diễn đàn này anh em chỉ cho nhau biết địa chỉ truy cập
bản đồ Đông dương trên mạng... và tôi đã vào trang web www.tuaans.110mb.com và
trực tiếp vào thư mục
www.tuaans.110mb.com/Maps/CamMap_files/05-ND-48-09.jpg thì tìm thấy rõ ràng cái
Phnom Melai của mình, cái vùng đất con voi bỏ đi ấy hiện rõ mồn một trên bản đồ
quân sự với những đường bình độ ghi chú độ cao 322 và chữ PHNOM MELAI in hoa
nghiêm chỉnh. Không những vậy, tất cả các địa danh khác như Takong Krao, phum
Sophy, phum Preav, Yeang Đang Kum, Sisophon, Poipet... đủ cả.
Tuân thủ cách ghi tên địa danh trên
cái bản đồ quân sự đã quá quen thuộc với
anh em mình những năm 79, 80... tôi ghi nguyên si tên địa danh như vậy trong
các hồi mục chính của quyển truyện này như một cách ôn lại kỹ niệm một thời máu
và hoa của chúng ta. Tuy nhiên, trong
khi kể chuyện ngã ba con voi thì tôi vẫn viết tên địa danh theo cách gọi của
anh em mình như Takong Krao là Tà-cuông Krao hoặc Preav là Prê-ao, để anh em đọc
khỏi thấy lạ... Mong các đồng đội và bạn đọc thông cảm với cách ghi địa danh
không thống nhất trước sau như một của tôi.
Tìm được địa danh Phnom Melai trên một tấm
bản đồ quân sự cách đây hơn 30 chục năm, tôi thực sự bồi hồi xúc động: Phnom
Melai đây rồi, Cao Mê-lai đây rồi, còn kia là Nam Cao Mê-lai ở phía Nam... của
Phnom Melai.
Những cái địa danh ác ôn trên thực địa này đã lấy đi biết bao nhiêu sinh mạng, mồ
hôi và xương máu của những người lính trung đoàn 4 bộ binh, trung đoàn 2 công
an vũ trang những năm đó!
Thấy địa danh Phnom Melai trên cái bản đồ
quân sự được in ra cách nay trên 30 năm, tự dưng tôi thấy mình như ngây ngấy sốt,
rùng mình nhớ lại những cơn sốt rét triền miên năm 1982 trên con suối cạn ngày
28 tết và trong những cánh rừng nguyên sinh ở phía Nam cao Mêlai ve kêu rôm rả...
Ghi chú 2: Trường hợp tìm không được bản đồ
Đông dương của bạn tuaans trên mạng, các bạn hãy vào Google Earth tìm Cambodia,
rồi vào tọa độ 13 độ 32 phút vĩ Bắc và 102 độ 24 phút kinh Đông thì Phnom Melai
chắc chắn nằm ở đó.
Hồi thứ 11. PHUM SOPHI
Một buổi chiều tháng 3/1980, đồng chí Thạch
trung đội trưởng đi họp giao ban đại đội về phổ biến nhiệm vụ mới của trung đội
là ngày mai đi làm nhiệm vụ xây dựng chính quyền xã Sophi. Tôi mừng lắm: - Reo
lên là ngày mai được ra dân ở rồi!
Chốt mãi trong rừng buồn lắm, đóng quân
trong phum là niềm vui sướng của các người lính. Cả trung đội ai cũng mừng và
chuẩn bị hành trang sáng mai lên đường sớm.
Từ Don Thomo chúng tôi lội bộ ra phum
Diêng, ra tiếp ngã ba Nimith, đi tiếp nửa thì đến ngã ba Sophi, chúng tôi đi
liên tục từ sáng đến xế trưa mới tới ngã ba Sophi. Đường vào phum Sophi đất đỏ
và rất xa, chắc trên 6 cây số, đang đi thì bỗng dưng cẳng chân bên phải của tôi
bị đau (giờ tôi nghĩ lại: chắc do hội chứng mảnh đạn cối 60 còn lại trong
mông), phải đi cà nhắc và phải thường xuyên dừng lại nghỉ rất lâu cho đở đau!
Đồng chí Thạch dẩn trung đội đi trước, còn
đồng chi Vi đại đội phó thì nán lại để chờ tôi. Vào sâu bên trong thì cảnh tượng
hai bên đường lại khá đẹp, có ruộng vườn, có rừng cây thốt nốt, có chim bay, cò
bay. Trời chiều man mát, cảnh nên thơ, nhưng do cẳng đau nên tôi không có hứng
thú mà ngắm nghía cảnh vật... Đến nay tôi vẫn còn ấn tượng đẹp với cái phum
này, cảnh vật hữu tình lắm.
Sophi là một phum làng trù phú, đầu làng
có ao nước trong veo, sạch sẽ. Ẩn sau hàng cây cao xanh mát là một mái chùa Phật
giáo nguyên thủy nhỏ nhắn và thanh thoát, chùa nhìn thẳng ra ao làng.
Từ đầu phum có đường trục xuyên qua phum,
đến cuối phum thì thấy một cánh đồng rộng, khô khan cỏ cháy dưới ánh nắng xế chiều tháng ba rực rỡ,
xa xa là hàng cây thốt nốt. Trung đội tôi đóng ở đó, cuối phum, chúng tôi treo
võng nằm rải rác dưới các nhà sàn của những người dân khá giả.
Tôi và anh Thạch giăng võng dưới một căn
nhà sàn cao ráo, mặt sàn cao hơn 2m, chúng tôi ở dưới đất có thể đứng thẳng
lưng cũng không sợ đập đầu vào các thanh gỗ đà sàn. Cột nhà làm bằng gỗ dầu đen
bóng, đường kính khoảng 20cm rất vững chải.
Chủ nhà là một bà mẹ lớn tuổi, có cô con
gái biết tiếng Pháp, làm cán bộ phụ nữ xã. Bà mẹ này rất ngưỡng mộ vua Sihanut,
bà thường nói thời vua Sihanut dân ở đây giàu lắm, thơ xe-re mui chơ-năm xi bây chơ-năm (làm ruộng một
năm ăn ba năm).
Chiều đó, tôi ra ao làng đứng tắm, bắt chước
đồng đội, tôi gánh về 2 thùng nước để phục vụ sinh hoạt tập thể: nấu nước, đánh
răng, rửa mặt .v.v.
Xuất thân là dân thành phố, đây là lần đầu
tiên trong đời tôi gánh nước, dù đã cẩn thận ngắt lá súng phủ lên mặt nước,
chân bước cẩn trọng, hai tay ghìm chặt 2 cái móc sắt, nhưng thùng nước vẫn đong
đưa, sóng sánh và đổ ra ngoài. Từ đầu phum đến cuối phum chừng 300m, mà tôi đã
làm đổ mỗi bên 1 phần 3 thùng.
Vạn sự khởi đầu nan, mới đầu gánh nước coi
khó vậy chứ chỉ sau một vài lần tôi đã quen nhịp, chân bước thoăn thoắt, không
cần lá súng, không cần bặm môi, tôi vẫn gánh đủ hai thùng nước về nhà, tuy sóng
sánh chút đỉnh nhưng cũng còn đầy, không hao hụt nhiều như lúc đầu.
Công việc hàng ngày của chúng tôi rất đơn
giản. Ban ngày quanh quẩn trong phum trực chiến, thỉnh thoảng được phân công
xách súng đi tuần tra khu vực. Lâu lâu lại tới phiên ra ao nước đầu làng gác
đêm. Khi nào có bầu cử thì chúng tôi kéo nhau đi bảo vệ khu vực bỏ phiếu.
Những khi có lễ hội thì chúng tôi được
làng đãi cho một bửa ăn ngon, còn thường thì chúng tôi ăn bếp ăn tập thể, rất
khô khan đạm bạc, chúng tôi phải bứt rau rừng, hoặc ra ruộng hái rau muống dại,
rau dền dại về nấu canh ăn cải thiện. Đôi khi bứt nhằm rau dền dại có gai nửa
chứ!
Chúng tôi còn trẻ, khỏe, hăng hái và yêu đời,
ăn uống đạm bạc không làm chúng tôi buồn, áo bạc màu, quần chó táp... không tới
cũng không làm chúng tôi mặc cảm. Làng này con gái đẹp nhiều lắm, nhiều khi
chúng tôi cũng thấy tiếc, phải chi mình có quần áo đẹp mặc lấy le với mấy
em chơi!
Ở Campuchia lâu ngày chúng tôi đã cảm được
cái duyên dáng mặn mà chân quê của các cô thôn nữ. Côn sơ-rây (con gái)
Campuchia tuy đen đúa nhưng nét mặt, nụ cười, ánh mắt rất nét, rất duyên, răng
trắng đẹp...
Một đồng đội của tôi, đồng chí Nghĩa, lính
nhập ngũ tháng 3/79 rất thích một cô Campuchia xinh đẹp, bà mẹ của cô ta thường
đùa, đưa độp tần-lâng đây me gã cho (tức là nộp mười cây vàng thì mẹ gã con
gái). Đùa vậy thôi chứ kỹ luật trên chiến trường Tây Nam không cho phép bộ đội
Việt Nam lấy con gái Campuchia, các bà mẹ Campuchia cũng biết luật này. Vì bộ đội
với dân rất gần gũi khăng khít, có gì cũng nói cho nhau nghe.
Thường thì sau buổi cơm chiều, hôm nào
không phải đi canh gát thì chúng tôi cũng quanh quẩn chẳng phải làm gì!
Tôi đến Sophi hôm trước thì hôm sau trời vừa
chạng vạng có một anh trung niên kéo tôi đi, anh kêu mô, mô, ý nói là đi theo
anh. Tôi xách súng đi theo mà lòng phân vân không biết xấu tốt thế nào, tôi với
anh chưa quen biết nên tôi còn có tư tưởng cảnh giác với anh, sợ anh là Pôn Pốt
dụ tôi đi theo rồi lừa thế đập đầu lấy súng của tôi.
Phum này rất an ninh, là cơ sở của ta xây
dựng chính quyền xã Sophi nên sự cảnh giác chỉ thoáng qua trong chốc lát mà
thôi và tôi vẫn tin cậy đi theo anh. Anh dắt tôi về nhà, dẩn tôi giới thiệu vợ
anh, rồi nói với tôi cái gì đó, ý như là nhận anh em kết nghĩa với tôi.
Tứ hải giai huynh đệ, tất nhiên là tôi nhận.
Tôi 20 tuổi, còn anh khoảng 30, dáng người khỏe mạnh, mặt mày chất phát, lâu
ngày rồi tôi không còn nhớ tên anh, nhưng tôi biết là anh rất quan tâm với tôi.
Tôi thích một cô gái Campuchia, cô làm thợ
may, ba cô người Việt, mẹ cô người Hoa. Dân Campuchia gọi người lai như vậy là
“Chênh”, thấy tôi ngày nào cũng sang nhà may của cô ấy chơi, anh chọc tôi xa
lanh bòn Chênh hơi, ý nói là tôi thương cô Chênh rồi.
Thương thì chắc là chưa thương, nhưng cái
rung động của một anh con trai trước một cô gái đẹp thì có rồi. Tôi 18 tuổi đi
lính khi chưa có một mảnh tình vắt vai, nay bước sang tuổi 20 cảm thấy tâm hồn
rung động trước một bông hoa xinh tươi miền thôn dã là điều tất nhiên thôi.
Cô gái này con ông già biết tiếng Việt vậy
mà cô không nói được tiếng Việt. Dưới thời Pôn Pốt nói tiếng Việt là tự mang bản
án đập đầu trước bọn Ăng-ca rồi, nên ông già cô dấu biệt tiếng Việt, do đó cô
chỉ biết nói tiếng Campuchia mà thôi.
Nhiều khi cô hỏi chuyện với tôi, cô chỉ
vào một món đồ nào đó, như là chỉ vào tấm vải cô đang may rồi hỏi Việt Nam tha
dang mach? Ý hỏi Việt Nam gọi là gì?
Vậy thôi, chúng tôi chỉ trò chuyên với
nhau chút đỉnh như vậy. Vậy mà về nhà nằm võng tôi lại nhớ ong ong trong đầu
cái câu Việt Nam tha dang mách của cô, để rồi hôm sau lại đến để tiếp tục câu
chuyện tha dang mách?
Mãi 29 năm sau, nay viết lại câu chuyện
này tôi vẫn bồi hồi xúc động. Xúc động vậy thôi chứ sự rung động lúc bấy giờ của
tôi chẳng là gì với cô gái đó cả. Trong khoảng thời gian tôi ở phum Sophi cô đã
tự động rời bỏ căn nhà cô ngồi may đó, để tôi lẻ loi tìm đến căn nhà này, ngồi
chơi với bà mẹ Campuchia. Mẹ nói tiếng Campuchia, con nói tiếng Việt, vậy mà
chúng tôi cũng hiểu được nhau chút chút, bà mẹ này thường nói với tôi về cái thời
kỳ gian khổ của mẹ trong chế độ Pôn Pốt, thiếu ăn. Nếu tìm được cái ăn thêm
(như cóc nhái hoặc củ khoai lang, khoai mì) thì phải ăn dấu, ăn giếm, lở à Pôt
nó bắt được, nó cắt cổ mổ họng, nhiều người bị như vậy rồi!
Một hôm bà mẹ Campuchia có cái nhà cho cô
Chênh ngồi may nói với tôi là có một bà mẹ muốn nhận tôi làm con nuôi, rồi bà dắt
tôi qua gặp bà mẹ nuôi của mình.
Đó là một bà mẹ Campuchia lớn tuổi, bà là
một tu sĩ, bà cạo đầu, mặc bộ đồ nữ tu màu trắng của Phật giáo nguyên thủy, bà
tên là Lênh, tôi gọi là me Lênh. Mọi người chung quanh gọi là dây Lênh (dây tức
là bà), vì cháu nội của bà cũng đã 16 tuổi rồi.
Nhà me Lênh nghèo, ông anh kết nghĩa của
tôi cũng nghèo, tôi thường được bà mẹ nuôi cũng như ông anh kết nghĩa cho ăn
khi thì vài trái xoài dú chín, khi thì điếu thuốc lá thơm, khi thì một nhúm thuốc
rê. Của thì ít nhưng lòng rất nhiều, dạt dào tình yêu thương chân chất, làm tôi
nhớ mãi đến ngày hôm nay.
Rồi chô chơ-năm thơ-mây đến, tiếng trống bập
bùng, tiếng đờn kèn rộn rã kéo chúng tôi vào vòng lễ hội. Đây là bài dân vũ
Campuchia thông dụng mà tôi thường được nghe, tôi xin trích một đoạn, tiếng
phiên âm thôi:
Oh Xơ-vai-chăn-ti, náry ôn ơi, cùm a vô
bơ-đây....
Chăm boong bang thơ-thây, boong tinh lang
thơ-mây ối ôn chi liền...
Tôi xin tạm dịch, đại ý:
Ôi Xơ-vai Chăn-ti, em ơi, hãy khoan lấy chồng.
Chờ anh giàu có, anh mua xe mới chở em đi
chơi...
Người dân Campuchia không ăn tết âm lịch
như mình, cái tết lớn nhất trong năm là chô chơ-năm thơ-mây. Cái nhà sàn cao và
rộng rãi của bà mẹ cho cô Chênh ngồi may, nay là tụ điểm cho các cô gái tụ hội
trang điểm. Chúng tôi cùng vào đó chơi, các cô hỏi có muốn xức nước hoa không,
có muốn trang điểm vẽ mặt không? Tất nhiên là chúng tôi trả lời là không. Rồi
các cô khúc khích cười kéo nhau vào buồng thay xiêm áo mới.
Dân Sophi khá giả, các cô gái ăn mặc lộng
lẩy, phấn son thơm ngát, mắt sáng long lanh, ngực nở eo thon, tràn đầy sức sống.
Đêm đó, lửa trại bập bùng, trống kèn rộn rả,
chúng tôi cùng mọi người bước vào vũ điệu lăm-thôn. Một cô gái xinh đẹp rạng ngời,
xiêm y rực rở, ánh mắt long lanh cùng tôi đối diện trong vòng tròn ca múa... Âm
nhạc làm chúng tôi sôi lên mà nhảy vào vòng, chứ thực ra tôi múa dở ẹt, điệu bộ
cứng nhắc vậy mà được múa chung với một cô gái đẹp nhất nhì trong hội, quả là một
diễm phúc bất ngờ.
Tôi thực sự ngẩn ngơ trước sắc đẹp của cô
nàng, sáng ra dò hỏi đồng đội cô gái đẹp hôm qua múa lăm-thôn với tôi là ai? Có
người biết chuyện, bảo với tôi rằng cô này là mê-mai (bà góa), đẹp lắm, trước bị
bắt làm vợ lính Pôn Pốt, nay thằng chồng chạy mất xác, chắc là chết rồi, hiện
giờ ở giá, gọi là mê-mai.
Trong thời gian ở Sophi, thỉnh thoảng tôi
có chạm mặt cô mê-mai này, cô nhìn tôi e lệ với đôi mắt sắc lẽm, nước da ngăm
đen, chúng tôi chẳng biết nói chuyện gì với nhau. Vì tôi có rành rẽ tiếng
Campuchia gì đâu, chỉ hiểu được khoảng vài chục từ ngữ thông dụng. Vả lại tôi
là con trai mới lớn, thấy gái đẹp là ngại, không dám làm quen, thậm chí tôi
cũng chẳng biết nhà cô này nằm ở chổ nào trong cái phum rộng lớn cấp xã này.
Qua cái tết được ít lâu, bỗng một hôm
trong đêm tối, chúng tôi nghe tiếng súng ì đùng từ phía Nam lộ 5 dội lại, tiếng
súng văng vẳng trong đêm khuya báo hiệu một điều chẳng lành!!!
Mà chẳng lành thật, ở nhà việc xuất quân
đi đánh Tà-cuông Krao của tiểu đoàn 3 bị bại lộ. Quân báo địch chắc chắn nằm
trong dân ở ngã ba Nimith, nó báo tin cho thằng Pôn Pốt ở Tà-cuông biết trước,
chúng dùng kế không thành, đang đêm chờ ta đưa quân vào trận, rồi xông vô tập
kích bất ngờ, tiêu diệt gọn một trung đội của đại đội 11... Bị đánh sau lưng,
tiểu đoàn 3 vỡ trận, các đại đội tự động rút quân, nhiều đồng chí lạc đội hình,
không tìm được đường về, chết khát trên trận địa.
Đại đội tôi có đồng chí Hóa, dân Thủ Đức,
nhập ngũ tháng 3/79, khi anh em mình ở tuyến sau xông lên tiếp cứu thì thấy đồng
chí ấy chết gụt trên đường rồi, vậy mà cứu lại được, nhưng sống dở, mất sức chiến
đấu, trung đội cho làm anh nuôi chuyên nghiệp đến khi ra quân luôn.
Trận này kiểm điểm lại thì thất bại cũng một
phần do thông tin bộ đàm đến giờ G lại bị tắt nghẽn, kế hoạch hợp đồng tác chiến
bất thành, tiểu đoàn không lệnh được đại đội, mạnh ai nấy đánh, mạnh ai nấy
rút... Thương vong lớn, không hoàn thành nhiệm vụ, chỉ huy các cấp trong đơn vị
bị trên xuống rủa te tua, bạc đầu, sói trán! Cả tiểu đoàn suốt ngày họp kiểm thảo
rút kinh nghiệm, rồi được trên đưa vào diện cũng cố để chuẩn bị bước vào một trận
đánh khác, qui mô lớn hơn... đó là trận công-xi-lốp do sư trực tiếp chỉ huy tác
chiến.
12. CĂN CỨ CÔNG-XI-LỐP
Chúng tôi ở Sophi được khoảng 3 tháng yên
lành thì có lệnh rút về trở về đại đội. Đang cao điểm mùa mưa 1980, trước hôm rời
Sophi tôi lên nhà me Lênh từ biệt mẹ. Trời về khuya, tôi xôm-lia me (tạm biệt mẹ)
rồi bước xuống cầu thang. Trời xui đất khiến thế nào, một con bò cạp chúa nó trốn
trời mưa lạnh lẽo, nó chui vào giày tôi nằm cho ấm cúng, tôi thọt chân vào, nó
giật mình chích tôi cái bụp.
Buốt ơi là buốt, nhức ơi là nhức! Cái nhức
buốt này đau hơn hẳn cái trái cối 60 ly của thằng Pôn Pốt đầu năm 1979. Tôi kêu
lên đau đớn, bà mẹ nuôi của tôi, anh con trai của bà, chị con dâu của bà đở tôi
lên sàn nhà nằm đó để bà chạy thuốc chữa trị cho tôi theo phương pháp y học dân
gian. Bà nhai lá thuốc rịt cho tôi, bà lấy trứng gà luộc lăn lên vết cắn cho
tôi, lấy khăn chườm mát cho tôi, lấy thuốc cho tôi uống...
Nọc con bò cạp chúa làm tôi sốt mê man,
chân sưng phù, to húp. Bà mẹ cứ lăn trứng, thay khăn chườm mát cho tôi, những
lúc tôi tỉnh dậy hé mắt ra nhìn thì thấy mẹ chong đèn ngồi đấy, suốt đêm lâm
râm đọc kinh cầu an cho tôi mau lành bệnh.
Tôi thực sự cảm động với tấm lòng thương
yêu tôi như con đẻ của bà, để rồi sang năm 1982, tôi lại trở về Sophi lần thứ
nhì để tìm tới nhà bà.
Trung đội rút quân về trước, để tôi nằm lại
nhà me Lênh điều trị, chờ lành mạnh thì về sau với mấy anh chuyên gia Việt Nam
đang ở lại trong phum tham gia xây dựng chính quyền xã.
Bệnh tình tôi thuyên giãm rất nhanh, sáng
ra thì tôi ngồi ăn cháo uống nước được, rồi tiêu tiểu, đi đứng bình thường, chỉ
có mu bàn chân phải chổ con bò cạp chích thì còn sưng. Được vài ngày, dân Sophi
đánh xe bò đưa chúng tôi rời phum ra lộ 5 để trở về đơn vị, đại đội 13 nay đã lại
chuyển về Sophia.
Cuối tháng 6/1980 gần như toàn bộ lực lượng
của trung đoàn 4 (trừ những đơn vị của tiểu đoàn 1 chốt ở Poipet) tiến quân vào
Đăng-cum hội quân với tiểu đoàn 2 để đánh một trận lớn vào căn cứ Công- xi-lốp
của lực lượng Sơ-rây Ka, một tổ chức vũ trang phản động của Campuchia thời bấy giờ.
Công-xi-lốp là một căn cứ nằm giữa biên giới
Thái Lan- Campuchia, đây là một khu vực nhạy cảm vì nó có một phần nằm trên đất
Thái Lan (hình như giáp với bản Nong-chan của Thái, nhưng vì lý do tế nhị không
thấy ghi trong sử sách nên tôi cũng không chắc, các bác trinh sát sư 5 nào biết
lên tiếng nhe).
Một buổi sáng cuối tháng 6 năm 1980, chúng
tôi xuất kích từ đầu phum Sophia trước sự
chứng kiến của dân làng, những bà mẹ Campuchia bằng ánh mắt đăm chiêu, thương cảm
đưa tiển những đứa con của mình ra trận. Chúng tôi hành quân hàng dọc mỗi người
cách nhau 10m, mấy trăm tay súng của tiểu đoàn trải dài trên đoạn đường nhiều cây
số, xen lẩn trong đó là các đại đội hỏa lực trực thuộc trung đoàn, tham mưu,
thông tin, trinh sát đủ cả. Đây có lẽ là một cuộc hành quân lớn nhất của trung
đoàn 4 từ sau ngày thành lập mặt trận 479.
Đường ra trận mùa mưa bùn sình lầy lội,
chúng tôi mang nặng gạo đạn trên vai để đi đánh trận dài ngày. Chúng tôi hành
quân tiến lên hướng Bắc rất chậm, đêm đó chúng tôi ngủ tại Đăng-cum và được
quán triệt nhiệm vụ là sẽ đánh căn cứ Công-xi-lốp bằng chiến thuật vây lấn (như
cách đánh Điện Biên Phủ).
4 giờ sáng chúng tôi được đánh thức, cho
ăn sáng, rồi kéo quân vào trận địa. Hướng tiến của tiểu đoàn bùn sình lầy lội,
trời sáng hẳn thì chúng tôi được lệnh dàn quân hàng ngang, tiến rất chậm và có
lệnh đào công sự chiến đấu. Sau đó, theo lệnh chỉ huy chúng tôi lại tiến lên từng
nấc một, mỗi nấc vài trăm, vài chục bước chân gì đó... cũng có những lúc chúng
tôi chạy việt dã trên địa hình lầy lội, ngã dúi dụi vì trơn trợt, hai trái lựu
đạn hơi MK3 dùng để đánh công sự đeo bên thắt lưng rơi lúc nào tôi cũng không
hay.
Đội hình cứ thế mà chầm chậm nâng lên, lên
mãi. Rồi đến xế chiều, tự dưng chúng tôi tiến vào một vùng đất đen, cao và khô
ráo. Chiến trường yên tiếng súng, chỉ thỉnh thoảng nghe tiếng cắc bùm, cắc bùm
của đạn bắn tỉa. Tôi áp vào một ụ mối, ụ mối này cũng đã có một đồng đội của
tôi chiếm lĩnh rồi.
Áp sát
ụ mối rồi, lợi dụng khoảng trống giữa hai thân cây to bằng cổ chân mọc
trên đỉnh ụ mối, tôi thò đầu vào đó đảo mắt nhìn trận địa đối phương, chưa kịp
thấy gì thì bên tai tôi nghe nổ một cái toát. Một thằng bắn tỉa đã chơi tôi một
phát, may mà không trúng, chỉ trúng cái cây mọc trên đỉnh ụ mối đó.
Chúng tôi đang ở trên một khu vực thoai
thoải cao hơn xung quanh, ụ mối tôi đứng cách tuyến phòng ngự của địch khoảng
100m, ở cự ly này chỉ cần hô xung phong chạy một phát là tới. Từ phía sau, tôi
thấy đồng chí Ê tiểu đoàn trưởng, tay cầm súng ngắn, tay cầm bản đồ, hiên ngang
đi tới, miệng hô:
- Lên đi, lên đi mấy em, tụi nó chạy rồi!
Thằng bắn tỉa chơi liền một phát, may
mà không trúng. Nhanh như cắt, đồng chí ấy
lủi vào ụ mối chửi:
- Đ.M nó còn!
Trời chạng vạng, chúng tôi dàn hàng ngang,
súng lăm lăm trên tay, đằng đằng sát khí tiến vào trận địa, không phải nổ phát
nào, thằng địch hoàn toàn tháo chạy, chiến thuật vây lấn thành công mỹ mãn.
Tôi đứng trên nóc chiến hào, ngắm nhìn trận
địa, hình như tôi thấy phía bên kia lố nhố bóng người, rồi thấy một trái B40
rơi đánh huỵch trước mắt tôi, tôi còn thấy nó nảy lên một chút, trượt tới một
chút rồi mới dừng lại. Không biết là tôi mơ hay tỉnh đây, chắc là mơ!!! Mình đã
chiếm lĩnh trận địa rồi mà, chẳng lẽ đồng đội lại bắn nhầm mình? Không nghe tiếng
nổ và không thấy chớp lửa đầu nòng từ phía bên kia, vậy chắc là mơ? Còn trái đạn
B40 rớt xuống, nảy lên, rồi dừng lại và nằm ngay trước mắt tôi nó là thiệt mà,
sao lại là mơ? Hôm nay viết chuyện này ra đây, tôi vẫn còn thắc mắc với trái
B40 này? Không biết có phải là nó đã rơi trước mặt tôi trên nóc chiến hào
Công-xi-lốp năm 1980 đó không? Hay là tôi ngũ mơ mà thấy vậy? Đây là lần đầu
tiên trong đời tôi thấy mình lẩn lộn giữa mơ và thật! Nhưng cũng cứ viết ra đây
cho mọi người chiêm nghiệm. Theo tôi nghĩ kỹ lại thì chắc là mơ... nhưng chẳng
lẽ ký ức một thời chiến tranh lại sâu đậm đến thế sao? Lại chui vào giấc ngũ đời
thường của tôi ngay tại một nơi chẳng dính dáng gì tới chiến tranh sao?
Trận này ngồi nghiệm lại, tôi thấy như là
mình dùng sức ép... cho nó rút vậy. Chúng tôi dàn quân hàng ngang xông tới,
túng thế thì nó rút chạy qua Thái Lan là xong.
Hướng tấn công của tiểu đoàn 3 trung đoàn
4 đại khái là như thế, tuy nhiên bên phía các đơn vị bạn và nhất là trên hướng
tấn công của trung đoàn 174 thì không phải đơn giản như vậy... Nhưng tôi thấy
không tiện khi viết ra đây những lời của lính tráng truyền miệng, sợ không
chính xác. Hy vọng là sau này sẽ có nhiều bài viết của lính 174 kể chuyện đời
lính cho mọi người cùng nghe và chiêm nghiệm thì hay quá!
Chúng tôi tuần tra một đoạn cái căn cứ
mình vừa chiếm được, tôi tiến vào một căn hầm chỉ huy bằng bê tông cốt thép, có
lỗ châu mai đàng hoàng (như công sự của Việt Nam cộng hòa trước đây) đồ vật
vương vãi... Tôi lấy một xấp giấy pơ-luya-pho còn mới cáu cạnh làm chiến lợi phẩm,
ý là dùng để viết thư về gia đình, có thuốc Tây nằm rơi vãi dưới sàn nhà, tôi hốt
lấy một mớ lọ thuốc Peniciline và một bộ đồ rằn ri của lính Pa-ra (sắc lính nào
mặc đồ rằn ri thì chúng tôi gọi là lính Pa-ra) còn mới cứng tôi cho vào ba lô
luôn. Bộ đồ này mặc ngầu lắm, nó lớn hơn hẳn so với khổ người của tôi (chắc đồ
viện trợ chiến tranh của địch), tôi có mặc nó vài lần rồi cho ai, hoặc đô
thà-nam chụa (đổi thuốc lá hút) lúc nào không nhớ.
Ngay lúc đó có lệnh di chuyển, nên tôi chỉ
thu được nhiêu đó. Đại đội tôi được bố trí tại một vùng đất ướt lép nhép ở bên
ngoài căn cứ, nhiệm vụ là chốt chặn đề phòng địch phản kích, sẳn xấp giấy
pơ-luya chiến lợi phẩm tôi lấy ra chia cho anh em lót ba-lô, súng đạn. Vậy là
không còn giấy viết thơ, nhưng không thành vấn đề, chỉ cần một cuốn tập 100
trang có hình cô gái Thái Lan xinh đẹp là đủ dùng cho tôi cả năm rồi.
Hoàn thành nhiệm vụ, trung đoàn 4 kéo quân
trở về với rất nhiều chiến lợi phẩm, hầu như toàn bộ gạo đạn của các nước đế quốc
viện trợ cho cái ổ phản động lưu vong, cái căn cứ kháng chiến của chính phủ
Xon-xan này bị chúng tôi tịch thu hết, có cả xe máy, tranh ảnh, tài liệu... Đó
là phần nổi để các xếp trung đoàn báo công, còn mấy cái linh tinh nhẹ nhàng như
quần áo, thuốc men, nhu yếu phẩm, các anh lính bộ binh chúng tôi nhặt sạch,
cũng chẳng làm giàu làm có gì, đô mia chút đỉnh dằn túi, có anh làm được cái nhẩn
“bây chi”, riêng đại đội tôi vì có lệnh đi chốt chặn sớm, nên tôi chỉ kiếm được
chút cháo như đã khai báo ở đoạn trên.
Tiểu đoàn 3 rút ra lập trận địa phòng ngự
tại một địa điểm gần căn cứ Công-xi-lốp vài ngày, rồi có lệnh phá hủy công sự,
rút quân trở về, sẳn mìn MK3 được trang bị lúc đánh Công-xi-lốp, lính tráng rút
chốt thảy vô hầm nổ ụp ụp cho sập xuống là xong.
Riêng đại đội tôi được phân công ở lại lập
trận địa phòng ngự tại một địa điểm khác cũng gần căn cứ gần Công-xi-lốp, trung
đội tôi được bố trí nằm bên tay phải một con đường bò từ trong nội địa của ta
đi đến cái căn cứ này.
Chúng tôi sống ở đây cũng khá đàng hoàng,
sáng dậy chúng tôi nấu nước pha trà uống lai rai. Rồi một sáng nọ chúng tôi
đang uống trà thì có một anh bạn C12 trên đường đi truy quét ghé vào uống nước.
Đó là anh Lê Hùng Dũng dân thành đoàn, nhập ngũ cùng ngày với tôi, học chung
trường huấn luyện tân binh, chung trường huấn luyện hạ sĩ quan, trước đây lại
làm việc chung cơ quan thành đoàn với chị tôi nên chúng tôi rất thân.
Tôi luôn coi anh là bậc đàn anh của mình,
tôi vẫn còn nhớ tháng 4/79, gặp anh bên bờ sông Tôn-lê-sáp, anh cho tôi 2m vải
katê xanh để tôi cột làm võng nằm đở. Vậy mà có nằm được đâu, khổ vải nhỏ quá,
dây võng không níu được, nó cứ tuột ra làm tôi ngã đập đít xuống đất mấy lần,
hôm sau đồng đội trong đơn vị kêu tôi lấy nó ra đổi cá ăn cải thiện... Cái ơn
nghĩa đó đến nay tôi còn vẫn nhớ.
Anh Dũng uống vài chén trà nhạt rồi dẩn tiểu đội đi tiếp...
Mấy tiếng đồng hồ sau, đồng đội
khiêng anh về trong cái võng màu xanh
quân đội. Đến chốt của tôi, tốp lính đó dừng lại vào uống nước, tôi hỏi:
- Ai vậy?
Có tiếng trả lời:
- Anh Dũng tiểu đội trưởng.
Có người nào đó trong đội nói:
- Anh này số chết, lẽ ra là tiểu đội trưởng
anh không phải đi đầu, vậy mà lúc gần tới Công-xi-lốp thì anh lại giành đi đầu,
bị lính Pa-ra nấp trong cứ bắn tỉa một phát, chết ngay tại trận.
Tôi lật võng ra nhìn, thấy mặt anh vàng bợt,
anh chết lâu rồi, xác đã cứng, dáng anh thư sinh, nằm gọn lỏn trong chiếc võng
hai lớp.
Mắt anh còn mở, anh chết trẻ và đột ngột
như vậy làm sao mà nhắm mắt cho yên được! Tôi vuốt mắt cho anh, thật lâu, thật
lâu. Cố làm sao cho cái hơi ấm từ lòng bàn tay của mình làm mềm mi mắt anh lại,
để anh nhắm mắt xuôi tay mà yên nghĩ.
Và rồi mắt anh cũng hơi khép lại. Nhìn anh
tôi thấy lòng mình bâng khuâng xúc động. Đậy võng lại, tôi chép miệng:
-Tại số thôi!
Cũng ngay trận địa Công-xi-lốp này, cách
nay mấy ngày tôi đã bị bắn tỉa mà không chết. Căn cứ này bị triệt thoái rồi, vậy
mà nay vẫn còn có thằng vào đó nấp mà bắn tỉa, hạ được anh. Không phải tại anh
vắn số là gì?
Than ôi, con người sống chết có số, một
đoàn viên ưu tú như vậy, một tiểu đội trưởng ngon lành như vậy, vậy mà vắn số!
Viết tới anh Lê Hùng Dũng, bỗng dưng tôi
nhớ tới khí thế của những quân nhân nhập ngũ ngày 03/12/1978, toàn là đoàn viên
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, trong đó có những cán bộ thành đoàn như anh Lê
Hùng Dũng, anh Nguyễn Văn Hoan (anh Hoan hy sinh năm 1979, đi truy quét bị lính
Pôn Pốt bắn chết trên một con đường sắt, tôi không chứng kiến tận mắt, chỉ nghe
anh em C12 nói lại), nhớ tới một anh bạn mặt mụn, anh tên Trung thì phải? Dáng
anh cao cao, gặp ai cũng kêu là Sáu Bảnh, anh có cùng tôi đi đánh cái trận
(hình như ở Âm-leng) cuối tháng 3/79, trận này D3 bị chết nhiều, không biết anh
có hy sinh không ? Tôi nhớ trước khi dàn quân vào trận đánh, anh cũng vác khẩu
B41 như tôi, còn đứng nói chuyện pha trò Sáu Bảnh, sau trận này tôi không gặp lại
anh nửa, hay là anh đã hy sinh trong trận đánh đó rồi!
Nhớ tới dân thành đoàn nhập ngũ ngày 3/12,
tự dưng tôi nhớ tới những bài hùng ca một thời được các anh cầm càn hát rôm rả
trên cái thao trường nắng đỏ da người của trung tâm huấn luyện Quang Trung cuối
năm 1978:
Cùng nhau đi hồng binh
Đồng tâm ta đều bước
Đừng cho quân thù thoát
Ta quyết chí hy sinh...
Các anh em bạn của tôi nhập ngũ ngày đó,
đã hy sinh nhiều lắm trong những trận đánh năm 1979, 1980 nay không biết có ai
thống kê xem còn lại được bao nhiêu người?
Tôi nhớ cái anh bạn tên Nguyễn Văn Mười Một,
nước da ngăm đen, trong thời gian ở trung tâm huấn luyện Quang Trung vẫn thường
cùng tôi tha thẩn đi chơi hoặc ngồi uống nước căng-tin nói chuyện đời thường.
Sáng chủ nhật hai đứa thường kéo nhau ra Vườn Tao Ngộ chơi, dù chúng tôi không
có người yêu, nhưng vẫn cứ ra đó, may ra gặp được người nhà. Anh ở đâu? Sao từ
ngày đi K đến giờ tôi không gặp lại anh, hai đứa mình đứt liên lạc với nhau khi
nào vậy cà? Tôi Hùng, còn sống đây, có gì liên lạc với tôi qua email
hung19602000@yahoo.com , tôi không thích nghe điện thoại, mỗi lần nghe chuông
điện thoại tôi mệt tim lắm, nên tôi không ghi số điện thoại ra đây, mong anh em
thông cảm.
Hồi thứ 13. PHUM PREAV
Chốt ở đường bò đó khoảng 1 tuần thì đại đội
13 được lệnh phá hủy công sự trở về Sophia, riêng trung đội tôi lại được phân
công chốt giữ phum Prê-ao nhằm bảo vệ từ xa trận địa pháo 105 đóng ở suối cạn,
hướng Bắc phum Sophia.
Prê-ao là một vùng đất cát nằm giữa trục
đường từ ngã ba Nimith đi Đăng-cum, từ Prê-ao đi theo hướng Nam 2km vể tới suối
sâu, đi tiếp 3km nửa là về tới suối cạn, đi tiếp 3km nửa là về tới phum Sophia,
vị chi là 8km. Phum Prê-ao có rất nhiều cây dừa, có cả những cây dầu cổ thụ
cành lá xum xuê, trung đội chúng tôi quân số khoảng trên 10 người chốt giữ ở
đây, trung đội trưởng là đồng chí Thành (anh em thường gọi là Thành bao tử, vì
anh thường hay lên cơn đau bao tử).
Phum Prê-ao bỏ hoang từ lâu lắm rồi, chắc
từ thời Pôn Pốt, nhà cửa chẳng còn cái nào nguyên vẹn, nhưng vật liệu xây dựng
từ các căn nhà hoang tàn đổ nát thì nhiều, chúng tôi vác những cột gỗ tròn to bằng
bắp vế làm nóc công sự hình chữ U cực kỳ kiên cố, lấy gỗ, tôn làm lán trại dã
chiến.
Vật liệu có sẳn, đất cát lại dễ đào, nên
chỉ trong một ngày là chúng tôi đã làm xong công sự chiến đấu và nhà ở. Hàng
ngày chúng tôi tổ chức đi truy quét lên hướng Bắc hoặc xuống hướng Nam một đoạn
vài cây số rồi quay về.
Không biết tại sao tiểu đội tôi lại thường
hay được phân công đi truy quét về hướng Nam. Chúng tôi đi một đoạn khoảng 2
cây số, đến khu vực suối sâu đứng nấp đâu đó, quan sát cảnh giới một chập rồi
quay về.
Về cách nhà chừng một cây số thì chúng tôi
đi ngang qua một rừng hoa dại mọc ven đường, tại chổ này có một thân cây bằng
lăng đổ, tôi thường dừng lại tại đó, cho anh em phân tán ra nghỉ. Cái cây này
thế nó ngã đẹp lắm, gốc nó nằm ven đường lộ, nó ngã vào bên trong vuông góc với
lộ, gốc nó lại to, cao tới thắt lưng. Nằm sau cái cây này tận dụng nó làm công
sự chiến đấu thật tốt, chỉ cần một người ngồi canh gát, còn lại toàn bộ nằm ngũ
cũng chẳng sao. Nói vậy chứ sao mà ngũ được, nhưng nằm ngắm cảnh thì tuyệt vời.
Tại đây, tôi thường cởi bao-xe đạn ra, lấy
nó gối đầu, mặt quay về hướng lộ, còn
mình thì nằm trên thảm hoa dại màu tim tím. Thảm hoa này mọc tập trung, khá rộng,
ra hoa thường xuyên, tôi ở Prê-ao một tháng, ra đây nằm thưởng thức hoa lá mây
trời cũng được vài lần. Hoa này tên gì tôi không biết, cánh hoa của nó mảnh mai
như sao nhái, hơi giống hoa cúc dại màu tím của mình nhưng chỉ thấp hơn chỉ cao
ngang đầu gối.
Nằm giữa thảm hoa, hai bên mắt tôi toàn là
hoa và lá, cảnh tượng thật nên thơ, rung động lòng người lính trẻ... Tôi ngước
mắt nhìn trời, tháng bảy mưa ngâu, trên trời mây trắng rất nhiều. Bầu trời
trong xanh, từng cụm, từng cụm mây trắng lửng lờ trôi, chúng tuần tự diễu hành
qua đôi mắt của tôi, thiên hình vạn trạng, không cụm mây nào giống cụm mây nào.
Nhìn trời xanh, mây trắng
Gió thổi hiu hiu, hoa lay lất phất...
Tôi cảm thấy đời lính của mình tuy gian
khó nhưng lúc này sao lại quá nên thơ, lãng mạn như một thước phim hay.
Có lẽ khoảng thời gian ngắn ngủi say sưa với
trời đất này, cái rung động trước cảnh ngàn năm mây bay này, nó đã thôi thúc
tôi quyết định về vườn sớm. Năm 46 tuổi tôi dứt khoát rời bỏ Sài gòn về quê tôi
ở Bến Tre sống, để hòa mình với thiên nhiên, thưởng thức trời, trăng, mây nước...
Nhưng cảnh vật thiên nhiên ở thị xã Bến Tre quê tôi lúc này đô thị hóa rồi,
không nên thơ đâu! Chỉ đáng vài điểm so với cái thiên đàng trời-mây-hoa-lá của
tôi ở Prê-ao 10 điểm.
Thường thì tôi chỉ nằm ngắm nghía cảnh vật
chừng mười lăm phút rồi kéo quân về. Mười lăm phút ấy biết bao nhiêu tình, tôi
đã từng dặn với lòng mình là phải miêu tả lại cho được cái cảnh đẹp rung động
lòng người này cho mọi người thưởng thức, nhưng không biết là tôi tả cảnh có
hay không? Chắc chỉ đáng vài điểm so với cảnh vật ngoài đời 10 điểm.
Ban ngày thì tôi làm bạn với trời mây, đêm
tối tôi lại làm bạn với tắc kè. Hàng đêm chúng tôi chia nhau canh gát cực kỳ
nghiêm ngặt, vì mình chốt độc lập, lạnh lưng nên rất cảnh giác! Một phiên gát
đêm rất lâu, tiểu đội chỉ mấy người, nên mỗi người phải gát tới mấy tiếng đồng
hồ. Đêm khuya thanh vắng, không gian cực kỳ tỉnh lặng, tôi đeo súng đi qua đi lại
chán, rồi kiếm chổ khuất mà đứng, đứng đã rồi kiếm chổ mà ngồi, đầu óc trống rỗng,
vô tư không lo nghĩ điều gì. Chỉ có mấy con tắc kè trên cây là bạn với tôi, thỉnh
thoảng nó lại kêu một tràng tiếng tắc kè, tắc kè...
Nhiều lúc tôi cũng để ý đếm xem tắc kè kêu
bao nhiêu tiếng, chẳn lẻ thế nào. Theo lời truyền miệng thì người ta thường đếm
xem tắc kè kêu bao nhiêu tiếng để đoán hên xui, tôi không biết cách tính hên
xui như thế nào, nên cũng chẳng quan tâm. Nhưng chẳng có việc gì làm thì đếm tiếng
tắc kè kêu cho qua ngày đoạn tháng, mà thực ra tôi cũng chẳng nhớ tắc kè kêu mấy tiếng. Hình như nó kêu nhiều
lắm, cả chục tiếng thì phải, không phải một con mà có tới mấy con thay nhau
kêu.
Tôi nhờ có mấy con tắc kè này làm bạn
trong khoảng thời gian hiu quạnh đó, nên giờ còn nhớ tới nó. Đã hai mươi chín
năm trôi qua rồi, mấy con bạn tắc kè này, nay chắc đã đầu thay chín kiếp!
Rồi một buổi sáng nọ, tôi dẩn tiểu đội của
mình đi thông đường về phía suối sâu. Chúng tôi đi hàng dọc, AK đi trước, hỏa lực
theo sau, cách nhau người 10m, cẩn trọng hành quân trong sự yên lặng, cảnh
giác. Đến suối sâu, tôi phân tán cho anh em đứng nấp sau các thân cây dầu to
ven đường mà nghỉ chân, cảnh giới.
Phía sau chúng tôi có tiếng ồn ào, một tốp
lính đang cáng bệnh từ trong tiểu đoàn 2 ở Đăng Cum đi ra K23 ở ngã ba
Nimith... Đột nhiên có một tràng tiểu liên AK quất thẳng vào cái đám người ồn
ào đó.
Ngay lập tức, anh bệnh binh đang nằm thiêm
thiếp trên cáng, bật dậy như lò xo, chạy thẳng một hơi vượt qua suối sâu về
Nimith, để lại mấy anh lính mang võng lót tót chạy phía sau, quay lại mếu máo
nói với chúng tôi:
- Đ.M nó bệnh sắp chết mà chạy còn nhanh
hơn tụi này!
Tôi mĩm cười lắc đầu chẳng biết nói sao.
Anh ta không có súng trong tay, tẩu vi thượng sách.
Chúng tôi lúc này cứng cựa rồi, ba cái vụ
tập kích nhỏ lẻ như vậy ăn nhằm gì, chúng tôi có hỏa lực mạnh trong tay, đã
trãi qua chiến trận, được huấn luyện chiến đấu bài bản... Và chúng tôi đang chờ
xem diển biến tiếp theo của trận tập kích này là gì?
Thằng Pa-ra coi vậy mà lại sợ, không dám
nhào ra chơi tiếp, nó co giò chạy thục mạng vào rừng sâu. Khu vực suối sâu lại
yên tỉnh, tốp lính tải bệnh lội qua suối sâu, đi tiếp về tuyến sau, còn chúng
tôi quay trở lại trận địa của mình trong trạng thái căng thẳng và thấy càng phải
cảnh giác hơn vì sự quấy rối vừa rồi.
Ta đang
ngoài sáng, còn địch trong tối.
Đi qua cây bằng lăng cổ thụ trốc gốc, qua
thảm cỏ hoa của mình, tôi chép miệng từ giả mày nhe! Tình cảnh này không thể nằm
ngắm trời-mây-hoa-lá nửa rồi, chúng tôi đi thẳng về nhà báo cáo tình hình.
Không phải bọn địch chỉ phá rối trên tuyến
đường này đâu, chúng còn có những hoạt động đánh phá khác, mạnh hơn... vào điểm
yếu cố hữu của bất kỳ đoàn quân viễn chinh nào, đó là đánh vào con đường hậu cần,
tiếp lương, tải đạn.
Đoàn xe hậu cần chở thực phẩm từ Việt Nam
sang tiếp tế cho chúng tôi ở tuyến trên bị phục kích... Kết quả là không có muối
phát cho bộ đội, thiếu muối lập tức
chúng tôi bị suy giãm về thể lực, vì lý do đó trung đội tôi được lệnh rút quân
về Sophia.
Chúng tôi cắt đường rừng về đại đội, chỉ 8
cây số thôi vậy mà đi từ trưa đến chiều mới tới, vì đường rừng khó đi, vì sức
khỏe anh em bị suy giãm. Nói sức khỏe kém là nói chung thôi, chứ riêng tôi, lúc
đó tôi thấy sức mình còn chịu đựng được.
Về đến đầu phum Sophia tôi thấy làng mình
lúc này coi bộ đông vui hơn trước nhiều. Công sự ngay đầu làng do một anh bạn
vui tính đóng chốt, đó là anh Minh heo, lính nhập ngũ tháng 3/79, tôi cũng
không biết tại sao anh có biệt danh này, nhưng coi bộ anh không buồn phiền gì lắm
với cái danh hiệu bất nhã đó.
Chúng tôi tấp vào chốt của anh Minh ngồi
chơi xơi nước, còn trung đội trưởng thì đi nhận địa điểm bố trí quân.
Nói đến cái chốt đầu phum Sophia tự dưng
lính tiểu đoàn 3 nhớ ngay đến nhà bà tiếng
Việt, bà này thực ra cũng còn trẻ, U40 thôi, bà có một cô con gái: chơ chuôn
Campuchia nước da đen dòn, hàm răng trăng bóc (chơ chuôn nghĩa là nhân dân). Cô
này xinh lắm, nhiều anh để ý, trong đó chắc là có anh Minh nhà mình. Anh cắm chốt
ở đó, ngay hậu phương nhà bà, cai quản luôn cái khu vực tắm rửa và vườn chuối
nhà bà, cái vườn chuối này hai mẹ con bà mỗi ngày vẫn thường hay ra... bứt cỏ
khi cần thiết.
Anh nằm đó, ngắm nghía cô em hàng ngày,
không biết có thấy gì không?
Nhiều chuyện vui lắm về mẹ con bà này
nhưng kể ra không tiện. Thấy mới tin, tôi chỉ kể chuyện mình thấy thôi, còn
chuyện lính tráng truyền miệng thì không dám viết ra đây, sợ không chính xác
anh em bắt lỗi.
Trong số những người ái mộ cô con gái bà
tiếng Việt này có tôi trong đó, nhưng tôi chỉ là fan hâm mộ thôi:
Vì cô trẻ trung, xinh xắn, nhỏ nhắn, xinh
tươi...
Chứ thật ra tôi thích cô khác.
14.
TÌNH CẢM QUÂN DÂN SOPHIA
Về lại Sophia trung đội chúng tôi được bố
trí ngay vào khu vực đầu phum, bên phải con lộ đất nối ngã ba Nimith đến
Đăng-cum. Phía sau trung đội tôi chừng 100m có 1 hồ nước nhỏ, núp sau lùm cây rậm
rạp, bây giờ lên Google Maps vẫn còn nhìn thấy nó nằm trong cụm 3 hồ nước nhỏ,
cái phum Sophia (không có tên trên bản đồ) nằm cách ngã ba Nimith 2 cây số qua
gần 30 năm tôi thấy ít thay đổi, có lẽ vì năm 1981 dân làng bị di dời, cái phum
này bỏ hoang, không ai rãnh mà vô đây san lấp, xây dựng, sửa chữa .v.v.
Từ ngày thành lập mặt trận 479 đến nay, tiểu
đoàn 3 luôn luôn được phân công là đơn vị cơ động của trung đoàn 4, chúng tôi
chốt ở đây kể như là hưởng nhàn, vì phum Sophia là khu vực trung tâm của trung
đoàn, không có địch... Tuy nhiên cái gì cũng có luật bù trừ của nó, chốt ở
Sophia thì sướng, nhưng ở yên không được bao lâu, vài tháng một lần chúng tôi lại
phải lên đường đi truy quét hoặc đánh điểm, hy sinh, gian khổ, hiểm nguy nhiều
lắm! Rồi từ từ tôi kể bạn nghe.
Tiểu đoàn 1 lúc đó chốt ở cửa khẩu Poi Pet
giáp biên giới Thái Lan coi vậy mà... êm, vì chủ trương của Thái Lan là không
trực tiếp đụng chạm đến Việt Nam, họ chỉ tiếp tay cho Pôn Pốt và các thế lực phản
động lưu vong của Campuchia đánh Việt Nam thôi. Chỉ có những cao thủ mới chơi
được nước cờ này: Kẻ thù của kẻ thù là bạn của mình. Bắc Kinh cũng chơi cái nước
cờ này: Nó nuôi dưỡng kẻ thù của Việt Nam để đánh Việt Nam. Chỉ tội nghiệp cho
những thằng lính chúng tôi gồng lên mà chịu trận!
Tiểu
đoàn 2 đóng ở Đăng-cum tuy vững như bàn thạch, nhưng bấy giờ cũng đang oải lắm,
vì hay bị địch quấy nhiểu, như cái kiểu thằng Pa-ra bắn lén vài phát ở suối sâu
kể ở chương trước. Nếu ta chủ quan khinh địch, ngũ quên trên chiến thắng, thì kẻ
thù xông vô làm thịt ta liền!
Nhận chốt, ổn định chổ ở xong xuôi, chiều
hôm sau chúng tôi lò dò ra phum chơi, cùng đi có anh Thạch trung đội trưởng. Từ
cái chốt của tôi, bước ra đầu phum chỉ khoảng hơn 100m là tới lộ. Tôi đi tà tà
trên trục lộ chính, được vài chục bước chân thì ghé vào một nhà dân. Nhà này
đang giã gạo, một cô gái dáng người cao ráo, ngực nở eo thon, vận chiếc áo sơ
mi trắng bó sát thân hình cân đối, đang đứng đạp cối.
Cô nhún lên cái cần giả gạo, để cần giả bật
lên theo nguyên tắc đòn bẩy, rồi thả lỏng chân ra cho cái chày nện vào cái cối.
Cứ thế mà giả cho hạt thóc tróc vỏ ra thành gạo.
Anh Thạch thấy gái đẹp thì muốn làm quen, kéo tôi vô liền,
xin cho coong tôp Việt Nam giả gạo với (coong tôp nghĩa là bộ đội). Cô cười
tươi, xin mời và né ra.
Tôi không rành tiếng Campuchia tất nhiên
là tôi phải giả gạo rồi! Còn anh Thạch thì đứng nói chuyện với người đẹp. Nói
chuyện một hồi thì cô xôm lia, và lịch sự mời chúng tôi ghé nhà chơi.
Chúng tôi ở đó giả gạo cho xong, nói chuyện
với bà mẹ Campuchia chủ căn nhà đó chút đỉnh rồi cũng xôm lia me chúng tôi đi.Vừa
rời khỏi nhà, anh Thạch rủ tôi tới nhà cô gái hồi nảy chơi đi. Tất nhiên là tôi
đi liền, bụng bảo dạ: Không phải chỉ mình anh thích cô ta đâu, tôi cũng thích
chứ bộ! Tướng tá cô đẹp như người mẫu mà đám con trai chúng tôi không thích thì
chắc là bị bệnh ghét đàn bà của mấy ẻm quá! Chúng tôi lính tráng, nam tính đầy
mình mà.
Thế là chúng tôi hiên ngang lên đường đi
thăm nhà người đẹp, nhà cô bên kia đường, theo con đường mòn nhỏ chừng 100m thì
tới. Căn nhà sàn của gia đình cô cao ráo, rộng rãi, vững vàng. Tiếp đón hai anh
em tôi là ba mẹ và anh trai của cô ấy, còn cô thì có vẽ e lệ, thục thò. Tất
nhiên thôi, con gái mà, chẳng lẽ gặp trai thì nhào ra tiếp chuyện liền sao?
Ở Campuchia thời điểm đó dân thương bộ đội
lắm, bộ đội tới nhà chơi, cả nhà ra đón. Rồi chúng tôi biết tên cô là Thêng, là
con gái thứ của gia đình. Cô có một người anh có vợ ở riêng gần đó và mấy đứa
em.
Số tôi số... hưởng, công anh Thạch làm quen
vậy mà tôi lại được cảm tình của cô Thêng và của cả nhà cô. Có lẽ do bận làm
quen với mấy em mê-mai khác chịu chơi hơn mà anh Thạch từ từ lui ra, để lại một
mình tôi thường xuyên lui tới nhà cô Thêng để chơi... với ba cô, với người anh
trai của cô và cái chính là để được gặp gỡ nói chuyện với cô.
Thỉnh thoảng cô mời tôi ở lại ăn cơm, mời
rất trang trọng, phi-xa bai boòng (Ở Campuchia phân biệt rõ 3 loại từ ăn, xi
bai là ăn cơm - tiếng thông dụng - thường chỉ nói với mấy đứa con nít, hốp bai
là ăn cơm - tiếng lịch sự - để nói với người đồng lứa, phi-xa bai là dùng cơm -
tiếng trang trọng để nói với người trênkẻ trước)... Tôi vẫn thường được ăn những
bửa cơm ngon tại nhà em Thêng, cơm gạo trắng giả tay ăn với canh cá nấu với mắm
bò hốc, rất ngon, rất đậm đà.
Có một lần tôi còn được anh trai cô ấy mời
dùng cơm với món đặc sản là canh thịt gà nấu mắm bò hốc và lá cần sa (một loại
lá hút gây ảo giác như ma túy). Lá cần sa ở Campuchia rẻ thôi, mười bath (tiền
Thái) một bó, (bằng giá vài gói thuốc lá thơm). Lá cần sa giống lá tần ô, dân
Campuchia lấy lá cần sa nấu canh như mình nấu canh rau tần ô với cá thác lát.
Món canh đó ngon lắm, tôi chỉ được thưởng thức một lần trong đời, nay hương vị
ra sao tôi chẳng tài nào nhớ nổi.
Do thấy tôi đàng hoàng, chửng chạc, nên ba
em Thêng rất quí tôi, ông thường ngồi tiếp cơm tôi trên phòng khách, bát đĩa trắng
tinh được em Thêng dọn ra trang trọng. Tôi dùng cơm với ông mà bụng dạ để ở nhà
dưới, nơi em Thêng đang ngồi ăn với mẹ và mấy đứa nhỏ, có lần tôi ra nhà sau rửa
miệng, lấy nước uống, thấy em Thêng đang ngồi bốc cơm ăn rất ngon lành, gặp tôi
em lúng túng, mắt lúng la lúng liếng, miệng lúng ba lúng búng, mời phi-xa bai
boòng... Thì ra cái mâm cơm tôi ăn với ông già trên phòng khách thuộc loại mâm
cao cổ đầy, còn nhà dưới chỉ ăn cơm mắm, bốc tay, qua ngày thế thôi! Tôi tuổi
trẻ vô tâm, chưa lịch duyệt sự đời đã từng ăn uống nhiều lần món ngon, vật lạ của
các ba, các mẹ, các anh, các chị Campuchia mà chưa lần nào bày tỏ được một tiếng
or-cuôn trân trọng tận đáy lòng để người cho hả dạ.
Cái công chúng tôi đổ mồ hôi xương máu
đánh đuổi Pôn Pốt đã được người dân Campuchia đền đáp hậu hỉ bằng chính miếng
ăn của họ. Hơn hẳn cái sự đãi ngộ của các cơ quan thẩm quyền của Việt Nam đối với
chúng tôi khi về nước. Huân chương họ cũng xù luôn không cấp... tất nhiên đây
là lỗi của mấy anh làm chính sách, chứ theo chính sách thì tốt lắm, lính hoàn
thành nghĩa vụ ở K về đều được thưởng huân chương.
Nghĩ mà buồn cho thế thái nhân tình, đối xử
với những người lính chiến như thế, hỏi khi hữu sự ai dám bỏ mạng cho mình, hay
nó sẽ chạy tét ghèn như đám lính Pa-ra ở Công-xi-lôp, để lại nguyên cái kho hậu
cần mời anh xơi... Đây thuộc phạm trù tư tưởng đấy, mấy anh chính trị viên đại
đội rất hiểu điều này, nhờ vậy được lính nể, ra trận hô xung phong thì lính
tráng hò nhau xung phong, biết rằng ăn đạn, đá mìn cũng lên... Trong quân đội
cũng có một số anh ù lì, tục tạt, nhưng số này ít thôi, bị anh em ghét bỏ như
chó, vì nó không làm thì anh em phải làm, cuốc xẻng phát từ dưới phát lên mà.
Thế mới biết tại sao bộ đội tình nguyện Việt
Nam ở Campuchia lại nặng tình với dân Canpuchia nơi họ đóng quân như vậy. Vì họ
đã được đối xử rất NGƯỜI, được dân thương yêu đùm bọc cơm áo, nghĩa tình.
Nợ tiền không nặng.
Nợ cơm áo, nợ nghĩa tình, mới là nặng nợ!
Đang là cao điểm mùa mưa năm 1980, nên lúc
này tiểu đoàn 3 ít khi phải đi đánh trận, chỉ ở nhà cũng cố hầm hào, luyện tập
kỹ chiến thuật... Chúng tôi được huấn luyện kỹ thuật đặc công, học cách di chuyển
trong đêm, thu gọn thân mình, chân bước ngang, đầu không nhấp nhô... để thằng địch
ngồi gác không phát hiện được. Chúng tôi còn được tập cách di chuyển trong
kinh, rạch, đồng lầy: Hai ngón chân của anh đi sau kẹp nhượng chân của anh đi
trước không cho bùn rớt xuống gây tiếng động. Chúng tôi còn được dạy cách mặc
quần đùi, cởi trần bôi than, hóa trang cho phù hợp với địa hình, bò trên trận địa
gở mìn, đột nhập căn cứ địch, đánh bộc phá mở cửa mở .v.v. Những kỹ thuật đặc
công này nó làm cho những người lính chúng tôi thấy mình trưởng thành lên rất
nhiều và thấy càng khâm phục hơn những anh lính đặc công tinh thông kỹ thuật đột
nhập, ra vào trận địa địch như chổ không người.
Có những ngày mưa nghỉ, hoặc sau thời gian
tập luyện... mát trời đi chơi, chúng tôi lũ lượt kéo nhau ra dân. Gia đình ruột
của tôi tất nhiên là nhà ba má em Thêng, ông Thư già thì chúng tôi đã gán cho
bà tiếng Việt, chú Lợi trố thì kết nhà mê-mai Phương, anh Sau thì có mê-mai
Phon, chú Thái liên lạc có me Liên, chú Cử thì chị nuôi là boòng Mit .v.v.
Dân rất thương yêu bộ đội, cánh đàn ông mà
tiếp bộ đội thì cái quí nhất của họ là rượu, thì họ đem rượu ra cho uống. Những
khi đi thăm nhà cô Thêng, ngang qua nhà anh cô, có rượu mới cất thì anh cô
Thêng lấy cái cà-toong ra (cà-toong về hình thức thì hơi giống như cái ngăn
gò-mên cơm bên mình) múc từ trong khạp ra nửa cà-toong rượu, mời tôi uống
samaki, không uống là không samaki.
Rượu gạo do dân Sophia nấu uống rất đằm. Uống
vào có cảm giác êm, ngọt hậu, thơm ngon, không nặng đô như rượu Nàng Hương đóng
chai, uống xong phải khè một cái cho bớt nồng! Nó ngon như rượu đế Gò Đen cao cấp...
tửu lượng kém như tôi uống 1 xị tỉnh bơ, 2 xị thì vừa đủ, xung lên 1 lit cũng
chơi... nhưng ói! Tiếc thay thời trai trẻ, có sức lại không có rượu để uống,
nay đau bao tử kinh niên, gặp rượu là sợ!
Đúng ra uống rượu và biết cách uống rượu
có cái hay là nó tạo cho mình thêm dạn dĩ, dễ xóa bỏ khoảng cách xa lạ ban đầu,
để anh em thân nhau hơn, hiểu và thương nhau hơn... Giống như tôi và các bác
quansuvn.net đây, sau này có gặp nhau, tuy là chiến hữu K hội ngộ, nhưng cảm
giác xa lạ lúc đầu sẽ làm chúng ta lượng sượng... thế mà chỉ cần nâng ly lên uống
vài tua thì chúng ta sẽ dạn dĩ lên, bổ bả hơn, không khách sáo nửa... thì thì
chúng ta trở thành bạn thân được rồi đó. Chúng ta có một yếu tố cực kỳ quan trọng
để trở thành bạn thân vì có máu lính trong người, có sự đồng cảm sâu sắc với sự
hy sinh gian khổ mà những người lính ở chiến trường K chịu đựng.
Do không rành tiếng Campuchia, hơn nửa
tính tình tôi chửng chạc, thương ai để ở trong lòng, không nói ra, không tán tỉnh
nên tình cảm của tôi với cô Thêng vẫn như bạn bè, không tiến triển. Điều này
cũng có cái tốt, tôi và cô được tự do đi lại theo con đường của mình, không ai
ràng buộc ai. Ba mẹ cô thương tôi như con đẻ, anh em cô đối xử với tôi quá sức
tình người! Vậy là tốt quá rồi, đòi hỏi gì nửa? Năm 1981 phum Sophia bị giải tỏa
trắng, tôi cũng mất cô Thêng luôn cho tới nay. Nay chắc cô cũng già như tôi, có
khi là cô có cháu nội rồi. Hy vọng là vẫn còn dáng người và nét đẹp như xưa. Tuổi
thọ con người ngày được nâng cao, 50 chưa gọi là già được.
Thực ra, giữa mùa mưa 1982 tôi đã từng cất
công lội bộ cả ngày đường từ căn cứ hành quân Năm-sấp ở sâu trong Nam Cao
Mê-lai ra thăm cái phum Sophia bị di dời ra ven đường quốc lộ số 5 cách ngã ba
Cốp-tút vài cây số.
Hôm đó, tôi xung phong đi chợ mua nhu yếu
phẩm cho trung đội với một ý nghĩ là kết hợp thăm dân Sophia, luôn tiện tranh
thủ tìm kiếm dáng hình người đẹp tên Thêng của mình. Tuổi trẻ đa tình, tôi chấp
nhận lội bộ đi về 40 cây số với một mục
đích ba trong một như vậy và háo hức lên đường bất kể nắng mưa.
Chúng tôi từ Năm-sấp đi ra Tà-cuông Krao,
đoạn này chỉ vài cây số thôi, từ Tà-cuông ra Cốp-tút dài vằng vặc, đi trên con
đường đất đắp trên địa hình trảng thấp, thỉnh thoảng nhảy xuống lội mương vì
không có cầu bắt qua các dòng chảy cắt ngang con đường. Hai bên đường là đồng
ruộng mênh mông của đồng bằng Batttambang trù phú. Đang là thời chiến, trên trục
đường này không có người ở. Trời trưa nắng gắt trên đầu, chúng tôi ráng đi đến
bóng mát của đám mây đen trước mặt để được che nắng, đi hết bóng mát, chúng tôi
lại đuổi theo cái bóng mát của cụm mây đen tiếp theo mà rong ruổi đường trường.
Đến Cốp-tút chúng tôi mua vài thứ lặt vặt
cần thiết theo đơn đặt hàng của anh em trong trung đội, rồi đi tiếp, mãi đến
chiều mới vào đến cái phum Sophia bị di dời ra đường quốc lộ.
Vào một nhà quen của anh bạn trong nhóm
nghỉ ngơi, ăn uống và ngủ qua đêm nơi đó. Chủ nhà có nói cho chúng tôi biết là
đêm qua ở phum này đã xãy ra một vụ cướp, đang đêm cướp xách súng xông vào nhà,
nên tình hình lúc này không được an ninh. Chúng tôi nghe vậy thì biết vậy,
không nghỉ ngợi gì về vấn đề an ninh trong vùng, chúng tôi có súng trong tay, sợ
gì cướp bóc chô phơ-lon.
Vậy mà ngũ có yên đâu, đêm đó một anh
chuyên gia Việt Nam cấp xã, kéo theo khoảng
mười tay súng đến bao vây nhà chúng tôi đang ngũ, rồi lên tiếng gọi cửa.
Từ trên nhà sàn, chúng tôi bước xuống tới
đất thì thấy mình đã bị bao vây tứ phía rồi, anh lính chỉ huy trong bọn nói:
- Chúng tôi đến kiểm tra các anh.
Tôi hơi bực:
- Kiểm tra cái gì? Chúng tôi trong Năm-sấp
ra đây đi chợ cho đại đội, rồi đi thăm dân không được sao?
Nghe nói từ trong căn cứ Năm-sấp ra, anh
chuyên gia dịu giọng:
- Đêm qua có lính vào nhà dân ăn cướp, chúng tôi có trách nhiệm bảo vệ cái phum này.
Mấy anh theo tôi về.
Tốp lính đó kéo nhau đi, chúng tôi đi theo
mà cảm thấy bức bối trong lòng. Người chủ nhà cũng ái ngại, nói gì đó với anh
chuyên gia Việt Nam. Anh gật đầu trấn an họ, kiểu như là không có gì đâu, tôi
đem mấy anh này về thôi mà.
Về trạm chốt của chuyên gia, họ điện thoại
về chỉ huy của chúng tôi ở Năm-sấp để kiểm tra tông tích chúng tôi, được đơn vị
tôi xác nhận là có cho 4 anh lính này về Cốp-tút đi chợ. Chúng tôi ở đó đến
sáng thì kéo nhau trở về cái căn cứ trong thâm sơn cùng cốc của mình...
Vậy là tôi phải bất đất dĩ xa dân Sophia
và em Thêng từ cái đêm hôm đó. Đến nay ngồi viết truyện, thấy bồi hồi, nôn nao
trong dạ, thấy thương cái phum vì chiến cuộc mà phải di dời ra ven đường quốc lộ,
không có cây trái huê lợi gì cả, cái phum trơ trọi, lỏng chỏng trên đồng ruộng
mênh mông nước hai bên lộ 5, mùa mưa năm
1982.
15. MỘT TRẬN VẬN ĐỘNG CHIẾN
Gần cuối mùa mưa 1980, trong khoảng thời
gian chúng tôi đang học kỹ thuật đặc công thì được thông báo là chuẩn bị đón
lính Pa-ra ra hàng theo chủ trương hòa giải - hòa hợp dân tộc của chính phủ
cách mạng Campuchia... Và bọn chúng ra hàng thật, chúng tôi thấy từng đoàn lính
Pa-ra vui vẻ kéo nhau trở về theo chủ trương của chính phủ Hun-xen, chúng đi
qua đội hình đóng quân của chúng tôi như chổ không người, vì chúng tôi đã được
thông báo trước nên án binh bất động nhìn chúng đi qua, dửng dưng!
Lính Pa-ra vô chính phủ lắm, thằng nào
hàng thì hàng, thằng nào đi ăn cướp thì cướp... Một sáng nọ, đại đội chúng tôi
đang dàn quân luyện tập chiến thuật thì có lệnh xuất kích vì được tin lính
Pa-ra xuất hiện trên đường buôn ăn cướp ở khu vực đường bình độ (tức là khu vực
đất nổi cao hơn xung quanh) gần suối cạn, cách phum Sophia 3km về hướng Bắc.
Chúng tôi vận động nhanh ra đó thì phát hiện
mục tiêu, trung đội tôi được lệnh vận động qua đường, phát triển dọc theo bên
kia đường không cho địch dạt qua đó, số
còn lại thì dàn hàng ngang và phát triển dọc theo mé bên này đường để lùa địch
vào vòng.
Địch chỉ có hai thằng, bị chận đánh hai
bên đường, như cá nằm trên thớt, nó hết đường chạy nên núp vào ụ mối cố thủ. Từ
bên kia đường, tôi thấy rõ ràng đại đội phó Vi đứng hô khẩu lệnh: B41, thước ngắm
100, bắn. Tuân theo hiệu lệnh, đồng chí Long xạ thủ B41 thổi vô ụ mối một phát
bùng bình liền, hai thằng Pa-ra chết ngay tại trận. Do tôi đứng phía bên kia đường
bò nên không thấy hai thằng kia chết ra sao, chỉ thấy anh em chạy lên thu chiến
lợi phẩm, nhưng không được xài, vì bị đồng chí Tý chính trị viên đại đội bắt nộp
về trên.
Trận này không tính thành tích vì trên xác
định hai thằng lính này thuộc loại lính ra hàng, tranh thủ ra đường buôn kiếm
chút cháo làm vốn trước khi về làm dân, xui cho nó mới ra ăn cướp, chưa kịp chạy
thì bị chúng tôi làm thịt.
Mấy thằng Pa-ra này bị chúng tôi làm thịt
trên đường buôn hoài, có lần chúng tôi vận động ra tới nơi thì thấy có mấy thằng
nằm đó rồi, đã có một toán lính nào đó ra tay trước, toán lính chúng tôi đâu phải
tay vừa, khi xung phong qua đường, tiện tay lại bắn găm, bắn gần, bồi thêm mấy
phát rồi mới tiếp tục hành tiến.
Sau này coi phim hành động, chúng ta thường
thấy cảnh một nhân vật bị bắn gụt nằm tại trận, chờ bên kia chạy qua, rồi bật dậy
cầm súng bắn theo, hạ gụt đối thủ, thấy quá xạo! Gặp tay tôi (hoặc bất kỳ người
lính Việt Nam nào) thì chúng tôi cũng phải bắn bồi thêm vài phát cho chắn ăn,
khỏi sợ bị đâm sau lưng chiến sĩ, rồi mới tiếp tục vận động tiến lên phía trước
theo tiếng gọi bầy đàn.
Nói chung trong năm 1980, tại khu vực ngã
ba con voi trên hướng Bắc lộ 5, tiểu đoàn 3 hoàn toàn làm chủ tình thế, lính
Pa-ra nghe danh là sợ, từ chạy trốn tới đầu hàng.
16. MỎ VẸT
Cuối năm 1980 đại đội 13 lại chuyển về Don
Thomo, sau đó chúng tôi nhận lệnh đi truy quét sâu trong khu vực mỏ vẹt ở phía
Nam phum Viêng, nơi đặt bản doanh của trung đoàn bộ. Chúng tôi đi theo con đường đê bị vỡ - do
lính Pôn Pốt gài mìn phá hoại trước đó - để vào mỏ vẹt.
Mỏ vẹt là một mũi đất của Thái Lan (có
hình dạng giống như cái mỏ của con vẹt) thọc sâu vào nội địa của Campuchia, tàn
quân Pôn Pốt ẩn náo ở đó và thường hay tập kính hỏa lực vào các đơn vị trực thuộc
trung đoàn bộ.
Có lần, chúng tôi ra thế chốt cho một đại
đội trực thuộc của trung đoàn 4 đi làm nhiệm vụ. Đơn vị này đóng ở phía Bắc lộ
5, gần chổ mà đại đội chúng tôi đã từng chốt hồi mới đến phum Diêng tháng 4/79,
nơi có bộ xương khô mặc đồ bà ba đen nằm nhe răng nhát ma bộ đội.
Đêm đó thằng Pôn Pốt từ trong mỏ vẹt ra tập
kích chúng tôi. Đầu tiên nghe bùng bình một tiếng, sau đó là tiếng tiểu liên
AK, rồi tiếp tục nửa là tiếng cối nổ oành, oành. Tôi và đồng chí Hạn, lính nhập
ngũ 3/79 nằm úp người trên nền đất ẩm ướt mà chịu trận, mà nghe tiếng đạn bay,
cối nổ...
Mấy thằng này bắn dở, đạn AK thì bay quá
nóc nhà, cối toong thì trật hướng, chúng tôi nằm kế bên cái công sự hình chữ U
đầy nước... nhưng chẳng thèm nhảy vào đó làm chi cho thêm dơ dáy, vì hỏa lực của
Pôn Pốt giả không trúng đội hình của mình, có trúng chăng thì trúng cái sân...
chào cờ của đại đội ở phía trước.
Các đại đội cối pháo của trung đoàn lập tức
lên tiếng, hỏa lực của ta rót trả ngay vào cái mỏ vẹt đó. Chuyện này xãy ra như
cơm bửa, riết rồi cũng nhàm, hình như những cuộc tập kích kiểu này chỉ gây căng
thẳng chứ khó gây thương vong cho ai.
Chắc chắn là mấy anh Thái biết chúng tôi
vào mỏ vẹt (làm gì không có quân báo Thái Lan nằm ở ngã ba con voi này), anh lấy
làm khó chịu, anh cho máy bay trinh sát L19 bay tuần tra cái mỏ vẹt, tất nhiên
là trên phần đất nhà anh. Anh bay vè vè trên đầu chúng tôi, anh dòm dòm, ngó
ngó.
Chúng tôi phát hiện L19 ngay bởi tiếng kêu
è è của nó. Chúng tôi dừng đội hình hành quân tại chổ, ẩn vào các gốc cây rừng.
Có rừng cây che khuất, dễ gì anh thấy tôi, anh bay khuất tầm thì chúng tôi đi
tiếp.
Từ Mỏ Vẹt chúng tôi đi dọc theo đường biên
giới, truy quét sâu vào khu vực Cao Mê-lai, rồi vòng lại, cho đến một hôm ra đến
chân một cây cầu cháy bắt qua một con suối lớn ở sâu trong hướng đuôi con voi
Nimith thì dừng chân.
Tại cầu cháy, chúng tôi nhận được thư nhà
và nhu yếu phẩm. Những điếu thuốc lá Đà Lạt lúc đó sao mà đậm đà thơm ngon đến
như vậy, hút chỉ một điếu mà cảm thấy đầu mình lâng lâng như say thuốc. Chúng
tôi nghỉ ngơi tắm giặt ở đây sau nhiều ngày chịu khô hạn ở trong rừng.
Cũng tại cây cầu cháy này tôi lần đầu tiên
trong đời tôi biết thế nào là đĩa đeo, tôi thấy trong bẹn mình ướt ướt, lạnh lạnh,
nhớt nhớt rờ vô thì thấy chảy máu, loãng thôi, định thần nhìn kỹ thì ra tôi bị
đĩa đeo trong lúc tắm suối, tôi nắm lấy con đĩa từ từ lôi ra, máu chảy ra theo
nó tức thì, sẳn gói thuốc lá Đà Lạt mới lãnh đang hút dở trong túi, tôi xé ra nửa
điếu lấy sợi thuốc đắp lên vết cắn, mãi hồi lâu vết cắn mới khô miệng, kéo mài.
Sau đó chúng tôi được lệnh quay về, khoảng
nửa đêm hôm đó chúng tôi mới về đến Don Thomo. Đợt hành quân này kết thúc năm
1980 nhiều kỷ niệm.
Gió bấc lạnh từng cơn thổi về, chúng tôi
đang đóng quân ở Don Thomo, cực Tây Bắc của lãnh thổ Campuchia, tại một địa điểm
có độ vĩ Bắc là 13 độ 40 phút, ngang với ranh giới tỉnh Phú Yên và Bình Định của
Việt Nam. Hình như ở vĩ độ này (cao hơn hẳn thành phố Hồ Chí Minh và đồng bằng
sông Cửu Long) thời tiết cuối năm lạnh hơn thì phải?
Những đêm giáp tết âm lịch năm đó trời lạnh
lắm! Chúng tôi khuân về từng gốc cây dầu khô đường kính cở bắp vế, đốt lên và
ngồi quanh lửa hồng sưởi ấm, anh nào đi ngũ thì xách một thùng than cây cháy đỏ
vào lán của mình, để dưới vạt giường mà nằm cho ấm.
Tình hình Don Thomo yên tỉnh nên chúng tôi
mới dám đốt lửa sưởi ấm kiểu này, chứ ở Đăng-cum thì không dám đâu, ăn đạn B40
liền!
Hàng ngày chúng tôi vẫn thường xuyên tổ chức
đi truy quét ra phía trước đội hình, có lần cả đại đội chúng tôi đi xa lắm, qua
khỏi rừng cây xanh, đến một con đường lớn và trống trãi (không phải đường bò,
vì nó bằng phẳng, trong khi đường bò thì nó hằn vết bánh xe bò). Con đường này
ăn sâu trong cánh rừng thưa trụi lá, thấy dấu vết của lính tráng phía bên kia để
lại trên đường, nó vẽ chữ giun nghệch ngoạc cái gì đó...
Chúng tôi đi đến đó là muốn hết tấm bản đồ hành quân của đại đội, chiều chúng tôi lên họp
giao ban, cùng các anh chỉ huy đại đội lật bản đồ ra xem mà cứ thắc mắc mãi về
những cái dấu vết địch để lại trên cái con đường này...
Và chúng tôi đã ăn cái tết đầu năm 1981 tại
cái Giếng Đá đó một cách êm thắm.
Hồ thứ 17. MỘT TRẬN TẬP KÍCH ĐIỂN HÌNH
Cuối tháng 2/1981 tiểu đoàn chúng tôi được
lệnh xuất quân tập kích căn cứ
Ang-sa-la-tức của lực lượng Sơ-rây-ca, nằm ở hướng Bắc lộ 5, chắc gần phum
Đăng-cum của tiểu đoàn 2.
Căn cứ này đã bị cấp trên chúng tôi ngắm
nghía từ lâu, trinh sát kỹ lắm, chỉ huy đại đội đều được dắt đi điều nghiên thực
địa trước. Tôi biết điều này qua 1 sự kiện sau: Sáng sớm một hôm nọ, trung đội
tôi được điều đi cáng xác tử sĩ về, anh này tên Thao, trinh sát tiểu đoàn, nghe
nói mới 17 tuổi, trong khi thi hành nhiệm vụ thì đá phải mìn, chết ngay tại trận.
Các anh chỉ huy lấp xác trong bụi, rồi tiếp tục trinh sát trận địa địch, sáng
ra kêu trung đội tôi đi lấy xác về.
Chúng tôi hành quân vào lúc nửa đêm, ưu
tiên trang bị hỏa lực mạnh, tôi là tiểu đội trưởng vẫn phải mang B40 với 6 trái
đạn. Cuộc hành quân được chỉ huy rất bài bản, trước khi lên đường, lính tráng
phải chạy khởi động tại chổ xem có va chạm, phát ra tiếng động không. Chúng tôi
đang đóng quân ở Don Thomo, sâu trong cánh rừng dầu phía Bắc phum Viêng, trận
ra quân đầu năm này hoàn toàn bí mật, một yếu tố cực kỳ quan trọng trong chiến
đấu.
Đang vào đầu con trăng hạ tuần tháng
giêng, chúng tôi lặng lẽ đi trong gió mát, trăng thanh, không mang gạo, chỉ
mang đúng 1 cơ số đạn nên hành quân rất thoải mái, đi chừng 2 tiếng là đến điểm
phân chia đội hình, từng đơn vị được trinh sát dẩn vào vị trí xuất kích của
mình.
Đây là một trận tập kích cấp tiểu đoàn có
tăng cường hỏa lực cực kỳ bài bản, như một buổi diễn tập chiến thuật, sau đây
là diển tiến trận đánh:
4 giờ sáng, nằm trên hướng xuất kích của
mình, bên hông ụ mối, dưới ánh trăng hạ tuần, nhìn lên phía trước, tôi thấy rõ
thằng lính gác ngồi hút thuốc lá đỏ rực. Đã gần hết đêm, đây là thời điểm người
ta chủ quan nhất.
Đến giờ G (đúng 4 giờ sáng), cối pháo các
loại đi theo bộ binh khai hỏa đồng loạt mở màn trận tập kích, theo kế hoạch hợp
đồng tác chiến, hỏa lực bộ binh cùng tham gia bắn hủy diệt trận địa địch... Tôi
nằm trên mặt đất mát lạnh, gióng khẩu B40 vào hướng thằng lính hút thuốc khi
nãy, thổi liền cho nó một phát.
Hỏa lực tập kích vẫn còn vang dội, tôi
bình tỉnh nạp thêm một quả B40 nửa vào nòng nhắm vào hướng địch mà mình đã canh
me sẳn, bồi thêm phát nửa. Đạn không nổ! Đúng theo bài bản được huấn luyện, tôi
bình tỉnh đợi một chút, sợ hạt nổ bị ẩm phát hỏa chậm... Không động tỉnh gì, vậy
là hạt nổ bị lép! Tôi lôi nó ra, xoay quả mới vào, bắn tiếp một phát, thì có lệnh
xung phong.
Cả đoàn quân bật dậy hò nhau xung phong
mãnh liệt, chúng tôi dàn hàng ngang, hướng lên phía trước, theo tiếng gọi bầy
đàn mà chạy, vừa chạy vừa hô, thở hào hển vì vận động quá sức.
Rồi chúng tôi dừng lại bên một bờ đất thấp,
khói súng mù mịt che khuất tầm nhìn. Quì xuống, lấy bờ đất làm vật che đở, thở
lấy hơi, tiếp tục gióng súng bắn thẳng vào những khối vật chất hiện ra đen đen
trước mặt. Lại một đợt hò nhau xung phong vang dội, chúng tôi ào lên chiếm lĩnh
trận địa.
Chiếm được trận địa, chưa kịp lục soát,
theo sự phân công từ trước, đại đội
chúng tôi lập tức triển khai đội hình phòng ngự, đề phòng địch phản
kích... Trên hướng phòng ngự của mình, tôi thấy rõ ràng trước mắt có cái gì đó
đang phát sáng. Trời tranh tối, tranh
sáng, mấy cái đốm sáng này chập chờn, ẩn hiện ánh lân tinh ma quái, tôi đứng
đó, nghỉ mệt trong khí trời mát dịu, mồ hôi đang từ từ khô trên người.
Và những vật phát sáng đó từ từ hiện rõ
trước mặt tôi, đó là mấy cái đầu lâu... của bộ đội ta bị Pa-ra bắn chết, chặt đầu
đem về lấy thưởng. Và chỉ huy của chúng đã cắm những cái đầu đó lên cọc để thị
uy thiên hạ, để xác định số má trên chốn
giang hồ miền biên viễn này.
Ngay lúc đó tôi chỉ biết là đầu lâu xương
sọ thôi, nhưng sau này xâu chuổi lại các sự kiện tôi khẳng định rằng: Tôi biết
chủ nhân những cái đầu lâu này... vì trung đội tôi đã từng cáng trên vai 3 cái
xác cụt đầu của lính D2 chết trên một con đường bò, gần suối cạn, phía Bắc phum
Sophia. Buổi trưa hôm đó, được tin dân báo là có xác chết của bộ đội chết trên
đường buôn, trung đội chúng tôi lập tức được lệnh xuất kích và chúng tôi đã gặp
xác đồng đội mình nằm ven con đường bò đó...
Lính Pa-ra đã tập kích bất ngờ, bắn chết 3
anh lính này, cắt đầu mang đi. Chúng tôi đã cáng 3 cái xác không đầu đó về phẩu
trung đoàn, 3 cái xác cụt ngủn, gọn lỏn nằm trong cáng, chảy hết máu nên người
nhẹ tênh, Cứ hai người lính mang 1 cái cáng, không cần xoay tua, chúng tôi đi một
hơi về bàn giao cho ban chánh sách trung đoàn làm hậu sự.
Chúng tôi đã trả thù cho các anh tử sĩ D2
hôm nọ bằng một trận tập kích tuyệt vời, quá sức đẹp, quá bài bản, không thương
binh, không tử sĩ. Toàn bộ quân địch trong cái căn cứ này đã bị chúng tôi đánh
tan tác, chết ngổn ngang trên trận địa, số còn lại dông tuốt vào rừng.
Như một buổi diển tập hợp đồng tác chiến,
đoàn quân thắng trận trở về theo đội hình cuốn chiếu, trung đội của tôi rút ra
sau cùng, trời đang dần sáng... Mấy thằng Pa-ra chạy thoát vào rừng lúc nãy,
bây giờ tỉnh hồn, quay lại, thấy chúng tôi lui quân, tưởng ngon ăn, dí theo bắn
liền mấy loạt đạn, miệng hô chô chô. Đại đội trưởng Tý đi cùng trung đội, lệnh
cho tôi bắn liền. Tôi căn khẩu B40 gióng theo ánh lửa đầu nòng của đối phương,
đang tiến rất gần, bắn găm một phát bùng bình đinh tai điếc óc, rồi chạy theo đội
hình của mình, để lại sau lưng mấy thằng lính nín khe, sống chết ra sao không
biết... Chắc là tiêu, vì không nghe chô chô, mà cũng chẳng có tiếng súng bắn
vét đuôi nửa.
Uy lực của B40 (và B41) rất mãnh liệt, dù
anh có nấp sau ụ mối, vẫn chết vì sức chấn động. Đã có hai thằng lính Pa-ra bị
đồng chí Long, xạ thủ B41 bắn chết như vậy trên con đường Nimith Đăng-cum, đoạn
đường bình độ 25m phía Bắc phum Sophia.
Trận này tôi mang 6 trái B40, bắn hết 5
(trong đó lép 1), còn 1 trái nằm trong
nòng súng ung dung vác vai trở về nhà. Đến khi tắm rửa giặt đồ, thấy cháy sém hết
một bên quần... thì ra hơn 1 năm nay làm A trưởng sử dụng AK quen nằm bắn góc
30 độ, nay dùng B40 cũng nằm góc 30 độ (đúng ra súng với người nằm bắn thành một
góc 45 độ), bị lửa phản lực phà cháy sém một bên quần.
Đại đội trưởng Tý là người khen thưởng
công minh, anh đề bạt sư đoàn cấp bằng khen cho tôi về thành tích chiến đấu
trong trận thắng oanh liệt (nhưng dễ dàng) này.
Hồi thứ 18. PHUM KHÔNG TÊN
MỘT TRẬN PHỦ ĐẦU
Vào đầu mùa mưa 1981 tiểu đoàn lại nhận mệnh
lệnh hành quân, đại đội tôi có sự thay đổi
nhân sự, đại đội trưởng Tý về nước, chỉ
huy đại đội là đồng chí Ánh, chính trị viên, người miền Bắc và đồng chí Ma Văn
Thảo, người dân tộc Tày, đại đội phó quân sự. Hai anh chỉ huy đại đội đi đánh
trận này, trung đội trưởng của tôi là đồng chí Thạch, còn tôi là tiểu đội trưởng
với vỏn vẹn cả tiểu đội chỉ gồm có 3 người.
Cũng như bất kỳ cuộc hành quân dài ngày
nào, quản lý đại đội nhồi gạo vào ruột tượng cấp cho các trung đội, mỗi ruột tượng
nặng khoảng mười kg, anh nào vác AK thì mang gạo, những anh vác hỏa lực như trung liên RDP,
B40, B41 thì miễn.
Mỗi khẩu AK mang 400 viên đạn (có khi 600
viên) gồm 1 băng đạn 30 viên trong súng, 3 băng đạn trong bao-xe mang trước ngực, còn 4 cái túi
cóc thì nhét thêm được 6 hộp đạn 20 viên nửa, số còn lại chúng tôi cho vào ruột
tượng, cột ngang thắt lưng, dây thắt lưng thì đeo bi đông nước và... hai cục
cơm vắt để ăn hai ngày đường.
Không như trong phim ảnh mà chúng ta thường
thấy cảnh lính tráng hành quân ca hát yêu đời. Chúng tôi khoát tất cả súng đạn,
cơm nước vào người, ruột tượng gạo vắt lên vai è cổ, cảm thấy rõ sức nặng trên
đôi vai của mình. Tâm trạng chúng tôi
khi đó rất nặng nề, cảm thấy mình như con trâu đeo ách vào cổ, trâu cày
còn có thời gian nằm nhai lại cỏ, chúng tôi đã vác súng lên vai thì cực ghê gớm,
di chuyển liên tục, liên tục.
Chúng tôi đi đánh Cao Mê-lai từ hướng đít
con voi. Hành quân xa, mang vác nặng, chúng tôi đi rất thận trọng.
- Thưa ra, cách nhau 10m.
Đó là lệnh của chỉ huy luôn luôn được truyền
lên phía trên để duy trì cự ly hành
quân.
Máy
bay L19 của Thái Lan bay vè vè trên đầu, chúng tôi phải thường xuyên dừng lại, ẩn
vào cây để tránh tầm nhìn của nó.
Xế trưa hôm đó, trinh sát đi đầu phát hiện
phía trước có một đoàn quân Pôn Pốt mặc đồng phục màu xanh quân đội nghiêm chỉnh
đang di chuyển cắt mặt đội hình hành quân của chúng tôi. Nằm trong toán quân đi
đầu, nên tôi cũng tận mắt nhìn thấy đám tàn quân này, đông lắm, ước cả trăm
tên.
Sau này có đồng chí chỉ huy trong đơn vị
tiếc, phải chi hôm đó mình giá súng 12 ly 8, rồi dàn quân đánh úp cái đám quân
Pôn Pốt này thì chắc thắng lớn vì có yếu tố bất ngờ, đở phải di hại về sau!
Nhưng nhiệm vụ của chúng tôi lần này là đi
đánh phum không tên, chứ không phải đi truy quét, nên cái mục tiêu di động đó
đã bị bỏ qua một cách quá đáng tiếc.
Chúng tôi hành quân rất chậm, trưa hôm sau
khi chúng tôi đang trên đường hành tiến thì thằng địch phát hiện và tập kích
chúng tôi liền... Chúng tôi đang hành quân và thực tình là chưa xác định được
hướng địch. Trung đội tôi nằm trong một cánh rừng thưa xen lẩn các bụi tre, bờ
đất. Tôi dán người sát đất, chúi đầu vào một bờ đất thấp, nằm đó chịu trận.
Bị tấn công bất ngờ, chưa biết hướng địch,
chưa có lệnh xung phong, nên chúng tôi nằm trụ tại đó đợi lệnh. Anh Tý liên lạc
đại đội chạy tới nói nằm yên tại chổ, giữ vững đội hình, rồi chạy đi B khác...
Bổng dưng oành một tiếng, một quả đạn cối đã rơi trúng anh liên lạc, anh kêu la
thảm thiết, gãy cả hai chân, chết ngay tại trận.
Chúng tôi nằm sát đất, nghe tiếng đạn nhọn
veo véo bay trên đầu nhưng khinh, chúng tôi có cái bờ đất che chở, không sợ đạn
nhọn, chỉ sợ cối pháo rơi trúng lưng mình. Địch đang toong cối về phía chúng
tôi, cối của nó bay vo vo trên đầu, rồi xé gió rớt xuống đất nổ oành, oành. Địch
đã canh tầm hơi bị xa, đạn rơi ra phía sau lưng chúng tôi, trùng hướng di chuyển
của anh Tý liên lạc, khiến anh phải hy sinh đau đớn.
Đã từng nằm chịu trận cho đạn cối Pôn Pốt
nện, tôi rút ra kinh nghiệm là nghe cối bay vo vo trên đầu là nó còn tầm, nó
bay tiếp và nổ ở sau lưng. Khi nào nó xé gió lao xuống là tới số rồi đó...
Trời tự dưng đổ mưa, không thấy chuyển, mà
trời lại mưa, mưa lất phất thôi, chỉ vừa tưới ướt thân người và cây cỏ. Đám lính Pôn Pốt này hỏa
lực còn xung, nó cối chúng tôi lâu lắm, may mà nó canh chệch hướng, đạn rơi
phía sau nên trung đội tôi không hề hấn gì.
Hết đợt pháo kích của địch thì có lệnh
xung phong, chúng tôi súng lăm lăm trong tay, dàn hàng ngang chạy lên và không
phát hiện ra phòng tuyến của địch.
MỘT TRẬN ĐÔI CÔNG
Mưa không đủ giải nhiệt nên trời hầm hập
nóng, vận động nhiều khát khô cả cổ! Chúng tôi đang chiếm lĩnh một khu rừng chuối,
khát quá, chúng tôi chặt những cây chuối non, ăn cái lõi của nó cho đã cơn
khát, bất chấp cái vị chát của nó. Thực ra nước trong bi đông còn chút đỉnh,
nhưng chúng tôi không dám uống hết phần nước trong ngày của mình, sợ hết nước sẽ
chết khát. Cơn mưa hồi nảy chẳng ra gì, chỉ làm ướt chút đỉnh những thân cây
chuối non bằng bắp chân mà chúng tôi đang ngã ra làm thịt.
Lại tiếp tục hành tiến, đến tối cả tiểu
đoàn dừng lại bên một con đường đất đỏ, ăn cơm vắt nghỉ qua đêm. Cầm nửa nắm
cơm vắt khô cứng trên tay, tôi thực sự không muốn ăn tí nào, bẻ bỏ cái vỏ cứng
của nó, tôi nhắm nháp cái ruột còn mềm mềm nhai cho qua bửa, rồi xung phong đi
lấy nước cho trung đội.
Đeo một xâu bi đông lủng lẳng bên hông,
tay xách súng, tôi và nhiều đồng chí nửa cùng kéo nhau đi lấy nước. Theo con đường
đất đỏ đi về phía sau, đi lâu lắm, mấy tiếng đồng hồ mới tới được một cái bàu
nước.
Chúng tôi đi ra giữa bàu, ngâm mình dưới
nước, vừa nhận bình toong xuống lấy nước, vừa hụp mặt xuống uống nước, vừa ngâm
mình vào nước mà nghe da thịt mình nở ra thấm từng giọt, từng giọt nước mát. Bù
lại mấy ngày hành quân mất nước thì nhiều mà chỉ được tiếp tế một ngày một bình
toong nước, chẳng đủ đâu vào đâu!
Đong đầy các bình toong và uống nước đã đời
rồi chúng tôi hăm hở trở về. Về đến nơi thì trời mờ sáng, chúng tôi lại chuẩn bị
lên đường đi đánh cái phum không tên.
Xế chiều hôm đó, trong cơn mưa nhẹ, tiểu
đoàn chúng tôi chiếm được mục tiêu của mình một cách dễ dàng, không cần phải nổ
súng... Địch đã nhường cho chúng tôi cái phum này và nó sẽ tặng lại cho chúng
tôi những loạt đạn cối và những trận tập kích dai dẳng... Chúng tôi đang đối diện
với một địch thủ quá sức lợi hại, nó đang chống lại chúng tôi bằng một cuộc chiến
tranh du kích, lấy ít đánh nhiều!
Đồng chí Ánh chính trị viên vừa bố trí đội
hình cho các trung đội phòng ngự xong, anh giữ lại tiểu đội 3 người của tôi để
làm công tác liên lạc (thay cho anh Tý liên lạc tử thương hôm qua), đồng thời
kiêm luôn công tác tiếp thương, tải đạn cho tuyến phòng thủ phía trên.
Ba trung đội dàn quân theo hình vòng cung
trong cánh rừng dày phía trước, đại đội bộ chiếm lĩnh một ụ mối lớn phía sau
các trung đội chừng mấy chục mét đường rừng dày đặc, tiếp sau là khẩu đội cối,
và sau nửa là tiểu đội của chúng tôi cũng nấp trong một ụ mối nhỏ có khoét sẳn
hố cá nhân dã chiến.
Ngồi trong hố nhỏ tôi đã chứng kiến tận mắt
trận đấu cối của đại đội tôi với kẻ địch trong cái phum không tên này... Đầu
tiên là các trung đội phía trên chạm súng mãnh liệt với địch, khẩu đội cối 60 của
đồng chí Đinh Văn được lệnh bắn, cối của anh bắn ra cấp tập nhưng trái được,
trái thất, có trái bay lẹt đẹt vì liều phóng bị ẩm, tôi thấy nó mới bay qua khỏi
ngọn cây thì hết tầm rớt lại xuống đất, may là không trúng đầu bộ binh... Trong
khi đó cối địch thì khác, thằng địch đã để cho chúng tôi chiếm lĩnh trận địa
đúng vào cái bẫy mà nó đã dành sẳn, nó đã kéo thước đo cự ly sẳn, bây giờ ta lọt
vô rồi thì nó xách cối ra nó bắn, nó
cũng chơi cối 60 như mình.
Loạt cối đầu tiên của nó giã trúng ngay
chóc cái khẩu đội của đồng chí Văn, cả khẩu đội đều bị trúng mảnh, may mà không
có anh nào chết.
Khẩu đội cối của anh Văn im tiếng rồi mà
nó vẫn còn toong, và tôi thấy rõ cái ụ mối của đồng chí Ánh cùng với anh lính
thông tin bộ đàm đang bị nó dộng cối nẩy cà tưng, cà tưng... từng phát cối chắc
nịch dộng vào cái ụ mối nổ oành, oành... Hôm đó đồng chí Ánh và anh thông tin
được thần Dớt che chở nên không ai trúng cái mảnh cối nào, quả là phước lớn, mạng
lớn. Tôi cũng được thần Dớt che chở, không trái cối nào kiếm cái ụ mối nhỏ nhoi
của tôi mà nện.
MỘT TRẬN TẬP KÍCH
Tiểu đội 3 người của chúng tôi chạy như
con thoi từ đại đội xuống các trung đội, đồng chí Ánh luôn miệng nhắc nhở tiết
kiệm đạn, còn các trung đội thì cứ kêu thêm đạn.
Ngưng tiếng súng thì chúng tôi chạy lên tiếp
đạn, thằng địch phía trước thỉnh thoảng lại nổ súng tấn công vào các trung đội
của chúng tôi phía trên... Đêm đó tuy hai bên không đấu súng với nhau, nhưng
chiến sự căng như sợi dây đàn, hai phe ghìm nhau, trắng đêm.
Tình hình hôm sau cũng như vậy, địch ở
ngoài bắn vô, ta ở trong bắn ra, dai dẳng, tốn kém đạn dược không biết bao
nhiêu mà kể. Tiểu đoàn tải đạn lên không kịp, chúng tôi phải chạy về tiểu đoàn
bộ đóng trong cái phum chúng tôi vừa chiếm
được để lấy thêm đạn về cung cấp cho các trung đội phía trên.
Đánh hoài coi bộ mệt, tối đó thằng Pôn Pốt
ngưng bắn, tôi mệt quá, hết phiên gát, ngã lưng ra nằm trên công sự lộ thiên lấp
xấp nước, mang cả giày, quấn nylon đội mưa mà ngũ, như chết... Không biết các
trung đội phía trước có ngũ được không, hay phải lỏ mắt canh gát suốt đêm.
Rồi tình hình bắt đầu yên tỉnh, sáng hôm
sau đồng chí Ánh kêu chúng tôi lên đào công sự chiến đấu trên một ụ mối tiếp
giáp giữa 2 trung đội, chúng tôi tuân lệnh, vác AK đi... Đang đào, thì tôi nghe
tiếng chạm súng kịch liệt ở hướng sau lưng mình, rồi tôi thấy đồng chí Ánh chạy
lên, mặt cắt không còn chút máu kêu B9 xuống cứu nguy đại đội! Anh Thạch cùng
chúng tôi xách súng chạy xuống, đến đại đội bộ thì thằng địch đã bỏ chạy.
Đến hầm ban chỉ huy đại đội, tôi thấy một
cái xác chết gục trên miệng hầm chữ U, nóc hầm xổ ra một đống óc bầy nhầy như
tàu hủ. Phải... giống như tàu hủ, đây là
lần đầu tiên tôi nhìn thấy óc người nên ấn tượng rất sâu đậm!
Tôi chưng hửng:
- Ai vậy cà?
Anh Thạch nhìn ra ngay:
- Thằng Thảo chứ ai.
Trận này đại đội phó Ma Văn Thảo anh dũng
hy sinh ngay trận địa, với vết thương khủng khiếp, văng mất đỉnh đầu và phọt óc
ngay trên nóc công sự.
Tôi và anh Thạch khiêng xác anh Thảo ra đặt
nằm trên mặt đất, rồi chui xuống hầm kéo anh Cường y tá đại đội lên... anh đang
kêu la thảm thiết vì vết thương quá nặng!
Thằng Pôn Pốt đã quăng một trái lựu đạn
vào hầm làm cánh tay phải của anh đứt tiện lòi xương, còn chân thì gãy lặt
lìa... Chúng tôi lôi anh lên, đặt anh nằm yên trên mặt đất, kéo cái chân gãy
xuôi theo đúng tư thế anh nằm. Anh đang dãy chết, tay phải của anh bị mảnh lựu
đạn tiện đứt ngang, tuốt thịt gần tới khủy, trơ ra hai cẳng xương cánh tay một
lớn một nhỏ đang co giật nhấp nhấp, như níu kéo một cái gì... Cái túi thuốc y
tá cứu thương của anh luôn mang bên mình đã bị thằng Pôn Pốt giật mất!
Chúng tôi đang chiếm giữ cái phum của thằng
Pôn Pốt bỏ. Nó thuộc lòng nằm lòng địa hình, nó cho một tốp lính nhỏ, vận động
xuyên qua khoảng hở chổ tiếp giáp giữa hai đại đội. Rồi nó thọc sâu vào đại đội
bộ của C13, nơi đồng chí Thảo đang trấn giữ, chỉ một mình đồng chí đứng trong
công sự, làm sao chống nổi hỏa lực một tốp lính thiện chiến.
Chúng tôi đang chiến đấu với một đội quân
thiện chiến của Khơme đỏ, không ô hợp như cái đám lính Pa-ra ở hướng Bắc Nimith
đâu! Tụi này ăn miếng trả miếng với chúng tôi sòng phẳng và đang chiếm thế thượng
phong vì địa lợi. Chúng tôi đang bất lợi hoàn toàn, ngay cả cái phum này không
ai biết tên của nó là gì, gọi nó là phum không tên!
Rồi thằng Pôn Pốt không tập kích chúng tôi
nửa, thấy tình hình yên tỉnh, đồng chí Ánh kéo chúng tôi luồn ra phía trước xem
xét địch tình. Địch đã ra đi, để lại những hố cá nhân đối diện tuyến phòng thủ của chúng tôi.
Chúng tôi cũng rời bỏ cái phum đó đi luôn,
một đi không trở lại. Trận này chúng tôi tổn thất nặng, chỉ riêng đại đội bộ hy
sinh 3 và bị thương nguyên khẩu đội cối. Xong trận, toàn khối đại đội bộ chỉ
còn trơ trọi duy nhất một đồng chí Ánh chính trị viên.
MỘT CHỨNG NHÂN LỊCH SỬ
Giống như mọi chuyến hành quân từ Cao
Mê-lai trở về, chúng tôi lại tấp vô con voi, hạ vũ khí nghĩ mệt, anh nào có đồng
hương quanh đó thì tấp vô kiếm đồng hương - đồng khói. Riêng tôi, tôi đứng đó,
tại bức tượng con voi, sờ mình voi, vỗ đít voi rất đổi thân tình, con voi này
lúc đó dân dã lắm, đen thui, mốc thích, xù xì, quạu quọ... rất hạp với mấy thằng
lính chúng tôi, đầu bù tóc rối, thất tha thất thểu, ngồi núp nắng dưới bóng con
voi, rồi lại hò nhau đi về, để lại con voi bê tông... trơ gan cùng tuế nguyệt.
Chào voi, tao sẽ trở lại thăm mày. Mày lúc
này ấm rồi, được o bế, sơn phết để làm du lịch, có nhớ mấy thằng bạn Việt Nam
thưở hàn vi vẫn thường hay ngồi mình voi và vuốt... đuôi voi không?
Bạn bè thưở xa xưa lâu ngày gặp nhau mới
quí, chúng tao sẽ lặn lội đường xa về thăm mầy, chắc là mày mừng lắm! Hôm qua
nhờ bác bichuoi gởi hình lên mạng mà tao thấy lại mặt mầy, tao cảm động lắm, phải
chi mà mày đen thui mốc thích như ngày xưa thì chắc là tao khóc rồi... vì nó gợi
lại nổi niềm gian khổ lúc xa xưa của chúng tao với mày, mày đã bỏ Phnom Melai
mà đi, trong khi đó chúng tao lại phải đâm đầu vào, mày biết hết, mày là chứng
nhân lịch sử mà! Mày phải thương tao, cũng như tao đã thương mày. Mày là linh vật,
chúng tao nói ngoa cho mày bẻ cổ.
Nói thật, tao vẫn thích mày đen thủi, đen
thui, xù xì, ốc mít như xưa, vì mày là voi rừng Phnom Melai mà, đâu phải voi kiểng
trong sở thú.
Mấy thằng chủ sau này của mày hình như
đánh giá trị tinh thần của mày thấp quá!
Hồi thứ 19. TAKUNG KRAO
Sau trận phum không tên, tiểu đoàn trở về
Don Thomo làm công tác cũng cố và huấn
luyện quân sự hàng năm theo chương trình của Bộ quốc phòng, thời gian này không
có những cuộc đụng độ quân sự nào đáng kể. Tháng 8/1981 tôi nhận quyết định bổ
nhiệm chức vụ trung đội phó, cũng trong thời điểm đó chúng tôi lại kéo nhau đi
đánh Tà-cuông Krao.
Tiểu đoàn xuất kích lần này có một đại đội
quân K (chúng tôi gọi là lính Hunsen, do trung đoàn đào tạo) phối thuộc với
chúng tôi. Lần xuất quân này không phải mang vác nặng vì chúng tôi được cấp
phát cơm sấy mang theo ăn đường. Tà-cuông Krao là chổ quen biết cũ, nhiều duyên
nợ với tiểu đoàn 3 từ năm 1980, nay chúng tôi nhận được tin Pôn Pốt chiếm Tà-cuông
nên kéo quân đi đánh.
Chúng tôi cắt rừng, lội nước bì bõm trên
những cánh đồng rộng lớn, hoang hóa của đồng bằng Battambang để tiến vào
Tà-cuông. Xế trưa hôm đó, cái mục tiêu tấn công hiện ra ngay phía trước, chúng
tôi dàn hàng ngang tiến vào... Có tiếng nổ súng, ngay lập tức cả tiểu đoàn hô
xung phong, trọng liên 12 ly 8 đi theo đại đội chúng tôi lập tức triển khai bắn
chéo cánh sẻ yểm trợ cho chúng tôi băng băng từ đồng ruộng lao vào, khí thế
hung hãn.
Mỗi khi chúng ta hô xung phong, theo tiếng
gọi bầy đàn, cả một đoàn quân cùng hô đáp ứng, tạo khí thế cho chúng tôi xông
pha mãnh liệt, súng nẩy trong tay, lửa đạn khạt ra, mồ hôi dầm dề, chân chạy
băng băng, tiến lên phía trước... Đến một bờ ruộng có thể núp được, chúng tôi dừng
lại thay băng đạn, thở muốn đứt hơi. Chúng tôi điều hòa nhịp thở, rồi lại tiếp
tục hò nhau xung phong, tiếp tục chạy tới, thở hào hển trên chiến trường, hít lấy
mùi cay nồng của thuốc súng, rồi như say máu lại hô xung phong, chạy lên phía
trước, bắn găm, bắn gần, chiếm lĩnh trận địa... Với khí thế như vậy, chúng tôi
giải quyết xong trận đánh chỉ trong vòng năm phút, đám lính Pôn Pốt giữ
Tà-cuông yếu thế bỏ chạy.
Hoàn thành nhiệm vụ, tiểu đoàn được lệnh
rút quân, ra khỏi Tà-cuông một đoạn thì thằng Pôn Pốt nổ súng bắn đuổi vào đội
hình, nhưng đạn ăn lên trời nên chẳng chết ai.
Đang giữa mùa mưa, nước mênh mông trên cái
đồng bằng rộng lớn này, hoàn toàn không có chổ để ngồi nghỉ. Chúng tôi phải đi
liên tục, trời đã về chiều, anh nào đói thì moi cơm sấy ra nhai, uống nước sống
trừ bửa.
Phải đến tối, mới đến một địa hình có thể
nghỉ, chúng tôi trải nylon ra ụ mối mà trú qua đêm hôm đó. Nằm ụ mối rất khó
ngũ, độ dốc làm chúng tôi cứ bị tụt xuống. Tụt xuống đến khi chạm nước lạnh
chân thì tự động trồi lên, vậy mà ngũ cũng được. Cái ưu việt của sức trẻ là dễ
ăn, dễ ngũ, sức đề kháng tốt, không đau lưng, nhức mõi.
Chúng tôi đi xa vác nặng, đổ nhiều mồ hôi
nên phải uống bù nước. Mùa mưa trên đường hành quân nước có sẳn dưới chân. Khát
thì cứ lấy nón cối, bước ra vài bước, lựa chổ nước trong, múc một nón uống tại
trận, rồi đi tiếp, không biết đau bụng, ỉa chảy là gì? Bây giờ tuổi bắt đầu
cao, sức bắt đầu yếu, uống nước nấu không chín là muốn có chuyện rồi, chưa kể
phong thấp, nhức mõi tay chân, đau lưng, đau bao tử...
Sáng sớm hôm sau chúng tôi đi tiếp, càng
ra đến gần Cốp-tút thì địa hình càng cao, có những đoạn chúng tôi đi thong
dong, nước ngang đầu gối. Không như chiều hôm qua, khi ra khỏi Tà-cuông nước
sâu ngang hông, có chổ ngang ngực. Chúng tôi cứ gióng la bàn cắt đường mà đi,
không theo lối mòn, sợ mìn Pôn Pốt.
Vậy mà không thoát, vào đến Cốp-tút, chúng
tôi đang đi phía trước, chợt nghe ành một tiếng khô khốc ở phía sau... một anh
lính Campuchia đã dẫm phải một trái mìn đạp nổ.
Đây là mìn K58 do Trung quốc chế tạo, nó lớn
hơn hộp hồ dán giấy của học trò một chút. Tiếng nổ đanh gọn, uy lực không cao
(nguời nào đạp người đó chịu) nhưng tác
hại thì lớn, Việt Nam mình sau này có nhiều anh thương binh cụt chân, chống tó
là tại cái mìn này.
Anh lính Campuchia đạp phải mìn, cái mu
giày của anh bay lên trời ngay, nhìn lên cây... tôi thấy cái mu giày của anh
đang máng trên cành, ở độ cao chừng 3m.
Do đại đội lính K này là con đẻ của trung
đoàn, nên hôm đó chúng tôi được điều xe lên ngã ba Cốp-tut lần lượt chở quân về
nhà.
Mấy ngày sau lên trận địa pháo 105 (nằm gần
trung đoàn bộ ở phum Diêng) thăm đồng hương Bình Thạnh, anh bạn pháo binh tên
Tâm cho biết, sau cuộc hành quân đạp mìn này, lính K dông tuốt... chỉ còn lại mỗi
bộ khung của đại đội.
Tôi nói ra điều này để những người ngoài
cuộc biết tại sao quân tình nguyện Việt
Nam phải ở lại Campuchia mãi đến cuối năm 1989 mới rút hết về nước được... Vì
lính nghĩa vụ của chính phủ Campuchia những năm đó tinh thần chiến đấu kém,
không phải là đối thủ của tàn quân Pôn Pốt.
Nói là tàn quân, nhưng nhờ nhận được viện
trợ thường xuyên của quan thầy, nên nó hồi phục lại, cũng có quân chủ lực mặc đồ
bar-ba-din Trung quốc mới cáu, cũng có súng đạn, mìn trái đầy đủ, bày bố thiên
la địa võng, giăng bẫy mìn sẳn sàng tiêu diệt đối phương... Những bãi mìn mà
Pôn Pốt cài đặt đã gây tổn thất biết bao nhiêu nhân mạng của chúng tôi trong thời
điểm cuối chiến dịch C81.
Hồi thứ 20. CHIẾN DỊCH C81
CÔNG TÁC CHUẨN BỊ
Sau cái trận Takung Krao đó, chúng tôi trở
về Don Thomo được một thời gian ngắn, rồi lại có lệnh hành quân. Bấy giờ đang
là thời điểm giao nhau giữa hai mùa mưa nắng, mùa mưa 1981 đang kết thúc và mùa
khô 1982 đang đến. Chúng tôi lại đi về hướng Nam, vượt qua một con suối sâu, nước
cuồn cuộn. Tôi biết bơi chút đỉnh, nhưng chỉ là bơi trong hồ thôi, ra suối lớn nước
chảy xiết, tưởng bở tôi súng đeo vai, tay trái cầm bao nylon bọc ba lô quần áo,
tay phải quạt nước bơi qua suối. Vừa hụt tầm chân đứng, sức của nước đẩy tôi chới
với xuống hạ lưu liền. Nhìn về phía hạ lưu dòng chảy, tôi thấy rõ một hàng đăng
bằng tre, được giăng sẳn ngang dòng nước để bắt cá... đang chờ tôi.
Có hai anh lính đứng dọc theo đường dây
căng ngang suối (để bộ đội phăng theo dây đó mà lội qua) không anh nào với tới
tôi, dòng nước đang đẩy tôi xuống hạ nguồn, xuống cái hàng đăng đang chờ sẳn...
Bỗng dưng có bàn tay tay rắn chắc của một anh nào đó, đẩy tôi vào bờ .
Chúng tôi tập kết bên kia dòng chảy, vắt đồ
ướt, phơi phóng đồ đạc, nghỉ ngơi ăn uống.
Hôm đó, chúng tôi vào một điểm cách
Tà-cuông Krao khá xa để ém quân, ăn uống cực khổ, thiếu thốn đủ thứ, nhất là
thuốc hút. Được khoảng mười ngày thì lui quân về Don Thomo.
Sau này nghe anh em nói lại là do vướng
cái suối sâu chặn đường hành quân, nên mặt trận không triển khai chiến dịch vào
thời điểm đó được, tạm thời rút chúng tôi về.
Anh em nói sao biết vậy, chứ cái chiến dịch
này được giữ bí mật lắm, đến cấp đại đội không hề hay biết gì.
Hôm đó là ngày 25 tết, tôi nhớ rõ... Vì
hôm đó tôi dắt trung đội đi truy quét trước đội hình đóng quân của tiểu đoàn ở
Don Thomo, cùng đi với chúng tôi có anh Dũng đại đội phó đi kèm. Đến trưa chúng
tôi về đến nhà thì cả tiểu đoàn đã đột ngột kéo quân vào Cốp-tút rồi, hậu cứ chỉ
còn lại mấy bệnh binh mất sức ở lại trông coi.
Chúng tôi vào Cốp-tút, thì tiểu đoàn đã
vào Tà-cuông. Hôm sau, chúng tôi vào Tà-cuông thì tiểu đoàn đã đi vào rừng rồi.
Chúng tôi quanh quẩn ở Tà-cuông đợi lệnh,
ra hồ Tà-cuông rửa ráy và đong nước vào bình toong, nước hồ vào mùa lạnh trong
veo, từng đàn đĩa nghe hơi người lội tới lúc nhúc, kiểu bơi của chúng hệt như
kiểu bơi của người nhái mà ta thấy trong phim...
Rửa mặt, đong nước bình xong xuôi, chúng
tôi tà tà đi qua một căn lều trại dã chiến, đứng lại nhìn vào thì thấy mấy ông
tướng tá mặt trận 479 đứng vây quanh bản đồ, chỉ trỏ, bàn luận hội ý ở đây. Vệ
binh mang súng kè kè đứng gác xung quanh, dòm dòm, ngó ngó chúng tôi, chúng tôi
thấy không tiện đứng đó lâu, làm ảnh hưởng kế hoạch hành quân của các xếp nên
kéo nhau đi mà bàn tán rằng chuẩn bị có đánh lớn đây... Thực sự đến lúc đó
chúng tôi cũng chưa biết là mình đang tham gia chiến dịch C81.
Trưa 27 tết chúng tôi bắt kịp tiểu đoàn của
mình, anh em đang đong nước vào bi-đông và tất cả cái gì... có thể đựng được nước
để ra trận.
Cả tiểu đoàn hành quân vào trận với súng đạn,
gạo và nước rất nặng nề, chúng tôi mang theo nước uống rất nhiều. Bởi vì chúng
tôi đang vào Nam Cao Mê-lai giữa cao điểm mùa khô khốc liệt.
Ở đây chỉ có hai mùa
Nắng không có nước, còn mưa rừng lầy...
Những câu thơ của đại tá Văn Lê, nhà văn
quân đội rất đúng với hoàn cảnh của chúng tôi lúc này.
VÀO TRẬN ĐÁNH
Đường vào trận vậy mà lại... đẹp!
Chúng tôi đang đi trên một con đường đất đỏ,
sạch sẽ tinh tươm, không dấu chân người, không vết bánh xe, không bụi bặm. Những
hàng tre hai bên đường đan lại với nhau thành vòm che nắng chúng tôi, bóng nắng
chiếu qua vòm lá thành những hình rằn ri trên áo lính bạc màu sương gió.
Hết rừng tre chúng tôi bước vào rừng dầu,
tiếng ve rừng rền vang trong tiết trời cuối đông mát mẻ. Tiếng ve rừng kêu lúc
liên tu bất tận, lúc im lặng nín thinh, dường như đang tuân theo sự chỉ huy của
một vị nhạc trưởng quyền uy tột đỉnh.
Dừng chân trong lòng một con suối cạn,
chúng tôi ngồi đó nghe tiếng máy thông tin vô tuyến điện rè rè liên lạc về sở
chỉ huy chiến dịch đóng ở Tà-cuông Krao: A lô, a lô, hai không một, hai không một...
Sáng 28 tết, cơn sốt rét đầu tiên trong đời
lính quật đổ tôi trên con suối cạn Nam Mê-lai. Tôi nằm run rẩy trong lòng con
suối đầy sỏi đá, nước mắt tự động ứa ra...
Cơn sốt đầu tiên đi qua rất mau, rồi chúng
tôi dàn quân vào trận đánh.
Cũng như bất kỳ cuộc tấn công nào, chúng
tôi bình tỉnh đợi hiệu lệnh tấn công.
Hiệu lệnh tấn công luôn luôn bắt đầu bằng
pháo lệnh.
Căn cứ vào điểm nổ của loạt đạn pháo,
chúng tôi dàn hàng ngang tiến vào trận địa.
Chúng tôi chỉ nổ súng và hô xung phong khi
nào thấy địch, thường thì địch bắn trước, vì nó yên, ta động, nên nó phát hiện
ra ta trước.
Trận này chúng tôi không thấy địch nên
không phải bắn và cũng chẳng phải hô xung phong...
Đám lính Pôn Pốt đã bỏ căn cứ mà tháo chạy
ngay sau loạt pháo đầu tiên.
Trung đội chúng tôi từ dưới suối xông lên
và đặt chân lên căn cứ địch, không nổ súng và không đổ máu. Cái chúng tôi thu được đầu tiên trên
căn cứ này là quả mìn định hướng ĐH 10, nó gióng vào hướng bờ suối, ngay chổ
trung đội chúng tôi mới từ đó xông lên.
Nhìn quả mìn, tôi thầm nghĩ may mà địch chạy,
nếu nó tử thủ ở đây chắc chắn chúng tôi đã
thương vong nặng từ quả ĐH này.
Phía sau quả ĐH là lán trại của bọn lính,
chúng tôi thu được những bó cải khô, đây là một loại cải giống như cải ngọt bên
mình, nhưng nấu canh ăn hơi the the. Những bó cải này được lính Pốt tăng gia sản
xuất trong mùa mưa và phơi khô để ăn dần.
Chúng tôi chốt giữ cái căn cứ này suốt mấy
ngày tết. Lính công binh C18 tiến hành đào giếng và chúng tôi thu được một loại
nước trắng nhờ nhờ như nước vo gạo. Nhờ vậy mà chúng tôi có nước nấu cơm và nấu
canh với cái đám cải khô thu được của lính Pốt.
Đại đội 13 được bố trí nằm ven trục lộ đất
đỏ, đây là con đường mà chúng tôi đã theo nó xuất kích hôm nọ, tới đây nó vẫn
còn chạy tiếp và đến một nơi nào đó tôi hoàn toàn không rõ.
Chúng tôi bảo vệ tuyến đường này và hàng
ngày có nhiệm vụ đi thông đường lên phía trước để bắt liên lạc với một lực lượng
ở phía trên, không biết đơn vị nào, nhưng chắc chắn không phải là trung đoàn 4,
vì tiểu đoàn 3 là đơn vị phát triển lên cao nhất trong đội hình trung đoàn .
Tôi chỉ nhớ rằng cứ mỗi lần có tăng từ
phía trên đi xuống thì tôi nghe tiếng súng họ bắn rất dữ dội vào hai bên rừng.
Có một lần đi thông lộ lên phía trên bắt liên lạc được với họ rồi, lúc về ngồi
trên thiết giáp M113, họ đi đội hình hai chiếc, không hiểu tại sao đại liên
trên tăng vẫn cứ bắn xối xả vào hai bên rừng. Làm như vậy chắc là để trấn áp
lính Pốt, không cho nó tiếp cận xạ kích chăng? Đã có một xe vận tải hậu cần bị
lính Pốt phục kích bắn trúng, tài xế ráng chạy thoát thân về tới đội hình chúng
tôi, sau đó anh này bị phẩu cắt mất một cái chân.
NAM CAO MÊ-LAI
Chiều mồng 3 tết, chúng tôi được lệnh rang
gạo để ăn đường, rồi hành quân truy quét suốt một loạt cao điểm dọc dãy Nam
Mê-lai.
Những ngọn núi trong dãy Nam Mê-lai không
cao, thường chỉ khoảng một hai trăm mét. Chúng tôi đi hàng dọc lên những cao điểm
có rừng cây thưa làm vật che khuất, lên đến đỉnh nhìn sang đất Thái thấy phía
dưới nhà ngói đỏ lô nhô, xe cộ di chuyển trên đường thảnh thơi, bình an vô sự.
Chúng tôi đang hành quân truy quét trên những
cao điểm thuộc phía Nam phnom Mê-lai, dọc
theo biên giới Thái Lan. Chúng tôi không xâm phạm vào lãnh thổ của người Thái
và hình như người Thái cũng không có động tịnh gì chứng tỏ họ biết chúng tôi
đang có mặt trên núi, đang nhìn ngó sang đất nước của họ. Đứng nhìn nhà cửa, xe
cộ của họ chạy trên đường, tự dưng tôi có ý nghĩ đứng trên trái núi này, chỉ cần
thả lỏng người, chạy một hơi là xuống đến đất Thái rồi, bên đó không có mìn,
không có giặc, chỉ có nhà tường ngói đỏ, có xe chạy ung dung trong cảnh thanh
bình, tự nhiên chạnh lòng tự nghĩ ở Việt Nam mình lúc này cũng còn đang tết.
Cái tết âm lịch của người Việt xa xứ rất
thiêng liêng, những ngày đầu tham gia chiến dịch C81 tôi chỉ lấy chuẩn thời
gian là những ngày giáp tết năm đó: 25 hành quân, 28 chiếm cứ địch, mùng 3 khởi
hành đi truy quét Nam cao Mê-lai, qua rằm lại tiếp tục đi đánh cứ...
Trong thời gian này, mỗi ngày chúng tôi được
tiếp tế một vắt cơm và uống mỗi ngày một bi đông nước. Cơm và nước được vận tải
từ trên lưng của bộ đội vượt núi băng rừng tới đây tiếp tế cho chúng tôi.
Hành quân dài ngày trong chốn sơn lam chướng
khí này, quân số hao hụt rất nhanh, lúc này trung đội của tôi chỉ còn 4 người.
Một sáng sớm, trên một cao điểm nọ, chúng
tôi đang hội quân và ngồi rải rác ở tiểu đoàn bộ chờ nhận nhiệm vụ tiếp theo
trong ngày. Đài thông tin vô tuyến điện đang rà sóng liên lạc với sở chỉ huy tiền
phương theo giờ hẹn định kỳ.
Chúng tôi đang yên lặng chờ nghe tin từ
cái đài vô tuyến nọ thì bỗng dưng nghe tiếng xoong nồi khua loảng xoảng dưới
chân, nghe rõ tiếng chửi thề:
- Chuây me à Duôn (Đ.M thằng Việt)
Chúng tôi biết rõ đó là mấy thằng Pôn Pốt
bị động ổ đang dời nhà đi chổ khác, tức mình nó vừa đi vừa chửi. Bình thường, nếu
đang là đội hình hành quân và đang sung sức (như thời kỳ ở Sophia) thì chỉ cần
hô một tiếng chúng tôi có thể đuổi theo truy kích tiêu diệt bọn này nhờ yếu tố
bất ngờ.
Nhưng lúc này đang ngồi chờ lệnh và đang
thiếu nước uống, thử hỏi chúng tôi thiết tha gì về chuyện đánh đấm nửa? Trong đầu
tôi còn nghĩ tới viễn cảnh nếu mình bị bao vây thì chắc là chết khát, vì đây là
đất địch, hậu phương ở rất xa, không thể nào chi viện kịp thời.
Tư tưởng lớn gặp nhau, chỉ huy của chúng
tôi có sạn trong đầu về chuyện binh đao... Việc ai người đó làm! Chúng tôi cứ
đi theo mệnh lệnh của cái đài vô tuyến mà mỗi lần đến giờ liên lạc, lính thông
tin phải đeo ăng-ten leo lên cây cắm để tăng độ cao, rồi mới rà được sóng.
Một buổi chiều chạng vạng nọ, trinh sát tiểu
đoàn đang cắt đường lên núi tìm chổ nghỉ thì đá phải mìn, tối đó chúng tôi qua
đại một quả núi kế chia đội hình ra kiếm chổ giăng võng nằm ngũ.
Rồi chúng tôi không đi lang thang vô định
theo cái đài vô tuyến nửa mà được cắm chốt
trên một quả núi lớn đủ sức chứa bảy, tám chục tay súng của tiểu đoàn... Vâng,
cả tiểu đoàn giờ chỉ còn bấy nhiêu đó quân.
Các đại đội bộ binh đóng ở lưng chừng núi,
đại đội 13 đóng kế bên trung đội ĐKZ của đại đội 14, phía dưới là tiểu đoàn bộ...
Đây là một ngọn núi đất đá xen kẻ, có nhiều tán cây lớn, lá rụng đầy. Có đêm tối
trời, nghe tiếng khua loảng xoảng, loạt xoạt, anh em bảo đó là tiếng lông nhím
va chạm nhau lúc chạy trên lá vàng khô.
Ở đây được một vài ngày thì thằng Pôn Pốt
biết, nó bắn pháo vào đội hình chúng tôi nhưng không trúng, rơi ra phía sau
lưng chúng tôi xa lắm. Tiểu đoàn hạ lệnh phản pháo, đứng gần đó tôi thấy rõ khẩu
ĐKZ 82 đặt trên vai chiến sĩ hỏa lực C14 gầm lên, bay ra phía trước hồi lâu mới
nổ.
Đấu pháo qua lại cho có, chứ thật ra làm
gì nhau: Cò ỉa miệng chai, dễ gì mà trúng.
VÀO TỌA ĐỘ CHẾT
Rồi một đêm nọ, vào khoảng nửa đêm về sáng,
từ cái núi đá có con nhím chạy loảng xoảng đó, chúng tôi xuất kích đánh một căn
cứ của địch. Cái cứ điểm này được chấm trên bản đồ hành quân chứ thực sự chưa
ai bước chân vào.
Nghe lính tráng nói với nhau, sở dĩ chúng
tôi có chiến dịch này là do vệ tinh trinh sát của Liên Xô phát hiện, họ thấy có căn cứ địch
trên dãy Nam Cao Mê-lai nên cung cấp thông tin cho ta, trinh sát ta phải luồn rừng
cả tháng trời để nắm địch... Đó là tin của lính, chúng tôi viết chuyện đời lính
nên nghe sao nói vậy! Sau này, tôi đọc quyển hồi ký viết về cuộc chiến tranh bắt
buộc của đại tá Nguyễn Văn Hồng (đăng trên quansuvn.net) thì biết rằng ông đã
phát hiện ra khu căn cứ này khi ngồi trên máy bay trực thăng. Thế mới biết,
thông tin của lính sáng tạo ra phong phú thật.
Kế hoạch tác chiến được vạch ra cho trận
đánh này là chúng tôi sẽ dùng mìn định hướng để thổi bay mìn của địch làm cửa mở
xung phong. Đơn giản như... đang giởn!
Tôi trung đội phó, phụ trách trung đội 4
người của mình, hỏa lực bao gồm 1 B40, một
trung liên RPD và hai cây AK, đi đầu đội hình hành quân của tiểu đoàn. Riêng
tôi, tôi đeo thêm một quả mìn ĐH 10 (chiến
lợi phẩm thu được của Pôn Pốt) chúng tôi đi theo trinh sát tiểu đoàn tiến quân
vào trận địa.
Chúng tôi hành quân từ lúc nửa đêm dưới
ánh trăng trung tuần tháng giêng. Dù đi trong địa hình rừng núi, nhưng ánh
trăng vàng rực ấm áp hôm đó vẫn đủ sức chiếu sáng đường chúng tôi đi.
Khoảng 4 giờ sáng thì đến điểm. Đội hình
chiến đấu dừng lại chờ trinh sát mở đường thì mìn nổ. Không biết ai chết, nhưng
tôi biết có đồng chí Nghĩa, trung đội phó trinh sát tiểu đoàn bị thương, sau đó
được đưa lên cáng thương và đi tiếp.
Lần này, trinh sát mở đường từ hướng khác
thì mìn lại nổ tiếp, đồng chí Nghĩa lại bị thương tiếp lần thứ hai. Sau trận
đó, anh nổi tiếng khắp tiểu đoàn vì là người bị trúng mìn hai lần... mà không
chết. Anh này là dân Thủ Đức, nhập ngũ tháng 3/79, hồi ở phum Sophi tôi và anh
cùng trung đội của anh Thạch, tôi có nhắc tới anh trong câu chuyện nhỏ, bà mẹ
cô gái anh thích thường đùa với anh: Đưa me mười cây vàng me gã con gái cho. Số
bà này có con gái đẹp mà không được hưởng của, cô này do đẹp quá mà bị người
yêu... bắt làm vợ. Số là cô có quen một anh trong phum (tất nhiên là người
Campuchia), anh này không có mười cây vàng nộp cho bà già vợ, thế là anh và người
nhà của anh canh me cô này đi ra ngoài đường trùm bao bố lên người cô, vác cô
lên vai mang về làm vợ, tiền dâm hậu thú, ván đã đóng thuyền, thế là xong, thế
mới đểu, không biết anh Nghĩa có buồn không? Sao lúc đó tôi thấy anh vẫn tỉnh
bơ như không... Sau trận đó, do mất sức chiến đấu, anh được đồng chí tiểu đoàn
trưởng ưu ái phân công là trợ lý tác chiến kiêm trực ban chuyên nghiệp.
Từ ngày anh Nghĩa lên làm trực ban chuyên
nghiệp, cánh cán bộ trung đội chúng tôi khỏi phải mất công ăn cơm đại đội đánh
kẻng tiểu đoàn... Nói vậy chứ tôi thấy rõ tính ưu việt của chế độ cán bộ trung
đội trực ban tiểu đoàn và tuần tự như vậy mà lên cao hơn nửa, hoặc cán bộ tiểu
đội trực ban đại đội .v.v... Nó có cái hay là tập cho cán bộ cấp thấp quen dần
với công việc của cấp trên trong việc duy trì nề nếp sinh hoạt của đơn vị, để
sau này khi hữu sự có thể lên làm lãnh đạo mà đở bị bở ngở, vì đã được tập làm
chỉ huy từ trước.
Trinh sát tiểu đoàn chỉ còn duy nhất một
người là đồng chí tiểu đội trưởng Lê Văn Rô, nhập ngũ tháng 3/79, nhà ở phường
4, quận 1 (phường Tân Định bây giờ). Anh này tôi nhớ rõ vì chúng tôi có nhiều
duyên nợ trong trận đánh không... thành này!
Trời dần sáng, lần thứ ba trinh sát được
chỉ huy tiểu đoàn ra lệnh cắt rừng mở đường khác để đưa bộ binh vào trận, tôi
đang ở đầu hàng quân, thứ ba từ trên xuống, nghe rõ tiếng rừng núi chuyển mình
về sáng, nghe thấy đâu đây tiếng cười gằn của tử thần trong cánh rừng cây thâm
u trước mặt.
Và tôi thấy rõ đồng chí Rô mặt tái mét
đang từ dưới đi lên, anh xiểng niểng đi
ngang qua người tôi, tôi còn né người qua để nhường chổ cho anh bước tới. Mệnh
lệnh hành quân của cả một hệ thống quân giai đang ép lên anh, người lính trinh
sát cuối cùng!
NGƯỜI LÍNH TRINH SÁT CUỐI CÙNG
Chúng tôi đi rất chậm, cực kỳ cảnh giác,
thưa ra - cách nhau mười mét, là mệnh lệnh hành quân được nhắc đi nhắc lại từ
chỉ huy ở phía sau truyền lên phía trước.
Có dấu bẻ cò
Trinh sát Rô vừa cắt rừng vạch đường đi, vừa
báo về phía sau là anh phát hiện có dấu bẻ cò.
Đi trong rừng để đánh dấu đường đi, người
ta thường bẻ quặt một cành lá trên đường mình đi qua, cái dấu bẻ quặt đó cánh
lính chúng tôi gọi là dấu bẻ cò.
Có dấu bẻ cò
Tôi vừa truyền lại câu báo cáo đó ra phía
sau thì nghe bình một tiếng chát chúa, tôi nghe một luồng hơi nóng và lá cây
bay xạt qua rát mặt, hai chiến sĩ của trung đội đi phía trước bỏ chạy ngay ra
phía sau nói là bị thương.
Ngay lúc đó, đại đội phó Nông Tiến Dũng đi
lên kêu: Hùng lên phía trước xem sao? Tôi và anh thận trọng tiến lên phía trước.
Lê Văn Rô chết tức thì ngay sau tiếng nổ.
Nghe tiếng bình chát chúa, chúng tôi biết
chắc chắn là anh đã vướng mìn KP2.
KP2 là loại mìn vướng nổ do Trung quốc chế
tạo, mìn được gài bằng dây rừng hay dây gì bất kể miễn đồng màu với địa hình, hể
bị vướng thì cái dây đó kéo cái chốt an toàn ra, kim hỏa đập vào hạt nổ, hạt nổ
kích thích liều phóng, mìn phóng ra khỏi ống phóng, lên cao khoảng 1,2m thì
phát nổ.
Với tầm nổ này người bị vướng mìn chắc chắn vỡ tim, banh ruột chết ngay lập
tức. Mảnh của nó còn văng ra xa, bán kính sát thương dày đặc 10m, 20m tiếp theo
vẫn còn khả năng sát thương. Hai chiến sĩ trong đội của chúng tôi đã bị thương
kiểu như vậy, do chúng tôi duy trì tốt khoảng cách, nên hai anh này chỉ bị sây
sát chút đỉnh, y sĩ tiểu đoàn băng bó sơ qua rồi bắt ra trận tiếp, không được về
tuyến sau, vết thương ngoài da mà.
Trước mắt chúng tôi, anh Rô nằm bật ngửa,
ruột đổ xuống đất. Tôi hai tay hốt ruột của anh nhét lại vào trong bụng, ruột
đã đổ thì nó xổ và nở ra, nhét vào không hết. Tôi phải lấy cái nón cối của anh
úp lên chổ ruột còn nằm bên ngoài ổ bụng. Anh Dũng đi chặt cây làm cáng, chúng
tôi đặt anh vào võng thật gọn gàng, cột chặt dây võng vào cáng thương, để anh nằm
đó chờ lệnh.
LỐI VỀ ĐẤT MẸ
Đầu óc tôi ong ong vì hậu quả của tiếng nổ
và vì căng thẳng, lúc này cả trung đội chỉ còn tôi và một đồng chí hỏa lực RPD.
AK đi trước, hỏa lực đi sau là nguyên tắc hành quân trên chiến trường. Vậy nếu
đi tiếp thì tôi phải đi đầu đội hình, chết là cái chắc!
Tôi đang là cái mũi nhọn duy nhất trên đầu
mệnh lệnh hành quân của cả hệ thống quân giai. Tiểu đoàn chúng tôi đang chấp
hành mệnh lệnh hành quân của trung đoàn. Nhận lệnh của trung đoàn thì tiểu đoàn
lệnh xuống đại đội, đại đội lệnh xuống trung đội, trung đội không còn ai nhận lệnh
thì tôi phải trực tiếp thi hành cái mệnh lệnh đó... Đi tiếp chắc chắn là đá phải
mìn.
Cả trung đội trinh sát của tiểu đoàn 3 đã
bị thương vong sạch sẽ. Vậy ai cắt đường dẩn quân vào trận? Đây là tình huống
khó... Tất nhiên tình huống này theo hệ thống quân giai sẽ được báo cáo lên
trên và lên trên nửa để xử lý?
Thật lâu sau đó, chúng tôi được lệnh trở về
cái núi đá nơi mình xuất phát hồi nửa đêm... Tạm thời để lại cái căn cứ nằm
trong bãi mìn đó cho Pôn Pốt.
Không biết thằng Pôn Pốt trong cái căn cứ
đó có biết rằng những bãi mìn dày đặc của nó đã bẻ gãy một cuộc hành quân lớn của
Việt Nam và loại bỏ hoàn toàn một trung đội trinh sát ra ngoài vòng chiến đấu
không?
Chắc là thằng Pôn Pốt không biết. Nhưng
lính tiểu đoàn 3 tham gia chiến dịch năm đó thì nhớ mãi trận đánh bất thành
này.
Cuối tháng 4 năm 2005 tôi ngồi bên mộ phần
của Lê Văn Rô trong nghĩa trang liệt sĩ thành phố Hồ Chí Minh, thấy ghi ngày
tháng năm hy sinh của anh là 31/12/1982, ghi như vậy là không đúng! Anh Rô đã
hy sinh vào một buổi sáng sớm mùa xuân năm 1982, trong khoảng thời gian mới qua
rằm tháng giêng âm lịch được ít hôm, vì hôm xuất kích đó, trăng giữa đêm sáng lắm,
sáng mãi đến... sáng.
Trung đội 4 người của chúng tôi được phân
công mang xác anh Rô. Cả tiểu đoàn về tới núi đá thì trời đổ mưa, một cơn mưa đầu
năm bất chợt. Chúng tôi nhờ trận mưa này mà có nước uống giải khát, có nước nấu
cơm ăn bên cạnh cái xác của đồng đội mình và đêm đó chúng tôi đã ngũ ngay bên cạnh
cái xác lạnh của anh.
Nhờ uống nước cơn mưa trái mùa đó mà chúng
tôi phục hồi sức lực, hôm sau chúng tôi đủ sức cáng cái xác anh Rô đi đúng một
ngày đường rừng núi mấp mô để mang anh về tuyến sau làm hậu sự.
Xác của anh đã bốc mùi, chúng tôi chịu đựng
cái mùi đó của anh không ghê tởm, không oán trách. Tôi còn nhớ người anh nhỏ gọn
nên chúng tôi cáng anh không đến nổi è ạch lắm. Bước qua những gốc cây to đổ
trong rừng, võng anh trượt trên thân cây và rồi tiếp tục lắc lư trên vai chúng
tôi với cái mùi đặc trưng không lẩn đâu vào đâu được.
Trời chập tối chúng tôi mới ra tới đường
cái, đây là con đường đất đỏ mà chúng tôi thường đi tuần, con đường đã lấy đi của
anh lính lái xe một cái chân. Không biết cái anh thương binh cụt chân đó giờ
này ở đâu? Anh không biết tôi, nhưng tôi biết anh qua câu chuyện lính tráng
kháo nhau: Khi tỉnh dậy, anh đã tức tối - khóc lóc - kể lể như thế nào khi thấy
cái chân mình bị mất.
Chúng tôi ngồi nghỉ trong một cái chốt ven
đường đất đỏ của lính công binh, không biết có phải là công binh C18 trung đoàn
4 không? Điều này không quan trọng, nhưng cái tôi nhớ nhất là những chén trà và
điếu thuốc mà chúng tôi được thưởng thức trong cái chốt ven đường đó.
Cái tình cảm tương thân tương ái của những
người lính đối với nhau trên chiến trường tốt lắm. Anh lính đóng chốt luôn sẳn
sàng chia sẽ với anh lính ngoài mặt trận, sẳn sàng đãi anh những món ngon mình
có sẳn. Trà và thuốc, nhất là thuốc lá là món chúng tôi luôn luôn thiếu thốn,
luôn luôn thèm thuồng trong những chuyến hành quân xa.
Chúng tôi bàn giao cái xác của anh Rô để
tiếp tục chuyển về tuyến sau ngay tại cái chốt công binh đêm hôm đó.
NHỮNG CƠN SỐT RÉT
Chiến dịch chưa kết thúc, hôm sau chúng
tôi quay trở lại cái núi đá có con nhím chạy loảng xoảng chốt ở đó một thời
gian nửa rồi mới quay ra trở về cái căn cứ mà chúng tôi chiếm được hôm 28 tết.
Mấy ngày sau, từ cái căn cứ đó, chúng tôi
lại tiếp tục đi truy quét. Chúng tôi đi ngược lại con đường đất đỏ, trở về hướng
chúng tôi xuất phát hôm 27 tết.
Đi được một đoạn, tiểu đoàn dừng lại để
trinh sát cắt đường rẽ vào rừng thì tôi lên cơn sốt mê man, tiểu đoàn để tôi nằm
đó, vào rừng hành quân theo bản đồ tác chiến được giao. Tỉnh dậy, tôi quay trở
về cái căn cứ của mình, đi được một đoạn thì lên cơn sốt, tôi ngã ra nằm trên
con đường tôi vừa đi, trước khi mê man, tôi còn nhớ quay mũi súng về hướng đi của
mình để lúc tỉnh dậy đi tiếp.
Tỉnh dậy, dù đã cẩn thận quay mũi súng chỉ
đường, nhưng đầu óc tôi mê muội không biết hướng nào mà đi, tôi cứ đi đại, đi
mãi thì đến chổ ngã ba mà hồi sáng tôi nằm lại trước khi tiểu đoàn rẽ vào rừng.
Vậy là sai hướng rồi, uổng công tôi đi từ sáng đến giờ, mệt mõi và kiệt sức,
tôi bật ra mê man bên đường...
Chính cái sức trẻ đã cứu tôi, nó dựng tôi
dậy và đi một hơi trở về cái căn cứ của mình. Cái căn cứ mà chúng tôi chiếm được
hôm 28 tết, giờ đã là hậu cứ đông vui của cả trung đoàn 4.
Về đến hậu cứ thì trời đã về chiều, tôi
ghé vào chốt của trung đội vệ binh đóng ở đầu cứ uống nước, tôi được anh em cho
thuốc uống rồi tôi đi tiếp đến điểm đặt hậu cứ của tiểu đoàn, giăng võng dưới mấy
bụi tre bên bờ suối cạn, lăn ra ngũ mê man mấy ngày đêm liền, tôi còn nhớ đồng
chí Tý đại đội trưởng của tôi mới từ Việt Nam sang, lắc võng hỏi tôi cái gì đó,
tôi cũng mê man ú ớ trả lời cái gì đó, khi tỉnh dậy thì đồng chí đã đi chiến
trường rồi... Vậy mà sau đó tôi lại tỉnh dậy được, lại tiếp tục cùng tiểu đoàn
đi lùng sục Nam Cao Mê-lai nửa... Và căn bệnh sốt rét mãn tính lại quật ngã tôi
một lần nửa trên con đường hành quân liên tục của tiểu đoàn.
Bây giờ đang là tháng 3 năm 1982.
Có mùi cơm chín, hôi thật là hôi... Khi
anh bị sốt rét nặng, anh sẽ ngửi mùi thơm của cơm chín ra mùi hôi và tất nhiên
anh ăn không được!
Tôi cũng vậy, tôi ngã ra võng nằm tiếp!
Ngũ cho đã, cho qua cơn sốt thì bật dậy thu võng quay về hậu cứ.
Về đến hậu cứ trung đoàn, chúng tôi do bị
bỏ lại chiến trường, không có giấy giới thiệu của đơn vị chủ quản nên không được
nhập viện, đồng chí nào đó đã phát cho tôi một vốc thuốc lớn để dành uống trị bệnh.
NHỮNG NGÀY Ở SOPHI
Và với vốc thuốc đó trong túi, tôi tự động
trở về hậu phương của mình, hậu phương của tôi là nhà me Lênh ở tận phum Sophi
phía Bắc lộ 5... Không hiểu bằng cách nào mà tôi xoay xở về được tới phum Sophi
cách đó hơn 20 cây số trong điều kiện sức khỏe tồi tệ, sốt rét mãn tính, ngũ
mê, ngũ mệt.
Với vốc thuốc của đồng chí K23 tốt bụng
phát cho và sự tận tâm chăm sóc của me Lênh, tôi dần khỏi bệnh.
Phum Sophi lúc đó là đơn vị hành chánh cấp
xã, chính quyền mạnh, có chuyên gia kè cặp và lính tráng bảo vệ nên rất an
ninh. Tất cả bệnh binh và lính trốn trận đều lần lượt kéo nhau về đây nghĩ dưỡng.
Tôi có một anh bạn tên Hà Phước Tú nhập ngũ cùng đợt, làm phiên dịch cho chuyên
gia, anh nói với tôi là anh được chỉ thị phải ghi chép tên tuổi lính bỏ về đây
để sau này kỹ luật. Tôi nghe, nhưng mặc kệ, tôi không trốn trận, tôi bị bệnh bỏ
lại chiến trường, tôi về đây vì ở đây tôi có mẹ nuôi chăm sóc, cho tôi ăn uống...
Tôi nằm dưỡng bệnh tại nhà me Lênh với mấy
anh lính trẻ nửa, nhập ngũ sau tôi và không phải là lính tôi... Người đông, ăn
uống tốn kém, nhà me Lênh lại nghèo, tôi nghe cô cháu nội của me Lênh nói với mấy
anh lính trẻ là or ăng-co hốp (hết gạo ăn). Tôi nghe rõ câu nói đó, nhưng không
phản ứng gì, đến nay tôi vẫn còn ân hận về sự vô tâm của mình.
Mấy anh lính trẻ đó chắc chắn là nghe và
hiểu, rồi không biết có đi kiếm gạo cho me Lênh nấu không? Tôi bệnh hoạn nửa
mơ, nửa tỉnh, chỉ biết rằng tôi đã nằm an dưỡng ở nhà me Lênh rất lâu, chắc là
hơn nửa tháng trời và đến nay tôi vẫn còn ân hận gì đã kéo thêm lính về ăn tàn
ăn hại nhà me. Thực ra nếu hiểu đời, lúc đó
tôi có quyền đi kiếm hậu cần đòi tiêu chuẩn gạo của mình để mang về cho
mẹ nấu cơm.
Lúc đó tôi có nghe anh em nói phong thanh
là có cấp phát gạo cho lính nằm chờ đơn vị ở Sophi, nhưng tôi không biết là
mình có đi lãnh gạo mang về cho mẹ không? Chắc là không, nếu có thì tôi đã
không phải áy náy về cái câu or ăng-co hốp đó rồi!
Được tin đơn vị chuẩn bị trở về, chúng tôi
lại kéo nhau vào Tà-cuông Krao. Trước khi tôi về Tà-cuông, me Lênh đã tặng tôi
một tấm hình để làm kỹ niệm, đó là tấm ảnh me cạo đầu mặc bộ đồ nữ tu màu trắng.
Tôi giữ tấm ảnh đó cẩn thận, mãi đến năm 1996 nhà tôi bị cháy, cháy tiêu luôn tấm
ảnh, cùng tập nhật ký chiến sĩ, cả những tờ bằng khen của quân đội cấp cho tôi
cũng trở thành tro tàn.
Lúc me Lênh tặng tôi tấm ảnh, tôi không hề
nghĩ đó là lần gặp gỡ cuối cùng của hai mẹ con tôi, tôi sẽ không còn dịp gặp lại
mẹ! Nhưng mẹ là người già cả, mẹ hiểu, mẹ biết rằng tôi đã hoàn thành 3 năm
nghĩa vụ quân sự, chắc chắn là tới đây tôi sẽ về nước, khó có cơ hội gặp lại mẹ,
mẹ đã tặng tôi tấm ảnh để làm kỹ niệm, để còn nhớ mẹ.
Và tôi nhớ thật, nhớ mãi đến bây giờ. Cái
nhớ pha lẩn bức rức, tôi nghĩ rằng đến nay mẹ không còn nửa, hoặc nếu còn thì
cũng đã ngoài 90 rồi, tôi phải làm sao đây? Phải về thăm lại chiến trường xưa,
thăm lại mái nhà xưa của bà mẹ nuôi của mình, như vậy mới phải đạo làm người.
TÀN CHIẾN CUỘC
Về Tà-cuông Krao, chúng tôi nhận địa điểm
bố trí của đơn vị mình, đóng cọc, trãi tăng nylon ra làm vật chứa, rồi đi xách
nước trong hồ Tà-cuông đổ vào, chuẩn bị
sẳn sàng để anh em về nấu cơm, nấu nước phục vụ anh em.
Quân tiền tuyến trở về từng đoàn, từng
đoàn, nước hồ Ta-cuông cạn trơ đáy, bùn sình lầy lội nổi lên. Không đủ nước để
sử dụng, nhiều đơn vị phải cho xe tải lên phía trước chở nước về dùng. Thế là
có chuyện:
Chiều hôm đó, ra đường đất đỏ đứng ngóng
đơn vị của mình thì tôi thấy một xe chở nước trờ tới, xe này vừa bị lính Pốt phục
kích bắn B40, lái xe đã bình tỉnh chạy
thoát về Tà-cuông.
Tôi thấy rõ ràng, hai anh lính đứng trong
thùng xe tải, cong lưng, vận sức kéo từ phuy nước ra... một xác lính bị gãy gập
làm đôi và bị nhấn lọt thỏm vào phuy nước. Anh này đã lãnh nguyên một trái B40
vào người và sức đẩy của trái đạn này đã nhận thẳng cánh anh vào thùng phuy chứa
nước luôn (loại phuy xăng 220 lit).
Tổn thất nhân mạng của chiến dịch C81 tạm
gọi là kết thúc ở đây, sau cái chết của người chiến sĩ đi lấy nước lúc tàn chiến
cuộc!
Tiểu đoàn của chúng tôi cũng về Tà-cuông
Krao ngày hôm đó chỉ với mấy mươi tay súng tàn tạ vì thiếu ăn, thiếu uống, bệnh
hoạn!
Các đơn vị tham gia chiến dịch C81 lần lượt
rút khỏi Tà-cuông, riêng tiểu đoàn tôi thì còn nán lại tại đó một thời gian để
bảo vệ cái phum này.
Đầu mùa mưa 1982 Tà-cuông Krao đã trở
thành một căn cứ hậu cần lớn của trung đoàn 4... Trước đó, tôi thấy từng đoàn
xe tải lần lượt chở gạo, chở đạn đến chất đầy có ngọn trong chùa Tà-cuông,
riêng đạn được chất tràn cả ra khoảng đất trống phía sau chùa. Đợt vận tải kết
thúc thì mùa mưa 1982 cũng chính thức bắt đầu.
Hồi thứ 22: XÂY DỰNG CĂN CỨ HÀNH QUÂN
NĂM-SẤP
Đầu mùa mưa 1982 tiểu đoàn 3 lại được bố
trí về Sophia, xóm làng bây giờ hoàn toàn vắng lặng vì dân đã bị di dời ra hai
bên lộ 5. Đại đội bộ đóng gần hồ nước giữa phum, tôi còn nhớ mùa mưa năm đó, tại
cái hồ này chú Thái liên lạc bắt được một con cá lóc, nó đang lóc ngược giòng
nước chảy vào hồ, mới đầu mùa mưa mà cái hồ này đã đầy nước.
Thời gian này quân số đơn vị đã hồi phục lại,
mỗi trung đội được 7, 8 người. Trung đội của chúng tôi được bố trí ở phía đông
phum, trước mặt là một con mương nhỏ, bên kia là một cánh đồng rộng mênh mông,
trơ trọi vài cây độc mộc giữa đồng, chim trời về đậu trên những cành cây đó. Có
lúc rảnh rổi tôi xách súng đi bắn chim cải thiện, nhưng giữa đồng trống không
tiếp cận được nó, thấy tôi lội ruộng bì bỏm vào, nó đập cánh bay đi.
Giai đoạn này chúng tôi luyện tập chiến
thuật phòng ngự trận địa, vận động tấn công trên chiến trường từ cấp đại đội đến
cấp tiểu đoàn .v.v. Riêng khoa mục tiểu đoàn bộ binh vận động tấn công trên chiến
trường thì ban chỉ huy tiểu đoàn đích thân dàn quân diễn tập, có ban chỉ huy
trung đoàn xuống kiểm tra và đánh giá kết quả học tập. Việc huấn luyện này theo
tôi là rất quan trọng để cán bộ các cấp trong tiểu đoàn hiểu ý nhau hơn trong
phối hợp tác chiến và các xử lý tình huống xãy ra trong chiến đấu.
Giai đoạn cũng cố và huấn luyện mùa mưa
1982 trôi qua rất mau, giữa mùa mưa 1982 chúng tôi lại trở về Tà-cuông Krao với
nhiệm vụ mới nghe lần đầu là... xây dựng căn cứ hành quân.
Trở về Tà-cuông, thời gian đầu chúng tôi
ban đêm ngũ ở Tà-cuông, ban ngày kéo nhau vào Năm-sấp xây dựng căn cứ hành
quân. Trong thời gian này đơn vị tôi có nhiều thay đổi, anh Tý đại đội trưởng
được lên chức qua tiểu đoàn 1 làm tiểu đoàn phó, anh Nông Tiến Dũng lên làm quyền
đại đội trưởng, anh Thạch được điều qua tiểu đoàn 2 làm đại đội phó. Riêng
trung đội tôi, anh Thư trung đội trưởng (sĩ quan) đi phép về nắm lại trung đội,
anh là dân Củ Chi, giỏi nghề mây tre lá. Anh chỉ huy trung đội xây cất lán trại,
đan tranh lợp nhà, chẻ tre làm giường .v.v. Nhờ vậy chúng tôi tuy ở trong rừng sâu nhưng cơ sở vật chất tương đối đầy đủ,
tươm tất. Tôi lui về vị trí trung đội
phó của mình với tâm niệm cấp phó lúc có, lúc không. Đây là lúc tôi thảnh thơi,
tối tối nằm nghe mưa rơi tí tách trên mái lá, thỉnh thoảng đốt đèn dầu, nằm giường
tre viết thư gởi về nhà hoặc ghi hồi ký chơi.
Tôi đã từng dẩn trung đội vào rừng tuần
tra khu rừng rậm phía trước đội hình (tất nhiên là có trinh sát dẩn đường, vì rừng
rậm khó đi, không có la bàn thì lạc mất đường về). Phía trước đội hình đóng
quân của chúng tôi là rừng tre dày đặc, chen chân không lọt.
Với cái địa hình này không thể nào dàn
quân hàng ngang tấn công được, giỏi lắm là anh chỉ len lách được trong rừng tre
theo hàng dọc mà thôi... Vậy là êm, với cái rừng này lính Pôn Pốt khó mà làm gì
được chúng tôi.
Phía trước chúng tôi là rừng tre, còn chổ
chúng tôi đóng lại là rừng tạp, tức là có cây dầu, cây bằng lăng, cây tre, cây
mây, dây leo... đủ loại.
Lần đầu tiên tôi bứt cái dây mây, tôi nắm
nó mà kéo, cái võ lụa gai tua tủa của nó bị vướng vít trong cành lá nên tuột
ra, để lộ cái dây mây trắng ngà sạch đẹp. Khi tôi bứt dây, cả rừng cành lá phía
trên bị nó lôi theo mà chuyển động.
Người ta nói bứt dây động rừng là vì vậy.
Dây mây già tới tuổi rất dẻo dai, đu không
đứt, bứt không rời, chỉ có cách kéo dây xuống tới chừng nào căng quá thì thôi,
thì kê cái dây đó vô thân cây, lấy dao đi rừng phập một cái là xong.
Giữa mùa mưa năm 1982, chúng tôi có một đợt
bổ sung quân lớn. Đợt bổ sung quân này lấy lính từ miền Tây, quân khu 9. Đất miền
Tây dễ sống nên lính miền Tây hay trốn... Lính miền Tây trốn rất dữ, qua
Campuchia 10 em, cuối cùng chắc chỉ còn lại 7 em, còn 3 em chém vè về nước đủ
cách: trốn trên đường chuyển quân, trên đường
hành quân ra mặt trận, thậm chí vào tới tuyến đầu rồi... vẫn trốn.
Tiểu đoàn tôi phân công người đi đón tân
binh tới cấp trung đội, tức là mỗi trung đội có một anh tham gia đi nhận quân.
Chúng tôi đi Sisophon đón quân cẩn thận như vậy, đưa vào tới tận Tà-cuông Krao
an toàn rồi, cho các em ngũ đêm tại đó, vậy mà sáng hôm sau lại có thêm một số
em tự động rời bỏ chúng tôi... không một lời từ giả.
Tôi có một chuyện ở Tà-cuông xin nói luôn
ra đây cho đủ bộ: Chúng tôi đi nhận quân, cấp trên trực tiếp của chúng tôi thì
có anh Nông Tiến Dũng (trung đội trưởng lúc tôi mới vào đơn vị, nay anh quyền đại
đội trưởng). Đêm đó tại Tà-cuông, anh rủ tôi nằm võng nói chuyện, tôi căng võng
nằm bên cạnh anh... anh không dông dài gì cả, anh kêu tôi ở lại để chi bộ kết nạp
Đảng cho tôi. Tôi thành thật trả lời anh là tôi cám ơn anh, nhưng thôi, tôi muốn
ra quân, tôi muốn trở về Việt Nam.
Là người dân tộc chân chất, anh không nói
gì thêm và tôi cũng vậy! Về Việt Nam là niềm mong muốn tột cùng cháy bỏng trong
tâm khảm mỗi người lính chúng tôi, thực lòng anh cũng như tôi, ai cũng muốn về
Việt Nam cả! Anh thông cảm với tôi và không muốn lôi kéo tôi chi thêm vướng bận
ở cái đất nước... không phải của mình này.
Tôi lúc đó thực sự muốn trở về Việt Nam,
luật 3 năm nghĩa vụ quân sự đã có, tôi đã dư thời gian phục vụ trong quân đội,
còn chần chừ gì nửa mà không về? Tôi thực sự thương yêu và tự hào với màu áo
lính, tôi thích làm sĩ quan quân đội vì bản chất con người tôi luôn luôn muốn
ngoi lên phía trước, không bao giờ muốn dừng chân tại chổ. Nhưng tôi không thể
đánh đổi tất cả những cái đó bằng mạng sống của mình, nhất là tôi đang nhớ nhà,
kinh khủng... vì các đồng đội nhập ngũ 77, 78 đã và đang lần lượt phục viên trở
về địa phương.
Tôi
đã ba lần bị địch bắn vào người mà không chết, lần thứ nhất bị trúng một trái cối,
lần thứ hai trên đường đi lấy nước gần Phnom Melai bị Pôn Pốt bắn cho một loạt
đạn, lần thứ ba bị một viên đạn bắn tỉa tại Công-xi-lốp. Bất quá tam, đối diện
tử thần ba lần như vậy là đủ rồi, xin giã từ vũ khí...
Thực ra nguyên nhân sâu xa khiến tôi giã từ
vũ khí không phải vì ba lần chết hụt đó! Mà thú thật, cái tôi sợ nhất là mìn! Nếu
đánh trận tay đôi, thời điểm đó đám tàn quân Pôn Pốt không làm chúng tôi sợ,
nhưng còn mìn thì miễn bàn, nó giết người từ tốn, nhưng tốn hoài, chịu sao cho
thấu? Nhớ tới cái trận tôi chỉ huy trung đội đi đầu hàng quân, tận mắt chứng kiến
cảnh trung đội trinh sát ba lần tiến lên, ba lần đạp mìn, hy sinh đến anh trinh
sát cuối cùng thì quá đáng lắm rồi! Tôi không muốn hy sinh như vậy!
Sau này ra quân, đi làm kiếm tiền vất vả,
tôi vẫn thường nhớ tới thời kỳ đi lính tuy gian khổ nhưng oai hùng của mình,
tung hoành ngang dọc khắp chiến trường, đánh đuổi Pôn Pốt chạy cùng trời cuối đất,
được chỉ huy và đồng đội tin cậy, được nhân dân nước bạn thương yêu và đùm bọc...
Nếu địa điểm tôi và anh Dũng nằm võng tâm
sự trong cái đêm nhận quân đó xãy ra tại Việt Nam thì chắc chắn tôi sẽ ở lại để
vào Đảng và tất nhiên sẽ được thăng chức, thăng quân hàm sĩ quan phục vụ lâu
dài trong quân đội theo như đề bạt của đồng
chí chỉ huy trực tiếp của mình, người anh em - đồng chí - đồng đội của tôi từ
lúc tôi chân ướt, chân ráo bước chân vào đơn vị.
Lính miền Tây về bổ sung cho đơn vị tuy
hao hụt, dù dọt dọc đường vậy chứ vẫn còn đông. Trung đội tôi nhận được tới 6,
7 em. Nâng quân số trung đội lên trên 15 người. Người đông thế mạnh, chúng tôi
đóng thêm bàn ghế ngồi ăn uống đàng hoàng, hàng ngày phân công anh em vào rừng
đốn măng mang về cải thiện. Lính miền Tây sành việc ruộng đồng, đi rừng đốn
măng mỗi ngày mấy ba lô, luộc ăn không hết, chúng tôi ngâm chua để dành...
Những người lính mới bổ sung đợt này do đã
được tự động sàng lọc, anh nào không chấp nhận gian nan nguy hiểm thì đã trốn
chạy, anh nào xác định tốt tư tưởng ở lại quân đội thì nhiệt tình công tác, hòa
đồng mau, ý thức tự giác tốt. Làm chỉ huy cũng... khỏe, không phải hầm hừ kiểm
điểm lẩn nhau.
Cuối tháng 9/1982 tôi được phát lý lịch kê
khai để làm thủ tục ra quân, sau đó tôi được ở lại Tà-cuông Krao chờ ngày về.
Anh em tiểu đoàn 3 ở Năm-sắp lại được điều động lên phía trước tham gia với
công binh đi ngăn suối đắp đập chứa nước dự trữ
mùa khô.
Anh em hành quân lên phía trên, mùa khô
thiếu nước, tôi để cả cái bi đông nước nhiều kỷ niệm lại cho anh em, không còn
lại gì ngoài chăn màn trong ba lô và hai
bộ đồ dính da, võng cũng đã bỏ vì mục rách.
Tôi tay không qua Campuchia và cũng tay
không trở về Việt Nam, đó là hình ảnh chung nhất của những người lính tình nguyện
Việt Nam trở về sau khi hoàn thành nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia.
Hồi thứ 23: VỀ TỔ QUỐC
Ngày 10/10/1982 cầm quyết định phục viên
trong tay, chúng tôi những người lính trung đoàn 4 ra quân cùng đợt hăm hở tiến
ra ngã ba Cốp-tút chờ xe của trung đoàn đưa trở về Sisophon.
Chúng tôi ngủ một đêm ở Sisophon nghe lính
tráng tụ tập nhậu nhẹt ca hát ì xèo suốt đêm, đến sáng sớm được xe tải đưa về hồ
Ba-rai ở Xiêm Riệp giáp biển hồ. Chổ này gần chợ Xiêm Riệp, sáng hôm sau tôi đi
chợ Xiêm Riệp chơi, mua một xấp vải quần tây và vài cục xà bông tắm. Ra khỏi chợ
thì thấy anh em ngồi xe lôi kéo nhau đi thăm đền Ăng-co, tôi chạy theo nhưng
anh em xua tay: Đông quá rồi, xe chạy không nổi!
Quả thật là đông, không còn chổ nhét. Tôi
cũng không cố nhảy lên xe vì trong tay bận cầm xấp vải và mấy cục xà bông.
Về đến nhà tôi vẫn còn thấy tiếc bởi hụt
chuyến đi vừa rồi, luẩn quẩn ở trạm giao liên chờ đón mấy người bạn đi chơi trở
về. Tới xế chiều anh em về kể chuyện đi chơi Ăng-co, tôi đã tiếc lại càng thấy
tiếc!
Vậy là 4 năm ở Campuchia tôi chưa từng được
đi thăm đền Ăng-co lần nào!
Đợi ở hồ Ba-rai ít ngày để chờ tàu,
tôi nóng ruột về Việt Nam nên chẳng thiết
tha đi dạo chơi thăm thú cảnh vật quanh vùng, chỉ biết chắc rằng nơi đây thuộc
phạm vi Ăng-co rồi. Bấy giờ đang là thời chiến, lính Pốt vẫn còn ẩn náo đâu đây
chờ dịp ra tay đánh lén, do đó chúng tôi được khuyến cáo là không được đi đâu
xa. Đường bộ từ Xiêm Riệp về Việt Nam thỉnh thoảng lại bị phục kích nên chúng
tôi được đưa về bằng đường sông cho an toàn.
Rồi cũng đến ngày xuống tàu về Việt Nam,
chúng tôi đi trên tàu Hải quân có trang bị pháo cao xạ ở nóc ca bin tàu, tàu
tăng tốc ra khơi, chúng tôi đang đi giữa biển hồ. Cuối mùa mưa mặt nước hồ rộng
như biển, bởi vậy dân mình mới gọi nó là biển hồ, chúng tôi ngoài khơi, nhìn thấy
bờ bến mịt mùng, mông lung. Mãi đến quá trưa tàu mới vào sông Tôn-lê-sap, đến chiều
mới đến trạm giao liên nằm bên bờ sông Tôn-lê-sáp gần thành phố Phnôm Pênh.
Sáng hôm sau, từ Phnôm Pênh chúng tôi được
xe ca quân đội đưa về tới ngã tư Bảy Hiền thì trời đã tối, anh em tự động rã
ra, ai về nhà nấy. Tôi đi xe lam về tới chợ Bà Chiểu, xuống xe lội bộ về nhà.
Về đến nhà cô em gái út nhận không ra kêu:
Má ơi có chú bộ đội vào nhà, khi tôi đi bộ đội em mới 4 tuổi, nay lên 8 hoàn
toàn không nhớ mặt tôi.
Hồi thứ 24: LỜI KẾT
Những năm đó, lính Việt Nam đi đánh trận Campuchia trở về rất hụt hẩng, cảm thấy tự ti
mặc cảm hơn là danh dự tự hào, cảm nhận rõ ràng là mình bị tụt hậu, bị những
thanh niên cùng trang lứa qua mặt vì... mình ít học, không có chuyên môn nghiệp
vụ.
Cuộc sống thường dân sau những ngày mặc áo
lính không đơn giản, thời gian đầu chúng tôi thường xuyên qua lại thăm viếng lẩn
nhau, thông cảm với những khó khăn đời thường của nhau: anh làm bảo vệ, anh lao
động chân tay, có anh ngồi vĩa hè bán... trà đá.
Tôi học hành dang dở, nay lại phấn đấu
ngoi lên bằng con đường học vấn. Vừa làm vừa học, lấy bằng tốt nghiệp bổ túc
văn hóa cấp 3 xong, tôi ghi danh học trường đại học kinh tế lớp đêm, rồi lấy bằng
cử nhân kinh tế. Rồi đi lên bằng con đường sản xuất kinh doanh, làm ăn tuy kiếm
được nhiều tiền nhưng tôi luôn luôn bức bối, cảm thấy mình bị làm khó dễ từ những
quan chức nho nhỏ, công lao chẳng là gì so với những người lính đổ xương đổ máu
trên chiến trường!
Những ký ức về khoảng thời gian nằm trên
thảm hoa ngắm trời xanh, mây trắng ở chốn rừng xanh heo hút gần cái phum Prê-ao
vắng lặng luôn luôn là kỹ niệm đẹp... Luôn luôn thôi thúc tôi trở về với thiên
nhiên, nơi cội nguồn gốc rể con người, nó làm tôi quyết định về vườn khi tuổi
còn trẻ, nhưng tâm hồn thì hình như đang già cổi đi không sao cải thiện được!
Một thời gian khá lâu sau khi ra quân, các
người lính chúng tôi từ từ tụ hội lại, gặp nhau một năm hai lần thông qua ban
liên lạc cựu chiến binh trung đoàn 4. Cuối tháng tư hàng năm, chúng tôi vẫn thường
xuyên vào nghĩa trang liệt sĩ thành phố Hồ Chí Minh viếng thăm đồng đội, thắp
hương tưởng niệm các anh em đã hy sinh vì nghĩa lớn. Nhìn hàng hàng lớp lớp nấm
mồ qui tụ lại thành từng nhóm 6 cái , chúng tôi vẫn thường gọi vui là 6 em một
mâm, như mâm cơm ngày nào trong trường huấn luyện.
Nghĩa trang liệt sĩ thành phố không phân
biệt già trẻ, chỉ phân chia theo quê quán của người lính. Do đó các thế hệ liệt
sĩ chống Pháp, chống Mỹ, chiến trường Tây Nam nằm xen kẻ nhau một cách tự nhiên
và hợp lý, bởi nếu không có thế hệ đi trước nhiều kinh nghiệm kềm cặp thế hệ đi
sau trẻ khỏe thì chúng ta dựa vào đâu để đánh thắng kẻ thù?
Kẻ thù của chúng ta còn đó, ngoài biển...
Đang rất hung hăng và ngạo mạn!
Tại sao ta không cài thế để chống đở lại kẻ
thù ngoài biển, chúng ta có hiệp hội các nước Đông Nam Á, có các kẻ thù của kẻ
thù sẳn sàng tiếp sức ta đương đầu kẻ địch.
Cái anh ba Đại Hán hung hăng đòi mở rộng
lãnh thổ ra Nam Hải đang làm anh hai chướng mắt, anh cao bồi vùng Viễn Tây cũng
bực bội vì bị cản trở đường lui tới biển Đông của anh.
Trên bàn cờ biển Đông, cái cách hùng hục
đưa tốt qua sông như anh ba đang làm, chỉ tổ khiến người ta ghét thôi!
Chuyện binh đao không phải của riêng
mình... các vua Trần đã hoàn toàn có lý khi triệu tập hội nghị Diên Hồng hỏi
các bô lão và ba quân tướng sĩ: Giặc đến nhà nên hoà hay chiến?
Để bày tỏ lòng yêu nước và ý chí hào hùng
của cả dân tộc, ông cha ta kể lại câu chuyện cậu bé Trần Quốc Toản 16 tuổi bóp
nát trái cam trong tay thề: Phá cường địch báo hoàng ân.
Trong 3 lần đối đầu đó, quân ta đều thắng
và câu chuyện: Người lính già đầu bạc, nhắc mãi chuyện Nguyên phong... Luôn
luôn làm chúng ta cảm thấy tự hào. Theo tôi, nếu cần thiết thì chúng ta cũng
nên dựng tượng tôn thờ hình tượng người
lính già đầu bạc để nâng cao lòng yêu nước, ý chí tự hào dân tộc. Nếu cứ ép người
quá đáng như thế này thì chúng ta phải làm một cái gì đó để phản kháng chứ?
Mục đích tôi viết lên những mẫu chuyện này
nhằm ôn lại một thời ngang dọc của quân tình nguyện Việt Nam trên khắp đất nước
Campuchia, từ Nam lên Bắc, từ Đông sang Tây để đuổi tận, giết tuyệt một chế độ
diệt chủng kinh hoàng đã biến cả nước Campuchia thành một địa ngục trần gian
giai đoạn 1975-1979. Khi tôi viết chuyện, hình ảnh những anh em, đồng chí, đồng
đội đã hy sinh lần lượt trôi qua trước mắt tôi, như tiếp sức, như nhắn nhủ một
điều gì? Xin tặng những trang viết này cho các anh thay lời tưởng niệm.
Tôi còn chứng kiến, còn tiếp xúc, còn mang
vác nhiều thân xác liệt sĩ nửa, nhiều lắm, không kịp biết tên vì chỉ tình cờ gặp
nhau trên chiến trận... Cho tôi giành một phút để nhớ đến anh, một anh lính
trinh sát trung đoàn đã giãy chết trong cáng thương trên vai tôi (và anh Thạch)
trên con đường mòn Cao Mê Lai hiểm ác những năm 1980.
Tôi viết tập hồi ký này tuy chân thật và cảm
động nhưng chắc là không hay, vì tôi không phải là nhà văn, thậm chí chưa từng
qua một khóa huấn luyện sơ cấp nào về cách viết... Tuy nhiên giống như trong một
buổi tọa đàm, phải có người phát biểu trước để mở màn câu chuyện. Hy vọng sau
phát pháo đầu thô kệch này sẽ nổ ra những câu chuyện hay hơn về một thời chinh
chiến, một thời máu đổ từ giữa cuối những năm 1970 và kết thúc bằng hoa vào cuối
những năm 1980 khi toàn bộ quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia rút về nước.
Đọc xong quyển hồi ký này, thế nào cũng có
bạn đặt câu hỏi tại sao tôi chỉ đề cập đến những hy sinh, mất mát, sao không
nói đến những thắng lợi, dễ làm mất nhuệ khí quân mình. Xin thưa, tôi không có
số liệu thống kê, tôi không có thời gian đếm xác kẻ thù... Có những trận đánh
trên đường biên giới, chúng tôi đánh nhanh, thắng to, rút gọn nhưng thường thì
chúng tôi không được tham gia thu dọn chiến trường mà phải dàn quân chốt chặn đề
phòng địch phản kích... Đó là nhiệm vụ người lính, là kỹ luật chiến trường, nếu
anh nào cũng nhào vô đếm xác chết, thu đồ cổ, địch phản kích thì chắc chắn vỡ
trận.
Đối với người lính, những trận đánh nhiều
hy sinh, gian khổ thường làm chúng tôi nhớ sâu sắc, còn những trận thắng, nhất
là những trận đánh thắng quá nhanh, nhiều khi chúng tôi không kịp đưa vào bộ nhớ
và cho nó qua luôn. Lính mà, hình như không biết kể công mà thường là kể khổ.
Cuộc chiến đã đi qua ít nhất là 20 năm đối
với những cựu chiến binh thời kỳ ấy, đây cũng là thời gian tích lũy cần thiết để
một anh thanh niên trở thành một người tri thiên mệnh. Cùng với thời gian, những
tích lũy về văn hóa, về kinh nghiệm sống và nhất là với những trăn trở chín muồi
về một cuộc chiến đã đi qua, tôi tin rằng rồi đây sẽ có nhiều tác phẩm hay viết
về đề tài này.
Giữa mùa mưa 2009
Thượng sĩ Hùng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét