SƯ ĐOÀN 341
ĐOÀN BỘ BINH SÔNG LAM
Tranphu341, xin gủi tới các bạn tấm ảnh chụp năm 1980 tai H MUONGRUXAY, BATTAMBANG,
CAMPUCHIA
Sư đoàn 341 có mật danh là Đoàn Sông Lam, hay còn được gọi là Sư đoàn 1. Được thành lập
ngày 23/11/1972 khi mà cuôc chiến tranh giải phóng dân tộc, chống Mỹ cứu
nước đang trong những ngày tháng rực lửa nhất, sôi động nhất. Sư đoàn đươc
thành lâp tại Nam Đàn, Nghệ An quê hương Bác Hồ, nên đươc mang danh hiệu truyền
thống là Sư đoàn Sông Lam (dòng Sông Lam
quê Bác).
Sau thành lập F đứng chân ở Vĩnh Linh Quảng Trị và phía
Nam tỉnh Quảng Bình, với nhiệm vụ huấn luyện thành F chính quy, hiện đại bảo vệ
và sẵn sàng chiến đấu ở khu vực vĩ tuyến 17. Tháng 1/1975 được giao nhiệm vụ
vào chiến đấu tại chiến trường miền Đông Nam Bộ. Sau 15 ngày hành quân bằng xe
cơ giới tới địa bàn Lộc Ninh, Tây Ninh được sát nhập vào QĐ4. Không kịp tắm
rửa, nhiều đơn vị trong F thay chốt ngay cho F9, F7 và cùng các đơn vị trong QĐ
tham gia những trận đánh giải phóng Dầu Tiếng Thủ Dầu Một, Chơn Thành, Bình
Long. Chốt và đánh địch ở đường 13 Sông Bé. Đặc biệt là tham gia chiến đấu giải
phóng Xuân Lộc Long Khánh. Và là đơn vị đánh mở màn chiến dịch Hồ Chí Minh.
Chiến đấu giải phóng Trảng Bom, Hố Nai,
Biên Hòa và tiến công giải phóng Sài Gòn, cơ quan đầu não của chế độ ngụy quân
ngụy quyền tay sai đế quốc Mỹ.
Sau giải phóng, F được giao nhiệm vụ làm quân quản tại TP
Hồ Chí Minh, xây dựng chính quyền Cách mạng thanh lọc các phần tử phản động
trong chính quyền, giữ gìn ANTT xã hội, truy quét tàn quân địch và bọn phỉ Phun
Rô. vv...Khi chế độ quân quản được bãi miễn bàn giao cho chính quyền TP. F341
rút ra đóng quân tại Tổng kho Long Bình cán bộ chiến sỹ trong đơn vị nhận nhiệm
vụ đi xây dựng kinh tế mới.
Năm 1977 bè lũ phản động Pôn Pốt Iêng Xa Ri được quan
thầy xúi giục chúng cho quân lấn chiếm các đảo phía Nam của Tổ Quốc đặc biệt là
chúng lấn chiếm, cướp và giết hàng ngàn người dân vô tội một cách rất dã man
dọc biên giới Tây Nam như Xa Mát Thiện Ngôn Tây Ninh, Ba Chúc An Giang, Ấp Việt
Nam Hà Tiên Kiên Giang .....
Trước tình hình đó tháng 7 năm 1977 F341 điều động E270
xuống đánh địch ở thị xã Hà Tiên Kiến Giang. Tháng 9/1977 toàn F được nhận lại
vũ khí súng đạn ra biên giới Tây Ninh.
Tôi là lớp lính 1972 như đã giới thiệu bài viết trước
cũng được vinh dự tham gia đánh địch từ ngày đầu tiên đến ngày cuối cùng F341
rút về nước. Năm 1983 được ra quân với quân hàm trung úy về sinh sống ở tỉnh
Thái Bình. Qua đọc bài của các bạn viết về cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam
và làm nhiệm vụ Quốc tế bên đất K. Mình rất xúc động và cũng muốn kể lại với
các bạn về những năm tháng hào hùng đó của sư đoàn mình ngay từ những ngày đầu
tiên xảy ra cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam theo nhìn nhận và trực kiến của
mình. Vì thời gian đã quá dài lại không có nhật ký, chỉ là nhớ theo ký ức nên
có thể về ngày tháng, về tên các đồng đội, hoăc chinh xác các địa danh không
thể nhớ hết. Kính mong nhận được sự tham gia góp ý của các đồng đội. Xây dựng
topic này được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
HÀNH QUÂN RA BIÊN GIỚI
Sáng ngày 27/9/1977 sau cuộc họp chi bộ tiểu đoàn bộ, như
vậy là tôi được điều động về làm tiểu đội trưởng tiểu đội 7 đại đội 2 (Bài trước tôi viết nhầm là tiểu đội 10).
Đại đội mà trong chiến dịch HCM được phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ
trang. Tôi nhanh chóng nhận quân tư trang, súng đạn, tăng võng, lương khô. Mỗi
người được phổ biến chỉ mang theo 2 bộ quần áo và tư trang cần thiết còn lại
gửi ở Hậu cứ (vì đi có 15 ngày). Tôi
được cấp 1 khẩu AK với bao xe 3 băng đạn, 2 quả lựu đạn US của Mỹ, dao găm Liên
Xô, bình đựng nước và thắt lưng to bản vv....những thứ với mình đã quá quen
thuộc...
Đúng 21h đoàn xe Zin của đoàn 33 đến mỗi đại đội dồn lên
3 xe. Ban chỉ huy đại đội và hậu cần lên 1 xe, 2 xe còn lại là 3 trung đội và 2
tiểu đội Hỏa lực. Quân số biên chế lúc này khoảng hơn 80 người (hồi đi vào Nam quân số đủ là 115 người).
Có điều trùng lặp là tháng 1/1975 khi đang đóng quân tại Vĩnh Linh – Quảng Trị
được lệnh hành quân vào chiến trường (Miền đông Nam Bộ cũng đoàn 33 này hơn 500 xe chở cả sư đoàn hơn
1000 km theo đường Trường Sơn, qua Lào, Campuchia, qua ngã ba Đông Dương xuống
chiến trường Tây Ninh. Hôm nay lại cũng những chiếc xe này chở sư đoàn ra Tây
Ninh. Mỗi người lính ngồi trên xe mang theo mỗi suy nghĩ. Tất cả là lính 1971
đến 1975. Lính 75 mới bổ sung vào nên có vẻ mặt bồn chồn riêng. Còn chúng tôi
thì trầm lặng ngắm nhìn xuống đường phố, điện đèn vẫn sáng trưng, phố xá tấp
lập đi lại. Đoàn xe chạy theo đường xa lộ Đại Hàn rồi bắt vào đường 1A hướng
lên Tây Ninh ,nhà cửa thưa dần, qua Trảng
Bàng khoảng 10km cả đoàn xe dừng lại nghỉ để xốc lại đội hình. Anh em ùa xuống
giải lao, đường vắng không người , hai bên là cánh đồng lúa đã chín, không hàng
quán, gió thổi hun hút, tôi ngả người nằm xuống nền đường nhựa ngửa mặt nhìn trời mà rít thuốc chưa biết
thực hư nhiệm vụ mới ra sao
Khoảng 24h đoàn xe lại tiếp tục lên đường nhưng không bật
đèn pha để giữ bí mật, trên xe mọi người
tĩnh lặng, tâm trạng thật nặng nề. Xe
chạy tời Gò Dầu gặp những đoàn người, đoàn xe trâu của dân K di tản chạy sang Việt Nam với nét mặt hoảng
loạn họ đi nép vào bên đường .Sau được thông báo dân K sang được mấy ngàn
người. Ta tổ chức cho định cư ở Bến Sắn- Tây Ninh rất may cũng chính những
người dân này là quần chúng lập lên mặt trân giải phóng Campuchia do ông Henxonrin
làm chủ tịch.
Đoàn xe tiếp tục đi qua cầu Gò Dầu Hạ, Gò Dầu Thượng rồi
về các vị trí tác chiến của từng đơn vị. Đại đội tôi được đưa lên thẳng cửa
khẩu Mộc Bài. Lệnh xuống xe trung đội tôi men theo đường 1 lên chốt ngay tại
khu vực đồn Biên phòng. Bọn Pốt đã ngăn không cho dân di tản sang nữa. Các nhà
ven đường đóng cửa im lìm, không có đèn, không tiếng gà, tiếng chó. Vì đã sơ
tán vào bên trong khi tình hình căng thẳng. Vì vậy nơi đây lặng im một cách
đáng sợ. Cửa khẩu nơi Biên giới im ắng 1 cách đáng sợ. Xa xa bên kia cửa khẩu
lờ mờ là cột tháp bằng những thanh thép cao khoảng 20 mét biểu tượng của văn
hóa đất nước Angco. Xa nữa là những cây thốt nốt trong bóng đêm cao to thô cứng
gần giống như những cây cọ. Anh em biên phòng thấy chúng tôi lên vô cùng mừng
rỡ hướng dẫn luôn về tình hình địch và
địa hình, bố phòng..Trong tôi bỗng trào lên cảm giác mới lạ. Biên giới
là đây ư ? Tại sao có cuộc chiến tranh này ? Thoáng qua rồi cũng bắt đầu cùng
trung đội tiểu đội củng cố hầm hào. Lúc này đã là 2h sáng ngày 28/4 phiên gác
đầu tiên nơi biên giới.
Những ngày đầu tiên:
Tôi choàng tỉnh dậy thấy ánh sáng chói lòa. Định thần 1
tý mới nhớ lại được mình đang ở đâu và những gì đang xẩy ra. Mình ngủ say quá
sau ca gác tới 4h, đổi gác mình vào hè nhà trải nilon để nguyên giầy cởi bao xe
đạn để cùng bên khẩu AK ,vì quá mêt chìm luôn vào giấc ngủ .Tôi tranh thủ làm
vệ sinh cá nhân. Lác đác thấy bóng 1 vài người dân trở về. Chỗ tôi ngủ là nhà
má Bẩy gia đình má đã chạy về An Thạnh. Má cùng mấy người con về thu dọn đồ đạc
và thu hái rau cỏ ở vườn. Tôi tranh thủ hỏi thăm chuyên trò làm công tác dân
vận rồi quan sát địa hình. Nhà má ngay sát rìa làng chỗ tôi ngồi gác là sát mép
ruộng lúa đã chín .Từ đây nhìn thẳng ra khoảng 800m là dải đất có rất nhiều cây
thốt nốt cao thấp là đất Campuchia. Tôi nghĩ luôn bên đó cao hơn bên mình, về
thế quân sự thì bọn lính Pốt có lợi thế về địa hình hơn.
Tình hình chiến sự mấy hôm này chưa thật căng, chưa có
tiếng súng, qua đài quan sát thấy bọn Pốt đang tích cực đào hầm hào công sự,
mật độ lính Pốt đi lại nhiều, 2 bên đang tăng cường trinh sát nhau. Ta đã bắt
được mấy nhóm trinh sát của Pốt, có 1 thằng là trung đội trưởng, chúng khai
thuộc trung đoàn 182 Sư đoàn 3 Quân khu Đông Bắc. Chúng còn nói Pốt đang đưa
F290 thuộc lực lượng tổng dự bị chiến lược từ Niêc Lương xuống hợp với F3 chuẩn
bị tiến công vào Bến cầu Tây ninh.
Trước tình hình đó nhiệm vụ chốt giữ của ta được tăng
cường cao hơn, tăng cường nhiều chốt và vọng gác đêm. Ban ngày thì củng cố hầm
hào công sự, đêm thì phiên gác kéo dài hơn mỗi người gác tới 6 tiếng cứ từ 18h
tới 24h hoặc từ 24h đến sáng gác nhiều thức nhiều lính ta thật mỏi mêt. Đằng
sau khoảng 1km thì cuộc sống vẫn bình thường sôi động, còn ở đây thì thật căng
thẳng. Trong đơn vị đã có những đồng chí tụt tạt về Saigon. Một buổi sáng đang
ngủ có tiếng gọi, mở mắt ra đã thấy đồng chí CTV đại đội Nguyên văn Chính và
đồng chí chủ nhiêm chính trị E Phạm văn Hiệp đứng đợi tôi. Đồng chí Hiệp thăm
hỏi, động viên tôi nói nào là tổ chức có sai sót nên tôi có những thiệt thòi
vv...Và động viên tôi phát huy tinh thần chiến đấu, ý chí của người Đảng viên
trong tình hình nhiệm vụ mới vv... Tôi cười uể oải vì thông làm sao được nhất
là trong lúc thèm ngủ sau 1 đêm gác dài.
Trong khi hướng đường 1 còn im
ắng. Thì bọn Pốt cho quân sang chiếm khu vực Cây Me xã Long Khánh F dùng D3 (D3
là đ/v AHLLVT thời CMCN) được tăng cường C14 súng cối 82mm cùng E266 do E phó
Lê Tiến Hạt (quê ở Minh Quang Kiến Xương
Thái Bình nay đã nghỉ hưu ở Hà Nội với cấp hàm đại tá) chỉ huy sau 3h chiến
đấu đã tấn công đánh đuổi E182, F3 QK Đông Bắc của Pốt chạy về bên kia biên
giới.
Chiến thắng đầu tiên này là ý
nghĩa vô cùng quan trọng mở đầu trang sử hào hùng của E273 và F trên chiến
trường BGTN.
Về phía địch, sau khi tháo chạy ở
Cây Me Long Khánh, chúng tập trung quân c/b tấn công ta hướng dọc đường 1 và
Đông đường, rừng Thốt Nốt giáp sang Long An. Địa hình nơi đây đất K lồi sang ta
như 1 cái “mỏ vẹt” nên 1 số phần tử phản động quốc tế nói bậy là ta đánh chiếm
vùng “mỏ vẹt” của K. Chúng đã dùng các loại súng cối 60mm, 82mm bắn sang đất ta
để khiêu khích và thăm dò.
Lúc này ta đã nắm rất chắc địa
hình và ý đồ bọn K nên toàn F được lệnh chủ động tiêu diệt Pốt tại đây. Trinh
sát của các cấp tăng cường nắm địch, pháo binh đã chấm xong các toạ độ và chuẩn
bị phần tử bắn các M. Bộ còn tăng cường 1 trạm Trinh sát điện tử có máy ngắm
ban đêm. Chỉ huy các cấp được họp nhận
n/v chiến đấu, được phổ biến tình hình Pốt và bố phòng của Pốt dọc đường 1 và
pavét1, pavét2 sâu vào là Chi Phu, Chuôi Vồ, Rừng Sở v.v…
Theo phổ biến thì địch bố phòng
rất kiên cố có nhiều hàng rào và chiến hào, ụ chiến đấu nhất là các ụ súng trên
các cửa sổ nhà sàn nhà cao tầng, đất địch lại cao hơn đất ta nên tấn công có
nhiều khó khăn. từng A, B, C, D họp bàn liên tục nhận n/v và hạ quyết tâm chiến
đấu. Trong đơn vị cũng đã có những tư tưởng ngại ác liệt nên đ/c Hoàng Sỹ Lối d
trưởng d2 bị điều về tăng gia phía sau.
Kế hoạch tác chiến như sau. Đúng
giờ G các loại pháo của E55 (E4 F341) gồm 6 khẩu pháo 105 ly, 4 khẩu 85ly nòng
dài, 4 khẩu130ly của Lữ 24 QĐ, 2 khẩu pháo 175 ly (vua chiến trường của Mỹ) trên xe bắn tự hành của lính Hải quân.
Các trận địa pháo đều đặt ở An Thạch cách Mộc Bài khoảng 5km. Các loại súng cối
120mm của E đặt ở khu vực trung đoàn bộ đi Tốc xé. Cối 82ly cấp tiểu đoàn đồng
loạt nổ súng bắn phá hoại các mục tiêu thời lượng là 60phút, bắn cấp tốc rồi
bắn chế áp vào phía trong.
Trong lúc pháo bắn thì xe tăng
T54 và T39 gồm 6 cái tiền nhập sát vào cửa khẩu cùng bộ binh xung phong dọc
đường 1. Đánh thẳng vào Bavét1, bavét 2. Sau xe tăng là 5 xe chở súng
12ly7 bắn tiêu diệt bộ binh. Đội hình
tấn công cùng xe tăng dọc đường 1 là d1,
d9. Pháo 37ly 2 nòng nhanh chóng chiếm trận địa bắn tiêu diệt địch hỗ trợ cho
bộ binh.D2 E1 còn ở nông trường Dầu Giây chưa lên kịp.nên L L dự bi là d7, d8
E266.(E270 đang làm n/v ở Hà Tiên Kiên
Giang).
Hướng làng Tiên Thuận, Tốc xé d3
cùng 10 xe bọc thép M113 đánh tạt sườn từ hướng Tây Bắc sang Bavét1. Giờ G được
ấn định là 4h00’ ngày 23/10/1977.
Sau khi được nghe phổ biến n/v, các
đơn vị nhận thêm súng đạn đảm bảo 3 cơ số và chuẩn bị các loại bộc phá ống đánh
hàng rào, bộc phá gói đánh lô cốt. Trang bị vũ khí thật nặng nề.
Không khí chuẩn bị chiến đấu vô
cùng sôi động và cũng thật căng thẳng. Ở Mộc Bàì và đồn biên phòng cửa khẩu
đông nghịt bộ đội vì ngoài LL chốt giữ của d1 lại còn sở chỉ huy và đài quan
sát của các cấp, các binh chủng, pháo binh, xe tăng v.v … dây hữu tuyến của các
đơn vị từ phía sau tới đồn biên phòng cạnh đường từng búi trông thật khiếp. Các
cấp chỉ huy xuống từng B, từng C động viên tinh thần chiến đấu của lính rồi kết
luận 1 câu là: “Chúng ta dậy cho bọn Pốt
một bài học”. Hội phụ nữ của xã và huyện Bến Cầu cũng đến uỷ nạo anh em.
Dân gốc ở Mộc bài cũng đến rất đông, tất cả đã về phía sau nhưng với lý do về
thăm nhà nên tìm gặp bộ đội chốt giữ cho quà, kẹo, thuốc lá v.v… Má Bẩy cùng
hai người con đến B của tôi mang cả gà và 1 chai rượu nữa cho anh em tôi liên
hoan, nhìn lính ăn má hân hoan nhưng lại chảy nước mắt nói: “các con đánh Miên,
chú ý là chúng hay bắn sẻ lắm (tức là bắn
tỉa)”. Tôi cảm ơn má và thoáng nghĩ đến Mẹ mình ở quê, Mẹ cũng độ tuổi má
Bẩy, tính Mẹ nhanh nhẹn tháo vát, suốt đời sống vì chồng vì con. Tôi có 9 anh
chị em, chắc các bạn biết thời đó gian khổ thiếu thốn thế nào, để nuôi dậy được
cả 9 người con trưởng thành biết bao gian truân vất vả ….
Tạch - Tạch - Tạch
Ba phát pháo hiệu đỏ bay vút lên
trời. Tiếp đến là tiếng đề pa của 2 khẩu 105ly ùng – ùng - rồi oàng – oàng xé
tan sự yên tĩnh của đêm đã gần sáng. Như ngưng lại một chút để chỉnh toạ độ M
điểm bắn rồi đồng loạt các loại pháo cùng đề pa. Tiếng đề pa của pháo 85 nòng
dài đanh gọn, tiếng đề pa pháo 130 ly trầm hơn, còn lưu pháo 105 ly thì ròn đều
xen kẽ là tiếng đề pa của pháo 175 trầm như tiếng sấm xạ nhưng âm thanh nan toả
khủng khiếp. Các loại DKZ 75, cối 120 ly cối 82 ly thi nhau tong – tong. Những
chớp lửa ở phía dưới trước rất gần vì từ đây vào Bavét2 khoảng hơn 1000m,có quả
trúng ngay mặt đường chớp nổ sáng lòa.Mùi thuốc nổ đã khét lẹt. Các loại pháo
thi nhau cấp tập.
Thời chống Mỹ ,đánh nhiều nhưng
cũng chưa bao giờ pháo ta bắn nhiều như lúc này. Đã không phân biệt được các
loại tiếng nổ nữa, giống như mình ngồi trong nhà tôn mà có mưa rào, lúc đầu hat
nặng,mưa thưa còn nghe rõ từng hạt mưa rơi đến lúc mưa dầy thì chỉ nghe tiếng
vang và tiếng sấm chớp loang loáng. Đúng là mình đang thừa đạn, chưa biết làm
gì nghe nói trong tổng kho Long Bình còn rất nhiều hầm chứa đạn chưa khai thác
hết.
Pháo bắn khoảng 60’ , điểm nổ đã
xa dần vào sâu, đã thấy tiếng xích sắt của xe tăng nghiến xuống đường, quay lại
xe tăng đã lù lù phía sau. Lệnh xung phong, tôi nhổm dậy điểm xạ 2 loạt về phía
cái tháp sắt biểu tượng của Ăng Co. Thấy tóe lửa thoáng nghĩ mấy năm rồi hôm
nay mới lại bắn ak nghe ra tay súng và kỹ thuật điểm xạ còn chắc lắm , các loại
súng bộ binh đã đều rộ lên.
Tiếng ùng oàng của B40 – B41 và
tiếng nổ chát chúa của DKZ, tiếng tùng – tùng của 12L7 trên xe và của C4 phối
thuốc, ùng oàng, khói bụi mù mịt thoáng thấy như chiếc tăng đầu khựng lại nhưng
rồi lại thấy nó gầm lên hành tiến tiếp 2 khẩu 37-L loại 2 nòng cũng bắt đầu nhả
những điểm xạ 5 viên một trước nòng súng mới khiêp làm sao. Đạn đỏ và các loại
đạn vạch đường chằng chịt trên đầu. Tất cả các loại súng đã được sử dụng như
thị uy, như để lấy thêm sức mạnh dũng mãnh xông lên. Tiếng xung phong vang dội,
mọi người lom khom chạy gằn bám sau xe tăng và bám 2 bên đường. Khổ nhât là mấy
bác được phân công đánh hàng rào là vất vả nhất vì phẩi ôm thỏi thuốc nổ to như
ống luồng dai 2 mét hoăc khối thuốc vuông to bằng 5 cai bánh chưng có cài cán
dài nửa mét để chống áp vào lô cốt cho dễ đặt bộc phá, kềnh càng nên chạy rất
vướng. Đúng là bản hợp xướng và bức tranh của chiến trận thật hoành tráng chỉ
thiếu tiêng gươm khua,tiếng voi gầm ngựa hí. Nhưng tiếng thét tiếng súng thời
này đanh mạnh hơn tiếng ngựa, tiếng voi biết bao lần .
Vừa tiến vừa bắn mặc dù chẳng
thấy thằng Pốt nào, cũng chưa phát hiện ra hàng rào hoặc ụ súng lô cốt nào mà
cấp trên đã phổ biến. Quay sang bên phải hướng làng Tiên Thuận, Tóc Xé cũng đã
thấy chớp lòa của các loại súng và tiếng xung phong vang tận đây. Anh em d3 đa
phần là dân miền Đông (Quảng Ninh đất Mỏ). Họ khỏe mạnh,trong huấn luyện thì
cán bộ các cấp thật khó chịu vì tính nghịch ngợm phá phách, chấp hành kỷ luật
không nghiêm.Họ ăn cũng thật khỏe, mời họ ăn cơm hay nhậu thì phải lưu ý vì
không cẩn thận "vỡ nợ" với họ. Hồi ở Đông Trường Sơn đường 15A họ
được mệnh danh là “ cơn lốc đường 15” vì hồi đó đi vào rừng lấy gỗ làm doanh
trại, đón ô tô mà không cho đi thì họ cứ chạy nhẩy lên thùng xe cởi áo trùm
kính. Xe phải dừng lại. Lái xe ức mà không giám làm gì vì nhìn ai cũng to con,
bên sườn mỗi người đeo 1 dao găm cán trắng trông thật khiếp (dao Liên Xô hoặc
dao tự chế đúc nắm bằng duyara máy bay)
Trong chiến đấu thì lại khác. Họ
mạnh mẽ, mau lẹ và dũng cảm tuyệt vời nên từ thời CMCN trung đoàn và F hay sử
dụng d3 là đơn vị chủ công. Vì những thành tích đặc biệt nên được quốc hội và
nhà nước phong tặng danh hiệu tiểu đoàn anh hùng LLVT thời CMCN.
Nhìn sang hướng Đông đường nơi d9
tấn công vào khu rừng thốt nốt, cũng chớp lòa và tiếng xung trận không kém.
Thỉnh thoảng lại thấy tiếng nổ, chớp lòa trên cao chắc đạn DKZ hoặc B40-B41-
bắn trúng thân cây thốt nốt (cũng chỉ mấy
ngày sau cũng quả đạn DK 82 của Pốt nổ ở trên thân cây, khu vực Bavet2 này mảnh
đạn nổ cao mảnh găm hết xuống đất đã cướp đi sinh mạng một đồng đội cùng A tôi.
Bị thương 2 người. Tôi may mắn không bị gì).
Tiếp tục hành tiến 300m, 500m,
rồi 800m tới rìa làng Ba Vét 2 trời sáng hẳn, đã nhìn rõ những căn nhà sàn, nhà
xây bên ngoài. Mọi người thận trọng hơn. Xe tăng đã xuống cả ruộng lúa 2 bên
đường dàn hàng ngang và nhằm bắn những M mà cho là có địch. Hỏa lực của tăng
thật khiếp. Khẩu 100ly trên xe bắn thẳng. Mục tiêu gần nên vừa nghe thấy tiếng
nổ đầu nòng đã thấy bụi đất phía trước tung lên. Có căn nhà bùng cháy những
mảnh tre gỗ rơi lả tả. Sau mấy loạt pháo bắn của tăng cả đoàn xe chồm lên lao
đi nhanh hơn. Lính bộ binh chạy theo đứt hơi mà vẫn bám không kịp. Không thấy
hàng rào, ụ súng nào nên đã thấy rải rác bộc phá ống, bộc phá gói vất ở đường
rồi thấy cả dàn định hướng và cầu gỗ vượt mương nữa chứ.
Lính ta vất cho nhẹ để chạy theo
tăng đánh chiếm vào làng. Nhưng quái lạ không thấy loạt đạn hay phát súng nào
bắn trả của Pốt. Đội hình xung kích chiếm xong Ba Vét 2 rồi lại tiếp tục xông
thẳng sang Ba Vét 1. Thiết giáp và lính d3 từ Tốc xé Tiên Thuận xong sang cũng
đã chiếm Ba Vét 1. May mà phát hiện ra nhau sớm nên không có trường hợp nào “ta
thắng ta”.Tiếng súng bộ binh đã ngớt. Lệnh tiến công ra hướng Chi Phu,Chuồi Vồ
và dọc đường 1 gần rừng Sở rồi dừng lại.
Pháo binh phía sau vẫn bắn phá
các M trên xa. Ta chiếm được hết các M. BaVét 1, Ba Vét 2, rừng thốt nốt, ba
hướng đánh đã hội tụ. Lính ta hoan hỉ tay bắt mặt mừng. Không ngờ trận đánh lại
đơn giản thế. Không một ai hi sinh, duy nhất có 2 người bị thương do nằm trước
xe tăng. Khi pháo của tăng bắn với áp xuất rất lớn đẩy quả đạn đi còn tạo thành
luồng khí mạnh thổi đất đã phía trước nữa. 2 đ/c này bị thương là do đá văng
vào.
Mọi người nhận định ngay là thấy
ta chuẩn bị rầm rộ tấn công lớn Pốt đã bỏ chạy để tránh đòn. Hôm sau tại Hội
nghị rút kinh nghiệm trận đánh tại F. Ông Vũ Cao (sau là Trung tướng cục trưởng cục tác chiến BQP) nay đã nghỉ hưu
sống ở Hà Nội. Kết luận là chúng ta đã
lấy “Búa đập ruồi”. Búa nặng khi vung lên mạnh quá gây động nên khi đập xuống
ruồi đã bay đi hết! Và cũng phê phản trinh sát các cấp từ trinh sát D, E, F,
quân đoàn cho đến cả trinh sát của bộ nữa. Đều sai 1 cách nghiêm trọng. Chuyện
thật như đùa. Còn phía Pot thấy nói là thương vong vì pháo rất nhiều trong đó
có cả thằng F phó F3 nữa.
Sau khi các M tấn công đã hoàn
thành với chiến thắng tuyệt đối. Tới 14h ngày 24/11 lệnh cho đơn vị rút quân và
thu dọn chiến trường (thu dọn những thứ
mà lính ta vất lúc sáng như Bộc phá ống, Bộc phá gói, mìn định hướng, cầu vượt
Mương vv....... và cả những quả đạn cối và DKz nữa). Anh em vận tải được
mùa chiến lợi của chính mình....
Riêng C3, D1 được tăng cường cùng
1 trung đội 1 của C1 và 1 khẩu ĐK 82, 1 khẩu 12,7 ly của C4 hỏa lực Được ở lại
chốt giữ Bavet1. Đại đội 2 chốt ở Pa Vét 2 ,Sở Chỉ hay d1 và c1 về tập kết ở
Mộc Bài. TTG và các đơn vị về vị trí đóng quân cũ.
Sau những ngày chốt giữ và chuẩn
bị tấn công địch mệt mỏi, căng thẳng. Giờ đây sau trận đánh thắng 1 cách “không
giờ” nên phía ta từ chỉ huy cấp cao cho đến lính thì đều có tư tưởng xả hơi,
nghỉ ngơi, coi thường địch. Khi được giao nhiệm vụ ở lại chốt giữ lính ta cũng
không chú trọng củng cố hầm hào mà tò mò khám phá những căn nhà bỏ hoang và lo
việc cải thiện, F đoàn có kế hoạch triệu tập hội nghị quân chính vào sáng ngày
25 để rút kinh nghiệm trận đánh.
Thật nguy hiểm. Những ngày đầu
tiên này các cấp chỉ huy cho đến lính đều không hiểu được bản chất vấn đề cuộc
chiến của Pốt và chiến thuật cũng như những ý đồ thâm độc của Pốt. Độ lỳ lợm,
chịu gian khổ, của lính Pốt trong cuộc chiến du kích song hành cùng với mình
những năm tháng đánh Mỹ.VIÊT-LÀO-KHƠME anh em.Lính ta ko thể ngờ rằng chỉ mấy
tiếng đồng hồ nữa trận chiến khốc liệt sẽ diễn ra chính nơi đây.
Đại đội 3 cùng các đ/v phối thuộc
chốt lại Phum BaVet1. BCH Đại đội lúc ấy C trưởng là anh Nguyễn Tiến Trụ lính
1971 trung uý quê Hải Hưng (anh đã hy
sinh ngày 8/4/1978 tại Hà Tiên Kiên Giang khi giữ chức phó tiểu đoàn 1).
CVT là anh Quách Thanh Tiễn Trung
uý lính 1968 dân tộc Mường ở Cẩm Long Cẩm Thuỷ Thanh Hoá. CTV phó là anh Nguyễn
Tiến Đạo ở Uông Bí Quảng Ninh. Anh Từ C
phó quân sự cũng quê Hưng Yên.
Đội hình được bố trí như sau: Căn
cứ vào địa hình của phum diện tích khoảng 1Km2 hình thoi có trục đường 1 ở
giữa. Trung đội1 và 1 B của C1 tăng cường chốt hướng Đông Nam đường và khẩu ĐK82 ở sát trục
đường 1 hướng Chi Phu. Trung đội 2 và 3 chốt hướng Tây Bắc và khẩu 12 ly 7 cũng
bố trí gần sát đường 1.Có tiểu đội bb trợ chiến.
Tiểu đội 11 Hoả lực cũng xé nhỏ,
tăng cường đại liên và B41 cho các trung đội. Hướng phòng thủ chính là hướng
Chi Phụ, rừng Sở và Tây Tây Bắc. BCH C cùng thông tin, nuôi quân quản lý và 2
khẩu cối 61ly đặt ở giữa Phum, sẵn sàng bắn mục tiêu phía trước. Chiều tối, sau
khi ăn cơm xong, từng trung đội, tiểu đội đã ổn định vị trí chốt giữ của mình.
Nhưng hầm hào ụ súng vẫn còn hời hợt, chỉ lợi dụng ụ đất hay hố chiến đấu của
Pốt v.v… Sửa sang qua loa, tuy rằng có phân công canh gác kỹ càng. Mọi người đi
ngủ, người ngủ võng, người lợi dụng hiên nhà, gầm sàn nhà để nghỉ, trời vào đêm
im lặng. Với một diện tích như Bavét1 mà có 1 C tăng cường hơn trăm tay súng
thì rất mỏng, ban đêm cái phum này như càng rộng hơn. BCH đại đội rất trăn trở. Hướng từ trục đường 1
về Bavét 2 được coi nhẹ. Vì có C2 chốt lại là hướng VN. Như vậy là lực lượng
mỏng và thưa nên ý thức của mọi người cũng đã có sự đề phòng vì cũng là đêm đầu
tiên chốt trên đất K. Càng khuya trời càng yên tĩnh lính ta trừ người được trực
gác còn lại đều chìm vào giấc ngủ sau những ngày mệt nhọc. Một số anh em nhất
là khẩu 12,7 được tăng cường anh em vừa canh gác vừa hút thuốc rất tự nhiên.
Trăng sáng mờ đât trời tĩnh lặng.
Ùng- oàng rồi pằng - pằng - pằng
rồi liên tiếp ùng- oàng, tiếng hô: “Trô- Trô- Trô” vang ầm phá tan sự yên tĩnh.
Tất cả choàng dậy,vồ lấy súng đạn. Đã thấy tiếng AK pằng pằng pằng, đại liên và
cả tiếng B40 của hướng B2 gần khu vực 12,7 bắn trả. C Bộ nhốn nháo một lúc rồi
rất nhanh C trưởng Trụ cử C phó Từ và
liên lạc C Nguyễn Văn Nên (lính 77 quê
Thuỵ Ninh, Thái Thuỵ, Thái Bình, trận ngày 6/12/1977 được tặng HCCC hạng 3.
Ngày 3.5.1978 đêm ngày đổi tiền toàn quốc) cả 2 cậu cháu ruột đều hy sinh
vì đạn B41 cách nhau 1- 2 ngày ở đầu Mộc Bài). Xuống hướng B2 nắm tình hình,
tiếng súng hai bên vẫn nổ song thưa dần. Khẩu đội 12,7ly bị trúng quả B40 đầu
tiên của Pốt hư hỏng nặng không sử dụng được nữa. Đồng chí chiến sỹ gác ca đó
hy sinh và 2 bị thương. Pốt tử vong 2 tên ngay gần khẩu 12,7 do tiểu đội 5, B2
đồng chí Ngô Duy Phơn (quê ở An Đồng Hải
Hậu Thái Bình làm B trưởng) đã chi viện kip thời. Đã bắn chéo cánh sẻ tiêu
diệt tốp này. Đánh bật chúng ra. (Đồng
chí Phơn hy sinh lúc gần trưa ở đợt tập kích tiếp).
Anh Từ nhanh chóng cho chuyển
thương binh liệt sỹ về BCH sơ cứu và củng cố lại trận địa. Địch sau lần tập
kích đó lại thấy im lặng. Nhưng các hướng báo về là đều thấy Pốt hô “Trô -
Trô”. Nhận định tình hình là chúng không nắm được lực lượng và cách bố phòng
của ta nên hò hét thăm dò ta. Nhóm tập kích vào 12,7 ly có thể là trinh sát
Pốt. Im lặng xong tất cả mọi người đều bừng tỉnh. Khẩn trương củng cố hầm hào,
đắp ụ súng, ra vị trí chiến đấu, căng mắt ra, dỏng tai lên quan sát và nghe
ngóng địch. Ai cũng thấy trận chiến ác liệt đã thực sự bắt đầu.
2h50 sáng trung đội 3,B Trưởng là
đ/c Tiến (Quế Thái Nguyên) phát hiện
khoảng 2 trung đội địch men theo 2 bên đường số 1 tiến sát chốt tiền tiêu của
ta. Chờ địch vào gần, thật gần anh em đồng loạt nổ súng, tiêu diệt ngay mấy tên
đi đầu, chúng không kịp bắn trả kêu chí chóe gì đó rồi chạy lùi phía sau địch
bắn liên tiếp B40-B41 vào M79 vào trận địa chốt của trung đội 3 và cả trung đội
1 làm cho 3 đồng chí bị thương trong đó có cả đồng chí Tiến B trưởng(nay là T/B
1/4 )
BCH đại đội hội ý báo cáo tình
hình về tiểu đoàn. Ta đều phán đoán đợt tập kích của địch trong đêm đều là
trinh sát nắm tình hình để chúng sẻ phản kích chiếm lại BaVet1 vào ban ngày.
Tiểu đoàn 1, đ/c Nguyễn Minh Tân (quê Thanh Trì- Hà Nội) và đồng chí CVT
Nguyễn Kim Mận (quê Đôn Thư, Trịnh xá, Bình Lục, Nam Hà) là cấp
trưởng, đều là những người đã có nhiều kinh nghiệm trong chiến đấu CMCN. Báo
cáo lên E và F tình hình và động viên anh em C3 bám chốt, chiến đấu D sẽ chi
viện khi cần thiết. (Thực ra trong đêm
chi viện bằng hỏa lực thì được, chứ, chi viện bộ binh thì rất khó. Thường là
trong huấn luyện đều nói về chốt giữ đêm là địch vào đơn vị nào thì đơn vị đó
chiến đấu giữ bí mật lực lượng ,không để bộc lộ vị trí và cách bố phòng
vv....Tiểu đoàn khen ngợi và động viên c3 tích cực.củng cố hầm hào và làm nhiều ụ chiến đấu).
Những bài học về kỹ chiến thuật,
phòng ngự chốt giữ của lính ta rất bài bản. Nhất là C3 hồi CTCM chốt giữ ở
đường 13- Chơn Thành Bình Long tiểu đoàn Trưởng Tân (lúc đó là D phó) tăng
cường trực tiếp đã chốt giữ kiên cường đánh lui nhiều đợt công kích của lữ đoàn
xe tăng địch bắn cháy 3 xe. Mặc dù C trưởng Hồng (quê Hưng Yên) cùng gần 10
đồng chí hy sinh nhưng vẫn giữ vững địa trận.
Rạng sáng ngày 24 địch tập trung
2 tiểu đoàn đồng loạt tấn công vào 3 hướng chốt của C3.Với hỏa lực rất mạnh
bằng B40- B41, M79, đạn thẳng thì toàn AK dồn dập bắn phá . Anh em các hướng
chốt cũng bắn trả quyết liệt. 2 khẩu cối 61 cũng đã Tong- Tong chi viện. Những
phần tử và cự ly bắn đươc chuẩn bị từ trước chứ không thể hiệu chính trực tiếp
được vị khó quan sát. Riêng khẩu DKZ82 thì không được lệnh nổ súng vì mục tiêu
đề phòng là xe TTG của Pốt. Anh em dùng AK chiến đấu như lính ở trung đội BB.
Trận đấu súng qua lại khoảng 20’ thì bọn Pốt lại rút ra và kêu pháo 105 ly ở
Chi Phu bắn vào đội hình ta anh em đếm được gần 18 quả. Ta có thương vong nhưng
trận địa vẫn được giữ vững.
Gần 7h sáng chúng lại lã pháo 105
ly và bắn cối 82,61 vào trận địa. Rồi tiếng thùng thùng của 2 Khẩu 12,7 ly bắn
xiên vào. Anh em đoán địch đang lợi dụng ruộng lúa bò vào tấn công Chốt .B
trưởng Ngô Duy Phơn tranh thủ chạy qua
các Chốt nhắc nhở động viên anh em. Phát hiện địch vào gần Phơn tung người nems
liền 2 quả lựu đạn vào tốp đi đầu. Toàn trung đội chủ động bắn găm về phía trước.Khẩu
đại liên của a11 tăng cường cũng bắn chéo cánh sẻ sang gìm đầu bọn Pốt .Khí thế
chủ đôngj tấn công Rất dũng mãnh và bẻ gẫy đợt mật tập vào hướng trung đội 3
chốt giữ. Lúc này cối 82 ly pháo 122 ly của E4 đã bắn phá chung quanh BaVét1 hỗ
trợ cho C3 giữ Chốt
Bọn Pốt thật lỳ chúng kiên trì
lấn dũi, cố lợi dụng ruộng lúa bò vào gần chốt là đồng loạt đứng lên hô, trô
trô rồi bắn phá vào các chốt của ta. Rồi lại nhanh chóng bò, chạy ra ngoài. Tới
gần trưa B3 còn có 10 tay súng. Btrưởng Phơn vẫn vận động tới các Chốt nhắc nhở
anh em quyết tâm giữ chốt kiên cường đánh địch.
Bọn Pốt lại tiếp tục tập kích lấn
dũi vào hướng B3 L2 đại đội xuống thông báo có 2 trung đội của C2 cùng lực
lượng vận tải đang đến tăng cường đúng lúc đó bọn Pốt lại tập trung đánh dũi
với số lượng đông hơn.A B trưởng Phơn vừa chạy đến các chốt thông báo vừa bắn
địch. Đang bắn thì Phơn khựng người ngã xuống
bởi loạt AK của Pốt.Btrưởng Phơn đã anh dũng hy sinh.Mới cách đây mấy
ngày,găp Phơn anh kể là mới về phép cười hiền lành’’ chắc chắn lần này có tý
rồi”.Khi viết tới đây nước mắt tôi lã chã rơi xuống bàn phím.kính đã nhoè.Vô
cùng thương nhớ đồng đội dã cùng ở với nhau mấy năm hồi đầu quân ngũ.
Từ đêm,khi những đợt tâp kích vào
bavet1. Nơi c3, d1 đang chốt giữ đã đều được báo lên E, F. Nhưng 1 số cán bộ
tác chiến và cơ quan e,F đều chủ quan cho là b/t.Vì ta vừa đánh cho chúng 1
trận "tan nát sỹ diện làm Pot đã cao chạy xa bay". Nên trong tư tương
1 số sỹ quan cho là cấp dưới b/c tình hình địch quá mức.
F vẫn tổ chức họp quân chính theo
kế hoạch lúc 8h sáng,để rút k/n trận đánh ngày 23 như đã nói ở trên.F cũng lần
trần trong việc dùng pháo bắn hỗ trợ để d1 tự giải quyết.Khi d1 và e tổ chức
cho vận tải và xe cứu thương lên bavet1 lấy thương,số lượng thương và liệt sỹ
đã nhiều.Nhất là quá trưa,1 chuyến vào lấy thương thì bị Pót phục kích bắn cháy
xe .Rất may đ/c Hồng lái xe cùng 1 y sỹ,1 vận tải nhẩy ra được khỏi xe.đ/c Hồng
bị thương vào cánh tay.3 đ/c chạy ngược về bavet2.Địch bắn đuổi nhưng ko ai
việc gì.Địch đã điều khoảng 1 trung đội đánh bọc chia cắt 2 phum.Hòng cô lập
bavet1.B/c về tới F.Hội nghị quân chính phải dừng,sau khi đ/c Vũ Cao F trưởng
kết luân là:"Ta đã dùng búa tạ đập ruồi,có thể 1 số ruồi đã bâu
lại."Và thúc giục d1,và e1 nhanh chóng về chỉ huy chiến đấu.
Trở lại tình hình đang diễn ra ở
bavet1. Lúc gần trưa.c2 đã điều được 2 trung đội lên tăng cường cho c3. Vân tải
đã chuyển thêm đạn,cơm nắm,nước uống cho ae. Thương binh,liệt sỹ đã chuyển gần
hết về sau. Được tiếp thêm sức mạnh, lính c3 hồ hởi hẳn lên.vừa ăn cơm vừa thay
nhau canh gác và sửa sang lại hầm hào.Chống trả gần chục lần tập kích của địch
suốt từ đêm nên ae rất mệt. Thương và vong cũng nhiều. BCH đại đội chia nhau
xuống các trung đội động viên, ủy lạo ae. Và thông báo nhận định của trên là
địch sẽ còn tâp kích tiếp để tiêu hao lực lượng của ta.Có thể đợi tối sẽ tổng
tấn công chiếm lại bavet1.Tình hình tiếp diễn sẽ còn rất căng thẳng và ác liệt.
Anh em phải nâng cao ý trí chiến đấu và cảnh giác hơn nữa chủ động đánh phủ đầu
địch, khi có điều kiện thì xung phong truy kích địch.
Đúng như nhận định của trên. Bọn
Pốt vẫn tăng cường lấn dũi, đánh “bọc”
từ hướng Đông Đông Bắc (hướng của B1, C1) tăng cường. Nhưng chúng không
giữ được bí mật vì anh em đã cảnh giác khi chúng bắn cháy xe cứu thương. Đã
chỉnh lại đội hình phòng ngự và hướng chiến đấu. Xác đinh chung quanh đều có
địch.
.
Bọn Pốt lại Trô- Trô đứng lên
phóng B40-B41 bắn mấy loạt AK rồi lại chạy. Phải đánh đuổi bọn này. Đại đội hội
ý rồi điều trung đội đ/c Nguyễn Duy Chinh (quê
Phương Công, Tiền Hải, Thái Bình) đang chốt hướng Bắc Tây Bắc men theo rìa
làng đánh vận động lên đường 1 tạt sườn, kết hợp cùng trung đội chốt C1 đuổi
lực lương bọc hậu của địch bọn Pốt bắn trả vài loạt rồi tháo chạy. Hành lang về
Ba Vét 2 lại được thông. Xong, khi vận động xung phong vượt lên mặt đường B
trưởng, Nguyễn Duy Chinh trúng đạn hy sinh. Các hướng chôt địch vẫn dùng thủ
đoạn tấn công lẫn dũi .Nhưng ko giám bò vào gần nữa.
Như vậy tới 15h ta đã đánh bật 19
lần tập kích tấn công của E182-F3 QK
Đông Bắc của Pot, vào các hướng. Giữ vững trận địa. Hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ tiêu diệt hàng trăm tên thu được 1 số súng. Về phía ta hy sinh 8 đ/c, có 2B
Trưởng, (đ/c Phơn và đ/c Chinh). 2 A
trưởng, bị thương hơn 20 người trong đó có đ/cTiến B trưởng.Bị hỏng 1 khẩu
12,7ly. Cháy 1 xe cứu thương.
Đến 15h trận địa đã tạm yên tiếng
súng. Song qua đài quan sát và đài kỹ thuật ta phát hiện địch đang tập trung
rất đông ở 3 hướng (khoảng 2 tiểu đoàn).
Bọn này chuẩn bị đợi tối sẽ tổng công kích BaVét1. Nắm được ý đồ Pốt. Tiểu đoàn
xin pháo bắn chi viện và điều nốt số quân của C2, C1 cùng C4 hỏa lực. Hướng Tốc
Xe dùng 2 đại đội của d3 là C9,C10 cùng anh em chốt C3 chuẩn bị vận động công kích Pốt.
Sau khi tiền nhập vào vị trí,
pháo binh E,F bắn hỗ trợ .Các đơn vị lại xung phong vận động phản kích địch.
Bọn địch chạy toán loạn, các đơn vị đã đánh rộng ra khỏi Pa Vét1 và trục đường
1 từ 500-800 thì được lệnh dừng lại. Nhưng thấy ta dừng thì bọn Pốt cũng dừng
chạy. Chúng như giữ khoảng cách đeo bám ta.BCH đại đội 3 cùng trung đội tôi
xuất kích hướng Nam, Đông Nam đường bèn xin pháo bắn đuổi đich.
Mấy loạt pháo ầm ầm gần sát quân
ta. Anh Trụ C trưởng yêu cầu tăng tầm bắn.Đạn pháo 105 của F lại nổ càng gần
lính mình hơn mảnh đạn pháo bay rào rào. Suy nghĩ rất nhanh tôi chạy đến nói
với anh Trụ là: “anh Chỉnh tăng tầm là vào hướng mình rồi, anh phải nói là bắn
sang trái 100m tầm bắn không thay đổi”. Tôi giải thích nhanh vì hướng pháo và
hướng anh em mình tấn công vuông nhau nên mình nói tăng tầm là vào mình mà phải
chính sang trái mới vào được khu vực của Pốt. Mấy loạt pháo sau đã trúng mục
tiêu cần bắn. Ta được lệnh khẩn trương rời khỏi trận địa, thu dọn chiến trường,
nhặt súng của Pốt và..Nhanh chóng rút về chốt ở biên giới....
Sau khi rút về biên giới.Đội hình
được bố trí như sau:d1 đươc e tăng cường thêm 2 khẩu dk của c15.2 Khẩu 12,7 ly cua c16.c1 hướng đông Bắc đướng 1.C2
chốt hướng tây bắc đường cùng các hỏa lực tăng cường.C3 lùi về sau tạm nghỉ
ngơi làm công tác tổ chức rút k/n trận đánh bổ xung quân số và lam n/v dự bị.
- D2,mới được điều từ Dầu Giây LK lên
vào chốt thay cho d3 ở Tốc Xé Tiên Thuận.
- D3 được rút về làm lực lượng cơ động
của F.
- D 9, e266 vẫn chốt ở vị trí cũ đối
diện rừng thốt nốt.gần giáp c1, d1.
Mấy ngay tiếp theo tình hình nơi
đây tương đối yên tĩnh.Nhưng chúng đã đôn quân lên giáp biên giới rất đông.Đêm
ngày 28-30/10 đại đội 1 và 2 đều bắt được 2 nhóm trinh sát của Pot.chúng ko
mang vũ khí.tay xách mầy con cá,đi chân đất giả làm dân thường mò sang trinh
sát khu vực của ta.Lần đầu tiên được ngắm nhìn lính Pot.Thằng nào thằng đấy to
vâm.da đen,mắt trắng dã trông thật tởm.Hỏi gì chúng cũng nhe răng ra cười.Da
đen mà sao răng của chúng lại trắng và đều thế. Tôi chợt nhớ tới biển quảng cáo
kem đánh răng "hinot" ngày xưa (năm 75).có hình người da đen nhe răng
cười.Nhưng da bon Pot này ko phải đen hẳn mà trông xỉn xỉn gáu bẩn đến ghê
sợ.Chợt so sánh với sức vóc nó thế kia chắc nếu "tay bo" thì mình ko
ổn.(Vì thời đó tôi chỉ có 48 kg).
Sau khi khai thác được biết chúng
vẫn ko từ bỏ ý đồ đánh chiếm Bến Cầu. Thật ngông cuồng.QĐ giao nhiệm vụ cho F
chủ động đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của Pot.Tất cả các đ/v lại khẩn
trương làm n/v c/b tác chiến.Lần này ý thức của mọi người đã khác hẳn.Tư tưởng
của anh em đã được ổn định vì đã được học tập và thông báo về tình hình n/v
thật cụ thể ko còn mơ hồ coi thương địch nữa.và cũng đã được xác định là 15
ngày như dự định là ko thực hiện được do âm mưu sảo quyêt của pot và bè lũ phản
động bành trương xúi giuc,giật dây v v...Tư tươngg của lính đã thông,đã xác
định được mục tiêu của kẻ thù nên tác phong bản lĩnh của mọi người như được
bưng lên và tỏa sáng.
Tôi được ctv Mận gọi lên giao
nhiêm vụ làm B trưởng của c3 nhưng tôi ko nhận vì lý do sức khỏe tôi thuộc loại
b2 loại được trở về địa phương.Nhưng trong tình hình hiện tại tôi vẫn tham gia
c/đ khi nào có đợt thì ra quân.D điều tôi về làm a tr, a10,c3 là a cối 60 ly
thay cho đ/c khoát lính 71 về học Cđ mỹ thuật Sài gòn.Thế là tôi lại trở về tiểu
đội 10 la nơi tôi là a pho từ ngày đầu thành lâp đ/v.Có điều là nay tôi lên
được chức a tr.Nghĩ thật là ...vui.
A 10 vẫ ko thay đối so với trước
trừ 2 đ/c đươc ra quân.đ/c Nguyễn duy Đôi (quê Thy Thanh TT TB) và đ/c Lê văn
Chính (quê An Đồng HH TB) CÙNG TỔ 3 người với tôi cũ thì cả 2 đ/c đã hy sinh
khi chốt ở đường 13 thời kccM.a Phó tên Dự lính 75 quê Thanh Hóa và mấy anh em
nữa.Mọi người tổ chúc liên hoan cho tôi thật lớn có đủ các món gà,lợn,trâu
vv..và rượu thì thật vô tư.Tôi gầy ngẳng có 48 kg nhưng cái khoản rượu thi có
thể đọ với dân "anh hai" được. BCH đai đội cùng xuống chung vui.Anh
Tiễn cvt người Mường Thanh Hóa thật là mừng khi tôi trở về đại đội.Anh Tiễn năm
74 cũng là người giới thiệu và đảm bảo lý lịch cho tôi vao Đảng.Nên anh em rất
hiểu và quý mến nhau,mãi hơn 8h bữa tiệc liên hoan mới kết thúc .đó cũng là bữa
tiệc để lại dấu ấn ko thể quên trong đời binh nghiệp của mình.

Ngày 4/11 địch cho quân tiến công
vào Bến Cầu từ nhiều hướng.E 153 của Pốt khiêu khích vào các trận địa chốt của
d1 ở hướng Mộc Bài.Chúng dùng khoảng 1c luồn vào phía Đông Bắc rừng Thốt Nốt
chia cách giữa d1 và d9.
Khoảng 11h sư đoàn 3 của địch
tăng cường lực lượng vào khu vực rừng Thốt Nốt ngày càng đông.Trước trận địa
của d1 và d9 đã có khoảng 5d của Pốt ( Theo b/c và tài liệu lưu trữ của E 273
).Chúng bắt đầu lại điệp khúc lấn dũi.Theo chỉ đạo d9 để lại 1 lực lượng nhỏ
nhử địch còn đại bộ phận tiểu đoàn lùi dần về chuẩn bị xuất kích.Đại đội 3 đã
nâng đội hình lên đồn biên phòng.
Tôi bố trí 2 khẩu cối 60 ngay
trong sân đồn .Bên ngoài là lớp lớp ae bb đang trong tư thế chốt và đợi lệnh
vận động phản kích.Vị trí đồn biên phòng cao hơn phía địch nhiều nhìn những
đoàn lính Pốt tiến về phía rừng Thốt Nốt như những mảng đen di động trên cánh
đồng lúa chín vàng thật rõ.Tôi quan sát đo cự li.Từ đây ra chỗ chúng khoảng
1200m,hô ae chuẩn bị phần tử bắn.Với tôi thì thước tầm,cự li,liều bắn dù xa
tiểu đội cối mấy năm tôi vẫn nhớ vẫn thuộc vanh vách (hồi ở QK 4 tôi đã được cử
đi thi bắn đạn thật cối 60 và đạt được thành tích cao).
Ngay cạnh trận địa cối là đài
quan sát của F.Tôi thấy tham mưu phó F trung tá Thuật đang theo dõi diễn biến
của địch tôi báo cáo xin được bắn cối 60.Suy nghĩ 1 tý rồi ông hỏi: có bắn
trúng địch không? Chỉ dợi có thế.Tôi nói TT yên tâm( sau này tôi mới biết là thủ
trưởng Thuật đắn đo vì quyết định tấn công bằng pháo binh và TTG nên sợ bắn cối
60 sẽ làm lộ ý định lớn).
Tong_Tong,sau khẩu lệnh bắn 2 quả
đạn như 2 bắp chuối nhỏ bay vút lên trời giữa nắng hè trời khô trong veo rồi
lúc lắc rơi xuống ,tôi và mọi người thật hồi hộp thấy 2 cột khói nhỏ bùng lên
rồi oàng oàng gần sát đội hình địch mọi người đều hô gần chúng rồi.Tôi quyết
định tăng thước tầm ứng với 100m và hô 2 phát bắn tiếp.Lai Tong_Tong trong lòng
tôi thật tự tin vì chắc chắn trúng M.Quan sát thấy bóng địch mất hút(chúng nằm
tránh đạn) rồi 2 cụm khói bốc lên ở chỗ chúng tôi báo TT Thuật đạn đã trúng M
đề nghị bắn cấp tập. TT Thuật đồng ý thế là ae thi nhau thả đạn sau 3,4 quả tôi
lại hô chỉnh lại thước ngắm cho chuẩn xác.
Có lẽ chưa bao giờ trong đời quân
ngũ.Đúng ra đời pháo thủ cối 60 được bắn như thế này.Trận địa đặt trên cao,quan
sát và chỉnh mục tiêu trực tiếp bằng mắt thường ,xem rõ đạn đi và rơi vào M bắn
. 2 khẩu cối thi nhau nhả đạn.Đội hình Pốt rối loạn cứ đứng lên chạy rồi lại
mất hút dưới ruộng lúa.Tự nhiên tôi lại có suy nghĩ kì lạ,liệu có thằng nào
chết không.Cái bản năng lương thiện của con người trong tôi trỗi dậy.Thầm mong
rằng những quả đạn này làm cho chúng nó sợ, chạy, hay bị thương.Đừng thằng nào
chết.
Khoảng 13h
Đang tản mạn với suy nghĩ chợt
đến đó thì thấy ùng- ùng tiếng đề pa của pháo 105 rồi các loại pháo thi nhau
cấp tập các mục tiêu. Pháo bắn 15 phút xe tăng đã tiền nhập lên cửa khẩu. Trên
xe là 6,7 anh em lính d3 đội hình xe tăng 9 cái lại bắt đầu xung phong. Hướng
đường 1 đánh sang BaVét 1. Hướng Tóc Xé Tiên Thuận d2 cùng 10 xe bọc thép cũng
băng qua ruộng lúa đánh tạt vào BaVét 1 .d9,d1 cũng được lệnh tiến công.d9 đánh
địch ở khu rừng thốt nốt còn d1 đánh phát triển tiêu diệt địch ở khu vực giữa
rừng thốt nốt và BaVét 2. Xe tăng sau khi đánh chiếm địch ở BaVét 2 thì tràn
xuống cánh đồng đánh tạt sườn địch phía sau rừng thốt nốt về hướng Chi Phu.
Rút kinh nghiệm trận đánh ngày 23
chúng ta chưa hiểu Pốt nên đánh thận trọng, dò dẫm tiến quân chậm làm Pốt bỏ
chạy hết. Lần này được giao nhiệm vụ đánh vận động thật nhanh mạnh, táo báo,
nên TTG lao đi như bay, vừa chạy vừa bắn rất nhanh. Trừ 1 số anh em ngồi trên
xe .Số Bộ binh của d3 và d2 chạy theo TTG không kịp. Anh em vừa bắn vừa tiêu
diệt những tên không kịp chạy.Nhât là khẩu đội cối của tôi.Cứ dưng bắn mấy quả
lại phải nhanh chóng thu súng chay theo ae giữ cự ly đều ko để bị xa quá a cối
của tôi được 1 ngày băn thoải mái.đên lúc thu quân còn có 4 quả dự phòng. Đội
hình địch bị chia cắt. Rối loạn chúng chạy như đàn vịt. Thỉnh thoảng lại thấy
có thằng trúng đạn pháo tung lên cùng những khóm lúa. Mọi người được lệnh truy
tìm địch lẩn trốn trong đồng lúa và thu nhặt súng của chúng vất lại.
Đến 15 h20p trận đánh kết thúc
theo b/c ta trên trận này diệt được hơn 200 Pốt làm tan rã 5d thuộc sư đoàn 3
QK Đông Bắc của Pốt. Thu hàng trăm khẩu súng và bắt sống 8 tên. Trận đánh mau
lẹ và thắng lợi hơn cả dự định. Về phía ta một vài anh em bị thương.Không một
ai hy sinh. Tiểu độ tôi được sư đoàn gửi điện khen ngợi. Các đơn vị lại nhanh
chóng rời khỏi trận địa rút quân về Biên giới. Ta đã thật sự dạy cho Pot bài
học nhớ đời đảm bảo những thằng sống sót cũng “Hồn bay phách lạc”.
Sau khi rút về biên giới. Đội
hình được bố trí như sau: D1 được E tăng cường thêm 2 khẩu DKZ của C15. 2 Khẩu
12,7 ly của C16. C1 hướng đông Bắc đướng 1. C2 chốt hướng tây bắc đường cùng
các hỏa lực tăng cường. C3 lùi về sau tạm nghỉ ngơi làm công tác tổ chức rút
kinh nghiệm trận đánh bổ sung quân số và làm nhiệm vụ dự bị.
-D2,mới được điều từ Dầu Giây LK lên
vào chốt thay cho d3 ở Tốc Xé Tiên Thuận.
-D3 được rút về làm lực lượng cơ động
của F
-D 9, E266 vẫn chốt ở vị trí cũ đối
diện rừng thốt nốt gần giáp C1, D1.
Mấy ngày tiếp theo tình hình nơi đây tương
đối yên tĩnh. Nhưng chúng đã đôn quân lên giáp biên giới rất đông. Đêm ngày
28-30/10 đại đội 1 và 2 đều bắt được 2 nhóm trinh sát của Pốt. Chúng không mang
vũ khí, tay xách mầy con cá, đi chân đất
giả làm dân thường mò sang trinh sát khu vực của ta. Lần đầu tiên được ngắm
nhìn lính Pốt.Thằng nào thằng đấy to vâm, da đen, mắt trắng dã trông thật tởm.
Hỏi gì chúng cũng nhe răng ra cười. Da đen mà sao răng của chúng lại trắng và
đều thế. Tôi chợt nhớ tới biển quảng cáo kem đánh răng "hynot" ngày
xưa (năm 75), có hình người da đen nhe răng cười. Nhưng da bon Pốt này không
phải đen hẳn mà trông xỉn xỉn cáu bẩn đến ghê sợ. Chợt so sánh với sức vóc nó
thế kia chắc nếu "tay bo" thì mình không ổn. (Vì thời đó tôi chỉ có
48 kg)
Sau khi khai thác được biết chúng
vẫn không từ bỏ ý đồ đánh chiếm Bến Cầu. Thật ngông cuồng. QĐ giao nhiệm vụ cho
F chủ động đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của Pốt. Tất cả các đơn vị lại
khẩn trương làm nhiệm vụ chuẩn bị tác chiến. Lần này ý thức của mọi người đã
khác hẳn. Tư tưởng của anh em đã được ổn định vì đã được học tập và thông báo
về tình hình nhiệm vụ thật cụ thể không còn mơ hồ coi thường địch nữa, và cũng
đã được xác định là 15 ngày như dự định là không thực hiện được do âm mưu xảo
quyệt của Pốt và bè lũ phản động bành trướng xúi giục,giật dây v v...Tư tưởng
của lính đã thông, đã xác định được mục tiêu của kẻ thù nên tác phong bản lĩnh
của mọi người như được bừng lên và tỏa sáng.
Tôi được CTV Mận gọi lên giao
nhiệm vụ làm B trưởng của C3 nhưng tôi không nhận vì lý do sức khỏe tôi thuộc
loại B2 loại được trở về địa phương. Nhưng trong tình hình hiện tại tôi vẫn
tham gia chiến đấu khi nào có đợt thì ra quân. D điều tôi về làm A trưởng, A10,
C3 là A cối 60 ly thay cho đồng chí Khoát lính 71 về học Cao đẳng mỹ thuật Sài
gòn. Thế là tôi lại trở về tiểu đội 10 là nơi tôi là A phó từ ngày đầu thành
lập đơn vị. Có điều là nay tôi lên được chức A trưởng. Nghĩ thật là ...vui.
A 10 vẫ không thay đổi so với
trước trừ 2 đồng chí được ra quân. Đồng chí Nguyễn duy Đôi (quê Thyy Thanh TT
TB) và đồng chí Lê văn Chính (quê An
Đồng HH TB) Cùng tổ 3 người với tôi cũ thì cả 2 đồng chí đã hy sinh khi chốt ở
đường 13 thời KCCM. A Phó tên Dự lính 75 quê Thanh Hóa và mấy anh em nữa. Mọi
người tổ chúc liên hoan cho tôi thật lớn có đủ các món gà, lợn, trâu vv..và
rượu thì thật vô tư. Tôi gầy nhẳng có 48 kg nhưng cái khoản rượu thì có thể đọ
với dân "anh hai" được. BCH đại đội cùng xuống chung vui. Anh Tiễn
CTV người Mường Thanh Hóa thật là mừng khi tôi trở về đại đội. Anh Tiễn năm 74
cũng là người giới thiệu và đảm bảo lý lịch cho tôi vào Đảng. Nên anh em rất
hiểu và quý mến nhau, mãi hơn 8h bữa tiệc liên hoan mới kết thúc. Đó cũng là
bữa tiệc để lại dấu ấn không thể quên trong đời binh nghiệp của mình.
Một trận đánh đáng nhớ cuối tháng
10/77
Sau khi c3 được rút về phía sau
đóng quân ở cuối Mộc Bài để củng cố tinh thần, nghỉ ngơi. Bổ sung quân số, tổ
chức hoàn thiện lại trang thiết bị vv....... Cũng dịp đó tôi được điều từ c2
sang làm a trưởng a10 , cối 60 ly và có bữa liên hoan “ đã đời “ như đã nói.
Nghỉ ngơi được 4 ngày thì d và e
lại giao nhiệm vụ cho c3 làm nhiệm vụ đặc biệt là: theo trinh sát theo dõi ở
khu vực BaVét 2 có khoảng 2 chốt râu tôm của Pốt. Cứ chiều tối chúng ra, sáng
lại thấy nó vào BaVét 2. Số lượng cả 2 nhóm từ 6 đến 7 tên . C3 của tôi được
lệnh bí mật luồn vào để bắt sống số Pốt này. Không được bắn chết mà phải bắt
sống bằng được phục vụ khai thác . Toàn c lại chuẩn bị tư trang súng đạn đợi
tối sẽ có trinh sát của e và d dẫn đường theo phương vị tọa độ.
18h ngày 28/10/77 sau khi cơm
nước xong, mỗi người cũng vẫn thêm một phần cơm nắm do anh nuôi chuẩn bị, các
trung đội tiểu đội kiểm tra trang bị vũ khí thật kỹ càng. Mọi người phải đeo và
mang hết trang bị vũ khí ,đứng chạy tại chỗ xem có phát ra tiếng động lớn
không.Bi đông nước cũng phải đầy,để đi ko có tiêng óc ách phát ra từ bi đông
nước. Nếu có tiến động phải chỉnh lại .Không để xẻng va chạm với các thứ khác
vv..........
18h30p toàn đội hình ra đầu Mộc
Bài đợi trinh sát dẫn đường. Ai lấy để nguyên trang bị trên người tìm chỗ tiện
lợi ngả người hay tựa người vào gốc cây bờ đất. vv.........
Tiểu đội tôi qua kiểm lại xẩy ra
sự cố, thiếu 2 lính 72 (Hồng và Tùng) đều quê Thái Bình. Tôi biết ngay chuyện
gì đã xẩy ra. Không tổ chức đi tìm mà báo ngay với anh Tiễn, anh Trụ là anh em
bỏ về phía sau rồi. Anh Tiễn hỏi sao Phú biết. Tôi nói ngay là hôm qua 2 anh có
tâm sự với tôi rồi, và cũng đã nói trước là ý định về Sài Gòn không theo đơn vị
nữa. Mất 2 xạ thủ kỳ cựu rất tiếc nhưng thôi kệ anh em, động viên ở lại cũng
không được vì mỗi người một suy nghĩ, một tư tưởng. Tôi xin thêm 2 người thay
thế để gánh đạn cối còn xạ kích thì có đồng chí khác thay được.
Đợi, vẫn đợi trinh sát đến. Mọi
người lại truyện trò, lại mỗi người mỗi tâm trạng khác nhau. Tôi hơi giật mình
vì anh Đoàn Văn Tấn cùng tuối tôi (quê Mê Linh, Duy Tiên- Hà Nam Ninh) cứ say sưa
kể cho tôi nghe chuyện gia đình, chuyện cô người yêu tên Thu cùng xóm mà gia
đình muốn cưới cho làm vợ trong lần đi phép vừa rồi. Tấn kể tỷ mỉ nào là Thu có
tóc dài, răng trắng, hiền ngoan rất thục nữ vv...là giáo viên cấp 1 mới ra
trường dậy học ngay tai xã.Tấn kể đi chơi tối với nhau ở đầu làng mấy lần mà
xin hôn một cái mà rất khoát Thu không đồng ý nói là : “ để dành đến ngày
cưới”. Vì lính 72 đều ở độ tuổi chuẩn bị giải ngũ nên thời gian về cưới là cuối
năm 77 (dịp tháng 8- 9 âm lịch).
Tấn say sưa kể, mắt nhìn xa xăm
rồi hỏi như vậy là Thu có yêu tôi không? Tôi nói: đẹp trai như ông thì ai mà
không yêu. Phải nói là Tấn cũng thật sự đẹp trai, người cao to điềm đạm chứ
không loẳng ngoẳng cò hương như tôi. Tấn rất quý mến và trong sinh hoạt rất tôn
trọng tôi. Thật sự Tấn cũng nói về việc 2 anh em vừa về Sài Gòn có rủ cả Tấn
nữa.Nhưng Tấn không theo mà muốn thời gian nữa được về, vì danh dự gia đình và
bản thân.Vừa lúc đó lại có anh Thọ lính từ năm 58 là quân khí viên cùng quê với
Tấn đến gặp và nói lời động viên chia tay vv...Ở đ/v tôi lính quê Hà Nam Ninh
rất hiếm nên thêm việc gặp gỡ này nữa làm tôi thật áy láy.Theo linh tính thường
biểu hiện bất thường trước trận đánh thì hay xẩy ra nhiều phức tạp cho ngay
chính người nói chuyện như vậy.
21h trinh sát của d có anh Trịnh
Doãn Ngọ lính 74 (quê ở Hương Sơn Hà Tĩnh,năm 79 hy sinh bên đất K khi giữ chức
c tr c3) và trinh sát e đến 2 người. Các anh mang bao xe, mấy quả lựu đạn, AK
Báng gấp dao găm Nga,ống nhòm đeo trươc ngực,cạnh chỗ con dao găm còn có hộp da
đựng địa bàn.Quần đã cài cả cúc dưới ống nấm lem. Trông ai cũng thật lanh lợi.
Các anh hình như đã vào trinh sát mở đường rồi với quay về đón đội hình.
Toàn đội hình lên đường thật im
lặng. Hướng đi từ Mộc Bài cắt chéo về hướng Tây Bắc giáp giữa làng Tiên Thuận
và BaVét 2 nhưng đi gần sát làng Tiên Thuận hơn. Đi. Cứ đi, trời đầy sao, trăng
sáng mờ, lúc đi, lúc nghỉ, lúc đi theo bờ mương, lúc lại cắt ngang cánh đồng
lúa. Đi 1 lúc thì gặp 2 trinh sát nữa đang đợi chúng tôi tới và cùng dẫn đường
đi tiếp. Đi ngang qua ruộng lúa cứ vướng, lúa quấn vào chân thật khó đi. Bước
cao lên hẳn thì không được mà cứ dùng chân rẽ lúa ra đi thì vướng vào các khóm
lúa. Rất là khó chịu. Chợt nghĩ ở quê mình
lúa cấy thẳng hàng, còn ở đây chúng nó chẳng có hàng lối nào cả, nhưng
sao lúa của chúng tốt thế, bông nào bông ấy trĩu hạt, làm chân của lính ta mỏi
nhừ. Thỉnh thoảng có con chim cút hay rẽ giun gì đó ,thấy động kêu chóe chóe,
bay vọt vào trời đêm.
Cứ đi, cứ nghỉ, rồi lại đi, lại
nghỉ có lúc ngả người ngay tại cánh đồng .Được nằm lên cái đệm lúa mà ngắm trời
sao mênh mông. Thật là lãng mạn. Được cái là mùa này là mùa khô, ở đây đất cao
nên anh em không phải lội nước. Khuya, rất
khuya. Phía sau xa xa ,thỉnh thoảng vẫn có ánh đèn le lói hay vẳng tiếng chó
sủa rồi chìm vào yên tĩnh. Phía trước không xa lắm là BaVét 2 xa hơn nữa là
BaVét 1. Bóng những cây thốt nốt ở rìa làng cao to đen thẫm trên nền trời tối
mờ nhưng cũng thật rõ. Từ Mộc Bài sang BaVét 2 cự ly có hơn 1000m mà sao anh em
phải đi lâu thế, đi vòng vèo xuống gần cả BaVét 1 rồi mới lại vòng lên. Thỉnh
thoảng lại thấy mấy anh em trinh sát chụm đầu, trải bản đồ dùng la bàn gióng
phương vị. Rồi lại đi tiếp. Phải nói là trinh sát thật giỏi,và quá vất vả. Họ
mò mẫm trong đêm, lúc để đội hình ngồi đợi, họ bò lên hoặc tiền nhập 1 quãng
xem có chốt địch không, rồi lại quay lại dẫn mọi người đi tiếp.
Khuya, đã quá khuya. Mọi người đã
thấm mệt, cứ tạm dừng là lại thấy ngửa cổ dốc Bi đông uống nước. Rồi lại phải
làm động tác dồn nước vào nhau cho đầy bi đông. Không để cho nước trong Bi đông
vơi phát ra tiếng động óc óc. Trời qua đêm, sương xuống nhiều. Gió trời, sương
lạnh thật khoan khoái .Mùi lúa chín thơm phức, nhưng suốt mấy tiếng giữa cánh
đồng lúa nên cũng chẳng ai thấy được hương lúa nữa. Ai nấy người ướt đẫm mồ
hôi.Đã lâu lắm rồi ko bị hàng quân và thức đêm thế này.
Đi, cứ tiếp tục đi, rồi lại đi
,đi lại nghỉ. Bẻ đi bẻ lại lấy phương vị mấy lần nữa, Trời đã tảng sáng thì đội
hình cũng đã áp được vào rìa làng, cách mấy chốt râu tôm khoảng 50m. Ở đó lại
có mấy gò đất như mấy ngôi mộ. Trinh sát dừng lại ở đó mời cán bộ đại đội, các
BTrưởng và tôi a trực thuộc, lên chỉ phương hướng và các đ/c trinh sát dừng lại
ở đó. Anh Trụ nhanh chóng chỉ hướng cho từng B. Khẩu đội cối của tôi gióng súng
tại vị trí đó. Mọi người tuyệt đối im lặng. Các b bộ binh tiếp tục tiền nhập về
hướng của mình theo đội hình gọng kìm , tiện cho viêc xung phong bắt địch.Tôi
nhắc ae gióng súng thao tác thật nhẹ.Rồi nói mọi người tranh thủ ăn cơm nắm chứ
ai cũng đói rồi.
Trời đã tang tảng sáng. Vừa nhai
được mấy miếng cơm nắm, thì thấy đ/c Nam liên lạc c trườn xuống (Phạm
Văn Nam quê ở Nghệ An ít ngày sau bị thương, hiện giờ đang làm việc tại Sài
Gòn) nói: anh Phú chuẩn bị xung phong nhé. Tôi cất vội nắm cơm cắn dở vào túi,
nhắc anh em chuẩn bị xung phong chứ không bắn cối.
Xung phong ... đầu tiên nghe rõ
tiếng hô ồm ồm của anh Trụ C trưởng. Cùng lúc là tiếng hô xung phong đanh gọn
của anh Tiễn cvt. Thấy mọi người đồng loạt đứng dậy lao lên, rồi tiếng hô của
anh em các trung đội.Mọi người vừa hô vừa chạy tiến vào chốt địch rìa làng. Thoáng
nhìn thấy 4 - 5 thằng Pốt đứng lên ngó nghiêng, thằng thì 2 tay còn đang khoác
cái chăn mỏng. Chúng đang rất bất ngờ, đứng chôn chân, mồm há hốc. không thằng
nào kịp cầm súng. Anh em đồng loạt hô “lớc đay lơng” (giơ tay lên) bọn chúng
giơ tay hết lên trời. Thằng khoác chăn , trông rõ nó buông tay cầm, chăn rơi
xuống. Anh em không bắn mà lao lên để bắt sống. Còn cách chúng khoảng 15m nữa
.Đã nhìn rõ sự sợ hãi của chúng , rồi đột nhiên chúng như bừng tỉnh lại và hiểu
chuyện gì đang xẩy ra. Tất cả quay đầu ù té chạy. Anh em vẫn không bắn mà đuổi
theo, quyết bắt sống .Nhưng bọn này chạy chân đất quá nhanh, chạy bán sống bán
chết. Anh em mình qua 1 đêm luồn sâu, không ngủ đã rất mệt, nên đuổi không kịp
chúng. Hướng bên B1 cũng xẩy ra tình trạng tương tự như vậy. Chúng chạy băng
qua đường 1, rồi băng xuống đồng lúa xa dần giữa ta và Pốt. Lúc đó anh em mới
nổ súng. Không biết có thằng nào chết không còn lại chúng chạy biến mất...Hướng
đó phía đông Nam
đường, mình lại không có B nào chặn ở đó. Bao nhiêu vất vả thật là công toi.
Thu được tât cả súng của chúng vất lại.có 1 khẩu b40 mấy quả đạn, còn lại toàn
súng ak.Thật bực mình.Rồi việc tiếp diễn xẩy ra còn tồi tệ nữa, nhất là với a
của tôi.
Sau khi đuổi theo mấy thằng Pốt
ra cánh đồng, cách trục đường 1 vài trăm mét. Cũng không bắt được thằng nào.
Mọi người trở lại BaVét. BCH C báo cáo về d xin chỉ thị. Chỉ huy d lệnh không
được rút về Biên giới mà phải chốt lại BaVét 2 đợi lệnh.
Anh Trụ lại phân các B chốt giữ
các hướng chạy quanh rìa phum. BaVét 2 là một Phum nhỏ không lớn như BaVét 1
cũng có nhà xây, nhà sàn nhưng lưa thưa hơn nhiều. Phía Đông Nam đường B1+ B2, phía Tây Bắc
đường là B3 đầu Phum. A11 hỏa lực cũng được tăng cường cho các B . BCH c cùng
thông tin và số ae trinh sát ở dưới gầm 1 nhà sàn giữa phum. Riêng a 10 của tôi
thì bố trí ở rìa làng, hướng Tây Bắc, tiếp giáp B3 nhưng ở chỗ góc tù hình thoi
(Phum có hình thoi). Tôi không đồng ý với cách bố trí của anh Trụ. Tôi nói: “
Sao anh lại bố trí cối 60 ở rìa làng? Tôi thấy không hợp lý ? Anh phải bố trí
trận địa cối ở giữa phum chứ, cối mới
phát huy được hỏa lực chi viện cho các hướng. Bố trí ở đây như là tiểu đội bộ
binh tôi thấy không được. Vì chúng tôi chí có 2 khẩu ak và mấy quả lựu đan. Anh
Trụ nghĩ ngợi một tý rồi vẫn nói: “anh cứ ở đấy đi”. Tôi phản đối mạnh hơn
nhưng anh Trụ vẫn không đồng ý. ( anh Trụ lính 5/71 quê ở Lộc Hồng, Mỹ Văn, Hải
Hưng hy sinh ngày 8/4/78 tại Hà Tiên- Kiên Giang khi giữ chức vụ d phó d1).
Anh Trụ c trưởng kém tôi một tuổi,
nhưng đi bộ đội hơn tôi một năm. Tướng mạo cao to, râu quai nón trông rất dữ
dằn, thuộc người ăn to nói lớn. Nhưng thực chất lại rất hiền lành. Anh em ở với
nhau đã lâu. Mọi lần góp ý gì anh cũng hay nghe theo. Nhưng lần này nói thế nào
anh Trụ cũng không đồng ý. A 10 là A hỏa lực cối 60ly, loại pháo nhỏ nhất trong
các loại pháo. Nhưng khi sử dụng, ngoài số anh em gánh đạn còn số 1, số 2 đều
phải là những người có văn hóa khá hơn, có ý thức nhưng cũng phải biết tính
toán phần tử như các loại pháo lớn khác. Nhiều anh em thông minh, nhưng cũng
rất bướng nên thấy tôi nói với c trưởng và c trưởng vẫn không đồng ý thì mọi
người rất phản ứng.
Thấy thái độ của anh em như vậy,
c trưởng thì cứ quyết như thế. Tôi đành khuyên anh em phải chấp hành mệnh lệnh. Về vị trí chốt mặc
dù trong lòng cũng chẳng thoải mái chút nào. Trong bụng còn nghĩ sao ông này
hôm nay “ Hâm” thế?
Về vị trí rìa làng. Tôi chọn
hướng cảnh giới cao vẫn là hướng Tây và
bố trí 2 khẩu cối hình chữ I cách nhau 15m. Tôi là a trưởng trực tiếp chỉ huy
khẩu đội 1 gồm có đ/c Biểu (quê Nghệ An ,
lính 74 tuổi ngang tôi trước là công nhân nông trường gì đó ở quê) là xạ
thủ số 1. đ/c Tấn như đã nói chuyện, là xạ thủ số 2 và đ/c Hoa xạ thủ số 3 tiếp
đạn. Khẩu đội 1 được bố trí sát rìa cánh
đồng. Tận dụng cộng sự chốt của bọn Pốt, anh em chỉ sửa qua là đã có hầm đặt
cối và các ụ chiến đấu cá nhân . Ngay sát trận địa là một khóm thốt nốt 3 cây
cách vị trí súng 3m, hơi lùi về sau.
Khẩu đội 2 đ/c Dự a phó (lính 75 Thanh Hóa hy sinh ngày mồng 2 tết
âm lich năm 79 ở Công Pông Sư Pư khi
thay tôi làm atr a 10) trực tiếp làm
khẩu đội trưởng kiêm pháo thủ số
1, đ/c Hoài (quê Hương Sơn Hà Tĩnh sau
khi ta vào PomPenh ngay buổi chiếu ngày
7/1/79 lấy một cái xe máy chạy lung tung rồi mất tích luôn.Ae nói là Hoài chạy
vào chỗ còn Pot nên bị bắn chết) lính 74 làm pháo thủ số 2. Hoài là thuộc
thành phần nghịch ngợm. Hay tự do thiếu ý thức kỷ luật.Hoài rất hay hát những
bài ca của nhạc sỹ Trịnh công Sơn như “thành phố buồn,nhớ ko em vv...”Nhưng khi
tôi về làm a tr thì Hoài rất vui hay cùng tôi đi hái rau cải thiện ,rất hay
kiếm được chất “cay ..cay”rủ tôi nhâm nhi. Ngoài ra còn đ/c Tiến lính 77 (quê Thụy Ninh, TT, TB. Hy sinh ngày 3/5/78
cùng người cậu ruột) và còn 1 đ/c
gánh đạn cối nữa tôi quên mất tên.Ae khẩu đội này cứ nằm nghỉ ko chịu đào hầm
pháo và hố chiến đấu. Tôi nhắc mấy lần mà ae cũng ko nghe.
Nhắc nhở anh em xong , tôi cùng
đồng chí Dự đi quan sát địa hình chung quanh. Đây là rìa làng giáp cánh đồng
lúa.Từ đây vào chỗ BCH đại đội xa khoảng 100m muốn vào BCH thì phải vòng qua 1
cái ao khoảng 2-3 sào hình chữ nhật, có bờ dốc đứng .Nhìn nước đục có tăm cá.
Anh em đoán có rất nhiều cá và đang có ý định tìm cách để bắt. Chung quanh vị
trí của A đất gò hơi cao những cây trinh nữ (cây xấu hổ) rất nhiều, chúng không
cao lắm mà bò lan ở mặt đất. Muốn đi thì phải dẫm đạp nên chúng. Hai anh em đi
một vòng quanh chỗ chốt , đến cả chỗ B3 do anh Dũng (quê Móng Cái- Quảng Ninh)
mới được đề bạt làm B trưởng. Tôi có trao đổi với anh Dũng là A trụ bố trí như
vậy và nếu có Pốt vào hướng tôi thì anh đánh tạt sườn hộ. Thực sự là đội hình
bố trí quanh Phum hình quả trám này , hỗ trợ nhau tương đối thuận. Hợp đồng
xong anh em tôi về vị trí tiểu đội. Đã gần 10h sáng, đ/c Từ C phó và Nam
liên lạc c xuống kiểm tra tình hình bố phòng của A và nói là: trên báo có khả
năng Pốt đang triển khai tập kích vào đơn vị, nhắc anh em đề phòng. Tôi nói là
anh yên tâm, và đề nghị tăng cường mấy trinh sát xuống chốt cùng A10. A Từ nói
sẽ về báo cáo lại BCH C, rồi cùng liên lạc vòng sang B3.
Tôi thông báo với anh em tình
hình địch và trách khẩu đội 2 sao không đào hầm. Đồng chí Hoài vẫn vừa nằm vừa
nghêu ngao cái bài ca muôn thủa: “thành phố buồn.nhớ ko em ...” thấy tôi giục
nhỏm dậy nói ở: đây gần mình nó không giám tập kích đâu, anh đừng lo.
Rất bực tức, đang đứng ở khẩu đội
1, tôi đi lại chỗ Hoài và nói: “ Chúng mày lười thì đưa tao đào cho” và cùng
đồng chí Dự đào hầm để súng. Đào được hơn chục nhát xẻng thì đ/c Tấn gọi: “Anh
Phú ở về ăn cơm đi, kệ m...chúng nó” nhìn lên thấy Tấn ngồi dựa vào gốc cây thốt
nốt gần cộng sự đang nhai cơm. Tôi nói: “để giúp chúng nó 1 tý , Tấn ăn trước
đi” Đào thêm mấy nhát nữa, thì nghe Pốt hô Trô- Trô. Rồi tiếng súng AK nổ ran.
Tiếng đạn DKZ xoẹt ... ầm. Ngẩng lên tôi thấy mấy chục thằng Pốt đang tiến vào
hướng chúng tôi. Chúng vừa chạy khom vừa bắn. Rồi 1 thằng nép dưới ruộng lúa
đứng vụt lên, vai vác khẩu DKZ82 tôi thấy phụt lửa và xoẹt. Chớp lửa lóe lên
rồi ... oành. Ngay chỗ khẩu đội 1, khói thuốc súng trùm lên khét lẹt. Thoáng
nghĩ nguy hiểm rồi. Tôi và Dự vồ lấy súng bắn luôn mất loạt AK về phía Pốt.
Tiếng anh Biển kêu rất to “Ôi tôi bị thương rồi... Phú ơi”. Bắn thêm mấy loạt.
Thấy bọn Pốt đã gần. Tôi hô lựu đạn. Tôi và Dự mỗi người đều lấy lựu đạn, rút
chốt và cùng ném về phía địch, oàng ...oàng...Rồi lại 2 quả nữa.Lựu đạn chắc
không tới được chỗ chúng, nhưng tất cả chúng nằm hết xuống.Rồi tiếng súng của
B3 anh Dũng quạt chéo sang, đánh bật bọn Pốt ra ngoài bẻ gẫy đợt tập kích của
Pốt.
Trong lúc B3 vẫn đang nổ sung
đánh đuổi địch. Bọn chúng thằng thì chạy ra, thằng lại mất hút vào ruộng lúa.
Tiếng anh Biểu vẫn gào lên rất to. Tôi nói với Dự là 2 anh em bò lên. Dự nói :
anh cảnh giới để em lên. Tôi nói: anh em mình cùng lên. Phải nói là Dự là lính
75 chưa vào trận thì đã giải phóng miền Nam rồi. Chưa tham gia trận chiến
nào, như vậy là Dự rất dũng cảm, bĩnh tĩnh. Tôi ngoái lại thì Hoài và anh em
khác đã chạy lùi về sau.
Tôi và Dự bò lên theo kiểu bò 1
tay, còn tay phải vẫn cầm súng. Thẳng lên chỗ khẩu đội 1. Thấy đ/c Hoa đang nép
vào bờ đất mặt tái mét, máu đã loang cả vai, một tay cầm quả lựu đạn, nhưng giữ
sang chỗ vai bị thương. Tôi nói Hoa lùi về. Tiếp đến là thấy Tấn vẫn trong tư
thế dựa người vào cây thốt nốt. Đầu đã nghẹo xuống bất động, đã hy sinh. Tay vẫn còn cầm miếng cơm. Vết thương chính đỉnh đầu rất
to máu đẫm từ đầu xuống. Còn Biểu thì 2 tay giữ đầu gối chân phải, khu vực đầu
gối máu ướt đẫm, quần rách nham nhở. Mồm thì vẫn: “ối giời ơi, Phú ơi”. Tôi nói
Dự kéo anh Biểu về để anh cảnh giới. Rồi lùi dần về đến bờ ao. Như thấy Dự đang
lựa chọn đường đi. Tôi cũng thầm tính đi vòng bờ thì xa, và quyết định ngay
nói: lội qua ao cho nhanh. Quay lại sau không thấy bóng thằng Pốt nào nữa , hai
anh em kéo Biểu xuống ao. Nghĩ là ao nông, ai ngờ nước sâu ngụp tới cổ. Biểu
vẫn kêu rên ,tôi nói im ngay đi Pốt nó nghe thấy đấy. Lúc đó cũng không nghĩ
đến việc vết thương của Biểu sẽ bị nhiễm trùng.
Hai anh em dìu Biểu sang bờ bên
kia. Tôi nhoai mấy cái mới lên được bờ. Cầm tay kéo còn Dự ở dưới ao đẩy Biểu
lên. Cả 3 lên được bờ. Tôi ngồi xuống nói Dự để anh Biểu quay lưng áp vào lưng
tôi , định cõng chạy. Để súng đấy cho
Dự, 2 tay tôi cầm chặt 2 tay Biểu vùng đứng dậy nhưng sao cố mãi, cố mãi mà
không đứng lên được, người cứ ì ra bủn rủn hết sức. Dự nói anh để em và đưa lại
2 khẩu súng cho tôi, vụt đứng dậy cõng Biểu chạy về phía BCH đại đội. Tôi chạy
theo vừa chạy vừa thỉnh thoảng quay lại quan sát địch. Gần tới BCH đã thấy 8-9
anh em tiểu đội B2 đang dò dẫm ra phía chúng tôi. Vào tới gầm nhà sàn BCH đại
đội, tôi thấy mắt mờ như có khói, đầu óc quay cuồng tôi nói: có chất độc, rồi
gục xuống không biết gì nữa.
Mình ngất đi.ko phải bị thương, ko
phải chất độc hóa học, ko phải tại con đẻn như 812 bói.Mà là mệt quá, kiệt sức
nên ngất đi.Sau khi đươc y tá đại đội tiêm hồi sức cấp cứu tôi tỉnh lại, ngơ
ngác ko biết những gì vừa xẩy ra. Rồi tiếng người nói,tiếng súng rộ lên. Sau đó
được biết d cử c1 lên trợ chiến, đánh đuổi Pot và hỗ trợ c3 thu dọn chiến
trường. Đưa thương binh liệt sỹ về biên giới. Tôi cũng được vận tải d cáng về.
Khi đã b/t trở lại.ae kể cho tôi
tiếp diễn sau khi tôi ngất đi trong khoảng 20p, bọn Pót tập kích mấy lần nữa
nhưng đều bị các chốt đánh bật ra.Tổng kết lại, ta hy sinh 1 (đ/c Tấn a10) bị
thương 5 đ/c trong đó a 10 có đ/c Biểu và đ/c Hoa.
Những lần gặp Hoa ở cuộc họp ccb
F . Tôi có hỏi thăm về Biểu. Khi về nước được chuyển lên phẫu của e .Rồi chuyển
điều trị ở viện 175 Sài Gòn. Ko phải cưa chân tháo khớp, mà cái chân phải đó bị
vỡ bánh chè. Khi khỏi cứng khớp ko co ra duỗi vào được. Về quê được 10 năm thì
ốm mất ở quê.
Cách đây 2 năm tôi có tìm được
nhà anh Tiễn cvt hồi đó. Anh đang sống tại gia đình xã Cẩm Long,Cẩm Thủy, Thanh
Hóa. Gần suối cá Thần Thanh Hóa. Hiện tại anh cũng đang là đại đội trưởng chỉ
huy 100 lính ....DÊ cụ...hi hi. Ngồi nhâm ly chén rượu Mường, và thịt lính DÊ
ae ôn lại chuyện cũ và trận đánh đáng nhớ này. Buồn vui lẫn lộn.
-----------------
Binhyen1960
Cái cảm giác lội ruộng nước bùn
đất xục lên đến ngang thắt lưng đục ngầu , trên vai vác thương binh khoác thêm
khẩu AK của đồng đội tay cầm khẩu súng của mình, ngực đeo bao xe đạn bước xiêu
bước vẹo bám bờ mương, bờ thửa mà rút về tuyến sau, địch thì đổ từng tràng đạn
cắm phầm phập trên bờ mương đất quanh mình, vậy mà cả mình lẫn thương binh
chẳng dính viên nào, nếu dính chắc cũng nằm luôn ở đó cả 2 thằng vì còn sức nữa
đâu, mồm miệng thi nhau thở chân cẳng thì bải hoải bài hoài và thằng bạn thương
binh trên vai mình thì cứ ỳ ra càng ngày càng nặng.
Cái ký ức đó nhớ mãi, nhớ mãi đến
nhiều năm nhớ đến tận bây giờ vẫn còn nhớ, mỗi bước đi như đeo đá dưới cổ chân
và con đường đưa thương binh rút chạy ra khỏi trận địa dài cả gần km, lúc mệt
quá sức rồi thì bắt buộc phải nghỉ để lấy sức mà chạy tiếp, nhè nhẹ đỡ thương
binh nằm xuống vì sợ nó đau , mỗi lúc thấy nét mặt nó nhăn nhó là tự nhiên thấy
lòng mình sót lại 1 chút rồi tự trách mình sao không cố gắng thêm chút nữa để
đồng đội bớt đau đớn .
Con đường "Tử thần" đó
từng đưa tiễn gần 50 tử sỹ và thương binh của C2 đơn vị BY chỉ sau 1 trận đánh
, may mắn sao BY không nằm trong số họ và có thể nói đó là trận đánh đầu đời
của BY khi đối mặt với lính Pốt .
Ai đó từng tác chiến cuối mùa mưa
đầu mùa khô trên tuyến BGTN khu vực Svay Rieng thì ít nhiều có được 1 lần lội
ruộng nước vác thương binh tử sỹ trên vai . Ác liệt và gian khổ ngoài sức tưởng
tượng của BY mặc dù đã được cọ sát súng đạn một thời gian ngắn.
Kiệt sức và ngất đi như bác
tranphu341 thì BY chưa từng nhưng gần ngất vì kiệt sức thì đã từng vài lần và
lúc đó BY cũng chỉ nặng có 47kg cao 1,67m , gày nhẳng gày nhằng mặt vẫn phủ lớp
lông tơ búng ra sữa. Dù chúng ta là những người chiến thắng ở cuộc chiến tranh
đó nhưng tất cả chúng ta vẫn luôn thầm ước "Giá như không có chiến
tranh". Phải không bác tranphu341 ?
-----------------------------
TranPhu341 xin chào các bạn hôm
qua mình vắng nhà nên ko đón tiếp các bạn được.
Mình thấy BY có trận đầu chiến
với Pot mà lại quá ác liệt ,hy sinh ,thương vong nhiều như vậy là bất khuất
lắm, dũng cảm lắm. 1 "cậu" lính "Hà thành" cũng có trọng
lượng và chiều cao lí tưởng như Phú. Chiều cao kém Phú 1 tý hihi!!! Grin (bây
giờ thì chắc cao hơn rồi.) lội ruộng, chiến đấu, mang vác thương binh tử sỹ
suốt ngày mà vẫn chịu được thì phải nói là kiên cường lắm,anh hùng lắm,và đáng
phục lắm.Chúc BY bây h và mãi mãi có cuộc sống gia đình vui hạnh phúc.Bù lại
phần nào những năm tháng chiến binh vất vả của mình.
- haanh là lính tt,mình thấy đ/v
mình lính PRC25 , trong tác chiến mà phải vận động nhiều cũng chẳng sung sướng
gì đâu.Nhất là trong đánh vận động phải lội nước nhiều.Được cái là
"oai"được ăn,ở cùng với xếp.Hơn ae bb súng dài nhiều.
- bs-812 à.mình có biết là mệt
đâu.lúc đó tinh thần thì vẫn đang hăng,lại trong lúc căng thẳng.Mình thấy có
khói,hoa mắt.Chắc do ảo giác, nên mình hô vậy theo bản năng phản ứng thôi.Xin
lỗi vì đã làm 812 ''bói'' nhầm... hi hi..
_Bạn bschung hỏi mình về 2 khẩu
đội cối theo đội hình nằm ngang hay dọc. Mình đã có nói là đội hình chữ I như
vậy là hàng dọc rồi.Còn hầm hào có tốt thì cũng chỉ tốt khi bị tấn công bằng
đạn thẳng thôi. Còn đây là đạn DKZ nó nổ trên cao, mảnh đạn găm xuống hầm hào
ko có nắp nên cũng chẳng có tác dụng
gì.Khẩu đội 2 nhóm của Hoài ko chi viện được gì cũng đúng thôi , vì súng ak thì
ko có.Bắn cối thì ko kịp,mà 1 quả đạn cối bắn đi đến khi rơi xuống đất theo như
mình nhớ là cũng phải tới 7-8 giây.Nên ko thể chi viện kịp.Hơn nữa nhóm của Hoài đang rất chủ quan ,vừa nằm vừa hát,công
sự cũng ko đào. Nên bọn Pot tập kích bất ngờ thì thường là:" chủ quan bao
nhiêu,thì bị động và hoảng hốt bấy nhiêu"lùi về là đúng sách. Nhưng còn
đ/c Dự vẫn cùng mình tác chiến và lấy thương binh đấy thôi.
Bạn Vietpo''lut'' đây mới là mấy
trận đánh đầu tiên của cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam mà mình đã được tham dự hơn
1000 ngày mà. Đây mới chỉ có mấy chục ngày thôi.Chuyện lính chiến còn dài
lắm,mình rất vui nếu được bạn theo dõi.Chúc bạn và gia đình ở phương trời xa có
1 cuộc sống vui,khỏe,thật đầy đủ và an lành.
Thưa các bạn: Nhưng nhiều năm sau
mình vẫn nghĩ:nếu như khẩu đội của Hoài mà cũng đào công sự theo mệnh lệnh .
Thì mình ko phải xuống đào giúp,hoặc khi mình nghe Tấn gọi về ăn cơm mà mình về
ngay , thì thế nào?có thể sẽ ko có còn ai kể cho các bạn nghe chuyện này nữa
.Thôi âu cũng là số trời."Trong cái dủi lại có cái may."
Như vậy là mình và Dự ko phải là
ko bị thương đâu nhé. Mà mỗi người bị hàng ...ngàn vết...thương nhỏ ly ty.Các
b/s đồng đội phải mất 1 ngày dùng kim khâu khêu hàng ngàn cái gai cây xấu hổ ,
nó đâm dày đặc vào 2 bàn tay khi 2 ae bò
lên, phải bò qua chúng .Lúc bấy giờ ko ai nghĩ đến gai nữa. Và nó làm bọn mình
nhức buốt cũng ...rất kinh khủng ....hi hi...
-----------------------------
Bước ngoặt mới :
Trung tuần tháng 11 năm 1977,
chiến sự trên địa bàn do E273 đảm nhiệm vẫn diễn ra. Ngày 17/11 bọn Pốt tung
13d chủ động đánh lấn đất Biên Giới ta từ Nam Phước Trường đến Phước Tân, Năm
Căn , Hòa Hội thuộc huyện Châu Thành. Xã Tân Lập, Tân Phú, Trảng Riệc huyện Tân
Biên. Chúng vẫn nuôi ý định ngông cuồng
vượt sông Vàm Cỏ để đánh chiếm thị xã Tây Ninh
Qua học tập tình hình , được biết
nhiệm vụ của toàn Quân đoàn 4 là phải đánh đuổi và tiêu diệt bọn Pốt . Đẩy
chúng về bên kia Biên Giới . Sư đoàn 341 thiếu được tăng cường trung đoàn 14
của F7 làm nhiệm vụ tiến công địch ở khu vực 2 và 3
- Khu vực 2 là hướng tiến công chủ yếu đánh
vào E21, F290 và d7 quân khu 203 của Pốt trên trục đường 241.
- Khu vực 3 là hướng tiến công quan trọng , đánh
vào E 182,F3 và khoảng 5 tiểu đoàn địa phương QK 203 của Pốt.
Tối ngày 2/12 E trưởng 273 Trần
Măng (quê ở Đông Anh Hà Nội) trực tiếp về Quân đoàn nhận n/v. E273 (thiếu d2)
cùng E266 được tăng cường 4 khẩu pháo 85 ly đảm nhiệm tiến công hướng chủ yếu
là M1, M2 (mật danh của KoKiSaom và Sang Kum miên Chay) E273 đánh từ Tây Bắc
xuống. E266 Vu Hồi phía Nam, Đông Nam. Cách đánh của E273, E266 là bí
mật, luồn sâu, vận động hình thành thế bao vây. Dùng hỏa lực chi viện cho bộ
binh xung phong diệt địch. (Khi luồn
sâu,địa hình phức tạp.Nên có pháo binh sư đoàn bắn cầm canh để chỉ hướng hành
quân luồn sâu vào đất địch).
Hướng quan trọng tiến công theo
trục đường số 1, gồm có E14 của F7 + D2 của E341. Phải đánh cơ động nên được
tăng cường 30 xe ôtô cùng tăng thiết giáp, tăng cường 2d pháo mặt đất 1d pháo
cao xa 37 ly hai nòng. Tiến công, hành tiến bằng sức mạnh hợp đồng binh chủng.
d2 của E273 cùng 2 đại đội thiết giáp M113 từ Tốc Xé , Tiên Thuận đánh qua
PaVét 1 xuyên rừng Sở, đánh vào sườn nam Chi Phu ở thị trấn Pờray, Kôki.
Các đơn vị được học tập, quán
triệt nhiệm vụ chiến đấu, mục tiêu tiến công nghiên cứu tỷ mỷ trên sa bàn, bàn
đồ và khẩn trương làm các công tác chuẩn bị cho chiến dịch.
Một không khí chiến đấu lại bừng
lên, Các hội nghị quân chính các cấp, hội nghi đoàn thanh niên, chi bộ đảng
từng đại đội, từng bộ phận. Tổ chức học tập.quán triệt tình hình và n/v chiến
đấu mới, cách đánh mới. Không thể để cho bọn Pot chủ động chọc phá chiếm đất
của ta. Phát động quyết tâm đánh giặc.Truyền thống của quân đội NDVNAH. Các trợ
lý tác chiến, trợ lý chính trị E,F tăng cường xuống từng c bb để phổ biến tình
hình .Phát động thi đua vv...Và tăng cường trực tiếp đi luồn sâu tác chiến cùng
các đ/v. Ngày giờ tiến công đã được ấn định là N+2 tức ngày 6/12/77. Đây mới
chính thực là trận chiến , mà sức mạnh của hỏa lực , kết hợp với tinh thần dũng
cảm. Chiến thuật tác chiến tài tình của quân đội nhân dân Việt Nam.
Được gởi gắm vào những người lính của quân đoàn 4. Và trực tiếp là sư 341 và
trung đoàn 14 sư đoàn 7.
Từ cán bộ chiến sỹ lại rất khẩn
trương củng cố ý chí ,trang bị vũ khí trước nhiệm vụ nặng nề này. Trong bài
viết có sử dụng 1 số tư liệu về địch của trung đoàn 273.
Sau khi đã bàn giao địa bàn cho
các đơn vị của bộ đội Tây Ninh chốt giữ. Ngày 4/12 các đơn vị chuyển quân đến
vị trí tập kết. E trưởng Trần Măng đi cùng hướng chủ yếu với d1, d3, E Phó
Nguyễn Rấng và tham mưu trưởng e Trần Quy Nhơn đi với hướng quan trọng cùng d2
. (Tham mưu trưởng Trần Quy Nhơn lính 60
quê ở thôn La Uyên, Minh Quang, Vũ Thư- Thái Bình hy sinh ngày 4/2/2978 tại An
Giang)
Các đơn vị được cơ động bằng xe ô
tô từ khu vực Bến Cầu, Gò dầu đi vòng vèo nghi binh. Về Thị xã Tây Ninh rồi tập
kết ở khu rừng Phước Trường Phước Chỉ.Giữa khu vực đường 13 và đường 1.
Tôi nhớ hôm đó là chiều chủ nhật.
A10 được ngồi cùng xe ô tô với BCH đại đội , xe Hồng Hà 3 cầu vừa đi vừa bò
theo đường xe trâu kéo . Đường rừng rất xóc chậm chạp leo qua từng đống đất ,
những gốc cây. Đúng là phải rẽ rừng ra mà
đi . Vết đường xe trâu kéo thì nhỏ, xe tải Hồng Hà 3 cầu thì to. Anh em
cứ tý tý phải cúi rạp xuống để tránh cành cây, hoặc đứng lên bẻ uốn các cành
cây không bị đâm ,gạt vào người. Được cái trời nắng. Nhưng nơi đây rừng thấp ẩm
, thỉnh thoảng xe phải lấy đà mãi mới vượt qua được những đám lầy. Anh Tiễn
cvtr có cái đài 3 băng Nationa bây giờ mới đáng quý. Đài tiếng nói Việt Nam
đang tường thuật trực tiếp trận bóng đá giữa 2 đội CA Hà Nội, thi đấu tranh
giải với đội Tổng cục Đương Sắt. 2 đội bóng thời đó được xếp vào loại nhất nhì
của bóng đá Việt Nam. Tiếng hò reo của khán giả, kèm cả tiếng trống gõ, tiếng
kèn của các cổ động viên sao hào hứng đến vậy. Nơi đó đang yên bình, hàng vạn
người, triệu người đang theo dõi trực tiếp hoặc gián tiếp trận đấu. Và ngay
chúng tôi cũng đang theo dõi trận đấu. Nhưng không phải trên sân Hàng Đẫy.
Không phải bên anh em, bạn bè, vợ con. Có trà, có rượu. Mà chúng tôi theo dõi
trận đấu bên đồng đội, bên súng, bên đạn và trên xe xóc giữa rừng, đường ra
chiến trường. Có ai biết nhiệm vụ vinh quang, nặng nề của chúng tôi. Ở đó, trận
bóng thắng lợi là tính theo tỷ số bàn thăng,thua thủng lưới. Nó đổi bằng kỹ
chiến thuật và mồ hôi. Còn chúng tôi thắng lợi là tính bằng nhiệm vụ có hoàn
thành ? Và phải đổi bằng vất vả gian lao, bằng xương bằng thịt, bằng máu của
tuổi trẻ, bằng danh dự dân tộc.
Bất giác tôi nghĩ: chúng tôi đang
vào trận đấu thế này, mà sao không có bình luận viên tường thuật cho mọi người
cùng nghe, cùng biết. Nhất là gia đình và tất cả những người thân yêu của mình.
Ngày mai sẽ là trận đấu pháo, đấu súng, đấu sức vóc trí tuệ. Với những tiếng nổ
ầm vang, long trời lở đất. Mà sao vẫn im lặng thế này. Vẫn còn rất nhiều người
không biết đến trận đấu đăt biệt này.
Chiều tối ngày 4/13 toàn bộ đội
hình (thiếu) của E273 đã tập kết ở khu rừng Phước Trường, Phước Chỉ. Trạm Phẫu
và Sở Chỉ huy hậu cứ đặt tại đây. Các đơn vị làm công tác chuẩn bị lần cuối .
Nhưng với phương châm là thật bí mật. Anh nuôi cũng lại phải tổ chức đào bếp
Hoàng Cầm nấu ăn để không bị khói. Anh em ở yên tại vị trí không đi lại. Không
cho trinh sát của Pốt biết đội hình 2 trung đoàn đã tập kết ở vùng này.
Ngày 5/12 vẫn trong trạng thái
như vậy, thỉnh thoảng pháo binh của F bắn mấy quả vào sâu nghi binh địch. Để
ngày mai bắn pháo dẫn đường không bị lộ. 17h chiều các đơn vị đã tổ chức cho
chiến sỹ ăn cơm xong và ngoài lương khô , mỗi người còn thêm một phần cơm nắm
muối mè, nước uống cũng đã đầy bi đông. Đại đội nào ở nguyên vị trí ấy đợi
lệnh.
19h ngày 5/12 trong rừng trời tối
đen như mực. Lệnh lên đừờng luồn sâu sang đất địch. Được thông báo từ đây sang
M toàn đầm lầy, cỏ lác và có nhiều chốt của địch. Trinh sát phải dẫn đường luồn
lách tránh né. các chốt của chúng, không được cho địch phát hiện. Gặp địch cũng
phải nằm im không nổ súng, và phải tìm đường tránh.
Ra đến rìa rừng là đồng lầy ngay.
Đến bây giờ tôi vẫn còn cảm giác rợn người. Khi bước đầu tiên lội đầm hôm đó.
Bước ngập giầy rồi cứ từ từ sâu dần, tới gối rồi có chỗ tới bẹn. Đi trong nước,
dầm trong nước không phải một tiếng, 2 tiếng. Mà suốt từ 19h tối cho đến sáng.
Mùi cỏ rác sình lầy hôi hám ùa lên. Chắc nơi này là cánh đồng, là đầm lầy
nguyên sinh mà các người lính F341 đặt chân khám phá đầu tiên. Tôi chợt nghĩ
như vậy. Mọi người được truyền lệnh: bước dưới nước không được để phát ra tiếng
động nước. Tiếng bước chân cộng hưởng của cả đoàn quân hàng ngàn người sẽ là
rất lớn.
Đi, cứ đi, cứ dò dẫm rồi lại
nghỉ, lại đi. Nhưng ở đây là đứng nghỉ chứ làm sao mà ngồi được, giữa đầm nước
này. Mệt và rét vì ngâm nước lâu .Nhưng không một ai kêu ca. Mà kêu ca với ai
được giữa không gian tĩnh lặng thế này. Mà mọi người cùng đi cùng chịu đựng. Từ
ông Trung đoàn trưởng, tới ông bác sỹ, anh nuôi, lính chiến, binh nhất, binh
nhì. Mỗi người mang vũ khí đạn dược khoảng hơn 20kg. Mỗi người đeo 1 cái bồng
tư trang nhỏ sau lưng bằng cái vỏ bao cát của Ngụy thời trước. Khổ nhất là các anh
em hỏa Lực súng 12 ly,7 cối 82 và ĐK75. Họ phải khênh khí tài rất nặng, mà
không được phép để xuống nước. Lúc đi lúc dừng, số vũ khí tài đều ở trên vai
người khênh. Tôi chợt nghĩ tuổi này 18-20, ở nhà bố mẹ còn phải lo cho từng ly
từng tý. Có khi sáng còn phải gọi mãi mới dậy. Còn ở đây lại thế này. Mọi người
hay nói câu cửa miệng là: đi lính là vất vả, hy sinh thật ngắn gọn. Nhưng có ai
biết được trước trận đánh, trước hy sinh người ta phải khổ ải thế này........
Đi .Đoàn quân rồng rắn đi bì bõm
trong nước. Bỗng thấy một tốp mấy người đang đứng. Nổi nhất là E trưởng Măng,
người cao lớn tay cầm nâng dây hữu tuyến để anh em chui qua. (giây hữu tuyến
của Pốt) và nói: “các em cố gắng nhé”. Sao bình thường họp hành, thì nói đồng
chí nọ, đ/c kia. Còn bây giờ các cấp Thủ trưởng lại chỉ gọi lính là em nhỉ?
Đang phân tâm bởi suy nghĩ đó, rồi nghe Pằng Pằng Pằng. Mấy loạt AK bắn về phía
chúng tôi. Đạn chiu chíu,viên thì găm xuống nước viên thì vọt lên trời.
---------------------------------
Loạt đạn của Pốt bắn khá bất ngờ.
Mọi người theo phản xạ ngồi thụp hoặc khom người xuống. Nhưng nước, làm sao mà
ngồi được. Cũng chẳng có chỗ nào nấp, mà tránh đạn. Đành đứng yên chịu trận.
Một đ/c trinh sát bị thương vào vai, may vết thương không nặng lắm. Anh em băng
bó xong lại dìu đi tiếp. Bọn Pốt ở chốt
chắc chắn bắn bú họa thôi. Sau 1 vài loạt AK, rồi đêm tối lại im lìm bao phủ. Đầm
lầy rất rộng mà sao ko có 1 tiêng kêu của ếch nhái ? Như vùng đất chết. Ở quê
mình, cứ có nước là có cá, có ếch nhái, đêm tối thế này là chúng kêu rên dĩ.
Đội hình lặng lẽ hơn, mọi người dò dẫm như đi trong nín thở.
Đi, vẫn đi. Cả trung đoàn vẫn
tiến vòng vèo luồn vào sâu đất địch. Thỉnh thoảng lại có tiếng pháo 85ly của ta
bắn vào các mục tiêu của Pốt. Nhưng mục tiêu bắn pháo, là để dẫn đường cho đơn
vị tiền nhập, vì đầm lầy quá rộng, khó có thể đi theo phương vị. Hướng pháo nổ
là những M cần đến. Lần trước, cũng luồn sâu nhưng chỉ có 1 c3 . Còn hôm nay,
trận này luồn sâu vào đất địch có cả trung đoàn hàng ngàn người nên tư tưởng ae
cũng đỡ nghĩ ngợi hơn. Mặc dù hôm nay luồn sâu khổ hơn lần trước rất nhiều.
3h sáng ngày 6/12, gần đến mục
tiêu, lại gặp e trưởng cùng 2 đồng chí d trưởng d1-d3 đứng động viên anh em
(Đ/c Nguyễn Minh Tân dtr d1 quê Thanh Trì Hà Nội. Đ/c Nguyễn Song Thao dtr
d3 quê ở Long Sơn, Anh Sơn, Nghệ An hy
sinh ngày 18/7/78. Được truy tặng danh hiệu AHLLVT) hướng dẫn các đơn vị chia
làm 3 hướng đánh. Các đơn vị hỏa lực
cũng đã được phân đi với các mũi. Sở chỉ huy E ở ngay vị trí đó, cùng các trinh
sát, vận tải thông tin. D1 và d2 tiền nhập tiếp. Khoảng 1km nữa thì có bờ
mương, là địa điểm tập kết cuối cùng. Bờ mương không cao lắm mà đất còn ướt
nhoét. Chắc bọn này mới đào. Theo quan sát, từ đây vào Phun theo hướng đánh của
C3 còn khoảng 300-400m nữa. Như vậy khi tiến công là phải vận động hơi xa.
Nhưng trinh sát báo: không thể tiến thêm được nữa vì bên kia mương vẫn là đầm
lầy, có cây tràm xâm xấp nước. Ta lợi dụng bờ mương nước nghỉ, đợi lệnh tấn
công. Pháo dẫn đường vẫn bắn cầm canh có vẻ rất thưa thớt, lạc lõng. Trời đã
tang tảng sáng, mọi người tranh thủ nghỉ ngơi và đào công sự. Tôi nói anh em
đào trận địa cối. Lần này 2 khẩu đội răm rắp theo lệnh, mặc dù rất mệt. Đất ở
đây nhão cũng dễ đào, nhưng tôi nghĩ bắn cối sẽ rất khó vì bùn lún, nên tôi
nhắc anh em lấy phần tử bắn + thêm tầm bắn 200m nữa để trừ lún bùn. Bộ đội bám
dầy đặc dọc bờ mương. Bên cạnh tôi là anh em d3, gióng súng 12,7 nghe lách cách
tiếng kim loại va chạm. Dù ai cũng đã thành thục thao tác và quá khẽ khàng.
Tôi nhắc nhở mọi người lấy cơm
nắm ăn. Trời ơi! cơm nắm, nắm cơm chắc
đã bị ngâm nước lâu, lại đeo ở bên người quăng quật nên đã vữa hết. Ngậm ngùi
nhưng đói và mệt. Và vì sự sống nên vốc cơm ăn với muối vừng. ( May gói muối
tôi lại cẩn thận để túi áo ngực, nên không bị ướt mấy).Cũng vẫn thấy ngon.
5h25. Đằng đông trời đã ửng hồng
... Ùng – ùng - ùng, các loại pháo của F đồng loạt bắn. Rồi bắn cấp tập dồn dập
vào các mục tiêu. Dọc tuyến biên giới từ đường 13 đến đường 1. Cuộc tấn công
cấp quân đoàn toàn tuyến từ đường 13 đến đường 1 bắt đầu.
5h45 lệnh xung phong. Các loại
súng DK, B40 , B41 và 12,7ly đồng loạt phát hỏa. Bắn vào hướng tấn công, bộ đội
ào qua mương nước. Nước ngập đến cổ, nhưng mương nước không rộng lắm anh em vọt
qua ngay. Khẩu 12,7 ly của C16 tăng cường cạnh tôi, vẫn nhả đạn thùng- thùng- thùng-
thùng yểm bộ cho bộ binh xông lên. Vẫn tiếng thét xung phong to nhất là của anh
Tiễn cvtr. đã có nhiều tiêng súng bắn trả của bọn Pot. Tôi hô anh em bắn cối
vào làng. Bắn thử quả thứ nhất. Tong, bẹt.... Bùn đất của nơi để cối văng tứ
tung. Không kịp theo dõi đạn rơi. Nhưng thấy đất bùn nhão quá, sợ đạn rơi vào
đội hình ta. Nên tôi không cho bắn nữa. Ra lệnh thu cối tiến theo bb. Vừa dứt
lời, thì một con chim, không phải, mà là một quả đạn lao đến rất nhanh. Trong
tích tắc cúi người xuống theo phản xạ. Bọp- một tiếng thật gọn. Qủa B40 cắm
ngập vào đám bùn đất của anh em đào đắp lên, đuôi cánh rung rung. Ngay sát tôi
và khẩu đội cối. đạn không nổ. Hú hồn vía. Lúc đó không thể giải thích được tại
sao ? Tôi giục anh em thu cối, vọt nhanh đề phòng B40 nổ chậm.
Tụt xuống mương nước, lội mấy
bước là lại leo được sang bên kia. Bọn này đào mương sao lại đắp đất có 1 bên.
Thoáng nghĩ vậy rồi chạy tiến tiếp. Đúng như trinh sát nói: đầm lầy xấp xấp
nước có những bụi cây tràm nhỏ, nhưng chạy chậm được. Tiến tiếp khoảng 4-50m
thấy anh Tiễn mặt đỏ gay. Đang cắn dây hữu tuyến của Pốt. Cắn nhằng nhằng mãi
mà không đứt. Tôi nói anh để tôi .Tôi rút dao găm cắt, nhưng cắt không được.
Nền đất bùn nên không có chỗ kê để chặt. Rất nhanh tôi lấy sợi hữu tuyến (sao
chúng nó chỉ có 1 sợi chứ không hai sợi như mình) để ngang qua miệng khẩu ẠK.
Một tay tôi giữ gần miệng nòng , để cho giây ở giữa ngang nòng súng, tay phải
bóp cò Pằng- Pằng đạn cắm xuống bùn tóe lên. Sợi dây trằn qua không đứt. Tôi
lại nghĩ và lấy dao cạo lớp vỏ nhựa, rồi cắm chỗ đó xuống bùn cho nó chạm mát.
Đến bây giờ, ngồi nghĩ lại, vẫn thấy những hành động đó thật buồn cười và có
phần "ngớ ngẩn" nữa.
Tiếp tục chạy tiến vào Phum. Các
loại súng bộ binh vẫn nổ ròn. Thỉnh thoảng lại có tiếng ầm- đoàng của B40-B41
hoặc ĐKZ vẫn những tiếng hét xung phong của anh Tiễn CVTR. Sao ông này hét khỏe
thế ? bb đã chiếm được các trận địa, rìa làng, tiến vào Phun. Gặp, và cắt ngang
đường bộ 241. Đuổi Pốt chạy ra cánh đồng. Rải rác là xác những thằng Pốt trúng
đạn ở tư thế đối kháng, hay nằm xấp do bị trúng đạn khi chạy. Anh em sau ào
lên gặp những thằng này, còn cẩn thận
bồi thêm mấy phát nữa.
Khẩu đội tôi đã lên đến đường
241, đất cứng quan sát M quá rõ, bắt đầu
phát huy tác dụng. Anh em nhanh chóng lấy phần tử, bắn đuổi địch. Đạn trúng đích, cứ thấy bọn Pốt
biến mất trong ruộng lúa, khói đạn cối nổ bùng lên, rồi lại thấy chúng đứng dậy
chạy, nhưng có vẻ thưa hơn. Cho chúng mày nhớ đời ! Tôi cho anh em bắn thêm mấy
quả nữa rồi thôi. Để tiết kiệm đạn. Vì biết rằng trận chiến hôm nay mới chỉ bắt
đầu.
Toàn đại đội tạm dừng xốc lại đội
hình. Đại đội 3 như vậy sau 30p tiến công đã chiếm gọn khu vực hậu cần e21 của
địch, diệt hơn 30 tên. Số vũ khí thu được rất nhiều. Phía ta bị thương 3 đ/c, hy
sinh 1 là đ/c Tạ Mạnh Hiền Atr. Trong lúc truy kích địch qua đường 241 ra cánh
đồng, bị trúng 1 viên đạn thẳng của Pot đúng giữa trán. (Đ/c Hiền quê ở Thống
Nhất, Hưng Hà, TB. 1 trong 6 đ/c cùng được về phép, cùng lấy vợ, chưa có
con và trong 6 đ/c này h/s 5 đ/c).
Cùng lúc được thông báo, đại đội
1 và 2 đã làm chủ trận địa cối của Pốt diệt 25 tên, thu được 2 khẩu cối 122m và
nhiều súng. Đồng chí Ngô Khắc Quyền lính 75 quê Thanh Hóa, đã bắn liền hơn 10
quả B40 diệt được các mục tiêu. (đồng chí Ngô Khắc Quyền, quê ở Thọ Thành,
Thường Xuân, Thanh Hóa hy sinh ngày 18/7/78 được quốc hội truy tặng danh hiệu
AHLLVT h/s cùng ngày với tiểu đoàn trưởng Nguyễn Sông Thao, L/sỹ AHLLVT h/s
cùng ngày 18/7/78 tại hướng đường 13, Bến Sỏi đi sang). Chỉ huy d3 tiến công
sang Săng Kum- Miên Chey. Gặp khó khăn vì địch chốt trong rừng thưa. Nên phòng
thủ quyết liệt. Tấn công trực diện gặp khó, Dtrưởng Thao và CVPhó Đặng Văn Lưa
hội ý, rồi sử dụng C9 và mũi chọc sâu là B2 do đ/c b Trưởng Nguyễn Cảnh Hồi
vòng phái đánh tạt sườn. Đội hình địch rối loạn, bị chia cắt. Các đại đội 10, 11
ào lên tiêu diệt và chiếm các M. Bọn Pốt vỡ trận tháo chạy về hướng Tây như 1
đàn vịt. D3 thừa thắng xông lên truy kích ra mãi ngoài xa cánh đồng. Mục tiêu
tấn công của d 3 đã hoàn thành.
Trung đoàn thông báo: lúc này
hướng đường 1, d2 của E273 cùng đội hình mạnh của E14, F7 phát triển thuận lợi.
d2 đã tiến đánh qua PaVét 1 về hướng Chi Phu. E14 tiến đánh thẳng về phía cầu
Padasot.
E266 cũng đã hoàn thành các M,
bên trái của e273. Cũng đã tạm dừng truy kích, để xốc lại đội hình .
Đây là những thắng lợi đầu tiên
trong ngày. Nhưng trận chiến tiếp diễn sẽ rất gay go phức tạp. Vì lực lượng của
ta và của Pốt đã lẫn lộn nhau. Bọn chúng rút chạy nhưng lại gặp các lực lượng
của ta. Vì vậy ta và Pốt ở giữa các vòng vây của nhau. Bắt đầu diễn ra các trận
đánh nhỏ cấp trung đội, đại đội. Hỏa lực như pháo cối ko thể hỗ trợ được. Bọn
Pốt bị đánh đuổi rất cay cú. Chúng đã bắt đầu quay lại phản kích. Bọn ở phía
trong cố sống cố chết để mở vòng vây chạy. Nên chung quanh từng đơn vị đều có
địch. Và ngay chúng ta cũng bị lẫn lộn giữa đ/v nọ, với đ/v kia. Có khi cứ
tưởng Pot là đ/v bạn. Đ/v bạn lại tưởng là Pot. Những điều này làm cho trận
chiến căng thẳng, phức tạp lên nhiều. Phía ta h/s và thương vong cũng ko nhỏ.
Khoảng 8h30 địch bắt đầu phản
kích từ hướng Tây Nam,
Tây Bắc, vào các đơn vị. Hướng Đông Bắc đã có nhiều tốp địch chạy từ phía biên
giới ta về. Chúng đi thành nhiều đoàn, mỗi đoàn khoảng trung đội, đại đội. Đi
theo nhiều đường. Mới đầu anh em tưởng
là đơn vị bạn tiến về. Vì cũng được thông báo có các đơn vị cùng tham chiến.
Hướng Tây Bắc chúng tiến vào rất
hiên ngang, nên anh em lại càng tưởng quân ta. Một số anh em ra bắt liên lạc,
theo quy định thì có 3 cách bắt liên lạc.
- 1 là giơ mũ hoặc khăn tay lên
trời quay 3 vòng, bên kia cũng giơ tay lên trời quay 2 vòng + lại = 5 là đúng mật lệnh.
- 2 là hô to- 75 - đối phương
phải trả lời là: Hồ Chí Minh thì cũng đúng mật khẩu.
- 3 là bắn ba phát AK lên trời,
đầu kia bắn 2 phát cũng là đúng.
Anh em ra bắt liên lạc cách thứ
nhất quay mũ 3 vòng, bên kia chúng cũng giơ tay quay mũ .
Sử dụng cách thứ 2 , hô to là 75
chúng cũng hô lại xa nghe không rõ.
Anh em bán tín bán nghi, vì trông
xa vài trăm mét thì trang phục quần áo rất giống của mình. Quần áo của mình mầu
xanh, bị ngâm nước nhìn xa nó cũng trở thành mầu đen.
Tôi dùng ống nhòm quan sát kỹ,
cũng không thể nhận được ta hay địch. Chúng vẫn dàn hàng ngang tiến vào, khoảng
cách đã không còn xa, anh em bắn súng hiệu, thế là chúng ào vào. Vừa bắn vừa hô
ầm ĩ trô, trô. Xông thẳng vào vị trí của ta.
Bây giờ thì đã rõ, bọn này thật
dũng cảm, nhưng ngông cuồng. Các loại súng của ta bắn trả rất mãnh liệt. Nhưng
2 đồng chí khi chạy ra bắt liên lạc thì 2 đ/c không chạy vào với đồng đội được
nữa.
Tôi nhanh chóng cho 2 khẩu đội
cối nấp sau 1 bức tường, bắn yểm hộ cho đơn vị, đạn rơi rất gần, cự ly khoảng
hơn một trăm mét, và rất có tác dụng. Làm cho đội hình Pốt chùn bước. Nhưng
chúng dùng thủ đoạn, cứ nằm xuống nấp, lắp đạn B40- B41, ĐK82 bò tiến rồi lại
đứng thoắt dậy bắn rồi lại nằm nấp trong ruộng lúa, dù không nhìn thấy Pốt. Nhưng
anh Trụ vẫn cho 2 khẩu đại liên bắn găm xuống ruộng lúa. Chúng bò lùi ra xa,
như vậy đợt phản kích thứ nhất bị bẻ gãy, anh em tiến ra ruộng lúa tìm 2 đồng
đội. Cánh đồng rộng tìm rất khó, gặp rất nhiều xác Pốt, gần 30’ sau mới thấy
được 2 đồng đội mình. 1 đ/c hy sinh, 1 đ/c bị thương nặng.
Sau đợt phản kích của Pốt, thấy
vị trí đặt cối chưa thuận lợi, tôi cho anh em lùi vào trong làng. Gặp anh em
phía sau của d3, cũng đang chạy đến. Ngay phía sau anh em cũng là Pốt. Bọn này
chạy ở biên giới về, rất nguy hiểm vì phía này lực lượng bb không có mà đa số
anh em phục vụ. Anh em vừa chiến đấu, vừa lui về gần đường 241. Gặp tôi, tôi
nói phía trên có Pốt đang đánh nhau. Không đi được nói anh em nhanh chóng chốt
lại. Tôi còn cối chi viện. Và giục anh em gióng cối bắn hỗ trợ. Lúc đó các
hướng đều có những tiếng súng bắn qua lại rất rát, như vậy chung quanh ta đều
có Pốt. Tôi nói ae đi tìm nhặt súng ak để trang bị thêm. Cuộc chiến này mới chỉ
bắt đầu.
Trận chiến gần như là hỗn loạn.
Các đơn vị của ta đều phải tự lực chống trả địch. Lực lượng của ta lúc này
không có điều kiện chi viện cho nhau. Chỉ huy E và F cũng không thể nắm chắc
được khu vực nào có địch. Khu vực nào không. Vì bọn Pốt rút chạy di chuyển lung
tung. Gặp ta chặn đường chúng chiến đấu mở vòng vậy. Nếu thấy ta cứng quá chúng
lại chạy, di chuyển đi hướng khác. Chúng nó như cá đã vào trong lưới tìm đường
thoát. Nhưng ở đây chúng còn vòng ngoài, hướng Tây Bắc, Tây Nam hỗ trợ Lúc 11h, được tin đồng chí Lương Trác Thành
cvtr, C10 hy sinh. Đ/c Thành trước ở c2, d1. Là 1 người rất cẩn trọng, có uy
tín. Hồi tôi còn ở dbộ d1, hay thường xuyên xuống làm việc về tình hình chính
trị đại đội. Đ/c Thành thường rất cẩn thận, tỷ mỷ trong báo cáo. Rất tôn trọng
các trợ lý của d. Lại có năng khiếu văn nghệ. Các cuộc hội họp quân chính d,
thường hay lên hát các bài dân ca quan họ như: mười yêu, mười nhớ, mời trầu
vv... Quê đ/c Thành ở Vạn Sơn, Đồ Sơn, Hải Phòng. Hôm trước khi được điều lên
tuyên huấn E. Gặp nhau anh kể: về phép mọi
người giới thiệu 3 đám mà cô nào cũng chê mình "Dừ quá". Đến chơi
toàn gọi mình là chú mới ác chứ, mong được 1 người gọi mình là
"anh"mà ko đươc. Về phép được 25 ngày thì ở nhà 20 ngày, buồn quá trả
phép sớm 5 ngày. Ko ngờ trong trận chiến này lại sớm hy sinh. (sau trả phép, có
lệnh đi c/đ ở biên giới lại được điều về làm cvtr C10, D3).
Trận đấu liên tục đến quá trưa,
thì tương đối im tiếng súng. Vì chúng chọc lung tung cũng không thoát. Nên cố
thủ giữa cánh đồng, có ý lẩn trốn đợi tối sẽ tính đường chuồn. Phía ngoài chúng
tấn công ta ồ ạt mấy lần đều bị ta đánh lui, bị tiêu hao sinh lưc lớn ko giám
hung hăng như trước nữa. Nên các đơn vị của ta, cũng đã bắt đầu tổ chức truy
quét, trong cánh đồng lúa rộng lớn. Đã có những trận chiến nhỏ, nhưng lại rất
khốc liệt, vì bọn Pốt ngoan cố không chịu hàng, lợi dụng những bờ mương, bờ
ruộng cố thủ đến cùng và bị tiêu diệt hết.
Phản kích mấy lần không được, lực
lượng bị vây cũng còn nhiều. Chúng gọi pháo và các loại cối 82, 60ly bắn vào
khu vực kiểm soát của ta. Làm anh em thương vong 1 số. Trong số hy sinh có đồng
chí Phạm Văn Long. Long trước làm công vụ cho chính uỷ E Vũ Trường Long. Sau
chuyển về thông tin hữu tuyến d1. Quê
Đông Hoà, Đông Hưng, Thái Bình. Gia đình Long đi theo đạo Thiên chúa, trông
Long trắng đẹp như 1 thư sinh. Rất gần gũi với Phú. Cùng sinh năm 1954 ngang
tuổi em gái Phú nên hay trêu nhận là em rể. Thế mà lại ra đi, mất mát hy sinh
toàn những người gần gũi thân thiết,
ngậm ngùi đau thương càng nhiều gấp bội.
Cũng diễn biến trong buổi sáng
ngày 6/12 đó, khi nhận được lệnh đưa dẫn các thương binh nhẹ về phía sau của
D3, đ/c tân binh Trần Thanh Thuỵ trên đường đưa thương binh về, gặp khoảng một
trung đội địch. Rất bất ngờ, nhưng cũng rất dũng cảm, một mình Thụỵ cùng mấy
đ/c thương binh, chống chọi với trung đội của Pốt. Tiêu diệt được 5 tên, bọn
còn lại bỏ chạy nhưng Thuỵ cũng bị thương. Cả nhóm thương binh không về căn cứ
ngay được, có một đ/c chạy mất phương hướng rồi về được tới cứ ở rừng Phước Chỉ.
Hốt hoảng kể rằng Thuỵ và một số anh em thương binh có thể bị Pốt bắt.
Đến 5h chiều tình hình đã tạm
yên, d3 được lệnh trở về Phước Chỉ, còn đại bộ phận chốt lại, d3 rồng rắn trở
về. Ở cứ phát hiện thấy d3 lại tưởng là Pốt, suy luận là Thuỵ dẫn đường cho Pốt
tấn công hậu cứ. Thế là ae hậu cứ chạy tán loạn. (Ở cứ toàn anh nuôi, hậu cần,
quân y và mấy ae trợ lý) chỉ có mấy đ/c trinh sát có bản lĩnh, ở lại bán địch.
Sau khi biết là d3 trở về. Mọi người mới vỡ lẽ, bừng lại vui vẻ. Nhưng ai nấy
đều ngượng ngùng. Và việc này, nó đã trở thành 1 đề tài vui mãi sau này.
Buổi chiều, toàn mặt trận đã lặng
im tiếng súng. Bọn Pốt cũng không thấy pháo, cối gì nữa. Lính ta được lệnh: Các
đơn vị chốt ngay vị trí đang dừng chân. Làm nhiệm vụ để phòng địch mật tập,
phản kích, củng cố trang thiết bị. Nhất là hậu cần tại chỗ để bồi bổ sức khỏe.
Thu gom vũ khí của Pốt, trang bị thêm
cho mình. Tập trung thương binh, tử sỹ đợi lệnh.
Lính ta được dịp xả hơi. Tận dụng
lương thực, thực phẩm của Pốt để lại. Gạo, gà vịt sao nhiều thế. Những cái đầm
nhỏ, mà những con cá lóc, cá rô, cá trê thật lớn. Chỉ không có tý cay, cay. Hết
nấu cơm, lại nấu cháo với những thứ đó, thật lý tưởng. Mọi người ăn no nê, nghỉ
ngơi đợi lệnh. Ai cũng nghĩ chiều tối sẽ có "nước mã hồi ", được trở
về biên giới .
Gần 5h chiều. D3 được lệnh về biên
giới. Khênh cáng thương binh, liệt sỹ về nước. Còn d1, và các đơn vị của E266
chốt chặn lại. Được phép chuẩn bị lương thực tại chỗ 4 ngày. Thật là vô lý. Mọi
người mừng hụt. Nhưng cũng phải chấp hành mệnh lệnh. Và ai cũng nghĩ đến cái đêm đầu tiên chốt ở BaVets1. Rất khốc
liệt. Chiều tối dần. Đội hình tiểu đoàn bám thành hình tam giác ở khu vực đường
241. Chỗ này có một ngã ba (tôi quên tên
đường). Đang buồn lo với bao suy nghĩ thì thấy có khoảng 2 trung đội của
anh em E266, đang lần mò đến và dong 1 thằng Pot bị thương nhẹ. Hỏi ra mới biết
anh em say sưa truy đuổi địch nên lạc mất đ/v. Ngoài đ/c chỉ huy, còn toàn lính
trẻ. Vui quá chúng tôi bèn rủ anh em ở lại chốt luôn với C3. Thêm quân thêm lính giữa đất K này thật ấm lòng. Anh em đồng
ý ở lại. Được dịp, những thực phẩm định để giành ngày mai, bỏ ra khao anh em
266 hết. Đơn vị nọ đơn vị kia kể về trận luồn sâu và đánh Pốt trong ngày thật
sôi nổi.
Trời tối hẳn. Phân công gác xong,
mọi người cũng để nguyên trang bị, nằm ngủ dưới đất. Khoảng 22h thấy đất có vẻ
rung chuyển. Dỏng tai lên có tiếng ì ầm ầm rất nặng. Đúng tiếng xe tăng rồi,
tiếng động này là cả đoàn chứ không phải 1 vài cái. Mọi người chồm cả dậy vồ
lấy súng đạn. Nhưng tiếng ì ầm còn xa lắm. Ai cũng nghĩ và tự hỏi bọn này lại
dùng xe TTG đánh đêm với mình à ?
Cùng lúc đó, liên lạc đại đội chạy
xuống báo giọng hoảng hốt: lệnh của d tất cả súng chống tăng B40 - B41-
DKZ75-82 của các đơn vị tập trung lên gần đường 241. Tực tiếp do tiểu đoàn chỉ
huy. Ta đang phát hiện có đoàn xe tăng rất nhiều, tiến từ hướng Tây Bắc về theo
đường 241. Có cả xe chở lính nữa.
Tình hình gay go phức tạp đây.
Mọi người chẳng ai nói với nhau câu gì, lầm lũi kiểm lại vũ khí súng đạn, chuẩn
bị cho trận chiến khốc liệt sắp xẩy ra.
Tiếng ầm ầm của đoàn xe mỗi lúc
một rõ hơn. Chẳng ai giục, nhưng mọi người đều tự giác củng cố hầm hào, cho sâu
hơn. Còn kiếm thêm những mảnh gỗ làm nắp hầm. Mấy anh em lính trẻ 266 ở cùng
chỗ tôi (lính 77) nói giọng trong trẻo thật ngây thơ: Anh ơi, nếu xe tăng vào
đây, em sẽ nhẩy lên, tương lựu đạn vào trong xe như anh hùng Cù Chính Lan ấy.
Nghe giọng nói, nhìn động tác
biểu cảm của anh em thật se lòng. Tôi nói: “em đã học cách nhảy lên xe tăng, xe
học thép chưa ? Anh em trả lời là chưa. Mới chỉ học có lăn lê, bò toài và bắn
súng AK, đội ngũ..vvv.. Không thể nói gì hơn. Tôi nói đánh xe tăng, không dễ
như các em tưởng và không như trong phim đâu. Các anh tập mãi mới chạy nhẩy
được lên xe đấy. Mọi người phải hết sức cẩn thận.
Rồi tôi chủ động lên gặp BCH đại
đội. Thấy ở vị trí chỉ huy mọi người cũng gấp rút chuẩn bị hầm hào, ụ súng. Anh
Trụ và Anh Tiễn cùng hỏi tôi tình hình dưới đó thế nào ? Tôi cũng báo cáo qua
về tình hình anh em, ý trí và thực lực của đơn vị mình. Và hỏi anh Trụ: súng
chống tăng điều đi hết rồi mình lấy gì phòng vệ. Anh Trụ và anh Tiễn hơi ngẩn
người ra. Tôi nói luôn. Bây giờ anh cho liên lạc đi các B xem số súng M72 còn
bao nhiêu quả. Và nên hội ý chỉ huy để bàn cách đánh, nếu tăng thọc vào được
đây. (anh Trụ cùng nhập ngũ, cùng quê Hải Hưng với C trưởng Hồng lính 71. Ngày
12/4/78 anh Trụ cũng huy sinh khi đánh giải vây Hà Tiên Kiên Giang giữ chức D
phó D1).
Liên lạc C đi báo các B trưởng
lên hội ý. BCH phổ biến tình hình và dự kiến các tình huống xẩy ra. Sau đó anh
Tiễn phát biểu, động viên tinh thần mọi người. Và cũng là lên dây cót cho trận
chiến sắp tới.
Hội ý đại hội xong, mọi người ra
về nhưng nét mặt ai cũng đăm chiêu căng thẳng. Không nói ra nhưng ai cũng nhận
thấy. Cuộc chiến với đoàn tăng kia không đơn giản chút nào. Tôi về tới vị trí
của A10, hội ý sơ bộ với anh em, cả đ/c B trưởng của E266 biết về tình hình
địch và diễn biến hiện trạng. Tiếng xe tăng mỗi lúc 1 to. Ầm ào như sóng biển.
Và hình như nó còn bật đèn nữa. Hướng Tây Bắc, quầng sáng hơn hẳn chỗ khác.
Chợt nghĩ bọn này đang có âm mưu lớn đây. Cũng tất yếu thôi, chúng nó đang chủ
động chọc chiếm đất ta. Bây giờ ta lại đánh, đẩy chúng sang sâu đất nó. Làm gì
mà chúng không cay cú. Như vậy có khả năng chúng không đánh trong đêm mà đang
dàn trận để sớm mai tấn công ta.
Tự nhiên như thức tỉnh, tôi hỏi
anh em: còn gì ăn không ? Câu hỏi cũng làm phá tan không khí nặng nề. Hoài và
Dự đều nói: còn anh Phú ạ. Tôi nói anh em còn gì mang hết ra đánh chém cho khoẻ
quân, rồi muốn chiến gì thì chiến.
2h sáng ngày 7/12, chờ đợi mãi,
trừ người gác còn mọi người cũng tìm chỗ ngả lưng. Tôi vẫn cùng đ/c BT - của
E266 nói chuyện. Đêm tối trời đầy sao, nhưng không có trăng, mọi vật chìm trong
mờ ảo, sương xuống gío mát lại vừa đánh chén xong cảm thấy thật nhẹ người.
Chợt nhìn thấy đ/c Nam và
anh Tiễn CVT xuống, tôi giật mình nghĩ chưa biết thế nào. Thì giọng đ/c Nam hồ
hởi: “anh Phú ơi, đoàn xe tăng là của mình. Ôi thật bất ngờ. Gánh nặng như được
trút bỏ và anh Tiễn kể là D vừa bắt liên lạc được với đoàn xe tăng. Đây là đoàn
TTG cùng bộ binh, tấn công từ hướng đường 13 Bến Sỏi sang tới giao lộ 241 thì
rẽ về đây. Mũi tấn công hoả lực mạnh như D2 và E14 F7. Nhiệm vụ của họ (F339 – hay F309 xin lỗi quên phiên hiệu –
QK7!) là bắt liên lạc và thay vị trí cho E273 để ngày mai E273 và E266 hành
quân đánh địch về hướng đường 1. Thật là 1 sự hợp đồng không rõ, giữa QK và QĐ
gây bao phiền toái lo âu. Mọi người biết tin này, thì ai nấy khí thế lại tưng
bừng hơn trước. Cười nói rôm rả. Đúng là thằng Pốt không là cái đinh rỉ gì cả !
Sáng ngày 7/12/77, sau khi bàn
giao các vị trí đang chốt giữ cho QK7, toàn đội hình E273, E266. Cơ động theo
trục đường 241 về Tà Yên, để chuẩn bị tấn công vào khu vực Parasot cùng với D2
và E14 , F7.
Đường hành quân, lấy trục 241 làm chuẩn và đi thành 3 mũi, vừa đi vừa
truy quét những nhóm địch nhỏ lẻ lẩn trốn trong các phum chưa chạy trốn hết. Trong
ngày hành quân truy quét này. Mũi của D1 là tiến dọc đường 241, mùa khô trời
nóng như rang, nhưng nhiệm vụ phải tiến nhanh về địa điểm mới. Vùng này sao rất
hiếm nước, khát khô cổ, đã tới trưa vừa đói vừa khát. Anh em phải tự túc lương
thực mang theo, đến một phum ven đường, có một cái giếng. Giếng không sâu lắm,
nước trong và ngọt. Ai lấy tha hồ mà tu cho đỡ cơn khát, tới lượt tôi cũng vục
mặt vào cái xô nước đó mà uống như chưa bao giờ được uống, rồi bất ngờ nằm lăn
ra tắt thở. Không biết đã có ai bị thế này chưa, còn tôi hồi đó đúng là như
vậy. Anh em phải làm động tác hô hấp một lúc, mới tỉnh lại đi tiếp, cái đó gọi
là nghẹn nước. Đúng như các cụ nói “Chết vì ăn, vì uống” thật nhớ đời.
Chiều tối toàn đội hình mới tới được địa bàn Tà Yên, làm công tác chuẩn
bị ngày mai tấn công Parasot. Ở khu vực Parasot, sau khi lực lượng D2 và E14,
F7 tấn công từ Mộc Bài sang. Thì làm nhiệm vụ chốt giữ tại khu vực ngã ba
TruonTraPec. Bọn địch co cụm và phòng ngự từ KôngPông Ro tới Parasot. Nhiệm vụ
được giao là D2 và E14 đánh vu hồi phía Tây Nam Parasot, hướng Tây Bắc E273 v à
E266, đánh thắng từ Tà Yên qua. Nếu thuận lợi thì vượt cầu Parasot tới bờ sông
Ba Sa.
Ngày 8/12, chỉ huy F thấy tấn công buổi sáng không đảm bảo, vì các đơn
vị anh em đã rất mệt. Nên quyết định điều nghiên, nắm thêm tình hình địch và
làm công tác chuẩn bị cho tốt hơn, đổi giờ tấn công giờ G là 16h15’.
Đúng giờ D toàn bộ lực lượng E 273 –E266 hướng vu hồi có D2 và E 14 F7
đồng loạt tấn công. Bọn Pốt chống cự yếu ớt rồi rút chạy. Trên đã thắng lợi
chỉều tối toàn bộ đội hình F vượt qua cầu Parasot, tiến quân sát đến bờ sông Ba
Sa. Toàn đội hình chốt chặn và truy diệt bọn Pốt ở khu vực này về tới biên giới
Long An.
Một trận chiến đạt thành tích cao:
Đã bảy ngày, ta làm chủ từ biên
giới tới khu vực sông Ba Sa. Truy quét và tiêu diệt được rất nhiều địch. Một
số dân tiếp tục chạy sang lánh nạn ở bên ta. Như vậy với M đưa chiến trường
sang đất của bọn gây chiến đã thành công. Làm cho bọn Pot và quan thầy của
chúng vô cùng cay cú. Nhưng nếu cứ dừng chân thế này thì chúng ta cũng không
thể tiêu diệt thêm được địch. Mà lại còn bị mang tiếng là “lấn chiếm”. Một số
đài báo và dư luận quốc tế được dịp “tố” vấn đề này.
Quân Pốt cũng đã bắt đầu gượng
dậy, đến ngày 12/12, chúng đã cho lực lượng phản công vào phía tây của Parasốt.
Để tạo điều kiện diệt sinh lực địch. Phải dụ chúng về sát biên giới của ta. Mà
như vậy, ta mới phát huy được mọi hình thức chiến thuật bày binh bố trận v.v …
Sáng ngày 15/12, Sư đoàn ra lệnh cho các đơn vị tổ chức “lui quân”. Khi
chúng phản kích. Sao có vẻ vừa đánh vừa
rút, bí mật, nhưng lại rầm rộ. E266 và E14- F7 về phía biên giới Mộc Bài. Còn
E273 rút ngang về hướng ngã ba Cột Cờ giáp Mộc Hoá tỉnh Long An.
Bọn Pốt dùng 5 tiểu đoàn tấn công ta vào khu vực Bắc đường 1, cầu
PaRaSot. Có cả pháo binh yểm trợ. Thấy
ta tấn công yếu ớt và dần rút lui, bọn chúng vượt cầu PaRaSot bám đuổi quân ta
về sát biên giới. và đã lại dùng pháo 105ly bắn sang đất ta.
Sư đoàn 341 sử dụng D3 và C3, D1
của E273 được tăng cường hoả lực 12L7, ĐK275, bí mật luồn sâu từ hướng Mộc Hoá,
áp sát chốt chặn tại cầu Parasot. Tiểu đoàn 2, có nhiệm vụ tiến công hướng
chính diện từ Mộc Bài sang cùng tăng thiết giáp.
Tiểu đoàn 1 thiếu đại đội 3, nâng
đội hình nên sau d3 làm nhiệm vụ hỗ trợ d3 và “be bờ” hướng Đông Nam
cầu Parasốt. Đúng 1h ngày 16/12, d3 và c3 d1 E273 đươc lệnh xuất phát luồn sâu
theo phương án. Mặc dù trong mấy ngày tác chiến liên tục, truy quét, truy đuổi
địch, cán bộ và từng chiến sĩ vô cùng mệt nhọc, nhưng mọi người khi được giao
và hiểu nhiệm vụ, thì không một ai kêu ca. Nhanh chóng lên đường. Lại một đêm
luồn sâu sang đất địch bắt đầu.
Mệt, có thể nói là vô cùng mệt.
Trong suốt từ đêm ngày 5/12 tới giờ. Hơn chục ngày tác chiến, quần đảo, trời
nắng như rang. Nhìn cánh đồng lúa chín rũ, ban ngày thì như có những thán khí
bốc lên ngùn ngụt. Từ tối đến đêm thì hơi nóng từ đất, từ lúa bốc ra. Cánh đồng
thì rộng ôi sao nó rộng thế ! Không thể ví là: “Thẳng cánh cò bay” như vùng quê mình được nữa, mà
nó là một mầu vàng trải dài bất tận....Thỉnh thoảng lại có vạt lúa cháy. Khói
bay mù mịt đến là ngạt thở. Một vài con chim chao lượn trong khói để bắt những
côn trùng bay lên, và thoảng trong khói, mùi nẻ cốm. Như ngày xưa ta ở nhà nấu
cơm bằng rơm rạ, mà có sót những hạt thóc nổ thành nẻ thơm. Lấy que cời lửa ra
nhặt cho mồm nhai thật ngon. Thật nhớ và
nó đã trở thành kỷ niệm của tuổi thơ ở quê hương. Còn ở đây cả vạt lúa, cả đồng
lúa cháy nên hương cốm lẻ thơm ngào ngạt. Nó còn quyện trong khói, trong lửa
trong khung cảnh của sa trường. Đi qua những vạt lúa đó thật nghẹt thở, thật
khó chịu và chua xót đến nghẹn lòng ..
Cánh đồng thì rộng thế mà bờ ruộng thì rất ít. Anh em từng đơn vị phải
đi xẻ ngang, xẻ dọc để tìm và truy quét những tốp địch lẩn trốn trong những cụm
cây, những căn nhà lẻ loi nên rất mệt. Tối đêm lại nằm ngủ ngay tại cánh đồng.
Cỏ, lúa là giường, là chiếu, trời sao là màn. Muỗi rãn nhiều vô kể. Tối ngủ anh
em để nguyên quần áo, giầy dép. Súng để cạnh, đạn đã lên nòng, nhưng để ở chế
độ khóa an toàn. Mỗi người nằm về mỗi hướng thay nhau trực gác suốt đêm. Khăn
mặt ban ngày trời nắng thì đội đầu, tối ngủ thì đắp mặt. Ăn uống sinh hoạt thì
toàn đồ khô, đồ nguội. Nước uống đâu được đun sôi nấu kỹ. Vũng nước nào gặp,
vục mặt xuống là uống nấy uống để. Sức trai hồi đó ai cũng gầy nhom, đâu được
béo tốt như bây giờ. Làm sao mà không mệt. Nhiều lúc đang đi giữa trời nắng,
gặp những cái giếng hoặc vũng nước tôi và nhiều ae gục đầu xuống gội. Nghĩ rằng
nóng gặp lạnh cho nó cảm, ốm nghỉ mấy ngày chứ không thể chịu nổi rồi. Thế
nhưng nó cũng chẳng ốm, chẳng ai ốm. Nhiệm vụ truy quét địch càng nặng nề hơn.
Có nhiều trường hợp truy quyét gặp những tốp địch ẩn trốn trong những lùm cây,
những căn nhà đơn lẻ giữa cánh đồng. Chúng chủ động bắn rồi chạy. Chính những
loạt đạn bắn chủ động đó lại làm ae mình dính đạn hơn. Thế là lại phải tổ chức
tấn công truy diệt. Và vất vả nhất lúc đó là phải khênh cáng thương binh, liêt
sỹ, đi theo đội hình rất là gian nan.
Bắt đầu lính ta mới có câu ca dao
như các đồng chí đã nói: “Đời thằng mục, ăn cơm cục, uống nước đục, đi thì miên
phục, không đi thì cấp trên giục, về nhà thì nhục...”. Cái vận ục nó cứ kéo dài
mãi theo cách phát triển của từng người từng đơn vị.
Đêm nay lại được lệnh luồn sâu.
Không phải lội nước, nhưng trong trạng thái của bộ đội mình sức vóc gần như cạn
kiệt. Được phổ biến là cố gắng tránh địch. Vì chúng đã tràn sang vùng này 5
tiểu đoàn, và 1 số quân địa phương, Pot còn kéo cả pháo 105ly, đặt ở vùng Rừng
Sở, để tấn công truy kích ta. Nên trên đường luồn sâu vào M là cầu Parasot sẽ
rất nhiều phức tạp. Nhưng bằng mọi giá D3 +C3 d1 phải chốt được ở cầu Parasot
lúc 4h30 sáng. Nếu ko đạt được mốc thời gian đó, ở vị trí đó. Thì trận chiến
ngày mai chẳng còn giá trị gì nhiều. Trong trận này quân số của D3 khoảng 400
người + hỏa lực 12,7 của C16 trực thuộc 2 khẩu và trinh sát E tăng cường nữa.
C3 quân số còn gần 80 người.
Mọi người lên đường. Hướng hành
quân từ khu vực Cột Cờ, Mộc Hóa, Long An về hướng cầu PaRaSốt. Đi theo đường
đất rồi cắt theo các ruộng lúa, để tránh gặp địch. Đây là lần luồn sâu thứ 3,
nên anh em đã tương đối quen thuộc. Cũng đã hiểu được những khó khăn, vất vả.
Mỗi đại đội cách nhau 15 phút xuất phát, để tạo nghi binh như là những đơn vị
nhỏ lẻ. Đại đội 3 đi phối thuộc nhưng đi gần sau cùng. Cả đội hình hành tiến
làm 3 đường chứ không theo đội hình hàng dọc. Tuyệt đối ko được sử dụng máy vô
tuyến. Hữu tuyến thì ko thể có rồi. Ngày hôm qua, để thực hiện viêc nghi binh
bằng cách cho các máy vô tuyến ra lệnh rút quân nửa kín nửa hở, phát sóng nhiều
lần, để lừa đài kỹ thuật của Pot. Vì vậy d3 + c3 phải thực hiện nhiệm vụ luồn
sâu theo kế hoạch độc lập. Cũng ko có pháo binh dẫn đường như trận trước. Đi,
vẫn lại lúc đi, lúc nghỉ vì phải tránh địch và phải đợi trinh sát bám trước rồi
quay về dẫn đội hình đi. Khi nghỉ, hạn chế nghỉ trên đường, phải xuống cách
đường 20-30 m đề phòng gặp những toán lính Pốt hành quân đêm. Có mấy tình huống
xảy ra với C3 và C9. Khi hành quân được hơn 1 giờ có lệnh tạm dừng nghỉ. Anh em
quá mệt, ngồi ngay trên đường và mọi người gục xuống ngủ vùi. Đúng lúc đó có
khoảng 1 trung đội lính Miên đi qua. Thấy anh em ngủ chúng lại tưởng là lính
Pốt lay gọi. Anh em mình choàng tỉnh nhưng ú ớ nói không ra tiếng, nhưng cũng
nhận ra ngay là Pốt, ko kịp xử lý cứ kệ chúng đi qua. Thật hú vía. Tiếp đến một
lần nữa anh em nghỉ cách bờ ruộng khoảng 20m, thì cũng gặp khoảng một đại đội
Pốt đi qua. Ai nấy nín thở chuẩn bị chiến đấu. Nhưng chúng vội hành quân về
hướng ta, nên không phát hiện được C3 đang nấp ở ruộng lúa.
Riêng đội hình đi cuối của C9 thì
bị lộ, 2 bên bắn nhau 1 lúc cứ thế này thì không đến được mục tiêu. C9 xử lý
tình huống là: cử 2 trung đôi ở lại đánh chặn Pốt. Lợi dụng đêm tối vừa chiến đấu vừa rút theo ý
định.
Trời đã tảng sáng, mục tiêu còn
xa, việc hành quân gấp gáp hơn. Mọi người đã rất mệt. Tiểu đoàn trưởng Nguyễn
Song Thao cùng trợ lý tác chiến cứ dừng, rồi lại lùi xuống đội hình, rồi lại đi
lên trước đội hình đi đầu, đôn đốc động viên, hối thúc anh em. Giục anh em vận
động cho kịp thời gian. Nhưng anh em chỉ vận động được ít bước, rồi lại hành
tiến không thể vận động được nữa. Mệt và đói. Có lệnh tranh thủ vừa đi vừa cảnh
giới và phải vừa ăn cơm “cơm nắm”. Ai nấy móc cơm ra gặm. Miếng cơm là lại mút
miếng thịt kho mặn vừa đi vừa nhai để tăng sức quân. Không biết ngày xưa, khi
ông Nguyễn Huệ thần tốc từ Tam Điệp ra đánh Ngọc Hồi, Đống Đa có hành quân kiểu
này không ? Chứ anh em mình không thể nào nhanh hơn được nữa. Lính của vua
Quang Trung xưa, binh khí chỉ có cung tên, với kiếm, giáo mác rất nhẹ. Còn lính
mình bây giờ phải mang trang bị súng ống, đạn dược rất nặng 3 cơ số đạn , có
nhiều anh em mang tời 3-4 khẩu súng các loại. Anh Ngọc BT ngoài súng AK, B40,
M79 còn kèm cả khẩu côn nữa. Nên chắc chắn là trang bị nặng hơn lính của vua
Quang Trung rất nhiều.
Đúng 4h20 sáng, đội hình C10- C11 đã bám được vào khu
vực phía Nam
cầu PaRaSốt đợi C12. Mấy phút sau hỏa lực c12 cũng đã tới. Bọn Pốt ở đây vẫn
chưa biết gì. Chúng cứ tưởng quân ta cũng là những đơn vị của nó. Chúng đứng lố
nhố rất đông ở gần cầu và cạnh lan can giữa cầu. Anh em 12,7ly thao tác rất
nhanh. 2 đại đội bộ binh dàn thế tiến công. Bọn Pốt ở cầu còn giơ tay vẫy, vẫy
như chào hay như ám hiệu bắt liên lạc. Lệnh phát hỏa. Đầu tiên là 2 khẩu 12,7
ly điểm xạ xé tan sự yên tĩnh của buổi sớm. Nhằm bắn thẳng vào số lính Pốt đang
tụm ở đầu cầu và giữa cầu. Rồi hỏa lực b40-b41 ùng oàng, các loại súng thi nhau
nhả đạn. Bọn Pốt hoảng loạn, vài thằng rơi từ giữa cầu xuống sông. Cối 82, cối
60 ly cũng bắn cấp tập vào khu vực quanh đầu cầu. C10 và C11 dũng mãnh xung
phong, đánh chiếm mục tiêu đầu cầu rồi
vượt sang bên kia đường. Bọn Pot hình như bây giờ mới hiểu chuyện gì đã xẩy ra.
Vỡ lẽ và vỡ trận. Mạnh thằng nào thằng ấy chạy, vọt qua cầu và vọt về hướng Tây
Bắc Cầu. Ko thằng nào kịp bắn trả. Sau 20 phút chiến đấu đội hình D3 và C3 đã
chiếm gọn khu vực đầu cầu. D trưởng Thao nhanh chóng tổ chức chốt chặn thành vành đai ở đầu cầu.
C3 và C9 ở hướng Tây Nam.
C10 + C11 hướng Tây Bắc. Hướng bắn chính là trục đường 1 về hướng Việt Nam và 1
khẩu 12,7 quay về hướng bên kia cầu. Vẫn nhả đạn bắn đuổi chúng chạy xa đầu cầu
bên kia. Các loại bộ đàm đươc phép hoạt động. D trưởng Nguyễn Song Thao gọi bộ
đàm trực tiếp cho Sư đoàn trưởng Vũ Cao, b/c nhiệm vụ của D3 luồn sâu vào M đã
hoàn thành.
Nhận được điện b/c của d trưởng
Thao F trưởng Vũ Cao vỗ vai tham mưu phó Thuật một cái thật mạnh và nói “thắng
rồi” cả sở chỉ huy bừng lên. Như chỉ đợi có thế. Vì khi giao nhiệm vụ cho d3 +
c3 luồn sâu vào chốt đón lõng ở cầu PaRaSốt, là nhiệm vụ hết sức nặng nề vì d3
không được phép liên lạc. Phải độc lập tác chiến, độc lập xử lý các tình huống
“Khi xẩy ra”. Nếu d3 thành công thì ý định chiến thuật mới thành công. Và ngược
lại. Nên sự trông ngóng nặng nề của chỉ huy F là không thể tránh được. (theo
lời kể sau này của các chỉ huy).
Lệnh tấn công được phát ra. Pháo
binh khai hỏa bắn về khu vực rừng Sở nơi đặt pháo của Pốt và bên kia cầu
PaRaSốt. Lệnh cho d2 cùng TTG xung phong dọc theo hướng đường 1. Hành tiến
nhanh. Các loại pháo thi nhau bắn vào các M. Dưới sự chỉ huy của d trưởng Võ
Văn Nhung và dv trưởng Đào Viết Tuyển (D
trưởng Nhung sau cũng hy sinh ở trận đánh khác) cùng TTG dũng mãnh xung
phong tiến đánh dọc đường 1 và 2 bên hành lang đường.
Lúc này đội hình d3 đã tổ chức
xong trận địa chốt. Anh em củng cố ngay hầm hào công sự. Bọn Pốt chạy mất hồn,
chưa dám phản kích anh em tranh thủ ăn nốt phần cơm, để lấy sức chiến đấu. Hồi
hộp hướng về phía đường 1 từ hướng Việt Nam sang. Chưa bị phản kích bằng bộ
binh nhưng pháo 105 ly và các loại cối của địch từ trong SvayRiêng bắt đầu bắn
vào đội hình d3. Mật độ rất dầy đặc, nhiều anh em đã bị trúng đạn của chúng.
Lúc đầu anh em còn bị cả pháo 105 của ta nện vào đội hình nữa chứ. Sau ít quả,
được báo về pháo 105 và 122 ly của ta mới chỉnh sang các M bên kia cầu. Nhưng ác cái là không với được
tới vị trí đặt pháo trong SVayRiêng của Pốt. Nên chúng càng tự do bắn, để trả
thù, bắn trong cay cú vì bị ta bất ngờ luồn sâu đánh chiến bờ Đông Bắc Cầu.
Khoảng 6h45 phút tiếng động cơ
ôtô từ hướng Việt Nam chạy trên đường 1 về hướng cầu mỗi lúc một to. Rồi rõ
dần, 2 xe Hồng Hà kéo pháo trên mỗi xe lố nhố mấy chục thằng Pot. Đường xấu lại
kéo pháo nên chúng cố cũng không thể chạy nhanh được. Anh em hồi hộp, cái hồi
hộp như người đi mai phục săn mồi, và khi thấy con mồi đã xuất hiện theo đúng ý
định. 500m rồi 400m rồi 300m bọn trên xe ngó nghiêng chĩa súng AK sang 2 bên
đường. Nhưng chúng vẫn chạy về phía cầu như không biết gì. Lệnh phát hỏa. Các
loại súng đồng loạt nhả đạn. Tiếng B40- B41 ùng oàng, tiếng 12,7ly hai bên bắn
chéo cánh xẻ tập trung vào chiếc đi đầu. Chiết xe khựng lại rồi một viên đạn
vạch đường 12,7ly đã trúng thùng xăng. Lửa bùng òa lên. Bọn Pốt nhẩy hết xuống
xe, vất xe cắm đầu cắm cổ chạy. Chiếc xe sau cũng phanh đứng lại, rồi lính cũng
nhẩy xuống chạy hết. Anh em xuất kích tiêu diệt gần như gọn bọn Pốt trên hai xe
này. Ta thu được 2 khẩu pháo 105 ly. Chiếc đi đầu xe bị cháy, đạn trên xe phát
nổ ầm ầm. Chiếc xe và pháo đi sau thu nguyên vẹn. Chiến công thật rực rỡ. D
trưởng Thao báo về sở chỉ huy F thắng lợi vừa đạt được. Sư đoàn trưởng biểu
dương khen ngợi và lệnh cho d3 bảo vệ 2 khẩu pháo vừa chiếm được. Chốt giữ,
chuẩn bị chiến đấu với lính bộ binh của Pốt rút chạy về đó. Đề phòng bọn bên
kia cầu phản kích sang. Anh em rất vui song cũng thấy ngay những trận chiến ác
liệt sắp diễn ra. Ngay chính tại nơi đây.
Thưa các bạn cùng anh em đang
theo dõi trên quân sử. Được biết là vào thời gian này, mới chỉ là giai đoạn đầu
của cuộc chiến tranh BGTN. Nên kinh nghiệm đánh Pốt của các đơn vị, các cấp chỉ
huy chưa có nhiều. Thường thì ta phòng ngự, chốt và khi tấn công thì đánh vỗ
mặt. Chốt chặn thì ta không thể có hầm hào bong ke công sự chìm nổi như của Mỹ,
Ngụy được. Có những căn cứ có tới 25 hàng rào dây thép gai như Chơn Thành - Bình
Long. Chúng còn chôn cả xe tăng xuống đất nữa thò mỗi tháp pháo và súng 12,8 ly
lên. Đánh vỗ mặt thì chúng bỏ chạy tránh đòn. Ta dừng thì chúng bu bám tập kích
lại ngay.
Nên mọi việc chốt giữ như trong
điều kiện của ta. Nếu bị nó lẫn dũi nhiều cũng rất khó giữ. Chưa nói đến việc
mùa mưa, đất bùn nhão nhoét. Gây cho ta căng thẳng và thương vong cũng nhiều.
Bạn ViệtPo “Lút” có hỏi là khi
chốt nên thưa đội hình ra, hoặc có những râu tôm tiền tiêu. Những cách này cũng
đã áp dụng nhưng hiệu quả không cao. Vì râu tôm chỉ là phát hiện địch. Chứ 1
chốt râu tôm 3 người mà khi đã lộ chúng cứ táng B40- B41- DKZ82 vào thì hầu như
thế nào cũng dính. Chốt mỏng hay dày là phụ thuộc vào quân số và địa hình, địa
bàn được giao được đảm nhiệm. Thực tế là những ngày giữa và cuối năm 78 cả quân
đoàn 4 chỉ chốt giữ được chiều dài đường biên hơn 20km mà cũng đã vất vả như
khu vực Chóp của BY, liền với Seng Ke của đ/v Phú (qua tập huấn được thông
báo). Mình không thể có người để giăng hàng ngang ra được. Thường 2 người lính
bộ binh có một người phục vụ phia sau (anh
nuôi, y tá, quản lý, liên lạc, các đơn vị phục vụ khác như vận tải, quân y
vv........).
Bọn Pốt đánh theo kiểu “nở hoa
trong lòng chúng ta” cũng rất giỏi. Chúng luồn lách qua các chốt rồi đánh vào
trung tâm chỉ huy hay trận địa pháo vv...ở đây anh em thường hay chủ quan và dù
sao cũng không thiện chiến bằng lính súng dài. Thực sự ta thấy giống như vỏ
trứng thì cứng, còn bên trong thì là nước. Ông chỉ huy thì ko tài bắn súng
được. Nhiều đơn vị đã bị trả giá về chuyện này.
Vì vậy việc tiêu diệt được Pốt
thì không thể đánh vỗ mặt hay chốt giữ như vậy được. F341 theo như được biết là
F đầu tiên áp dụng lối đánh luồn sâu vụ hồi đón lõng này ở chiến trường BGTN.
Sau đó là bài học kinh nghiệm trong QĐ- và các đơn vị khác. Đây mới là trận
luồn sâu thứ 2 (trừ c3 của TP thì có trận luồn sâu độc lập vào BaVét nữa). Việc
bắt sống được 2 khẩu pháo 105 ly của Pốt là rất đáng khen. Vì trong lúc các đơn
vị khác đang còn lúng túng, đối sách với Pốt mà F341 lại thu được xe pháo của
Pốt và dạy chúng bài học về chiến thuật, mưu lược dùng binh của QĐ ta.
Thực ra trong chiến tranh CM hay
chống Pháp ta cũng đã thường xuyên áp dụng cách đánh này. Nó vô cùng lợi hại
gây hoang mang cho đối phương. Lập nên chiến thắng lẫy lừng như Phai Khét, Nà
Ngần (thời chống Pháp), Núi Thành thời chống Mỹ vv...
Cha ông ta thời ông Lý Thường
Kiệt cũng đã bí mật luồn theo đường sông vào tận Ung châu, Vân Nam Trung Quốc để “tiên diệt đầu binh” thật tài tình, lập nên
chiến công hiển hách, sử sách còn ghi.

Sau khi vận động truy kích địch
và tiêu diệt gần hết số Pốt ở trên 2 xe kéo pháo. Đội hình của các đơn vị lại
trở về vị trí chốt để chuẩn bị cho đánh địch từ hướng Việt Nam về và có thể
bọn bên kia cầu tập kích theo dọc bờ
sông. Pháo và cối 81 của Pốt bắt đầu bắn vào khu vực này ngày càng nhiều. Đội
hình c3 và c9 lẫn lộn. Vừa bố trí xong vị trí 2 khẩu đội cối. Nghe tiếng rít
của đạn pháo. Tôi cùng anh em vội nằm tránh, đạn nổ ầm. Qúa gần. Mảnh đạn + đất
đá bay rào rào. Nhưng rất may không ai việc gì. Tôi hô mọi người lợi dùng hầm
hào cũ ẩn nấp tránh đạn pháo. Gần tôi có một hầm chiến đấu của Pốt. Chạy mấy
bước xuống được hầm, vị trí thật thuận lợi cho phòng thủ hướng Việt Nam
sang. Lại những tiếng rít của pháo cối. Nhìn lên thấy anh em d3 chạy đến, cứ
nằm rồi lại đứng lên chạy tìm hầm ẩn np. Nhìn thấy một đồng chí trên người đầy
súng đạn, đeo AK, tay phải xách khẩu B40, tay trái cầm khẩu M79. Dây đạn M79
vắt chéo qua vai sáng loáng. Tôi vời lại vị trí, sau mới biết là anh Ngọc BTr
b1 của c9 (sau này là d trưởng d2)
hiện đang sống ở Cẩm Phả- Quảng Ninh. Ngọc khoe với tôi là vừa diệt được mấy
thằng Pot bằng B40. Khi chúng chạy xa thì chỉnh M79 bắn đuổi thật khoái. Dáng
người thấp đậm to vâm như con gấu. Ngọc cười ngoác cái mồm rộng khoe hàm răng
trắng khỏe đều tăm tắp. Tính khí thật thoải mái dễ gần. Nói chuyện đánh nhau mà
cứ như đùa. Tôi nghĩ đồng đội này “bản lĩnh đây” đi chiến, đi gác, hay luồn sâu
có những đồng đội như thế này thì thật vững lòng. Vài ba câu xã giao xong kêu
đói và hỏi: “anh còn gì ăn không”? .Tôi là người gầy, ăn ít nhưng lại hay lo
xa. Ngoài cơ số quy định mang theo, bao giờ cũng phải phòng thủ một phong lương
khô trong bồng. Không mấy khi được phép sử dụng. Lần này thì được dịp bỏ ra
thiết đãi đồng đội cùng phối thuộc. Nhìn Ngọc vừa nhồm nhoàm nhai lương khô,
vừa ngửa cổ tu nước ùng ục trông đến mà thèm. Loáng cái đã hết cả phong. Ăn
xong, Ngọc lại móc thêm khẩu côn ra khoe tay đd dứ làm đông tác bắn trông rất
chuyên nghiệp. Những năm sau này gặp lại nhau ae vẫn ôn lại cái kỷ niệm ban đầu
đó.
Bọn Pốt bắn ngày càng dầy đặc
hơn. Đại đội 12 được lệnh bắn cối 81 phản vào trận địa cối của Pốt bên kia cầu.
Tong -tong -tong. Mới cấp tập có hơn chục quả mà mấy khẩu 81 của Pốt đã im bặt.
Như vậy bon này chúa sợ phản pháo. Đúng là đồ rát chết. Nhưng pháo 105 ly của
chúng vẫn ầm oàng đều đều. Không cấp tập như trước nữa. Nhưng cũng làm ae thật
khó chịu và gây thêm thương vong cho ta.
Đang thắc mắc là tại sao pháo của
mình ko bắn. Thì anh Trụ cùng đ/c Nam liên lạc đến, nói qua về nhiệm
vụ và nói rằng anh Thao đã điện về yêu
cầu pháo binh ta khóa mỗm mấy khẩu pháo của Pốt rồi. Nhưng phải đợi D2 tiến
thêm lên. Xe pháo kéo lên qua rừng Sở mới bắn được. Anh em cứ phải ở hầm chịu
trận. Khoảng 30 phút nữa thì mới thấy tiếng ùng ùng đề ba của pháo 122 ly. Nghe
tiếng đạn vo vo bay qua đầu rồi âm ầm nơi xa. Chắc cũng cách đây hàng chục cây
số. Nhưng rồi pháo của Pốt cũng đã im bặt. Như vậy là hết đời chúng mày. Với vị
trí này, đội hình này, thì đố thằng nào chạy qua được. Chúng mày muốn chết thì
vào đây!!
Mấy khẩu pháo của Pốt đã “tịt
ngòi”. D2 đã tiến tới giần PaRaSat. Bọn Pốt đã biết là ta có lực lượng đón lõng
ở cầu rồi. Nên chúng không tháo chạy theo đường một nữa, mà tản ra chạy theo
hướng Tây Bắc và Đông Nam. Hướng Tây Bắc thì mình không có LL be bờ còn hướng
d1 thì đã thấy súng nổ dồn dập, chắc bọn này chạy gặp “bờ” của ta. Tiếng súng
nổ chỉ 10-15p rồi im. Cả trận tuyến đã
im tiếng súng. Bọn này chưa hết bàng hoàng, chưa hiểu hết ý đồ chiến thuật của
ta. Nên cũng không thằng nào dám tập kích vào khu vực này mà đang tìm cách tháo
thân.
Trung đoàn 4 (E55 )cho anh em lên
nhận và tiếp thu 2 khẩu pháo + một xe Hồng Hà. Chiếc xe cháy không dùng được.
Anh em pháo binh ta phấn khởi thu nhận pháo chiến lợi phẩm. Định quay pháo dùng
luôn đạn của nó táng Pot. Nhưng đồng chí d trưởng pháo không đồng ý, và tổ chức
kéo xe pháo về. Trong niềm hân hoan chiến thắng. Còn lính d3 + c3 ở lại cảm
thấy “tưu nghỉu” như vừa để mất cái gì.
Mọi người về vị trí. Hậu cần lo cơm nước cho anh em thật
chu đáo. Ngoài cơm nóng thịt kho, lại còn có cả thịt hộp của sư đoàn gửi
lên: “thưởng lính” nữa chứ.
Đến chiều tối, cũng không có đợt
tập kích nào của Pốt. Nhưng từ 8h tối bắt đầu Pot tổ chức câu B40- B41 từ bờ
bên kia sang. Mấy lần dùng khoảng trung đội bb đánh vào hướng C10-C11 như thăm
dò LL của ta. C3 + C9 không bị trận tập kích nào. Sáng hôm sau d3- c3 truy quét
địch ở khu vực ngã 3 đường 93 - 94 đến chiều tối lại được lệnh rút về Mộc Hóa-
Long An. D2 về khu vực Mộc Bài. Vì đựợc thông báo trên trường quốc tế đang phải
đối việc mình đánh qua đất K.
Khi các đơn vị của F đã về chốt giữ ở Biên giới. Bọn Pốt lại tiếp
tục xua quân chọc phá ta ở khu vực Mộc Hóa, Long An. Tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 3
lại liên tục xuất kích đánh địch ở khu vực này. Đuổi chúng đến sát bờ sông Ba
Sa. Từ ngã ba đường 93 - 94 về hướng Nam. Nhưng cứ xuất kích là bọn này lại
chạy. Khi mình dừng rút về biên giới thì chúng lại bu bám ngay rất khó chịu.
Trung đoàn lên phương án vượt sông Ba Sa để đón lõng đánh Pốt. Đại đội 6, tiểu
đoàn 2 cùng trinh sát vừa đánh vừa luồn vào khu vực Công Pong Rồ, ý định làm
bến vượt sông ở đây. Để luồn sâu hẳn qua sông Ba Sa. Đại đội 6 gặp địch. Một
trận chiến nảy lửa đã diễn ra ở đây giữa đại đội 6 + một A trinh sát với cả tiểu đoàn địch. Trận
chiến kéo dài từ sáng. Bọn này như đã thấy được lực lượng luồn sâu chỉ có một
đại đội, nên chúng tổ chức vây kín 3 mặt. Còn 1 hướng thì là đầm lầy. C6 chống
trả hàng chục lần tập kích của Pốt ở các hướng. Nhiệm vụ trinh sát nghiên cứu
bến vượt không thực hiện được nhưng C6 cũng không thể rút về được.
Đại đội trưởng Pham Anh Xướng đã
chỉ huy anh em lợi dụng các gò đất, những cây thốt nốt giữa đồng kiên cường
chiến đấu. Nhưng C6 ở tình thế bất lợi về địa hình, nên đến 2h chiều đã hy sinh gần chục ae. Số bị thương cũng gần 2
chục. Đ/c Xướng cũng bị thương. (Đ/c Xướng quê ở Nam Hà. Trong cuộc CTCM cũng
đã là thương binh). Trong số hy sinh có một đ/c cũng tên là Phú, cùng quê TB
trước cũng làm ở Tuyên Huấn trung đoàn, khi đi chiến đấu cũng được tăng cường
xuống đơn vị. (được tin “ hú chính trị” ở Thái Bình hy sinh mọi người mãi sau
này vẫn lầm tưởng là mình).
Trước tình hình đó, trung đoàn
điều d1 tấn công giải vây. Đánh đuổi bọn Pot, đưa được hết liệt sỹ về nước. Đây
cũng là một trận mà quân ta thiệt hại nhiều.
Trận chiến ở hướng này ngày càng
ác liệt . Pot cay cú tăng cường thêm sư đoàn 703 thuộc lực lượng tổng dự bị từ
Công Bong Xom tới khu vực SVayRieng . Chúng liên tục tiến công ta từ phía Bắc
đường 1 đến Nam đường 1 đến Mộc Hóa- Long An .
Các khu vực của F đảm nhiệm ngày
nào cũng phải chiến với Pốt. Nếu cứ như vậy thì rất khó khăn trong việc giữ
chốt Biên giới. Nên các tiểu đoàn phải vận dụng chiến thuật vừa chốt giữ vừa
tấn công. Với chiến thuật này ta đã tiêu diệt được rất nhiều sinh lực của Pốt.
Các đơn vị địa phương của Tây Ninh, Long An cũng đã được tăng cường kết hợp với
F341 tấn công địch. Bảo vệ biên giới. Trong những lần tấn công địch ở đây do
hợp đồng không tốt, nên có trận cũng đã xảy ra việc “ quân ta chiến quân mình”.
Mặc dù đang ở thế tiến công địch.
Nhưng để giải quyết vấn đề biên giới bằng hòa bình nhằm: “tăng cường tính đoàn
kết, quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Campuchia”. Theo nguyên tắc công bằng
hợp lý. Quân ta quyết định lùi về đúng biên giới và củng cố thế trận phòng thủ,
sẵn sàng đánh địch nếu chúng tiếp tục lấn chiếm.
Trái ngược với thiện chí của ta.
Ngay ngày 1/1/78 Pốt cho 1 E tăng cường phản kích ta trên hướng E273. Buộc ta
lại phải tấn công tiêu diệt địch. D3 của E273 lại luồn sâu sang sát bờ sông Ba
Sa. Làm nhiệm vụ vu hồi đón lõng. Tiểu
đoàn 1 và 2 chia làm 2 hướng tấn công địch. Riêng C3 được tăng cường 1 khẩu
12,7 ly 1 ĐK 82 và 1 trung đội của C1,
tiến công từ Biên giới vị trí chốt của d3 sang. Theo hợp đồng thông báo là có
các đơn vị nhỏ của QK9, đánh từ hướng ngã ba Cột Cờ - Long An sang.
5h sáng ngày 3/1/78 toàn tuyến
bắt đầu nổ súng. Đại đội 3 dưới sự yểm hộ của khẩu 12,7 do đ/c Tuyết khẩu đội
trưởng chỉ huy, bắn vào các mục tiêu chốt giữ của Pốt. Ở đây chúng có khoảng
một đại đội. Chúng chống trả rất ngoan cố. Anh em xung phong mấy lần mà không
chiếm được chốt. Vì mục tiêu gần, nên 2 khẩu cối không phát huy được tác dụng.
Tôi nói với anh Trụ, anh Tiễn là để tôi lùi lại khoảng 100m mới bắn, chứ ở vị
trí này không bắn được. Hai anh đồng ý hợp đồng khi nào cối bắn cấp tập, thì
các anh cũng dập các loại hỏa lực vào để đánh chiếm các chốt của Pốt. Tôi khom
người chạy về lệnh cho 2 khẩu đội lùi khoảng 100m. Chỉnh cự ly tầm hướng xong
bắt đầu bắn “ tong..tong..” hai quả đạn bay vút
lên trời rồi rơi xuống nổ phía sau Phum. Tôi hô giảm tầm 100m. Hai phát
bắn tiếp, lại “ tong...tong”. Nhìn đạn bay trong không trung thật hồi hộp. Rồi
oàng- oàng đạn trúng M cần bắn. Hô anh em chỉnh lại tầm rồi cấp tấp thả đạn.
Tiếng Tong- tong thật đều rồi dồn dập.......DKZ82, B40, B41 cũng dồn dập bắn
vào các mục tiêu. Khẩu 12,7 ly điểm xạ thật đều găm vào các bờ bụi chốt của
Pốt. Sau đó bắn lên cao cho bb xung phong. Trước sức tấn công 3 hướng của C3
bọn Pốt bật chốt bỏ chạy, nhưng bọn này cũng bị tiêu diệt gần hết.
C3 phát triển lên qua đường
đất. Ở đây có một trục đường đất từ Việt
Nam qua. Đến 9h các đơn vị đã làm chủ các M. Tham mưu phó Thuật trực tiếp chỉ huy trận đánh. Xông xáo
trên xe La Da trắng chạy từ khu vực d2 đến tận vị trí của C3 để kiểm tra tình
hình. Mọi người đang nghĩ là “ông này” rất liều. Thì ùng , oàng một quả B41 bay xoẹt qua đầu xe. Rồi cứ
thế các loại súng bb thi nhau bắn về khu vực C3 đang chiếm giữ.
Xe của tham mưu phó chạy ngược
trở lại hướng d2. Anh em c3 bắt đầu phản ứng, bắn trả. Nhưng có vẻ bọn này
quyết chiếm vị trí c3 nên bắn rất áp đảo. Tiếng ùng oàng B40-B41 liên tục.
Tiếng AK ròn đều xen lẫn là tiếng nổ đanh gọn của M79 vào đội hình c3.
Tôi hô anh em chuẩn bị bắn, nhưng
rất lưỡng lự vì thấy kiểu tấn công này rất nghi. Rút kinh nghiệm như đại đội 6
mấy ngày trước. Mới đầu cũng cứ nghĩ Pốt là quân ta nên bị mất thế chủ động gây
thiệt hại. Nhưng kiểu tấn công này có vẻ không phải là Pốt.
BCH đại đội lúc đó gần ngay 2
khẩu đội cối. Anh Tiễn chạy sang mặt đỏ gay quát: “sao anh không bắn đi”. Tôi
nói: “có vẻ như là quân mình”. Anh Tiễn nói: “Pốt chứ quân mình cái gì, anh bắn
ngay”. Tôi lại giải thích: “anh cứ bình tĩnh, anh em sẵn sàng rồi, để tôi kiểm
tra thêm”. Đạn thẳng bắn rất rát, cắm phầm phập vào mấy cây quanh khẩu đội. Tôi
lợi dụng một gốc cây to, lấy ống nhòm quan sát. Lúc này đối phương đã tiến gần,
trong khoảng hơn 100m tôi phát hiện cách ăn mặc và khẳng định là bộ đội mình.
Anh Tiễn giật lấy ông nhòm quan sát và cũng công nhận là bộ đội ta. Lệnh cho
liên lạc báo các trung đội là ngừng bắn, làm hiệu bắt liên lạc. Tiếng súng của
mình đã ngớt hẳn. Đối phương càng hăng, càng bắn và tấn công mạnh hơn.
Trung đội 1 của Anh Ngọc phải cử
mấy người cùng giơ khăn vẫy, mãi mới bắt được liên lạc. Khi thật sự nhận ra nhau, niềm vui vỡ òa.
Thật bực mình giờ này mới tấn công. Các anh phải chiến từ sớm rồi. Hóa ra là 2
đại đội CA biên phòng và bộ đội địa phương của Long An tấn công từ hướng Cột Cờ
sang. Mò mẫm suốt từ sáng bây giờ mới tới đây. Thấy xe của tham mưu phó Thuật
lại tưởng xe cấp to Pốt. Quyết tấn công tiêu diệt. Bên mình có 3 đ/c bị thương
còn “đối phương” cũng bị thương mấy người. Rất may là ko ai hy sinh. Lúc đó tôi
mới nói: “các ông phải cảm ơn tôi nhé, chứ mấy chục quả cối này mà được “phát
huy” thì ối ông bỏ mạng rồi.
Cảm ơn bạn đã đọc và khen TP về
việc bình tĩnh . Tranphu trong đời quân ngũ có 3 lần vì bình tĩnh cẩn thận mà
ko bắn phải quân ta . Chuyện vừa kể là lần thứ 2 . Còn lần 1 là hồi CTCM . Khi
đ/v chốt giữ ở đường 13 tỉnh Bình Long .Lúc đó là buổi chiều . Bọn thám báo
thường hay đột nhập vào đơn vị , cứ của tiểu đoàn để nắm tình hình hoăc đợi đêm
làm mấy quả . Đơn vị đã mấy lần bị như vậy.
Lúc đó là buổi chiều, trong rừng
trời tối nhanh hơn. Đang ở bên hầm của tiểu đoàn thì nghe tiếng hô ầm ĩ của đ/c
Bằng (quê Bằng ở Sơn Bằng Hương Sơn Hà
Tĩnh ) liên lạc d là: anh Phú ơi thám báo, thám báo, thám báo vào cứ. Tôi vồ khẩu ak vọt lên
nghe ngóng và hỏi là chúng đang ở đâu ? Đ/C liên lạc nói là thấy 2 đứa vừa chạy
trốn vào hầm chữ a của c4 rồi. Tôi hô mọi người bình tĩnh rồi cùng Bằng tiền
nhập sát vào cửa hầm của c4. Trời nhá nhem tối, ghé mắt nhìn vào hầm, tay lăm
lăm súng chuấn bị bóp cò. Rõ ràng là có người thật. Tôi hô có người. Đ/c Bằng
nói: anh để em tung lựu đạn vào .Tôi không đồng ý nói là để bắt sống. Rồi hô bọn
trong hầm ra hàng ngay. Trong hầm vẫn im lặng, ko có tiềng trả lời. Tôi kiên
trì kêu gọi và gióng súng vào. 1 cái đầu cứ thò lên rồi thấy tôi gióng súng lại
thụt xuống. Bằng thấy tôi gọi hàng mãi mà ko có hiệu quả định rút chốt lựu đạn
tôi vẫn ko cho ném xuống.
Hô mãi rồi có liên lạc c4 đến nói
là anh Phú ơi hình như là Thằng Chinh anh muôi ở chốt về chứ ko phải thám báo.
Lúc đó tôi mới gọi có phải Chinh ko thì ra ngay. Có tiếng tôi, tôi Chinh đây
run rẩy. Đúng là ae mình rồi. Chinh bò ra rồi cứ thế quỳ lạy tôi. Ý cảm ơn tôi.
Chinh là người đi đạo Thiên chúa nhập ngũ 10/74 quê ở kỳ Anh Hà Tĩnh. Lúc ở
chốt về ko kiểu thế nào mà chính Chinh lại kêu có thám báo và chạy vào hầm. Mấy
ae khác lại cứ lầm tưởng theo nên đã xẩy ra tình huống như vậy.
Chinh rất nhút nhát sợ chiến đấu.
Chính vì thế ngày 14/4/75 lúc ở ngã ba Cây Cầy chuẩn bị bước vào chiến dịch HCM
thì tự thương bằng 1 trái lựu đạn. Chinh nằm trên võng quấn chăn vào quả lựu
đạn để dưới chân rồi rút chốt. Không ngờ sức công phá của quả đạn quá mạnh làm
Chinh tử vong. Thật tội nghiệp.
Lần thứ 3 là tránh được ko bắn
ông bác sỹ chủ nhiệm quân y trung đoàn
Ngày 20/6/78 khi toàn E luồn sâu. Xin phép sẽ kể kỹ chuyện này với các
bạn sau.
Như vậy là bạn 4102 quê ở Bến
Cầu. Thật vui khi chúng mình được sống chiến đấu ở biên cương, quê bạn. Tuổi
trẻ của chúng mình, bây giờ và mãi sau này ko thể nào quên được những ngày
tháng cam co, hào hùng đó. Những tình cảm nồng hậu mà những người dân quê bạn,
và có thể chính ngay gia đình bạn, đã giành cho mình. Cho chúng mình. Những
ngày tháng đó, những tình cảm đó như càng ngày càng đậm, càng thắm, càng nhớ
cho đến hết cả cuộc đời.
Hồi đó ngay tại Môc Bài, Có 1 bà
má, rất quý mình. Lúc chiến sự ác liệt gia đình má chuyển về An Thạnh. Mình đến
chơi mấy lần. Lần nào má cũng có món thịt bò xào dứa (thơm) đã mình. Má cứ nói
là;" thằng Phú nó chỉ thích ăn món này". Sau đó đ/v chuyển đi tác
chiến ở An Giang, Đồng Tháp, Hà Tiên. Rồi ở hướng Bến Sỏi và tấn công sang đất
K. Ko có dịp về thăm má nữa.
20 năm sau. Năm 1997 trong 1 lần
vào Sài Gòn mình có mượn xe honda chạy xuống đó tìm má mà ko gặp. Mộc Bài đã
thay đổi nhiều quá. Khu nhà má ở ko còn nữa. Hỏi thăm 1 vài người ko ai biết.
Mình có lỗi là ko nhớ được tên má. Điều này làm mình day dứt đến tận bây giờ.
Chiều biên giới thật sôi động, từng tốp xe hon đa chạy băng băng cánh đồng, từ
nơi rừng thốt nốt về Việt Nam. Nơi đây xưa kia là chiến trận ác liệt. Còn bây
giờ các bạn kia đang chuyển lậu thuốc
lá, hay hàng hóa từ bên kia về.
Nỗi buồn ập đến, tự trách mình và
thầm trách sự vô tâm của người đời. Ngắm nhìn những tia nắng chiều hình dẻ quạt
của miền biên giới. Đúng là "nắng quái " thật khó chịu. Với tâm trạng
nặng nề tôi trở về TP.
Hiện giờ bạn đang làm việc ở đâu
? Còn mình trước khi nhập ngũ là công nhân cơ khí của 1 nhà máy đóng tầu. Chứ
ko phải là sinh viên như bạn nghĩ. Bạn chúc mình thật hay, nhưng mình hiện giờ
cũng chỉ là doanh nghiệp vừa và nhỏ thôi. Nhưng mình cũng rất cảm ơn bạn về lời
chúc tốt đẹp đó.
Một trận tấn công giải cứu ngoài dự kiến:
Ngày 31/12/1977 sau gần một tháng dong duổi liên tục tấn công truy diệt
Pốt ở bên đất K. Các đ/v được lui quân về biên giới củng cố phòng thủ. Thật
thoải mái khi nằm trên đất Mẹ. Cũng nằm võng, nằm đất hoặc nằm ngoài đồng lúa,
nhưng sao đất mẹ vẫn thấy gần gũi ấm áp thế. Ae vẫn phải thay nhau gác. Nhưng
hầu như mọi người có 1 đêm ngủ thật yên lành.
Đại đội 3 và d1 vẫn làm n/v chốt
giữ ở khu vực Mộc Bài. 8h vừa ăn sáng xong chuẩn bị lên đại đội giao ban, thì
đ/c liên lạc chạy gấp xuống giọng thất thanh. Anh Phú đại đội báo chuẩn bị kết
hợp cùng xe bọc thép tấn công ngay. “Mày đùa tao đấy à "? Tôi nói sao vô
lý thế, vừa về sao lại phải đi tác chiến gấp vậy. Đ/c liên lạc nói anh cứ tập
trung ae rồi lên đại đội nghe phổ biến n/v. Tôi gọi anh Dự a phó nói về tình
hình và bán tin bán nghi cái lệnh vừa rồi. Hôm qua được thông báo ta rút quân
về nước là: “vì giữ sự ôn hoà, thiện chí hoà bình” mà sao lại có lệnh tấn công
ngay ?
Tới BCH đại đội. Anh Tiễn, anh
Trụ anh Đạo cv phó, cùng mấy đ/c btr, đang chụm đầu chỉ, chỉ ở bán đồ. Tôi hỏi
ngay: “Có việc gì đấy các anh ? Anh Trụ nói : “ông Phú ngồi xuống đây đợi nốt
đ/c Kỳ A10 lên nữa rồi phổ biến 1 thể”. Quan sát nét mặt mọi người cũng thấy
căng thẳng, có vẻ không bình thường. Tôi nói: “thì anh nói luôn xem có việc gì
? Anh Tiễn nói cách đây 30’ có 1 xe Hồng Hà chở quân nhu của F đoàn. Trên xe có
khoảng chục đ/c, ở dưới cứ mới lên. Cứ tưởng ta còn ở bên kia nên chạy sang.
Anh em chốt ở cửa khẩu bất ngờ quá ngăn ko kịp. Vừa có mấy anh em chạy được về
đây rồi. F đoàn và E chỉ thị cho C3 cùng 6 xe bọc thép M113 tấn công sang giải
nguy cho số ae này và kéo xe về.
Trời ơi, lại còn thế nữa, thảo
nào lúc nãy có nghe thấy tiến súng. Thế có ai việc gì không ? Tôi hỏi nhưng
biết ngay là sự việc nghiêm trọng rồi. Tôi nói tiếp giọng hơi gắt: "Thế
sao các anh không tổ chức ngay đi mà còn ngồi bàn gì nhiều". Bắt đầu tôi
thấy lo, rất lo cho các anh em đó. Anh Tiễn nói thêm. Xe bị nó bắn ở chỗ rừng
Sở, đã có 2 đ/c chạy được về, số còn lại không biết thế nào nữa. Vừa lúc đó xe
M113 của lữ 22 cũng ầm ầm lao đến. Các trung đội nhanh chóng lên xe, tấn công
thẳng đường 1 sang. Xe chạy theo đội hình bậc thang vừa chạy vừa bắn. Súng 12L7 trên các đều bắn điểm xạ, thị uy. Thỉnh
thoảng lại táng một quả ĐKZ cũng đã nhiều lần ngồi trên xe cùng tiền nhập, hoặc
cùng tác chiến với TTG nhưng có lẽ chẳng lần nào như lần này, xe chạy nhanh hết
tốc độ, xóc ơi là xóc.
Qua Ba Vét 1, chạy tiếp tới gần
rừng Sở xa xa đã thấy lố nhố bóng áo đen. Thấy loé lửa phía trước tôi hô nguy
hiểm. Nhưng cũng chẳng ai nghe thấy thì, ùng oàng đạn DKZ vọt xoẹt trên đầu. Kệ. Đoàn xe dũng mãnh lao lên.
Đ/c giữ b41 lựa thế phụt 1 quả hú hoạ về phía Pot. Thêm 200m nữa rồi dừng, cho bb xuống rồi tiếp
tục dàn hàng ngang tấn công. Các trung đội nhanh chóng nhảy xuống chạy theo xe,
vừa chạy vừa bắn. Các loại súng đều nhả đạn về phía Pot. Khói, bui mù mịt khét
lẹt. Tiền hô xung phong vang dền. Các đ/c xạ thủ 12L7 trên xe thật dũng cảm, cứ đều đều thùng-
thùng - thùng điểm xạ 3 viên 1. Mọi người chạy tiến theo xe bọc thép. Tôi hô
anh em gióng cối ngay mặt đường bắn uy
hiếp. Hô ngay: “thước tầm 300m, 4 quả
cấp tập” . Thật hài lòng với ae, đúng là những người lính thiện chiến. Tong -
tong - tong - tong …ko đợi nhìn đạn nổ.
Tôi hô - thu cối vận động theo bộ binh. Vừa chạy vừa pằng păng, pằng pằng lên trời mấy loạt AK, rồi lại tiếp tục chạy.
Có lẽ trong chiến đấu chưa có trận nào tính chất như trận này. Anh em tấn công
thật dũng mãnh. Hầu như ai cũng biết rằng chỉ có tấn công thật mạnh, thật áp
đảo mới làm cho bọn Pốt hoảng sợ. Để cứu ae mình. Tiếng hô xung phong của mọi
người hoà lẫn tiếng súng các loại, tạo lên 1 bản hùng ca thật hoàng tráng. Bất
chợt tôi nghĩ giá như có máy quay phim, có ai quay được trận chiến hào hùng này
thì thậy là giá trị biết bao. Thật tiếc quá ! Vận động được một đoạn tôi lại hô
cối bắn tiếp. Bọn Pốt cũng điên cuồng bắn trả. 1 vài đ/c đã trúng đạn bị thương
rớt lại, tôi nói anh em đi cùng cối, đừng ở lại sau. Rút kinh nghiệm các trận
trước, nhiều anh em rớt lại thì lại gặp Pốt vòng đến. Đã thấy chiếc xe Hồng Hà
cắm đầu xuống bên Bắc đường. Đội hình C3 cùng thiết giáp tấn thêm lên khoảng
500m nữa rồi dừng lại đứng ở thế vòng cung. Chĩa súng hình dẻ quạt bắn điểm về
các hướng uy hiếp Pot. Trên mặt đường xác mấy thằng Pot nằm vắt ngang vắt dọc
trong các tư thế khác nhau. Máu loang thành vũng.
Tôi hô anh em tiếp tục bắn cối
truy đuổi địch. Rồi cùng anh Tiễn và mấy người nữa kiểm tra xe. Thi hài mấy anh
em bị rất nhiều vết đạn. Gạo, rau trên xe tung toé, Ae tìm thấy thêm 2 hy sinh nữa trúng đạn
trong tư thế chạy về hướng Tổ quốc. Xe Hồng Hà hỏng, chúng tôi nhặt mấy khẩu
súng trên xe, rồi nhanh chóng đưa các liệt sỹ lên xe bọc thép, rồi đốt xe Hồng
Hà. Bắn thêm mấy loạt nữa về phía Pốt rồi nhanh chóng quay trở về, vừa đi kiểm
tra xem có anh em nào thất lạc. Đi hơn 1 cây số thì gặp được 1 đ/c bị thương
mặt trắng bệch vẫy xe. Anh Tiễn hỏi còn ai nữa không ? Đ/c này nói là em cũng
không biết nữa. Tôi bàn với anh Tiễn là tranh thủ ít phút tìm kiếm, may ra còn
sót ai. Nhưng rồi cũng không gặp thêm đ/c nào nữa. Mọi người trở về, với chiến
thắng và cùng với tâm trạng buồn-Thật buồn !!!
LẬT CÁNH :
Trung tuần tháng 1/78, trong khi
đồng bào ta ở hậu phương đang chuẩn bị đón tết cổ truyền Kỷ Mùi. Thì tình hình
Biên giới Tây Nam càng trở lên nghiêm trọng. Đi ngược lại với thiện chí của ta,
bọn phản động bọn Pốt, IêngXaRi tiếp tục cho quân đánh sâu vào lãnh thổ Việt
Nam, ở Tây Ninh, Long An, An Giang , Đồng Tháp và Kiên Giang.
Để giáng trả hành động xâm lược
trắng trợn của kẻ thù. Các binh đoàn chủ lực cơ động được lệnh tiến công tiêu
diệt địch. Theo đó sư đoàn 341 được điều tăng cường cho quân khu 9.
Ngày 17/1/78, toàn đội hình F
(trừ E270 đang chốt giữ ở Hà Tiên), lên đường hành quân bằng xe cơ giới. Địa
bàn Tây Ninh bàn giao lại cho sư đoàn 9 đảm nhiệm. Vượt gần 300km tới Châu Đốc-
An Giang. Tiểu đoàn 1 chốt giữ ở khu vực núi Sam, (núi Bà An Giang) . Tiểu đoàn
2 và 3 khẩn trương về chốt giữ ở Phú Cường, Bẩy Núi An Giang .
Ngày 19/1, sư đoàn giao nhiệm vụ
cho d2- d3 kết hợp cùng sư đoàn 330 quân khu 9 phải giải phóng Phú Cường. Nơi
đây đã bị bọn Pốt lấn chiếm mấy ngày trước. BCH Trung đoàn bàn với F330 là “để
d2+ d3 luồn sâu phía sau đội hình địch, rồi đánh chiếm điểm cao 192. Làm bàn
đạp đánh xuống, tạo điều kiện cho F330 đánh chính diện" .
Trận đánh tưởng như khó khăn,
nhưng nhờ d3 + d2 luồn sâu gây bất ngờ, đánh hất trở lại nên bọn Pốt nhanh
chóng vỡ trận. Lực lượng tấn công của F330 cũng rất mạnh mẽ. Trận này chúng ta
nhanh chóng giành thắng lợi, tiêu diệt được rất nhiều địch, thu nhiều vũ khí.
Giành lại địa bàn mà chúng đã lấn chiếm. Vừa kết thúc trận đánh giải phóng Phú
Cường. Ngày 20/1 sư đoàn lại được lệnh đánh địch giải phóng 2 xã Khánh An,
Khánh Bình thuộc huyện Châu Phú- An Giang. Ở đây địa hình vô cùng phức tạp hiểm
trở. Lực lượng Pot rất đông. QK9 cùng F341 + F330 + Hải Quân + Không quân bàn
bạc trận đánh hợp đồng quân binh chủng quy mô lớn để tiêu diệt Pot, giải phóng
địa bàn quan trọng bị lấn chiếm này.
Sau khi đánh xong trận ngày
3/1/78 toàn đội hình trung đoàn lại rút về chốt phòng thủ biên giới. Anh em vẫn
phài nằm bờ nằm bụi. Màn trời chiếu đất. Quân số c/đ của các đơn vị đã vơi đi
nhiều. Trung đoàn đã phải đôn các đ/c ở cứ, tăng gia vv... động viên thu gom
các Đ/c thương binh nhẹ, trở lại đơn vị nhưng quân số cũng chẳng tăng được bao
nhiêu. Địa bàn chốt giữ thì rộng, nên đêm đêm mỗi người phải trực gác nhiều
hơn. Có trung đội thì cứ gác theo phương thức quay vòng, mỗi người 2h nhưng
cũng có tiểu đội áp dụng 2 người 1 vòng gác 6h rồi đổi ca. Bọn Pot chưa giám
đánh lớn, nhưng vẫn dùng những phân đội nhỏ lẻ tập kích chớp nhoáng rồi bỏ
chạy. Nên việc canh gác đên phải hết sức cảnh giác.
Gần 1 tháng tác chiến liên tục
bên đất K, làm mọi người rất mệt. Ai nấy gầy sọp hốc hác hẳn đi. Chính những
ngày tháng vất vả, gối đất nằm sương này, làm cho tôi kiệt sức, nhiễm lạnh viêm
phổi cấp. Đầu tiên là ho, ngấy sốt, rồi ho rất nhiều rũ rượi từng cơn. Khổ nhất
là lúc gác đêm, trời lạnh lại càng ho nhiều. Ho long cả óc, lúc lên cơn ho, tay
thì bịt miệng để tiếng ho không phát ra to, tay thì ép ngực đỡ phổi....Y tá mới
đầu nói anh có khả năng viêm phế quản. Rồi cho mấy viên Tetasilin uống cũng
chẳng có tác dụng. Rồi ho quá khạc ra cả máu nữa. Lúc này đ/c y tá báo với đại
đội là phải cho tôi đi viện điều trị.
Ngày 16/1 tôi bàn giao công việc
tiểu đội cho Dự a phó. Mọi người chia tay thật quyến luyến. Cứ như tôi được ra
quân giải ngũ ko bằng. Hoài nói: anh mà đi lâu là em cũng về Sài Gòn đấy. Tôi
nói: anh em cố gắng, chắc tôi đi viện mấy ngày thôi. Anh Trụ và anh Tiễn cũng
xuống tận tiểu đội để chia tay. Anh Tiễn nói: thôi anh ốm thì cứ đi điều trị,
công việc ở đây có đ/c Dự và anh em tôi, nhưng anh phải chữa nhanh nhanh lên
đấy. Anh Trụ thì tếu táo là: ông cứ về Sài Gòn, em út nó chăm cho mấy ngày là
khỏi chứ chẳng phải đi viện đâu.
Trà ! Một thằng lính A trưởng ốm
đi viện mà làm có vẻ quan trọng thế ! Chẳng thiếu người mà. Tôi nghĩ thế nhưng
lại nói: Các anh ở lại chốt giữ cho kỹ, chắc tôi đi khoảng chục ngày an dưỡng
rồi về thôi.
Thực ra tôi cũng hiểu tình cảm
của anh em, nhất và với BCH đại đội. Tuy rằng cấp bậc, chức vụ khác biệt, nhưng
mọi người vẫn rất tôn trọng tôi. Vì cũng hiểu lẽ ra tôi không bị thiệt thòi do
nhầm lẫn, thì bây giờ cũng là cấp phó đại đội, chứ không phải là a trưởng như
bây giờ. Nên trong sinh hoạt, tác chiến, hoặc những lúc khó khăn, các anh
thường tham khảo ý kiến của tôi. Còn trong tiểu đội, thì ngoài tuổi tôi hơn hẳn
mọi người, mà trong sinh hoạt ae coi tôi là người anh thực sự.
Tạm chia tay đại đội 3, tôi lên
đội điều trị của trung đoàn. Bệnh xá E cũng ngay ở làng Tiên Thuận, cách vị trí
chốt của C3 khoảng 4- 5 km.
Tôi tới đại đội 24 quân y trung
đoàn lúc 9h sáng. Vừa đưa giấy giới thiệu của quân y tiểu đoàn thì gặp ngay anh
Thu y sỹ. Anh Thu trước là y sỹ của d1 cùng d bộ với tôi. (Anh Thu quê ở Ninh Giang- Hải Dương ). Đón tiếp rất vồn vã. Pha
trà và gọi mấy anh em nữa cùng ngồi uống trà. Có anh Quyết y sỹ d2 mới lên (quê An Hải- Hải Phòng ) bác sỹ Nhật đại
đội trưởng 24. Mọi người hỏi thăm tình hình dưới đơn vị rồi xem qua bệnh của
tôi, bác sỹ Nhật nói: Cậu bị viêm phổi cấp thôi, có thể dãn phế quản nữa nên ho
nhiều, vỡ các mao mạch nhỏ. Ko có gì đáng kể, cứ điều trị ở E ít ngày rồi tính.
Anh Thu thông báo, vừa có đ/c Lập
c9d3 cũng nhập viện điều trị, bị thương nhẹ ở kheo chân. Cùng quê Thái Bình hai
ông ở với nhau cho tiện. Anh Quyết gọi luôn anh Lập lên uống nước. Từ hôm đó
tôi có thêm bạn đồng đội, lại đồng hương mới. Thân thiết nhau từ đó cho đến
ngày ra quân. Khi ra quân thì anh Lập là chức Trưởng tiểu ban quân lực E, còn
tôi cũng trung úy trưởng tiểu ban dân địch vận E. Những năm sau này làm kinh
tế, đến tận bây giờ. Hoàng Quốc Lập quê Đông Huy- Đông Hưng- Thái Bình. Xung
phong đi bộ đội khi mới 17 tuổi, nên kém tôi 3 tuổi- một người có ý chí mạnh mẽ
trong sinh hoạt cũng như công việc. Mới nhìn, tính cách thì hơi khó gần. Nhưng
lấp sau cái cứng cáp đó là người sống rất trách nhiệm, ý trí và giàu tình cảm.
Là trung đội trưởng của c9 d3. Từ lúc KCCM nhưng cũng do những nhầm lẫn về đề
bạt của chuyên môn, cũng giống như tôi. Quân hàm sỹ quan không về. Nên cũng rất
bị thiệt thòi. Cùng vì một lẽ đó, nên hai anh em nhanh chóng tâm đầu, ý hợp trong
mọi việc. Hiện nay Anh Lập cũng là giám đốc một công ty TNHH xây dựng thương
binh, nhiều ngành nghề chức năng, rất có uy tín tại thành phố Thái Bình.
Buổi trưa mấy anh em đi ăn cơm
xong lại về nghỉ. Đang vất vả ở chốt, giờ đây được về phía sau nghỉ ngơi thật
là thoải mái. Ko phải lo canh gác và địch địch, ta ta nữa. Giấc ngủ thật sâu,
thật ngon. Từ khi ra biên giới 27/9 đến giờ, hơn 3 tháng. Hôm nay tới được một
giấc ngủ ngon nhất, an lành nhất.
Đại đội 24, hay gọi là bệnh xá
trung đoàn có hơn 20 người. Có
2 bác sỹ, 5 y sỹ. Số còn lại là y tá và phục vụ. Ngoài ra lúc nào cũng được
tăng cường một trung đội vận tải của c25. Làm công tác phục vụ như đào hầm hào,
v/c thương binh hay các nhiệm vụ khác. Thường thì ở đây chỉ sơ cấp cứu những
trường hợp cấp thiết, sau đó lại chuyển lên phẫu cấp trên hay bệnh xá sư đoàn.
Một số anh em bị thương nhẹ
thì cũng chữa trị tại đây. Thành phần “ốm đau” thì cũng có vài người. Vị trí
đóng quân cũng ngay tại khu vực tác chiến của trung đoàn. Cũng trong phạm vi
pháo của Pốt có thể tới và Pốt cũng có thể mò vào tập kích. (Tháng 1/79 đại đội 24 khi ở bên K thuộc
tỉnh Côngpongsubư ban đêm cũng bị Pốt vào tập kích hy sinh va bị thương mấy
đồng chí).
Nhưng với suy nghĩ của chúng
tôi, thì đây cũng là phía sau. Cuộc sống và sinh hoạt yên bình, quán bia, quán
nước mía, cà phê hay giải khát, cả quán nhậu nữa đều có. Loa đài xập xình.
Những cô thôn nữ trong bộ đồ ba ba đủ mầu sắc đong đưa mời chào thật hấp
dẫn. Nếu không có tiếng súng, thì cuộc
sống nơi này là hòa bình, là thời bình đầy đủ với tất cả các hương vị của cuộc
đời. Bỗng nhiên tôi.trạnh nhớ đến anh em đang chốt giữ ngoài biên. Cuộc sống,
hàng ngày phải gối đất nằm sương, thiếu thốn đủ thứ. Nếu dóng theo đường chim
bay thì từ đây ra ngoài chốt chưa đầy 2 km mà cuộc sống khác xa nhau. Đúng là:
“thiên đường và địa ngục ».
« hoangson1960
Những ai ở F5 giai đoạn
10/78 đều biết. Vào tháng 10/78 tại Snoul 2 chiếc tăng T54 đi lạc chạy vượt qua
chốt của ta không có bộ binh đi kèm tiến vào khu vực của Pốt. Một chiếc sa lấy,
một chiếc bị bắn cháy tất cả đều bị giết. Ngày hôm sau còn nặng nề hơn Q16 của
F5 phải đánh lên để kéo Tăng về vì sợ tụi nó quay phim chụp hình đưa lên làm
bằng chứng VN xâm lược <vì lúc này mình vẫn chưa chính thức qua KPC>. Đv
đáng lên vào ngay bãi mìn hi sinh một số, một số tân binh vì chưa có kinh
nghiệm chạy tụ lại bị DKZ, B40, B41 hi sinh thêm một mớ. Cuối cùng cũng không
kéo được Tăng về. Ngày 25/10/78 tôi là tân binh được giao quân cho Q16 đang nằm
gần phẫu trung đoàn chờ các đv lên nhận quân thấy thương binh, tử sĩ được cáng
về phẫu gần cả trăm người. Thấy cảnh đó tân binh thằng nào mặt cũng xanh lè. Sáng
hôm sau đọc danh sách để về đv thiến mấy chục thằng. »
Sau một ngày dừng chân ở
Châu Đốc, tiểu đoàn 2 +3 của E273 đã kết hợp với F330 - QK9 đánh tan bọn Pốt
giải phóng Phú Cường.
Sư đoàn 341 được lệnh tiếp
tục đánh địch giải phóng 2 xã Khánh An, Khánh Bình thuộc huyện Châu Phú, An
Giang. Nơi đây địa hình rất phức tạp, là cù lao được bao bọc bởi sông Hậu, sông
Châu Đốc nên toàn sình lầy, kênh rạch chằng chịt. Rất thuận tiện cho phòng ngự
và ngược lại tấn công thì lại rất khó. Bọn Pốt đã xua quân bất ngờ chiếm giữ
nơi này gần 2 năm. QK9 nhiều lần tấn công mà chưa giải phóng được.
Bọn Pốt chiếm giữ 2 xã này,
ngoài các đơn vị địa phương của chúng, còn chủ yếu là Sư đoàn 2. Sư đoàn được
tôn là “anh cả đỏ” của quân đội Pốt.
Chúng chiếm giữ đã lâu, nên xd phòng thủ hệ thống theo tuyến án ngữ liên hoàn,
ngay từ ngã ba sông Châu Đốc. Có những chỗ lợi thế chúng chốt giữ, hầm hào kiên
cố, kèm thêm cả các bãi mìn. Hòng chống sự tiến công của ta. Với ý đồ lấn chiếm lâu dài. Ngoài ra chúng
được sự chi viện của pháo binh bên trong đất liền cũng rất mạnh.
BCH sư đoàn chấp nhận phương
án tác chiến của ban tác chiến F, do đ/c Lê Hải Anh thiếu tá trưởng ban cùng
anh em soạn thảo. Là: vẫn dùng theo lối đánh sở trường: luồn sâu vào bên sườn
phía sau hướng phòng ngự chính của chúng, tạo thế bao vây chia cắt tiêu diệt
địch.
Trung đoàn 273, Trung đoàn
266 được phân công trên hướng chủ yếu. Dùng d1 + d2 + d3 + d8 là lực lượng luồn
sâu từ Tây ấp KôKi, đi ngược lên hướng Bắc. Đi sâu vào phía sau địch ở phía Tây
Sông Châu Đốc. Kết hợp với tiêu diệt địch từ đồn biên phòng Bắc Đai, đến đồn bp
Vạt Lài và khu vực Tây của 2 xã Khánh An - Khánh Bình.
Đêm ngày 3/2/78 (tức 29 tháng chạp Mậu Ngọ) khi mà cả
nước đang chuẩn bị đón tết Mậu Ngọ, thì các chiến sỹ Trung đoàn 1 - 3 của sư
đoàn 341, Trung đoàn 2 của F330, Trung đoàn 2 của tỉnh đội An Giang, cùng các
lực lượng Hải quân, TTG di chuyển đến các vị trí tập kết. Trung đoàn 273 + 266
ém quân, đợi Lữ đoàn công binh QK bí mật bắc cầu phao vượt sông. Khoảng 1h đêm
ngày 4/2 cầu phao bắc xong. Các Tiểu đoàn được lệnh luồn sâu theo kế hoạch.
Phải đi vòng xa, nhưng đến 5h sáng các đơn vị đã vào chiếm lĩnh các M được phân
công. Trời cuối năm trời se lạnh. Sương xuống dầy, tầm quan sát ko được xa. Nên
bọn Pot ko phát hiện được ta. Càng bất
ngờ hơn khi chúng nghĩ: chuẩn bị mai là ngày tết cổ truyền Việt Nam, nên ta
không động binh. Bọn địch ở đậy mới bị ta
luồn sâu đánh tập hậu 1 trận Phú Cường, nên còn rất “ngây thơ »
chưa bị ngấm đòn. Hơn nữa với địa hình chốt giữ rất hiểm hóc và lại đã chiếm
giữ rất lâu rồi. Nên bọn này rất chủ quan. Chúng không biết rằng, lưỡi gươm của
thần công lý, lưỡi gươm của sức mạnh,
của ý chí QĐVNAH, của dân tộc Việt Nam anh hùng, đã cận kề bên cổ chúng. Đang
đợi giờ hành quyết.
Đúng 6h15’ ngày 4/2, sương
tan dần. Các mục tiêu đã hiện rõ ùng- ùng-
ùng, những tiếng nổ đầu nòng của pháo binh ta bắn vào các M. Oành- oành-
oành, tiếng nổ inh tai gần đội hình ém quân. Rồi như ngưng lại để quan sát
chỉnh tầm, rồi các loại pháo, cối thi nhau nhả đạn. Dàn nhạc, bản hợp xướng của
pháo, cối các loại, của lòng căm thù, sức mạnh của cuộc chiến tranh chính
nghĩa, đồng loạt dập vào các vị trí chốt giữ của Pốt. Pháo 130 ly bắn tầm xa,
chế áp các trận địa pháo bên trong của chúng. Không thể phân biệt nổi tiến nổ
của từng loại pháo. Âm thanh rền vang như sấm. Rồi máy bay của ta xuất hiện,
ném bom vào các mục tiêu, trận địa pháo, khu vực chỉ huy của Pốt. Rồi máy bay
trực thăng quần đảo bắn rốt két và 20L liên tục vào các chốt địch, ở hướng F330
đảm nhiệm. Hoả lực thật mạnh. Đúng là trong chiến tranh chống Mỹ và giai đoạn
đầu của cuộc chiến với Pốt này, chưa lần
nào quân đội ta xuất quân đủ các quân binh chủng như đợt này. Dưới sông Châu
Đốc, 4 tầu “Há mồm” của Hải quân đang tiến về vị trí đổ bộ. Trận địa địch chìm
trong khói lửa. Các đ/c chỉ huy của d3 như Nguễn Song Thao Dtr, Tô quang Phụng
Ctr, Nguyễn văn Ngọc Btr, Hoàng Quốc Lập Btr
và nhiều đ/c nữa, thật sự mưu trí, thật dũng cảm. Khi xung phong đều lao
lên trước thật dũng mãnh. Khi ngớt đợt tập kích hoả lực bằng máy bay và pháo
binh. Cán bộ chiến sỹ d3 tràn lên đánh chiếm địch ở khu vực đồn Bắc Đai. Địch
lợi dụng hầm hào kiên cố, phòng thủ quyết liệt. Nhưng chỉ sau 35 phút chiến
đấu, d3 đã đánh chiếm và tiêu diệt hết bọn địch ở đây. Làm bàn đạp mở thông ngã ba sông Châu Đốc.
Tạo chỗ đứng đầu cầu, bến đổ bộ cho các tầu há mồm, nhả 12 xe bọc thép M113 và
các tiểu đoàn bộ binh F-9, E266 tiến công khu vực Chây Thom.
Cùng lúc d3 đánh chiếm đồn
địch ở đồn biên phòng Bắc Đai, d2 dũng mãnh tấn công tiêu diệt địch ở đồn bp
Vạn Lài. Tiều đoàn 1 phát triển tiến công phía Tây đồn Bắc Đai. Địch co cụm
chống trả. Pháo binh của Pốt cũng đã gượng dậy bắn hỗ trợ cho bọn sống sót.
Chúng bắn theo toạ độ tính sẵn, mật độ thật dầy đặc, làm cho bộ đội ta thương
vong nhiều, nhất là ở khu vực cầu phao vượt sông. Đạn pháo nổ dưới sông làm cá
chết nổi trắng mặt nước. Trong những loạt pháo bắn trả đó, một loạt pháo làm hy
sinh đ/c Trần Quy Nhơn, tham mưu phó trung đoàn và đ/c Thắng trợ lý tác chiến
của trung đoàn 273 cùng một số a e khác.
Pháo binh ta tiếp tục bắn chế áp vào sâu.
Nhưng chắc bọn này có “Mắt pháo” đài quan sát, nên chúng bắn vào quân ta cũng
rất trúng đích. Ta tập trung phản pháo, mà chưa bịt miệng được toàn bộ pháo của
chúng. Máy bay trực thăng HU cũng vẫn liên tục quần đảo hỗ trợ bb tiêu diệt
Pốt.
Đến khoảng 9h30, hầu như các mục tiêu của
F341 tấn công đã hoàn thành. Thì ở hướng quan trọng của trung đoàn 2- F330,
Trung đoàn 2 tỉnh An Giang gặp khó khăn. Vẫn chưa mở được cửa mở, tấn công địch
ở cù lao Khánh An- Khánh Bình.
Nếu cứ để kéo dài thì toàn
cục sẽ bất lợi cho ta. BCH liên quân
quyết định điều lực lượng của F341 gồm D2- E273 và 1 d của E266 chi viện cùng
F330 tiến công địch ở đây.
Lúc này , cầu phao tạm của
F330 cũng đã bắc xong. Các chiến sỹ d2 ào ào vượt sông. Trung đoàn 266 cũng
được cơ động bằng “tầu há mồm” của Hải quân đổ bộ vào tiến công cù lao Khánh
An- Khánh Bình khu vực ngã ba ấp Ba Đình. Khu này là sở chỉ huy và kho hậu cần,
quân y của trung đoàn 11 của Pốt.
D2 đánh tràn lên, cùng với
anh em F330 đánh tràn xuống Bắc làng Xanh. Đánh thẳng vào sau đội hình địch,
đang cố thủ của chúng ở An Thạch. Bọn Pốt không còn đường lùi chống trả thật
quyết liệt. Nhưng chúng đã vỡ trận. Một số tổ chức vượt sông tháo chạy bằng
thuyền. Nhưng bị pháo cối và trực thăng tiêu diệt.
Tiểu đoàn 1, sau khi đánh
chiếm xong phía Tây đồn Bắc Đai. Được lệnh vượt sình lầy khu bưng Bình Thiên
tiến công vào phía Nam làng Xanh.
Chiến sự nhỏ lẻ tiếp diễn
đến 17h chiều ngày 4/2/78. Quân ta làm chủ hoàn toàn cù lao Khánh An- Khánh
Bình. Sau 2 năm, khu vực 2 xã này đã được giải phóng. Sạch bóng quân xâm lược
tàn ác. Đúng chiều ngày 30 tết Nguyên đán Mậu Ngọ. Các đ/v được lệnh tạm chốt
giữ tại các vị trí, địa bàn vừa giải phóng. Sư đoàn 341 nhất là khu vực Châu
Đốc, các xã Khánh An- Khánh Bình vô cùng biết ơn các đơn vị đã chiến đấu đánh
đuổi tiêu diệt bọn Pốt độc ác.
Trong các bài giảng của các
trường sỹ quan, sơ cấp, cao cấp hay tập huấn vv.. của các trường đạo tao Sỹ
quan, Hạ Sỹ quan, đều lấy trận đánh Phú Cường, Khánh An- Khánh Bình, làm bài
học giảng dạy cho các bộ môn quân sự quốc phòng. Qua trận chiến này, uy danh
của sư đoàn 341 ngày càng được tôn vinh, càng được sự yêu mến của nhân dân các
tỉnh dọc miền Biên giới Tây Nam. Thật đáng tự hào !
Bài viết dựa theo lời kể của
Trung tướng Lê Hải Anh, nguyên thiếu tá trưởng ban tác chiến F341, Đ/c Hoàng
Quốc Lập, nguyên trung đội trưởng c9, d3, E 273. Hồ sơ lưu trữ của trung đoàn
273, và lời kể của một số anh em ccb F341, đã trực tiếp tham gia trận chiến
này.
Trong khi toàn E đang làm
công tác chuẩn bị chiến đấu giải phóng 2 xã Khánh An, Khánh Bình. Thì cái nhóm
"ốm yếu" của tôi được chuyển về điều trị ở viện 7 Biên Hòa. Trung
đoàn bộ và đại đội quân y 24 nhích gần lên khu vực tác chiến.
Tôi, anh Lập, và Mến (lính
77), chiều tối cũng chào anh chị chủ nhà, khoác ba lô ra "chốt" ở
phòng đợi bến xe thị xã Châu Đốc, để sáng hôm sau đón xe về Sài Gòn.
Thị xã biên giới thời chiến
ko thật sôi động. Phố phường vắng vẻ. Cũng có hàng quán nhưng ko đông đúc.
Thỉnh thoảng bọn Pot bắn vu vơ sang mấy loạt pháo. Khu vực núi Sam, bên này là
đền "Vía Bà". Nhưng bên kia bọn Pot vẫn còn chiếm giữ. Nếu tính theo
đường "chim bay" thì cũng ko xa. Hôm trước ae tôi có lên thăm đền
thấy vắng tanh. Anh em d bộ, d1 đang chốt giữ ở đó. Các đại đội bb bên kia núi
hàng ngày vẫn chiến đấu chặn địch lấn dũi chiếm đất.
Ba ae trải áo mưa ra nền nhà
đợi nằm nghỉ. Trong lòng mọi người rất vui, háo hức vì được về phía sau. Về Sài
Gòn với bao dự định riêng tư của mỗi người. Nhưng phải nằm đợi đến sáng mai cảm
thấy lâu quá. Đợi chờ trong mong ngóng thật buồn và thấy thời gian đi thật
chậm. Chậm hơn cả 1 mình ngồi gác ở cánh đồng nơi chiến tuyến. Vừa nằm 1 tý các
loại muỗi to, muỗi bé, muỗi mẹ, muỗi con đã tấn công ko chịu nổi. Anh em tìm
cách mắc màn, cảm giác như buồn thiếu cái gì . Riêng tôi thì ho, ko hút thuốc
lá, còn 2 bạn kia thì hết điếu nọ đến điếu kia.
Tự nhiên tôi hỏi anh Lập: có
đi uống cape ko ? Anh Lập nói: tiền đâu mà uống cape ? Đúng là lính chiến, gian
khổ là thế ngoài hành trang đơn giản còn toàn là súng, là Đạn. Còn bây giờ đi
viện, súng , đạn cũng ko còn. Chỉ có cái balo bẹp, vì có cái gì nhiều đâu. Tiền
thanh toán đi viện, có đáng là bao. Trợ cấp của "Trung sỹ nhất" có
mấy đồng. Chợt nghĩ mình đi lính chiến liên tục thế này, nếu là lính Mỹ, hay
lính Ngụy thì chắc nhiều tiền lắm. Vì nghe đâu , thời chế độ cũ 1 người đi lính
, nuôi được cả gia đình. Còn chúng mình , lính của chế độ XHCN VN, của Cụ Hồ
thì "vô tư thật". Tôi nói với Lập. Cứ đi với tôi, ra phố chơi cờ,
uống caphe. A Lập nói :thắng mới được uống, còn thua thì lấy gì ra mà chiêu đãi
họ. Tôi nói với Lập lúc ở Sài Gòn tôi hay chơi cờ với người Hoa ở Chợ Lớn nhiều
rồi cứ yên tâm.
Hai a e đi dọc từ bến xe vào
phố khoảng trăm mét, gặp ngay 1 nhóm khoảng 4-5 người đang chụm đầu chơi cờ
tướng. Thấy a e tôi đến mọi người ngẩng lên như có ý nhường chỗ ngồi. Tôi xin
phép ngồi xem, bà con thấy 2 chú bộ đội có vẻ say cờ thì rất thích. Hết ván cờ
dở tôi xin phép cầm quân chơi 1 ván. Mọi người rối rít nhường chỗ cho kỳ thủ
mới.
Hồi năm 75, khi đi viện 175
lúc rỗi, các thương bệnh binh không có gì vui hơn, giết thời gian hơn là chơi
cờ tướng, và chơi các loại bài. Tôi có học được vài nước đi, cách xuất quân và
thế đánh pháo gọng sỹ, rồi chuyển thế pháo chồng. Công phá đối phương rất lợi
hại. Ai thiếu kinh nghiệm là rất dễ thiệt quân, mất xe và thất bại nhanh chóng.
Kết thúc 3 trận đấu, với 3
người khác nhau tôi đều thắng với thế cờ này. Mọi người rất phục chú bộ đội mà
"cao cờ" kêu cà phê, thuốc lá, bánh kẹo, mời chúng tôi thật trịnh
trọng. Riêng anh Lập thì từ đó cứ phục tôi "sát đất".
Đến bây giờ, tôi với Lập vẫn
thường hay nhắc về buổi tối Châu Đốc,"Đánh cờ uống cà phê đó".
Tôi không gặp được Lập như
đã hẹn. Và cũng lỡ hẹn với Thanh, người bạn gái. Hôm trước đến chơi, tôi có hẹn
là: sẽ cùng Thanh đi chơi chợ hoa Nguyễn Huệ
ngày tết. Do việc được ra Bắc, về quê quá bất ngờ nên ko kịp báo lại.
Việc lỡ hẹn với anh Lập cũng không có gì quan trọng lắm. Còn riêng với Thanh,
việc lỡ hẹn này, là nỗi ân hận của tôi cho đến tận bây giờ. Vì cho đến bây giờ
và chắc là mãi mãi tôi không có cơ hội để sửa chữa, thực hiện lời hứa đó nữa...
Chiều hôm sau tôi và Lộc ra
nơi làm thủ tục để bay ra Bắc. Trời ngày tết mà ở Sài Gòn, nhất là trong khu
vực sân bay nắng nóng như đổ lửa. Tôi nhanh chóng làm những thủ tục an ninh,
rồi vào phòng đợi khoảng 30 phút thì lên máy bay. Hồi đó, hàng không của mình
chủ yếu là dùng máy bay 2 hay 4 cánh quạt (động cơ) của Nga. Trong máy bay
không có hệ thống điều hòa như bây giờ. Trong lúc chờ đợi cất cánh ai nấy mồ
hôi đổ ra như tắm. Trông rất khổ sở. Riêng tôi thì phần vì quen với cái nóng,
cái khổ, phần vì đang phấn khích vì chuyện đi phép thăm nhà bất ngờ này. Mà lại
được đi bằng phương tiện máy bay hiện đại. Nên cũng thấy bình thường. Miên man
nghĩ đến hồi tháng 3/76 khi đang làm quân quản tại Sài Gòn, thì mẹ tôi vào
thăm. Đúng lúc tôi chuẩn bị được đi phép. Thế là tôi “ bỏ” đường bộ ôtô của
binh trạm. Hai mẹ con mua vé tầu “thống nhất” về theo đường biển. Sau 2 ngày
lênh đênh trên biển, thì cập bến Hải Phòng. Lần này được đi “về phép” bằng máy
bay nữa. Như vậy là tôi vào Nam ra Bắc bằng đủ các loại phương tiện. Đi bộ, đi
ôtô, đi tàu biển và lần này là máy bay. Một thằng lính chiến bộ binh mà như vậy
cũng « ai », cũng thật là tự hào.
Thế rồi cũng đến giờ cất cánh.
Khoảng 4h30 chiều thì máy bay hạ cánh xuống sân bay Gia Lâm. Mọi người lên xe
ôtô của hàng không về Hà Nội. Đi từ Sài Gòn ra Bắc khoảng hơn 2h bay. Mà đi từ
Gia Lâm về bờ hồ Hà Nội mất gần 3h, vì tắc đường ở cầu Long
Biên. Ngày tết bà con đi lại quá đông. Với tôi đó là lần chứng kiến cảnh “tắc
đường” đầu tiên trong đời.
Vừa xuống xe ở trạm vé hàng
không “bờ hồ” Hoàn Kiếm, thì đã thấy bố tôi đứng đợi. Ông được ông Tiến hàng
xóm về trước báo giờ bay của tôi, nên lên Hà Nội đón tôi. Hai bố con mừng mừng,
tủi tủi trào nước mắt. Không ngờ cuộc đời lại có những thay đổi nhanh như vậy.
Hà Nội chuẩn bị tết đông đúc nhưng vẫn thấy nghèo nàn, không ầm ĩ, ồn ã như Sài
Gòn. Trời âm u se lạnh. Những lá vàng rơi bay lả tả trong buổi chiều Đông. Dân
chúng còn toàn đi bằng xe đạp, nhìn những người phụ nữ gò rạp người đạp xe
trông thật vất vả. Ở Sài Gòn họ đi xe đạp kiểu dáng khác, trông thanh thản hơn
nhiều. Thi thoảng mới có cái xe máy hoặc xe ôtô con cũ kỹ chạy qua lại.
Hai bố con nhanh chóng đi
xích lô ra bến xe Kim Liên, mua vé ôtô về Thái Bình chuyến cuối. Gần 10h tối
mới về đến nhà. Mọi người, mẹ tôi, anh em họ hàng ùa ra chào đón tôi. Đón người
con từ chiến trường trở về. Thật vui, thật cảm động, cười cười nói nói rất vui.
Nhưng ai mắt cũng “đỏ hoe“. Nhưng giọt nước mắt của niềm vui gặp mặt.
Những hình ảnh đó, đến bây
giờ, mấy chục năm rồi mà như mới hôm qua. Mãi mãi tôi không thể nào quên !
Sau khi ăn cơm xong, lên
giường đi ngủ. Tôi vẫn bàng hoàng, không tin là mình đang được sống, được ăn,
được nằm, tại gia đình mình. Tất cả những tình cảm của mọi người, nhớ nhung,
dồn nén đã lâu nay được bung ra thể hiện. Nên có thể nói: tôi được chăm sóc
thật đặc biệt. Nhà tôi, bố mẹ sinh được 10 anh em tôi. Nhưng một người anh trên
tôi nghe kể lại: khi còn ở trong vùng tự do Thanh Hóa năm 1951 “bố tôi là bộ
đội, công nhân quốc phòng của quân khu 3. Chuyên sản xuất và chế tạo vũ khí cho
quân đội, nên mẹ và gia đình tôi những năm chống Pháp thường “chạy loạn” , định
cư theo nơi công binh xưởng của ông. Cho nên mấy anh chị em đều sinh ra mỗi
người một tỉnh. Chị cả sinh ở Hải Phòng, chị hai sinh ở Nam Định, anh thứ 3
sinh “ra mất ngay” ở Thanh Hóa. Tôi và cô em gái kế, cũng được sinh ra ở vùng
Kim Tân - Thanh Hóa. Tiếp đến, từ em trai Lộc trở xuống sau giải phóng, gia
đình về định cư tại Thái Bình, nên đều được sinh ra ở Thái Bình. Tổng anh chị
em còn sống và trưởng thành là 9 người, 5 trai và 4 gái . Tôi là anh trai lớn,
nên mọi niềm tin yêu, hy vọng của bố mẹ đặt vào tôi rất nhiều. Hồi nhỏ và khi
lớn lên từ học hành, cho đến sau này đi làm đều là một người con ngoan, người
anh gương mẫu trong gia đình.
Đến thời điểm năm 1978, thì
mới có tôi và em trai Lộc vào bộ đội. Chú Lộc khi đi bộ đội 12/74 thì được vào
đơn vị Rada điện tử. Nên là lính “Cậu » không phải đi bộ ngày nào. Có biết
khẩu súng thì biết ở thời kỳ đầu luyện quân. Còn tôi đi bộ đội vào luôn đơn vị
bộ binh ak súng dài. Trung đoàn 8 quân
khu 3. Rồi sang sư đoàn 308B, rồi khi sư đoàn 341 thành lập thì cả trung đoàn
36B của tôi được chuyển qua.
Đời lính bộ binh các bạn đều
biết là thật vất vả. Có lẽ cực khổ nhất trong các sắc lính của mình. Hành quân
thì chỉ cơ động bằng đôi chân là chính, làm gì từ xây nhà, đào hầm, tập luyện
cho đến lấy gạo, lấy củi...đều bằng sức vóc của lính. Mà lúc đó anh em mình có
mấy ai to lớn đâu. Lúc đó tôi nặng được có hơn 40kg thuộc diện B2 lẽ ra không
đủ sức khỏe đi bộ đội. Nhưng vì gia đình đông người, lại chưa có ai tham gia bộ
đội hay phục vụ chiến trường nên vẫn được “ưu tiên » nhập ngũ.
Thế hệ chúng mình, hầu như
đi bộ đội gần hết và hy sinh cũng “không ít”. Dù rằng, bây giờ các cấp chính
quyền, các đoàn thể và anh em chúng mình có nói, có viết, thật nhiều, thật hay
và có thể hiện thế nào đi nữa thì cũng không thể nói hết, viết hết, không thể
tả nổi tâm trạng buồn đau, lo lắng của người cha, người mẹ, người vợ, người
thân. Nhất là người mẹ lo và thương cho con mình, người con yêu dứt ruột sinh
ra, mong ngóng lớn khôn từng giờ từng ngày. Trong khó khăn thiếu cơm, thiếu sữa
để lớn lên, để trưởng thành. Rồi người con lại phải đi lính ra sa trường, cực
khổ ở tuyến đầu, trước mũi tên hòn đạn lúc nào cũng có thể cướp đi mạng sống
của con trai mình.
Cũng chính vì những điều đó
cho nên mẹ tôi, đã dành tình cảm cho tôi thật nhiều, chăm sóc từng ly từng tý
một. Buổi tối đầu đi ngủ Bà còn nằm cạnh tôi, ôm ấp vuốt ve hít hà như hồi tôi
còn bé.
Được nằm trong chăn ấm
giường êm, ánh sáng điện chói lòa, trong vòng tay mẹ. Bất chợt tôi lại nhớ tới
đ/v. Đến Lập. Giờ này chắc Lập cùng ae đang phải chiến đấu, đang phải đối mặt
với kẻ thù. Gian khổ và ác liệt. Tự nhiên tôi thấy mình như có lỗi với ae, với
đồng đội. Và rồi lại muốn thời gian trôi thật nhanh, thật chóng để tiếp tục trở
lại đơn vị. Trong sung sướng mà nước mắt tôi chẩy dài xuống gối, rồi ngủ thiếp
đi thật ngon lành.
Ùng- ùng- ùng- ùng - rẹt - rẹt- rẹt. Rồi đoàng- đoàng- đoàng liên thanh
thật dài. Những tiếng thùng- thùng- thùng- Thùng đều đặn rồi dồn dập các loại
pháo, pháo lớn, pháo nhỏ, pháo tép như tiếng AR15. Xen lẫn là những tiếng nổ
của các loại pháo đùng, pháo cối như những tiếng của B40, B41, ĐKZ. Loại pháo
8, pháo 10 bình đà thì thùng- thùng- thùng như tiếng súng 12,7 ly điểm xạ dài.
Một trận chiến thật khốc liệt, khói thuốc pháo khét lẹt sáng loé, chớp bừng
sáng trong đêm. Những tiếng nổ như một trận đánh lớn Hiệp đồng các quân binh
chủng. Chỉ không có tiếng hô xung trận của anh Tiễn, anh Trụ của anh em trong
lúc xung phong. Mà là tiếng hô reo vui của mọi người òa lên: “Giao thừa rồi”.
Mọi người trong gia đình hơn 10 người ôm lấy nhau, chúc tụng trong niềm hân
hoan của ngày tết, năm mới đã tới. Với tôi cảnh tượng này thật là lạ lẫm. Vì
trước còn bé thì đất nước có chiến tranh, ngày tết không có pháo hoặc rất hạn
chế. Lớn lên đi bộ đội từ năm 1972 đến nay đã là 6 năm tôi mới được đón xuân ăn
tết ở nhà. Năm nay mới được chứng kiến cách đón giao thừa, mừng năm mới của dân
mình trong thời bình. Nên tôi cũng chưa thể hòa nhập cái không khí đón giao
thừa này. Nhìn khói, lửa chớp lòa và tiếng nổ của các loại pháo, bản hợp xướng
của đủ các loại tiếng nổ. Bất giác tôi nói với Mẹ: “Mẹ ơi ! Đánh nhau, súng 2
bến bắn nhau, tiếng nổ đúng như thế này Mẹ ạ”. Mẹ tôi ôm tôi rồi nói: vậy biết
đường nào mà tránh đạn hả con. Tôi nói là: Trong chiến đấu “nó” bắn mình, mình bắn "nó". 2 bên đều muốn giết nhau.
Không mấy khi tránh được, sống được do may mắn là nhiều thôi mẹ ạ. Con của mẹ
cũng chết hụt nhiều lần rồi. Mẹ tôi không nói gì chỉ lau nước mắt, ngửa mặt lên
nhìn trời đêm như cầu khấn điều gì, rồi ôm tôi chặt hơn.........
Thế rồi mấy ngày tết ở gia
đình cũng trôi đi thật nhanh. Lẽ ra ngày mồng 7 tết tôi lên Hà Nội để mồng 8
tết bay nhưng vì kiêng ngày 7 nên tôi đi chiều ngày mồng 6 tết. Chia tay bố mẹ,
anh em và mọi người thân tại bến xe Thái Bình để lên Hà Nội. Trong lần chia tay
tiễn chân này, còn có một người con gái hàng xóm tên Hương. Mà tôi mới có dịp
quen trong mấy ngày tết.
Chiều tối tôi tới Hà Nội,
tìm vào nơi ở của Việt bạn học hồi nhỏ. Việt đi bộ đội trước tôi, bị thương năm
74 rồi về đi học tiếp văn hóa. Hiện đang học năm cuối đại học Nội Thương nên ở
ký túc xá của bộ Nội Thương phố Hai Bà Trưng, Hà Nội. Chơi 1 ngày ngủ lại 2
đêm. 3h sáng ngày mồng 8 tết tôi dậy, một mình đi bộ. Theo hướng dẫn là đi
thẳng rồi rẽ trái là ra Bờ Hồ, sẽ tới trạm vé trung chuyển khách hàng không.
Trời đông thật rét ! Đường
Hà Nội thật vắng. Không một bóng người. Gió Bấc thổi hun hút. Lá vàng của các
loại cây rơi, bay đầy đường. Những cây bàng, cây phượng trụi lá trông khô cứng
khẳng khưu. Đứng run rẩy vật vã trong gió rét. Đã 6 năm rồi tôi ko được sống
trong cảnh mùa Đông thế này. Rét quá. Mồm thở khò khè ra “cả khói “ Tôi vừa đi vừa chạy cho ấm. Thầm
nghĩ: Hà Nội ơi ! Mọi người đang say sưa ngủ trong chăn ấm nệm êm. Trong hạnh
phúc lứa đôi, gia đình chồng vợ. Có biết Tôi, một người lính đang một mình giữa
phố vắng giá rét để đi vào Nam, ra Biên giới. Chiến đấu gian khổ hy sinh, để
cho các người yên giấc ngủ ngon ko ? Thật bất công và phũ phàng. Cuộc đời và
đời lính sao vô lý đến vậy ? Triền miên với những suy nghĩ mông lung, lại cũng
không rành đường phố Hà Nội nên tôi đi qua trạm Hàng không mà không biết. Quá
nửa bờ hồ mới gặp được một bác xích lô đi làm sớm. Nhìn dáng người gầy gò. Đạp
cái xích lô cũ rích. Chợt nghĩ ông này chắc cũng nghèo khổ lắm đây. Hòa bình rồi mà sao dân
mình còn khổ thế ? Tôi hỏi thăm đường mới biết là mình bị đi quá xa. Theo hướng
dẫn, thì quay lại và đi vòng tiếp cũng bằng nhau . Đã gần đến giờ , tôi vội
chạy nốt nửa hồ còn lại. Như vậy là kỷ niệm của Hà Nội được khắc ghi thành
tích là: Tôi đã một mình chạy hơn một
vòng Hồ Hoàn Kiếm trong buổi sáng mùa Đông. Không biết là mấy km nữa . Thật nhớ
đời.
Tới nơi vừa kịp lên xe để
sang sân bay Gia Lâm. Đến khi làm xong thủ tục, lên máy bay. Tôi mới biết là
mình vẫn đang mặc cái áo khoát “Măng tô” của bạn. Không biết gởi ai và làm thế
nào trả Việt. Tôi phải cầm vào Sài Gòn tìm cách gửi ra sau. Nhưng rất áy náy thương bạn, trời
giá lạnh thế này, quần áo lúc đó đâu có nhiều như bây giờ.
Cũng có thể cái mong, cái nhớ của đơn vị của tôi. Nên cảm
thấy máy bay, bay cũng thật chậm. Rồi lại ghé xuống đưa đón khách ở Đà Nẵng
nữa. Thấy nói, ở nước ngoài giờ tàu, giờ xe, nhất là giờ máy bay cất cánh, hạ
cánh là nghiêm chỉnh và chính xác lắm. Còn ở ta thì máy bay cũng chưa phải là phương tiện phổ thông, nên
còn nhiều bất cập. Đến gần trưa máy bay mới tới được sân bay Tân Sơn Nhất Sài
Gòn. Bước ra cầu thang. Nắng chói lòa, những cái áo khoác hay những bộ com lê
của mọi người đang mặc không hợp nữa. Ai lấy mồ hôi nhễ nhại trong phòng làm
thủ tục an ninh. Không có hành lý, tôi nhanh chóng ra trước về ngay chỗ đơn vị
chú Lộc. Chia quà Bắc, thuốc lá, trà, mấy gói
kẹọ Hải Châu cho anh em. Kể cho anh em về chuyến đi, về chuyện Tết Miền
Bắc thật vui vẻ.
Cơm trưa xong 2h chiều. Tôi chào mọi người đón xe về căn
cứ Long Bình ở Biên Hòa. Rất may là gặp ngay chú em kết nghĩa, Hồ Gia Hiền.
Lính 74 quê Hương Sơn, Hà Tĩnh. Thay tôi làm trợ lý chính trị d1. (Hồ Gia Hiền
bây giờ là Đại tá chính uỷ 1 Lữ đoàn tại Bình Dương. Mới ra thăm tôi tháng
trước). Tôi nhanh chóng hỏi thăm ngay tình hình đơn vị. Hiền nói: Dịp anh đi
viện, Trung đoàn đánh trận lớn lắm ở Khánh An- Khánh Bình. Đánh hợp đồng đủ các
Quân, Binh, chủng. Hải - Lục – Không quân – Tăng thiết giáp. Cùng các Sư đoàn
bb, công binh của QK9. Trong trận này ta thắng lớn, nhưng thương vong cũng
nhiều. Nhân dân ở đây cảm động và sót thương ae mình lắm. Ông Trần Quy Nhơn
Tham mưu phó và đ/c Thắng Trợ lý tác chiến cũng hy sinh. Hiền kể tên những ai
hy sinh, ai bị thương nặng, nhẹ v v ... Rất nhiều ae quen thuộc. Chợt nghĩ đến
Lập, tôi hỏi có ai tên Lập của d3 ko ? Hiền nói là ko rõ và kể tiếp: Đau nhất
là sáng mùng 1 Tết đại đội 14 bắn 1 quả cối 120 ly đón xuân “ mừng năm mới “.
Không may đạn dò rỉ, nổ ngay tại nòng, làm cụt nòng pháo, hy sinh và bị thương
gần hết khẩu đội. Hiện giờ toàn trung đoàn đã di chuyển chiến đấu ở địa bàn
Hồng Ngự tỉnh Đồng Tháp.
Tôi lặng người đi, không nghe thêm được gì nữa. Vừa mới
hôm qua, hôm kia, ở nhà còn vui không khí ngày tết. Vào đến đơn vị thì lại toàn
chuyện chiến đấu, hy sinh thế này. Đầu năm mà đã xui xẻo thế, báo hiệu những
điều ko tốt lành lắm đây. Trầm ngâm một lúc rồi bừng tỉnh lại, tôi hỏi: Thế bao
giờ thì Hiền về đơn vị ? Hiền nói: Chiều nay em về Sài Gòn vào viện 175 thăm
anh em, cấp bổ xung một số giấy tờ của thương binh. Rồi mai xuống Đồng Tháp
luôn. Anh mới đi viện về thì cứ nghỉ ở cứ mấy ngày đi đã, rồi xuống sau. Tôi
trả lời ngay: anh đi cùng Hiền về Sài Gòn thăm anh em và mai cho anh đi cùng về
đ/v. Ko hiểu sao anh cảm thấy sốt ruột, nhớ đ/v lắm.
Sau khi bàn giao các địa bàn mới giải phóng cho sư đoàn
330 QK9 đảm nhiệm. Toàn bộ Sư đoàn hành quân gấp về Hồng Ngự , Đồng Tháp. Vì Trinh sát phát hiện Pốt tập
trung 2 Trung đoàn, đã đánh chiếm khu vực đồn biên phòng Mỹ Cân, Hồng Ngự.
Chúng ý đồ làm bàn đạp để đánh, “chọc” vào thị trấn Hồng Ngự, Đồng Tháp.
Các đ/v rời khỏi trận địa, trong niềm vui hân hoan của bà
con nhân dân Châu Đốc, An Giang. Nhất là 2 xã mới được giải phóng. Chiến đấu
dọc biên giới Tây Nam đã gần nửa năm. Nhưng chưa khi nào Trung đoàn gặp được sự
chào đón vồn vã, nhiệt tình nồng hậu như ở đây. Tất cả các đoàn thể từ tỉnh,
thị xã, dân chúng đều ùa ra 2 bên đường, vẫy chào và cũng là tiễn chân bộ đội
Sư đoàn 341 Anh hùng. Nào bánh tét, bánh ú, bánh lá gói các loại, kẹo, thuốc
lá, xôi gà v.v … Thật nhiều, thật nhiều, được giao cho các đ/v, tung lên xe,
nhét vào ba lô v.v … Anh em mấy ngày qua, phải chiến đấu liên tục, mệt và đói.
Ngày hôm qua có đại đội, có bộ phận còn phải ăn trái cây vú sữa thay cơm. Vì
anh nuôi không tiếp tế được. Anh em vừa đi vừa ăn nhồm nhoàm, ngấu nghiến những
sản vật của bà con, nặng tình quân dân cá nước. Các bà, các má thì ôm chặt anh
em khóc, nước mắt lã chã, xót thương trong cảm mến. Các thiếu nữ duyên dáng,
tươi đẹp cũng không giấu được những tình cảm của mình. Nắm chặt tay lính, mắt
long lanh cười vui hân hoan, có vài cô gái bạo dạn, nắm tay ae rồi bất nhờ ôm
chặt, hôn vào má ae thật to rồi kêu lên thật to: “Em thương anh” Rồi chạy nấp
vào đám đông ! Làm mấy chiến binh được hôn, ngượng ngùng đỏ hết cả mặt. Trong
tiếng cười vui của mọi người. Các em nhỏ thì khỏi phải nói nữa, cứ tung tăng
chạy theo các anh bộ đội, chạy theo đoàn quân reo hò ầm ĩ. Ai đã từng được
sống, được chứng kiến trong giờ phút vui sướng tột cùng lịch sử này, mới thấy
hết được ý nghĩa của chiến thắng. Ý nghĩa của tình cảm quân dân. Và thấy được
những đói rét, gian khổ hy sinh phần nào được đền bù. Được tôn vinh, vô cùng tự
hào. Nhất là trong không khí của ngày xuân, ngày Tết tràn ngập nắng Phương Nam,
có hoa mai vàng hoà quyện trong nắng, trong tình người, tình quân dân. Cờ hoa
rực rỡ Không thể có giấy bút nào tả hết,
kể hết được cái đẹp, cái tình và niềm vui cao quý đó ...
Nhiệm vụ của Sư đoàn phải cơ động gấp về Hồng Ngự. Phương
tiện hành quân bằng cả đường bộ và đường sông. Các cấp chỉ huy đã huy động tàu
thuyền, để chở bộ đội trên sông Hậu. Các loại ôtô khách của dân cũng đươc trưng
dụng, chở bộ đội hành quân theo đường bộ số 4. Rồi rẽ vào các đường liên huyện
, liên xã ra dọc vùng biên của huyện Hồng Ngự, Đồng Tháp. Tới nơi toàn Trung
đoàn gấp rút tổ chức phòng ngự, và điều nghiên chuẩn bị tấn công địch ở khu vực
đồn biên phòng Mỹ Cân, cùng các nơi địch lấn chiếm.
Bộ đội tràn về. Lực lượng thật hùng hậu, lúc này ae đã
được trang bị mũ sắt của pháo binh. Để tránh và giảm thiểu các vết thương ở đầu.
Như lính ta nói là: bảo vệ “cái gáo” . Nhìn những người lính trẻ, khoẻ trong
sắc lính trận, súng đạn đầy mình. Lại có mũ sắt đội đầu thật lạ lẫm, thật uy
nghi, mạnh mẽ. Dân chúng ở những khu vực này, rất có truyền thống cách mạng.
Trong thời kỳ KCCM như xã Thường Thới Tiền, Thường Thới Hậu v.v … đều là các xã
được Đảng và Nhà Nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT trong KCCM.
Được bộ đội về, đánh địch, trấn thủ cứu giúp nhân dân,
nhất là trong những ngày Tết thế này. Không còn gì quý bằng. Nên các đơn vị lại
được bà con nơi đây, thể hiện tình cảm và vật chất. Chăm lo cho ae, cho từng
người trong đ/v, như chính những người con yêu của Mẹ, những người ruột thịt
của gia đình. Đã đi, đã ở với dân từ Bắc vào Nam. Nhưng không ở đâu có được,
những tình cảm của dân, của các Ba các Má, các chị các em như ở đây. Ôi ! Thật
tuyệt vời những con người, những tình cảm của người dân miền Nam. Vùng sông
nước Đồng Bằng sông Cửu Long này ! Và đây cũng là những câu chuyện, những đề
tài vui của lính ta sau này.
Với tôi nơi đây là nơi để lại những dấu ấn, những tình
cảm ko thể nào quên. Giữ mãi và theo suốt đời quân ngũ đến tận bây giờ ..
Sáng hôm sau, tôi và Hiền ra bến xe Miền Tây về Châu Đốc.
Tôi hỏi Hiền sao không đi thẳng Đồng Tháp, mà lại về Châu Đốc. Hiền giải thích:
“Từ Châu Đốc đi qua phà rồi đi xe lôi chưa đầy 20km đến Tân Châu. Qua phà Tân
Châu bên kia đã là xã Thường Thới Tiền, của huyện Hồng Ngự, Tiểu đoàn mình đang
đóng quân ở đó. Nếu đi về Đồng Tháp rồi lại về Hồng Ngự thì xa hơn. Tôi nói như
thế càng hay, vì cho anh về thăm nhà anh chị Thành hôm trước anh ở đó.
Lần trước về miền Tây theo xe quân đội, của Bệnh xá. Còn
lần này 2 anh em được đi xe khách, nên thong thả nhàn nhã hơn. Được ngắm nhìn
cảnh vật nhà cửa, vườn cây hoa trái của Miền Tây. Qua những cánh đồng lúa chín
thẳng cánh có bay. Hoặc những đầm sen phả hương thơm mát nhẹ. Trong lòng thật
thư thái vì đã gặp được Hiền. Thăm một số anh em thương binh trong viện. Hiểu
được tình hình chiến đấu, và những thay đổi của đơn vị. Như C3 anh Tiễn CVT đã
lên làm d phó chính trị. Thay anh Tiễn là anh Nông quê Thanh Hóa, ở bên d2 điều
sang. Anh Trụ vẫn còn nhưng cấp phó thì là anh Tiến, B trưởng mới lên v.v...
Trên xe bà con nói chuyện râm ran. Nào là chuyện lúa má,
cây trái, chuyện gia đình, xã hội, những bức xúc trong cuộc sống. Trước thì thế
này, bấy giờ chính quyền mới lại thế kia v.v...Khen chê đủ điều. Rồi câu chuyện
trên xe cũng đã chuyển sang về tình hình chiến sự Biên giới. Người này, người
kia tranh nhau nói, tranh nhau kể về sự tàn ác dã man của bọn lính Pốt. Như
chuyện chúng bất ngờ sang tàn sát cả xã Ba Trúc, giết hàng ngàn người. Chặt đầu
xếp từng hàng. Máu chảy ngập làng. Dã man hơn nữa chúng còn lấy cây tầm vông, (cây
tre) chọc vào cửa mình lên đến tận cổ đàn bà, con gái. Không hiểu sao bọn này
lại tàn ác đến thế ? Rồi chuyện chúng chiếm vùng Phú Cường, Khánh An, Khánh
Bình đã lâu. Mấy ngày tết được bộ đội, đơn vì gì ấy ở Tây Ninh xuống toàn lính
Bắc. Bộ đội trẻ lắm, giỏi lắm và khổ lắm. Những ngày tết mà vẫn đánh nhau, diệt
hết bọn giặc ở đây giải phóng cho các xã, các chú bộ đội hiền khô à ! Bị hy
sinh cũng nhiều rất là thương xót ...
Hai anh em cứ ngồi im nghe chuyện. Rồi một bà má quay
lại, thấy chúng tôi như bất ngờ bà má hỏi 2 chú về đâu ? Có phải về đơn vị bộ
đội Miền Bắc đấy không ? Hiền nói thưa má, đấy là đơn vị con, con về Sài Gòn
chuyển giấy tờ cho một số anh em bị thương. Hôm nay mới quay lại. Chúng con là
bộ đội thuộc Sư đoàn Sông Lam 341, Quân đoàn 4. Mọi người ồ lên. Cả xe hướng về
phía chúng tôi cảm kích. Bà má vừa hỏi thăm thì đi hẳn xuống ôm lấy Hiền mà
khóc, nói rằng: Má thương các con, quý các con và biết ơn các con lắm. Rồi mọi
người lấy đủ thứ quà bánh, trái cây bắt chúng tôi ăn. Nhìn ngắm chúng tôi như
là những người hùng, người thân, người con vừa ở chiến trận trở về.
Thật bất ngờ và cảm động trước những tình cảm đó. Rồi tôi
tự thấy mình như có lỗi, vì những tình cảm này, lẽ ra phải giành cho những anh
em đã tham gia chiến đấu ở đây. Còn tôi ốm đau đi viện, về nhà, đâu có xứng
đáng được nhận phần thưởng tình cảm cao quý đó.
Hai anh em vào tới nhà anh chị Thành lúc 2h chiều. Chị
Lan vợ anh Thành và 2 cháu Trịnh- Hoài chạy ra đón mừng vui ríu rít. Tính ra
tôi mới xa đây khoảng 20 ngày mà mọi người cứ như là đã lâu lắm. Chị Lan kể đủ
thứ chuyện về những ngày tôi đi vắng. Chị nói là đi đâu chị cũng khoe về người
em “ngang hông” Miền Bắc. Và lại còn có ý tìm vợ cho tôi nữa chứ. Tôi nhớ lại,
lúc ở đây tâm sự chị em, tôi có nói là tôi cũng đã muốn lấy vợ, và khen con gái
ở đây rất ngoan, rất đẹp.
Tối ăn cơm xong chị Lan cứ bắt tôi và Hiền đi “xem mặt” 1
người em của bạn chị, làm thợ may nhà gần đây. Chị nói, chị đã ngỏ lời với họ
rồi chỉ đợi em quay lại thôi. Chết không cho chuyện đùa. Thật khó xử. Anh chị
thật quý tôi và cũng thật là thật thà cả tin. Không biết là chuyện nói đùa của
lính. Cứ tưởng tôi nói muốn lấy vợ là thật. Thế rồi tôi và Hiền cùng chị đến
thăm gia đình chị bạn. Gia đình làm may cũng ngay trước dòng sông Hậu. Cách nhà
chị Lan khoảng 5- 600m. Trông gia đình thật nền nếp, gọn gàng, sạch sẽ rất có
cảm tình. Người em gái chị bạn khoảng 20 tuổi, xinh sắn, đầy đặn trông cũng “ưa
nhìn”. Trong bộ bà ba hoa mầu xanh ngọc thật hấp dẫn. Ra chào chúng tôi bẽn lẽn
và lễ phép. Mấy chị em nói chuyện, hỏi thăm về quê hương tôi và gia đình tôi
v.v…. Tôi kể chuyện gia đình cho mọi người nghe và nói: Em là con trưởng trong
gia đình, nên phải về lấy vợ ở quê. Và nhất là bây giờ, đời lính không biết đi
đến bao giờ về. Cho nên không giám nói gì đến yêu đương hay vợ con v.v … Và nói
: chúng em đi chiến trận gặp được các chị quý mến chúng em thế này, là cảm động
và quý hoá lắm. Em xin phép được làm quen với chị. Khi nào có điều kiện thì sẽ
trở lại thăm chị, thăm em. Vì mai chúng em phải sang Hồng Ngự rồi. Đ/v em đang
chiến đấu bên đó. Chị Lan và chị bạn nhìn anh em tôi thở dài, xót xa và có ý gì
đó cảm thông tiếc nuối. Còn người em gái, sau khi ra chào mời nước chúng tôi đã
vào trong nhà nghe chuyện. Nhưng thỉnh
thoảng lại bắt gặp ánh mắt long lanh nhìn chúng tôi.
Tối ngủ ở nhà anh chị Lan. Cả nhà chuyện trò tới khuya,
mọi người đã ngủ. Còn tôi thao thức không ngủ được. Nghĩ ngợi đủ chuyện. Tôi
nghĩ mình là thằng con trai “thật hèn” thật nhát. Chưa gì đã sợ. Sao không liều
như những người khác, cứ hẹn hò, hò hẹn đi có hơn không ? Rồi muốn đến đâu thì
đến. (Sau này tôi mới biết trong đ/v có đồng chí đại đội phó đại đội 3 của tôi.
Và lẻ tẻ trong trung đoàn đào ngũ và lấy vợ ở đấy).
Sáng hôm sau, anh Thành lấy xe Honđa chở tôi và Hiền lên
thăm miếu Bà. Rồi chở luôn 2 anh em ra bến phà Châu Đốc để sang Hồng Ngự. Chia
tay anh Thành, chia tay bà con Châu Đốc, trong lòng tôi nặng trĩu những buồn
vui bâng khuâng khó tả.
Sang bên kia phà, 2 anh em đi xe lôi. Ở vùng này nhân dân
có loại phương tiện là “xe lôi” rất hữu dụng. Một cái xe thường là xe Honđa 67.
Kéo theo sau 1 cái rơmóc 2 bánh. Có cái thùng nhỏ, mà có khi chở được tới 10
người. Trông rất vui, rất tiện. Được cái là ở đây là đồng bằng, không phải dốc
đèo nên có “chớn” là chạy băng băng. (Nghe đâu bây giờ đã cấm loại xe này vì sợ
ko an toàn giao thông).
Hơn tiếng sau, chúng tôi đã tới thị trấn Tân Châu. Một
thị trấn hẻo lánh của vùng sông nước, mà sầm uất giống như 1 góc nhỏ ở Sài Gòn.
Cũng nhà gạch, nhà xây 2- 3 tầng. Hàng quán đông vui đủ các loại hàng hóa. Các
dàn ăng-ten tivi tua tủa trên các nóc nhà. Uống xong 2 cốc nước mía, tôi mua
mấy gói trà, thuốc lá, kẹo để làm quà. Rồi 2 anh em đi bộ ra bến phà.
Đi ở trong thị trấn Tân Châu, không thể nhìn thấy được
bến phà và sông nước nơi đây. Nên 2 anh em vừa qua khỏi dẫy nhà sát mép sông
thì thật bất ngờ. Bến sông thật lớn, thật rộng, mênh mông như biển. Đây là ngã
ba sông, nên khoảng cách từ đây sang bờ bên kia thật xa. Chưa bao giờ được nhìn
thấy cảnh sông nước thế này. Tôi ước tính từ đây sang bờ bên kia chắc phải hơn
1 km. Vì mắt thường nhìn không rõ người bên bờ bên kia. Xa xa phía bên phải ,
là một cù lao rộng lớn (hình như là xã Long khánh, quê hương Bác Tôn Đức
Thắng). Trời không có gió, nhưng sóng vẫn vỗ bờ đều đặn như ngoài biển. Sông
nước Cửu Long thật hùng vĩ. Hùng vĩ đến choáng ngợp. Con phà, con thuyền, con
người trước sông nước nơi đây thật bé. Tôi nghĩ ngay đến việc nguy hiểm, khi
phải đi tàu bè nơi đây. Vì bộ đội có mấy ai giỏi bơi. Hồi tập bơi vũ trang, tôi
bơi được khoảng trăm mét, đã kiệt sức rồi. Tôi cảm thấy rợn rợn người, khi nghĩ có gì không hay xẩy ra. (Đúng
như nỗi lo khoảng gần 1 tháng sau, trên đường đi giải vây Hà Tiên - Kiên Giang
tôi đã ôm một can mỡ lợn, định nhẩy xuống giữa sông lúc 3h đêm. Khi 2 tầu đụng
nhau, 1 tầu bị vỡ chìm ngay).
Phà cập bến. Hai anh em xuống phà, gần 30 phút sau mới
tới bờ bên kia. Lên phà, Hiền nói anh em mình đi bộ khoảng hơn km nữa thôi.
Tiểu đoàn mình, 1 số chốt, còn lại đang ở cùng với dân, dọc theo bờ sông này.
Dân ở đây chủ yếu là nhà sàn, như ở bên K.
Bây giờ là mùa nước cạn, còn khi mùa lũ về, thì nước dâng lên tận sàn
nhà. Nên nhà sàn là nơi ở phù hợp nhất ở vùng này. Dân cư ở đây thưa thớt, hai
anh em đi trên con lộ nhỏ. Hiền nói “Bên phải thì là sông rồi, còn bên trái sau
mấy ngôi nhà kia là cánh đồng thẳng cánh cò bay, tới tận Biên giới. Đồn biên
phòng Mỹ Cân cách đây khoảng 3km. Bọn Pốt đang còn chiếm, Sư đoàn, Trung đoàn
đã có kế hoạch đánh địch giải phóng Mỹ Cân rồi”.
Đã thấy và gặp anh em bộ đội của d1. Tôi nói: Hiền dẫn
anh về luôn đại đội chứ không rẽ vào d bộ nữa. Về đến vị trí của đại đội. Tôi
gặp và báo cáo ban chỉ huy là tôi đi viện về. Rồi bỏ trả thuốc, kẹo mời mọi
người. Anh Trụ c.trưởng, anh Tiến c.phó rất vui, bắt tay tôi, cười nói ầm ĩ,
hỏi thăm về tình hình Sài Gòn v.v...và giới thiệu đây là anh Nông CVTr. Thay
anh Tiễn, và giới thiệu về tôi với anh Nông.
Anh Nông cũng ko hỏi tôi về tình hình đi viện, ra viện và sức khỏe thế
nào mà nói ngay: “Anh em tôi đã bàn là “ông” đi viện về thì sẽ điều lên làm
quản lý đại đội. Lo cơm áo, gạo tiền, cho đại đội. Thay ông Bình đi học, ông
uống nước về thăm tiểu đội rồi mai lên đây nhận bàn giao luôn”.
Như vậy tôi lại có nhiệm vụ mới, là quản lý đại đội. Tôi
chưa làm việc này bao giờ, nhưng nghĩ cũng không có gì khó, nhất là so với lính
chiến đấu gian khổ. Thì làm quản lý tiền bạc, quản lý anh nuôi, nấu ăn lo viêc
hậu cần cho ae, còn nhàn nhã hơn nhiều.
Tôi về tiểu đội 10. Gặp gỡ anh em, trong niềm vui ồn ã
của mọi người. Có trà, có thuốc, có bánh kẹo. Buổi chiều ae lại còn tổ chức
giết hẳn 2 con gà liên hoan cho tôi nữa. Gia đình chủ nhà thì cho anh em rượu,
và nấu xôi cùng 2 kg thit lợn đãi mọi người.
Sau 20 ngày đi xa, trở lại đơn vị mà biết bao thay đổi.
Anh em tranh nhau kể về những trận đánh mà tôi đi vắng. Ở núi Sam, đặc biệt là
Khánh An, Khánh Bình. Rồi những ai bị thương, ai hy sinh, ai đảo ngũ
v.v.....Rồi anh em lại tập trung kể về tình cảm, lòng tốt của bà con nơi đây
đối với bộ đội. Nào là thấy gạo của bộ đội không ngon, các má lấy gạo ngon đổi
cho. Còn gạo bộ đội thì cho heo cho cá ăn. Nào là các má không có bộ đội đến ở
thì thắc mắc, nhiều má còn làm cả bánh cuốn, bánh xèo, bánh ít gói, xôi chè
v.v... bánh tét thì khỏi phải nói, các má gánh đến cả gánh, chiêu đãi bộ đội.
Nhưng rồi được chiều chuộng quá, bộ đội cũng nghĩ ra đủ trò láu lỉnh để tán ăn
như: anh em mắc võng dưới nhà sàn tối ngủ, cứ nói chuyện với nhau là thèm ăn
cái nọ, cái kia như bò xào, bò nướng , thịt chó v.v... nói to cho các ba má
trên nhà nghe thấy. Thế là hôm sau ba má chiêu đãi luôn các thứ lính ta thèm.
Cả những thứ như là thịt chó nữa. đến mức các đơn vị phải họp, cấm anh em lợi
dụng, vòi vĩnh sách nhiễu dân.
Sáng hôm sau , tôi lên BCH đại đội . Chính thức đại đội
giao cho tôi làm quản lý , thay anh Bình đi học . Việc bàn giao cũng chẳng có
gì nhiều . Có 2 quyển sổ ghi chép theo
sổ kế toán của tiểu đoàn phát gồm : 1 quyển sổ theo dõi chi tiêu tiền mặt , 1
quyển ghi chép cập nhật kế toán , và mấy chục đồng , tiền đi chợ mua thực phẩm
. Chủ yếu là rau hoặc thức ăn mặn , còn gạo , mỡ mì chính v.v... và các nhu yếu
phẩm khác , thì có quân khu tiểu đoàn cấp xuống theo tiêu chuẩn chế độ v.v..
Anh Bình giao nốt cho tôi 2 gói bột ngọt. Hướng dẫn qua
cách ghi chép sổ sách, nào là “có” nào là “nợ” phải cân đối. Đôi khi một có
bằng nhiều “nợ” , và một “nợ” bằng nhiều
“có” cũng có vẻ “rối rắm”. Nhưng với tôi
thì cũng không có vấn đề gì.
Xong việc sổ sách bàn giao, tôi nói với anh Nông, anh Trụ
và anh Tiến c.phó là: các anh cứ yên tâm mọi việc tiếp phẩm, cơm nước tôi sẽ
lo, sẽ tổ chức thật chu đáo. Rồi tôi cùng anh Tiến c.phó về tiểu đội anh nuôi gặp anh em.
Tiểu đội nuôi quân ở nhà má Mỹ, cạnh ngay dòng sông Tiền.
Mọi sinh hoạt tắm giặt hay nước nấu ăn lấy ngay tại bến sông. Má Mỹ có căn nhà
sàn tương đối lớn, so với các nhà chung quanh. Ba má có 10 người con. 6 trai 4
gái. Người con trai đầu kém tôi 1 tuổi, tên Hiếu. Có 1 anh thứ 4 đang còn là bộ
đội địa phương của tỉnh. Có 2 con út một là con trai thứ 9. Út Hết là tên con gái thứ 10 mới khoảng 2
tuổi. Trong gia đình mọi việc hình như là do Má sắp đặt hết. Ba rất hiền và yếu
không hay tham gia vào việc gì.
Tôi đến chào Ba, Má, rồi tổ chức họp anh em, củng cố nội
vụ, giao nhiệm vụ cho từng người. Sắp đặt đâu ra đấy. Phát động anh em sáng hôm
sau làm vệ sinh hết tổng thể từ đường đi, đến vườn tược chung quanh nhà. Và yêu
cầu anh em phải gánh nước về, đổ đầy các chum cho thật trong mới nấu cơm
v.v..Còn rau ở đây rất nhiều, tôi cho ae đi hái lượm và chế biến như nộm hoa
chuối, nộm đu đủ vv..Tập trung tiền vào thức ăn mặn.
Qua mấy ngày theo dõi cách sinh hoạt của tiểu đội anh nuôi,
và tính cách chuyện trò dân vận của tôi. Đã gây được tình cảm với gia đình. Mọi
người rất quý tôi. Anh Hai thì cứ tối tối, là chèo kéo bằng được tôi uống rượu
cùng. Mà dân ở đây thì ngày nào cũng uống rượu. Khi thì mực khô, cá lóc khô.
Khi thì chim nướng chim quay. Ở vùng này chim nhiều vô kể. Bà con đi bẫy chim
cũng rất đơn giản. Họ có loại thuốc gì đó trộn với gạo, mang ra rắc ở các bờ
lúa. Cả đàn chim hàng ngàn con xuống ăn bị say, nằm ngay ở đấy cứ việc ra nhặt
về. Có lần thấy anh Hiếu mang về cả thúng. Anh Hai Hiếu cứ nói dân miền Tây lúa
gạo nhiều lắm. Rồi chỉ ra đống lúa ở sân nói: kia là 10 tấn lúa mà ở chợ giá rẻ
lắm không biết làm gì chỉ nhậu chơi thôi...
Tôi thoáng nghĩ ở đây thóc lúa nhiều như vậy, mà sao
không cho mang về TP. Trên đó hồi này lương thực, thực phẩm hiếm lắm, đắt lắm.
Má đông con, nhưng cũng như ở vùng này là có truyền thống
CM, truyền thống đánh Mỹ. Chứ không phải là truyền thống học. Nên có lần Má
nói: tao chỉ ước ao các con Má sau này được như con. Tôi nói với Má: con cũng chỉ
là lính chiến đấu thôi, chứ có phải là quan, là cán bộ gì đâu mà Má mong các em
giống con ? Lính như chúng con khổ lắm Má ơi ! Má cười và nói: Má thấy con có
lẽ phải học cao lắm, mới làm được những việc này. Mà Má muốn nhận con là con
“ngang hông” (con nuôi) sau này có đi đâu, thì ráng quay trở lại thăm Má. Tôi
nói: con vẫn coi Má là Má của chúng con mà. Chúng con nay đây mai đó, nhưng con
hứa khi nào bé Út Hết lấy chồng. Con sẽ về dự cưới và thăm Ba Má. (thế rồi như
các bạn đã biết 22 năm sau, được tin Út Hết lấy chồng. Dù đang rất bận mải, và
khó khăn. Tôi trở lại đó để thực hiện lời hứa vui năm nào)...
Mấy ngày sau, giao ban đại đội. BCH nhất là đ/c Nông, các
B.trưởng đều biểu dương tiểu đội nuôi quân, đã có nhiều cố gắng. Cơm dẻo, canh
ngọt và đời sống của đơn vị được nâng lên rõ rệt.
Ý đồ điên rồ và tuyên bố láo xược của bọn chỉ huy của Pốt
ở QK Tây Nam là: “Cho dân Hồng Ngự Đồng Tháp ăn tết, đón xuân bằng bánh tét
chấm máu”. Đã không thực hiện được, vì chúng đã biết lực lượng chủ lực đã về
Đồng Tháp kết hợp với QK9 đánh tan bọn Pôt ở Phú Cường, Khánh An, Khánh Bình.
Nơi mà chúng hý hửng cho là Việt Nam không thể đánh chiếm lại được. Cũng vì LL
QK9 cũng đã nhiều lần tiến công, mà chưa giải phóng được vùng này. Nay, mới có
chưa đầy 2 ngày với LL quân sự hùng hậu của Hải - Lục - Không quân + TTG chúng
ta đã đánh cho chúng tan nát.
Nên khi thấy đội quân "mũ sắt", cơ động gấp từ
An Giang về Hồng Ngự, Đồng Tháp. Bọn địch ở đây gồm 2 Trung đoàn, đã đã không
dám thực hiện ý đồ tấn công Hồng Ngự nữa. Mà vẫn giữ một số chốt tại khu vực
đến Biên phòng Mỹ Cân và dọc tuyến Biên giới giáp gianh.
LL của ta khi cơ động về Đồng Tháp, thì chỉ dùng d2 dâng
lên chốt đối mặt với Pốt. Còn đại bộ phận “nghỉ ngơi” chốt giữ phía sau. Chứ
chưa chủ động tiến công chúng ngay. Mà tổ chức cho anh em học tập, rút kinh
nghiệm các trận đánh, chỉnh huấn chỉnh quân, tăng cường sức khỏe v.v... điều
nghiên tình hình địch bổ xung quân số, bổ xung trang thiết bị, quân trang quân
dụng, vũ khí đạn dược thật đầy đủ.
Bọn Pốt ở đây, thấy quân chủ lực “mũ sắt” hùng hậu tràn
về. Thì bỏ ý đồ tấn công, lui về phòng ngự, đợi ta tấn công. Đợi mãi và chúng
vẫn chưa thấy chúng ta tấn công, thì nóng lòng sốt ruột, bắt đầu dùng lực lượng
tập kích ta ở khu vực tiểu đoàn 2 chốt giữ. Và dùng lực lượng nhỏ trong đêm
luồn vào sát thị trấn Hồng Ngự, tập kích rồi tháo chạy. Như là muốn thăm dò lực
lượng, và thái độ của ta. Trong những ngày này tiểu đoàn 2 vừa chốt giữ, vừa
đánh địch loại khỏi vòng chiến đấu hơn 70 tên.
Với chiến thuật: “mèo vờn chuột” , đã làm cho bọn Pốt ở
đây mệt mỏi. Lúc thì co về phòng ngự, lúc thì tập trung quân tấn công ta ở diện
lẻ. Mãi mà chưa thấy quân ta tổ chức đánh. Chúng lại bắt đầu dồn 2 tiểu đoàn
quân ra biên giới, chuẩn bị chọc phá ta. Bất ngờ đêm ngày 28/2 trung đoàn 266
và 273 xuất kích, luồn sâu vào đất địch rồi đánh ngược trở lại khu vực Bầu Gốc,
Mỹ Cân, Tân Dân tiêu diệt gọn 2 tiểu đoàn này.
Lực lượng d2, cũng xuất kích khỏi chốt. Đánh thẳng vào
khu vực đồn Mỹ Cân. Nhưng địa hình ở đây phức tạp. Chúng cố thủ trong những lũy
tre quanh đồn. Ta từ ngoài đánh vào, nên gặp rất nhiều khó khăn. Qua buổi trưa
d2 vẫn không giải quyết dứt điểm được bọn địch ở đây. BCH điều d1 quay lại đánh
hỗ trợ cho d2. Bọn Pốt trong công sự, trong các khóm tre, chống cự rất quyết
liệt làm ae d1 nhất là C3 hy sinh hơn chục ae.
Nhân dân ở vùng này vô cùng căm ghét, vô cùng căm hận bọn
Pốt. Nên khi thấy anh em mình đi chiến đấu. Một số người cứ nằng nặc đòi theo,
giúp đỡ bộ đội như mang đạn, tải thương v.v… Khi tôi, cùng anh em tiếp tế cơm
cho anh em đi qua các thửa ruộng. Rải rác các xác lính Pốt. Nhưng kỳ lạ là: gặp
thằng nào cũng thấy bị rạch bụng, trông rất là ghê. Không lẽ bọn này lại chết
“yên hùng” như bọn: “ Nhật hoàng ? ” Nhìn kĩ vẫn có những vết đạn hiểm giết
chết bọn Pốt. Vậy tại sao chúng lại bị rạch bụng, phơi thây ra đây.?
Hỏi kỹ anh em bộ binh mới biết được là: “số dân công tự
nguyện” đi giúp tải đạn, cáng thương, bà con, anh em rất căm hận bọn này. Từ
chỗ căm thù quá, nên gặp thằng nào chết, là cũng mổ bụng, xem gan, xem mật
chúng to bằng nào ? Mà lại độc ác, man rợ đến vậy ?
Trở lại tiếp chuyện chiến đấu của d1. Khi được BCH trung
đoàn điều quay về hỗ trợ cho d2, đánh địch ở trong đồn Mỹ Cân. Đội hình d3 kết
hợp với d2, chia làm 3 hướng đánh. Đang phát triển thuận lợi, vượt qua cả một
số khóm tre. Phía sau của đại đội 3 và khi d.bộ d1, tràn lên thì bất ngờ những
loạt súng của bọn Pốt điên cuồng quạt vào đội hình. Qúa bất ngờ trước tình
huống đó. Lại ở giữa đồng trống, chưa kịp phản ứng được ngay. Những loạt đạn
độc ác vẫn điên cuồng găm vào đội hình ta. Làm cho một vài anh em c3, trong đó
có một số anh em thông tin tiểu đoàn
trúng đạn. (Mấy đ/c thông tin này là cùng trung đội với đ/c Hồng, hiện là
thương binh, đang sống ở Thiệu Hoá - Thanh Hoá. Có con trai cũng là thành viên
quân sử mình).
Đại đội 3 Đang tấn công địch. Dừng phát triển. Quan sát
một lúc, phát hiện số địch không nhiều. Đ/C Trụ lệnh cho B1 vòng phải, B2 vòng
trái, dùng khẩu 12ly 7 bắn chế áp. Đánh
thẳng vào khu vực cố thủ bí mật nhưng đã bị lộ của Pốt . Chỉ sau 15phút tấn
công. Mấy hoả điểm này bị tiêu diệt. Nhìn những thằng Pốt chết gục bên súng,
hơi khó hiểu. Kiểm tra kỹ lại, hoá ra thằng nào cũng bị xích chân vào một cái
cọc, hay gốc cây. Để “cảm tử bắt buộc”. Nên chúng có những hành động điên
cuồng, liều chết như vậy. Thật là lũ dã man. Chúng dã man ngay cả với chính
những “đồng đội” của chúng.
Như vậy sau 1 ngày tổ chức tấn công. Sư đoàn đã lại tiêu
diệt gọn 2 tiểu đoàn của Pot. Giải phóng được khu vực đồn Mỹ Cân. Tiểu đoàn 2
chốt giữ lại khu vưc này. Bị thua đau nhưng bọn Pốt rất cay cú. Thấy còn mình
d2 chốt lại đó, mấy ngày sau chúng đã lại tổ chức tập kích vây hãm d2. Ngày
10/3 Trung đoàn lại tổ chức cho d1- d3 tấn công tiêu diệt địch ở vòng ngoài hỗ
trợ cho d2 giữ chốt.
Có một việc mà cho đến hôm nay, khi nói chuyện về việc đồng
chí San hy sinh. Anh em chúng tôi thấy có việc hơi khó hiểu là thế này. Tối
ngày 9/3, hôm đi luồn đánh Pốt. Đ/c San tập trung đại đội, hô rất là to, cho
đại đội xếp hàng ngang hàng dọc, (đ/c San được giữ chức đại đội phó sau trận
28/2). Phổ biến nhiệm vụ đánh địch, đúng bài bản như là hồi huấn luyện, hay
diễn tập đánh địch. Anh em tôi thấy vậy nói với nhau: ông này gở kiểu gì thế
này ? Chưa bao giờ đi đánh trận, mà tập hợp lính kiểu này. Khéo lại có vấn đề
phức tạp ngày mai đây ?
Và rồi sự việc chiến đấu ngày hôm sau, diễn ra với đại
đội 3 cũng thật bất ngờ. Đại đội 3 hy sinh và bị thương nhiều. Và đây cũng là
lần tập hợp quân cuối cùng trong đời. Của một đồng chí chỉ huy đại đội, chưa
được nhận quân hàm sỹ quan. Đ/c Nguyễn Văn San nhập ngũ 5/72. Quê ở xã An Đồng,
Hưng Hà, Thái Bình. Ở đại đội 3 với TP từ ngay đầu nhập ngũ.
Đội hình của sư đoàn 341 gồm có 4 trung đoàn và 8 tiểu
đoàn trực thuộc:
- Trung đoàn 273 thường gọi là E1. bộ binh
- Trung đoàn 270 thường gọi là E2. bộ binh
- Trung đoàn 266 thường gọi là E3. bộ binh
- Trung đoàn 255 thường gọi là E4. pháo binh
Khi tình hình Biên giới Tây Nam có nhiều phức tạp. Lúc Sư
đoàn 341 nhận nhiệm vụ đi làm kinh tế mới ở Sông Ray. Bọn Pốt xua quân sang lấn
chiếm Hà Tiên - Kiên Giang. Bộ đã điều Trung đoàn bộ binh 270 (E2) xuống đánh
địch và trấn thủ . Bảo về thị xã Hà Tiên từ tháng 7/1977.
Thị xã Hà Tiên là mảnh đất tận cùng của Tây Nam Việt Nam.
Ở đây cảnh trí tuyệt đẹp. Ba mặt là biển và sông. Còn đất liền thì lại nối sang đất K, qua cửa khẩu Xà Xía. Từ thị xã
Kiên Giang đi về Hà Tiên chỉ có một trục lộ duy nhất. Một bên là biển, một bên
là đầm lầy, rừng tràm mênh mông sang tận đất K. Núi, đồi hòa quyện với biển
trời bao la, tạo lên một vẻ đẹp như thơ, như mộng. Sang thị xã Hà Tiên, phải qua một con phà, (hoặc cầu phao). Dòng sông
nhỏ, nối thông từ đất liền ra biển. Nên về địa lý Hà Tiên rất “độc lập” đẹp như
mơ, như thơ, như nhạc. Xuống đây tôi được nghe một bài ca, của nhạc sỹ (?) chế
độ trước. Ngợi ca cảnh đẹp Hà Tiên, mà không hiểu sao, bây giờ mọi người ít
hát, ít nhắc tới (mong BSchung hay các bạn cho mình nghe lại bài hát này ?).
Trong đó có các câu như : “Hà Tiên mến yêu đẹp như xứ thơ xa cách tôi còn
nhớ.... xanh xanh mầu ánh mắt, em gái chiều năm xưa.”...) có thể có nhiều bài
hát ca ngợi mảnh đất này. Nhưng theo tôi thì đây là bài ca hay nhất. Trong cuộc
sống hiện tại, những lúc vui vui, tôi thường cao hứng thổi sáo mồm hay hát cho mình nghe vài câu ca đó. Mà
thấy lòng thư thái, như được đứng trước biển Hà Tiên. Với bãi tắm Mũi Nai tuyệt
đẹp. Có những cây dừa lâu đời cao vút. Nhìn xa ra các đảo nhỏ ngoài khơi, hay
kỳ thú khi leo lên thăm hang Thạch Động, núi Bài Thơ v.v...
Cảnh đẹp mê hồn. Nhưng về mặt quân sự thì thật bất lợi
cho ta. Vì nơi đây như là một hòn đảo độc lập. (bây giờ đã có cầu cứng đi qua).
Bên K sang thì lại rất thuận tiện vì thị xã liền với đất K. Chính vì thế nên
khoảng tháng 7/77 bọn Pot lẻn sang, tàn sát toàn bộ ấp Việt Nam. Với thủ đoạn
tàn ác, dã man cũng giống như là chúng đã gây ra với dân mình. Ở Xa Mát, Thiện
Ngôn, Tây Ninh, Ba Chúc- An Giang.
Trung đoàn 270 được cơ động gấp xuống để tiêu diệt địch
và trấn ải ở đây. Nhưng khi chốt giữ lâu. Trong tổ chức phòng ngự chiến đấu có
những chủ quan. Nên ngày 14/3/78 bọn Pốt đã đưa 2 Trung đoàn sang mật tập tấn
công ta chiếm thị xã. BCH Trung đoàn phải “cố thủ” trong hang Thạch Động. Anh
em 270 rất dũng cảm chiến đấu. Nhưng do địch đông, do yếu tố chủ quan bị bất
ngờ, nên cầm cự rất khó khăn, nguy kịch.
Trước tình hình đó QK9 và các cấp chỉ huy lệnh cho Sư
đoàn 341. Bằng mọi giá phải cơ động nhanh xuống giải vây cho Hà Tiên.
Lệnh hành quân thật đột ngột. Tất cả các đơn vị đều bất
ngờ khi có lệnh bàn giao chốt gấp. Trong
2h phải làm xong tất cả thủ tục chuyển quân. Các trận địa chốt, theo hợp
đồng , bàn giao chốt cho Sư đoàn 330. QK9 đảm nhiệm. Ngay tối ngày 15/3 tiểu
đoàn 3, E1 xuống tàu đi trước. D1- D2 chốt, đợi F330 đến thay địa bàn. Nhưng
đợi mãi đến 21h, rồi 22h đêm F330 cũng chưa có lực lượng vào thay. Đồn biên
phòng Mỹ Cân và một số trận địa chốt
đươc bí mật bàn giao cho bộ đội biên phòng, và tỉnh đội Đồng Tháp. Toàn bộ 2
trung đoàn bb của sư đoàn khẩn trương cơ động.
Trên nét mặt của các đ/c chỉ huy đại đội, Tiểu đoàn và
đ/c Nguyễn Dấng, Trung đoàn phó, xuống đốc chiến tiểu đoàn 1 và 2 cơ động. Nét
mặt đăm chiêu căng thẳng. Những mệnh lệnh đanh gọn hổi hả thúc giục, nhắc nhở
ae. Khẩn trương, khẩn trương. Anh em chiến sỹ thì không hiểu hết được những gì
diễn biến, đang xẩy ra ở chiến trường. Chỉ nhận được thông báo rút khỏi chốt,
nếu không có đơn vị bạn ra thay cũng bỏ. Bí mật rời khỏi trận địa.
Tất cả các tầu của nhân dân được huy động chở bộ đội,
hành quân theo đường sông. D3 được tầu
Hải quân “há mồm” cơ động trước.
Việc Sư đoàn bộ đội chủ lực, bất ngờ di chuyển. Làm cho
nhân dân ở đây cũng bất ngờ. Bất ngờ không phải là lo sợ Pốt tràn sang, mà bất
ngờ khi phải chia tay bộ đội, với tình cảm mấy chục ngày, tình quân dân gắn
kết. Những mất mát, hy sinh của anh em, sự dũng cảm, ý chí chiến đấu và chiến
thắng ở đây, đã được nhân dân ghi nhận và cảm phục yêu mến. Những gia đình mà
có anh em ở trong nhà, chiến đấu bị hy sinh. Bà con cảm thấy đau xót, như chính
còn em của họ hy sinh mất mát. Nhiều má còn bắt các con, các cháu, mang tang và
lập bàn thờ “cúng” anh em rất cảm động. Các Ba, các Má, các chị, các em, khóc
dòng nước mắt. Bà con kéo ra hết bến tầu dọc nơi đóng quân, chia tay bộ đội và
tặng, cho anh em những lương thực, thực phẩm thật nhiều. Chia tay bịn rịn nghẹn
ngào không nói lên được lời.
Tôi xuống tầu lúc 11h đêm. Đây là chuyến tầu cuối cùng,
chở vét một số anh em hậu cần của tiểu đoàn. Đêm, tối đen như mực. Sóng vỗ ào
ào, trời lộng gió, tầu chòng trành. Tôi ôm má, ôm các em, chia tay bước xuống
tầu. Không nói thêm được lời nào. Nhưng trong lòng thầm nghĩ: Cảm ơn các má ! Cảm ơn các anh em và bà
con nơi đây, trong những ngày tháng qua, đã chăm sóc, đã giúp đỡ động viên
chúng con rất nhiều. Những tình cảm này, chúng con khắc ghi mãi mãi. Chúng con
là lính chiến phải đi đánh giặc. Phía xa, nhân dân, đang chờ, chiến trường chờ,
đang mong chúng con. Chúng con phải lên đường. Nếu có dịp chúng có sẽ quay lại,
thăm Má, thăm Ba và bà con nơi đây....
Tầu tăng ga nổ máy, Trung đoàn phó Nguyễn Dấng lệnh xuất
phát. Tầu chồm lên rồi lao đi trong màn đêm, giữa sông nước mênh mông như biển.
Không một bóng đèn, không một ánh sáng. Vì phải giữ bí mật việc chuyển quân.
Lúc này đúng 11h30 đêm ngày 15/3/1978.
----------------------------
Dathao
Như vậy thì cho đến trứơc chiến dịch tổng tấn công K,
quân chủ lực của ta ở biên giới Tây Nam từ Tây Ninh cho đến Hà Tiên chỉ có các
sư của Quân đoàn 4 như sư 341- sư 7- sư 9 ,sau đó có bổ xung thêm sư 2 của quân
khu 5 vào giai đoạn gần mở màn chiến dịch tổng tấn công giải phóng K (khỏang
giửa năm 78).Trong thời gian đó có sự phối hợp của các đv quân địa phương như ở
hướng Tây Ninh có Quân khu 7- Tỉnh đội Tây Ninh- Tỉnh đội Long An. Ở Châu
Đốc-Hà Tiên-Hồng Ngự (Đồng Tháp) có Quân khu 9.
Lực lượng phía Pot thì hầu như là tổng lực,tất cả những
đv thiện chiến của nó đều được đưa ra biên giới với ta với mong muốn chiến
thắng QĐNDVN.
Trong thời kỳ nầy thấy rỏ ràng nhà nước ta chưa có chủ ý
tấn công qua K mà chỉ làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới khỏi sự xâm chiếm của Pot
nên chỉ điều quân vừa đủ để tự vệ.Đôi khi nống qua để đưa vùng chiến sự ra khỏi
lảnh thổ của mình rồi lại rút về.
Chính vì lẻ đó mà hướng Tây Ninh (là hướng chủ yếu của
Pot muốn đánh vào tận Sài Gòn) các sư 7 -9 của quân đoàn 4 mới phải chịu sức ép
khá mạnh của Pot, tương đối lép hơn nó trong giai đoạn nầy và chịu nhiều tổn
thất trong chiến dịch giải phóng K.Vì là mũi chính diện của Pot để đánh vào tận
Sài Gòn và cũng là mũi chính diện để ta đánh vào tận Pnompenh.
Cánh của sư 341 cũng không có vẻ gì sung sướng hơn cánh
của sư 7 và sư 9 vì phải cơ động hầu như suốt tuyến miền Tây Nam Bộ.Hết Châu
Đốc tới Hồng Ngự rồi lại đến Hà Tiên mà lại là đv quân chủ lực đầu tiên tham
chiến ở biên giới Tây Nam.
Nếu tính như vậy thì phải nói công sức (chỉ tính riêng
lính quân đoàn) của quân đoàn 4 trong chiến tranh biên giới Tây Nam là lớn
nhất!Vì các quân đoàn khác như quân đoàn 2 và quân đoàn 3 chỉ tham chiến khi
bắt đầu chiến dịch tổng tấn công giải phóng K.Quân đoàn 4 tham gia đầu tiên và
cũng là đv rút về nước cuối cùng sau khi hoàn thành công cuộc giải phóng và
bình định K.
Xin cám ơn Binhyen đã nói rỏ thêm về tình hình ở hướng
Tây Ninh.
Xin cám ơn bác TP đã có những giải thích thật rỏ về những
diển tiến của các trận đánh và phải công nhận bác là lính thời đó nhưng lại có
đầu óc cũng khá lảng mạn .Sau bao nhiêu năm mà bác vẫn còn được những ký ức đẹp
đẻ về phong cảnh ở những nơi bác đi qua.
Những tình cảm của bác và ae trong đv với người dân miền
Tây Nam Bộ cũng thật là sâu đậm!
--------------------------------
Qua trinh sát nắm tình hình địch, và các thông tin của
ban 2. Thì lực lượng chính của Pot đã lùi sâu vào bên trong ngoài “tầm với” của
ta. Tại biên giới, chúng chỉ để lại 1 lực lượng nhỏ chốt giữ các vị trí quan
trọng. Ý đồ của ta là: đánh tiêu diệt địch, chứ ko phải là đánh đuổi chúng.
Nên chúng ta chưa thể xuống tay khi thấy “ruồi” đã bay gần hết.
Địa hình bên K thật hiểm trở. Từ bên mình sang là đồng
bằng ko rộng lắm khoản 1 km thì bắt đầu có những quả núi lớn. Ko kết liền thành
dẫy, mà cách xa nhau rất vừa tầm hỗ trợ cho nhau về hỏa lực. Như núi Lục Sơn,
Cúp Pô, Thị Vạng, núi Địa Tạng vv...dọc mép sông (có cầu phao) giáp ranh giữa
ta và địch là phá Đông Hồ, Sông nơi đây rộng, và đầm lầy rất lớn. Ko thể tiền
nhập vu hồi từ hướng này. Mà chỉ co thể luồn sâu sát mép sông bên đất Hà Tiên.
Có rừng tràm nối dài sang đất K. về mùa này khô, nước cạn nên rừng tràm phía
giáp vào đất K có thể luồn được. Rừng đang mùa khô có thể rất dễ cháy. Nhưng ae
trinh sát báo, đây lại là bãi mìn của cả ta và Pót gài. Nên việc luồn sâu vào
đây cũng rất nguy hiểm. Khi hết rừng tràm, thì lại có trảng trống khoảng hơn 1
km và tiếp đến là chân núi đất xen lẫn đá. Lực lượng Pot chốt giữ ở đây lâu.
Nên hầm hào của chúng rất kiên cố. Có hệ thống phòng thủ 1, phòng thủ 2 liên hoàn. Nếu đánh từ hướng này lên mà địch
phát hiện sớm thì cũng rất bất lợi. Còn hướng bên trái đường lộ 80 ra tận ấp
ViệtNam, thì có thể chỉ dùng được lực lượng nhỏ, luồn sâu nhưng cũng thật khó
vì địa bàn nơi đây sát biển. Địch phòng ngự rất chặt chẽ ...
BCH liên quân chọn phương án: Đầu tiên vẫn là các loại
pháo binh bắn phá hoại các chốt, khống chế trận địa pháo của địch. Máy bay A37
+ Trực thăng sẽ ném bom và bắn rotket tiêu diệt các mục tiêu như trận địa pháo,
hoặc các ụ phòng thủ chiến đấu của Pot. Hỗ trợ cho bb.
Trung đoàn 266, tấn công vỗ mặt theo trục đường 80 sang.
Và đánh chiếm các cứ điểm núi Lục Sơn, Cúp Pô.
Trung đoàn 273, luồn sâu theo rừng tràm. Vu hồi đánh
chiếm địch ỏ 2 ngọn núi Thị Vạng và núi Địa Tạng. Mục tiêu tổng thể của trận
đánh là phải chiếm được 4 quả núi trên rồi chốt chặn tại đó. Chiếm được 4 ngọn
núi này, thì chúng ta khống chế được địa bàn rộng lớn của K. Địa bàn tỉnh Tà
Keo của Pot. Lực lượng dân công phía sau, sẽ tổ chức đào đắp đê biên giới vv...
Nhưng đợi mãi mà chúng vẫn ko đưa lực lượng ra như trước.
Mà vẫn chỉ có 1 số ít lính Pot chốt các mục tiêu trên. Như là cố ý nhử, cô ý
trêu tức quân ta.
Việc điều nghiên tình hình, địa bàn đã tương đối kỹ.
Nhưng giờ G vẫn chưa được chọn. Các cấp chỉ huy đã nóng lòng, sốt ruột. Anh em
cán bộ chiến sỹ cấp dưới thì lại ko ngờ mình được nghỉ ngơi lâu thế. Nghỉ ngơi
+ với ăn uống + khí hậu tươi mát trong lành của biển cả, làm cho sức khỏe ae
tăng hẳn lên.
BCH Sư đoàn bèn tìm cách đánh lừa địch. Lệnh di chuyển về
Tây Ninh được phát ra. Trung đoàn 2 vẫn chốt ở các vị trí cũ. Mỗi Tiểu đoàn để
lại 1 lực lượng nhỏ, còn tất cả từ các cấp chỉ huy, sở chỉ huy E, F cùng các
loại xe, pháo, hỏa lực lên đường hành quân.
Cuộc hành quân chuyển hướng của đội quân “mũ sắt” cùng với tất cả xe
pháo + TTG vào lúc 7h tối. Các loại xe ôtô ko tắt hết đèn, mà sử dụng đèn gầm
hạn chế ánh sáng. Coi như là 1 cuộc hành quân di chuyển lật cánh thật sự.
Nhưng cả đoàn quân ko phải về Tây Ninh. Mà chỉ hành quân
cách Hà Tiên khoảng 70 km. Về dấu quân tại khu vực núi Đất, huyện Hòn Đất, Kiên
Giang. Đất rừng, đồi núi, nơi đây là điểm dấu quân tuyệt vời.
Địa danh nơi này, được nổi tiếng từ những năm KCCM. Giai
đoạn đầu của chính quyền Ngô Đình Diệm. Khi có tác phẩm nổi tiếng Hòn Đất của
nhà văn (Anh Đức). Tác phẩm văn học nói về cuộc chiến nơi này, giữa những
người du kích cách mạng. Mà đại diện là chị Xứ, người phụ nữ xinh đẹp cùng bà
con nhân dân, lực lượng du kích. Phía “bên kia” là bọn Ngụy quân, Ngụy quyền
tay sai Mỹ. Nổi lên là sự tàn ác của tên Trung úy Xăm, gốc dân tộc Khơ Me. Đã bắt được chị Xứ, tra tấn chị rất
dã man, rồi chặt đầu, uống máu chị Xứ ... Và rồi chính nó đã bị bà Cả Sợi, Mẹ
của nó, bà vô cùng căm gận sự tàn ác của Xăm con trai bà. Bà đã báo du kích đến
tiêu diệt. Chính đứa con trai mà thời nhỏ bà vô cùng yêu quý.
Tôi nhận được bức thư của Hương– “Cô hàng xóm” mà tôi
gặp, quen dịp Tết ở quê. Thật bất ngờ. Có lẽ từ ngày đi bộ đội, ngoài thư từ,
giao lưu với bố mẹ, anh em, họ hàng. Thì đây là lần đầu tiên, tôi nhận được một
bức thư của người con gái không phải trong tình cảm gia đình.
Nội dung bức thư, ngoài việc hỏi thăm tình hình hoạt
động, công tác của tôi. Hương còn có ý trách, là sao từ hôm đi vào Sài Gòn đến
bây giờ mà không có thư về. Làm cho gia đình, mọi người phải lo, phải trông
đợi. Rồi là nói về chiến tranh đã hết. Đất nước đã hòa bình, khuyên tôi nên
chuyển ngành về quê làm việc và lấy vợ v.v... Rồi từ hôm anh đi, ở nhà xóm phố
mình họ cưới nhau nhiều. Mỗi lần đi dự cưới lại nghĩ và nhớ tới tôi. Mong tôi
cũng sẽ được hạnh phúc ở quê v.v...
Ôi ! đúng là cuộc chiến tranh khốc liệt thế này, mà ở nhà, ở quê, nhất là lớp trẻ vẫn không
biết gì ? Lúc chuyện trò ở nhà, tôi cũng
đã nói cho mọi người nghe, kể cả “cô hàng xóm” nghe về cuộc chiến tranh BGTN
đang diễn ra khốc liệt. Mà tôi, chính tôi cùng các đồng đội tôi trong cuộc.
Hàng ngày đều phải trực tiếp ở chiến trận. Hôm nay, mọi người đang vui, đang
sống nhưng có thể một tý nữa, một chốc, một lát nữa, là lại có tin đồng đội này
bị thương, đồng đội kia hy sinh v.v...
Cuộc chiến ngày càng phức tạp. Giờ đây nói về việc ra
quân, phục viên hay giải ngũ của tôi thật xa vời. Chứ đừng nghĩ đến yêu đương,
hay vợ con. Đã 2 lần tôi chia tay người yêu để ra trận. Vậy thì lần này cô hàng
xóm này, có vẻ có ý tứ “xa xăm” đây. Nhưng tốt nhất là không nên “dính” vào yêu
đương, đàn bà con gái mà thêm vướng bận.
Thoáng nghĩ như vậy và tôi viết thư hồi âm cho Hương. Nhớ
lại hồi làm quân quản ở Sài Gòn. Tôi có đọc một quyển truyện gì đó, cũng có nói
về tình cảm của người lính chiến, trăn trở chuyện yêu đương rất hay, có vẻ “văn
học, lãng mạn”. Tôi viết theo giọng văn ấy...
Hương ! Anh nhận được thư Hương nơi biển trời lộng
gió. Mảnh đất tận cùng của Tổ quốc với vẻ đẹp mê hồn, làm cho anh, các anh
những người lính thực thụ chỉ quen súng đạn, cũng phải ngẩn ngơ. Nhưng những
tiếng súng của quân thù, tiếng thét kêu gào của nhân dân nơi đây, vẫn vang vọng
trong anh. Kêu gọi sự trả thù. Làm cho
những cảnh đẹp như thơ, như nhạc này không còn ý nghĩa nữa. Vì tiếng súng, vì
tiếng thét gào kêu cứu đó.
Hương ! Cảm ơn em
đã góp ý, gợi ý cho anh trở về để xây dựng cuộc sống, lứa đôi, gia đình. Nhưng
em ơi ! Hiện tại anh vẫn đang là người trong cuộc. Hàng đêm, vẫn thường thao
thức hay mơ. Mơ thấy súng đạn về cười ngạo nghễ. Nên hôm nay anh ra đi, để cho
ngày mai, không còn những thằng con trai, phải bỏ mình vì chiến tranh. Không
còn những mẹ già, tóc đã điểm sương, đêm đêm khóc con, trong nỗi đau nhung nhớ.
Không còn những người vợ trẻ, đầu quấn khăn tang, chiều, chiều, dắt dìu đứa con
thơ. Vào nghĩa trang có lá vàng rơi rụng. Để cho ngày mai, không còn những
thiếu nữ, phải buồn đau trong thương nhớ, sáng , sáng, mở ra những trang giấy
đẫm nước mắt học trò ...
Hương ! Cảm ơn em.
Anh cảm ơn em nhiều, vì đã viết thư thăm anh. Đây là lần đầu trong đời anh được
nhận và được viết thư cho người bạn gái.
Hiện tại cuộc sống
của anh, của đồng đội anh là như vậy. Đây sẽ là lá thư đầu và là cuối anh gửi
tới em. Với tất cả những chân thành của người lính trận. Anh chúc em sớm có
được niềm vui trong tiệc cưới của mình.
Nhớ em và cảm ơn em
thật nhiều !
Từ đêm ngày 5 và 6/8 các đơn vị được bí mật về vị trí cũ tại Hà Tiên.
Nhưng vẫn trong tư thế giấu quân. Bộ đội đều phải ở trong nhà, trong lán hay
các lùm cây. Không đi lại nhiều, tránh sự quan sát dòm ngó của Pốt. Các loại
pháo binh của Quân khu, Sư đoàn cũng bí mật vào các vị trí trong đêm. Được ngụy
trang kín đáo. Các phần tử bắn đều được chấm tọa độ, phương vị hiệu chỉnh chính
xác sẵn sàng đợi giờ nổ súng.
Vì quãng đường luồn sâu, tiền nhập không xa. Nên 22h đêm
ngày 7/4 Trung đoàn 1 tổ chức cho bộ đội luồn sâu theo rừng tràm, dọc sát mép
sông. Đi theo đường mà công binh và trinh sát đã tháo gỡ mìn.
Trung đoàn 3 cũng bắt đầu dịch đội hình tiến công làm 3
mũi. Lấy trục đường 80 làm tâm. Một mũi cũng luồn sâu sát gần biển theo hướng
ấp Việt Nam sang. Các loại xe tăng, xe bọc thép cũng làm công tác tiền nhập
xung phong cùng trung đoàn 266. Đợi khi pháo bắn thì cơ động ra cửa mở.
Giờ G đang tới dần. Theo thông báo, dự kiến giờ G lùi lại
30 phút tức là 5h 30, thì pháo binh sẽ bắn phá hoại vào các mục tiêu. Đến 5h45
thì chuyển làn vào trong cho bộ binh xung phong. Trước khi xung phong thì có
pháo bắn đạn khói để che mắt bọn Pốt, cho bộ binh tiến công được bí mật
hơn.(việc có pháo khói sau này chúng tôi mới biết, chứ trong hợp đồng tác chiến
không có phổ biến).
Giờ tiền nhập và luồn sâu của các đơn vị đã đến. Lúc này
là 22h đêm. Trời tối hơn so với thường ngày. Mũi của trung đoàn 273 đã dịch
lên, ém sát vào khu vực rừng tràm. Theo dẫn đường của trinh sát. Trong rừng
thưa cảm giác càng tối hơn. Qua vòm lá, trời vẫn nhiều sao, những vì sao nhấp
nháy như đang theo dõi, như chỉ hướng cho ae bộ đội hành quân. Gió biển hiền
hòa, mang theo hơi nước làm anh em khoan khoái, dễ chịu hơn.
Trinh sát dẫn anh em tiến sát theo mép nước rừng chàm.
Bắt đầu quặt sang trái vào đất K. Tiểu đoàn 3 vẫn là đội hình đi đầu. Sau lực
lượng trinh sát. Đại đội hỏa lực của Tiểu đoàn súng 12ly7 và DKZ đã được phân
đi tăng cường theo đơn vị, cùng luồn sâu với đội hình đại đội BB.
Còn lại BCH đại đội và 2 khẩu cối 82. Hành quân sau Tiểu
đoàn bộ. Vừa qua ranh giới khoảng hơn 100m. Oành... ! Một tiếng nổ thật lớn,
vang vọng trong trời đêm. Chớp sáng chói lòa rồi phụt tắt. Mọi người nằm rạp
xuống . Có tiếng kêu: “Bị mìn rồi”. Vài tiếng kêu của anh em bị thương. Bụp !
bụp ! bụp ! Có 3 phát pháo hiệu đỏ bay
lên hướng núi Thị Vạng.
Một lúc sau đã thấy vận tải của d3. Cáng số thương binh
và tử sỹ về phía sau. 6 cáng + với 2 ae
được dìu. Như vậy vừa sang đất K số anh em khênh cối của d3 không bám sát được
nhau. Đi lạc ra ngoài, hay do mìn còn sót lại ? Mà làm cả khẩu đội cối 82 và
mấy anh em ở gần bị thương. Không biết
là loại mìn gì, mà sát thương khủng khiếp thế. Thật không may mắn chút nào.
Linh cảm thấy trận chiến sẽ gay go ác liệt. Qua sự việc càng cảm giác gay go ác
liệt tăng lên.
Giải quyết xong được số thương binh tử sỹ. Đội hình lại
tiếp tục luồn sâu, hành tiến. Mò mẫm trong đêm. Nhưng trong mỗi người, mỗi bước
đi, phải dè dặt hơn. Anh em căng mắt ra mà nhìn, mà bước theo dấu chân người đi
trước. Nên tốc độ di chuyển không được nhanh và bạo dạn như trước nữa.
Lớp khói thật dày, phải sau 10 phút thì khói với dần tràn
qua. Anh em phía trên chưa kịp định thần, nhìn phương hướng mục tiêu, thì ầm- ầm- ầm. Các loại súng của Pốt phát hỏa,
bắn vào đội hình bộ đội. Các ổ 12,7, đại tiên, bắn găm rào rào vào đội hình
xung phong. Lác đác ae trúng đạn ngã xuống. ĐKZ và B40- b41 chúng cũng bắn tới tấp, nổ dồn dập. Rồi cả pháo,
từ xa cối 82, cối 60 của chúng cũng đã bắn cấp tập vào đội hình.
Trận chiến thật nguy kịch. Những vị trí bãi bằng trống
trải này, rừng chàm này, là những mục tiêu không thay đổi. Nên có thể nói là:
nếu chốt ở đây lâu, thì nhắm mắt chúng cũng có thể bắn trúng vào khu vực cần
bắn. Và lúc này, khu vực này, đâu đâu cũng có bộ đội mình. Khói bụi mù mịt, bao
trùm đội hình tấn công. Sau các tiếng nổ là ầm, là mảnh đạn, cùng đất đá, cát
bụi bay rào rào.
Đúng là mưa của các loại đạn. Pháo của ta bắn phá hoại
nhiều như thế, mà sao hỏa lực chúng vẫn còn rất mạnh, rất nhiều. Như là lực
lượng còn nguyên. Quan sát kỹ mới thấy phía trên cao, không có hỏa lực bắn ra.
Mà như vậy bọn này tránh đòn pháo, là bỏ công sự phòng ngự tuyến 2 và tuyến 3.
Xuống hẳn phía dưới với những công sự sẵn có đợi bb ta đến. Nên pháo binh của
ta bắn phá hoại nhiều, trúng các mục tiêu, công sự nhưng ko có Pot ở đó. Bọn
chúng như là đã có kịch bản sẵn. Giờ đây chúng đang thực hiện theo kịch bản đó,
1 cách thuần thục và hiệu quả. Gây cho ta những khó khăn và tổn thất lớn.
Thông tin trận đánh, khó khăn hướng các Tiểu đoàn của
Trung đoàn 273, được báo về BCH liên
quân. Nhưng ngay ở đài chỉ huy, trên hang Thạch Động cũng đã phát hiện ra điều
này. Nhìn ae ta đang hứng chịu “mưa đạn” của Pot mà ai nấy lòng như lửa đốt. Mà
không phải chỉ có hướng Trung đoàn 273. Hướng Trung đoàn 266 cũng gặp khó khăn.
Đội hình bb + TTG phải khựng lại khi 2 xe đã bị trúng đạn, trong khi đó, các
loại đạn chống tăng vẫn xoẹt, xoẹt rồi nổ ầm ầm chung quanh các xe. Làm cho hỏa
lực của xe cũng ko phát huy được sức mạnh.
Chỉ huy lệnh cho bộ đội nằm tránh đạn, tranh thủ đào hầm
ẩn nấp. Pháo binh lại chính tầm, bắn vào vào các mục tiêu đã bị lộ của Pót.
Phản pháo vào các trận địa pháo phía trong sâu. Đạn pháo của ta đã nổ rầm, rầm
dưới chân núi. Súng của Pót im bặt. Bọn này chắc chuí hết vào hầm tránh đạn
pháo.
Máy bay L19 của ta bay vè vè trinh sát trên đầu. Lác đác
thấy pháo cao xạ của Pốt bắn đuổi máy bay, Những tiếng nổ lục bục, tạo thành
những đốm mây trắng nhỏ trên trời.
Hướng Trung đoàn 273 được điều động 8 xe TTG. Kết hợp tấn
công cùng bb. Pháo binh cấp tập khoảng 20 phút vào trong sâu đất Pốt. Cũng
không thấy pháo Pot bắn nữa. Nhưng cối 82 của Pốt, và DKZ bắn cầu vồng từ bên
kia núi vẫn cấp tập đều nổ rầm rầm vào đội hình bb ta. Bọn này hiểm độc. Chúng
đặt trận địa cối và dkz sau núi, quả là lợi hại. Chúng tạo được góc chết. Nên
pháo của mình gần như không có tác dụng.
Trận địa cối 120ly của Trung đoàn, cũng bắn phản vào phía
sau núi, tìm diệt trận địa cối của Pốt. Nhưng hiệu quả cũng ko cao.
Theo hợp đồng, là có máy bay tham chiến hỗ trợ bb. Mà cho
đến giờ này ko hiểu sao chỉ thấy máy bay trinh sát. Còn chưa thấy máy bay chiến
đấu vào trận. (Cho đến bây giờ, ae ccb, cũng vẫn thắc mắc. Việc máy bay ko tham
chiến này. Mà cũng vẫn ko được nghe lời giải thích thấu đáo từ cấp trên ).
Lúc này đã gần 8h sáng. TTG cũng đã cơ động đến khu vực
tấn công của Tiểu đoàn. Đ/c Trụ, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 1 cùng với một liên
lạc cùng đ/c trợ lý tác chiến Tiểu đoàn, rời vị trí của Tiểu đoàn lên đốc chiến
cùng đại đội 3.
Trong lúc địch đã dừng bắn, tránh đạn pháo. Các lực lượng
cứu thương, đã nhanh chóng chuyển anh em thương binh, tử sỹ về phía sau. Nhưng
mới chưa đến 8h mà số thương vong quá
nhiều. Vận tải ưu tiên đưa số anh em bị thương ra trước. Số ae bị thương nhẹ thì
được băng bó. Số ae còn đi được thì tự lui về hay 1 đ/c vận tải dìu 2 - 3 đ/c
về phẫu.
Lệnh xung phong. Tiếng thét xung trận lại vang trời. Các
loại hỏa lực của TTG cùng hỏa lực của bb đồng loạt phụt đạn vào các mục tiêu.
Anh em bb ào ào xông lên thật dũng mãnh. Mũi đại đội 3, là mũi đột kích của của
Tiểu đoàn 1. Đ/c Trụ lại vẫn như là người đại đội trưởng đương nhiệm, hò hét,
đôn đốc ae tiến công. Đội hình tiến công được khoảng hơn trăm m. Thì bon Pot
lại phản ứng điên cuồng. Đang lao lên, đ/c Trụ khựng lại rồi ngã về phía trước.
Khẩu K54 tuột khỏi tay. 1 viên đạn thẳng của Pot đã xuyên từ phía ngực trái ra
sau lưng. Đ/c yta chạy lại, vội băng vết thương. Nhưng viên đạn thù trúng chỗ
hiểm. Tiểu đoàn phó Trụ, người chỉ huy dũng cảm, đã anh dũng hy sinh.
Tiểu đoàn 3 cũng báo về sở chỉ huy đ/c Tô quang Phụng
Tiểu đoàn phó bị thương nặng. Bọn Pót vẫn điên cuồng chống trả, xả đạn vào đội
hình tiến công của ta. 1 xe tăng, 1 xe M113 trúng đạn. Đội hình tiến công của
ta lại khựng lại.
Đúng 4h45’ ngày 12/4 tất cả các trận địa pháo của Sư
đoàn, của QK9 lại dồn dập trút đạn xuống các trận địa của Pot . Đã rút kinh
nghiệm trận đánh trước. Nên lần này pháo binh, chỉnh điểm bắn “trần” từ dưới
chân núi của các cao điểm lên trên. Trong lúc pháo chuyển làn , thì bộ binh cùng
TTG dũng mãnh lao lên, tiến công địch.
Mỗi Trung đoàn, sử dụng 2 Tiểu đoàn làm 2 mũi đột kích.
Còn một Tiểu đoàn, làm lực lượng dự bị. Trung đoàn 273 sử dụng Tiểu đoàn 1-3 là
2 mũi tiến công. Tiểu đoàn 2 làm Tiểu đoàn dự bị.
Trước sự tiến công dũng mãnh của bộ đội. Mũi của tiểu
đoàn 3, đến 6h30 đã chiếm được tuyến phòng thủ số 1 của Pốt. Đại đội 3 tiểu
đoàn 1 dưới sự chỉ huy của đ/c Nguyễn Văn Phô, là mũi nhọn dũng mạnh tiến công.
Cũng đã nhanh chóng chiếm được tuyến phòng thủ ngoài. Mọi người nhanh chóng
củng cố hầm hào, chốt lại luôn vị trí. Làm bàn đạp cho các Đại đội đánh phát
triển mở rộng.
Rút kinh nghiệm trận trước. Trận này, TTG chỉ tấn công
theo bộ binh 1 đoạn. Rồi dừng lại, dùng hỏa lực chỉnh bắn các mục tiêu, các ổ
đề kháng của Pốt . Hỗ trợ cho bộ binh rất hiệu quả. Như vậy, TTG cũng tránh né
được vũ khí chống tăng b40, b41của Pốt. Với cách đánh này, TTG phát huy được
hỏa lực mạnh của mình.
Đến 8h sáng, các mục tiêu của kế hoạch được hoàn thành.
Xác địch chết nằm ngổn ngang, dọc các bờ công sự chiến đấu, trên các thông hào
lên tuyến phòng thủ trên cao.
Bàng hoàng trước sự tấn công của ta. Bọn Pốt từ tuyến một
rút lên tuyến phòng thủ 2, bắt đầu chống trả quyết liệt. Các loại pháo của
chúng ờ phía sau, bắt đầu đã “mở mồm”, chi viện hỗ trợ cho bọn chốt phía trước.
Chúng cũng sử dụng các điểm đặt pháo khác nhau, nhưng cũng bắn tập trung vào
các mục tiêu, và trận địa ta vừa chiếm được. Nhưng điểm nổ vượt tầm vào khu vực
bãi trống cũng nhiều. Nghe đạn nổ đầu nòng ở các phía, thấy thằng này cũng giỏi
phân tán hỏa khí. Theo cách dùng binh rất bài bản là: “hỏa khí phân tán- hỏa
lực tập trung”. Anh em lợi dụng được hầm hào của bọn Pốt. Nhưng điều phải đào
đắp, chỉnh sửa để quay lại hướng xạ kích.
Một số anh em bị thương, hay hy sinh khi xung phong. Được
nhanh chóng chuyển về phía sau. Một số anh em mới bị thương do pháo cối, thì
được tạm thời băng bó sơ cứu tại chỗ. Chưa đưa về sau ngay được , vì bọn Pốt
đang “mưa đạn” khắp các nơi. Chúng đang nghĩ là có bộ đội mình ở khu vực bãi
trống và rừng tràm như lần trước. Làm cản trở đường chuyển thương của anh em về
phẫu.
9h30 lệnh tiến công đánh chiếm tuyến phòng thủ 2 của Pốt.
Từ những vị trí của tuyến phòng thủ 1. Các chiến sỹ lại bật lên khỏi công sự
tiến công . Tiến hô xung phong vang trời. Nhưng địa hình hiểm trở, độ dốc cao,
không phù hợp với tiến công ồ ạt. Bọn Pốt ở trên cao, chúng có địa thế, vị trí
phòng thủ vô cùng thuận lợi, điên cuồng chống trả. Xả đạn vào đội hình tiến
công của ta. Bọn pháo cối phía sau, cũng đã hiệu chỉnh tầm bắn. Nên chúng đã
chặn được đợt tiến công của các đơn vị. Các mũi tiến công khựng lại. Anh em lợi
dụng thông hào và hầm hố ẩn lấp tránh đạn rồi rút về tuyến phòng thủ 1 của Pốt.
Pháo binh của Sư đoàn, tìm bắn “phản pháo” vào các trận
địa pháo cối của Pốt, ở phía sau. Trong lúc các trận địa pháo của chúng bị
khống chế. Các đơn vị nhanh chóng đưa anh em thương binh tử sỹ về sau. Và tổ
chức rút dần lực lượng về chốt tại biên giới.
Đúng 15 h pháo binh, cả pháo cao xạ 37ly 2 nòng, đồng
loạt bắn phá vào các tuyến phòng thủ 2- 3 của Pốt. Gìm đầu chúng xuống, để cho
các mũi tiến công ta nhanh chóng rời khỏi trận địa. Kết thúc trận tiến công
chớp nhoáng , gây cho Pốt nhiều tổn thất và bất ngờ. Bất ngờ khi bị tiến công.
Bất ngờ khi bộ đội ta rời khỏi trận địa. Trận đánh này, trận thắng này của ta
làm cho bọn Pot vô cùng cay cú. Chúng dùng pháo, cối và cả DKZ bắn “cầu vồng”
sang Hà Tiên liên tục. Chúng ta cũng dùng phảo, cối đáp trả rất áp đảo, làm cho
bọn Pot càng cay cú hơn .
Mấy ngày tiếp theo, ngoài lực lượng chốt. Đại quân của Sư
đoàn rút sang bên kia sông. Sẵn sàng nhận nhiệm vụ mới.
Trong mấy ngày tiếp theo, chiến sự 2 bên vẫn ở thế đấu
pháo cối qua lại. Trong một lần "đấu cối" 82 ly với K. Khẩu đội cối
của Tiểu đoàn 3 bị trường hợp không phóng được đạn. Anh em làm các động tác xử
lý đạn ko phóng . Vẫn ko có hiệu quả. Trung đội trưởng, chuẩn úy Bùi Minh
Giảng, sốt ruột, ghé mắt vào nòng súng nhìn quả đạn. Đúng lúc đó thì oàng
...quả đạn phóng lên. Khuôn mặt đ/c Giảng không còn nguyên vẹn. Trái đạn đã
mang theo máu và thịt da anh bay lên trời cao rồi nổ nơi trận địa quân thù. Đ/c
Giảng đã hy sinh trong tiếc thương. Anh ngã xuống trong vòng tay của đồng đội.
Lúc này, tuyến Biên giới Tây Nam, khu vực Tây Ninh lại vô
cùng ác liệt. Bọn Pốt đã đưa nhiều Sư đoàn dự bị, ra áp sát Biên giới Tây Ninh.
Khu vực đường 1 huyện Bến Cầu, đến đường 24 từ bến Sỏi sang. Các Sư đoàn 7- 9
cùng các đơn vị của tỉnh đội Tây Ninh chống đỡ rất khó khăn. Chúng vẫn với suy
nghĩ ngông cuồng là sẽ chiếm 2 huyện Bến Cầu, Châu Thành. Làm bàn đạp tấn công
thị xã Tây Ninh.
Sư đoàn được lệnh lật cánh, quay lại Biên giới Tây Nam
hướng Tây Ninh. Trung đoàn 266 ở lại bảo vệ Hà Tiên, thay cho trung đoàn 270.
Đúng ngày 17/4 Trung đoàn 273 - 270 cùng các Tiểu đoàn trực thuộc lên xe cơ
động về Tây Ninh.
Hà Tiên mảnh đất, địa danh đẹp tuyệt vời. Núi non, sông
nước, biển xanh, hòa quyện cùng đất trời bao la tạo lên vẻ đẹp mê hồn đắm say
lòng người. Ngồi trên xe, qua những vùng đất, những nghĩa trang liệt sỹ. Những
nấm mồ đất mới cỏ xanh chưa nhú.
Trong tôi như vang lên câu hát: "Hà Tiên mến yêu đẹp
như xứ thơ- xa cách tôi còn nhớ … " Vâng chúng tôi nhớ, rất nhớ vẻ đẹp mê
hồn của Hà Tiên. Nhớ hang Thạch Động, nhớ bãi biển Mũi Nai. Nhớ lăng Mạc Cửu.
Nhớ những trận đánh hào hùng và bi tráng. Nhớ, rất nhớ tội ác của bọn diệt
chủng Pôn Pốt Ieengxaarri, đã tàn sát dân lành ở ấp Việt Nam. Và nhớ, nhớ các
anh em , đồng đội tôi nằm đây. 260 nấm
mồ cỏ non chưa nhú. Các anh sinh ra và lớn lên ở khắp miền đất nước. Đã về đây
diệt quân thù. Đã anh dũng hy sinh tuổi trẻ để bảo vệ non sông đất nước. Nơi
cực Tây của tổ quốc. Các anh nằm đây, trong vòng tay của đất Mẹ kính yêu. Có
trời cao trong xanh. Có sóng biển , ngày đêm vỗ về ôm ấp như lời ru của Mẹ. Ru
những đứa con hiếu thảo, anh hùng liệt sỹ của Tổ quốc vào giấc ngủ ngàn thu .
Các anh yên nghỉ. Xin gởi tới các anh bông hoa tươi thắm.
Nén hương trầm, để tưởng nhớ và chia xa các anh. Chúng tôi lại đi, lại đi tiếp
chặng đường binh nghiệp đang còn dang dở. Đi đến nhưng nơi còn bóng quân thù.
Năm 2005. Sau 27 năm, tôi mới có dịp cùng vợ và cùng một
số gia đình anh em đồng đội. Quay lại thăm Hà Tiên. Đến những vùng đất xưa. Đất
đã hồi sinh, những thế hệ mới đã trưởng thành. Nhịp sống sôi động, cửa khẩu Xà
Xía đông đúc người qua lại bán buôn. Đứng ngắm nhìn cảnh vật đất trời tôi như
vẫn thấy vang dền tiếng súng trận, tiếng hô xung phong và trận chiến hào hùng
nơi đây. Biển vẫn xanh, cảnh vẫn đẹp. Sóng vẫn xô bờ. Những ngôi mộ các anh đã
được xây đắp, khang trang sạch sẽ. Tôi đọc tên từng người trên bia mộ, mà thấy lần
lượt các anh hiện về. Vẫn trẻ trung hùng tráng như ngày nào. Các anh sống mãi ,
trẻ mãi với thời gian, với non sông đất nước. Còn chúng tôi đã già, tóc đã đều
bạc hoa dâm. Màu của gió sương, phong trần. Dù cuộc sống có phong ba, có chìm
nổi thế nào. Chúng tôi vẫn sống như ngày xưa, cùng các anh đã từng sống. Để góp
phần dựng xây nước non vững bền ..
Tôi, Tranphu341. Người lính chiến cùng Sư đoàn với các
anh. Viết những dòng này, lời này, trong trang mạng “máu và hoa” này. Như thay
mặt các anh em đồng đội đang sống. Gửi tới các anh vòng hòa tươi, nén hương
trầm, lời tri ân. Để tưởng nhớ các anh, với lòng nhớ nhung và biết ơn vô bờ
bến.
Toàn bộ đội hình Sư đoàn ( thiếu E266) trở lại địa bàn
quen thuộc Tây Ninh. Sau hơn 4 tháng rong ruổi, đánh địch dọc biên giới. Xuống
tận Hà Tiên -Kiên Giang. Trở lại Tây Ninh, khi mà tình hình ở đây đang vô cùng
phức tạp. Các Sư đoàn 9- 7 cùng các lực lượng bộ đội địa phương đang gặp rất
nhiều khó khăn.
Bọn Pốt đã tung vào hướng này, các Sư đoàn dự bị “thiện
chiến”. Chúng vẫn hy vọng, ngông cuồng sử dụng chiến thuật bu bám, lấn dũi.
Chọc phá tấn công đối phương. Gây cho tình hình biên giới và cho ta những căng
thẳng. Với ý định lớn là sẽ chiếm 2 huyện Bến Cầu và Châu Thành- Tây Ninh làm
bàn đạp vượt sông Vàm Cỏ, tấn công chiếm thị xã Tây Ninh.
Lúc này, tình hình và dư luận quốc tế vẫn đang bất lợi
cho ta. Chúng được bọn quan thầy bành trướng đứng sau, làm hậu thuẫn và kích
động. Chúng vừa ăn cướp, vừa la làng, vu khống
ta lấn chiếm chúng. Một số nước, kể cả có nước trong phe “XHCN cũ ” cũng
đã tin lời “la làng” của Pốt. Góp ý với ta không nên bắt nạt “nước bé” như vậy.
Một số quan sát viên quốc tế được “gióng dựng” cũng đã tới các vùng miền biên
giới. Để kiểm chứng. Vì vậy, chúng ta cũng không thực hiện được ý định “đưa
chiến trang sang đất K” nữa. Được đà, nhất là lại thấy dọc tuyến Biên giới, các
lực lượng vũ trang của ta đã rút hết về đúng mốc biên giới chốt chặn. Chúng lại
càng tin là sức mạnh của chúng là vô địch. Chúng tăng cường áp sát biên giới
chọc phá, tập kích ta liên tục.
Chúng ta ở vị thế thụ động. Tuyến Biên giới thì dài, nên đúng là cũng gặp rất nhiều khó khăn. Thậm
chí chúng dùng những phân đội nhỏ. Đêm đêm, luồn lách giữa đội hình của 2 trung
đội chốt. Rồi bò vào phục kích, bắn loạn xạ. Gây thương vương vong cho ta. Rồi
lại nhanh chóng lủi về bên K. Làm cho việc chốt giữ của bộ đội ta rất căng
thẳng. Ở khu vực huyện Bến Cầu, chúng còn tràn sang chiếm cả khu vực Cây Me xã
Long Khánh. Xã Phước Chỉ vv...
Sư đoàn 341 lại trở về chốt giữ ở trục đường 1 và phía
Nam, Tây Nam của tỉnh Tây Ninh. Giáp với tỉnh Long An. Tiểu đoàn 1, chốt ở vị
trí của khẩu Mộc Bài. Đại đội 3 của tôi chốt tại Ấp Mồ Côi ngay tại ngã 4 đi ra
cửa khẩu, về huyện Bến Cầu và đối diện khu rừng thốt nốt hướng trái Mộc Bài. Từ
vị trí BCH đại đội tới băng qua cánh đồng khoảng 800m, tới bìa rừng thốt nốt là
đất K. Khu vực này chúng bố trí lực lượng rất đông. Hầm hào kiên cố, cũng là vị
trí thuận lợi, của chúng để xuất phát các nhóm trinh sát, hoặc các phân đội nhỏ
sang chọc phá ta.
Thời gian này, việc chốt giữ biên giới của ta, chủ yếu là
cảnh giới, quan sát, chủ động phát hiện và tiêu diệt địch. Chứ chưa sử dụng mìn
trong phòng thủ. Vì cánh đồng lúa này là của dân mình vẫn đang trồng cấy. Nên
bọn Pot lẻn sang đây, ko gặp trở ngại hay vật cản nhiều. Nên chúng lại càng xâm
nhập, tập kích ta với mật độ dầy hơn.
Trong những ngày này, các đơn vị của ta chốt giữ rất căng
thẳng, mệt mỏi. Quân số của đơn vị, qua các trận chiến hao hụt rất nhiều. Thậm
chí mỗi trung đội chỉ còn hơn chục tay súng. Mà vẫn phải đảm nhiệm chốt, giữ
địa bàn rộng. Nên ban đêm phát hiện ra Pốt bò vào tập kích là rất khó.
Đêm ngày 2/5/78, hướng các đại đội của Tiểu đoàn 1 cũng
bị Pốt mò vào tập kích. Đầu tiên, chúng cho một nhóm cách xa khoảng 200m. Bắn
vu vơ vào khu vực chốt đại đội 3. Anh em bắn trả. BCH Đại đội lệnh cho cối bắn
đuổi Pốt. Đ/c Nên liên lạc Đại đội xuống báo cho tiểu đội cối 60 bắn. Những mục
tiêu, phần tử bắn, đã được chuẩn bị trước. Nên thao tác bắn rất nhanh. Đ/c Nên
báo xong, không về đại đội ngay, mà ở luôn lại với đ/c Tiến. Để xem và xin bắn
mấy quả cối. (đ/c Nên và Tiến là 2 cậu cháu ruột, cùng nhập ngũ 7/77 quê ở Thụy
Ninh - Thái Thụy - Thái Bình).
Đ/c Nên vừa thả quả đạn vào nòng. Toong ! Đạn vừa bay
lên. Chớp lửa đầu nòng súng sáng lòa. Thì ùng oang – ùng oàng – ùng oàng. 3
phát đạn B40 - B41 của Pốt dập vào ngay vị trí khẩu đội. Hai cậu cháu cùng hy
sinh. Một đ/c nữa bị thương nặng . Như vậy là bọn Pốt đã mò sát vào gần khẩu
đội cối. Đợi ta phát hỏa, rõ hẳn M là chúng bắn. Anh em Trung đội một gần đó nổ
súng bắn trả. Bọn này sau khi bắn xong là cũng “ù té quyền” ngay.
Cùng đêm đó, khoảng 2h sáng. Cũng có 1 tốp, chúng mò tận
vào phục ở con đường lộ, từ ấp Mồ Côi lên huyện Bến Cầu. Thấy xe ôtô của ta,
chúng phóng mấy quả B40 - B41, bắn mấy loạt ak. Trúng luôn xe, làm lái xe và
một đồng chí công an đi áp tải bị hy sinh. 2 đ/c khác bị thương. Xe này là xe
chở tiền mới, của ngân hàng từ Tây Ninh xuống huyện Bến Cầu. Để đến sáng tổ
chức đổi tiền. (Toàn quốc đổi tiền ngày 3/5/78). Rất may là xe không cháy, chỉ
bị hỏng, tiền còn nguyên vẹn. Đại đội 2 cơ động ra đánh đuổi Pốt. Cứu chữa anh
em bị thương. Bảo vệ xe, đến sáng mới biết là xe chở tiền.
Việc canh gác đêm, lúc này thật là khó khăn. Vì bọn này
lẩn lũi như trạch. Ta khó có thể kiểm soát được. Các bộ phận anh nuôi, y tá,
quản lý, đêm đêm đều phải căng mắt ra canh gác, như một Trung đội chiến đấu
thực thụ. Ban ngày thì vẫn phải lo tổ chức 3 bữa cơm canh, nước uống cho bộ
đội. Nên bộ phận anh nuôi quản lý rất mệt nhọc.
Tiểu đoàn 1 vẫn chốt giữ ở cửa khẩu Mộc Bài. 2 bên đường
1. Đại đội 3 ở ấp Mồ Côi đối diện rừng Thốt Nốt. Việc để cho Pốt mò sát vào
trận địa cối 60 bắn vào khẩu đội làm hy sinh 2 đ/c. Và phục bắn xe oto chở
tiền, là một bài học vô cùng đắt giá.
Tiểu đoàn, Đại đội tổ chức họp, giao ban và các Trung
đội, Tiểu đội họp hành kiểm điểm liên tục. Các đơn vị phải canh gác nhiều vị
trí hơn, thời gian canh gác cũng dài hơn. Cứ 2 người 1 đêm. Ca 1 từ 6h tối đến
12h đêm. Ca 2 từ 12h đêm tới sáng. Các bộ phận phục vụ cũng vậy. Gác đêm lại
đúng như thời gian đầu.
Ca gác 6 tiếng thật dài. Ngồi thu lu một mình giữa trời
đêm, muỗi đốt. Khổ nhất là muỗi, đuổi mạnh thì không được, sợ lộ. Lấy khăn mặt
khua nhè nhè mãi rồi cũng mỏi tay. Mà nó cũng chẳng bay đi. Nó như vào hùa với
bọn Pot, bu bám gan lỳ để hút máu người gác. Anh em ngồi gác, thì phải căng
tai, căng mắt ra, nghe, nhìn. Cúi sát xuống đất, mà nhìn ngược lên. Để phát
hiện ra bóng người trên nền trời mờ mờ. Hoặc các tiếng động lạ. Và phải chống
chọi ngay chính cơn buồn ngủ của mình. Muốn căng mắt ra, mà nhiều lúc mắt cứ
nhắm lại, gật đầu xuống rồi lại choàng thức dậy. Gác đêm thường căn cứ thời
gian là vị trí di chuyển của thiên nhiên, vị trí của các chòm sao v.v... Nhưng
nhìn mãi, mà cũng không thấy nó di chuyển. Cứ như là trái đất này ngừng quay
vậy.
Rồi nghĩ đủ thứ, nhớ đủ thứ, thèm đủ thứ, từ gia đình,
quê hương, bố mẹ, anh em, người yêu. Cho đến con gà, con chó. Cứ như là những
thước phim toàn cảnh, của đời mình hiện ra quay chậm vậy. Nghĩ mãi, tưởng nhớ
mãi rồi lại bắt đầu than thân trách phận, đời mình sao hẩm hiu đen bạc. Rồi tự
hỏi sao lại là mình, là chính mình mà không phải là những ai khác. Biết bao vạn
người , triệu người đang sung sướng. Đang ngủ ngon say, mà mình thì lầm lũi khổ
mãi thế này. Thật bất công, vô lý v.v......
Công việc quản lý ở đại đội của tôi, cũng không có gì
đáng nói. Vì đêm cũng phải canh gác như anh em. Còn ngày thì vẫn phải lo “cơm
dẻo canh ngọt” cho bộ đội. Về khẩu phần ăn của bộ đội, thì từ khi tôi làm quản
lý BCH Đại đội cũng yên lòng. Đ/c Nông CVT cũng thường hay động viên, về cố gắng
của bộ phận của hậu cần. Đ/c Phô Đại trưởng thì là bạn học cơ khí với tôi từ
những năm 68. Rồi ra trường về làm việc ở các Công ty khác nhau. Nhưng rồi lại
cũng đi bộ đội 1 đợt. Cùng 1 Tiểu đoàn, khác Đại đội. Nhưng cũng cùng là Tiểu
đội phó tiểu đội cối 60. Tôi c3 đ/c Phô C1. đ/c Phô hơn tôi 2 tuổi. Tính tình
chất phát, tuổi Dần cầm tinh con Hổ, nên trong sinh hoạt , chỉ huy chiến đấu,
rất mạnh mẽ, dũng cảm và dũng mãnh. Cấp trên chọn thay đ/c Trụ làm Đại trưởng
đại đội 3 thật hợp lý.
Bạn bè xưa cũ, nay đ/c Phô làm chỉ huy Đại đội, tôi làm
quản lý. Nhưng trong sinh hoạt cũng không vì thế mà nể nang nhau. Hay làm cho
nhau khó xử về vấn đề gì. Đ/c Phô thường xuống, hoặc mời tôi lên BCH chuyện
trò, ôn lại những kỉ niệm ngày xưa, hay kỷ niệm quê hương v.v ...
Trong thời gian làm quản lý Đại đội , cùng chẳng có gì
đáng nói. Vì nói gì đi nữa, thì quản lý Đại đội, hay anh nuôi có những vất vả
riêng. Nhưng so với lính chiến thực thụ, thì cũng vẫn không vất vả bằng. Tôi
vẫn đôn đốc tiểu đội nuôi quân, làm tốt công việc phục vụ đơn vị.
Song, có một lần chính cái công việc tưởng chừng rất đơn
giản này. Đã gây nên một việc mất đoàn kết, giữa tôi và anh Thịnh ở Trung đội
1. Cho đến bây giờ tôi vẫn nhớ mãi, cái lần va chạm gây mất đoàn kết đó. Chuyện
là như thế này:
Anh Thịnh là Tiểu đội phó, của Tiểu đội 2, Trung đội 1.
Là lớp lính tháng 10/74 quê ở Nghệ Tĩnh. Anh Thịnh đã có vợ, có con. Ngang tuổi
với tôi. Trước khi đi bộ đội, là công nhân một
nông trường ở Nghệ Tĩnh. Anh Thịnh người thấp hơn tôi, nhưng to đậm hơn.
Thường hay để cái chòm râu dưới cằm, trông như chòm râu của con dê cụ, nhưng
ngắn hơn nhiều, trông ngộ ngộ rất quậy. Bình thường, anh em chuyện trò với nhau
rất vui, rất tôn trọng nhau. Vì trong Đại đội, ngoài anh Nông, anh Phô là cán
bộ Đại đội ra, thì chỉ còn tôi và anh Thịnh là cao tuổi nhất.
Sau ngày đổi tiền được 2 ngày. Lúc đó khoảng 8h sáng. Ai
cũng mệt nhọc, vì sau một đêm dài phải canh gác căng thẳng. Tôi bê cái hòm đạn
B40, đựng giấy tờ sổ sách ra, làm sổ trả phụ cấp cho anh em. Làm xong thủ tục
thanh toán cho Trung đội 1. Đang chuẩn bị thanh toán cho Trung đội 2, thì anh
Thịnh tay xách khẩu AK báng gỗ. Hộp tiếp đạn có 2 băng buột tráo đầu đuôi, cùng
mấy anh em nữa chạy lên chỗ tôi. Cách tôi khoảng hơn chục mét đã chửi mắng tôi
tới tấp: Nào là mày là thằng đểu, mày trừ tiền của tao, mày ăn tiền của tao
v.v...
Qúa bất ngờ. Mọi người đang đứng đợi để thanh toán cũng
không hiểu có chuyện gì. Tôi rất bực, nhưng kiềm chế nói: Có gì đấy anh Thịnh ?
Sao anh lại chửi tôi ? Tôi làm gì anh ? Trừ tiền của anh ? Lấy tiền của anh là
thế nào ? Anh bình tĩnh nói xem, chứ không được chửi tôi như vậy. Nhất là lại
động đến gia đình tôi.
Anh Thịnh nói: tại sao mày trừ của tao 8đ. Tôi nhớ lại
ngay việc trừ tiền và nói: 8đ này là trên Tiểu đoàn báo và bắn nợ về. Có phải
hôm ở Hà Tiên, Tiểu đoàn giết lợn, anh với 2 đồng hương ốm ở nhà, nhượng lòng
lợn của Tiểu đoàn ăn đúng không ? Anh Thịnh nói đúng rồi tao có ăn. Nhưng 3
thằng ăn sao mày lại trừ có một mình tao ? Tôi nói: anh là người đứng tên mua
lòng lợn đúng không ? Anh Thịnh nói đúng. Tôi nói: vậy thì quân nhu Tiểu đoàn
chỉ biết trừ vào tiền của anh, chứ làm sao trừ được 2 người kia mà 2 người kia
là ai ? Anh Thịnh nói nó ở c4 nhưng bỏ về rồi. Tôi nói vậy bạn đồng hương với
anh. Anh đứng tên mua, anh phải chịu chứ còn kêu nỗi gì ? Mà anh còn chửi tôi ?
Anh Thịnh vẫn không hiểu, mà vẫn còn tiếp tục: Mày trừ của tao là tao cứ chửi
đấy, mày làm gì được ?
Tôi nói : tôi không chấp với anh nữa. Nhưng anh không
được phép chửi tôi. Càng không được đụng đến gia đình tôi. Ở đây, chỉ có 2 anh
em là cao tuổi. Anh làm thế, mọi người cười cho. Anh Thịnh đuối lý, nhưng vẫn
làm già. Tao cứ chửi đấy mày giám trừ tiền tao à ? Lúc này tôi rất bực tức,
cũng không kiềm chế được nữa nói: ông vừa chửi ai đấy. Anh Thịnh nói: tao chửi
mày đấy, tao sợ gì mày. Và đưa súng cho một anh bên cạnh, rồi xấn xổ áp sát gần
tôi. Tôi lùi lại 2 bước và nói: ông đứng lại, ông mà chỉ tay nữa là tôi không
để yên đâu. Anh Thịnh chắc thấy xung quanh toàn đồng hương, nên lại càng làm
già. Mồm nói: tao cho mày một quả, cho biết mặt và vung tay tấn công về phía
tôi.
Bực tức đến uất ức. Tôi bèn né người tránh, đưa tay trái
lên đỡ. Bước chân phải lên sau Thịnh kéo ngược lại. Dùng tay phải đẩy mạnh vào
ngực Thịnh. Đúng là một miếng đánh hoàn hảo, mà mấy năm huấn luyện tập mãi.
Không ngờ hôm nay, lại áp dụng với đồng đội mình. Có điều là tôi đẩy ngã Thịnh,
chứ không đánh ngã. Nhưng Thịnh cũng bị lộn ngã uỵch xuống. Nếu là thù, là đối
kháng thực sự thì đòn đánh này làm đối phương gẫy tay, vỡ quai hàm rồi. Bất ngờ
trước đòn phản của tôi. Anh Thịnh lồm cồm dậy. Lại định lao vào tôi. Lúc này
tôi xuống tấn, gằn giọng nói: Đứng im. Mày mà lao vào lần này tao cho miếng
“quật bò”, 7 ngày nữa mày vỡ bao tử chết. Riêng miếng “quật bò” này, là tôi
nghe kể. Nhưng không hiểu sao lại ứng xử, bốc khoát võ mồn ngay được như vậy.
Chứ tôi có được học miếng đánh này bao giờ đâu. Nhưng không ngờ, câu dọa của
tôi có tác dụng. Anh Thịnh không nói, không rằng, bỏ đi luôn.
Chuyện là như vậy, nhưng nó cũng là kỷ niệm, không đẹp,
không vui, buồn buồn, thời làm quản lý trong quân ngũ của tôi ở miền BGTN này.
Ngày 22/5 Trung đoàn 273 bàn giao lại chốt ở khu vực rừng
Sở cho F9. Phương thức bàn giao chốt là bàn giao điạ bàn từng Đại đội . Rồi
chuyển quân về tiếp nhận những vị trí của Sư đoàn 9. Tại địa bàn mới, các đơn
vị nhanh chóng củng cố hầm hào. Phản kích địch, chiếm lại những vị trí có lợi
cho phòng ngự. Phá thế bu bám của Pốt.
Địa hình ở vùng này có những phức tạp, bất lợi cho ta. Vì
tất cả các vận chuyển tiếp tế súng đạn hậu cần v.v.. đều phải qua phà bến Sỏi
sông Vàm Cỏ. Sông không rộng lắm, nhưng vẫn không có cầu. Vượt qua sông khoảng
2km, là khu vực Búa Lớn. Dân cư ở đây thưa thớt. Phía bên phải đương là khu vực
rừng Hòa Hội, rừng cây bám sát trục đường 24 (?) của ta. Nối sang bên K là trục
đường 13 của Pot. Khu rừng Hòa Hội rộng
lớn, lấn cả sang đất K. Các đơn vị chốt giữ ở phía Nam ngã tư Nhà Thương. Giáp
gần Chóp Sư đoàn 7 chốt giữ tới rừng Hòa Hội.
Việc tiếp tế, chủ yếu bằng con đường độc đạo. Là đường
13. Lúc này đã nhão nhoét, anh em công binh phải chặt hàng ngàn, hàng vạn cây
gỗ tròn bằng bắp chân, bắp đùi. Để rải ngang, lót đường cho xe ôtô đi qua. Các
hậu cứ của Trung đoàn, Tiểu đoàn, các Đại đội đều dựng lều trại ở Búa Lớn. Hàng
ngày anh em tiếp phẩm phải về khu vực này, hoặc bên kia bến phà, khu vực chợ
Long Xuyên mua thực phẩm cho bộ đội. Việc đi lại về phía sau hay sang chốt.
Thường là đi nhờ các loại xe ô tô, chở vũ khí súng đạn sang. Mỗi lần đi xe là
một lần nhớ đời. Vì xe chạy nhích từng tý một, để vượt qua chỗ “batile” trơn
trượt, hay những ổ voi, ổ gà đầy nước, đầy bùn. Mọi người đều phải đứng, bám
vào thành xe, nhún nhẩy theo từng nhịp xóc của xe. Chứ không ai ngồi được trừ
lái xe. Nhìn anh em lái xe cũng thật vất vả. Xóc nhiều, làm anh em ngồi không
vững. Nghiêng sang phải , nghiêng sang trái, hoặc xóc nhẩy lên đầu đập cẩ lên
trần cabin. Hai tay vẫn phải cầm chắc vô
lăng, để điều khiển con “ngựa bất kham”. Đúng ra là: “con đường bất kham
này”.
Khi Tiểu đoàn, Đại đội đã tổ chức chốt giữ vững trãi. Bọn
Pốt không bu bám nhiều như trước nữa. Tôi vẫn làm quản lý của Đại đội. Vẫn tổ
chức cơm nước cho anh em trong đơn vị chu toàn.
Chốt giữ ở đây khoàng 10 ngày. Một buổi sáng, vừa tổ chức
mang cơm cho các chốt xong. Thì đ/c liên lạc xuống báo lên hội ý gấp. Tôi lên
gặp BCH đại đội. Anh Nông, anh Phô đã pha trà ngồi đợi tôi. Sau tuần nước, anh
Nông nói: bây giờ ông lên gặp BCH Tiểu đoàn để nhận nhiệm vụ. Hơi bất ngờ, vì
có việc gì mà đột xuất vậy ? Chẳng nhẽ tôi được ra quân ? Trong Quân đội, nhất
là các đơn vị chiến đấu. Thì việc gì cũng bí mật, việc ra quân, hay đi học,
thuyên chuyển đơn vị, hay được về phép cũng thế. Tôi đoán là Tiểu đoàn sẽ cử
tôi đi học gì đó, hoặc được ra quân vì việc ra quân giải ngũ của tôi, BCH Tiểu
đoàn gần như đã cam kết với tôi, là nếu có đợt ra quân sớm nhất là sẽ giải
quyết cho tôi.
Tôi lên BCH Tiểu đoàn. Anh Chính dv trưởng vui vẻ bắt tay
tôi nói. Mời ông ngồi đây, đợi ông Thảo C1 lên nữa, rồi ta trao đổi cụ thể. Tôi
hỏi thăm dò: Anh Thảo nào ? Anh Chỉnh nói Thảo cũng ở cối 60 như ông đấy. Anh
Thảo ở Đại đội 1, hơn tôi mấy tuổi, gốc người Huế. Gia đình có bà nội và bố đẻ
đều tham gia cách mạng chức vụ rất lớn. Bố đẻ anh Thảo hy sinh khi đất nước gần
ngày giải phóng. Anh Thảo vẫn thường chơi bóng bàn với tôi. Là học sinh miền
Nam, con em cán bộ ra học ở Quảng Ninh, (hiện nay đã nghỉ hưu sống tại Huế).
Vừa lúc đó thì anh Thảo cũng tới. Anh Chính rót nước mời
2 anh em rồi nói luôn. Tình hình chính trị hiện tại có nhiều vấn đề thay đổi.
Cuộc chiến tranh này còn kéo dài, chứ không đơn thuần là mẫu thuấn cục bộ Biên
giới nữa. Mà nó đã manh nha xuất hiện chủ nghĩa bành trướng bá quyền. Mà bọn
Pốt này chỉ là con tốt. Là tay sai của nó thôi. Lấy cớ đòi đất, để chọc phá
nước ta, chúng vẫn rêu rao là các tỉnh miền Nam là đất K v.v.. Anh Chính nói
một thôi một hồi rồi kết luận. Chính vì vậy nên hôm nay mời các ông lên đây để
nhận nhiệm vụ. Tiểu đoàn nói sơ bộ vậy thôi, anh em mình cùng lứa (ý nói cùng
ngày nhập ngũ) nên các ông còn hiểu hơn tôi. Các ông lẽ ra bây giờ, cũng phải
đảm nhiệm trọng trách như tôi. Nhưng do sự nhầm lẫn, không may nên hiện tại các
anh vẫn như vậy. Nhưng giai đoạn này, các anh đều biết là số lượng Đảng viên của các Chi bộ, Đảng bộ, đã
cạn kiệt. Lớp anh em 77 - 78 thì chưa có KN chiến đấu nhiều vv…Tôi chỉ gợi ý
như vậy, còn bây giờ 2 ông uống nước xong, rồi mời các ông lên BCT Trung đoàn, làm việc với phó Chính ủy
Tiến.
Từ đây về Trung đoàn cũng xa, địa hình mới, mỗi ông mang
thêm một khẩu AK, cho yên tâm. Rồi gọi liên lạc mang ra 2 khẩu AK, mỗi người
thêm 2 hộp tiếp đạn đã đầy đạn. Anh Thảo nói tôi có cái này rồi, và lôi ra khẩu
K54 mới coong nói: hôm trước tôi thu được chiến lợi phẩm nhưng không nộp. Anh
Chính nói : ông cũng cứ mang theo AK cho chắc. Hai anh em chào DVTr Chính rồi
về Trung đoàn bộ. Từ chốt Đại đội về Tiểu đoàn rồi từ Tiểu đoàn về Trung đoàn.
Khoảng 5km, phải đi qua những cánh đồng nước. Thấy nói nhiều nơi anh em Sư đoàn
9 còn cài mìn. Đi khoảng 2km ở đây thật vắng vẻ. Mới thấy là chốt của mình hiện
giờ cũng chỉ cứng “ở vỏ ngoài”. Còn nếu Pốt ủi qua được vào trong thì cũng rất
bất lợi. Các đơn vị hiện tại chỉ còn 1/3 số quân ngày đầu đi Biên giới. Đơn vị
đã được bổ xung mấy đợt quân mà cũng không thấm vào đâu. Các đ/v kỹ thuật cao
như phòng không, tên lửa, cũng đã phải tỉa quân điều động cho các đơn vị Bộ
binh.
Anh Thảo nói: dừng lại tập bắn súng K54 đã Phú à. Và
khoanh 1 điểm ở cây thốt nốt rồi lùi lại khoảng 20m cứ thế là tập bắn. Anh Thảo
là người rất thích súng đạn, ở đâu cũng hay đi đánh cá hoặc săn bắn cải thiện
cho Tiểu đội. Hồi ở huấn luyện, Tôi hay sang chơi với anh Phô (Đại trưởng đại
đội của tôi bây giờ). Lần nào cũng được chiêu đãi, bằng các loại thực phẩm,
tăng gia được do chính anh Thảo đạo diễn. Khi thịt mèo, khi thì ếch nhái vv…
BCT Trung đoàn, nơi làm việc dưới gầm của 1 căn nhà sàn
có hầm bán âm. Đ/c phó chính ủy Nguyễn Kim Tiến đang làm việc với các trợ lý,
thấy ae tôi đến dừng lại việc hội ý. Mời chúng tôi vào và nói luôn. Ông Phú,
ông Thảo ngồi xuống đây. Sau một hồi vòng vo hỏi chuyện về tình hình đ/v. Chúng
tôi b/c sơ qua về tình hình dưới đại đội. Đ/c Tiến nghe xong nói ngay, (như là
hỏi chúng tôi chỉ là cho có chuyện). Tình hình đất nước đang rất gay go, sau
chiến tranh lẽ ra chúng ta được về với gia đình vợ con vv…Nhưng rồi ….(.Một lô
các nhưng rồi). Đảng bây giờ yêu cầu các
đ/c phải phục vụ quân đội lâu dài. Không thể có chuyện Đảng viên bây giờ ra
quân hay chuyển ngành được. Trong những ngày qua, tôi biết các ông có những
thiệt thòi.Có thể là sai sót của tổ chức. Nhưng các ông, các đ/c đã rất xứng
đáng là người Đảng viên ưu tú của Đảng vv…
Phó chính ủy nói thao thao 1 lúc rồi kết luận: 2 ông về 2
Đại đội. Ông Phú về làm phó chính trị C1, ông Thảo c3. Các ông vui vẻ mà làm.
Đừng có lý do lý trấu gì nữa. Ông Tiến cũng chẳng hỏi chúng tôi có đồng ý ko
nữa. Mà gọi đ/c trợ lý cán bộ ra đưa luôn quyết định giao cho chúng tôi. Cũng
ko bất ngờ. Nhưng cũng rất miễn cưỡng, 2 ae phải nhận qđ và về lại Tiểu đoàn.
Sau cái bắt tay hờ hững rất riêng, của phó chính ủy Trung đoàn mà ae thường gọi
là “chị Tiến”.
Hai anh em trở lại Tiểu đoàn, đưa 2 quyết định cho đ/c
Chính. Đ/c Chỉnh CV trưởng sôi nổi nói: Các ông cứ giữ lấy. Đấy là qđ chức vụ
còn QĐ quân hàm mấy ngày nữa mới về. Các anh về đại đội, tổ chức liên hoan chia
tay. Rồi có gì phải bàn giao. Ngày mai về Tiểu đoàn họp, rồi trở về đơn vị mới luôn. Tôi rất vui và xin chúc mừng hai anh.
Thoáng trong đầu tôi nghĩ: ông vui là đúng rồi, vì vận
động chúng tôi phát triển mãi không được. Bây giờ trước sức ép nhiều mặt, chúng
tôi miễn cưỡng phải nhận chức vụ này. Bước đường “tiến thoái, lưỡng lang” chứ
vui thú gì đâu mà chúc mừng ?
Tôi về Đại đội, mọi người đã biết việc tôi không làm quản
lý nữa, mà sang làm cvf c.trị C1. Anh Phô, anh Nông pha nước mời tôi và lại
cũng vui vẻ chúc mừng, rồi nói luôn về công việc. Bàn giao ngay sổ sách tài
chính cho anh Thanh đảm nhiệm. Mời tôi
tối lên ăn cơm liên hoan cùng BCH đại đội.
Ngày hôm sau, tôi cùng BCH Đại đội về Tiểu đoàn họp. Nghe
phổ biến tình hình tác chiến. Tình hình địch, ta, và đặc biệt có nói đến tình
hình Campuchia hiện tại. Chế độ Pốt Pốt IeengXaRi là con bài của Bắc Kinh. Là
chế độ diệt chủng của chủ nghĩa bá quyền. Nhưng rất vui là tại đất nước này, đã
có nhiều lực lượng nổi dậy, phản chiến đảo ngũ chạy sang ta, yêu cầu chúng ta
giúp đỡ họ.
Với tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình” . Theo yêu cầu
phối hợp, sự thỏa thuận của bạn, trên chiến
trường BGTN này chúng ta được lệnh: “Mở rộng địa bàn, mở rộng hành lang,
tạo điều kiện liên kết các lực lượng nổi dậy ở nhiều nơi. Việc nâng đỡ các lực
lượng này, liên kết để họ nhanh chóng lớn mạnh là vô cùng cấp bách. Giúp các
lực lượng CM chân chính phát triển”.
Qua học tập, nắm tình hình, mọi người ai cũng thấy thoải
mái, nhẹ nhõm. Vì chúng ta đã có hướng, có lối thoát khỏi sự lúng túng về cuộc
chiến tranh này. Vì từ đây, chúng ta có mục tiêu chiến đấu, bảo vệ đất nước và
còn có sứ mạng quan trọng là giúp đỡ CM chân chính Campuchia mới được phôi
thai. Còn trong trứng nước. Và ta thoát được thế bất lợi cho chúng ta, về dư
luận quốc tế đỡ bị mang tiếng là chúng ta là “lấn chiếm” k nữa.
Vì vậy, nhiệm vụ của toàn Sư đoàn là phải phát triển địa
bàn. Mục tiêu là tấn công, tiêu diệt địch. Với diện sâu khoảng 25- 30 km.
Kết thúc hội nghị, đ/c Chính giới thiệu và điều tôi về
c1, đ/c Thảo về c3 như trong quyết định. Như vậy từ ngày thành lập đến nay, trừ
Đại đội 4 hỏa lực. Tôi đã được điều động về khắp các đơn vị trong Tiểu đoàn.
Sau hội nghị. Tôi về luôn đại đội 1. Tiểu đoàn 1, Trung
đoàn 1, Sư đoàn 1 (Sư đoàn 341 cũng
thường gọi là Sư đoàn 1). Như vậy 1 đ/v có 4 số 1 Tứ quý đây. Không biết
may rủi thế nào đậy. Với cương vị mới, một cương vị mà lẽ ra năm 74 tôi đã ở vị
trí này, cương vị này. Thoáng nghĩ đi như vậy rồi lại nghĩ lại. Đời binh nghiệp
chưa biết thế nào là may, là rủi cả …có lẽ phải đợi hết chiến tranh mới biết
được may rủi thế nào ? Không có thời gian nghĩ ngẫm nhiều nữa. Mọi người lại
chuẩn bị cho một trận tấn công luồn sâu mới. Với biết bao sự bận rộn trước trận
đánh, mà những người lính người cán bộ phải nắm bắt, phải chuẩn bị.
Ban chỉ huy đại đội 1 như vậy cả tôi nữa là đủ 4 người.
Đại đội trưởng, là anh Nguyễn Minh Đạc Trung úy quê Đông Triều, Quảng Ninh cũng
lính 5/72 với tôi. (nay đại tá nghỉ hưu ở quê) Đại đội phó là anh Phạm Văn
Trọng, Thiếu úy, lớp lính 71 quê ở Hà Bắc. Anh em hay gọi là “Trọng điếc” vì
anh là thương binh, bị nặng tai lúc nghe rõ lúc không. (từ năm 80 đến nay tôi
không gặp lại được nữa). CV trưởng là anh Nguyễn Tiến Công Trung úy, hơn tôi
một tuổi, là lớp lính 71. Ở đại đội thông tin sau lên ban tổ chức chính trị E.
Cũng mới chuyển về được 2 tháng. (Anh Công hy sinh trận 18/7 tại khu vực SenKe
không lấy được thi hài. Trận đánh ác liệt này TP xin kể sau). Và tôi CVphó,
liên lạc đại đội có 2 đồng chí. đ/c Hiệp lính 78 quê Vĩnh Phúc, đ/c Mai lính 77
quê Thanh Hóa. Ytá đại đội có 2 đ/c.
Lúc này, đơn vị đã được bổ xung. Quân số của đại đội là
65 anh em. Việc nắm tư tưởng, động viên tinh thần chiến đấu, giáo dục ý thức,
kỷ luật v.v.. những việc này với tôi cũng không có gì mới lạ. Tôi nhanh chóng
hòa nhịp vào công việc của đơn vị. Thường xuyên xuống các chốt của các Trung
đội, chuyện trò, nắm tình hình và để gần gũi tình cảm ae tạo điều kiện thuận
lợi cho chỉ huy.
BCH đại đội 1 với tôi, anh em cũng đã biết nhau từ trước
nên cũng không có gì phải tìm hiểu nhiều. Bộ 4 chỉ huy như vậy là rất vui, rất hợp đều là "trai
tân" cả. Nên sự vấn vương quê nhà cũng giống nhau. Hay kể những chuyện về
cuộc sống, yêu đương, hay tìm hiểu về phái nữ vv…
Về đại đội 1 được mấy ngày, đơn vị chuẩn bị đi chiến đấu.
Theo phương án toàn Trung đoàn luồn sâu vào đất K, Lần luồn sâu này ko phải chỉ
có các đ/v chiến đấu mà gần như là tất cả Trung đoàn. Các cơ quan tham mưu,
chính trị, Hậu cần, quân y đều phải đi luồn sâu cùng Trung đoàn. Quãng đường
luồn sâu là khoảng 20km. Phải qua nhiều làng xóm, các vị trí chốt giữ của Pot.
Địa hình bằng phắng, ruộng nước là chính, nên việc luồn lách là rất phức tạp.
Rồi chốt giữ, đánh tiêu diệt địch trong phạm vi này. Xây dựng tuyến phong ngự
mới. Mở rộng địa bàn như đã nói ở trên. Theo thông báo của trinh sát. Khu vực
tác chiến luồn sâu có rất đông lực lượng của Pot. Có cả đơn vị thiết giáp của
Pot nữa. Các đ/v phải chuẩn bị chiến đấu thật kỹ càng. Vì càng vào sâu đất
địch, thì khó khăn phức tạp cho ta càng lớn. Tiểu đoàn 3 đi đầu đội hình, sẵn
sàng tiêu diệt TTG của Pot. Mọi chuẩn bị đã hoàn tất . Giờ xuất phát cho trận
đánh là 7h tối ngày 14/6/78. Phấn đấu tới M và giờ G là 5h sáng ngày 15/6/78.
Khoảng 2h chiều ngày 14/5. Thật bất ngờ, khi đ/c liên lạc
Tiểu đoàn, dẫn Má Mỹ đến. Cảm động, thật cảm động khi Má Mỹ ở Thường Thới Tiền,
Hồng Ngự, Đồng Tháp. Cùng 2 Má nữa, lặn lội gần 500km về Sài Gòn. Rồi lên Tây Ninh, rồi thuyết phục thế nào, mà
các đơn vị ở cửa khẩu đồng ý cho các má sang tận chốt bên đất K. Thăm các anh
em, khi trước đã ở nhà các má. Gặp má thật mừng, má ôm tôi khóc, nói là nhớ các
con đến độ không chịu được. Nên rủ nhau đi tìm đơn vị của tôi. Má vừa khóc vừa
kể là: lên xã xin cái giấy đi đường mà “chúng nó” không cho. (ý nói là cán bộ
xã). Không cho các má vẫn cứ đi.
Thật tuyệt vời cho má Mỹ và các bà Má miền Nam. Những
ngày tháng, mà chúng tôi chiến đấu bảo vệ Biên giới, bảo vệ nhân dân ở Hồng
Ngự. Sư đoàn và trực tiếp là chúng tôi. Những người lính chiến xa nhà. Được sự
chăm sóc rất tận tình, của bà con và nhân dân nơi đây. Coi chúng tôi như những
người thân yêu ruột thịt của mình. Sự dũng cảm chiến đấu, hy sinh của những
người lính, người con “xứ Bắc”. Đã để lại cho nhân dân, những tình cảm sâu đậm,
thiêng liêng hơn cả tình quân dân cả nước.
Tôi cũng không thể ngờ được rằng, mình lại được nhận
những tình cảm của Má của bà con Đồng Tháp, giành cho mình lại lớn lao sâu đậm
như vậy.
Má mang quà cho chúng tôi đủ thứ. Nào là thuốc rê, đôi
gà. Cả một đùi thịt chó nữa. Các Má kể mua ở Chợ Lớn Sài Gòn xách đi. Các Má
biết lính Bắc, ưa món thịt chó. Chỉ có điều là không có xị đế. Má nói là: tao
có mang cho chúng bay mấy xị đế rồi. Thằng Hai nó nấu, mà ở cửa khẩu chúng nó giữ
lại ráo chọi. Nói là ko được mang rượu cho bộ đội ở chốt. Tôi cười nói: chúng
con không được uống rượu đâu, Má đừng buồn.
Thực lòng , gà , thuốc rê thì quá quý rồi. Còn món thịt
chó thì ai cũng sợ. Vì lý do tối nay chuẩn bị đi luồn sâu, chiến đấu. Mà trước
khi đi chiến đấu, chén thịt chó là hay “đen lắm”.
Khi ở Hồng Ngự, cũng ở Đại đội 3. Biết lính ta thích ăn
thịt chó, một Má đi mua hẳn một con chó về cho lính ta ăn. Trong số cùng ăn có
cả đ/c San đại đội phó nữa. Ngay đêm đó, anh em cũng phải đi tác chiến, đánh
địch ở khu vực đồn Mỹ Cân. Thì Trung đội này, bị hy sinh, bị thương 6 anh em.
Đ/c San cũng hy sinh. Nên anh em rất sợ sài thịt chó trước khi ra trận. Việc xử
lý cái đùi chó này, là cả một vấn đề. Làm sao để Má không biết cái suy nghĩ
kiêng “đen” ấy. Mà ngay anh em cũng không phải nghĩ ngợi, áy náy gì trước khi
ra trận.
Tôi bèn nói đ/c Đấu, anh nuôi trưởng. Cứ mang chế biến,
đun nấu bình thường cho Má biết. Giết gà cho mọi người ăn. Khi ăn cơm cùng Má
thì chỉ có món gà rang. Còn thịt chó để mâm ngoài, rồi bí mật đổ đi. Như vậy
là vẹn cả đôi đường.
Hai má con truyện trò mãi. Má kể đủ thứ chuyện ở quê từ
khi đơn vị chúng tôi đi. Khi biết là đơn vị xuống chiến đấu ở Hà Tiên, bị hy
sinh nhiều. má cứ khóc nức nở. Nắm chặt tay tôi như là người Mẹ, nắm chặt tay
đứa con ruột của mình. không muốn rời xa.
Thật buồn, khi má vừa đến, thì đơn vị lại phải đi tác
chiến. 2 Má con gặp nhau có mấy tiếng. Tôi dẫn má lên chỗ cứ của Tiểu đoàn.
Chia tay các Má và quay về Đại đội, làm công tác đôn đốc cho trận luồn sâu chiến
đấu đêm nay.
Các má ở lại, còn đơn vị đến giờ xuất quân. Tiếp tục luồn
sâu, phát triển đánh địch. Thế rồi 17 năm sau tôi mới gặp lại má. Mới được nghe Má kể chuyện khi chúng tôi đi.
Các má ở lại, ngủ hầm với đơn vị 2 ngày. Để theo dõi trận đánh và xem tôi,
chúng tôi, sống chết thế nào. Rồi mới
trở lại quê nhà.
Đúng 7h tối, Trung đoàn xuất phát. Trinh sát của Trung
đoàn đi trước. Trực tiếp chủ nhiệm trinh sát Sư đoàn đ/c Tô Ngọc Roan cùng đi
với lực lượng này. Tiếp đến vẫn là Tiểu đoàn 3. Đại đội 9 dẫn đầu. Rồi đến Tiểu
đoàn 1. Tiếp đến các đơn vị trực thuộc, các cơ quan Tham mưu, Chính trị, Hậu
cần. BCH Trung đoàn rồi đến Tiểu đoạn 2 đi cuối khóa đuôi.
Chưa bao giờ đội hình luồn sâu, phát triển vào đất địch đông đủ đội hình
như lần này. Những lần trước, thì chỉ toàn lính chiến. Còn các đơn vị phục vụ
như quân y, hay các cơ quan của Trung đoàn ở phía sau. Khi thế trận đã ổn định,
thì các lực lượng sau mới phát triển sang. Còn lần này thì khác. Anh em luồn
sâu đánh địch với khí thế mới. Vì qua học tập, ai cũng nghĩ là lần này luồn sâu
đánh địch, là gặp ngay các lực lượng nổi dậy của bạn. Nên trong mỗi người lính,
có thêm cái cảm giác tưng bừng hơn, sôi
nổi và lạc quan hơn. (giống như BinhYen
nói lính ta cũng rất hay cả tin vào sự lên dây cót, tuyên truyền của cấp trên).
Đường hành quân lại điệp khúc lúc đi, lúc dừng. Dò dẫm
theo anh em trinh sát. Lúc qua các Phum lưa thưa vài ba nóc nhà sàn hoang vắng,
lúc đi thì theo bờ ruộng. Nhưng chủ yếu là lội nước lõm bõm là chính. Được cái
nước ở đây không sâu, ko bẩn, ko có mùi khó chịu. Không như lội sình lầy lần
luồn sâu hồi 6/12/77 ở Phước Chỉ. Tốc độ di chuyển của cả một đội hình lớn,
không thể nhanh. Mà lại phải đi vòng vèo, tránh lé các chốt của Pot, bẻ góc
phương vị để hướng tới các mục tiêu.
Thỉnh thoảng ỏ các rìa Phum, gặp các chốt lẻ của Pốt.
Chúng thấy động bắn vài loạt đạn vu vơ. Đạn đỏ bay vụt lên trời xé tan sự tĩnh
lặng của đêm đen. Có nhiều viên xoẹt ngang tầm người. Rồi lại im lặng 1 cách
đáng sợ. Nhưng những loạt đạn đó, cũng làm cho đội hình hành quân không ổn
định. Mọi người dạt sang phải, dạt sang trái, hay ẩn nấp vào các bờ bụi. Hoặc
theo phản xạ nằm nhanh xuống. Nhưng chạm nước thì lại bật lên. Lom khom chịu
trận.
Quãng đường tiền nhập cũng đã được dài. Mọi người cũng đã
thấm mệt. Cái háo hức đi bắt gặp lực lượng nổi dậy ko con nữa. Vì mọi người
cũng đã vỡ ra sự vô lý. Là ko thế có lực lượng nổi dậy nào ở ngay giữa đội hình
của Pot thế này được. Mà hiện tại cũng vãn chỉ là trận luồn sâu đánh địch, mở
rộng địa bàn tác chiến thôi.
Khoảng 2h sáng. Bất ngờ pằng - pằng - pằng. Pằng - pằng -
pằng. Các loại súng của Pốt nổ dồn dập. Rồi ùng - oàng tiếng nổ của B41 Nhóm
trinh sát đi đầu bị lộ bọn Pot canh gác đã bắn trúng đội hình đi đầu. Một đồng
chí hy sinh, 2 đ/c bị thương. Đ/c Roan
chủ nhiệm trinh sát Trung đoàn cũng bị thương nặng. Anh em nhanh chóng khênh ra
đúng hơn là vác 2 đ/c lùi lại sau. Ta vẫn ko được lệnh nổ súng. Đội hình hành
quân xáo trộn hỗn loạn. Các loại súng của Pốt vẫn nhả đạn. Bắt đầu nhiều tiếng
ùng- oàng của B40- B41 bắn vào đội hình của hành quân tiền nhập của Trung đoàn.
Có những tiếng bước chân chạy trong đêm. Có lẽ là lính Pốt đã phát hiện ra cuộc
hành quân lực lượng lớn của ta. Nên tháo chạy. Những đơn vị chốt của Pốt, mình
đã đi qua, bây giờ cũng bắt đầu chạy ngược trở lại. Gặp quân ta chúng bắn loạn
xạ , để mở đường chạy là chính.
Quân ta vẫn nằm im hoặc ẩn nấp chịu trận. Khoảng 30 phút
sau không gian lại trở lại yên tĩnh. Khi hành quân, Đại đội 1 của tôi bố trí
chỉ huy Đại đội như sau. Đ/c Trọng cùng đi
đầu với Trung đội 1, 2 đ/c cấp trưởng cùng đi với Trung đội 2. Tiếp đến
là tôi cùng 1 đ/c Mai liên lạc đi cùng Tiểu độ cối 60. Lúc bọn Pot bắn vào đội
hình thì như vậy, đội hình hành quân của các đ/v ko giữ được như lúc đầu nữa.
Mà các đ/v đã chồng chéo lẫn lộn nhau. Tôi cùng đ/c liên lạc và mấy ae nữa nấp
ở 1 bờ đất tránh đạn. Tiếng súng của Pot đã im. Lúc này trời đêm vẫn tối mờ,
nghiêng mặt nhìn lên. Xa xa, mờ mờ, vài chuc mét có bóng người tiến lại phía
tôi. Tôi thì thào nói ae có người. Bóng người tiến lại gần, cứ bước vài bước
thì lại ngồi xụp xuống quan sát. Đúng là ko biết chúng tôi đang nằm đây. Đ/c
liên lạc nói Pot rồi Chính trị viên ơi. Để em bắn. Tôi nói, cứ bình tĩnh ko
được bắn. Tôi thì thào nếu là Pot thì thằng này đi lạc, có 1 mình ta bắt sống.
Nói vậy nhưng tay tôi vẫn mở nẫy khóa súng và gióng vào bóng người di chuyển
đến. Vẫn chưa xác định được ta hay Pot. Tôi nói đ/c liên lạc tháo xẻng ra, đơi
nó đến thật gần nếu là Pot, sẵn sàng lao ra lấy xẻng đập, bắt sống chứ rất
khóat ko được bắn.
Bóng đen tiến lại gần hơn. Vẫn động tác bước nhẹ mấy
bước, rồi lại dừng. Rồi thấp người xuống, quan sát. Rồi lại bước tiếp. Bước
chân lội nước thật nhẹ, không phát ra một tiếng động nào. Quan sát kỹ, thấy
bóng đen không đội mũ. (không có súng khom người như đeo vật gì sau lưng). Quái
lạ, bộ đội mình thì phải có mũ (mũ sắt), hoặc phải có súng chứ, sao lại đi tay
không ? Mà ở hướng địch thế này.
Tôi thì thào: anh em cứ bình tĩnh, bình tĩnh. Nói vậy,
nhưng tôi cũng đã thấy hồi hộp. Nếu bắn thì đơn giản quá, còn bắt sống, thì quả
là cũng không phải dễ. Đã có “bài học” dịp trước rồi. Nhưng tên này, đi lẻ có
vẻ tóm được. Tôi thì thào: đợi thật gần. Tôi sẽ lao lên ôm chặt và đẩy ngã. Anh
em lấy xẻng đập hỗ trợ. Tôi thoáng qua phương án, thấy cũng hợp lý và đưa súng
cho đ/c Mai bên cạnh chuẩn bị tư thế lao lên.
Bóng đen vẫn đang tiến lại gần phía tôi. Vẫn không hay
biết là chúng tôi đang nấp ở đây. Còn khoảng 10m rồi 5m, Thật hồi hộp, thật
căng thẳng. Tôi như đếm từng bước đi của bóng đen. Quan sát kỹ, tôi nói bộ đội
mình rồi. Tôi cầm lại súng quát gằn giọng vùa để cho đối phương nghe. Ai ? Bóng
người như khựu xuống, tiếng lắp bắp run rẩy. Tôôi. Tôôi đây. Tôi là ai ? Tôi
gằn giọng hỏi tiếp: “Nhật đây”, bác sỹ Nhật đây.
Tôi bật lên bước tới. Trời bác sỹ Nhật. Đúng bác sỹ Nhật.
Nhìn rõ cái đầu hói bóng, không có mũ, không có súng ống gì cả. Đeo 1 cái ba lô
bẹp lép sau lưng. Tôi hỏi: sao bác sỹ đi có một mình ? Mà mũ bác sỹ đâu ? Bác
sỹ Nhật nói: nó bắn ác quá, đội hình hỗn loạn. Mạnh ai nấy tìm chỗ ẩn. Tôi núp
ở bờ bụi đằng kia. Mãi không thấy ai, nên dò dẫm đi tìm anh em. Bác sỹ Nhật đã
bình tĩnh hơn. Tôi nói: đây là đội hình Đại đội 1 rồi. Thôi bác sỹ cứ đi với
chúng em. Tôi tháo lấy cái mũ tôi đang đội, đưa cho bác sỹ nói: bác sỹ đội tạm.
Không có mũ nguy hiểm lắm. Bác sỹ Nhật nói: vậy cậu lấy gì đội. Tôi nói em
không quan trọng lắm. Sao lúc đó tôi lại pha được câu đùa là: “Tóc em dày lắm”
ý nói là bác sỹ hói không có tóc. Và đội mũ lên đầu bác sỹ Nhật. Tất cả lại
tiếp tục luồn sâu. Trong đội hình của tôi, bây giờ có thêm cả 1 bác sỹ nữa.
Bác sỹ Nhật năm 1981 được điều lên làm chủ nhiệm quân y
Sư đoàn, quê bác sỹ Nhật ở Hải Hưng. Có điều từ khi ra quân đến giờ, có nhiều
lần gặp mặt cựu chiến binh Sư đoàn 341 các tỉnh. Tôi tham dự cũng nhiều. Hỏi
thăm mãi, mà không anh em nào biết rõ, bác sỹ Nhật bây giờ ở đâu? Và cuộc sống
thế nào ?
Bắt sống xe bọc thép M113 :
Đội hình hành quân tiếp tục tiến. Vừa đi , các đ/c cán bộ
của từng Đại đội, Tiểu đoàn lại bắt đầu tìm, điều chỉnh, xốc lại đội hình của đơn vị mình.
Gần 4h sáng. Có tiếng động cơ của TTG. Tiểu đoàn 3 được
lệnh tăng tốc hành quân, vòng tránh hướng có tiếng động cơ của TTG. Với ý định
vòng, bọc bọn TTG. Các đơn vị không còn có ý thức bí mật nữa, mà vận động
nhanh. Tiếng động cơ của TTG ngày càng rõ. Chúng di chuyển về phía Bắc ngã ba
Săng Ke. Tiểu đoàn 3 đã vu hồi kịp. Nhưng cũng đã bị lộ. Gần chục xe bọc thép
M113 tiến về hướng đại đội 9. Chúng đã phát hiện có bộ đội ta phục ở đó. Chúng
bắn mấy loạt đạn, rồi bắt ngờ quặt sang trái tăng tốc chạy. Súng đại liên và
12,8 ly trên các xe, xối đạn về phía anh em đại đội 9. Một vài anh em đã phụt
B40- B41 nhưng không trúng mục tiêu. Một số anh em trúng đạn. Đại đội 9 vận
động nhanh theo xe. Trận chiến giữa đồng nước, trong đêm mờ sáng, sớm hơn dự
kiến. Đội hình xe bọc thép cũng đã rối loạn. Mạnh thằng nào thằng ấy chạy.
Chúng quay ngược súng bắn về phía ta. Nhưng chỉ là bắn uy hiếp để rút chạy đạn
đỏ tuôn xối xả nhưng vọt hết lên trời đêm.
Trung đội phó Nguyễn Thanh Bình, phát hiện 1 xe bọc thép
chỉ thấy dừng bắn, chứ không di chuyển. À thằng này liều ! Thoáng nghĩ như vậy.
Nhưng đ/c Bình thấy tiếng máy của xe gầm rất lớn. Súng 12,8ly trên xe vẫn
thùng- thùng- thùng về phía ta. Nhưng chính họng súng đang đỏ rực, phun đạn lửa
kia, lại là báo hiệu sự cố của xe. Trung đội phó Bình dẫn một tiểu đội vòng
chếch sang phải, tránh luồng đạn xối xả của khẩu 12,8ly. Ùng- oàng. Tiếng nổ long trời, òa sáng của khẩu
ĐKZ trên xe bắn về đội hình Đại đội. Hướng bên phải Trung đội phó Bình cùng mấy
ae vẫn tiền nhập gần xe. Thằng này như vậy là bị sa lầy xuống mương nước, không
lên được. Phải bắt sống. Bình ra hiệu anh em không được bắn B40. Anh nhằm thằng
12,8ly lia mấy loạt AK. Bóng thằng Pốt vật ra khẩu 12,8ly im bặt. Thằng bắn Đk
cũng đã nhẩy vào trong xe. 2- 3 cái đầu thò lên xe bắn ak tới tấp, điên cuồng
về phía anh em. Bọn này cùng đường rồi. Cả Trung đội tấn công, bắn áp đảo về
phía mục tiêu. Bọn Pốt thụt hết đầu xuống, ở trong xe tung lựu đạn ra. Lựu đạn
nổ rầm rầm quanh xe. Mảnh bay vèo vèo. Cái bọn ngoan cố này. Tiền nhập gần tơi
nơi, Trung đội phó Nguyễn Thanh Bình rút lựu đạn tung về phía xe. Lựu đạn vượt
nổ bên kia xe. Bình tung quả thứ 2 trúng xe, lựu đạn rơi được vào trong xe. Ầm
… lửa chớp lòa, khói trùm lên. Tiếng súng cũng im bặt. Tiếng động cơ của xe
cũng tắt ngấm. Anh em nhào cả tới, xác một thằng Pốt to vật vã nằm gục xuống
khẩu 12,8 ly. Khói của thuốc súng vẫn còn vẩn trong xe như những ám khí của
thần chết. Anh em bật lửa soi trong xe, một cảnh tượng hãi hùng. Gần chục xác
Pốt vắt vẻo chết trong mọi tư thế. Máu bắn đỏ lòm trong xe.
Tin Tiểu đoàn 3 tiêu diệt và bắt sống được một xe bọc
thép nhanh chóng được truyền đi. Làm khí thế cuộc cuộc chiến sôi động hơn. Các
đơn vị nhanh chóng phát triển theo kế hoạch. Nhưng như vậy là giờ G đã sớm hơn
dự kiến, kế hoạch bí mật luồn sâu đợi giờ G nổ súng đã ko thực hiện được. Các
đơn vị chuyển phương án, chủ động tấn công, đánh vỗ mặt. Chiếm các vị trí được
phân công. Tiếng súng tấn công vang dội, như đánh thức bình minh. Không gian
trời đất vỡ òa, bởi của tiếng hô xung trận và tiếng nổ của các loại đạn súng.
Lúc này đã là 4h30 sáng, ngày 15/6/78. Phía đằng đông trời đã hửng sáng.
Đại đội 1 đang tiến công về phiá Xvây Chéc. Thì được lệnh
quay lại về chốt chặn, bảo vệ xe bọc thép M113. Sẵn sàng đánh những lực lượng
lẻ của Pốt còn sót lại.
Vòng trở lại khoảng 2 km, tới vị trí xe bọc thép. Chiếc
xe kẹt giữa một mương nước, kích đầu, kích đuôi. Gần đó, những vết xích xe
khác, vượt qua mương nhưng chúng đều đi chéo. Còn thằng này chắc vội, hoảng
quá, nên vượt mương theo chiều vuông góc. Mương nước trở thành hào, vừa chiều
dài xe. Nên xe không thể lùi, mà cũng không thể tiến được. Cái kém, cái số
không may của nó, đã trở thành cái may của anh em mình. Nó là cái dấu chấm hết cho số phận chiếc xe.
Cùng những tên lính đi cùng xe. Chiến công thu được xe bọc thép này, mang một ý
nghĩa rất lớn. Vì TTG của Pốt không nhiều. Chúng cũng đã xuất kích, chiến với
ta vài trận. Nhưng đa số là ở tầm xa, rồ máy uy hiếp, hay bắn hỗ trợ cho bb.
Dọc tuyến biên giới, chúng ta chưa tiêu diệt, hay bắt sống được chiếc xe nào.
Nơi đây, giữa đồng trống mênh mông nước. Gần xe có một
vài khóm tre gai. Anh Đạc ctr, nhanh chóng bố trí các Trung đội phòng ngự theo
thế chân kiềng. Sẵn sàng đánh địch ở các hướng. Vì ở đây sâu đất K. Đội hình
lớn của Trung đoàn đã phát triển vượt lên khu vực SăngKe và XvayChec. Còn lại Đại đội 1 ở đây, cũng có thể chỉ chốt
“ngồi chơi xơi nước” giữa đồng. Nhưng cũng đã có nhiều bài học, của Đại đội 6,
Đại đội 3 rồi. Những lực lượng lớn của Pốt, bây giờ mới chạy đến. Sẽ diễn ra
những trận chiến ác liệt của bọn cùng đường tháo chạy. Nên không ai dám chủ
quan, trong việc chuẩn bị hầm hào, ụ súng chiến đấu.
Trời đã sáng hẳn. Hầm hào, ụ súng chiến đấu cũng đã xong.
BCH Đại đội ở vị trí mấy khóm tre. Tiếng súng của các đơn vị vẫn thấy nổ dồn
dập phía xa. Sau khi điểm tâm sáng. Anh em BCH Đại đội đến chỗ xe bọc thép xem
xét kỹ càng hơn. Xác thằng bắn 12,8 ly còn đó. Anh Trọng đạp xuống dưới mương.
Trên xe, khẩu DKZ thật lớn. Mới bắn được một quả. Loại DK106,7 này mình chưa
gặp bao giờ. Thảo nào, tiếng nổ đầu lòng mạnh và ầm vang thế. Ngó vào trong xe,
đúng là ngổn ngang toàn xác Pốt. Không đếm được, vì thằng nọ đè lên thằng kia,
ở nhiều tư thế khác nhau. Chắc là cả bộ binh đi kèm nên mới nhiều thế. Mùi máu
xộc lên, tanh ngòm, lợm giọng. Anh Trọng và anh Đạc đi về phía các Trung đội.
Còn tôi và anh Công vẫn trên nóc xe. Anh Công tỷ mỷ nghiên cứu khẩu DKZ, quay
về các hướng rồi nói: lắp bắn thử một quả Phú à. Tôi nói: mình không quen súng
nguy hiểm lắm. Vì nghĩ ngay đến dịp trước có một đồng chí bắn DKZ75. Bắn nhiều,
có quả không nổ, bèn tháo lắp, chỉnh lý lại. Cạo lớp thuốc khói ở khu vực Kim
Hỏa xong, tiện tay bóp cò ngay. Ầm. Quả đạn phụt đi, nhưng lỗ trích khí đằng
sau, cũng thổi bay cả cái đùi của đồng chí này. Mọi người cấp cứu ngay
nhưng.đồng chí xạ thủ này cũng ko sống được.
Anh Công cũng đã mò mẫm tháo vỏ đạn trong súng ra. Rồi mở
một ống đựng quả đạn khác. Nhìn quả đạn mới vàng ươm. Đẹp, nhưng rùng mình bởi
uy lực của đạn. Mới thấy nền công nghiệp chế tạo vũ khí quân sự của Mỹ hiện đại
thế nào ?
Tôi cũng ngại cho việc nghịch ngợm súng của anh Công nên
tránh hẳn ra. Theo dõi từng thao tác. Tôi nói: bộ đội mình cách đây khoảng 2 km
đấy. Anh để chếch súng lên hãy bắn để đạn bay thật xa. Anh Công làm theo, ghé
người vào bóp cò. Ầm... Quả đạn phụt bay nên lửa đỏ phụt ra đằng sau đúng là 1
quả tên lửa. Khói lửa của liều phóng òa ra chung quanh. Thật kinh khủng của
loại đại bác không giật này. Ngớt khói, nhìn anh Công ngơ ngơ. Tiếng nổ lớn làm
anh Công không nghe được gì nữa. Khoảng 30 phút sau mới gần trở lại bình
thường.
Gần trưa, có một nhóm Pốt khoảng hơn chục tên. Chúng chạy
băng qua đồng nước ngang qua Trung đội 1. Anh em chủ động bắn trước. Bọn này
cũng bắn vài loạt AK về phía chốt, rồi lại chạy mất tăm. Không được phép truy
đuổi. Vì bọn này cũng giống như cá đã ở trong lưới quây. Mấy khi thoát được.
Giữa trời nắng chang chang, chỗ BCH còn lợi dụng được bụi tre gai đỡ nắng. Còn
toàn Đại đội, được phơi giữa trời nắng vô
cùng vất vả.
Đến 3h chiều, lệnh của Sư đoàn là: Đại đội 1 bàn
giao, hỗ trợ cho lữ đoàn 22 kéo xe bọc thép
của Pot về phía sau. Khoảng 4h chiều, 1 tổ 3 xe bọc thép của lữ 22 đến tiếp thu
xe. Mọi người phấn khởi, vì chuẩn bị
thoát được chỗ nắng nôi này. Anh em lữ 22 xem xét và yêu cầu Đại đội 1 đào bờ
mương làm đường cho xe lên. Và lấy hết xác Pốt trong xe ra. Anh Trọng, điều
động Trung đội 2 gần đó đào đất phía trước và phía sau xe. Anh em lữ 22 chui
vào mở cửa phía sau của xe ra. Thật kinh khủng, gần chục thằng chết trong xe đủ
mọi tư thế. Chúng đã đen, khói thuốc khói đạn càng làm cho chúng đen hơn . Ai cũng
lợm giọng, vì máu của bằng đấy thằng, chảy ngập sàn xe đã đông đặc. Được phơi
nắng cả ngày, bốc mùi tanh lợm không ai chịu được. Đại đội trưởng, Đại đội phó
và Trung đội trưởng cũng lỉnh đi hết, không ai dám vào xe để nhìn ngó nữa. Chứ
đừng nói đến lôi được chúng ra. Thằng nào thằng ấy to vật vã, quấn xoắn vào
nhau, có thằng còn lòi cả xương tay xương chân ra. Chúng móc, bám vào các vật
dụng trong xe. Trong một không gian bé nhỏ của xe, thì việc này quả thực khó
khăn cho việc ai vào lôi đám xác này ra.
Các đ/c cán bộ quân sự thì nói: việc này của mấy ông
chính trị. Dừa nhau mãi ko ai chịu vào xe. Cuối cùng đ/c Công cvtr nói để tôi
vậy. Tôi nói là ae lấy sợi dây dù võng buộc thòng lọng. Để anh Công vào tròng
vào cổ từng thằng rồi để ae bên ngoài kéo ra. Anh Công vào xe cũng làm theo như
thế, nhưng ae kéo mãi mà thằng Pot cũng ko chịu ra. Vì chúng đã cứng lại xoắn
vào nhau như đã nói. Anh Công phải lấy xẻng, cậy những chỗ vướng vứu mới lôi ra
được 1 thằng. Thế rồi quá lợm giọng vì mùi hôi tanh. Anh Công chạy ra ngoài,
gục mặt xuống nôn thốc, nôn tháo. Mặt tái mét và nói: tôi ko vào được nữa.
Cũng không thể nói ai vào xe được nữa. Tôi bèn nói ; để
Phú vào xe. Tôi lấy khăn mặt buộc ngang mồm mũi, còn chừa 2 mắt. Chui vào xe,
một tay cầm xẻng, một tay cầm sợi dây võng. Cảnh tượng trong xe thật hỗn loạn,
hãi hùng. Nào là đầu, nào là tay chân, mình mẩy của những thây Pốt. Không ai
hiểu, ai tả được, lúc cái búa của thần chết giáng xuống, thì tâm trạng chúng sợ
hãi, hay phản ứng bản năng như thế nào ? Ôm chặt lấy nhau, hay vớ víu vào cái
gì đó. Rồi có thằng chết ngay, thằng ngấp ngoái, đón cái chết đến chậm trong
nỗi kinh hoàng tột độ mà các cụ ngày xưa gọi là sợ “mất hồn”. Thật tình, thì
chúng nó cũng là con người, là đồng loại của mình. Cũng có bố, có mẹ, hoặc vợ con,
có anh chị em, bạn bè và bà con họ hàng v.v... Không biết là chúng mày bao
nhiêu tuổi ? Được giáo dục, được học hành thế nào ? Mà chúng mày tàn bạo, thất
nhân, thất đức thế vậy ?
Chúng mày tàn bạo ngay cả với bà con, dân tộc mày, một
đứa nhỏ, nhiều đứa nhỏ, bị chúng mày lấy búa đập vào đầu. Chỉ vì họ là những
người thành phố Huh.
Dịp còn ở Mộc Bài. Cứ mỗi lần mình phản pháo chúng. Là
hôm sau lại thấy có 1- 2 đống lửa thật to nghi ngút khói. Tôi mới hỏi kỹ bà con
thì được biết, đó là những đống lửa thiêu xác bọn chết. Bên đó “phong tục là
người chết đem thiêu chứ ko mai táng (địa táng như ta. Nhưng bọn này thiêu
người rất thủ công. Chỉ xếp người vào đống củi, rồi đốt ngoài trời. Thậm chí
muốn để thiêu nhanh. Chúng còn xả người nhỏ ra, cắt từng khúc, hay cắt rời tay
chân ra, cho vào đống lửa. Trước sự chứng kiến của vợ, chồng, con cái, hay bố
mẹ làng xóm vv…Chính vì thế nên bọn này bị thói quen từ nhỏ việc xả người, chém
chặt người ko ghê tay. Chuyện này ko biết đúng, sai, thực hư thế nào ? Có thể
các bạn ko tin. Những tôi cũng đã hỏi nhiều người, thì cũng được nói như vậy.
Thoáng nhanh các suy nghĩ đó. Tôi ngậm chặt mồm, nhìn
lướt qua toàn xe. Vẫn chưa xác định được còn mấy thằng. Có một thằng đầu quay
ra phía tôi, ngửa mặt, nhe răng “cười”. Tôi túm tóc định nâng đầu lên, để đưa
dây thòng lọng vào cổ. Vừa nhấc đầu nên thì, rùng mình vì cả mảng mảng tóc tay
tôi nắm tuột hết, kéo theo cả da, trơ sọ. Rùng mình nhưng cố nén, để không bị
quá căng thẳng. Tôi lấy xẻng bộ binh, lách xuống dưới gáy tên Pốt, nâng đầu hắn
lên rồi tròng dây vào cổ. Hô anh em bên ngoài kéo. Sợi dây căng, nhưng thằng
này bị kẹt, bởi những thằng khác, thân thể chúng đã bị cứng. Nên càng vướng vào
nhau. Không còn cách gì khác, là phải vần, phải cậy những cái xác khác ra, cho
anh em kéo Pốt.
Được một thằng, rồi 2 thằng, 3 thằng. Đến thằng ngồi ghế
lái trên cùng, cũng thật khó khăn. Nó chết trong tư thế vẫn điều khiển xe. Cố
vượt hào batile nước nên tay chân của hắn, níu chặt vào các cần điều khiển xe.
Bậy mãi, kéo mãi, mới lôi được thằng đang ngồi này ra. Bọn này to thật. Chắc
mỗi thằng phải nặng tới 70kg chứ không ít. Làm cho cái sức vóc nhỏ bé của tôi
phải gồng mãi, cố mãi, mới vần được chúng theo ý mình để anh em lôi ra.
Như vậy là 6 thằng. Anh Công vào lôi được 1 thằng là 7.
Một thằng bắn 12,8ly chết bên ngoài là 8. 8 cái xác được kéo ra, nằm kề nhau
thành một đống hỗn độn, trông thật ghê sợ. Từ ngày đi Biên giới, tôi chưa gặp
trường hợp nào, thấy hàng chục cái xác Pốt một chỗ thế này. Tôi ra ngoài vứt
cái khăn mặt rồi nhổ bọt ngồi thở.
Cho đến hôm nay, khi viết lại, cái cảm giác đó vẫn ấn
tượng như là mới xẩy ra. Vì hình ảnh này, nó là nỗi ám thị, ám ảnh, ghê sợ còn
theo suốt cuộc đời tôi.
Tôi ngả người, nằm xuống bờ mương thoai thoải dốc. Nhìn
trời, qua mấy tán lá tre thưa đung đưa trước gió, trong buổi chiều hoàng hôn
dần tím. Như không để ý đến ai, khômg muốn và cố muốn xua đi, những hình ảnh
hãi hùng , tởm lợm mà mình phải bê, phải vần, phải giáp mặt chúng. Một vài con
cò bay ngang trời. Xa xa, là làng mạc, là những bóng thốt nốt. Đặc trưng của
đất trời Campuchia.
Ầm ... tiếng nổ của chiếc xe bọc thép gầm vang. Khói
xanh, xả ra dầy đặc bao trùm xe. Anh em lữ 22 đã vào sửa chữa, đấu nối thế nào,
mà xe nổ máy được ngay. Trong tiếng hò reo của anh em bb. Một sợi dây cáp được
nối vào xe bọc thép lữ 22. Cả 2 cái cùng nổ máy, cùng bò lên khỏi chỗ lầy.
Trong niềm vui của tất cả mọi người. Anh
em dừng lại, xuống bắt tay khắp lượt mọi người. Rồi lên đường về phía sau.
Chiếc xe bọc thép M113- 060 ngoan ngoãn bò đi cùng tổ xe của lữ 22. Giống như
những con quái vật đã bị phép thần thông của Tề Thiên Đại Thánh thu phục. Trong những tập phim Tây Du Ký. Mà
hồi nhỏ hay xem. Bóng đoàn xe xa dần, xa
dần.
Đây là chiếc xe bọc thép đầu tiên trên mặt trận BGTN này.
Ta tiêu diệt và thu được của Pốt (một thời gian nó được là vật chứng trong bảo
tàng Quân đội tại TP. HCM về chiến thắng của quân và dân ta. Trong cuộc chiến
tranh bảo vệ BGTN của Tổ quốc).
Chúng tôi được lện hành quân về hướng Tây Bắc ngã ba SăngKe. Nơi đội hình Trung đoàn vừa
chiến đấu. Và bây giờ, vòng đai bảo vệ biên giới của Trung đoàn, Sư đoàn 341,
lập phòng tuyến tại đây. Phía Đông Bắc Chóp giáp Sư đoàn 7. Kéo vòng cung xuống
phía Bắc rừng Hòa Hội của ta.
Tại địa danh này, chúng tôi chốt giữ và chiến đấu liên
tục nhiều tháng. Tổ chức nhiều trận luồn sâu phạm vị nhỏ. Tiêu diệt đánh địch
bu bám, lấn dũi, phòng tuyến của ta. Nhiều trận đánh ác liệt, đã diễn ra tại
khu vực này. Có trận ta luồn sang phía Pot lại gặp Pot luồn sang tập kích ta.
Những trận đánh bằng xẻng, bằng lưỡi lê và dao găm đã xẩy ra. Chiến thắng,
chiến công cũng nhiều. Song thương vong tổn thất cũng rất lớn.
Đại đội 1 của tôi, có trận sau chiến đấu còn lại có 3
người. Tôi + quản lý + anh nuôi. Anh Nguyễn Tiến Công cùng rất nhiều anh em hy
sinh mà không lấy được thi hài. Trong những trận 14/7 và 18/7/78.
Tôi sẽ xin phép kể lần lượt từng trận đánh. Để cùng các
bạn, ôn lại những năm tháng cam go và hào hùng đó.
Tản mạn về cây thốt nốt :
Bạn Quyenkh hỏi: TP nhìn những bức hình cây thốt nốt,
cánh đồng chó ngáp, cánh đồng chết, hay cây thốt nốt mùa mưa của sudoan5 -
Bìnhyen có cảm tưởng thế nào ? TP thấy
ảnh đẹp. Đẹp thật sự. Rất có “hồn” nghệ thuật. Song trong cái “ hồn “ đó . Với
anh em , lính tình nguyện chúng mình. Ai mà không có những ấn tượng mạnh, về
loài cây quý hiếm này.
Những ngày đầu tiên, khi còn ở khẩu đội cối 60ly của đại
đội 3 d1. Tiểu đội TP bị Pót tập kích. Một quả đạn dkz, bắn đúng vào thân cây
thốt nốt. Cách mặt đất khoảng 3-4 m. Đạn nổ găm mảnh xuống làm tiểu đội mình hy
sinh 1, thương 2. TP cũng ở khẩu đội ấy, nhưng lúc đó đang nhắc nhở ae đào hầm
cách đó mấy m. Nên may mắn ko bị sao. Và hình ảnh, nỗi ám ảnh về cây thốt nốt
đã có từ ngày đó tháng 11/77.
Theo TP, cùng một số anh em thời kỳ ở bên đó. Thì cây
thốt nốt quý thật. So với cây dừa, cọ, thì thốt nốt phục vụ con người nhiều hơn.
Gần như từ thân cây, lá cây, hoa cây, trái xanh, trái chín. Đều phục vụ cho dân
sinh. Này nhé:
- Thân cây: nếu
già, họ bổ ra lớp gỗ thân bên ngoài dầy khoảng 5cm. Thì cứng, chắc gần như gỗ
lim. Không bị mối mọt, có thể sử dụng làm nhà, làm giường, bàn ghế v.v...
- Thân cây phía dưới, đào cả một phần gốc. Họ bổ đôi dài
khoảng 4m, đẽo khoét bên trong thành một cái thuyền xuồng độc mộc .
- Tầu lá khô làm
củi đun. Lá thốt nốt cùng để lợp nhà, lá bánh tẻ, dùng để đan giỏ, đan túi
xách, hay thảm chiếu nằm trải giường v.v....
- Hoa cây thốt nốt. Có điều là từ khi nẩy mầm, tới khi
cho ra hoa trái, phải 15-20 năm. Thời gian rất dài. Người dân nếu lấy nước, thì
họ chọn những nhánh hoa cái. Dùng 2 cái kẹp tre, day đi, day lại nhiều lần.
Trong mấy ngày. (giống như các cụ nhà ta dạy: phụ nữ muốn có nhiều sữa cho con
bú, thì phải để người đàn ông (người chồng), vần vò nhiều, đôi cái nhũ hoa thì
mới có nhiều sữa cho trẻ. Grin Grin Grin. Khoản này thì chắc mấy bác ccb của ta
rất giành phải ko BH ?
Sau khoảng 3 ngày, vần vò bằng kẹp tre. (Chứ không phải
bằng tay như cái kia). Thì họ lấy con
dạo, vạt đi một chút ở đầu nhánh hoa. (vòi hoa) và buộc, treo vào đấy một cái ống bương hoặc ống tôn
kẽm. Đương nhiên là phải đeo ống vào tầu lá cây mới giữ được ống. Qua 1 đêm, từ
tối đến sáng mỗi ống được khoảng vài lít nước. Mỗi cây đã trưởng thành, có thể
treo tới 20 ống như vậy. Mang về đun, cô lại thành đường, thủ tục nấu đường
thốt nốt, như là nấu đường mía. Họ hay đổ ra các bát (chén) ăn cơm. Đường thốt nốt
ăn rất ngọt, ngọt thanh mát, như đường phèn, đường phổi, ở vùng Quãng Ngãi.
Có điều đặc biệt là: đường này giống như đường bánh của
mình. Để ngoài không khí, hay bị chảy nước. Mà phải lấy cái lá cây thốt nốt gói
lại. Gói rất sơ sài, hở hang, nhưng đường lại không bao giờ chảy nước.
Cho nên, lúc quân TNVN sang đó. Bọn phản đông chúng có
tuyên truyền, tẩy chay mình nói là: đường thốt nốt, thì phải gói bằng lá thốt
nốt. Ý nói là việc của dân CPC thì chỉ để dân CPC tự giải quyết.
Nước cây thôt nốt nếu uống ngay thì rất ngọt. Nhưng dân Campuchia
thì lại dùng 1 số ống làm nước thốt nốt chua. Thì họ phải bỏ vào trong ống 1
loại vỏ cây (CÂY ME) thì sáng hôm sau, nước trong ống chuyển thành mầu trắng
đục. Có ga. Uống giống như nứơc rượu nếp cái của mình. Uống nhiều cũng bị say.
Có nhiều bạn đựng nước trong bình tông nhuôm của Trung Quốc. Để tứ sáng đến
trưa thì cái bình tong bị tròn như quả bóng. Vì nước có ga rất mạnh.
Đội hình Đại đội 1, về đến khu vực chốt của mình thì vừa
tối. Tiểu đoàn trưởng cùng tác chiến, và mấy trinh sát. Cùng các đ/c thông tin
hữu tuyến rải dây, xuống tận Đại đội . Hướng dẫn và giới thiệu địa hình . Giao
nhiệm vụ, chốt giữ cho đơn vị. Đại đội 1 đảm nhiệm phía tay trái của Tiểu đoàn.
C3 thì ở giữa nhưng cao lên. Bên phải Đại đội 3, là Đại đội 2. Lùi vào trong là
Đại đội 4. Hai khẩu 12,7ly đã được bổ sung tăng cường cho c2 và c3. Chỉ còn lại
2 khẩu ĐK82 + 2 khẩu cối 82. Tiếp đến là Tiểu đoàn bộ, sau Tiểu đoàn bộ, là
Tiểu đội trinh sát, Trung đội thông tin
+ vận tải. Tiểu đoàn bố trí thể như kiểu cái cung và Đại đội 3 là đầu mũi tên. Đại đội 1 + 2 là 2 đầu của cánh
cung.
Hướng bên phải Tiểu đoàn một, là Tiểu đoàn 3. Bên trái
Tiểu đoàn 1, là Tiểu đoàn 2. Giáp gần với Chóp của Sư đoàn 7. Rải rác các Đại
đội trực thuộc, như 18 thông tin, 15 Dkz , 14 cối 120 ly, 16 súng 12,7 ly được
cử đi phối thuộc. Số còn lại bố trí cảnh giới bảo vệ Trung đoàn. Được bố trí
vào các khe kẽ của địa bàn, giáp giữa
các Tiểu đoàn. Trung đoàn bộ, đóng ngay tại khu vực ngã ba Săng Ke. Cùng các cơ
quan Trung đoàn và Đại đội vận tải, Đại đội 24 quân y. Đại đội trinh sát 20, có
nhiệm vụ bảo vệ trực tiếp cho Trung đoàn bộ. Giáp với đội hình của Trung đoàn
1, là Trung đoàn 2 (270), Trung đoàn 3 (266) gần giáp về Biên giới khu vực rừng
Hòa Hội sang. Như vậy về diện thì mỗi Trung đoàn có chiều rộng khoản 10 km.
Toàn Sư đoàn rộng khoảng trên 30 km. Nói, tả như vậy thì cỏ vẻ rất kín. Nhưng
thực tế thi vẫn còn có những khoảng trống giữa các đơn vị vối nhau. Ban ngày
thì trong tầm mắt cảnh giới thì ko có vấn đề gì. Còn ban đêm thì địa bàn như
rộng ra, vì tầm quan sát bị đêm đen hạn chế. Nên Pót cũng vẫn có thể luồn lánh
vào được.
Sau khi nắm rõ tình hình địa bàn. Anh Đạc Ctr bố trí các
vị trí chốt cho Đại đội cũng vẫn thế chân kiềng, hay cánh cung đã lắp tên như
của Tiểu đoàn. Các Trung đội sẵn sàng chi viện được cho nhau, lúc cần thiết.
Còn đêm, nếu Pốt tập kích vào Trung đội nào, thì Trung đội đó tự giải quyết.
Cối 60 sẽ chi viện cho các hướng chốt. Trừ trường hợp Pót tấn công lớn, sẽ có
sự chi viện bằng pháo cối của Tiểu đoàn, Trung đoàn. Việc xuất kích đêm là rất
hãn hữu.
Ban chỉ huy Đại đội 1 ở dưới một gầm nhà sàn. Chung quanh
có ruộng, vườn và những khóm tre gai dọc các bờ. Rất tiện cho việc phòng thủ.
Nhưng lại cũng là những M tiêu, mà ta hay Pốt với con mắt quân sự, nếu tấn công
hay tập kích. Thì đầu tiên cũng phải táng vào đấy một vài quả đạn.
Chúng tôi nhanh chóng đào hầm hố, công sự chiến đấu dưới
gầm sàn. Và ngoài các bụi tre. Mỗi Trung đội điều lên 2 đ/c làm hầm cho BCH đại
đội. Hầm của liên lạc, hầm thông tin. Đến 8h
tối mọi việc tạm ổn. Xác định chốt giữ lâu dài, nên hầm hố sẽ phải chắc
chắn. Nhưng bây giờ đã tối và quá mệt. Sau một ngày một đêm vất vả. Anh nuôi
cũng đã mang được cơm đến. Bữa cơm đầu
tiên ở vị trí mới thật ngon.
Đêm thứ nhất ở khu vực chốt trôi qua thật yên bình.
Trời đã ngớt mưa. Ùng - ầm - ùng - ầm – ùng - ầm. Tằng -
tằng - tằng -tằng, chíu-chíu-chíu. Pốt
tập kích vào Đại đội. Không phải chỉ vào đại đội 1, mà hướng c2, c3 cũng
rộ lên tiếng súng của Pốt. Chúng tôi choàng bật dậy. Đạn thẳng chíu chíu trên
đầu. Găm vào nhà, nhưng tầm cao. Thỉnh thoảng có quả B40-B41, nổ rầm gần vị trí
ban chỉ huy. Tiếng hô trô trô của bọn Pốt. Tằng - tằng - tằng... rồi ầm- ầm
súng của anh em đã bắn trả. Mới đầu còn thưa. Nhưng sau cũng đã rồn rập. Anh em
phân tích tình hình. Chỉ thấy có 2 hướng của 2 Trung đội bị địch tập kích. Hai
bên vẫn bắn qua lại. Tiếng các loại hỏa lực của anh em mình nghe rất chắc. Như
vậy bọn này tập kích từ xa. Chúng lợi dụng mưa bò vào. Nhưng ngày đầu chắc
chúng chưa rõ các vị trí chốt của ta. Nên không dám mò vào thật gần. Mà từ
ngoài xa bắn vào.
Tôi bàn với các anh là: cho bắn mấy quả cối. Để cho anh em thử súng ở vị trí
mới. Cũng cho bọn Pốt biết mình cũng đủ loại hỏa lực. Tôi nói: để tôi cùng Hiệp
LL xuống tiểu đội 10. Tuy rằng vị trí của Tiểu đội cối không xa BCH. Nhưng
xuống Tiểu đội bây giờ cũng đúng là rất nguy hiểm. Vì đêm tối, ngay anh em cũng
có thể bắn nhầm. Nhưng cũng vì con nhà “cối” nòi, nên tôi và liên lạc Hiệp vẫn
xuống Tiểu đội cối. Tôi cầm súng và đèn Pin, đã được bọc vải xanh để giảm ánh
sáng. Xuống cách chỗ cối 15m. Tôi dơ đèn pin quay, quay ba vòng. (mật hiệu quy
định từ trước). Nghe tiếng đ/c Ka Tiểu đội phó hỏi ai ? Tôi đáp Phú đây rồi
quay đèn Pin về phía mặt mình, cho anh em biết rồi tiến tiếp về phía khẩu đội.
Tiếng súng của bọn Pốt cũng đã thưa. Đoán là bọn này thử
phản ứng của ta. Nhưng cũng có thể chúng rút ra xa tạm nghỉ. Tôi cùng đ/c Minh
A.trưởng thống nhất bắn ở cự ly 200- 300m về hướng tiền tiêu của Trung đội 1.
Tong- tong 2 tiếng nổ đầu nòng đạn bay vút vào trời đêm tôi đếm 1-2-1, 1-2-2 -
1-2-3 - đến 1-2-9 thì ầm - ầm đạn cối nổ lửa chớp lòe. Có vẻ đúng mục tiêu cần
bắn. Tôi nói mỗi khẩu làm 2 quả nữa. Tong – tong – tong - tong. Cũng khoảng 9
giây sau thì ầm - ầm - ầm - ầm. Như vậy là cối bắn tốt. Tiếng súng của Pốt đã
im hẳn, súng bộ binh của ta cũng ngừng. Trận tập kích thứ nhất của Pốt, vào đại
đội đã chấm dứt. Không gian trở lại tĩnh lặng như ko có gì vừa xẩy ra.
Tôi ở lại với anh em một lúc. Dặn kỹ
lại nếu Pót tập kích nữa thì ae chủ động bắn chế áp. Nhưng phải cầm chừng vì
đạn ko có nhiều. Ở lại với anh em 1 lúc nữa tôi trở lạị BCH Đại đội.
Theo trinh sát báo cáo : trước mặt
Tiểu đoàn 1, hiện có 2 Tiểu đoàn 121 và 122 của Pốt . Hàng ngày chúng tổ chức
tập kích, lấn dũi các vị trí chốt giữ của ta. Chúng tập trung tập kích cao độ ở
chốt của Đại đội 3. Tần số tập kích ngày càng dầy hơn , mạnh hơn . Các chốt của
C1 + C2 chúng có tập kích. Nhưng có vẻ chỉ là ghìm chân ta thôi. Hiểu rõ ý đồ
của Pot. Trung đoàn trưởng Trần Măng, Chính ủy Trung đoàn Diệp Xuân Ánh thống
nhất phương án của tác chiến là:
- Tiểu đoàn 1: Để Đại đội 3, vẫn chốt
giữ tại vị trí . Đại đội 1 + 2 luồn sâu khoảng 3 km đón lõng tại phía trái khu
vực XvayChek.
- Tiểu đoàn 3: Đại đội 10 + 11 cũng bí
mật luồn sâu khoảng 3km về hướng cánh phải XvayChek.
2 lực lượng này, tạo thành gọng kìm.
Đón lõng đường rút và đánh từ phía sau của Pốt ngược trở lại.
- Tiểu đoàn 2, gồm 2 Đại đội cùng Đại
đội 9 của Tiểu đoàn 3 cùng 6 xe bọc thép của lữ 22. Tấn công vỗ mặt 2 tiểu đoàn
Pốt. Các đại đội 12,7ly, DKZ 75 cũng được điều động tăng cường cho lực lượng
tấn công. Trận này chỉ dùng cối 82 ly
chi viện. Không dùng pháo binh của Sư đoàn.
Sáng ngày 19/6. Đ/c Đạc và Công, về
Tiểu đoàn rồi lên Trung đoàn nhận nhiệm vụ chiến đấu. Ý nghĩa của trận đánh này
rất lớn. Vì qua mấy ngày, chúng chủ động tập kích này mà không thấy ta xuất
kích. Bọn Pốt đã chủ quan, chưa cho rằng chúng ta ko giám tổ chức tấn công
chúng. Nên ta quyết tâm đập cho bọn này 1 đòn thật đau.
Đến 10h, anh Đạc và anh Công đã về tới
Đại đội. Cử LL mời ngay các BT, A.Trưởng hỏa lực về họp. Phổ biến nhiệm vụ luồn sâu đêm nay, để
tấn công địch vào sáng ngày mai 20/6. Sau khi nhận nhiệm vụ. Các Trung đội trở
về làm công tác chuẩn bị. BCH Đại đội phân công mỗi người một việc. Tôi và đồng
chí Công , chia nhau xuống từng Trung đội họp, nắm tư tưởng, làm công tác động
viên anh em chiến đấu. Hội ý với Đoàn thanh niên để ý theo dõi, tạo nguồn phát
triển Đảng viên cho Cho Chi bộ.
Phát động ý chí chiến đấu, tinh thần
dũng cảm của người Đảng viên, Đoàn viên. Trực tiếp phổ biến tình hình
địch, nhiệm vụ chiến đấu của từng Trung
đội. Đ/C Trọng, lo tổ chức hậu cần. Chuẩn bị cơm nắm, kiểm tra lại vũ khí,
trang thiết bị. Súng đạn cho đủ theo yêu cầu trận này là 2 cơ số.
Mọi người tích cực đôn đốc, kiểm tra,
việc chuẩn bị chiến đấu đến 4h chiều. Mọi việc tương đối hoàn tất. Tôi nói mọi
người, nên nghỉ ngơi một lúc để lấy sức cho trận chiến đêm nay, ngày mai. Tôi và anh Công nằm xuống sàn ván,
nhìn lên nóc sàn. Mỗi người một suy nghĩ. Muốn ngủ, nghỉ một lúc, mà sao không
ngủ được. Trời vẫn mưa. Những giọt cuối, của trận mưa rào lúc trưa. Bỗng anh
Công bật dậy nói: thôi ngủ làm gì. Còn Trà không Hiệp ? Làm ấm trà và ván cờ
cho hết thời gian ông Phú. Trinh sát xuống bây giờ.
Tôi thoáng nghĩ, cái ông này không
nghỉ, hoặc không lo việc gì khác. Đầu óc đâu mà chơi cờ bây giờ. Nhìn đôi mắt
to sáng của anh Công, giọng nói ấm áp truyền cảm. Rất có sức lôi cuốn, tôi cũng
bật dậy nói: ừ, chơi thì chơi. Nhưng chơi cờ với anh chán bỏ xừ. Tôi chấp cả 3
ông một phe, nhưng chỉ chơi đúng 2 ván thôi nhé.
BCH Đại đội 1, là một ê kíp thật gắn bó, thật
hoàn hảo. Mọi người rất có trách nhiệm với công việc. Rất tôn trọng nhau. Tôi
cũng đã từng thấy nhiều Đại đội, cấp trưởng, cấp phó hoặc cán bộ Quân sự -
Chính trị. Cứ thường hay mâu thuẫn nhau. Còn chúng tôi thì cũng mới cùng tác
chiến, nhưng như là đã gắn bó lâu lắm rồi. Như một gia đình, anh em thật ấm
cúng. Tôi với anh Đạt bằng tuổi nhau. Kém anh
Trọng và anh Công một tuổi. Nhưng không hiểu sao, có việc gì. Mọi người
vẫn cứ hay hỏi tôi, hoặc tham khảo ý kiến tôi trước. Trong các công việc của
đơn vị, hay cả những chuyện riêng tư, yêu đương, thư từ cách xử sự v.v.... Hay có những lúc đàm đạo tìm hiểu về khác
giới. Tôi cũng hay góp chuyện, có trích dẫn sách vở đàng hoàng. Làm như là tôi
giỏi về các khoản này lắm.
Cũng có thể hồi ở Sài Gòn, tôi hay đọc
các sách bói toán, tướng số, chỉ tay, dáng đi, nốt ruồi. Của chiêm tinh gia
Huỳnh Liên. Nhiều lúc rảnh rỗi, hay đùa, bói cho anh em. Không biết đúng sai
thế nào, mà mọi người rất nể.
Chưa xong ván cờ thứ 2, thì đ/c LL đi
lấy cơm về. Tôi nói thôi mình hòa. Mọi người đi ăn cơm tối, rồi chuẩn bị các tư
trang cần thiết. Việc đi luồn sâu, đánh địch cũng đã quen thuộc. không còn cái
phân vân, lo âu như những lần đầu. Đương nhiên ai cũng biết, mỗi trận luồn sâu,
mỗi trận đánh, thì đều có những diễn biến khác nhau. Trong cùng một trận đánh,
có đơn vị thì vô cùng vất vả, ác liệt. Nhưng có mũi, có hướng thì nhàn nhã. Vừa
nổ súng là địch đã chạy rồi.
Anh em trong BCH và các Trung đội
trưởng Tiểu đội 11 hỏa lực đại liên, anh nuôi, quản lý còn là lớp lính 72 - 74.
Nên bản lĩnh, kinh nghiệm trận mạc dày dạn. Các chiến sỹ lớp 75 - 76 cũng đã
vững vàng. Lớp 77 cũng đã được tham chiến nhiều. Anh em 78 thì mới được bổ
sung, đa phần là anh em TP Hải Phòng - TP Hà Nội. Lính mới có phần ngang bướng,
nhưng qua thử thách của trận luồn sâu thì cũng rất có bản lĩnh trách nhiệm.
Giờ xuất phát luồn sâu được lùi lại.
Vì theo quy luật cứ khoảng sau 8h tối, là bọn Pot đã tập kích các chốt của ta.
Trung đoàn yêu cầu các đ/v ở tại vị trí. Nếu khoảng 8 h mà Pót tập kích thì các
đại đội vẫn cứ nổ súng đánh trả như bình thường. Đến 9h tối Đại độ 1 + 2 bí mật
bỏ chốt, luồn sâu theo kế hoạch. Gần 7h cả 2 đ/c cấp phó Tiểu đoàn. Đ/C Nguyễn
Đăng Ngân và Trịnh Doãn Ngọ, trinh sát Tiểu đoàn tập kết về Đại đội 1. Mọi
người vào hầm của BCH Đại đội, uống trà bàn bạc công việc. Hồi hộp đợi giờ tập
kích của Pot.
Rất đúng giờ. Pót lại ùng oàng tắc bọp
vào các chốt của Tiểu đoàn. Hướng Đại đội 3 súng nổ vẫn gắt hơn. Theo bài bản
các Trung đội vẫn nổ súng đánh trả Pot. Cối 60 cũng làm mấy quả. Khoảng 15 phút
thì toàn tuyến lại chìm trong im lặng. Anh em chuẩn bị hành quân. Khoảng 9h15’
đ/c tham mưu, cùng trinh sát Tiểu đoàn dẫn đại đội 2 đến khu vực chốt của Đại
đội 1. Lệnh xuất quân.
Theo kế hoạch, từ vị trí chốt của Đại
đội 1. Đến mục tiêu khoảng 3km. Nhưng trinh sát dẫn đi vòng cũng khoảng 10km.
Cái điệp khúc luồn sâu, lần mò trong đêm lại được tái diễn. Đầu mùa mưa, nên
cũng có ruộng có nước, có ruộng cao còn khô. Anh em trận này luồn sâu diễn ra
rất thuận lợi. Hướng chốt của Tiểu đoàn bọn Pot vẫn vào tập kích. Đại đội 3 bắn
trả thật mạnh, hơn mức bình thường. Cũng có thể bây giờ chúng tôi đã ở vị trí
đối diện súng bắn của mình, nên nghe tiếng nổ mạnh hơn, uy lực hơn chăng. Anh
Công ghé tai tôi nói nhỏ: Bố thằng Pot chắc nó ko thể biết được là mình đã bỏ
chốt. Nên cứ bắn loạn lên như vậy. Khoảng hơn 12h, toàn đội hình đã vào vị trí
tập kết. Mà không gặp một chốt nào của Pốt. Anh Đạc thông báo về Tiểu đoàn là
Đại đội đã vào vị trí. Rồi triển khai vị trí cụ thể cho từng Trung đội. Trước
mặt chúng tôi là một Phum rộng theo B/C thì đây là khu vực chỉ huy 2 Tiểu đoàn
của Pốt. Có một con đường đất chạy giữa làng. Đại đội 2 sẽ tấn công theo hướng
đó. Còn Đại đội 1 vòng xa khoảng hơn 1km đánh tạt sườn vào. Theo hợp đồng hướng
Đông là Tiểu đoàn 3 thiếu đánh ngược lại. Tiểu đoàn 2 cùng Đại đội 9 và thiết
giáp sẽ tấn công vỗ mặt lên.
Mùa mưa, chỗ nào cũng ẩm ướt. Anh em
BCH Đại đội lợi dụng một bờ đất. Cách vị trí các Trung đội khoảng 30- 40m. Trời
đêm thật mát, thoáng cảm giác lạnh,
những vì sao mờ mờ nhấp nháy, như đang theo dõi, đùa vui với những chiến
sỹ đang củng cố hố chiến đấu.
Một vài tiếng gà gáy sang canh vọng
ra. Rồi im bặt, bới những tiếng súng tập kích của Pot. Vào các vị trí chốt Tiểu
đoàn. Mọi người tranh thủ ăn cơm, chờ đợi giờ nổ súng. Gần 5h sáng tiếng gà gáy
dồn dập thật nhiều. Trời đất như vỡ ra, rạng sáng. Anh Trọng cùng 1 đ/c LL lên
vị trí tập kết của Trung đội 1, nhắc ae chuẩn bị tới giờ tấn công. Và cùng với
ae tấn công. Tôi xuống cùng Trung đội 2.
Trước giờ nổ súng không gian im ắng lạ
thường. Bọn Pot đi tập kích về, chắc cũng lăn ra ngủ. Chúng ko thể biết rằng,
bão tố, lửa khỏi và lòng căm hận, đang chuẩn bị ập xuống đầu.
Trung đội trưởng Trần Vinh là lớp lính
10/74. Quê ở Hà Tĩnh. Dáng người thấp, to đậm. Vinh có đôi lông mày lưỡi mác,
đen xì dữ tợn. Trong chiến đấu, luôn tỏ ra là người có bản lĩnh xông xáo. Dũng
cảm, rất được lòng anh em trong Trung đội. Và uy tín với cán bộ cấp trên. Thấy
tôi xuống, Vinh gần như bất ngờ và vui. Ghé tai tôi thì thào nói: “Chuẩn bị
xung phong rồi, sao anh không ở chỗ BCH Đại đội mà xuống đây làm gì ?” Tôi nói:
anh Trọng đi cùng B1, tôi xuống đây xung phong cùng các ông. Trên BCH có anh
Đạc, anh Công rồi. Vinh lại nói tiếp: “từ xưa đên giờ, cấp phó chính trị Đại
đội, thường ở phía sau. Chứ có ai xuống, cùng chiến đấu với cấp Trung đội như
anh đâu ?” Tôi nói: “Mới đi chiến với anh em trận này là 2. Có đi thì mới hiểu
thêm kinh nghiệm chỉ huy. Vả lại tôi cũng là lính AK, súng dài từ trước mà”.
Tôi nói tiếp: “Sắp đến giờ rồi đấy, ông đi xốc lại anh em đi”.
(Cho đến bây giờ tôi vẫn ray dứt, lẫn
ân hận. Trong quãng thời gian làm cvpho của mình là: Việc Vinh và 1 đ/c nữa hy
sinh trong lúc đi tăng cường cho chốt C3. TP sẽ kể chuyện này sau) .
Tôi và Vinh cùng đến các vị trí Tiểu
đội. Thấy tôi đi cùng với Trung đội trưởng, anh em rất hồ hởi. Vừa đến vị trí
Tiểu đội 6. Thì từ hướng chốt của Tiểu đoàn, lóe lên tiếng chớp đầu nòng. Tôi lại đếm 1- 2- 1, 1- 2- 2 đến 1- 2- 9 đến 1- 1-1 thì nghe
tiếng nổ đầu nòng. Kèm theo là tiếng chớp nổ trong khu vực giữa Phum. Tôi nói
với anh em: Từ đây về chỗ cối Tiểu đoàn hơn 4km. Vinh nói sao anh biết ?
Tôi nói mình con nhà “cối” mà lúc nào
mình giải thích.
Chớp đầu nòng nhằng nhằng, rồi tiếng
nổ đầu nòng của cối 120 nghe rền như tiếng sấm. Các loại cối nổ dồn dập trong
Phum. Tiếng DKZ ở trận địa của Trung đoàn cũng ầm vang. Nhìn những quả đạn vạch
lửa theo hình vòng cung, trong trời mờ sáng trông thật đẹp mắt. Những con chim
cút hay rẽ giun, nghe tiếng nổ, sợ hãi bay vọt lên trời kêu thất thanh chóe
chóe.
Các loại cối DKZ thi nhau cấp tập. Cối
60 của Đại đội cũng Tong– Tong- vào Phum. Tôi nói với Vinh: cối bắn chế áp
khoảng 15 phút thôi. Khi nghe tiếng súng tấn công của Tiểu đoàn 2 thì mình cũng
xung phong. Vây các hướng thế này, bọn Pot chạy đằng trời cũng không thoát.
Vừa lúc đó, tiếng súng 12,7ly ở hướng
tấn công chính đã rộ lên. Thùng– Thùng– Thùng- Thùng. Nhiều viên đỏ lừ bay vọt
qua Phum lên trời. Tiếng DKZ, tiếng B40 - B41 cũng ùng - ùng oàng - oàng dồn
dập. Tiếng AK nghe từ xa tạch- tạch- tạch. Vẫn chưa có tiếng bắn trả của bọn
Pốt. Hướng C2 cũng đã rộ lên tiếng súng tấn công. Không gian như vỡ òa. Khói
lửa, súng trận đã ầm vang các hướng. Tiếng anh Đạc, Anh Công hô xung phong- xung
phong thật dũng mãnh. Tôi cũng nói xung phong ... rồi cùng ae lao lên phía
trước.
Hai khẩu đại liên của tiểu đội 11 vẫn
Thình- thình- thình, Thình- thình - thình. Những điểm xa dài vào Phum. Sau đó
chếch nòng lên cao bắn thị uy. Lấy khí thế xung phong cho bb. Ùng oàng- ùng
oàng. B40- B41 đã bắt đầu phóng tối tấp. Khói thuốc súng đã trùm lên đội hình
tấn công. Tôi vận động song song cùng Vinh và cũng pằng- pằng làm mấy loạt AK.
Liếc sang hai bên, thấy các mũi xuất kích rất đều. Anh em chạy gằn qua ruộng,
nước bắn tung tóe. Bên trái lùi lại phía sau là anh Công, anh Đạt cũng đang
hành tiến. Thỉnh thoảng anh Đạc lại dừng lại "cóc " quả M79 vào Phum.
Máy bộ đàm đã được mở liên lạc từ lúc nổ súng. Hai đ/c thông tin, đeo máy bộ
đàm, có cần ăng ten cao vút như cái cần câu. Ngả nghiêng đung đưa theo nhịp
chạy. Anh em đang cố vận động theo BCH. Vừa chạy, vừa cầm tổ hợp dí sát mồm,
vừa đọc những chữ số đúc, bắt liên lạc với trung tâm. Hướng d3 súng bb cũng đã
nổ dồn dập. Hướng Đại đội 2 súng nổ rất dữ dội. Đã nghe tiếng súng bắn trả của
bọn Pốt. Một vài tiếng xoẹt- xoẹt, viu- viu sắc ngọt vượt qua đầu tôi và Vinh.
Nghe tiếng đạn nhọn xoẹt qua, thoáng rùng mình lạnh gáy.
Tôi nói: như vậy rìa làng cũng có chốt
của Pốt. Ông nói anh em Phụt mấy quả B41 vào mấy cái bụi cây và cái nhà sàn
kia. Vinh chậm lại, nói đ/c B41 đi tăng cường. Rất nhanh, đ/c xạ thủ Tiểu đội
11 quỳ xuống bắn ngay. Ùng, Qủa B41 như quả tên lửa xe gió lao đi lửa phụt ra
đằng sau, lao vào mục tiêu nổ ầm. Lửa khói trùm lên. Rồi lại thao tác rất
nhanh, bắn vào tiếp 2 mục tiêu khác. Đã tới rìa Phum. Anh em không vận động
được nữa, mà bắt đầu tiền nhập chậm hơn. Loáng thoáng, thấy bóng bọn áo đen
chạy rất nhanh. Thằng có súng, thằng ko có súng. Anh em nhằm bắn và tiếp tục
hành tiến.
Hướng Đại đội 2, đánh theo trục đường
đất, phát triển có vẻ rất thuận lợi. Tôi nói Vinh anh em tiếp tục tiến. Tôi đợi
và nhập vào chỗ BCH Đại đội. Phía sau anh em tiểu đội 11, đang khênh 2 khẩu đại
liên theo đơn vị. Hai khẩu đội cối còn ngoài cánh đồng cũng đang vận động theo.
Tôi nói anh Đạc bắt liên lạc với C2,
chứ bên đó đang vận động tới rồi, không cẩn thận lại “táng” vào nhau. Anh Đạc
bảo thông tin báo về Tiểu đoàn là C1 đang tiến vào Phum rồi. Nói là Phum nhưng
địa bàn ở khu vực này rất rộng. Gần như là một thị Trấn, thị Tứ. Chắc đây là
cấp Xã hay cấp Huyện của Pốt, nên nhà sàn có vẻ rất khang trang, đẹp đẽ còn in
lại dấu tích của một thời huy hoàng, hưng vượng đã qua.
Tiếp tục tiến lên vài trăm m nữa, tới
trục đường, thì gặp Đại đội 2 vượt qua. xác mấy thằng Pốt nằm vắt trên đường.
Mọi tiếp tục truy kích về hướng trái. Anh em phát hiện có vết máu từ đường
hướng vào bụi cây. Đoán ngay là có thằng bị thương lết vào đó. Tôi nói anh em
chú ý tìm kiếm, rất nhanh đã phát hiện một thằng Pốt nấp trong bụi cây. Một đ/c
Đại đội 2 hô “Lớt day lơn”. Một cánh tay rồi 2 cánh tay giơ lên. Anh em lao vào
xem xét. Thằng này bị đạn bắn xuyên qua gần khu vực cổ chân, nên không thể chạy
được. Hai đ/c Đại đội 2 lôi tên Pốt từ trong bụi ra. Lấy thắt lưng của nó, trói
quặt tay ra phía sau. Tên Pốt to con, mặt tái mét trắng bệch, chưa hoàn hồn.
Tôi nói: “căm phơ lương” chỉ vào súng ý hỏi là súng đâu. Hắn lắc lăc đầu. Tìm
quanh cũng không thấy. Vừa lúc đó một đ/c chiến sỹ c2 trông còn rất trẻ, bị
thương vào cánh tay, đã được băng nhưng vẫn đeo khẩu RPD băng tròn đến chạy tới
.
Tôi nói: mấy anh em ở đây trông coi thằng Pot.
Tôi hỏi Nhẫn (sau này mới biết tên đ/c bị
thương này là Trần Trung Nhẫn lính 7/77 quê Thái Bình). Vết thương có nặng
không. Nhẫn nói em bị nhẹ thôi. Tôi nói: Anh em cứ ở đây phải cảnh giới nhé.
Nhẫn nói em còn bắn được mà. Sau đó tôi cùng các anh em khác, tiếp tục truy
kích về hướng Đông. Tiếng súng ở đó vẫ đang rộ đều.
Sau này khai thác, mới biết thằng tù
binh này là Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 121. Việc thành tích bắt được tù binh và
việc chiến sỹ Nhẫn, cùng nhóm anh em quản lý dẫn tên tù binh về. Đã trở thành
một đề tài sôi nổi và nhiều tranh cãi. Khi đ/c chiến sỹ Trần Trung Nhẫn này
được “lăng xê” thành tích. Tôi sẽ kể tiếp sau.
Để lại nhóm anh em và tên Pốt tại đó.
Tôi cùng mọi người tiếp tục hành tiến truy kích theo đội hình. Hướng Tiểu đoàn
2 đã ngớt tiếng súng. Hướng Tiểu đoàn 3, tiếng súng vẫn nổ dồn dập. Vẫn có
những loạt đạn thẳng, của bọn Pốt về hướng tấn công của chúng tôi. Bọn Pốt vừa
chạy vừa quay súng lại bắt hú họa.
Nhưng cũng đã có một vài anh em trúng
đạn. Các đ/c y tá đang khom người băng bó vết thương cho ae. Đại đội 2, Đại đội
1, đã lẫn vào nhau. Cùng tấn công về phía Đông. Hướng bọn Pốt rút chạy. Gặp
Tiểu đoàn 3, nên chiến sự hướng đó vẫn
còn tiếp tục diễn ra. Giữa một bên đón lõng bủa lưới vây. Một bên cùng đường
tháo chạy, đang bị ép phía sau. Hướng phải thì có cả TTG rồi. Nên bọn Pốt ko
chạy về hướng đó. Chúng vừa chống trả Tiểu đoàn 3, vừa tháo chạy sang hướng
trái Đông Bắc. Chúng vừa chạy vừa điên cuồng chống trả, bằng những loạt đạn AK
bắn thẳng. Để cản bước tiến của đối phương.
Đúng là chúng ta đã vây cả 4 mặt.
Nhưng khi Đại đội 1 đã tấn công vào Phum. Đã giáp quân với Đại đội 2, thì như
vậy, tạo kẽ hở là giữa Đại đội 1 và Tiểu
đoàn 3 ở hướng Đông Bắc. Vì Tiểu đoàn 3 cũng đã tấn công vào Phum.
Thật sự thì cũng không thể nào vây bọc
thật kín được. Vì địa hình rất rộng. Phát hiện Pốt vọt ra cánh đồng, anh em
truy đuổi ra tới ngoài rìa Phum khoảng 200- 300m. Bọn Pốt chạy như vịt ở đồng
nước. Về khoảng chạy, miếng võ “ù té quyền” này thì lính Pot rất giỏi. Phải nói
là vô cùng giỏi. Giỏi hơn anh em túi lương khô, túi đạn dự phòng. Một cái thắt
lưng nặng hàng chục kg. Lại còn mũ cối sắt, đi giầy dép v v… Trang bị nặng nề
hơn Pót nhiều. Lại phải thức cả đêm luồn sâu. Sức đã cạn. Nên không thể đuổi
theo theo kịp chúng.
Anh em các đơn vị ngừng truy kích. Mà
chỉ giá súng 12,7 ly, đại liên, cối 60 ly bắn đuổi là phát huy hỏa lực hữu dụng
nhất. Nhìn những thằng Pốt đang chạy bỗng giơ tay lên trời đổ ập xuống, do
trúng đạn. Hay cả toán đạn chạy, đột nhiên đồng loạt nằm xuống. Rồi oàng- oàng
đạn cối nổ tung nước, nơi Pốt nằm. Một vài thằng đứng lên chạy tiếp. Trông thật
là vui, đúng là như trong phim. Nếu có phóng viên chiến trường quay được cảnh
này thì quý giá biết bao.
Tôi nói với anh Công, trận này mà
thằng nào còn sống, thì cũng phải sợ tới già. Các loại súng, cối bắn đuổi một
lúc nữa. Bóng những cái áo đen đã mất hút vào Phum xa. Lúc này mới chưa tới 8h
sáng. Một trận thắng lợi ngoài cả dự tính. Anh em các đ/v đi thu nhặt được mấy
chục khẩu súng các loại. Đếm được hơn trăm xác Pót. Bắt được 1 thằng tù binh là
Tiểu đoàn phó, Tiểu đoàn 121 của Pot.
Về phía ta thương vong rất ít. Các đ/v
chốt lại khu vực vừa tác chiến. Đến quá trưa thì rút về vành đai chốt giữ của
mình.
Như vậy là: Sau khi lật cánh từ đường
1 về hướng đường 13. Hoán đổi vị trí cho Sư đoàn 9. Những ngày sau, ae được
thông báo là: Sư đoàn 9 lại đang gặp rất nhiều khó khăn ở khu vực trên Rừng Sở,
tới cầu Prasot. Có trận anh em “rút” khỏi trận địa không có tổ chức. Bỏ lại cả
2 xe tăng của lữ 22, vì ruộng lầy, bb rút trước nên lính tăng cũng chỉ còn cách
“dời xe”. Xe oto zep của Sư trưởng Tạ quang Tỷ cũng phải vất lại v.v....
Trong khi đó Sư đoàn 341 , thì lại lập
được những trận thắng lớn mang tính lịch sử. Như mở rộng được địa bàn, có chiều
sâu trung bình 15km sang đất K. Trận ngày 15/6/78. tiêu diệt và thu được một xe
bọc thép M113. Trận này 20/6/78 thì thắng lớn diệt hơn trăm tên, thu mấy chục
súng các lọai, bắt sống được cả một Tiểu đoàn phó của Pốt. Anh em lại thương
vong rất ít.
Khoảng giữa năm 78. Thì thông tin về
cuộc chiến tranh BGTN đã được phổ biến, thông báo và tuyên truyền sâu rộng
trong cả nước. Chứ không bị che đậy thông tin như trước nữa. Cái điều “ấm ức”,
của những người lính, phải tham chiến từ đầu được giải tỏa. Cũng từ tình hình
như vậy. Nên Tổng cục chính trị, và các cơ quan báo chí truyền thông. Đã cử rất
nhiều phóng viên báo xuống các các đơn vị.
Sư đoàn 341, ngoài những phóng viên,
cộng tác viên báo của Sư đoàn, Quân đoàn. Cũng còn có các đồng chí phóng viên
và đội công tác của Tổng cục chính trị. Xuống đi theo dõi viết bài, ca ngợi
tinh thần chiến đấu và thành tích chiến đấu của các tập thể, cá nhân trong
nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ BGTN. Để làm gương điển hình trong việc động viên
thanh niên tham gia nghĩa vụ quân sự. Bảo vệ biên giới.
Sư đoàn 341, là đơn vị có chiều dầy
thành tích trong chiến đấu. Như có những trận đánh đạt hiệu quả cao. Bắt được
nhiều tù binh, thu được nhiều vũ khí, đánh thắng các trận lớn dọc vùng Biên
giới như Phú Cường, Khánh An, Khánh Bình, Hồng Ngự, Đồng Tháp, Hà Tiên- Kiên
Giang v.v...... Trong trận ngày 20/6 này, lại đạt hiệu quả và thành tích chiến
đấu rất cao.
Mục tiêu của các nhà báo, của đoàn
công tác. Muốn xây dựng một điển hình, về cá nhân trong thời kỳ bảo vệ Biên
giới Tây Nam. Giống như hồi đánh Pháp, có các điển hình các anh hùng như Bế Văn
Đàn, Phan Đình giót. Gương dũng cảm hy sinh tự tẩm săng vào người đốt kho săng
định là “em bé đuốc sống” Thời hoạt động bí mật thì có tấm gương anh Kim Đồng .
Thời kỳ đánh Mỹ thì có tấm gương chiến đấu, dũng cảm của Lê Mã Lương. Với câu
nói bất hủ là: cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù v.v........và vv …
Đại đội 2 Sông Lam, trong những năm
huấn luyện và bảo vệ khu vực vĩ tuyến 17. Cũng đã là 1 điển hình về ý thức kỷ
luật. Có nhiều thành tích trong huấn luyện, tác phong nề nếp chính quy hiện đại
vv… Được là tấm gương cho toàn quân học tập những năm 73-74. Trong chiến đấu
giải phóng miền Nam. Đặc biệt là chiến dịch Hồ Chí Minh. Đại đội 2 Sông Lam
cũng có nhiều thành tích đặc biệt xuất sắc. Được Đảng, Quốc Hội Nhà nước phong
tặng là AHLLVT. Trong chiến tranh BGTN Đại đội 2 cũng là đại đội có nhiều thành
tích chiến đấu. Có nhiều cá nhân rất
dũng cảm trong chiến đấu. Đang được đ/v đề nghị phong danh hiệu cao quý AHLLVT
như Nguyễn song Thao, Ngô khắc Quyền. (cả
2 đ/c này đều bị hy sinh trận ngày 18/7/78) . Đều được truy tặng danh hiệu
AHLLVT).
Thật ngẫu nhiên, Đ/c Trần Trung Nhẫn
lại cũng là chiến sỹ của Đại đội 2 Sông Lam. Lại là lính thế hệ 7/77. Rất hợp
với tiêu trí của 1 điển hình. Trong việc xây dựng 1 điển hình cho 1 lớp chiến sỹ
sau 75 (sau đánh Mỹ). Cái tên Trần Trung Nhẫn cũng có cái gì gần gũi và đặc
biệt. Trận vừa qua, đ/v thắng lớn. Nhẫn lại bị thương, cùng ae dẫn giải tù binh
về. Rất tự nhiên, Nhẫn đã được lọt vào mục tiêu tìm kiếm, xây dựng điển hình
của các nhà báo và đoàn công tác.
Về chuyện
chiến sỹ Trần Trung Nhẫn TP cũng đã viết tiếp bài. Kể về sự thật việc “lăng xê”
c/sỹ Nhẫn một cách quá mức. Làm cho CB chiến sỹ trong đơn vị có nhiều bức xúc.
Có lúc như dathao nói đúng là có tác dụng “ngược”. Nhưng lúc đó chỉ có cấp C-
D- E, biết thôi. Bức xúc nhất là cấp Đại đội. Nhưng qua nhiều lần, các cấp chỉ
huy lãnh đạo xuống. Đả thông tư tưởng nói về cái ý nghĩa to lớn, cái lợi to
lớn, thì chúng ta phải nén cái bức xúc xuống. Mà vui vẻ mỗi người góp cho Nhẫn
một ít thành tích. Vì mục tiêu chính trị là: Xây dựng 1 điển hình trong chiến
tranh BVBG. Nhằm động viên tinh thần chiến đấu, của cán bộ chiến sỹ trong và
ngoài quân đội.
Vì vậy anh em
ta hiểu vấn đề tế nhị này. TP thôi không post tiếp bài đã viết về sự việc Trần
Trung Nhẫn nữa.
Xin cảm ơn anh
em!
Sau trận thắng
ngày 20/6/78. Tình hình toàn tuyến chốt của Trung đoàn 273, được bình yên mấy
ngày. Toàn hướng chốt của Trung đoàn im tiếng súng. Tối đêm cũng không có tiếng
ùng oàng. Cắc bụp, tiến súng tập kích của Pốt. Anh em được dịp “xả hơi”. Ngày
thì tích cực cải thiện, chủ yếu là săn bắt cá, mà các loại cá nhỏ ở đây thì
nhiều vô kể. Hết cá kho, cá nấu, cá rán, cá nướng, cá sấy. Thì cũng chẳng còn
biết làm gì hơn. Các khóm tre cũng đã được khai thác cạn kiệt những cây măng phục
vụ cho bữa ăn của lính.
Mưa. Chính
thức mùa mưa 78 đến. Có ngày mưa ào ào, mưa dầm dề, mưa suốt cả ngày, cả đêm.
Đúng là mưa nhiều, vô tình đã trở thành kể đồng lõa của Pốt. Gây cho các đơn vị
chốt giữ, bao nhiêu phiền toái khổ cực.
Trước hết là
hầm hào, công sự, ngập nước. Nên ngồi gác, không thể ngâm người mãi trong nước
được. Như vậy mình đã là mục tiêu lộ trên cao. Mà về đêm, nếu quan sát tốt nhất
là phải càng ở vị trí thấp, càng tốt. Ngoài tiếng động phát hiện bằng tai. Còn
nhìn được bóng người mờ mờ trong nền trời đêm.
Tiếp đến là
quần áo, anh em lúc nào cũng ẩm ướt. Vì thông thường, mỗi người cũng chỉ có 2
bộ. Mà trong điều kiện mưa triền miên, thì quần áo anh em, làm sao khô được.
Nên nhiều anh em, lại phải mặc độc cái quần đùi (quần xà lỏn). Mưa ẩm ướt, làm
quần áo nhanh bị mục rách. Thế là thêm cái khổ của người lính chốt là thiếu
quần áo mặc.
Tiếp đến do ẩm
ướt ngâm nước lâu những bệnh dịch nước ăn chân, ăn tay, lang ben, hắc lào, cả
ghẻ ngứa v.v.... bắt đầu đồng lõa với Pốt làm khổ lính mình.
Anh Nuôi, lo
chuyện hậu cần cũng thật vất vả. Vì củi đun không có. Phải tận dụng những tre,
gỗ, sàn nhà hỏng của dân làm củi đun. Rồi cái nguồn củi này cũng hiếm cũng cạn
kiệt dần theo thời gian. Việc tiếp phẩm từ VN sang, 15km hàng ngày của từng đơn
vị cũng gian nan không kém. Con đường đi từ Bến Sỏi, Búa Lớn sang. Giờ đây đã
nhão nhoét. Công binh phải vào rừng Hòa Hội, chặt hàng vạn cây gỗ to bằng bắp
chân, bắp đùi, mang ra lót ngang đường cho xe đi.
Nếu có việc
gì, mà về VN. Được đi nhờ những xe Hồng Hà kéo pháo, vận chuyển. Thì là một lần
đi là 1 lần nhớ đời. Vì mọi người đều phải đứng trong thùng xe, bám chặt vào
thành xe. Nhún lên, nhún xuống xe theo từng nhịp xóc ổ voi, ổ gà, vượt qua
những cây gỗ tròn trơn truội. Duy nhất là chỉ còn đ/c lái xe là phải ngồi ghế
lái. Người cứ nhẩy lên nhẩy xuống, nghiêng bên nọ, ngả bên kia. Đầu đập liên
tục vào nóc ca bin. Trông thật tội nghiệp.
Lúc này, hậu
cần đã có thêm sáng kiến. Là
mang bánh mỳ sang chốt. Như vậy lúc đó đơn vị TP vẫn ngày 3 bữa cơm. Nhưng 2
bữa cơm, một bữa bánh mỳ. Sáng kiến này , cũng giải quyết được phần nào vất vả.
Trong việc đun nấu của anh Nuôi. Chăm sóc bữa ăn cho bộ đội trên chốt.
Yên bình
được mấy ngày. Bắt đầu từ ngày 25/6, bọn Pốt lại tập trung tập kích vào dọc
tuyến chốt của Trung đoàn và Tiểu đoàn 1. Lần này chúng tập kích với mật độ dầy
hơn, điên cuồng hơn. Cứ khoảng 8h tối, là đã bắt đầu đợt tập kích chúng. Chủ
yếu là dùng các loại B40- B41 và DKZ bắn tập trung vào các điểm chốt của các
đơn vị. Có đêm chúng tập kích tới hơn chục lần. Làm cho các đơn vị chốt sinh
hoạt rất căng thẳng.
Đại đội
3, vẫn là mục tiêu chính của Pốt. Vì đây là điểm đầu, trong thế phòng ngự của
Tiểu đoàn. Ngoài các trận tập kích đêm. Ban ngày chúng cũng dùng cả pháo cối,
12,7 ly bắn găm vào đội hình chốt. Những khó khăn về trời mưa, nước lụt ngập,
đúng là đã đồng lõa với Pốt. Hành hạ bộ đội mình. Anh em phải chống đỡ chúng
rất vất vả. Vì chúng cơ động ngoài ruộng rộng. Mục tiêu di chuyển. Còn chúng ta
là chốt cố định, lại bị thụ động. Pháo, cối, hỏa lực của mình cũng đã chi viện
tối đa. Mà bọn này như ngày càng say máu. Chúng điên cuồng thể hiện rõ ý đồ lẫn
dũi, nhổ chốt của Đại đội 3.
Đại đội 3
thương vong tăng dần. Quân số bắt đầu
thiếu hụt. Tiểu đoàn và Đại đội vẫn kiên cường giữ chốt. Các Đại đội 1-
2 được tăng cường chốt cho Đại đội 3 để giữ vững địa bàn.
Khoảng
đầu tháng 7/78. Tiểu đoàn yêu cầu Đại đội 1, điều 1 Trung đội thiếu sang tăng
cường khu vực chốt tiền tiêu của Đại đội 3. Lúc đó khoảng 5h chiều. Anh Công,
Anh Đạc căn cứ vào tình hình chốt của Đại đội. Điều động Trung đội 1, đ/c Trần
Vinh để lại một Tiểu đội chốt. Còn trực tiếp đ/c Vinh BT chỉ huy 2 Tiểu đội.
Được tăng cường thêm một B41. Sang vị trí chốt của Đại đội 3. Sau khi được nghe
phổ biến nhiệm vụ. Đ/c Trần Vinh nói: tôi mệt không thể đi sang chốt ở Đại đội
3 được. Anh Công, Anh Đạc thuyết phục mãi mà Trần Vinh cũng không nhận nhiệm
vụ, rồi bỏ vê vị trí Trung đội. Việc xử lý thật khó khăn. Ai cũng biết, sang đó
thay chốt là vô cùng vất vả và nguy hiểm. Nhưng không thể điều Trung đội khác
thay thế.
Trong lúc
anh Đạc, báo cáo lên Tiểu đoàn. Về tình hình khó khăn trong việc điều động .
Tôi xuống Trung đội 1. Chuyện trò và làm công tác tư tưởng với Vinh và anh em
Trung đội 1. Không phải chỉ có Vinh, mà
còn một đồng chí Tiểu đội trưởng nữa, cũng không chịu đi tăng cường cho Đại đội
3.
Thuyết
phục một lúc, tôi kết luận. Nếu Vinh và Thắng(?) không đi, thì hai anh em lui
hẳn về cứ phía sau. Đừng ở đây nữa. Làm khó cho Đại đội và ảnh hưởng tư tưởng
anh em khác.
Suy nghĩ
một lúc, rồi Vinh nói: thôi em nghe anh. Chứ người khác thuyết phục, thì em
cũng rất khoát không chấp hành. Nhưng anh phải tăng cường đạn và bánh mỳ cho
anh em đi chốt. Tôi nói: Đạn thì yên tâm là thoải mái cho anh em bắn. Còn bánh
mỳ thì anh sẽ điều trên Đại đội xuống. Vinh cho anh em làm công tác chuẩn bị
đi.
Tôi trở
về BCH Đại đội, trao đổi lại với BCH về tình hình Trung đội 1. Nói đ/c Vinh và
Thắng(?) đã chấp hành lệnh rồi. 2 đ/c
trinh sát Tiểu đoàn đang đợi ở BCH . Tôi nói liên lạc lấy toàn bộ số bánh mỳ (5
cái) của BCH xuống cho anh em.
Trời đã
nhập nhoạng tối. Tôi bắt tay từng
anh em. Nhất là Vinh bắt tay tôi thật chặt. Tôi nhìn sâu vào mắt Vinh, đôi mắt
to đen kiên nghị. Với đôi lông mày lưỡi mác, thật ấn tượng. Trong lòng tôi trào lên cảm giác xót xa thật khó
diễn tả. Chiều biên giới nơi chiến tuyến, mưa vẫn rả rích rơi. Ngày mưa trời
nhanh tối.
Tôi về đến hầm
chỉ huy Đại đội. Anh Đạc, Anh Công hỏi về tình hình anh em đi tăng cường chốt
C3. Tôi kể cho các anh em về anh em Trung đội 1, về Trần Vinh, về Thắng rồi
nói: anh em mình tốt thật, tuyệt vời thật. Nhưng không hiểu sao tôi cảm thấy áy
náy thế nào ấy !
Đ/c Hiệp liên
lạc, mang mấy phong lương khô dự phòng ra cho mọi người cùng ăn. Vừa ăn vừa nói chuyện thêm về các
công việc của Đại đội. Nhất là khu vực chốt giữ của Trung đội 1, còn có một
Tiểu đội. Tôi nói với anh Đạc: anh xem điều ở Trung đội nào, một Tiểu đội tăng
cường vào chốt Trung đội 1. Mình cứ cẩn thận thì hơn.
Truyện trò
trao đổi tiếp mấy câu , tôi thấy uể oải vào hầm nằm nghỉ . Trong lòng vẫn thấy
bồn chồn áy náy, thật khó tả. Đôi mắt Vinh to tròn, đôi lông mày lưỡi mát, rất
kiên nghị và câu nói : “Em nghe anh, chứ người khác thuyết phục, thì rất khoát
em không chấp hành” cứ hiển hiện trước mặt, cứ văng vẳng bên tai. Trong chiến
đấu, gian khổ, ác liệt hy sinh là lẽ thường tình. Hàng ngày, hàng giờ, trong
Tiểu đoàn, trong Trung đoàn. Đều có tin đ/c này hy sinh, đ/c kia hy sinh. Có
anh em quen biết, hay đồng hương, đồng khói, đồng niên, đồng lứa. Nhưng có
nhiều anh em, mình chưa từng gặp mặt. Hoặc vừa bổ xung về đơn vị, được một vài ngày. Thậm chí một vài giờ, chưa kịp làm
quen, chưa kịp nhớ tên nhau. Đã lại bị trúng đạn, hy sinh.
Hôm trước, nói
chuyện với đ/c Lập trên quân lực. (Sau trận Hà Tiên, đ/c Lập được điều về Tiểu
ban quân lực Trung Đoàn). Anh Lập nói nhỏ: từ khi đi Biên giới, trung bình một
ngày, Trung đoàn có 3 đ/c hy sinh. Số bị thương thường là gấp gần 3 lần. Trời !
đấy mới là trung bình của một Trung đoàn. Còn toàn Sư đoàn, toàn Quân đoàn,
toàn tuyến Biên giới thì không biết con số thật thế nào ?
Nỗi đau của các
đ/c chỉ huy, khi thấy chiến sỹ hy sinh, thương vong nhiều thì vô cùng thương
xót. Lúc nào cũng phải vắt óc ra, tìm cách giảm thiểu số thương vong trong đơn
vị. Luôn phải làm tốt chính sách thương binh, liệt sỹ, với các đồng chí đã anh
dũng hy sinh, vì dân, vì nước, vì Tổ quốc Mẹ hiền kính yêu. Nhưng các chỉ huy,
ngay cả các chiến sỹ cũng đã quen, đã chai sạn, khi chứng kiến sự hy sinh quá
lớn. Có những khi ngẩn người một lúc, khi nghe tin “thằng bạn”, thằng “đồng
hương” vừa hy sinh. Bần thần một lúc, rồi lại bừng tỉnh khi nhận nhiệm vụ. Công
việc thực tại của trận địa đơn vị, của chiến trường. Như nhắc nhở, như động
viên mình không được ủy mỵ. Không
được yếu đuối. Lại tiếp tục chắc tay súng, cộng
thêm cái nghĩ: “Người có số”. Để rồi lại cười đùa, lại lạc quan với cuộc
sống để hoàn thành nhiệm vụ. Những suy nghĩ so đo, tính toán, hèn nhát chợt
đến, nó cũng lại nhanh chóng ra đi. Đầu hàng trước sự lựa chọn của người lính.
Sự lựa chọn vinh dự, trách nhiệm Tổ quốc được đặt lên hàng đầu.
Miên man
với các suy nghĩ, tôi giật mình vì tiếng nói quen thuộc của đ/c Mai liên lạc:
“CT Viên ơi ! Còn rượu đây”. Trong những ngày chốt, anh em trong BCH thường hay
bí mật, gửi tiếp phẩm mua cho rượu. Không phải lúc nào cũng uống, mà thi thoảng
mới dùng. Riêng tôi thì bị cái thói quen, cứ tối đi ngủ là “làm một hớp”. Hình
như rượu, nó làm cho người ta tỉnh táo hơn, mạnh mẽ hơn, hay giúp người ta quên
đi những lăn tăn, so đo tính toán. Với tôi khi làm hớp rượu tối, thì đi ngủ vào
giấc dễ hơn. Tôi cầm bình tông rượu từ tay Mai, làm một hớp thật to. Rồi lại
một hớp nữa. Đ/c liên lạc nói: sao hôm nay CT Viên uống nhiều thế ? Rồi cầm lấy
bình tông rượu cất đi.
Cùng lúc
đó thì súng nổ. Bốn phương, tám hướng súng của Pốt nổ rầm rầm, dồn dập ùng
oang, pằng pằng, cắc bụp, vào khu vực chốt của Đại đội và cả tuyến Tiểu đoàn.
Tôi thổi tắt phụt ngọn đèn dầu. Vơ nhanh khẩu súng ra vị trí chiến đấu.
Hướng C3 súng vẫn nổ nhiều nhất. Đã có
tiếng súng bắn trả của quân mình. Cối 82, cối 60 phía sau cũng đã hỗ chiến rất
nhanh. Ở vị trí Đại đội 1, nhưng đầu óc tôi vẫn nghĩ về Đại đội 3, Trung đội 1
của Trần Vinh đang được tăng cường ở đó.
Trung đội
trưởng Trần Vinh, Tiểu đội trưởng Thắng,
cùng 1 đ/c nữa đã hy sinh lúc 2h
sáng. 4 đ/c khác bị thương. Linh cảm, áy náy của tôi linh nghiệm. Tôi bàng
hoàng như đất dưới chân xụp xuống, khi nghe hung tin này.
Lúc 8h
sáng, Trung đội Trần Vinh được thay chốt,
trở về đội hình Đại đội. Anh em kể lại: khi ra tới chốt tiền tiêu. Khu
vực này có vết tích vài cái nhà sàn. Đại đội 3 dựa vào những vị trí này để tổ
chức chốt giữ. Các hầm chiến đấu, hào chiến đấu, ở ngoài mép vườn, tiếp giáp
với cánh đồng đã ngập nước. Hầm hào đã rất nhiều bùn nước. Đất đào lên, đúng ra
là múc lên làm bệ chiến đấu cũng nhão nhoét. Trần Vinh lệnh cho anh em củng cố
lại các hầm, hào chiến đấu. Anh em lấy mũ sắt, múc hết nước ở dưới hố chiến đấu
và vét bùn lên. Nhưng việc làm này không
có hiệu quả lâu, vì nước lại thấm, lại rỉ ra. Nên không làm sao cho công sự khô
được. Anh em phải đứng trong bùn nước đến lưng bắp chân. Nên việc vận động di
chuyển trong hào là rất khó khăn. Khoảng 30’ sau, thì Pốt tập kích trận đầu
tiên vào chốt. Chúng bò gần vào các chốt, cách khoảng 100m. Đồng loạt bắn các
lọai B40- B41 vào chốt. DKZ 82 từ xa, chúng cứ nhằm bắn bừa vào các vị trí chốt
của ta. Chủ yếu là hỏa lực, còn đạn thẳng là rất ít. Anh em đáp trả bằng những
loạt đạn ak và cả B40 - B41 nữa. Các loại cối của ta đã chi viện kịp thời. Bẻ
gẫy trận tập kích thứ nhất của Pốt. Ngớt tiến súng. Trần Vinh đi vòng các vị
trí, đôn đốc động viên, nhắc nhở anh em vẫn phải tích cực múc nước, củng cố
trận địa. Phải thật cảnh giác đề phòng Pốt mò sát vào chốt tập kích.
Tiếp đến
trận tập kích thứ 2- thứ 3- thứ 4 cũng kịch bản tương tự. Một đ/c bị thương vào
vai. Anh em băng bó và dìu về phía sau. Sau trận tập kết thứ 4. Trận địa lại
chìm trong yên tĩnh. Toàn chốt, mọi người đều thức, không một ai nói đến chuyện
ngủ. Anh em thay nhau canh giác, cảnh giới. Căng mắt ra nhìn, tìm nghe những
tiếng động lạ trong đêm.
Khoảng 2h
sáng, các loại hỏa lực của Pốt lại thi nhau bắn vào các chốt của Trung đội.
Tiếng hô trô - trô ầm ĩ. Hòng áp đảo tinh thần chiến sỹ ta. Anh em chủ động
đánh trả. Hướng chính diện, Trung đội Trần Vinh cùng Tiểu đội trưởng Thắng nhổm
hẳn người lên, để bắn vào những nơi phát ra tiếng Trô– Trô. Phát hiện thấy một
nhóm Pốt vẫn tiến vào chốt. Vinh và Thắng cùng tung ra mấy loạt lựu đạn. Ầm -
ầm - ầm. Nhỏm dậy quan sát, không còn thấy bóng mấy thằng Pốt nữa. Thì rầm....
một quả đạn DK hay B41 của Pốt phóng tới. Lửa khói trùm lên, đúng vị trí của
Thắng và Vinh. Đ/c B41 gần đó cũng bị thương. Trận chiến toàn chốt vẫn tiếp
diễn. Các anh em khác vẫn kiên cường chiến đấu đánh trả Pot. Không còn tiếng
Trô- Trô của Pốt nữa. Trận địa lại chìm trong tĩnh lặng.
Tại BCH
Đại đội 3. Đ/c Phô và CVT Nông thấy hướng chốt Trung đội 1 tăng cường súng nổ
nhiều. Biết là hướng này gặp khó khăn. Ngớt tiếng súng, trực tiếp Đại trưởng
Phô dẫn một Tiểu đội xuống tăng cường chốt B1. Tổ chức đưa Vinh, Thắng cùng mấy
anh em bị thương về phía sau. Từ lúc đó cho đến sáng. anh em lại mấy lần chống
trả các đợt tập kích lẫn dũi của Pốt. Thêm 1 đ/c nữa hy sinh. Nhưng trận địa
chốt tiền tiêu của Đại đội 3 và cũng là của Tiểu đoàn vẫn được giữ vững. Đến
8h, Đại đội 2 tăng cường một Trung đội đến thay chốt cho B1. Anh em trở về vị
trí của Đại đội.
Trong đội
hình chiến thắng trở về, thiếu vắng 7 đ/c. Người đi đầu đội hình không phải là
Vinh. Trần Vinh, Thắng và một đ/c nữa đã hy sinh, 4 đ/c bị thương. Tôi và ae
BCH bắt tay, ôm anh em thật chặt. Nhìn ae quần áo lấm lem, mặt hốc hác thâm
quầng. Thật xót thương cùng bao cảm mến. Tôi không nói được lời nào. Mắt nhòe,
lệ rơi, nỗi xót thương, buồn đau vô tận. Vinh ơi ! Thắng ơi ! Các em ơi! Phải
chăng anh có lỗi với các em ? ? ?
Tôi ngửa
mặt nhìn về hướng mặt trời. Hôm nay trời không mưa, mặt trời đã cao qua ngọn
thốt nốt. Một vài cánh chim bay vút qua. Tôi vẫn thấy trong trung thiên, vũ
trụ. Đôi mắt to, đôi lông mày lưỡi mác kiên nghị và câu nói: "em nghe anh ..." . Cứ
hiển hiện, cứ văng vẳng quanh đây. Đã 33 năm rồi mà như mới hôm qua. Mãi mãi
hình ảnh đó, câu nói đó đã và sẽ luôn theo tôi đến tận cuối đời.
Trong
những ngày tiếp theo, chiến sự vẫn diễn ra như vậy. Chúng vẫn tổ chức tập kích
bằng hỏa lực vào cả tuyến. Nhưng cường độ, mật độ tập trung vào Đại đội 3 vẫn
cao nhất. Đại đội 3, Tiểu đoàn 1, phải chống đỡ rất vất vả. Tiểu đoàn đã xin
Trung đoàn chi viện hàng trăm bao cát. (Bao xác rắn của Mỹ cũ), tổ chức cho vận
tải Tiểu đoàn, đóng đầy đất khô ở phía sau. Tháo dỡ các nhà sàn, hỏng và tận
dụng tre, đan phên. Tận dụng những ván nhà sàn, không người ở. Mang làm hầm có
nắp. Chắn đỡ để hầm hào công sự ko bị sụt lở. Be đắp, các ụ chiến đấu. Chống
được sát thương do đạn cối, đạn nổ ĐKZ
và cả B40– B41 nữa. Toàn tiểu
đoàn tập trung củng cố hệ thống hầm hào, phòng thủ cho Đại đội 3. Nên khu vực
chốt ở Đại đội 3, số thương vong do các loại hỏa lực và cối 82, 60 giảm hẳn đi.
Đời sống của anh em chốt được cải thiện hơn. Mặc dù mỗi ngày, mỗi đêm, vẫn phải
chịu hơn chục trận tập kích của Pốt.
Những
ngày tiếp, bọn Pốt lại tập trung rất đông quân ở khu vực ngã ba Sàm Rông. Khu
vực ngã 4 PRay Âng Ke. Chúng tấn công mạnh vào khu vực chốt của Trung đoàn 266,
giáp với Trung đoàn 273. Chúng đã bị Trung đoàn 266 tổ chức cùng tăng thiết
giáp, xuất kích. Đánh tan các lực lượng của Pốt bu bám trước chốt Trung đoàn
266.
Bọn Pốt
lại chuyển lực lượng về trước khu vực Bắc Chóp. Tiếp giáp tuyến phòng ngự của
Sư đoàn 7 và Sư đoàn 341. Theo trinh sát báo cáo. Thì trước mặt Sư đoàn 341,
tiếp giáp Sư đoàn 7 có 3 Sư đoàn của Pốt. Nhưng mỗi Sư Đoàn chúng chỉ sử dụng
từng Trung đoàn, thay nhau liên tục tấn công, tập kích vào các tuyến chốt.
Các loại
pháo cối của ta và trực tiếp là anh em bb ở các chốt. Đã tiêu diệt và tiêu hao
rất nhiều sinh lực Pot. Nhưng bọn này như càng cay cú điên cuồng hơn. Chúng có
ý định tấn công toàn tuyến. Chia cắt giữa Sư đoàn 7 và Sư đoàn 341. Hòng chiếm
lại khu vực ngã ba Săng Ke. Sư đoàn và Trung đoàn lên phương án chủ động tấn
công tiêu diệt bọn này.
Trong những
ngày ở chốt. Thi thoảng tôi vẫn phải có việc về cứ để làm công tác chính sách
cho ae. Khu vực cứ của Trung đoàn và các đơn vị, từng Đại đội làm các lán tạm.
Tập trung ở khu vực Búa Lớn. Địa danh này, nằm ngay cạnh trục đường 13 (?) sang
CPC. Ở khoảng giữa phà Bến Sỏi tới biên giới, ngay sát rừng Hòa Hội. Chính vì
thế mà nơi này bộ đội ta rất đông. Đồng nghĩa với hàng loạt quán, cà phê, giải
khát, quán nhậu. Của dân địa phương ở đây và dân bên thị xã. Sang mở quán rất
đông. Phục vụ cho bộ đội. Khu vực này nhanh chóng, trở thành 1 địa danh sầm
uất, đông đúc. Anh em trước khi sang đất K thường dừng lại đây mua tạp hóa,
trà, rượu, thuốc, mang sang làm quà cho ae bên chốt. Hoặc là vào quán nhậu,
chia tay đơn vị, hay gặp gỡ đồng hương đồng khói vv…
Với tôi tại
nơi này, cũng tại 1 quán giải khát có 1 kỷ niệm đáng nhớ. Trong 1 lần về cứ khi
đợi xe sang chốt. Tôi xin kể lại cùng các bạn.
Mỗi lần về
phía sau , được nghỉ một đêm thật là vui và thoải mái. Tuy rằng ae vẫn ở lán
trại tạm. mái lán căng bằng tấm vải bạt. Anh em cũng kiếm được gỗ, hoặc tre làm
giát giường kê sát đất. Nhưng cái chính là được sống trong những giây phút yên
bình. Tối ngủ, không phải vừa ngủ, vừa ngóng tiếng bùng bình - cắc bọp của Pốt
tập kích. Lúc nào thần kinh cũng phải căng ra. Chúng tập kích nhiều thì cũng lo
lắng, sốt ruột. Lo cho bộ đội mình thương vong. Hoặc lơ là trong canh gác. Những
lúc mà không thấy chúng bùng bình- tắc bọp theo quy luật, thì lại cũng bồn
chồn, vì sợ Pốt có âm mưu gì mới. Tóm lại ở chốt không bao giờ được giấc ngủ
ngon.
Còn về cứ, nới
đây cũng chưa phải là thật sự an toàn. Vì địa bàn này, vẫn trong tầm pháo của
Pốt. Thứ 2 nữa là bọn “đặc công, trinh sát” của Pốt. Cũng rất hay luồn lách,
vào sâu trong ta. Chủ động tập kích vào cứ, mà ở cứ thì việc canh gác rất đơn
giản, anh em rất chủ quan.
Mọi công việc
đã xong, anh Thú, anh Khi, 2 anh em coi cứ Đại đội đều quê Thái Bình. Lính lớp
72, đều bị thương chưa đủ xếp hạng thương tật. Nên được ở phía sau. Ngoài ra
còn có 2 đ/c nữa bị thương mới đi viện về. Chiều tối hôm đó, anh em mua đồ ăn
về, chiêu đãi tôi. Nói là chiêu đãi cho nó oai, chứ thực ra, anh em cũng chỉ
mua được nửa kg thịt bò về xào nấu. Rồi thêm chai rượu nữa. Ăn xong, chuyện trò
một lúc rồi rủ nhau ra một quán giải khát ngay gần đó uống nước. Tên biển hiệu
của quán là: Thu Cúc. Nhưng anh em lại gọi là quán 3 cô. Mỗi anh em làm một cốc
chè đỗ, tôi uống một cốc nước chanh. Hồi đó giá mỗi cốc nước chanh hay chè đỗ
là 6 hào. Gọi là quán 3 cô, nhưng tôi lại chỉ thấy có 2 người con gái (xin lỗi
quên tên) phục vụ. Nhìn nhanh, thì 2 cô cũng không có gì ấn tượng. Anh em chắc
cũng hay ra uống nước, nên chào hỏi nhau có vẻ thân thuộc. Anh em giới thiệu
tôi với mọi người. Ngồi nhâm nhi một lúc, uống hết cốc nước và hút mấy điếu
thuốc lá. Anh em tôi trở về lán, chuyện trò một lúc rồi đi ngủ. Tôi nói anh em,
sáng mai ăn cơm sớm. Làm sao khoảng 8h là tôi cùng 2 đ/c mới đi viện về, ra đón
xe đi nhờ sang chốt.
Sáng hôm sau,
khi cơm nước xong. Tôi cùng mấy anh em ra quán uống nước và cũng là để đợi xe.
Mỗi người lại gọi một cốc nước. Buổi sáng nên tôi gọi ăn cốc chè đỗ. Lúc này
quán đã có đủ “3 cô”. Thoảng qua cô thứ 3 , trông trẻ hơn 2 cô kia, chỉ khoảng
19- 20. Nước da trắng hồng, đôi mắt to đẹp, nhưng rất lanh lợi. Cũng trang điểm
nhưng ko quá cầu kỳ. Trông dáng rất thành phố. Nhỏ tuổi hơn 2 cô kia nhưng qua
giao tiếp có vẻ “ ià dặn” hơn so với tuổi và so với 2 cô kia. Tôi đoán, cô này
có vẻ là chủ và là linh hồn của quán Thu
Cúc này. Qua trao đổi biết tên cô là Cúc. Quán Thu Cúc mang tên của cô.
3 cô cùng là chị em họ hàng với nhau. Nhưng vì Cúc nhà bên thị xã Tây Ninh, nên
cứ chiều đã phải về bên đó và sáng thì sang. Nên tối qua tôi không gặp.
Tôi cầm cốc
chè lên định uống. Vừa nâng lên, thì …ooạt . Tất cả chè đá trong cốc đổ tràn
xuống bàn, bắn cả vào quần áo tôi. Tôi vẫn ngồi yên, tay vẫn cầm cái cốc thủy
tinh (loại cốc lớn ăn chè, hoặc uống nước chanh) nhưng toàn bộ phần đáy bị rơi
ra. Bao nhiêu chè đã tụt, lênh láng ra hết bàn, mọi người giật mình đều hướng
về phía tôi. Nhìn cái cốc còn độ khoảng 2/3 không đáy, không còn gì bên trong
tôi cười nói: Không phải tại tôi nhé. Tôi đang cầm nguyên cốc đấy. Tất cả 3 cô
chủ cùng mọi người khách đều nhìn, rất bất ngờ vì cái việc hiếm gặp, hy hữu đó.
Cô Cúc rất
nhanh nhẹn, chạy lại lau bàn và nói: Em xin lỗi, em sẽ trực tiếp làm đền anh
cốc khác.
Phải nói là về
nước giải khát, thì các tỉnh phía Nam chế biến ngon hơn và đa dạng
hơn các tỉnh phía Bắc. Nhất là trong những ngày tháng cam go ác liệt đó. Đói
khát, thiếu thốn, nên khi về phía sau, được uống cốc nước mía, cốc chè, cà phê
hay nước chanh, thì cảm thấy lý thú vô cùng. Cái cảm giác mát lạnh và ngọt nó
thấm vào mồm, vào lưỡi, nhanh chóng lan toả khắp cơ thể làm cho ta sảng khoái
ngay, khoẻ khoắn ngay. Chứ ko có cái cảm giác khó chịu như ở miền Bắc hoặc ở
những nơi họ chỉ đập đá ra. Khi ăn chè vẫn bị lổn nhổn đá.
Có những lúc
khát nước ở bên Chốt, hoặc hành quân đánh địch giữa trưa nắng như thiêu như
đốt, tôi hay nói với anh em là: khi nào về phía sau. Về Sài Gòn, tớ sẽ mua cả 1
xô (một thùng) nước mía, gục đầu vào vừa uống vừa gội đầu cho nó đã.
Ở vùng Tây
Ninh, các quán giải khát rất nhiều. Đá lạnh, không đập đá như ở Miền Bắc hay ở nơi
khác. Mà họ có một cái máy bào đá. Đúc bằng gang, sơn vàng hay sơn đỏ. Họ cho
một tảng nước đá vuông to vào, rồi vặn mấy vòng cho cái ty ở giữa giữ tảng đá
không bị rơi ra. Rồi một tay giữ, cái núm tỳ đá. Một tay quay. Tảng đã quay
tròn, bên dưới bàn đỡ có một lưỡi dao thò lên như lưỡi bào gỗ. Như vậy là đá
được bào ra rất nhỏ, bốc chỗ đá bào đó giống như là bốc nắm tuyết. Cho vào và
đắp đầy cả lên cốc nước chanh, hay cốc chè, trông thật hấp dẫn. Người ăn chỉ
lấy cái cù dìa (cái muỗng dài) chọc chọc cho đá xuống hết cốc. Đá nhanh chóng
tan ra, hoà quyện cùng nước chanh hay chè đỗ, làm cốc nước, cốc chè nhanh chóng
mát lạnh. Nghĩ lại mà thấy thật thèm, thật tuyệt.
Sau lúc sự cố
cái cốc của tôi xảy ra. Cô Cúc nhanh chóng làm cho tôi cốc chè khác. Cô lấy tảng
đá cũng cho lên cái máy bào đá, 1 tay giữ một tay quay cho tảng đá quay
tròn thật nhanh. Tảng đá xoay tít, rất
thành thục và điệu nghệ. Tôi quan sát mọi động tác của Cúc. Thầm khen sự khéo
léo rất chuyên nghiệp của người con gái trẻ, có phần xinh đẹp này.
Vèo.... tảng
đá đang xoay tít trên máy, bỗng văng ra lao thẳng về chỗ tôi ngồi nổ oành… vỡ
vụn và bắn ra tung toé. Theo phản xạ tôi co chân, nhẩy ra khỏi ghế. Lùi về sau,
thì cái ghế gỗ tôi ngồi, đổ kềnh. Kỳ lạ là nó không đổ nằm,. Mà lại lộn hẳn, dơ
4 chân gỗ lên trời trước mặt tôi.
Tất cả mọi
người trong quán đều ồ lên nhìn về phía tôi. Tôi giật mình, người nóng ran
giống như có cảm giác đang ở chiến trận. Mà có quả đạn cắm bên cạnh ko nổ. Đúng
là hiện tượng lạ. Thoáng nhìn thấy cô Cúc mặt đỏ lựng. Đứng ngây ra không nói
được lời nào.
Vừa lúc đó có
1 xe Hồng Hà đến dừng trước quán. Để cho ae bộ đội đi nhờ sang chốt. Xe chở đạn
pháo. Trên xe cũng đã có 1 số ae. Đ/c lái xe tắt máy nhấy xuống vào quán mua
mấy thứ. Tôi vẫn chưa hết bàng hoàng về sự cố liên tiếp vừa rồi. Mọi người
quanh đấy nhanh chóng lên xe. Tự nhiên như phản xạ. Tôi nói anh em: ở lại mai
hãy sang.
Chiếc xe Hồng
Hà 3 cầu nổ máy, nặng nề đi về hướng Biên giới. Khoảng hơn chục anh em đứng lố
nhố trên thùng, một tay vịn thành xe, một tay dơ vẫy vẫy tạm biệt. Có anh còn
lãng mạn, điệu nghệ ép tay vào mồm , rồi thả ra . Gửi cái hôn vào gió cho anh
em ở lại. Hay là cho mấy cô gái bán quán không biết nữa.
Thoáng nghĩ,
anh em mình thật vô tư. Ra
Biên giới, sang đất K, là sang chốt. Không ở chốt tiền tiêu phía trước, thì
cũng ở phía sau. Đều trong tầm súng, tầm đạn, tầm pháo của Pốt. Người lính ở
chốt tiền tiêu đương nhiên là vất vả hơn. Nhưng nhìn chung đã sang chốt, sang
đất K, là phải sống trong khó khăn, thiếu thốn, gian khổ. Là cận kề giữa sự sống,
cái chết. Mà anh em vẫn vô tư, hồn nhiên, lãng mạn thật lạ kỳ.
Nhìn
chiếc xe chở đạn, chở lính mất hút về phía xa. Tôi trở vào trong quán ngồi, mọi
người có vẻ bình thường trở lại. Không ai nói gì về những việc vừa xảy ra nữa.
Tôi cũng đã có một cốc chè đỗ, vừa ăn chè, đầu óc cứ nghĩ về chiếc xe. Không
biết mình ở lại đúng hay sai. Anh em được ở lại thì rất mừng. Vì ai cũng thấy,
được ở phía sau ngày nào là đỡ vất vả ngày ấy. Được nghỉ ngơi thảnh thơi, không
phải lo đến súng, đến đạn. Suốt ngày ta ta, địch địch. Nhưng tôi đã hẹn hôm nay
sang chốt. Nên việc ở lại làm tôi rất áy náy.
Ba chị em
Cúc chụm đầu vào nhau, thì thầm nói chuyện gì đó. Thỉnh thoảng lại thấy Cúc
nhìn về phía tôi. Tôi cũng không có tâm trí nào để hỏi thăm trò chuyện, hay là
“tán” chuyện nữa. Ăn xong cốc chè, tôi chủ động thanh toán tiền. Tôi chào mọi
người về lán trước. Nằm ở cái giường tạm, giát giường là các cây gỗ nhỏ ghép
lại, khấp khểnh. Nhưng cũng cảm thấy thật êm ái thư giãn. Nhìn lên trần lán,
tôi vẫn cứ thấy nặng lòng trong việc quyết định ở lại. Vẩn vơ nghĩ về những
việc xẩy ra sáng nay. Không biết liệu có gì không tốt đến với tôi, mà như là có
điềm báo vậy.
Lúc sau,
mấy anh em cũng về lán. Mọi người rủ tôi chơi cờ. Tôi đồng ý ngay. Chơi cờ,
nhưng đầu óc không tập trung. Tôi thua liền 2 ván. Đang bầy ván thứ 3, thì nghe
tiếng ầm......... âm vang như tiếng sấm xa hướng biên giới. Tiến nổ ko lớn nên
cũng không ai để ý nhiều. Vì ở vùng này, thì suốt ngày nghe súng nổ, pháo ta
bắn Pốt hoặc ngược lại. Có điều nếu là pháo của Pốt bắn, thì nghe tiếng đạn
bay, tiếng vo vo là đạn qua đầu. Còn nghe có tiếng rít xoẹt là đạn rơi gần
mình. Nên tiếng nổ vừa rồi cũng là việc
thường tình.
Khoảng 30
phút sau, toàn khu vực nhốn nháo cả lên. Tôi nói anh em ra xem có gì mà nhộn
nhạo thế. Moi người ra khỏi lán. Tiếng ồn áo càng lớn, loáng thoáng những bóng
người chạy đổ ra đường. Tôi cùng anh em cũng chạy ra, anh Thú còn xách luôn
khẩu AK nữa. Trời ! Đã thấy gần chục cái cáng võng đang chạy ngang qua về phía
trạm phẫu. Có những cái võng máu đã thấm ra ngoài loang lổ. Ai cũng chạy theo
vạch võng ra xem người bị nạn. Tôi hỏi đ/c khênh cáng: anh em bị sao vậy ? Đ/c khênh cáng vừa thở
hổn hển vừa nói: xe bị mìn cách biên giới
khoảng 5km.
Ôi đúng
cái xe sáng nay rồi. Từ sáng đến giờ mới có một xe sang. Thật may, thật hú vía.
Nếu sáng nay tôi không quyết định ở lại, liệu tôi và 2 đ/c nữa có ai phải nằm
trong cái võng kia? Không biết thế nào rồi! Mấy cái võng cáng đã đi xa, tôi bần
thần rồi thế nào lại bước vào trong quán (cũng vì quán gần ngay lán cứ của Đại
đội) .
Tôi bừng
tỉnh lại, khi mấy chị em Cúc và một số anh em cứ xúm lại chúc mừng cái “may”
của tôi, của anh em tôi. Vừa tránh được một tai hoạ có thể đến với mình. Cô Cúc
mang cho tôi một cốc nước chanh nói: em chiêu đãi cốc này, anh hên nhé. Đôi mắt
Cúc lúng liếng, nhìn tôi như gửi gắm, như muốn nói điều gì?
Tôi hỏi
một vài anh em cùng đi trên xe, nhưng may mắn không việc gì. Thì được anh em kể
như sau. Xe chạy sang như bình thường. Đường xấu quá, những cây gỗ xếp ngang
đường đã bị gãy, bị dập nát, xếp lên nhau mấy lớp. Nên xe ôtô qua được là rất
khó khăn. Xe chở đạn nặng cứ gầm lên lấy đà, chồm lên, để vượt qua những chỗ lầy lội.
Đúng là
chỉ có xe 3 cầu thì mới có thể vượt qua được. Nghe nói loại xe này là của Trung
Quốc, ngày xưa chế tạo giúp ta, để chuyên chở vũ khí đạn dược dọc Trường Sơn.
Đèo dốc nhiều , nên chỉ có loại xe này mới vượt qua những ngầm sâu, những dốc
cao. Để kéo các khẩu pháo nặng mấy tấn. Vận chuyển hàng vạn, hàng triệu tấn vũ
khí, lương thực, trang thiết bị vào chiến trường. Nó cũng đã góp một phần không
nhỏ, làm lên chiến thắng của chúng ta. Trong thời kỳ chống Mỹ , cứu nước, giải
phóng Miền Nam.
Đi được
khoảng 4- 5 km, thì có một xe đi ngược bị chết máy. Mấy anh em tập trung sửa chữa. Chiếc xe phải đi ra mé
ngoài mép đường, để vượt qua chỗ xe hỏng. Vừa qua xe hỏng khoảng chục m.
Lái xe đang lấy lại hướng vào tim đường. Thì ầm … Tiếng nổ long trời của mìn
chống tăng đã hất tung cả xe lên. (quả mìn chắc sót lại từ lâu). Anh em trên xe
cũng bị hất bay lên và rơi xuống cùng với những quả đạn. Sức nổ mạnh, làm anh
em phía góc bánh sau bị sức ép nặng bất tỉnh và một số bị gẫy chân, gẫy gay hay
chấn thương v.v.......... May mà đạn pháo trên xe không phát nổ.
Ngẫm lại, cái
linh tính người ta hay gọi là giác quan thứ 6 này thật kỳ lạ. Không biết sự
việc này, nó là vô tình, ngẫu nhiên, hay nó có sự liên kết xâu chuỗi nào đó. Mà
mình chưa biết, chưa khai thác được. Không biết hình hài thật của nó là thế nào ?
Nhớ lại
trong một lần, cũng luồn sâu tấn công Pốt. Ở hướng đường 24, lúc đó địch và ta
rất hỗn loạn. Ta và địch không phân định rõ ranh giới. Vì mình luồn sâu vào đất
địch. Khi nổ súng, thì như vậy là phía trước là địch rất đông. phía sau thì
lính Pốt chạy về, mở đường máu tìm đường thoát. Nên như vậy chung quanh 4 hướng
đều có địch. Hướng trước mặt địch phản công mạnh. Tôi cho anh em cối lùi về
sau, để phát huy tốt tác dụng của cối. Thì lại gặp Pốt đang tấn công đến. Bên
phải , bên trái đều có địch. Không thể biết dừng ở đâu cho hợp lý. Chợt thấy
một bãi phân người còn mới tinh. Ngay gần đấy, không biết là của anh em mình
hay Pốt thải ra nữa. Tôi nói ngay với anh em gía súng ngay tại đây. Anh em nghe
theo ngay tức khắc. Từ vị trí này, 2 khẩu cối 60 bắn chi viện được cho cả mấy
hướng rất hiệu quả. Tại vị trí đó được giữ vững cho đến chiều. Anh em mới phải
thu cối, khi có lệnh di chuyển theo đội hình. Những năm tháng qua và bây giờ
nghĩ lại. Vẫn thấy thật là buồn cười với cái quyết định hôm đó.
Qua trưa
, rồi đầu giờ chiều. Tôi ra quán ngồi uống nước một lần nữa . Lúc này quán
vắng, tôi mới chính thức truyện trò với mấy chị em cô Cúc. Cả 3 chị em cùng tập
trung trò chuyện rất vui, hỏi thăm đủ các chuyện. Tôi được biết nhà Cúc ở phía
ngoài thị xã, nếu từ đây về thì nhà sát ngay con lộ vào thị xã Tây Ninh. Nhà
Cúc thuộc diện gia đình có kinh tế khá. Ba Cúc, mới lập một xưởng xay sát, chà
gạo gì đó. Hiện Cúc đang ở với Ba cùng người Dì. Còn mẹ đã mất lâu rồi, Cúc là
con út trong gia đình, trong cuộc sống sinh hoạt phải tự lo liệu sớm. Nên Cúc
rất có bản lĩnh mạnh mẽ, tự tin trong
sinh hoạt. Cuối buổi nói chuyện , Cúc có mời tôi nếu có dịp thì ghé thăm nhà.
Tôi ậm ừ nhận lời, vì cũng chẳng biết đến khi nào mới có thể đến được. Ngày mai
lại sang chốt. Biết bao giờ trở về VN, làm gì có thời gian mà nói tới chuyện
đó.
Tôi bắt
tay chào mọi người về lán. Cảm nhận như là Cúc cố tình để tay lâu trong tay
tôi, như có biểu cảm gì đó. Mắt nhìn tôi cảm mến, như là 2 người đã quen nhau
lâu rồi. Tôi thoáng bối rối, nhận ra tình cảm ấy của Cúc. Tôi buông tay Cúc ra,
rồi nói to chào mấy chị em. Tôi bước nhanh về lán, như là chạy trốn điều gì sắp
đến. Sáng hôm sau tôi cùng 2 ae trong
Đại đội đón xe sang chốt sớm.
Anh em
tôi đón xe từ sớm sang chốt. Qua khu vực chỗ xe bị mìn hôm qua, mới thấy sợ.
Chiếc xe còn đó, nằm rìa ngoài đường. Sức nổ mạnh của quả mìn chống tăng, làm
bay đi cả một góc xe. Thật hú hồn, hú vía, nếu như hôm qua mình cũng có mặt
trên chiếc xe này.
Xuống xe
ở đường 13. Anh em tôi đi bộ mấy km nữa mới tới vị trí chốt của Đại đội. Mấy
khấu 12,7 của Pot vẫn đang thùng- thùng- thùng
bắn về hướng chúng tôi. Đạn cuối tầm rơi cắm phập phập chung quanh hay
xuống nước bắn tung tóe. Đạn cuối tầm nhưng cũng vẫn nguy hiểm. Chúng vẫn có
thể gây thương vong chết người nếu vào chỗ hiểm. Tôi nói ae chạy vận động
ngang, tránh hướng bắn của Pot. Tới chốt, anh em trong BCH Đại đội vô cùng
mừng. Vì ở đây, cũng đã nghe kể về xe bị mìn hôm qua. Nên anh em rất lo, liệu
tôi có đi chuyến xe đó không ? Trà thuốc, kẹo được bày ra. Chuyện trò trao đổi
về tình hình đơn vị, tình hình địch.
Qua trao
đổi, anh Đạc, anh Công kể trong 2 ngày vừa rồi, chiến sự vẫn tiếp diễn như cũ.
Nhưng qua trinh sát báo, bọn Pốt đã tập trung rất đông quân ở phía trước, đối
diện với đội hình của Trung đoàn. Chúng rất cay cú cho trận 20/6 vừa qua. Cho
đến bây giờ mà chúng chưa đẩy hay chiếm được chốt nào của ta. Chúng vẫn âm mưu
đẩy lùi ta về biên giới, chiếm lại vùng này. Có tin của Cục 2 là chúng đang hối
thúc 3 Sư đoàn phía trước. Tăng cường hơn, chủ động hơn, trong việc tập kích ta
cả ban ngày, tích cực lấn dũi ban đêm. Hòng tiêu hao sinh lực ta, rồi tấn công
chiếm chốt đẩy lùi ta về biên giới.
Xong cuộc
trao đổi, tôi nói đ/c liên lạc đi một vòng thăm vị trí các Trung đội và 2 Tiểu
đội hỏa lực. Cho ae ít trà, thuốc lá mua ở Búa Lớn. Anh em rất vui. Nhìn chung,
hầm hào của các Trung đội, đã củng cố tốt hơn. Nhưng đa phần là vẫn không có
nắp tránh đạn rơi. Tôi về bàn với BCH mời các Trung đội lên hội ý. Yêu cầu anh
em phải tận dụng các vật liệu sẵn có trong khu vực. Cố gắng làm được nhiều hầm
bán âm, bán dương nhưng phải có nắp đất. Để tránh đỡ các loại đạn rơi, đạn
cối nhỏ và các loại B40, B41 của Pốt.
Ban ngày
ở chốt thời gian như thật dài, nhưng tối ập xuống rất nhanh. Cơm chiều xong
truyện trò với anh em một lúc. Không biết làm gì, tôi đi nằm sớm. Nghĩ lại sự
việc xẩy ra hôm qua bên cứ. Cái cảm giác mềm ấm của bàn tay Cúc, đôi mắt đẹp,
lanh lợi rất ấn tương. Nhưng sao thấy có nét buồn trong đó cứ hiển hiện lên.
Cái điềm báo thật kỳ lạ. Phải chăng giữa Cúc và tôi có nhân duyên gì chăng ?
Qua sự việc xẩy ra đó, qua mấy câu chuyện xã giao. Dường như Cúc và tôi cũng có
những đồng cảm. Ôi ! Nhưng đời lính, chiến đấu gian khổ thế này, ai là người
giám nghĩ đến chuyện yêu đương, hay vợ con cơ chứ. Nhưng đôi mắt đẹp và buồn
ấy, hơi ấm của bàn tay con gái mềm mại ấy, cứ làm cho tôi vẩn vơ suy nghĩ .
Đang miên
man nghĩ ngợi, thì ùng- ùng, oàng- oàng. Đợt tấn công thứ nhất của Pot vào chốt
bắt đầu. Tiếng súng tiếng cối của ta cũng đã đáp trả. Nhưng hôm nay bọn Pốt
đánh vào dọc tuyến chốt các Đại đội, lâu hơn thường lệ. Đạn các loại nổ rồn rập
trong khu vực chốt của Đại đội. Khoảng 30 phút sau mới im tiếng súng. Rất may
toàn Đại đội không ai bị thương. Liên tục đến sáng cứ cách 30- 40 phút là Pốt
lại tập kích hỏa lực 1 lần. Anh Công nói: quái lạ hôm nay chúng tập kích ta quá
nhiều. Bọn này có âm mưu gì mới đây. Cho tới gần sáng, đợt kích cuối, một quả
đạn DK làm cho 3 đ/c trong Trung đội 2 bị thương. Anh Đạc báo về Tiểu đoàn, 30
phút sau thì vận tải Tiểu đoàn lên. Chuyển anh em về phía sau.
Khoảng 7
giờ, Tiểu đoàn báo 2 đ/c cấp trưởng lên Tiểu đoàn, để về Trung đoàn họp quân
chính triển khai nhiệm vụ chiến đấu.
Hội nghị
quân chính của Trung đoàn . Trực tiếp Sư đoàn phó Mười Thứ, (ông mới đi học tại
Liên Xô về, làm Sư đoàn phó 341), nói chuyện, phổ biến tình hình Quốc tế. Tình
hình ta và các nước láng giềng. Giữa ta và Trung Quốc. Hiện có những mâu thuẫn,
bất hòa về quan điểm. Nhất là từ năm 1972 khi mà Trung Quốc đã bắt tay quan hệ
ngoại giao với Mỹ. Cái luận điểm lúc nào cũng coi Mỹ là “con hổ giấy, tên Sen
đầu quốc tế ” v.v... Đã không còn nữa. Đỉnh cao nhất cho sự thay đổi quan điểm,
là chuyến đi thăm Trung Quốc của Tổng thống Mỹ NixSon. Những thỏa thuận gì giữa
họ có trời mà biết Huh.
Nhưng
tình hình, quan hệ giữa ta và Trung Quốc ngày càng xấu đi. Nhất là sau khi
chúng ta giành được thắng lợi năm 75. Thống nhất đất nước, thì chúng hậm hực ra
mặt. Chúng tăng cường các thế lực bành trướng, ủng hộ và viện trợ cho bọn Pốt-
IengXaRi. Kích động thù hận lâu đời, giữa ta và CamPuChia. Nên đã gây ra cuộc
chiến tranh biên giới Tây Nam này.
Chúng ta
đánh Pốt, để bảo vệ chủ quyền đất nước. Bảo vệ nhân dân. Cũng đánh cầm chừng để
hy vọng Pốt thức tỉnh. Trái ngược với
thiện trí hòa bình, đoàn kết của ta. Chúng càng điên cuồng, dùng tổng lực tấn
công dọc tuyến biên giới giữa ta và
chúng. Chúng tổ chức luồn sang chiếm đất , giết hại dân lành, vô cùng dã man
tàn bạo. Gây hoang mang, chia rẽ, đào sâu hận thù lâu đời của 2 dân tộc.
Chúng ta
đã phải dùng chiến lược: đưa chiến tranh sang đất K. Làm chúng lại vô cùng cay
cú, say máu hơn điên cuồng hơn. Trong nước, chúng đã giết chết và thủ tiêu hàng triệu người dân vô tội, từ người già đến
trẻ em. Chúng đang thực hiện xây dựng, một chế độ xã hội chủ nghĩa hão huyền,
hoang tưởng. Theo chế độ công xã, tập thể như của Trung Quốc. Mà lại còn cực đoan
hơn cả Trung Quốc. Một xã hội không chợ, không tiền, không trường học, không
trí thức. Ai không nghe là chúng đập chết bằng búa, bằng cuốc, bằng xẻng v.v...
Lực lượng
chống đối Pot đã nổi dậy 1 vài nơi. Một số chạy sang ta, yêu cầu ta giúp đỡ họ.
Nhưng lực lượng này còn non trẻ, mới phôi thai. Nên chúng ta từng giúp “bạn” ,
nhưng đến bây giờ “bạn » đã phản bội ta. Chúng ta lại phải giúp “bạn“. Người “bạn” chân chính còn trong trứng
nước. Nên vì thế n/v của chúng ta đang còn rất nặng nề.
Hiện tại, hướng QĐ4, trực tiếp là hướng Sư
đoàn 341 đảm nhiệm. Các đ/v đã làm tốt n/v chốt chặn, đánh địch, giữ vững trận
địa. Tiêu diệt được rất nhiều sinh lực địch. Đặc biệt như trận luồn sâu đánh
địch của Trung đoàn ngày 15/6 và 20/6. Nhưng giờ đây chúng ta đang gặp rất
nhiều khó khăn. Đây là khó khăn chung của Quân đoàn, và quân đội ta, đất nước
ta. Từ quân số, đến lương thực, súng đạn vv …
Bọn Pốt
đang tập trung tới 3 đầu Sư đoàn trước đội hình chốt của Sư đoàn 341. Chúng
điên cuồng, tăng cường tập kích vào các chốt, có ngày tới hơn 20 lần. Làm anh
em bộ đội mình thương vong, hao hụt quân số nhiều. Hiện nay, theo Trinh sát và
Cục 2 phát hiện, chúng đang chuẩn bị tấn công. Trên quy mô lớn, vào hướng chốt
của Sư đoàn.
Vì vậy
nếu chúng ta chỉ chốt giữ, phòng thủ thì rất khó khăn. Chúng ta phải tổ chức
xuất kích, chủ động tiến công địch như trận 20/6. Để phá tan chiến thuật bu
bám, lấn dũi của chúng, phá tan âm mưu
tấn công ta.
Trung đoàn
273, trong mấy ngày tới. Phải tổ chức xuất kích, đánh địch. Với kịch bản giống
như trận ngày 20/6. Hôm nay họp hội nghị, là ngày 10/7. Các đơn vị về làm công
tác chuẩn bị tốt. Để đêm 12, sáng ngày 13/7 ta xuất kích tiến công địch.
Sau khi họp
quân chính ở Trung Đoàn về. Anh Công, anh Đạt lại về họp bàn phương án tác
chiến của Tiểu đoàn 1. Trận này, Trung đoàn yêu cầu Tiểu đoàn1, chỉ cử Đại đội 1 tăng cường luồn
sâu với Tiểu đoàn 3. Đại đội 2 và một số anh em Đại đội 4 và các đồng chí Vận
tải, Trinh sát (trừ 2 đồng chí Trinh sát
dẫn đường cho Đại đội 1 luồn sâu) lên thay vị trí chốt của Đại đội 1. Hướng
Đông XvayChek, có 2 Đại đội của Trung đoàn 266 vòng ép hướng đó.
- Tiểu đoàn 3
và Đại đội 1 vòng ép hướng bên trái (Bắc
chóp). Tách 1 Đại đội cùng Đại đội 1 chia thành 2 mũi đánh vòng vào Phum
như lần trước.
- Tiểu đoàn 2
vẫn cùng xe bọc thép đánh ép lên. Mọi việc chuẩn bị phải hoàn tất vào trưa ngày
12/7. Đúng 22h phải tổ chức luồn sâu và giờ G ấn định là 5h30 sáng ngày
13/7/78.
Tóm lại, trận
này ta tổ chức kịch bản vẫn giống như trận ngày 20/6. Chỉ có điều là sử dụng
lực lượng có khác trước. Là có sự phối hợp tác chiến tấn công của 2 Đại đội của
Trung đoàn 266, thay cho 2 Đại đội của Tiểu đoàn 3 đảm nhiệm hướng cánh phái.
Anh em cán bộ
được phổ biến, là lực lượng của Pốt tập trung đông hơn lần trước. Lần này tác
chiến cùng một địa hình nên bọn Pốt đã đề cao cảnh giác hơn. Phải nhắc anh em
các đơn vị , không được chủ quan coi thường địch. Có phương án đề phòng Pốt
phản kích ngay, bu bám ngay. Gây khó khăn cho ta khi đã làm chủ trận địa, quay
trở về vị trí chốt .
Anh Công và
Anh Đạc tổ chức họp các bộ, để phổ biến tình hình, nhiệm vụ của Đại đội. Hiện
tại hơn 20 ngày giữ chốt và tăng cường cho chốt Đại đội 3. Quân số của Đại đội
cả bổ sung mới nữa được gần 40 tay súng. Lần này đi luồn sâu phối thuộc được
tăng cường một khẩu 12,7 ly của Đại đội 4, cùng thông tin trinh sát. Lực lượng
của Đại đội 1 được gần 60 người.
Mọi công tác
chuẩn bị cho trận chiến cũng đã xong . Anh em Đại đội 2 và các lực lượng đến
thay chốt cũng đã nhận vị trí từ chiều . Để làm quen địa hình . Anh em Đại đội 1 được nghỉ ngơi
đợi đến giờ xuất phát.
Sau khi làm công
tác chuẩn bị xong. Mấy anh em tôi trong BCH Đại đội ngồi nói chuyện. Mọi người
đều không vui, vì phải đi chiến đấu tăng cường. Nếu cả Tiểu đoàn cùng đi tác
chiến thì không nói làm gì. Còn thường đi tăng cường chiến đấu, đôi khi nó gần
giống như là “con nuôi” và “con đẻ” vậy. Sự quan tâm của chỉ huy đơn vị phối
thược thường coi nhẹ, các đơn vị “con nuôi“ hơn. Thậm chí, có đ/v khi rút quân
quên luôn cả không báo cho đ/v phối thuộc. Nên tâm lý các đ/c chỉ huy, bao giờ
cũng có tư tưởng ngại đi chiến đấu theo kiểu tăng cường.
Nghĩ là vậy,
nhưng nhiệm vụ đã được giao. Thì ai cũng phải chấp hành, tuy rằng trong lòng
không vui không thoải mái. Cũng không
được để lộ cái suy nghĩ ấy, cho anh em cán bộ chiến sỹ cấp dưới biết.
Ảnh hưởng đến tư tưởng, đến sức chiến đấu của đơn vị.
Trời chiều lất
phất mưa. Những cánh đồng trước mặt đã là một
màu trắng mênh mông nước. Xa xa, thỉnh thoảng mới thấy một vài bờ cỏ, xa
nữa có một bờ mương thẳng tắp. Nhiệm vụ của Đại đội 1 và Tiểu đoàn 3, đêm nay
phải vượt qua đồng nước mênh mông đó. Vượt qua bờ mương cao kia, luồn sâu vào
đất địch. Tránh né các chốt của địch, ém tại đó để đến sáng mai giờ G xung
phong tấn công tiêu diệt địch.
Đến 4h chiều,
các trung đội đã tổ chức cho bộ đội ăn cơm, nhận thêm một phần cơm nắm không
độn bo bo. Rồi nghỉ ngơi, đợi lên đường. Hoàng hôn đã tắt, bóng tối ập xuống
nhanh. Cũng giống như những ngày qua. Nhưng hôm nay anh em Đại đội 1 không phải
vào vị trí gác, mà mọi người đang âm thầm làm công việc chuẩn bị, cho trận
chiến đêm nay. Sẽ lại có một đêm ngâm trong nước. Có một đêm thức trắng, có một
ngày chiến đấu vô cùng vất vả. Ai cũng nghĩ vậy, cũng thấy trước được những
cảnh đó sắp diễn ra. Mọi người chính là
người trong cuộc. Đợi chờ giờ xuất phát bao giờ cũng cảm thấy thật dài. Nhưng
cũng không ai có thể vô tư mà ngủ được. Anh em rì rầm chuyện trò, những chuyện
của lính thì bao giờ cũng là đề tài bất tận.
Khoảng 7h tối
lại bản hợp xướng bằng các loại súng của Pot vào đội hình Đại đội. Các đ/c thay
chốt cũng bắn trả. Trong chiến đầu nhất là ở chốt cứ đông quân là cảm thấy được
“ấm lưng” hơn. Gía như quân số của Đại đội dược đông như thế này.
8h tối - 9h tối, rồi 9h 30, Pót tập
kích vào chốt 2 lần nữa. Không có ai thương vong. Trinh sát Tiếu đoàn báo Tiểu
đoàn 3 đang đến. Anh Đạc nói LL xuống báo các đơn vị ra vị trí chuẩn bị xuất
phát. Anh em chúng tôi cũng ra vị trí tập trung. Tôi cùng 1 đ/c liên lạc xuống
đi cùng với Tiếu đội cối 60. Toàn đội hình lặng lẽ lên đường.
Ra khỏi rìa
Phum là anh em bắt đầu phải lội nước. Bước chân đầu tiên lội xuống nước, xuống
sình mới ngại làm sao. Bên K không có mùa đông, nhưng trời mùa mưa thường mát
hơn mùa hè nhiều. Buổi tối nhiệt độ lại như giảm hơn cả cái mát. Gió trời lồng
lộng, mưa lớt phớt. Cũng không có ai khoác áo mưa. Đi trận khoác áo mưa thì thật
là không hợp lý. Nên nước mưa, nước ruộng, làm cho anh em thấy lạnh ghê gớm.
Nhưng đấy là cảm giác đầu, khi bước chân xuống nước. Còn khi đã bì bõm được 1
lúc rồi, đầu óc luôn phải tỉnh táo, phải căng tai, căng mắt ra. Mà đi trong
đêm, thì không ai còn thấy lạnh nữa. Cái rét, cái lạnh không thắng nổi sức nóng
trong cơ thể của những người lính chiến.
Bì bõm, bì
bõm. Vẫn 2 đ/c trinh sát Tiểu đoàn lần trước dẫn đường, đi theo đường tiền nhập
cũ. Đi được một quãng, tôi cảm thấy cứ
ngứa ở dưới ống chân. Không biết có gì vướng vào, bèn thò tay xuống gãi. Thấy
có gì nhơn nhớt, bám vào da thịt tôi. Cầm vứt ra, nhưng nó có vẻ cứ trơn trơn,
dính nhằng nhằng. Thôi chết, đỉa rồi. Cái thứ mà tôi sợ nhất, đang bám vào tôi
hút máu tôi. Tôi rùng mình, nghĩ lại ngày xưa về quê, mà ra ruộng chơi. Những
ruộng nước trong veo, có những loại hoa trắng nhỏ, lá như lá sen nhỏ, cũng xòe lan ở mặt nước. Tội lội xuống đưa
tay với, định hái những bông hoa ấy. Thì eo ơi, những con đỉa núc nhúc bơi đến.
Lội nhanh lên bờ mà đã có mấy con bám đeo vào chân. Dứt mãi mới ra. Theo kinh
nghiệm, mọi người nói: nên nhổ ít nước bọt vào tay, cầm kéo đỉa ra dễ hơn. Tôi
cũng làm theo như vậy và kéo được con đỉa ra vất đi. Rồi đưa tay sờ vuốt kiểm
tra cả 2 chân. Trời ! Nhiều đỉa quá, tới hàng chục con đã bâu bám hút máu tôi.
Loại đỉa này nó có cái chất gì đó mà khi hút máu, cái chỗ vết thương đó rất khó
cầm máu. Ở quê, thường mọi người hay cấu tý lá nón dán vào để ngăn máu chảy.
Còn ở đây hàng chục vết cắn thế này lấy gì mà dịt, mà ngăn máu chẩy. Sao hồi
này ở đây nhiều đỉa thế không biết. Chắc do nước ngập lâu nên lũ này sản sinh
nhanh chóng. Vậy chắc tất cả anh em đều bị. Nhưng làm sao bây giờ. Không ngờ
loại nhuyễn thể này, lại trở thành kẻ thù của mình. Trực tiếp hút máu mình, hút
máu anh em đồng đội mình. Thật độc ác. Nó độc ác có thể nói như thằng Pốt. Thật
căm thù. Tôi nói đồng chí liên lạc nói anh em là đỉa rất nhiều. Anh em cũng đã
phát hiện điều này và cũng đang rất là bức xúc khó xử với lũ hút máu này.
Đi , lại lúc
đi lúc dừng. Đợi trinh sát chọn đường, cắt phương vị, tránh né các chốt râu tôm
của Pốt. Trời mưa, nên bọn Pốt có lẽ cũng chủ quan trong việc canh gác hướng
này. Còn hướng chốt của Tiểu đoàn vẫn thấy tiếng súng tập kích của Pót cùng
tiếng súng bắn trả của ae chốt. Đúng là lính nào thì cũng khổ như nhau, bọn Pốt
cũng đâu có sung sướng gì. Có khi chúng còn khổ, chịu khổ hơn cả lính mình nữa
chứ. Vậy nổi khổ này ? Đau thương này ? Là do ai gây lên ? Thoáng nghĩ như vậy,
rồi tôi lại tìm ngay ra câu trả lời: Là do bọn phản động bá quyền, bọn hiếu
chiến khát máu, tập đoàn Pôn Pốt- IengXaRi phát động. Sự giật dây kích động, là
tập đoàn bành trướng Bắc Kinh.
Cũng cứ tưởng,
năm 75, CM CamPuChia thành công. CM Việt Nam thành công, thì những người
lính, người dân ở 2 nước, được sống
trong hòa bình. Có ai ngờ, sự ngông cuồng, sự ngu ngốc, sự hiếu chiến của chúng
nó đã làm 2 đất nước, 2 dân tộc chưa kịp hàn gắn vết thương sau cuộc chiến dài.
Lại lao vào đánh nhau, gây nên những thù hận mới, vết thương mới. Thật căm thù.
Tao căm thù chúng mày, khi ghét chúng mày, hơn cả những con đỉa đang hút máu
chúng tao đây.
Vòng vèo mãi,
gần 3h sáng. Đội hình cũng đã đến vị trí tập kết 1. Trinh sát quay lại đón Đại
đội 9 của Tiểu đoàn 3 lên đánh cùng hướng với
Đại đội 1. Hai Đại đội tiếp tục luồn sâu hơn 1km nữa tới vị trí tập kết
2. Từ vị trí này đợi đến 5h30 tấn công vào Phum như lần trước.
Vào đến vị trí
tập kết, anh Đạc nhanh chóng bố trí đội hình tấn công của Đại đội. Rồi cùng
liên lạc và Trinh sát sang Đại đội 11, bàn việc phối hợp tác chiến với Đại đội
trưởng Ngọc. Anh em chuẩn bị hố chiến đấu rồi lại bắt đầu bài ca cơm nắm bột
canh. Mệt và đói, nên nắm cơm như là thật nhỏ. Vèo một cái đã hết. Nhưng cái
nắm cơm này cũng làm cho anh em tăng được bao nhiêu "kg" sức khỏe.
Anh Đạc cùng 2
trinh sát đã về. Anh Ngọ và anh Ngân trinh sát sang chỗ tôi thì thầm nói chuyện.
Mấy năm trước, khi làm trợ lý Tiểu đoàn bộ. Tôi thường hay sang Tiểu đội trinh
sát chơi cờ. Nguyễn Đăng Ngân lính 5/72 quê TB. Còn Nguyễn Trịnh Ngọ là lính
12/74 quê ở Hương Sơn- Hà Tĩnh. Tôi với 2 anh em có rất nhiều kỷ niệm. Với Ngân
thì năm 76, Cùng trong tổ 4 người, do tôi phụ trách. Biệt phái xuống phường 7,
Q11 làm công tác kê khai, cải tạo tiểu thủ công nghiệp. Thời gian ở đó khoảng 6
tháng. Chính thời gian này tôi gặp Thanh. Cô bé cạnh nhà của đội công tác, năm
đó mới có 16 tuổi. Đôi mắt to tròn đen láy, da trắng, tóc dài. Ở Sài Gòn người
như vậy, để tóc như vậy là hiếm. Không hiểu sao, qua một vài lần gặp. Thanh đã
nhanh chóng quý mến tôi. Rồi cả cái xóm chung cư Lý Thường Kiệt lô C ấy đều trêu,
đều ghép chúng tôi với nhau.
Nguyễn Trinh
Ngọ là dân Hà Tĩnh, mới học xong lớp 12 rồi nhập ngũ ngay. Ngọ đẹp trai, nhanh
nhẹn, rất có bản lĩnh trong chiến đấu. Sống tình cảm, rất hay tẩm quất cho tôi.
Ngọ có một bài tẩm quất gia truyền rất tuyệt vời. Hôm nào thấy người mệt mỏi,
tôi hay nhờ Ngọ đánh cho một bài. Ngọ đấm đấm, bóp bóp, vỗ nổ đôm đốp, rất điệu
nghệ. Rồi điểm một số huyệt đạo, xong lấy tay beo các thớ thịt. Kỳ lạ, tay Ngọ
bẹo vao chỗ nào cũng kêu rắc rắc, rất thích và sảng khoái. Tôi đã nói Ngọ dạy
cho bài tẩm quất này. Ngọ đã hứa là truyền nghề, nhưng đến bây giờ 2 năm rồi mà
vẫn chưa thực hiện được. Hồi đầu giải phóng, làm quân quản ở phường Bình Thới
Q11 tôi là đội trưởng. Trong đội có cả Ngọ, ngày đầu giải phóng những công việc
quân quản rất bận rộn. Nào là kê khai dân số, lứa tuổi, trình độ, nghề nghiệp.
Tìm và thanh lọc ra những phần tử phản động, phần tử trong chế độ cũ, có nợ máu
lẩn trốn trong dân. Không chịu khai báo để đi học tập cải tạo vv….
Trong thời
gian ấy, Ngọ có yêu cô Thủy trong đội công tác cùng Phường. Đơn vị biết ngăn
cấm, nhưng Ngọ vẫn yêu đến bây giờ. Tôi mới hỏi chuyện, Ngọ nói 2 đứa vẫn yêu
nhau. Đang đợi dịp được về nghỉ làm đám cưới. Tôi thầm cảm động, cảm phục tình
yêu của Ngọ và Thủy. Chợt nghĩ đến mình. Tại sao tôi lại nói lời chia tay,
ngay khi biết có lệnh đi chiến đấu ở
Biên giới. Giờ này Thanh đang làm gì ? Chắc còn đang ngủ, liệu trong giấc ngủ,
có bao giờ Thanh mơ thấy tôi không ? Có quyển sách nào đó tôi đã đọc có câu: “
khi em ngủ, thần thoại về đậu trên mắt em. Cuộc đời màu xanh, tình yêu màu
hồng“...Còn chúng tôi, Ngọ, Ngân, cùng bao anh em ở đây ai cũng đã từng có tình
yêu, có vợ, có con. Có những dự định cho cuộc đời, đôi lứa. Nhưng giờ đây, suốt
ngày ùng- ùng, òang- oàng, sinh lầy nước
đọng, đỉa bâu thế này, liệu có bao giờ có nổi những giấc mơ thần tiên ấy.
Giật mình vì
tiếng vỗ cánh của đàn chim kiếm ăn sớm. Tôi cũng giật mình, vì sao hôm nay,
mình miên man ủy mị thế. Tôi nói Ngọc và Ngân 1 câu hơi thừa: khi xung phong 2
ông bám cùng BCH Đại đội nhé. Rồi tôi xuống Trung đội 1. Trung đội trưởng Vinh
đã hy sinh. Đ/C Minh đi viện về lên thay vị trí của Vinh. Tôi trao đổi với Minh
mấy câu, thì đã thấy tiếng đề pa của cối bắn vào Phum. Tiếng nổ đầu nòng và
tiếng nổ của Đạn cũng đã hòa gần là 1. Đầu tiên thưa dần, rồi rền vang cấp tấp.
Tôi về chỗ cối 60, xem ae bắn. 2 Đại đội là 4 khẩu cối 60 cũng Tong- Tong- Tong-
Tong vào Phum. Không gian vỡ òa, mùi khói thuốc phóng đã khét lẹt. Các loại cối
pháo bắn 15 phút thì có 3 phát pháo hiệu đỏ vụt lên. Chuấn bị xung phong. Đầu
tiên là 2 khẩu 12,7 ly, 4 khẩu đại liên của 2 Đại đội, thùng- thùng- thùng điểm
xạ bắn găm vào Phum. Các loại B40, B41 ùng- oàng cấp tập vào rìa làng. Tiếng
anh Công, anh Đạt hô xung phong, toàn Đại đội lao lên, vừa hô xung phong vừa
bắn. Đại đội 11 của anh Ngọc, tiếng hô vang thật to. Tất cả lao lên như vũ bão.
Tôi cùng Ngân, Ngọ cũng làm mấy loạt AK, rồi lao tiến cùng anh em.
Đã có tiếng
súng của Pốt bắn trả. Cả tiếng ùng oàng của B40, B41 nữa. Anh em nhanh chóng
phản vào các mục tiêu vừa bắn của Pốt. Tôi cùng đ/c liên lạc đã lên được bờ đất
cao. Đang tiến, chợt thấy lóe lửa ngay phía trước, oàng, đất tung lên cùng
tiếng nổ thật đanh. Tôi và Hiệp đều đổ ập người xuống. Đ/c An y tá chạy đến,
xem và kiểm tra vết thương rồi băng cho tôi. Tôi thấy choáng một lúc rồi tỉnh
táo ngay. Như vậy là tôi bị hơi ép và mảnh găm nhẹ ở trán. Chân có một vài vết
thương nhỏ. Mọi người đã tấn công vào Phum. Hiệp cũng bị thương nhẹ. Tôi cùng
Hiệp và đ/c ytá bám đuổi theo đội hình. Thật hú hồn. Nếu tôi tiến nhanh mấy
bước, thì ko biết thế nào ? Tiếng súng vẫn nổ dồn ở mọi hướng. Lần này bọn Pốt
có vẻ chống cự dai hơn lần trước. Nhưng chúng cũng chỉ chống cự được 1 lúc.
Không chịu được sức công phá như vũ bão của ta.
Tất cả bật
chốt chạy. Anh em truy kích. Hướng Tiểu đoàn 3 cũng đã ào tới. Đ/c Thao Tiểu
đoàn trưởng gặp ae tôi nói: Mấy anh em cụm lại đây, rồi để vận tải nhanh chóng
đưa các thương binh liệt về sau trước. Tiểu đoàn 3 cũng đã có 2 đ/c hy sinh. 5-
6 đồng chí bị thương. Đ/c Lưa chính trị viên Tiểu đoàn 3, nhanh chóng tổ chức
cho vận tải khênh cáng anh em hy sinh và bị thương nặng về phía chốt. Anh Công
cũng nói tôi và Hiệp cùng về luôn.
Chúng tôi quay
về chốt theo đường thẳng. Phía sau, tiếng súng truy đuổi Pốt vẫn nổ dồn. Tôi
cùng nhóm vận tải khênh cáng thương binh nặng, cùng 2 đ/c Tử sỹ về phẫu Trung
đoàn. Đằng sau tôi, các loại súng vẫn nổ.
Về tới phẫu,
các YBác sỹ, anh Thu, anh Quyết, Anh Chính, Bác sỹ Nhật nhanh chóng xem vết
thương cho mọi người. Có đồng chí bị thương vào nát gối, phải cắt bỏ ngay. Tôi
thấy Bác sỹ Nhật nói nhỏ với các đồng nghiệp như vậy. Anh Chính xem vết thương
cho tôi. Tôi nói chắc em bị mảnh nhỏ thôi. Anh Chính nói: rất may là nếu mảnh
sâu một tí nữa thì cũng ảnh hưởng cả 2 mắt. Còn sang phải, sang trái một tý thì
cũng vào mắt. Vết thương ở mắt cá chân thì không có vấn đề gì quan trọng. Rồi
mọi người làm các thủ tục kỹ thuật lấy miếng mảnh nhỏ găm ở giữa 2 đầu lông mày
của tôi ra. Chỗ mắt cá chân cũng vậy, bây giờ tôi mới thấy đau khó đi.
Từ đó đến
chiều, vẫn thấy anh em thương binh được chuyển về. Có cả 1 đ/c chiến sỹ Đại đội
1. Nhưng chưa kịp hỏi gì thì đ/c này vết thương nặng chuyển lên tuyến trên ngay.
Ở đây 2 ngày, tôi cứ thắc mắc về chi tiết của trận đánh còn lại. Mà không được
ai giải thích kỹ. Chỉ biết là Pót tổ chức phản kích rất mạnh, tới chiều tối anh
em mình mới rút về chốt.
Ngày thứ 3 tôi
nói với mọi người cho về cứ. Chỗ anh em, vì
cứ và phẫu cũng gần nhau. Vết thương nhỏ nên cũng chỉ dán gạc và băng
dính. Thật vui khi về cứ với với anh em. Gặp lại nhóm Ba cô, lại được đón nhận
từ tay Cúc một ly nước chanh mát lạnh. Ôi ly nước mới tuyệt vời làm sao. Không
hiểu là do ly nước chanh ngọt, lạnh làm cho tôi tỉnh táo ngay. Hay là do cái nụ
cười, ánh mắt nhìn của mấy chị em, đặc biệt là của Cúc. Với cách nhìn, cách nói
ân cần, tình cảm, pha chút bị rịn. Mà tôi tỉnh khỏe hẳn lên. Mấy vết thương nhỏ
này cũng làm cho tôi tăng “chân kính” bản lĩnh lên. Vì thường khi gặp tôi, mọi
người hay nói tôi là dáng dấp thư sinh, chứ không phải dáng dấp của lính trận.
.Ngày hôm sau.
Anh Công về cứ để làm chính sách và cũng là để thăm tôi, thăm Hiệp. Nhưng Hiệp
thì chuyển về phía sau. Hai anh em gặp nhau thật mừng. Tôi hỏi ngay tình hình
trận chiến tiếp của hôm đó. Nhìn ánh mắt và giọng nói buồn buồn của anh Công.
Tôi xuống giọng nói tình hình sao anh ? Tôi chăm chú nhìn anh Công, 2 hàng nước
mắt của người đồng đội, người anh, người lính trận chẩy xuống, tôi cầm tay anh
Công nói: có gì anh kể xem nào.
Anh Công nói:
sau lúc Phú trở về. Anh em truy kích, bọn Pốt dùng pháo cối bắn vào đội hình
mình dữ quá. Một số anh em bị thương và hy sinh. Chúng bắt đầu vòng bọc phản
kích lại ta. Chúng dùng cả xe bọc thép đứng ngoài xa bắn vào hỗ trợ cho bb phản
kích. Anh em phải chống cự tới chiều. Chúng bám rất dai, như là cố ý cầm chân
mình đến tối. Tiểu đoàn 3 và mình phải xuất kích mấy lần. Đến gần chiều tối lại
xuất kích. Rồi rút nhanh, để lại mình một Trung đội của mình và d3 một Trung
đội chốt cản đường. Chúng lại bâu đến. Trong trận chiến cản đường đó. Khi anh
em rút về, thì 7 đ/c không về được. Đại đội mình 4 đ/c bên d3 có 3 đ/c. Trời ơi
! Vậy là có 7 anh em hy sinh không lấy được thi hài. Không ngờ trận đánh lại
diễn biến phức tạp như vậy.
Không biết nói
gì hơn, nước mắt cay xè. Tôi nói cả anh Thú, anh Khi, 4 anh em ra quán gọi xị rượu và đĩa bò
xào, nhâm nhi cho phần nào xoa dịu nỗi đau đang ở đỉnh cao này. Ly đầu tiên, cả
4 anh em dơ lên cụng, rồi cùng đổ xuống đất, như là hành động biểu cảm sự
thương nhớ các ae liệt sỹ. Cầu khấn cho các anh em được yên lòng siêu thoát.
Hết một xị,
rồi lại một xị nữa. Nỗi đau vẫn không thể nguôi ngoai. Anh Công nói: lúc nữa có
xe tôi sang chốt làm công tác chuẩn bị. Trung đoàn đã có kế hoạch tấn công
tiếp. Bọn Pốt đang tập trung ở đó rất đông. Hôm qua đã lại tập kích mình rất
mạnh. Mình phải đánh lên, để phá vỡ âm mưu tấn công của chúng. Cũng là tìm anh
em, đưa anh em về.
Khoảng 2h
chiều, có xe sang chốt. Anh em chia tay. Anh Công đứng dậy ôm tôi nói: Phú cứ
yên tâm ở đây, mấy ngày cho khỏe. Tôi cũng ôm anh thật chặt, không thể nói được
gì hơn. Nhìn chiếc tăng ga, nặng nề đi hút về Biên giới.
Tôi cùng hai
anh trở về lán nằm nghỉ. Đúng là nghỉ mà không ngơi. Hình ảnh trận vừa rồi, đến
lúc tôi bị thương quay về. Đoạn tiếp theo qua lời kể tóm tắt của anh Công ghép
lại thành một trận chiến, thật hào hùng và bi tráng. Với cấp trên đó là chiến
thắng. Chiến thắng nào cũng phải có mồ hôi, xương máu, vất vả và hy sinh. Với
cấp chỉ huy cao, các vị Tá, các vị Tướng lĩnh, có thể họ chỉ nghĩ đến thắng hay
bại trong 1 trận đánh. Cái bại nhỏ, đôi khi nằm trong cái thắng lớn. Nên việc
mười, hay hơn mười người hy sinh, cũng không có gì quan trọng lắm. Miễn là trận
đó thắng trong ý đồ chiến thuật, ý đồ chiến lược.
Song, với
chúng tôi, những sỹ quan chỉ huy cấp thấp. Thường ngày sống, chiến đấu cùng anh
em, cùng chia ngọt, sẻ bùi. Cùng vui chơi với nhau, từng ván cờ, ván bài, từng
chia cho nhau từng điếu thuốc, nắm cơm, ổ bánh mỳ v.v...Thì sự mất mát hy sinh
của một người, cũng đã là nỗi đau lắm. Nhìn những vết thương của anh em tóe
máu, mình như đấy cũng là nỗi đau, cũng là vết thương của da thịt mình. Đại đội
tôi, trong trận vừa rồi, như vậy là hy sinh 2, mất tích 4. (Thường hy sinh, mà không lấy được xác thì hay gọi là mất tích).
Mất đi 6 người, bị thương mấy người nữa. Hy sinh như vậy là nhiều, cái giá phải
trả, phải đổi là quá đắt.
Nhưng trong
trận chiến, toàn súng với đạn, các loại vũ khí hiện đại cả. B40- B41- ĐKZ các
nhà chế tạo vũ khi sản xuất ra dùng để chống tăng. Chống xe bọc thép, hay dùng
để phá hủy các loại boong ke, lô cốt. Thì giờ đây, trong cuộc chiến này. Lại
toàn dùng để tiêu diệt lính bộ binh. Việc tránh được sát thương, hy sinh, chỉ
là may rủi.
Miên man với
các suy nghĩ, tiếng pháo của Trung đoàn 55 vẫn nổ. Tiếng đề pa ùng- ùng- ùng-
ùng của 4 khẩu bắn một lúc. Rồi tiếng nổ ầm ầm nơi xa, như vậy là phía trước
Pốt vẫn rất đông quân. Nên pháo binh mới phải bắn chi viện nhiều như vậy. Không
biết trận chiến sắp tới, mà anh Công vừa nói. Sư đoàn, Trung đoàn, sử dụng quân
chiến đấu thế nào. Trước một lực lượng Pốt, đông hơn ta gấp nhiều lần. Địa hình
lại rất bất lợi cho ta. Trong lúc các đ/v thiếu quân trầm trọng. Các đơn vị của
mình chỉ đôn quân từ anh Nuôi, tăng gia, hậu cứ, những anh em bị thương nhẹ.
Cũng đã được động viên quay lại cầm súng. Đại đội 1, đ/c Đẩu Tiểu đội trưởng
Anh nuôi, đ/c Viên anh nuôi lính 74. Cũng đã xung phong về các Trung đội chiến
đấu. Cộng thêm mấy đ/c ở vận tải Tiểu đoàn bổ xung nữa. Quân số Đại đội 1 như
vậy là được 35 đ/c. Đúng là 1 Đại đội bây giờ, quân số không bằng được một
Trung đội. Thời đầu đi chiến đấu, hay thời huấn luyện. Với quân số ấy, phải đảm
nhiệm vị trí chốt rộng. Phải
đảm nhiệm mũi xung phong tấn công. Thì làm gì không gặp khó khăn, làm sao tạo
được sức mạnh ?
Gần
chiều, tôi rủ anh Thú ra quán ngồi uống nước. Nói chuyện cùng các cô gái. Cúc
không có ở đó, còn 2 chị em. Chúng tôi ăn chè đậu. Trong câu chuyện, 2 cô có ý
nói cho tôi biết là: Cúc rất có cảm mến tôi, có phần ngưỡng mộ tôi. Có ý trách
sao tôi có vẻ thờ ơ, lạnh nhạt, lãnh đạm với tình cảm của Cúc. Thực ra những
điều này, tình cảm của Cúc đối với tôi, không phải là tôi không biết. Tôi nói:
các anh đời lính, nay ùng, mai oàng. Sống chết biết thế nào được, mà nói chuyện
yêu đương. Mặc dù anh cũng rất quý mến Cúc. Chiến tranh cho các anh gặp các em,
nhưng có lẽ cũng tại chiến tranh, nên nó lại cũng không thật phù hợp cho việc
gặp gỡ yêu đương ấy. Nhưng anh hứa, khi nào có điều kiện. Thì anh sẽ đến chơi
thăm nhà Cúc.
Ngày
hôm sau, 17/7 Trung đoàn lại tổ chức họp quân chính. Trung đoàn trưởng Trần
Măng , Chính ủy Diệp Xuân Ánh vẫn duy
trì hội nghị. Vẫn sự có mặt điều hành trực tiếp của Sư đoàn phó Mười Thứ. Các
cấp trưởng chính trị, quân sự từ cấp Đại đội, Tiểu đoàn đều tham dự. Đại đội 1
đ/c Nguyễn Văn Đạc đại trưởng bị sốt rét đi viện, nên anh Phạm Văn Trọng Đại đội phó đi họp cùng với
anh Công.
Sư
đoàn phó tóm tắt về diễn biến chiến lệ, trận chiến tấn công Pốt ngày 13/7. Đánh
giá chung là chúng ta đã chiến thắng, đã đập tan được âm mưu bu bám tấn công
chiếm chốt của Pốt. Nhưng chúng cũng đã có rút kinh nghiệm, trận ngày 20/6.
Cộng số đầu đơn vị của Pốt ở khu vực này tới 3 Sư đoàn, rất đông quân. Nên sau
khi bị bật chốt, chúng đã bu bám, phản kích ta ngay. Nhưng như vậy chúng ta,
Tiểu đoàn 3 + Đại đội 1 tăng cường. Cùng
các đ/v, đã tấn công mạnh mẽ, đã tổ chức lui quân hợp lý. Đương nhiên chúng ta
có những thương vong. 2 Trung đội đã ở lại cản địch chiến đấu rất dũng cảm,
tiêu diệt được nhiều địch. Hoàn thành nhiệm vụ. Trong số này còn có đ/c đang
nằm lại ở đó. Sư đoàn, Trung đoàn biểu dương ý chí chiến đấu của các đ/c, các
đ/v tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu trận vừa qua. Nhưng chúng ta cũng
đang còn một việc rất quan trọng là: 7 đ/c đang nằm lại đó, chúng ta phải tổ
chức đánh tiếp để phá vỡ, đập tan âm mưu của Pốt. Tìm anh em, đưa anh em về.
Đ/c
Trung đoàn trưởng Trần Măng, giới thiệu đồng chí Nguyễn Sông Thao, Tiểu đoàn
trưởng Tiểu đoàn 3. Được điều lên làm Tham mưu phó Trung đoàn. Nhưng đ/c Sông
Thao xin ở lại, trực tiếp chỉ huy Tiểu đoàn 3 đánh trận này. Rồi sau đó sẽ nhận
nhiệm vụ ở cương vị mới. Đảng ủy và BCH Trung đoàn, chấp nhận đề nghị của đ/c
Thao.
Tham
mưu trưởng Chu Đức Hùng, (trước làm tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1 của TP). Lên
phổ biến kế hoạch tác chiến của Trung đoàn. Trận này, Trung đoàn sẽ tổ chức sử
dụng các lực lượng tác chiến như sau:
- Lực lượng luồn sâu vu hồi hướng Tây bắc vẫn
là Tiểu đoàn 3 + đại đội 1+ Tiểu đoàn 2 thiếu 1 Đại đội, cùng các lực lượng
12,7 ly của Đại đội 16, ĐKZ của Đại đội 15.
- Đại đội 1 được tăng cường 1 khẩu 12,7 ly, 1
khẩu ĐK 82 của Đại đội 4.
- Đại đội 1 đi đầu luồn sâu qua bờ mương, thì
chốt lại ở khu vực đó đề phòng Pốt vòng bọc hướng này. Tiểu đoàn 3 luồn sâu
tiếp khoảng 1 km nữa, sẽ đánh từ Hướng Bắc vào Phum. khi đánh qua những vị trí
chốt chặn lần trước cử bộ phận tìm đưa số anh em tử sỹ lần trước về.
- Tiểu đoàn 2 thiếu, cùng luồn sâu hướng này.
Nhưng dừng lại, dàn đội hình tấn công theo hướng Tây Bắc. Cách Tiểu đoàn 3
khoảng 500m. Tiểu đoàn 2 cũng được tăng cường 2 khẩu 12,7 ly của Đại đội 16. 2
Khẩu Đk82 của Đại đội 15.
- Hướng Đông Nam, Sư đoàn vẫn sử dụng 2 Đại
đội của Trung đoàn 266 đánh ép vào.
- Hướng vỗ mặt, sử dụng 6 xe bọc thép cùng Đại
đội 2 đánh lên .
Quan
trọng nhất vẫn là việc luồn sâu và tấn công của Tiều đoàn 3 + Đại đội 1 + Tiểu
đoàn 2. Sau khi chiếm xong các mục tiêu, tổ chức đưa các anh em Thương binh, Tử
sỹ cũ và mới về ngay. Nhanh chóng rời khỏi trận địa, càng sớm càng tốt.
Các
loại pháo, cối của Sư đoàn, của Trung đoàn. Bắn hỗ trợ thật mạnh, khi phát hiện
Pốt tổ chức lực lượng phản kích.
- Sở chỉ huy tiền phương của Trung đoàn sẽ
dâng lên gần khu vực Tiểu đoàn 1. Công binh phải nhanh chóng tổ chức hầm chỉ
huy cho Trung đoàn.
- Tiểu đoàn 1, Đại đội 3 và các bộ phận ở lại,
phải tổ chức chốt giữ thật chắc.
- Các đại đội Trinh sát, Vận tải và số còn lại
của Đại đội 15 ĐK, Đại đội 16 -12,7, Đại đội 14 cối, cũng cử thêm lực lượng lên
thay chốt cho Đại đội 1. Dâng đội hình lên theo Trung đoàn.
- Thời gian 7h 30 tối nay, ngày 17/7 sở chỉ
huy tiền phương Trung đoàn, về vị trí mới. Các đơn vị trực thuộc cũng bí mật
nâng lên thay chốt cho Đại đội 1. Chốt theo vị trí phân công. Đúng 10h đêm, các
đơn vị bắt đầu tiền nhập.
Giờ
G vẫn sẽ là 5h 30 ngày 18/7. Sau khi nghe xong phương án, kế hoạch tác chiến
của Tham mưu trưởng. Các đ/c cán bộ đều nhất trí. Nhưng hầu như mọi người đều
phân vân, về kế hoạch tác chiến. Cùng một địa bàn, mà ta đã tổ chức luồn sâu
đánh địch 2 lần. Nếu lần này nữa thì cả 3 trận, bài bản tác chiến giống nhau.
Liệu Pốt đã quen và có biện pháp chống đối ta ?
Đồng
chí Nguyễn Văn Ngọc, Đại đội trưởng đại đội 11. Là Đại đội đi đầu của Tiểu
đoàn, phát biểu phản biện gay gắt nhất. Đ/C Sư đoàn phó Mười thứ hỏi: vậy đ/c
Ngọc và các đồng chí có cách đánh gì khác không ? Tất cả hội nghị, đều không
thể đưa ra được phương án tác chiến khác hơn. Rồi tất cả chấp nhận phương án
tác chiến quen thuộc, nhưng vô cùng nguy hiểm này.
- Đồng chí Trần Măng nói: Bây giờ thời gian
là vàng ngọc. Các đ/c nhanh chóng về triển khai nhiệm vụ chiến đấu đêm nay và
ngày mai cho đ/v mình. Hội nghị kết thúc, mọi người ra về, với trọng trách lớn,
với tâm trạng thật nặng nề.
Với
những tâm trạng nặng nề như vậy, nhưng nhiệm vụ vẫn là nhiệm vụ. Danh dự, trách
nhiệm của những người lính, những sỹ quan, những người chỉ huy cấp thấp. Trực
tiếp phải chiến đấu chiến đấu như những người lính xông pha trước mũi tên, hòn
đạn của kẻ thù. Họ đã từng trải qua cuộc chiến dài, trong trận chiến Biên giới
Tây Nam này, cũng đã được gần một năm. Cả năm trời tham chiến hàng trăm trận
lớn nhỏ. Chiến thắng nhiều, song không phải không có những trận, không đạt được
mục tiêu đề ra. Như trận Hà Tiên- Kiên Giang. Nhưng có lẽ, chưa có lần nào,
trước khi vào trận, mọi người lại có tâm trạng nặng nề như trận này.
Nhưng
ở đây, lúc này đang là đỉnh cao sự đấu trí, đấu dũng, giữa ta và Pốt. Mọi người
đều phải nghĩ đến 2 chữ “quyết tử”. Như cha ông ta đã “quyết tử” trong lịch sử
chống ngoại xâm. Các thế hệ đàn anh đã “quyết tử”, để làm nên những kỳ tích, trong cuộc chiến
chống Pháp, chống Mỹ. Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Bao nhiêu lớp
người đã “quyết tử”. Đã anh dũng hy sinh để làm nên chiến thắng đó.
Trong
trận này, cán bộ chỉ huy các cấp, cũng phải làm cho tất cả những người lính
thấy được vinh dự, trách nhiệm và trọng trách lớn lao này. Tất cả các đơn vị
nhanh chóng làm mọi công tác chuẩn bị.
Đại
đội 1, như vậy là Đại đội trưởng Nguyễn Văn Đạc đã về tuyến sau vì sốt rét tái
phát. Chỉ huy trận này là đ/c Công cv trưởng và đ/c Phạm Văn Trọng Đại đội phó.
Tôi thì vẫn còn ở cứ Búa Lớn.
Chiều
qua nhanh, rồi bóng tối ập xuống như bao ngày. Trời mát nhưng không mưa. Đúng
7h tối, ban chỉ huy Trung đoàn di chuyển lên vị trí mới, gần Tiểu đoàn 1. Công
binh đã khẩn trương làm xong hầm chỉ huy. Dưới gầm 1 một nhà sàn cũ của dân.
7h30 , các đ/c chỉ huy Trung đoàn đã tới vị trí. Các lực lượng vệ binh, công
binh, trinh sát, cùng các đ/v trực thuộc khác cũng đã dâng lên. Thông tin nhanh
chóng triển khai mạng hữu tuyến xuống các đơn vị. Công việc đang khẩn trương
trôi chẩy theo kế hoạch.
Ùng-
ùng- ùng. Vừa nghe tiến nổ đầu nòng thì oàng- oàng- oàng. Đất trời như vỡ òa,
bởi các loại tiếng nổ của pháo và ĐKZ 75 của Pốt. Chúng bắn vào khu vực hầm chỉ
huy mới của Trung đoàn. Không phải một vài loạt, mà chúng bắn liên tiếp hàng
trăm quả. Không gian như được hun nóng bởi khói đạn của Pốt. Một quả ĐK rít…
xoẹt… rồi nổ ầm đúng hầm chỉ huy Trung đoàn, góc các đ/c thông tin đang thao
tác. khỏi lửa trùm lên hầm chỉ huy. Đ/C Thái trưởng mạng thông tin hy sinh, 2
đ/c khác bị thương. Lác đác, các đơn vị báo lên là có anh em bị thương, hy sinh
do trận tập kích hỏa lực của Pốt.
Ác
liệt đây. Chính ủy Ánh thoáng nghĩ, không hiểu bọn này có âm mưu gì ? Mà tập
kích hỏa lực nhiều như vậy ? Hay là vị trí sở chỉ huy đã bị lộ ? Nghĩ vậy thôi
chứ nhiệm vụ đã triển khai, không được trì hoãn. Đ/c Ánh quay máy liên lạc với
các Tiểu đoàn, nắm tình hình chuẩn bị chiến đấu của các đơn vị. Các đơn vị báo
lên, công tác chuẩn bị tốt. Anh em rất quyết tâm, riêng Đại đội 11 có sự cố.
Tổng số lính nhập ngũ 72 còn trong Đại đội là 8 đ/c. Trong đó có cả đ/c Ngọc
đang giữ chức vụ Đại đội trưởng, 1 đ/c lính 72 làm liên lạc. Còn lại 6 đ/c lính
72 ở các Trung đội bằng nhiều lý do khác nhau ae về cứ, không tham chiến trận
này. Đây cũng là 1 bất ngờ. Nhưng nhìn chung các đ/v đều triển khai tốt việc
chuẩn bị chiến đấu tấn công Pot đêm nay.
Bọn
Pốt tập kích thêm mấy lần bằng hỏa lực nữa vào các khu vực chốt giữ phòng thủ
của ta. 9h rồi 10h, cũng không thấy Pốt tập kích bằng bộ binh như mọi ngày.
Lệnh lên đường. Đại đội 1 vẫn do 2 trinh sát của Tiểu đoàn + 2 trinh sát của
Tiểu đoàn 3 dẫn đầu. Xuất phát sau 30 phút thì đến Tiểu đoàn 3. Rồi Tiểu đoàn
2, nhóm trinh sát dẫn đường cứ mò mẫm trong đêm chếch về hướng Tây. Cứ đi được
trăm mét thì lại chốt lại 2 người, còn 2 người quay về dẫn đội hình lên. Mọi
việc cũng như mọi lần, anh em hành quân luồn sâu thuận lợi. Tuy nhiên là đều
phải lội ruộng, cánh đồng ngập nước có chỗ sâu tới đầu gối.
Khi
lấy góc phương vị, bẻ tay phải để vượt qua con đê, thì đụng chốt của Pốt. Trinh
sát dẫn đội hình vượt hẳn lên, xa cũng vẫn gặp các chốt của Pot. Không thể vượt
qua được. Lại vòng quay trở lại tìm đường mới. Cũng vẫn không thể qua được. Mật
độ Pốt chốt giữ quá đông. Anh em lợi dụng một số bờ đất để ngồi đợi trinh sát
tìm đường. Hoặc đứng chôn chân giữa ruộng nước. Dùng dằng, quay đi quay lại.
Thành ra đội hình hành quân tiền nhập, đã gần như song song đối mặt, với con đê
của mương dẫn nước. Một tình huống khó khăn, chưa bao giờ gặp trong hành quân
tiền nhập luồn sâu.
Khoảng
1h sáng có bóng người, có những bước chân lội nước, đi ngược với hướng hành
quân của ta. Anh em trinh sát lùi lại báo truyền cho đội hình. Pốt cũng hành
quân, có thể chúng cũng có âm mưu tổ chức tập kích ta với quy mô lớn. Lệnh được
truyền đi. Tất cả tuyệt đối giữ bí mật không được nổ súng. Nếu Pốt đụng hướng
nào thì hướng đó đánh. Nhưng vẫn không được nổ súng. Mà mọi người chuẩn bị dao
găm, cuốc xẻng, lưỡi lê sẵn sàng cho trận “giáp lá cà” tiêu diệt ngay bọn đi
đầu.
Thật
là hồi hộp, cho tình huống luồn sâu đánh địch của ta. Lúc này đã hơn 1h sáng.
Pốt cũng đi làm 3 hướng. Hướng thứ nhất chúng đụng Đại đội 1. Hướng 2 chúng
đụng Đại đội 11 và hướng d2 đụng Đại đội 5. Một trận chiến nhỏ xẩy ra bằng dao
găm và xẻng. Ta tiêu diệt được gần chục tên, bằng các loại trang bị, vũ khí thô
sơ đó. Số còn lại kêu duôn duôn rồi chạy ngược trở lại. 20’ sau, bọn Pót trên
bờ mương bắt đầu bắn xối xả vào đội hình của các đ/v. Đã có nhiều ae trúng đạn.
Như
vậy là việc luồn sâu đã bị lộ. Không thể vượt qua bờ mương ém quân như kế
hoạch. Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Sông Thao hội ý với Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2
Phạm Anh Xướng, cùng các đ/v phối thuộc. Thay đổi cách đánh, sẽ tấn công vỗ mặt
, chiếm bờ mương ngay. Vì ta đang ở thế bất lợi giữa đồng nước. Các đ/v chuẩn
bị tấn công nếu cấp trên đồng ý.
Lúc
này là 2h30 Tiều đoàn trưởng Thao điện về xin ý kiến Trung đoàn , cho các đơn
vị đánh chiếm bờ mương ngay. Sư đoàn phó Mười Thứ đồng ý cho thay đổi cách
đánh. Song không đồng ý tấn công ngay.
Yêu cầu các đơn vị chuẩn bị dàn trận, đúng 5h30 đồng loạt xung phong đánh chiếm
bờ mương. Đ/c Thao vẫn yêu cầu xin được tấn công ngay. Sư đoàn phó vẫn ko đồng
ý.
Tình thế thật bất lợi cho quân ta. Nhưng trong
chiến đấu, mệnh lênh cấp trên vẫn phải chấp hành. Các đ/v được lệnh tiền nhập
gần bờ mương hơn. Lợi dụng các bờ đất, gò đất làm công sự, triển khai đội hình
chiến đấu. Song việc triển khai ở địa hình này thật khó khăn. Hiếm lắm mới có
bờ đất xâm xấp nước. Còn toàn ruộng nước, sâu nhất là tới gối, nhung nhúc đỉa.
Anh em phải ngâm mình trong nước đợi giờ nổ súng. Đại đội 11 không thể giá súng
12,7 tầm thấp được. Mà phải giá súng tầm cao như bắn máy bay. 2 khẩu cối 60 thì
giá súng ngay chỗ ban chỉ huy Đại đội, chỗ này có gò đất xấp nước. Bọn Pót đã
ngừng bắn. Nhưng chúng ta đang ở tình huống khó, đang ở địa hình rất bất lợi
cho việc tấn công. Vì bờ ruộng chiều dọc rất ít lại nhỏ. Tất cả ko thể lao lên
bằng những bờ như vậy. Sẽ bị đạn Pót “xuyên táo” vài người ngay. Nên hầu như,
tất cả phải xung phong ở đồng nước. Rất khó khăn cho việc vận động tấn công.
Trời
đã tảng sáng, mọi người kiên trì chờ đội giờ nổ súng, trong cái rét vì bị ngâm
lâu trong nước. Lại phải rất khó chịu vì cái lũ đỉa đói cứ nhung nhúc bu bám
hút máu ae. Cứ cấu vất được con này thì những con khác bu đến. Ai cũng cảm thấy
thời gian như ngừng trôi. Cố lẽ ko ở đâu, không mấy ai bị chịu đựng cái khổ như
thế này. Tất cả mọi người chỉ biết cắn răng mà chịu trận, chờ giờ nổ súng.
Đằng
đông trời như vỡ ra, rạng sáng. Tiếng kêu của đàn vạc đi ăn đêm vội bay về tổ,
gọi nhau vạc, vạc não lùng. Cái giờ G mong đợi đã đến. Pháo, côí của Sư đoàn,
Trung đoàn, bắn cấp tập vào Phum, phía trước đội hình. Không gian vỡ òa, bởi
các tiếng đề pa, tiếng đạn bay rít qua đầu, nổ ầm ầm rền vang như sấm xa.
Các
đ/c cán bộ Đại đội, Trung đội, xông xáo đi nhắc anh em chuẩn bị tấn công. Tiếng
súng, tiếng đạn nổ, giờ G đến. Làm cho cái rét, cái lạnh tan biến đi đâu mất.
Tất cả chuẩn bị lại vũ khí xung trận. Mục tiêu 1 là đánh chiếm bờ đê, làm bàn
đạp tấn công vào Phum.
Pháo
chuyển làn, các loại súng đại liên, súng 12,7, cối 60, của các Đại đội. Cối 82
của Tiểu đoàn Tong- Tong dồn dập, xung phong. Đ/c Thao Tiểu đoàn trưởng, nổ mấy
phát K59, rồi hô xung phong- xung phong. B40- B41- ĐKZ82 phát hỏa ùng- ùng, lao
vào bờ mương nổ tung đất. Có nhiểu quả vượt tầm vào bên trong.
Các
loại súng đại liên 12,7 ly đã nâng tầm bắn làm nền, lấy khí thế cho bộ binh
xung phong. Cả tuyến, đội hình các đơn vị từ đầu là C1, tiếp Tiểu đoàn 3, rồi
Tiểu đoàn 2. Như vậy chiều rộng tấn công khoảng ngàn mét. Mũi nhọn là Đại đội 1
+ Đại đội 11 Tiểu đoàn 3 + Đại đội 5 Tiểu đoàn 2. Toàn đội hình lao lên. Các
loại súng AK nổ ran. Anh em vận động nước bắn tung tóe. Rất ít anh em tận dụng
được bờ mương dọc. 20M, 30 M rồi 50M. Bọn Pốt như bừng tỉnh, hay nó có ý đợi
anh em vào gần. Các loại súng dọc bờ mương đồng loạt phát hỏa. Xối đạn vào cản
đội hình tấn công. Trời chưa sáng hẳn nhìn rõ những họng súng đang khạc đạn lóe
lửa đầu nòng. B40 - B41- DKZ của chúng cũng ùng, oàng trùm khói lên bờ mương.
Đạn nổ oàng, oàng vào đội hình. Ngay loạt đạn đầu tiên của Pot, đã rất nhiều
anh em trúng đạn đổ xuống. Mọi người vẫn vận động, nhưng như vậy là anh em đang
lao thẳng vào hướng các họng súng của Pốt. Đội hình khựng lại.
Tiểu
đoàn trưởng Sông Thao, cùng Tiểu đoàn phó Phan sỹ Thống vẫn đứng quan sát. Trời
! Chúng chốt giữ dầy quá, hỏa lực nhiều và mạnh quá. Không phải chỉ có một vài
ổ 12,7 hay đại liên. Mà rất nhiều ổ súng
vẫn hung hãn nhả đạn. Chúng rê sang phải, sang trái theo hình dẻ quạt. Đạn
thẳng cắm phầm phập vào quanh đội hình, tung
nước chung quanh mọi người. Nhiều anh em nữa trúng đạn.
Anh
Thao hội ý với Tiểu đoàn phó Thống, tình huống này phức tạp đây ? Vẫn phải tập
trung dập hỏa lực rồi xung phong đánh chiếm thôi. Đại đội 1 và 11 đã gần bờ
mương nhất. Ông ở đây, tôi lên chỗ anh Ngọc. Rồi cùng mấy đồng chí trinh
sát, truyền đạt tiến được mấy bước, thì
đạn của Pốt cắm phầm phập vào chỗ mọi người. Đ/c Thao cùng mấy anh em khác đổ
xập xuống. Khẩu K59 của Tiểu đoàn trưởng tuột khỏi tay. Anh Thao trúng đạn rồi,
mấy đ/c trinh sát kéo lùi Tiểu đoàn Trưởng về chỗ đ/c Thống. Tiểu đoàn trưởng
Thao máu loang đầy ngực trên bộ quần áo ướt sũng nước. Đ/c Thống báo về Trung
đoàn: đ/c Thao bị thương nặng. Đ/c Trung đoàn trưởng Măng lệnh chuyển ngay đ/c
Thao, cùng các anh em bị thương về phía sau. tiếp tục dùng hỏa lực chế áp rồi
tổ chức tấn công tiếp. Sư đoàn phó Thứ gào lên xen vào tổ hợp: Bằng mọi giá
phải chiếm lấy bờ mương.
Mũi
tấn công của Đại đội 1, sau khi tiền nhập cách bờ mương khoảng 100m, thì ae
dừng lại, cũng củng cố hầm hào đợi giờ nổ súng. Khi có hiệu lệnh xung phong,
anh em ào lên tấn công. Nhưng cũng giống như hướng Đại đội 11. Nhiều anh em ngã
xuống ngay loạt đạn đầu của Pốt. Trong số này có cả đ/c Cv trưởng Nguyễn Tiến
Công.
Mũi
tiến công khựng lại, phía sau khẩu 12,7 và 2 khẩu đại liên vẫn bắn đối súng với
bọn Pốt. Khẩu 12,7 của Đại đội 4 tăng cường cũng phải giá súng cao. Bắn chế áp
được một lúc thì bị dập bởi quả ĐK. Hai khẩu đại liên vẫn nhả đạn, hỗ trợ cho
bộ binh. Lúc này anh em bộ binh không tiến được nữa. Anh em bb nằm tại chỗ, hay
bò lùi tìm chỗ ẩn nấp. Bắn được mấy loạt nữa, thì một khẩu đại liên cũng bị
dập. 3 đ/c khẩu đội đều bị thương và hy sinh. Còn lại một khẩu đại liên của
Tiểu đội trưởng Phạm Thanh Hải, vẫn phát huy. Bắn xăm vào bờ mương và các ổ súng
của Pốt. (đ/c Hải là lớp lính 75 quê Thái
Bình, thuộc lực lượng tên lửa mới được điều về đơn vị hồi tháng 3/78). Một
viên đạn của Pốt bắn bay đầu ruồi khẩu đại liên. Kệ, Đ/c Hải vẫn bắn. Như vậy
là một khẩu đại liên của Hải, đang đối với mấy khẩu 12,7 và đại liên của Pót
trên bờ đê. Hải cũng đã dập được 2 mục tiêu, thì một viên đạn xuyên cánh tay
trái. Cùng lúc, một quả M79 của Pốt trúng mũ sắt làm anh choáng vật ra. Đại đội
phó phạm Văn Trọng trườn vào thay Hải. Tiếp tục đối súng với Pốt, được vài loạt
thì súng hóc. Anh Trọng cùng một đ/c nữa đang loay hoay xử lý. Thì một viên đạn
thẳng cũng làm Đại đội phó Trọng bị thương gục xuống. Cối 60 của Đại đội , cũng
chỉ phát huy được lúc bắn chuẩn bị xung
phong. Còn bây giờ trời đã sáng, mục tiêu đã lộ. Tiểu đội lúc này đã 2 đ/c hy
sinh. Mấy đ/c bị thương. Như vậy là mũi tiến công của Đại đội 1 bị Pốt bẻ gẫy.
Một số anh em bò lùi lại, nhưng cũng nhiều anh em trong số đó lại dính tiếp đạn
thẳng của Pốt.
Pháo,
cối, Đkz75 của Trung đoàn, Sư đoàn ùng- ùng bắn phá vào bờ đê và các khu vực
sau. Đài quan sát pháo binh báo, phía sau bờ đê, sâu vào trong. Lực lượng Pốt
rất đông. Chúng điều cả xe bọc thép lên, nấp ở bờ mương bắn cản quân ta. Các
loại cối pháo của ta chi viện tối đa. Trúng các đội hình Pốt, anh em trên đài
quan sát rất rõ những xác Pốt tung lên. Song để bắn trúng được từng ổ đề kháng
ở bờ đê, thì quả là khó. Nhưng pháo cối của ta cũng đã làm cho chúng chúi xuống
hầm.
Lệnh
xung phong. Đ/C Thống Tiểu đoàn phó chỉ huy phát lệnh xung phong. Anh em Tiểu
đoàn 3, Tiểu đoàn 2 lại bật lên xung phong. Nhưng kịch bản lại cũng giống như
lần xung phong thứ nhất. Anh em khựng cả lại, tìm nơi ẩn nấp. Nhưng cũng thật
là khó. Không biết nấp biết tránh vào đâu. Nhiều chỗ anh em chụm vào nhau, hoặc
di chuyển đều là những mục tiêu để Pốt bắn vào.
Khẩu
12,7 của Đại đội 16, tăng cường cho Đại đội 11. Vẫn thùng- thùng- thùng nhả đạn
vào các ổ đề kháng Pốt. Một đ/c xạ thủ chính trúng đạn ngã ngay xuống chân
súng. Tiếp đến đ/c xạ thủ vừa thay cũng bị trúng đạn. Đại đội trưởng Lầu của
Đại đội 16, đi tăng cường lao lại thay. Đứng giữa 2 chiến sỹ của mình vừa hy
sinh. Anh khom người kéo các điểm xạ, bắn về phía Pốt. Thật là dũng cảm và
quyết tử. Bắn được 1 lúc rồi anh cũng trúng đạn. Hai tay vẫn ghì chặt khẩu
12,7. Đại đội trưởng Pham văn Lầu, hy sinh thật anh dũng. Đây là lần thứ 2, anh
em chứng kiến hành động, chiến đấu và dũng cảm hy sinh. Của các lớp chỉ huy Đại
đội trưởng hỏa lực Đại đội 16 súng 12,7.
Hồi
tháng 3/75, khi Trung đoàn tấn công căn cứ Chơn Thành, tỉnh Bình Long. Súng 12,7
ly của Đại đội 16 cũng đấu súng với 12,8 trên xe tăng của quân đội VNCH. Khi
tấn công vào cửa mở, địch chôn xe tăng xuống, thò tháp pháo và khẩu 12,8 lên.
Điên cuồng khạc đạn vào đội hình xung phong đánh cửa mở của Tiểu đoàn 2. Anh em
bắn rụng 2 thằng, ta cũng 2 anh em bị trúng đạn. Đại đội trưởng Đại đội 16 hồi
đó là đ/c Cao Xuân Khá quê Quảng Bình. Lúc đó cũng nhẩy vào thay và nói: Để anh
đấu 12,7 với lũ 12,8 này. Thùng- Thùng- Thùng, sau điểm xạ tên đang bắn 12,8
trên xe tăng trúng đạn vật ra. Lại tiếp thằng nữa, vẫn Thùng- Thùng- Thùng.
Tiếp thằng nữa trúng đạn. Lúc đó khẩu pháo trên xe của chúng đã chính tầm. Qủa
đạn pháo bắn thẳng cực mạnh của tăng, làm tung khẩu 12,7. Đ/c Khá đại đội trưởng đã anh dũng hy sinh.
Đồng
chí Nguyễn Song Thao hy sinh. Sau lúc bị thương, anh em trinh sát bò, kéo đ/c
Thao lùi về. Vết thương nặng, nhưng không thể nào có thể chuyển nhanh về sau
được. Anh em phải kéo lùi từng tý, từng tý một. Qủa là rất khó, phải có anh em
nâng cao đầu, còn toàn thân và vết thương phải bị chìm trong nước. 3- 4 đ/c tập
trung di chuyển Tiểu đoàn trưởng. Sự tập trung di chuyển này, lại là mục tiêu
lộ, để Pốt nhằm bắn. Đạn thù xối xả vào chỗ anh em. Đ/c Thao trúng thêm mấy
viên đạn nữa. Trong nhóm đó, 1 đ/c Trinh sát hy sinh, 2 đ/c nữa bị thương.
Đại
đội 11 cũng đã hết sức chiến đấu. CV trưởng Duyên, bò, trườn đi tới chỗ các
chiến sỹ. Vừa di chuyển được mấy mét, thì những loạt đạn thẳng của Pốt găm
trúng cỗ hiểm. Làm anh gục ngay xuống hy sinh. Đại đội trưởng Nguyễn Văn Ngọc
rất bức xúc với tình hình trận đánh. Thấy CV trưởng Duyên trúng đạn. Anh cùng
đ/c liên lạc bò ra kéo CV trưởng. Lại tiếp những loạt đạn của Pốt phầm phập
chung quanh. Một viên trúng đ/c liên lạc
cũng hy sinh. Đ/c Ngọc bị một viên xiết vào gáy dưới vành tai.
Khu
vực 2 khẩu cối 60, đạn cối đã được bắn hết. Vì trong trận này không mang nhiều.
Nhưng quanh chỗ đó, 4 đ/c xạ thủ cối hy sinh, mấy anh em khác bị thương nấp sau
bờ đất. Duy nhất Đại đội 11 lúc này còn đ/c Thoảng CV phó, anh hô đ/c Hùng lính
78 người Hà Nội là pháo thủ gánh đạn, kéo khẩu cối, cùng một đ/c Thông tin 2w
của Tiểu đoàn bò lùi. Được hơn chục mét, máy thông tin ngâm trong nước, không
còn tác dụng nữa. Nhưng Pốt cũng xối đạn vào đó. Làm Đ/c Thông tin Tiểu đoàn
cũng trúng đạn nằm bất động. Chiếc máy thông tin 2w vẫn đeo ở lưng chồi trên
mặt nước. Đ/c Hùng một tay vừa bò,1 tay keó khẩu cối 60. Khẩu cối cứ cắm xuống
bùn nước không thể kéo được, được khoảng chục mét, Hùng kiệt sức, đành bỏ khẩu
cối 60 lại đó.
Hướng
Tiểu đoàn 2, cũng tình trạng như vậy. Không kém sự ác liệt. Đ/c Mai Đại đội
trưởng Đại đội 5, bị thương ngay từ lúc đầu, đ/c Dũng thông tin của Tiểu
đoàn bị thương vỡ gót chân. Đ/c Tiểu
đoàn trưởng Phạm Anh Xướng cùng mấy ae trong BCH vẫn bò, trườn đến chỗ các đơn
vị. Động viên khích lệ Đại đội 5 và Tiểu đoàn xung phong lần 2. Đ/C Tiêm Tiểu
đoàn phó, đ/c Hai dv phó Tiểu đoàn cũng xuống các đơn vị. Song lần thứ 2 xung
phong cũng giống như Tiểu đoàn 3, đều bị Pốt chặn đứng. Liên tiếp đ/c Hai chính
trị viên phó Tiểu đoàn trúng đạn hy sinh. Đ/c Tiêm Tiểu đoàn phó trúng đạn hy
sinh. Đ/c Xướng Tiểu đoàn trưởng bị đạn thẳng xuyên qua vai bị thương. Đ/c
Thành chính trị viên trưởng Đại đội 5,
bị viên đạn nhọn cầy từ trán lên tới đỉnh đầu. Rải rác khắp nơi anh em
mình hy sinh và bị thương nằm khắp đồng nước.
Các
đ/c bị thương cố bò, di động, thì lại cũng là mục tiêu xạ kích của Pốt . Các ổ
hỏa lực của Pốt dọc bờ đê, vẫn điên cuồng nhả đạn như mưa vào đội hình các đơn
vị.
Lệnh
của Trung đoàn cho các đơn vị lùi về sau 300 mét để củng cố lực lương . Pháo
binh cấp tập về phía Pốt. Nhưng đạn nổ vào phía sau bờ đê là chính, cũng nhiều
trái làm tung các ổ hỏa lực của Pót ở bờ đê. Nhưng cũng không thể dập được hết
các ổ hỏa lực của Pot. Cộng thêm sự tăng viện của Pot cũng rất kịp thời Nên
chúng vẫn chiếm được ưu thế của hỏa lực bắn thẳng. Các máy thông tin bị ngâm
nước không sử dụng được. Việc truyền tin bây giờ là rất khó, việc anh em lùi ra
cũng không phải là dễ. Chỉ cần lùi được 300m là vào được khu vực an toàn có vật
che khuất, che đỡ. Nhưng quãng ruộng ngập nước 300m đó, lúc này là cả một quãng
dài vô tận, với rất nhiều anh em. Vì cứ ai di chuyển là bị đạn tập trung vào.
Rất nhiều anh em hy sinh, bị thương dọc quãng đồng nước ấy. Có nhiều anh em bị
thương nằm đó, nhưng lúc này cũng khó có thể tiếp cận anh em được. Như vậy số
anh em này lại bị kẻ thù thứ 2 hành hạ. Đó là lũ đỉa đói. Hàng trăm con đỉa bâu
vào, hút cạn máu của anh em mình.
Hướng
Trung đoàn 266, theo hợp đồng, có 2 Đại đội cùng 6 xe bọc thép lội nước M113
đánh ép vào. Trong ý đồ chiến thuật, mũi tấn công này chỉ là đánh ép, be bờ,
đánh vỗ mặt dọa là chính. Chứ không phải là nhiệm vụ thọc sâu. Lực lượng này
đánh ép vào, cũng gặp hỏa lực của chúng rất mạnh. Các loại B40- B41- DKZ phóng
đạn, vây lấy xe bọc thép của ta, làm 2 xe trúng đạn. Nên lực lượng bộ binh, cũng
chỉ tiến thêm gần giáp Phum rồi bắn hỏa lực và , đe dọa bọn Pốt hướng này.
Khoảng
7h30. Sư đoàn sử dụng thêm một mũi đánh từ gồn 5 xe bọc thép, cùng 2 Trung đội
của Đại đội 2. Đánh chéo lên hướng Bắc- Tây Bắc. Nhưng cũng gặp phải sự kháng
cự mạnh của Pốt. Một xe bọc thép bị đứt xích. Mấy đồng chí hy sinh. Trong đó có
đ/c Trung đội trưởng Ngô Khắc Quyền. Là lớp lính 3/75 quê Thanh Hóa. là đ/c vô
cùng gan dạ, dũng cảm, có rất nhiều thành tích. Đang được đ/v đề nghị phong
tặng danh hiệu anh hùng LLVT.
Khoảng
8h. Hướng Tiểu đoàn 3, Tiểu đoàn 2, chỉ còn tiếng súng của Pốt. Chúng nhằm bắn
anh em ta trên đồng nước. Nhưng đơn vị ở phía sau đó 300m không thiệt hại
nhiều. Một số ít bị thương, hoặc không bị thương, lùi về được phía sau, hầu như
cũng kiệt sức. Nhưng ở khu vực này, các LL vận tải cứu thương, nhanh chóng
chuyển anh em về phẫu.
Theo
đài quan sát báo, Pốt dồn quân lên rất đông. Một tình huống đặt ra: chúng có
thể tấn công dấn lên không ? Sư đoàn phó Mười Thứ chỉ im lặng. Hình như ông đã
thấy được cái đề nghị: xin tấn công ngay lúc đêm, của Tiểu đoàn trưởng Nguyễn
Sông Thao là đúng. Song giờ đây, chưa thể nói gì được nhiều. Bằng mọi giá, phải
ngăn chặn âm mưu tấn công, phản công của Pốt. Trước hết là phải tổ chức chốt
giữ. Tất cả các anh em, không phân biệt đơn vị. Phải vào các vị trí chốt, phòng
thủ. Động viên các anh em bị thương nhẹ cũng ở lại, chiến đấu chặn Pốt. Các đ/c
trợ lý của Trung đoàn, tăng cường ngay xuống các đơn vị. Chỉ huy và đôn đốc
việc phòng thủ cùng các đơn vị.
- Các
loại pháo, cối, xin bắn tối đa để tiêu diệt sinh lực địch.
- Điều
2 khẩu pháo 105 lên cao gần Tiểu đoàn 1. Dùng loại đạn phòng thủ của pháo. Loại
đạn mà trong lịch sử pháo binh của ta chưa sử dụng lần nào. Đó là loại đạn pháo
đinh của Mỹ. Song việc sử dụng loại đạn này thật là khó. Ta chưa có kinh
nghiệm. (lúc đó theo TP biết không thật
chính xác) là điều 1 vài Sỹ quan pháo của quân lực VNCH, đang học tập cải
tạo lên gấp. Để sử dụng bắn loại đạn này (?) Vì loại đạn đinh này, không thể
bắn xa được. Cự ly xa nhất là khoảng trên 1000m. Nhưng đạn rơi cách mặt đất
100m thì phát nổ. Gây sát thương mật độ dầy đặc mấy trăm m2.
Việc
đưa pháo lên gần Tiểu đoàn 1 là rất khó. Vì sức nặng của pháo, đường đất nhỏ,
ngập nước, lầy lún. Phải dùng xe bọc thép kéo, cộng thêm cả sức người nữa đun
đẩy nữa. Hai khẩu pháo mới vào được vị trí xạ kích. Đến gần trưa, thì bắn được
quả đầu tiên. Qua máy bộ đàm kỹ thuật, bọn Pốt kêu ầm ĩ. Vì bị sát thương
nhiều. Khẩu thứ 2 bắn tiếp, thì đạn nổ ngay vào đội hình Đại đội 4, Tiểu đoàn
1. Làm 10 đ/c bị thương. Đ/c Tú Đại đội phó, bị 9 cái đinh cắm vào người.
Từ
đó đến chiều, pháo đạn đinh, kết hợp với các loại đạn pháo cối khác. Đã tiêu
diệt được rất nhiều sinh lực địch. Đập tan ý đồ phản công của Pót. Trận địa
chốt của Trung đoàn được giữ vững. Chiều tối, Trung đoàn tiếp tục cử lực lượng
tìm kiếm anh em. Thêm được một số Tử sỹ và thương binh nữa được tìm thấy. Qua
các vết thương, thì thấy anh em bị mất máu do đỉa rất nhiều. Số anh em của Đại
đội 1, đại đội 11, Đại đội 5. Vào sâu trong bờ mương, không thể vào đưa anh em
ra được. Trong đó có đ/c Nguyễn Tiến Công, Chính trị viên trưởng Đại đội 1 cùng
nhiều anh em Đại đội 1 của tôi.
Sáng
hôm sau 19/7 tôi sang chốt sớm . Quang cảnh khu vực Săngke này buổi sớm yên ả
làm sao . Vẫn cánh đồng ngập nước , trời không mưa , quang đãng mát mẻ , mặt
trời đã lên cao . Nhưng ánh nắng buổi sớm êm dịu . Gió nhè nhẹ thổi , những cây
thốt nốt nhìn qua cũng không có gì khác . Những tán lá vẫn lung lay đùa với gió
. Những đàn cá vẫn chạy rẽ nước , khi thấy bóng người đi . Những đàn cò trắng
với cái chân nhỏ xíu , cao kều . Nhẹ nhàng từng bước , tìm mồi ở những chỗ nước
nông . Không có tiếng súng . Thoảng trong không trung tiếng con chim cu đang
gáy gù gọi bạn . Cảnh vật thật thanh bình . Không ai có thể nghĩ được là vừa
mới hôm qua . Một trận đấu súng , đấu pháo , đấu trí quyết tử ở khu vực này ?
Vừa mới hôm qua , bao nhiêu đồng đội của tôi , đã hy sinh , đã đổ máu . Vĩnh
viễn nằm lại đây , chấm dứt cuộc đời , chấm dứt sự nghiệp , chấm dứt đời binh
nghiệp , khi tuổi đời còn quá trẻ …
Tôi
qua Trung đoàn bộ, rồi vào Ban chính trị Trung đoàn. Các thủ trưởng, các trợ lý
phòng, ban hồ hởi khi gặp tôi. Thoáng qua trên nét mặt mọi người, lộ rõ vẻ mệt
mỏi căng thẳng. Mọi người đang tập trung, giải quyết những hậu trận chiến hôm
qua. Có quá nhiều việc phải làm. Đ/c Chủ nhiệm chính trị Trung đoàn nói: ông về
Tiểu đoàn ngay đi, nơi đấy đang cần ông. Ngày hôm qua, Đại đội 1, Tiểu đoàn 2-
3 cùng các ae trực thuộc. Đã rất dũng cảm, chiến đấu. Chúng ta đã thắng lợi,
mặc dù hy sinh nhiều, thương vong nhiều. Đại đội ông còn lại mấy người. Ông
Công chính trị viên trưởng, cùng nhiều anh em đang nằm lại đó. Nhưng trước mắt,
cứ phải để anh em ở đấy đã. Ông phải làm tốt công tác tư tưởng với anh em còn
lại. Quân lực, Cán bộ, sẽ có kế hoạch bổ sung quân cho Đại đội ông. Ông về ngay
đi.
Chủ
nhiệm và mấy đ/c trợ lý đều lau vội dòng nước mắt, đang chảy dài. Mất mát, hy
sinh của Trung đoàn trận hôm qua quả là quá lớn. Rất nhiều cán bộ Tiểu đoàn,
cán bộ Đại đội, cán bộ Trung đội, cán bộ Tiểu đội. Cùng nhiều chiến sỹ hy sinh.
Không phải chỉ có đ/c Công và anh em Đại đội 1 nằm lại đó. Đại đội 11, Đại đội
5 và một số anh em phối thuộc, vẫn nằm
lại đó. Như vậy là cả hai Tiểu đoàn và Đại đội 1, đều bị mất sức chiến đấu. Đ/c
Nguyễn Sông Thao, đ/c Ngô Khắc Quyền, những người cán bộ, người con ưu tú của
Trung đoàn, Sư đoàn. Đang được đề nghị Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu
AHLLVT. Thì đều bị hy sinh trận hôm qua. Tất cả cán bộ, chiến sỹ trong Trung
đoàn đều đau xót, đều bàng hoàng bởi sự mất mát to lớn đến với Trung đoàn .
Song,
chúng ta đã chiến thắng. Chúng ta đã đập tan âm mưu phản công, tấn công của bọn
Pốt, vào khu vực Trung đoàn chốt giữ. Chúng ta đã tiêu diệt được rất nhiều sinh
lực địch. Hiện tại toàn tuyến chốt của Trung đoàn, Sư đoàn đang được giữ chắc.
Cả đêm qua chúng lo đốt xác, không tập kích ta lần nào.
Tôi
về tới vị trí của Tiểu đoàn. Vị trí chốt của Đại đội 1, đã được các đ/v trực
thuộc thay. Anh Chính, anh Vinh , cán bộ Tiểu đoàn gặp tôi động viên , chia sẻ
với những mất mát của Đại đội. (Đ/c Ngô
Quảng Vinh mấy năm trước, bị tai nạn máy bay trực thăng rơi tại Lào. Lúc đó anh
là Thượng tá tại bộ Tổng tham mưu). Anh Chính nói: Đại đội 1 hiện còn đ/c
Thư quản lý, đ/c Tùng anh nuôi, ông sang nữa là 3 người. Tiểu đoàn, Trung đoàn,
sẽ tổ chức điều động quân số sau. Chỗ của Đại đội 1, ae trên trực thuộc thay.
Nhưng trước mắt, nhóm của các ông ở luôn
tại vị trí Tiểu đoàn bộ.
Mấy
ngày tiếp theo, dọc tuyến chốt của Trung đoàn, Sư đoàn tương đối yên bình. Nếu
không có những loạt 12L7, hay đại liên, thi thoảng có 1 vài quả ĐK của chúng
bắn vu vơ vào khu vực Trung đoàn. Thì có thể nói nơi đây thật sự thanh bình.
Pốt không tập kích hàng đêm như trước nữa. Chúng vẫn chốt dọc bờ mương, nhưng
cũng không đông quân như trước. Mà thỉnh thoảng chỉ vu vơ loạt đạn như vậy. Cấp
trên nói, bọn Pốt thấy hướng này “khó nhằn”. Nên đã chuyển hướng tấn công sang
hướng Sư đoàn 7, Sư đoàn 9 rồi.
Trung
đoàn tổ chức hội nghị quân chính. Để rút kinh nghiệm trận đánh ngày 18/7. Phổ
biến tình hình nhiệm vụ trong giai đoạn tiếp theo. Đồng chí Sư đoàn phó Mười
Thứ và chỉ huy Trung đoàn, chỉ huy Sư đoàn. Đều đánh giá cao về ý trí chiến đấu
và thắng lợi của Trung đoàn. Chúng ta đã thắng, đã phá vỡ, đã đập tan được âm
mưu bu bám, tấn công đẩy ta về biên giới. Của 3 Sư đoàn tinh nhuệ của Pốt. Tiêu
diệt, tiêu hao được rất nhiều sinh lực địch.
Cán
bộ, chiến sỹ, anh em d2- d3- c1- d1 cùng các đ/v phối thuộc. Đã rất dũng cảm
chiến đấu, chúng ta hy sinh nhiều , thương vong nhiều. Những người con ưu tú
như: đ/c Nguyễn Sông Thao, Ngô Khắc Quyền và nhiều đ/c nữa đã anh dũng hy sinh.
Còn nhiều đ/c đang nằm lại đó, đấy đang còn là “món nợ” lớn của chúng ta với
anh em. Hiện tại nhiệm vụ của chúng ta, vẫn phải chốt giữ thật vững khu vực
này. Nhanh chóng ổn định tư tưởng. Củng cố bổ sung trang thiết bị, quân số …
v.v Sẵn sàng nhận những nhiệm vụ tiếp theo.
Đ/c
Mười Thứ, Sư đoàn phó, cũng nói về việc đề nghị của đ/c Thao. Đề nghị cho tổ
chức đánh chiếm bờ đập trong đêm. Đây là 1 vấn đề đặt ra để tham khảo, nhưng
không thể có giải đáp. Vì sự việc đã qua rồi, không thể có thử nghiệm lại.
Nhưng ai có thể khẳng định là: khi đánh lên trong đêm liệu có thắng lợi ? Khi
bất lợi của chúng ta cũng đang có, là từ đồng nước vận động khó, quan sát khó v
v … Trong khi hoả lực bắn thẳng của Pốt đang rất mạnh. Trong khi hoả lực của ta
rất khó chi viện chính xác trong đêm …
Nói
chung, đ/c Mười Thứ và BCH Trung đoàn đã có quyết định đúng. Khi không chấp
nhận việc tấn công bờ đập trong đêm. Có nhiều tiếng xì xào, của anh em trong
hội nghị. Nhưng cũng không có ai, có phát biểu nào. Để phân tích, để bảo vệ
việc tiến công địch trong đêm là đúng. Thực ra trong hội nghị này, các đồng chí
chỉ huy trực tiếp tham gia trận đánh, hầu hết đã bị hy sinh. Bị thương đi viện,
số cán bộ đang dự họp rất đau thương, rất bàng hoàng xót xa, rất bức xúc. Nhưng
mọi người cũng xuôi theo, những phân tích của Trung đoàn và trực tiếp là của Sư
đoàn phó Mười Thứ.
Hội
nghị kết thúc, mọi người lại trở về đ/v. Bận mải với trăm công ngàn việc của
người chỉ huy. Không ai phản đối kết luận của Sư đoàn phó. Nhưng trong Trung đoàn,
cán bộ, chiến sỹ dường như nhìn Sư đoàn phó, nghĩ về Sư đoàn phó, không được
gần gũi, không được tình cảm chan hoà, nồng ấm, như các đ/c chỉ huy khác. Anh
em các đ/v đã không gọi ông bằng cái tên Mười Thứ nữa. Mà khi có vấn đề gì nhắc
đến ông, thì gọi ông với 2 tên khác là: “Ông Mười Thí, Ông Mười Thua”. Theo TP
và 1 số ae nữa, cái tên: “Ông Mười Thí” thì có thể đúng. Vì ông chỉ huy thí
quân nhiều. Nhưng cái tên: “Ông Mười Thua” thì có thể oan cho ông . Sau này,
nhất là khi đ/v đã tiến vào PhnômPênh. Làm nhiệm vụ Quốc tế tại đất bạn. Từ
tính cách trong sinh hoạt của ông. Anh em trong Sư đoàn còn đặt thêm cho ông 1
cái tên nữa là: “ông Trăm Thứ ”.
Xe
dừng cách cổng tòa thánh khoảng 100m. Từ xa đã choáng ngợp bởi cái cổng lớn, có
dòng chữ lớn:” Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ”. Đúng là ở nơi đây, đã lâu rồi, tôi được
nghe mọi người hay nhắc tới Tòa Thánh Tây Ninh. Tôi cứ nghĩ tầm cỡ cũng giống
như Tòa Thánh Tin Lành trước cửa nhà tôi. Hồi nhỏ, tôi thường vào đó chơi.
Những sáng Chủ nhật, có 1 người Cha đạo mặc bộ đồ thờ màu đen, đeo tròng kính
trắng, nhẹ nhàng giảng đạo. Thấy bọn trẻ chúng tôi vào, Ông thường cho chúng
tôi mỗi đứa 2 cái kẹo. Kẹo rất ngon như là loại kẹo bây giờ. Chứ không giống
như những cái kẹo chanh, kẹo bột của chúng ta những năm chiến tranh. Nhưng
chúng tôi thường không giám ăn. Vì có mấy người lớn dọa là trong kẹo có thuốc.
Ăn vào là bị theo đạo.
Mấy
đứa chúng tôi đứng trước cổng, tôi đọc từng dòng viết trên cổng. Tòa thánh xây
dựng từ những 1930(?), mà mãi tới năm 1962 (?) mới xây xong cái cổng. Như vậy
là công trình kéo dài hơn 30 năm. Khuôn viên Tòa Thánh thật rộng, chắc có đến
hàng chục ha. To rộng như Thảo cầm viên Sài Gòn. Chúng tôi vào khu đền thờ
chính. Ngôi đền chính của Tòa thánh cao, to, uy nghi. Kiến trúc gần giống như các nhà thờ của đạo Thiên chúa. Bên
trong mọi người đang hành lễ. Những Tu sỹ trong bộ áo dài màu trắng đục đi lại
làm những bài lễ cầu khấn gì đó, mà tôi không rõ lời. Chính giữa điện trên cùng
là 1 quả cầu lớn, tượng trưng cho Trái đất, trong vũ trụ bao la. Có vẽ hình 1
con mắt rất lớn, có những tia hào quang tỏa ra xung quanh. Các giáo dân đang
quỳ lễ rất nghiêm trang. Miệng lầm rầm
đọc theo những câu kinh, hưởng ứng theo động tác nghi lễ của chủ lễ. Không khí
trang nghiêm có phần "lạnh". Lối kiến trúc của nhà thờ và Tòa thánh
gần giống nhau. Vòm trần cao rộng mênh mông, các giáo dân ngước nhìn lên cao.
Làm cho mọi người cái cảm giác rộng lớn, xa xăm của vũ trụ bao la. Mà con người
thì thật nhỏ bé.
Kiến
trúc đền chùa bên Phật giáo thì lại khác hẳn. Mái chùa thấp, bước vào chùa,
thường là phải bước rất cao mới qua được ngưỡng cửa. Đầu phải cúi, chứ nếu
không thì có cảm giác đầu sẽ đụng vào mái chùa. Tạo cho mọi người cảm giác cẩn
trong, lễ phép. Nhiêm trang, mà gần gũi. Trong chùa thường bầy xếp các tượng
Phật rất chật trội. Màu sắc sơn son, thiếp vàng, quyện với hương khói làm cho
mọi người cảm giác nồng ấm. Chứ không dùng gam màu lạnh như Nhà thờ hoặc Tòa
thánh (đó là cảm nhận của riêng của tôi).
Tam
Kỳ Phổ Độ, hiểu đơn giản tức là vũ trụ bao la có các đấng Thần linh tối cao trị
vì như Phật, là kỳ thứ nhất. Chúa Giesu, Đức Chúa trời là Kỳ thứ hai. Còn Đạo
Cao Đài đây, là thờ Thiên Nhãn tức là "Mắt Trời" gọi là Kỳ thứ ba.
Thủ đô của Đạo Cao Đài là ở đây. Tòa
Thánh Tây Ninh này, giống như đạo Hòa Hảo thì Thánh địa ở Châu Đốc, tỉnh An
Giang. Nhưng đạo Hòa Hảo, tôi không thấy có nhà thờ lớn. Mà chỉ thấy dân chúng
theo rất đông, nhưng hành lễ cầu khấn tại gia đình.
Tôi
kéo tay Cúc ra ngoài, như trốn chạy nghi lễ thiêng liêng có phần
"lạnh" đó. Trong lúc anh em tôi đang vui, với niềm vui của tuổi trẻ.
Khuôn viên rộng, cây cối nhiều, nhưng du khách cũng không đông lắm. 1 số thợ
ảnh lăng xăng mời kéo chụp ảnh. Chúng tôi cùng chụp chung, rồi chụp riêng mấy
bức hình. Hồi đó ở đây, những thợ ảnh chuyên nghiệp này, có 1 cách chụp ảnh rất
lôi kéo được khách. Là cùng 1 phim, người ta bịt đi nửa ống kính. Chụp làm 2
lần, ở hai vị trí khác nhau. Làm cho tấm hình được lồng ghép cảnh trí 2 nơi như
là cái bóng, các cảnh trí, hay cả Tòa điện thờ chính rất hấp dẫn đều trong 1
tấm hình.
Tôi
cầm tay Cúc, chậm chậm đi khắp mọi nơi. Hùng và cô bạn Cúc, như là cố ý tách
chúng tôi ra. Để cho 2 đứa được chuyện trò tự nhiên hơn thì phải. Tôi rất vui,
vui thật là vui. Cúc cũng vậy, đôi mắt Cúc long lanh ngời hạnh phúc. Nhưng với
tôi, thỉnh thoảng lại thấy như là mình nhỏ bé quá, bất lực quá thế nào ấy. Mỗi
khi chợt nghĩ đến nhiệm vụ, và cuộc sống hiện tại của tôi, của người lính
chiến, nay đây mai đó đang còn rất nặng nề.
Đã
trưa, chúng tôi ra 1 quán nhỏ ăn cơm. Gọi mỗi người 1 đĩa cơm, Cúc và bạn ăn
cơm gà. Còn tôi và Hùng ăn cơm sườn. Mỗi anh em làm 1 chai bia. Chị em Cúc thì
uống nước ngọt, mọi người cụng ly, chúc tụng nhau thật vui. Có lẽ cơm dĩa sườn
heo, không đâu ngon bằng ở đây. Miếng sườn thái to, được nướng vàng cháy xém
cạnh thơm phức, vài lát dưa leo, vài miếng cà chua, 1-2 cọng hành, mấy lá xà
lách, chút nước tương. Nhưng có lẽ chưa bao giờ tôi được ăn đĩa cơm sườn ngon
đến như vậy. Cái buổi trưa ấy, bữa cơm ấy, buổi đi chơi ấy, cho đến hôm nay. Nó
vẫn đang hằn sâu, đang hiện diện thường trực trong tôi như mới hôm qua. Chẳng
bao giờ phai nhạt.
Dự
xong lớp tập huấn tại Cao Xá . Tôi trở về đ/v cứ Búa Lớn, rồi hôm sau sang
chốt. Có mấy ngày đi vắng, mà cảm tưởng như là tôi đã xa Đại đội lâu lắm. Đại
đội đã được điều động anh em từ khắp các đ/v về. Anh Đạc Đại đội trưởng, anh
Tiến Chính trị viên trưởng, anh Quang Đại đội phó. Toàn những cán bộ có bản
lĩnh, có năng lực và nhiều kinh nghiệm
chỉ huy trong chiến đấu. Cán bộ Trung đội, Tiểu đội cũng đã được điều động
về đủ. Quân số của Đại đội đã được gần 50 tay súng.
Tiểu
đoàn còn tăng cường cả đ/c Dũng tác chiến xuống Đại đội. Cùng BCH tổ chức học
tập, các nghiệp vụ, kỹ thuật, chiến thuật. Lấy thực tế chiến trường, trận địa
chốt là thao trường thực binh cho anh em. Nhất là số ae tân binh 78, số ae 77 mới
được điều từ phía sau lên. Về chính trị thì có các cán bộ trợ lý của BCT Trung
đoàn, Cán bộ Tiểu đoàn, xuống từng Trung đội, tổ chức học tập. Nâng cao bản
lĩnh, ý chí chiến đấu, tình hình Quốc tế, tình hình Cách mạng VN trong giai
đoạn mới. N/vụ chiến đấu và truyền thống của Đại đội, Tiểu đoàn, Trung đoàn, Sư
đoàn vv. Tích cực củng cố hầm hào, ụ chiến đấu và hầm có nắp đất. Để phòng
chống Pốt tập kích được tốt hơn.
Dư
âm của trận đánh ngày 18/7 vẫn còn nặng nề. Nhất là trong tâm trí của các bộ
các cấp. Mối thù với Pốt, món nợ với anh em còn đó. Anh Công và nhiều ae đang
còn nằm đó. Song hiện tại Trung đoàn, Tiểu đoàn chưa có phương án tấn công. Mà
theo chỉ đạo toàn Trung đoàn. Trong hiện tại, phải tổ chức phòng ngự tốt, chủ
động đánh địch tập kích. Nâng cao trình độ của cán bộ, chiến sỹ về mọi mặt.
Bọn
Pốt những ngày này, cũng không có dấu hiệu tấn công lớn, vào tuyến phòng ngự
của ta. Mà chỉ từ xa bắn hỏa lực. Từ trên bờ mương bắn 12,7, Đại liên vào chốt
của các đ/v.
Ở
chốt được 2 ngày, tôi lại được điều về tập huấn ở Quân đoàn 45 ngày. Tôi về cứ
của Đại đội Búa Lớn lấy quân tư trang. Rồi ra quán gặp và chia tay với 3 chị em
Cúc. Mọi người rất vui, vì tôi được về
phía sau học tập. Nhưng với Cúc, khi biết tôi về Sài Gòn, Thủ Đức học tập thì
rất buồn. Cúc bịn rịn gần như là cố nén để không khóc thành lời. Nhưng tôi cũng
cố kìm nén tình cảm của mình. Cầm 2 bàn tay Cúc, trào dâng bao nỗi xúc cảm.
Nghẹn ngào không nói được lên lời. Bối rối một lúc , rồi chợt bừng tỉnh. Như có
lời nói nào đó, nhắc: đây cũng dịp để chia tay, chia xa tình cảm với Cúc. Chấm
dứt sự trăn trở, giữa tình yêu mới đến, và nhiệm vụ nặng nề còn dài. Tôi bỗng
nói thật to như đánh thức, như khỏa lấp những ủy mị tình cảm của tôi, của Cúc,
của mọi người. Tôi nói: anh đi, cầu chúc em cùng mọi người vui khỏe và gặp
nhiều may mắn. Chúc em thật sự hạnh phúc, còn anh sẽ nhớ em, nhớ mãi. Nhưng anh
không thể mang lại hạnh phúc cho em. Tôi choàng tay, ôm Cúc rồi hôn vào má Cúc,
cái ôm, cái hôn thật nhanh. Rồi tôi cũng như người trốn chạy, chạy thật nhanh
về hướng xe ôtô cùng đồng đội đang chờ.
Trên
xe đã đông đủ, dường như còn đợi mỗi mình tôi. Anh em kéo tôi lên xe. Mọi người
nói đủ rồi. Tôi chưa kịp yên vị, xe đã nổ máy lên đường. Xe chạy chậm chậm qua
Búa Lớn. Qua quán của 3 chị em, tôi thấy
Cúc cùng 2 chị em ra đứng trước quán vẫy tay. Thoáng nhìn Cúc nét mặt không
được rạng ngời như mọi ngày. Mà buồn buồn, gượng cười, 1 tay vịn vào cô bạn, 1
tay giơ cao biểu cảm sự tiễn biệt chia xa ….
Xe tăng tốc, bụi đỏ cuộn lên, khoả lấp các
nhà cửa, hàng quán và mọi người phía sau. Tới Bến Sỏi, rồi qua thị xã Tây
Ninh. Những cánh rừng cao su bạt ngàn.
Rồi bắt vào đường 1, huyện Gò Dầu hướng về Sài Gòn. Mọi người đã hết ồn ã náo
nức. Hình như mỗi người đang có nỗi tâm sự riêng, suy nghĩ riêng. Tròn 1 năm ra
trận. Cái đêm đầu tiên ra biên giới, đoàn xe dừng ở đây, nghỉ tại đây, để xốc
lại đội hình. Thế mà đã tròn 1 năm. Một năm mà sao thấy quá dài với người lính
chiến. Bước chân người lính Sư đoàn, đã dong duổi khắp mọi nơi. Tây Ninh, Long
An, Châu Đốc, An Giang, Đồng Tháp, Hà Tiên, Kiên Giang. Chiến đấu liên tục,
không 1 ngày nghỉ ngơi. Sư đoàn đã chiến đấu hàng trăm trận lớn nhỏ. Chiến
thắng nhiều, những chiến công, đã làm rạng danh thêm truyền thống vẻ vang của
Sư đoàn. Làm cho quân thù, làm cho bọn Pốt phải khiếp sợ, đã gây được tình cảm
và niềm tin yêu của nhân dân dọc miền biên ải. Gây được uy tín, với các đ/v
bạn. Sư đoàn, từng đ/v, từng cá nhân 1 năm qua đã trưởng thành rất nhiều,
trưởng thành vượt bậc. Thật xứng đáng với truyền thống của Sư đoàn Anh hùng.
Truyền thống của của quân đội Việt Nam anh hùng.
Song
cũng 1 năm qua. Chiến đấu nhiều, đồng nghĩa với việc anh em cán bộ chiến sỹ
trong Sư đoàn cũng hy sinh nhiều, thương vong nhiều. Rất nhiều anh em đã hy
sinh, mãi mãi yên nghỉ dọc miền biên cương Tổ Quốc. Trong các nghĩa trang Liệt
sỹ, hoặc bên đất K. Do ác liệt của trận chiến, mà chưa thể tìm, chưa thể đưa
được anh em về với đất mẹ kính yêu.
Trên
xe hơn 20 anh em, đa số là lớp lính 72-74 đều trong hoàn cảnh, tình thế phát
triển cán bộ giống như tôi. Phát triển làm cán bộ Đại đội. Quân sự hay Chính
trị đều là do sự thúc ép của cuộc chiến. Như vậy là chúng tôi phải theo đuổi
đời binh nghiệp lâu dài. Tâm tư của mọi người đều muốn được trở về quê nhà.
Được sống cuộc đời bình dị như bao người. Được yêu, được làm chồng, làm cha,
cuộc sống lứa đôi hạnh phúc. Có hoa, có cảnh, có thơ, có nhạc. Đúng như người
nhạc sỹ nào đã sáng tác có câu hát, có giai điệu rất hay: “Cuộc đời chúng ta
thích hoa hồng, kẻ thù giục ta ôm cây súng”…Trong chiến đấu, lớp lính chúng tôi
là những hạt giống đỏ. Rất nhiều kinh nghiệm trận mạc, bản lĩnh chiến đấu rất
cao. Nhưng hầu như chưa ai được học qua các trường lớp bài bản, trong các
trường đào tạo Sỹ quan quân đội. Đây là dịp được trở về trường để tập huấn. Để
bổ túc những kiến thức còn thiếu của người chỉ huy cần có.
Xe
vẫn chạy, hàng quán bên đường vẫn đông đúc, qua trạm kiểm soát Suối Sâu, Trảng
Bàng. Nghe nói ở đây có trạm kiểm tra liên ngành rất nghiêm. Để ngăn những anh
em trở về phía sau, không có giấy tờ. Hoặc hàng hoá của dân mang về Sài Gòn.
Mục tiêu của trạm là rất đúng. Nhưng số cán bộ của trạm, nhất là cán bộ dân sự
đã hành động kiểm tra, kiểm soát thái quá, quan liêu, cửa quyền quá, gây nhiều
bức xúc cho dân, cho những người qua lại. Đã có nhiều vụ xô sát, mất đoàn kết
xẩy ra ở đây, giữa dân với trạm và cả giữa các đồng chí bộ đội với các lực
lượng. Gây lên những bất bình, những phản cảm không tốt trong dư luận.
Xe tiếp tục lên đường, Trảng Bàng, Biên Hoà
rồi giẽ vào xa lộ Đại Hàn, gần trưa thì tới căn cứ 301, Sóng Thần- Thủ Đức. Căn
cứ 301, là căn cứ của Sư đoàn 3, quân lực VNCH. Đây là một căn cứ rất rộng lớn.
Nay BTL Quân đoàn 4, đóng bản doanh tại đây. Các lớp tập huấn Quân sự, Chính
trị, các lớp từ Trung đội, Đại đội, Tiểu đoàn một tháng, tháng rưỡi, ba tháng,
sáu tháng đều tổ chức tại đây.
Vào
tới căn cứ 301 cũng khoảng 11h trưa. Mọi người nhanh chóng nhận phòng ở. Rồi
xuống nhà bếp ăn cơm. Bữa cơm đầu tiên của trường Quân Chính có thịt kho, đậu
phụ, rau muống luộc và cơm thì được độn bằng hạt "bo bo". Những năm
tháng này, không phải chỉ có bộ đội, phải ăn độn hạt này. Mà cả ngoài dân sự,
những người ăn gạo phiếu cấp hàng tháng. Hay cán bộ công nhân viên chức Nhà
Nước, cũng phải độn tới 30%.
Loại
hạt có tính lương thực này, nghe nói là của Ấn Độ. Bên đó họ để cho ngựa, cừu,
hay các loại gia súc ăn hạt ăn. Ta xin về, hoặc mua về, chắc vì nó rất rẻ so
với gạo. Hay là một loại viện trợ vay dài hạn gì đó. Cũng nói là để chăn nuôi
gia súc. Nhưng thực tế, là chúng ta phải sử dụng cho người. Nên mọi người ăn
loại hạt này không hợp. Mặc dù anh nuôi đã hầm, nấu và người ăn nhai cũng đã
kỹ. Nhưng làm sao mà hạt vẫn không tiêu,
khi ta đi cầu nó vẫn như còn nguyên hạt. Giống như con chồn ăn trái cà phê. Nó
tiêu hóa phần cùi, phần vỏ của trái caphê chín. Còn lại thải ra những hạt caphê.
Mọi người đi lượm những đống phân đó. Nhặt, đãi lấy những hạt cà phê về rang
xay chế biến, gọi là "Cà phê chồn" thơm, ngon, thật tuyệt. Giá như
những hạt bo bo, khi được thải ra qua người. Mà làm được cái gì đó như caphe
chồn thì hay biết mấy.
Được
nghỉ ngơi tại trường 1 ngày. Anh em bắt đầu vào chương trình học tập ngay. Lớp
tôi toàn những Sỹ quan chính trị, cấp phó Đại đội, gần 60 người. Đủ các đ/v
trong Quân đoàn. Đang ở đơn vị chiến đấu, tuy là vất vả, khổ cực. Nhưng nếp
sống, nếp sinh hoạt tương đối tự do. Giờ giấc thì thích nghi với hoàn cảnh của
chiến trường.
Còn
về đây học tập, Nhà trường quy định giờ giấc thật nghiêm. Từ 5h sáng dậy tập
thể dục. Vệ sinh cá nhân, rồi lên lớp học 4 tiết và về nghỉ. Giữa các tiết học
có giải lao 10’ như học sinh phổ thông. 11h15 có kẻng thì đi ăn cơm. Đi ăn cơm
cũng phải xếp hàng, đi từ khu vực nhà ở tới bếp. Rồi xếp hàng ngang 6 người để
vào nhà ăn. Khi ăn không được nói chuyện, ăn đũa hai đầu …v.v. Xuất ăn của
trường thì quá khiêm tốn, eo hẹp, chắc chỉ để cho đảm bảo được sự sống. Vì hiện
tại lại đang là chiến tranh. Mà chiến tranh thì có cái để mà so sánh cuộc sống
giữa phía sau và anh em chiến sỹ phía trước. Đại loại, nếu có ai kêu ca thắc
mắc gì, thì cũng được giải đáp ngay bằng một câu "anh em ngoài biên giới
còn khổ hơn mình rất nhiều".
Mọi
người vội vội ăn xong rồi về nghỉ trưa 1h30 chiều lại lên lớp học. Hoặc thảo
luận ở tổ ở nhóm tới 4h30 thì nghỉ. 5h chiều lại xếp hàng đi ăn cơm. Xong về
nghỉ ngơi đọc báo, nghe đài. 7h thì lại sinh hoạt học tập tới 9h tối. Đúng 10h
tối, mọi người đều phải tắt đèn đi ngủ. Không ngủ được, thì cũng nằm đó mà ngẫm
nghĩ sự đời. Được cái đây là phía sau, là hậu phương, là trong trường. Nên mọi
người không phải canh gác đêm. Mà chỉ có vệ binh của nhà trường canh gác. Canh
gác vì an ninh và cũng là để canh gác học viên. Không để học viên lẻn ra ngoài
la cà, rượu bia nhậu nhẹt. Hay những việc linh tinh khác. Đúng là đời học viên
Quân Chính như là một cái máy. Vô cùng gò bó, căng thẳng. Nên ai nhắc đến
trường Quân Chính, thì mọi người hay gọi theo cái tên khác là: “Trường Quân
Chán”. Hoăc: “Trường Quân Chối”.
Trong
thời gian học tập tại Thủ Đức. Ngày Chủ nhật, các học viên cũng được nghỉ. Đến
ngày nghỉ mọi người háo hức đi chơi. Hầu như đều về thành phố, nơi mọi người có
rất nhiều kỷ niệm. Rất nhiều người thân, nhiều nỗi nhớ trong thời gian 2 năm
làm quân quản.
Sáng
Chủ nhật đầu tiên. Tôi bắt xe Lam, đi vào khu vực sân bay TSN, thăm Lộc người
em trai của tôi. Là bộ đội Ra đa Trinh sát điện tử, đang đóng quân tại đó. Anh
em gặp nhau rất vui. Lộc cùng ae đồng hương trong đ/v vô cùng mừng, khi tôi đến
thăm. Vì trong những ngày qua, anh em không có tin tức gì của nhau. Lộc cùng
anh em bạn cùng đ/v rất lo cho tôi. Hàng ngày cứ thấy máy bay trực thăng, chở
các thương binh nặng về. Lộc cùng bạn ra xem. Rồi vào tận quân y viện 75 để tìm
tôi, hỏi thăm về đ/v tôi.
Chiến
sự dọc tuyến biên giới Tây Nam, ngày càng khốc liệt. Số lượng thương binh nặng,
được chuyển về viện 175 ngày càng nhiều. Một số thương binh, sau khi đã cấp
cứu, tạm ổn định, đã phải chuyển ra điều trị tại các bệnh viện khác. Kể cả phải
chuyển ra các bệnh viện quân đội ở các tỉnh Bắc.
Không
hỏi thăm được tôi, chỉ được các anh em thương binh nói rằng: Sư đoàn 341 tham
gia chiến đấu nhiều nơi . Tham chiến những trận rất ác liệt, nên ae thương
vong, hy sinh cũng nhiều lắm. Lộc càng lo cho tôi, nhất là thông tin về cuộc
chíên Biên giới Tây Nam, lúc này hầu như cả nước đã biết. Biết về cuộc chiến
tranh đang xẩy ra, tưởng chừng đơn giản. Nhưng ngày càng khốc liệt, lại rất
“hao người” này. Những tin tức của ae bị hy sinh thường được báo về người thân
rất nhanh. Không như thời đánh Mỹ, có nhiều trường hợp ae hy sinh mấy năm rồi
mà gia đình, cùng người thân không biết. Bố mẹ, anh chị em tôi ở quê rất lo.
Gửi thư vào cho Lộc, hối thúc Lộc tìm và hỏi thăm tin tức của tôi.
Ở
chơi với Lộc một lúc, tôi hẹn buổi trưa sẽ về ăn cơm. Rồi mượn xe đạp của anh
em trong đ/v Lộc, vào thành phố. Đường phố Sài Gòn vẫn đông đúc người đi. Những
nam thanh, nữ tú, quần áo đủ các màu sắc lung linh sặc sỡ. Vẫn thướt tha khêu
gợi. Những dòng người, xe đạp, xe máy, otô các loại cứ vội vã như đạng chạy,
đôn đáo với cuộc sống mưu sinh, thường nhật bận rộn. Cứ nhìn thành phố, và mọi
người thế này, thì chẳng có biểu hiện gì của đất nước đang có chiến tranh, đang
có những nguy cơ xẩy ra những diễn biến phức tạp trong đời sống xã hội. Những
con đường, dãy phố cùng nhà cửa, với tôi vẫn quen thuộc làm sao, thật gần gũi,
như tôi chưa từng rời xa bao giờ. Không thật định hình về hướng đi, điểm đến.
Mà sao tay lái cứ băng băng thẳng hướng ngã tư Bẩy Hiền theo đường Lý Thường
Kiệt, qua trường đua Phú Thọ, rồi tới khu vực chung cư Lý Thường Kiệt phường 7
quận 11.
Tới
đây tôi mới sực tỉnh ra. Dừng lại định tâm suy nghĩ, nhà Thanh ở kia. Chung cư
Lý Thường Kiệt lô A, tầng 3 phòng 308 nơi tôi đã ở đây cùng đội công tác 6
tháng. Tiếp đến cách 3 căn hộ là tới nhà chị Danh, tổ trưởng, rồi nhà Thanh ở
bên cạnh. Đây mới là người con gái đã gieo vào lòng tôi bao nhớ nhung, gieo vào
hồn tôi bao kỷ niệm đẹp của thời trai trẻ sau giải phóng, làm Quân quản tại
thành phố này.
Khoảng
tháng 4/1976 khi đ/v tôi làm Quân quản tại Quận 11. Tiểu đoàn tôi đóng quân tại
đồn Cây Mai, đường Lục Tỉnh. Quận và đ/v cử tôi làm đội trưởng 1 đội công tác 4
người. Gồm anh Thành, anh Thi, anh Ngân và tôi. Biệt phái về phường 7. Cùng các
đội công tác dân sự, làm công tác kê khai, nắm tình hình Tiểu thủ công nghiệp.
Với tên gọi của đợt công tác có mật danh là X4. Đợt công tác này nằm trong
chính sách cải tạo Tiểu thủ công nghiệp của Thành phố và toàn Miền Nam. 4 anh
em chúng tôi về phường 7, được phường sắp xếp ở tại căn hộ 308 lô A của chung
cư Lý Thường Kiệt.
Khu
chung cư này, nghe kể là của Hàn Quốc xây dựng ủng hộ chế độ VNCH, giành cho
dân nghèo. Bị mất nhà cửa, sau sự cố Tết Mậu Thân năm 1968. Khu chung cư gần
chục lô, nằm giữa các trục đường. Đường Trần Quốc Toản, nay là đường 3/2. Đường
Nguyễn Văn Thoại, nay là đường Lý Thường Kiệt, giáp với Quận 10. Và 2 bên đường
Vĩnh Viễn, chạy xuống tới đường Lê Đại Hành có UBND phường 7, khu vực chợ
Thiết.
Sau
khi về ở đây được mấy ngày. Qua nắm tình hình chị Danh tổ trưởng. Chị Danh là
một người phụ nữ gầy, nhanh mồm miệng, có chồng làm công nhân hãng nước ngọt
Chương Dương, được 2 cậu con trai khoẻ mạnh, tuấn tú. Đứa lớn khoảng hơn chục
tuổi, mập trắng. Trái ngược với ngoại hình của chị Danh. Người mẹ gầy yếu, lại
có bệnh đau bao tử. Đang phải bươn chải cuộc sống vất vả, sau ngày giải phóng.
Mưu sinh bằng nghề buôn bán quần áo chợ trời. Chuyện trò với chị Danh 1- 2 lần.
Chị Danh đã rất nhanh chóng quý tôi. Chị nói: ở tổ có cô Thanh tổ phó, năm nay
mới 16 tuổi xinh đẹp. Rất nhiệt tình với phong trào của tổ, đang tham gia với
đoàn văn công của Quận. Thường đi biểu diễn khắp nơi, để tôi giới thiệu cho chú
làm quen.
Tối
hôm sau, chị Danh hẹn tôi sang nhà. Rồi
gọi Thanh sang, nói lý do là có mấy chú bộ đội về công tác, hỏi thăm tình hình
của tổ dân phố. Chị Danh nói trước với tôi; Thanh còn trẻ, đang còn đi học. Rất
nhiệt tình với công tác của tổ, là thành viên tích cực trong đội văn công của
Quận. Từ sau giải phóng đã có nhiều chú bộ đội, công an, về làm công tác quân
quản, kê khai nhân khẩu v.v.. nhiều chú cũng đã có lời nhắn nhe để ý. Có lẽ vì
Thanh còn quá trẻ, nhưng phần quan trọng là có vẻ không ưa các chú bộ đội,
không ưa các chú công an cho lắm. Thanh nói:
"Trông họ cứ quê quê thế nào ấy!”.
Thanh
vào nhà, hơi bất ngờ vì có tôi ở đó. Qua một vài câu xã giao, giới thiệu của
chị Danh. Thực ra tổ công tác của tôi đã về ở đây được mấy ngày rồi, Thanh cũng
đã biết. Hàng ngày đi học, đi chợ hoặc đi đâu đó. Cũng phải qua căn hộ 308, thì
mới tới căn hộ của nhà Thanh. Nhưng thực tình tôi cũng chưa gặp Thanh. Vì ban
ngày chúng tôi phải bận bịu với công việc ở phường, tối về muộn. Đứng hóng gió
một chút, rồi đi nghỉ. Nên với tôi hôm nay gặp Thanh cũng thật bất ngờ. Bất ngờ
vì Thanh còn quá trẻ, mà đã đảm trách công việc tổ phó tổ dân phố. Bất ngờ nữa
là giữa Sài Gòn, gặp một người con gái có da trắng, để tóc rất dài như phụ nữ
ngoài Bắc. Thanh có đôi mắt đen láy, làn môi đỏ hồng tự nhiên. Nhìn Thanh, thật
lạ, tôi cảm thấy gần gũi làm sao, như đã quen biết từ lâu. Hơi bất ngờ khi
Thanh gọi tôi bằng "chú". Tôi liền nói: "Thanh bằng tuổi em gái
anh ở quê, nên Thanh đừng kêu anh là chú, ngại lắm". Thanh nhìn tôi, như
là để kiểm tra xem tôi có nói xạo hay không rồi nói: "ủa vậy hả chú, à
quên nếu thế thì cháu gọi Chú Phú là anh được rồi". Sau này tôi mới biết,
tôi bằng tuổi anh hai của Thanh.
Chị
Danh pha xong mấy ly nước chanh mang ra, nói trêu thêm vào: "Chú thấy
không, gặp chú là cô ấy lúng túng, lúc thì gọi chú, lúc thì gọi anh vui
không?" Mọi người cười vui. Thanh
thẹn thùng, 2 má đỏ hồng rồi hỏi chị Danh: "Chị có hỏi gì nữa không
để Thanh còn về học bài". Và chủ động nói khi nào rảnh rỗi, mời tôi sang
nhà chơi. Rồi Thanh vội vội đi gần như chạy về bên nhà.
Mấy
ngày sau tôi sang nhà Thanh chơi. Gia đình Thanh cũng đông người. Quê gốc ở Hải
Phòng, di cư vào Nam năm 1954. Hiện ông bố đang làm thợ may. Mẹ bán hàng rau
quả ở chợ. Thanh có người anh trai cả cũng bằng tuổi tôi. Là lính của QLVNCH
được sang học lái máy bay ở Mỹ. Nhưng khi khóa học gần kết thúc, tình hình Miền
Nam gần đến giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh. Anh trai Thanh, đã cùng mấy
người bạn cùng khóa đào ngũ. Không trở về Việt Nam, mà trốn sang định cư sinh
sống ở Canada.
Tiếp
đến là 1 anh trai nữa, kém tôi 2 tuổi. Anh là người có tri thức cao, rộng. Đang
làm kế toán của 1 hãng nào đó. Một chị gái, cùng một người em trai út. Người
anh thứ 2, thường hay nói chuyện với tôi. Hai anh em rất nhanh hợp gu, khi nói
về các tác phẩm văn học, hay âm nhạc. Về văn học, thì đều nói về các tác phẩm
văn học nước ngoài như: Bá Tước Mongtơgờrixito, Cánh buồm đỏ thắm, 3 người lính
Ngự Lâm. Trà hoa lữ, Hội chợ phù dung. Hoàng hậu Mác gô của văn học Pháp. Hay
Người tình tuyệt vời văn học Mỹ. Điệp
viên 007, truyện viễn tưởng thì có tác phẩm 20.000 dặm dưới đáy biển. Về âm
nhạc, thì hay nói đến giai điệu của những bản nhạc như: Vũ khúc Tây Ban Nha,
Panoma, Xifpole, Trở về Xô ri an tô …v.v
Hai
anh em chúng tôi, cũng hay đàm đạo về một số lĩnh vực cuộc sống khác. Thực ra những hiểu biết này cũng đơn
giản. Là vì tôi từ bé đã sống ở Thị xã, trước khi đi bộ đội đã làm việc ở xưởng
đóng tàu Hải Phòng. Tôi lại cũng ham đọc sách nhất là văn học nước ngoài. Học
chơi đàn Ghita. Nên đó chỉ là những hiểu biết thông thường, của thanh niên
Thành phố, Thị xã lúc đó.
Nhưng
cũng chính qua các cuộc nói chuyện và đàm đạo đấy. Với những hiểu biết đó, mà
anh trai Thanh, ba má Thanh rồi cả nhà Thanh. Cùng các hộ dân cư ở đó, rất quý
tôi. Coi tôi là người có "trình độ" khác với các chú bộ đội khác. Chỉ
biết có súng, có đạn và những bài nói rất giống nhau về Chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa Cộng sản hay Tư bản là bóc lột …v.v. Anh em bộ đội mình, thì đa phần là
sống ở nông thôn, rừng núi. Trong điều kiện đất nước có chiến tranh triền miên,
nghèo nàn và lạc hậu. Bà con và thanh niên, sinh viên học sinh Sài Gòn, thì hay
hỏi nhiều thứ linh tinh. Để kiểm tra trình độ của bộ đội. Để so sánh giữa 2
miền Bắc - Nam.
Cũng
rất buồn cười là, ở miền Bắc hồi đó làm gì đã có tivi, tủ lạnh. Nghe đâu chỉ
mỗi Bộ và trên Trung ương, mới có 1 cái ti vi gọi là: "vô tuyến truyền
hình". Cho nên khi bà con hỏi bộ đội ngoài Bắc có tivi không? Một số anh
em không biết tivi là gì, mà lại cứ nghĩ là miền Bắc cái gì cũng có. Bao giờ
cũng phải nhiều và hơn hẳn miền Nam. Vì thế một số anh em đã trả lời đại đi là:
"Có chứ, tivi nhiều lắm, chạy đầy đường". Đây cũng là một câu chuyện
khôi hài, mà có thật, trong những ngày đầu giải phóng. Nó tựa tựa như mấy câu
thơ, của nhà thơ Trần Việt Phương như: "Ngày xưa tôi cứ tưởng, đồng hồ
Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sỹ/ mường tượng rằng, trăng Trung Quốc tròn hơn
trăng nước Mỹ…"
Tôi
nhanh chóng được lòng mọi người, và như vậy Thanh cũng có những biểu cảm quý
mến tôi. Những buổi chiều đi công tác về, hoặc sau buổi ăn cơm chiều, tôi sang
bên đó chơi. Tôi và Thanh thường hay đứng trước ban công. Nhìn qua các nóc nhà
thấp, những hàng cây. Ngắm đường phố chuẩn bị lên đèn, nhộn nhịp, tấp nấp người
qua lại. Thanh nói là vẫn đi tập vũ Bale “múa”, ở trung tâm văn hóa. Rồi làm
cho tôi xem những động tác cuộn tròn các ngón tay, rất điêu luyện. Đến giờ tôi
vẫn còn nhớ đôi bàn tay thon dài, trắng ngần đó.
Đợi
cô bạn Thanh đi khuất, tôi dắt xe xuống đường. Thanh ngồi sau xe, tôi chậm chậm
đạp xuôi theo đường Lý Thường Kiệt, rồi quẹo trái theo đường Trần Hoàng Quân(
nay là đường Nguyễn Chí Thanh). Hòa theo dòng người về hướng Sài Gòn. Trong
lòng tôi trào lên bao cảm giác lâng lâng khó tả.
Đường
Sài Gòn đã rất đông, dòng người xe đạp, xe máy, đi như nước chẩy. Thời đó xe
máy không nhiều như bây giờ. Mọi người đi xe đạp là chính. Những đôi trai gái cùng
ngồi trên xe, người con gái ngồi sau ôm cứng chàng trai phía trước. Ở ngoài Bắc
mọi người ngồi sau xe đạp không như ở đây. Chỉ có em nhỏ mới ngồi sau để 2 chân
sang 2 bên. Người lớn thì ngồi sau để 2 chân về 1 phía. Thường là khi xe đạp di
chuyển mới chạy chạy nhẩy lên xe. Chỗ ngồi sau cũng thường không có cả chỗ để
chân. Xe đạp ngoài Bắc thì không có loại xe mini, cỡ vành nhỏ như ở đây. Nhiều
người phụ nữ thấp, phải nhẩy nhẩy mấy lần mới lên được xe. Cách nhẩy, cách ngồi
trên xe rất vất vả. Còn ở đây mọi người thường ngồi lên xe trước khi xe chạy.
Nên người ngồi sau cũng nhàn nhã, chắc chắn hơn nhiều so với cách ngồi sau xe ở
ngoài Bắc.
Thanh
ngồi cách xa tôi, hai tay Thanh vịn vào sau xe như cố ý giữ khoảng cách, để
không động chạm vào tôi. Với khoảng cách như vậy, nhưng trong gió thoảng, tôi
vẫn cảm nhận được mùi thơm của da thịt con gái, khiến bao cảm xúc dâng tràn
trong lồng ngực. Tôi chưa biết bắt chuyện như thế nào, mà vẫn im lặng đạp xe,
nhìn đường phố, nghĩ ngợi mông lung và hít hà cái hương thơm trong gió ấy.
Thanh lại là người chủ động nói trước. "Anh Phú ơi, lần sau khi mời Thanh,
anh đừng có nói là mời đi chơi nha, nghe nó kỳ lắm". Tôi nói: "Vậy
anh nói thế nào khi mời em?". "Ở đây, khi nói hai từ "đi chơi"
thì người ta thường nghĩ đến những chuyện chơi bời, trác táng không đàng hoàng.
Anh phải nói là mời Thanh đi dạo phố, đi vòng vòng hay đi ăn kem v.v...".
"Ở ngoài Bắc, nói đi chơi là bình thường, chứ không có nghĩa xấu gì trong
đó cả. Nhưng anh sẽ rút kinh nghiệm không nói đi chơi nữa"
Tôi
chở Thanh vào hướng Sài Gòn, hòa cùng dòng người. Qua các đường phố, qua khu
chợ Bến Thành, vòng dọc bến Bạch Đằng. Sài Gòn về đêm thật đẹp. Đúng là: “ Hòn
ngọc Viễn Đông”. Chỗ nào cũng lộng lẫy ánh đèn mầu, nê-ông sáng rực. Các nam
thanh nữ tú, tài tử giai nhân với những bộ đồ tuơi tắn, trang điểm thật đẹp.
Trong ánh điện lung linh, như làm cho vẻ đẹp của mọi người càng thêm ngời sáng.
Buổi tối Sài Gòn thật mát mẻ. Tất cả cái nóng bức, oi nồng của ban ngày đã được
gió biển, gió sông xua tan, một làn không khí mát rượi dịu nhẹ. Thêm nữa, có
những sợi tóc của Thanh bị gió đùa nghịch làm tung bay quyện vào lưng gây cho
tôi cảm giác là lạ thật dễ chịu. Hàng quán san sát, người ra kẻ vào tấp nập,
tiếng í ới gọi nhau cùng những tiếng chạm ly côm cốp, rôm rả ồn ào, tạo nên một
khung cảnh đặc biệt về đêm của thành phố Sài Gòn ... Thấp thoáng trong bóng
tối, nơi gốc cây, có những cô gái trang điểm sặc sỡ, đang ngó nghiêng bồn chồn
đợi khách.
Hết
một vòng Sài Gòn, tôi chở Thanh ngược về qua đường Phạm Ngũ Lão. Đường này có
rạp chiếu phim tên “Quốc Tế”. Tôi mời Thanh vào xem phim. Thanh ngập ngừng một
lúc rồi gật đầu nhè nhẹ đồng ý và ngước lên nhìn tôi nói nhỏ: "Vô xem
phim, anh Phú phải giữ cho em đó! Không thôi em sợ lắm!" Tôi ngây thơ đến
độ không hiểu được ý sâu của Thanh rồi nói: "Có anh em còn sợ gì? Sợ mất
gì à? Có gì thì đưa anh giữ cho?". Thanh cúi đầu mỉm cười, đoán chừng tôi
không hiểu ý ... Trong ánh đèn mầu rực rỡ trước rạp. Nhìn Thanh, biết rằng
Thanh đang rất thẹn, rất ngại, như suy nghĩ điều gì. Nhưng chính sự e thẹn đó,
lại làm dậy lên cái vẻ đẹp con gái, vẻ đẹp của thiếu nữ, của thiên thần. Đẹp,
đẹp mê hồn. Trống ngực tôi đập thình thịch, bừng lên những cảm xúc ngọt ngào,
ngất ngây hạnh phúc.
Cho
đến bây giờ, tôi vẫn không thể quên những hình ảnh đó. Hương thơm của da, của
tóc con gái, làn môi, nụ hôn đầu đời ngọt ngào vụng dại. Với người con gái Sài
Gòn xinh đẹp. Trong buổi tối thiên đường ấy.
Tiếng
kèn hơi của chiếc xe tải lớn chạy ngang qua, cắt đứt dòng hồi tưởng của tôi.
Đưa tôi trở lại thực tế. Có nên gặp Thanh không? Con tim cứ thôi thúc mong muốn
được gặp. Còn lý trí thì lại nói rằng: "Đừng gặp!"
Vì
mình đã chia tay với Thanh rồi, khi đơn vị được lệnh đi chiến đấu ở biên giới.
Dịp tết, mình hẹn Thanh đi chợ hoa, nhưng bất ngờ có chuyến về thăm nhà ngoài
Bắc. Nên không thực hiện được. Vậy những ngày qua, Thanh nghĩ gì về tôi? Chắc
Thanh trách tôi, giận tôi nhiều lắm! Hay Thanh chờ đợi tôi? Không! Thanh giận
tôi thì có, còn chờ đợi thì chắc là không? Vì những lời chia tay tôi đã nói ra
rồi và tôi bặt tin từ đó đến giờ! Thời gian trôi qua đã làm cho Thanh đẹp thêm
lên. Giờ đây,Thanh đang ở tuổi 18, đỉnh cao của sắc đẹp con gái. Sẽ có biết bao
chàng trai theo đuổi. Họ sống ở thành phố, bao nhiêu thuận lợi, bao hứa hẹn
mang lại cho Thanh cuộc sống lứa đôi và gia đình hạnh phúc.
Còn
tôi, tôi vẫn chỉ là người lính chiến với ak súng dài nơi sa trường. Suốt ngày
phải đối diện với gian lao, khổ cực, biền biệt xa xăm. Sự sống và cái chết mỏng
tanh như tờ giấy, nhỏ bé như sợi tơ hồng. Vậy làm sao tôi có thể mang lại hạnh
phúc cho Thanh? Hay chỉ mang lại những chuỗi ngày chờ đợi gian khổ, héo mòn
trong nhung nhớ...?
Tôi
dắt xe xuống đường, lên xe chậm chậm xuôi theo dòng người. Mới lúc trước từ đơn
vị Lộc ra, tôi đạp xe chạy băng băng. Sao giờ đây cũng chiếc xe này, mà sao nó
ì ạch, nặng nề, như là đang có ai níu giữ phía sau. Mồ hôi tôi vã ra. Tôi uể
oải rẽ vào hàng nước mía giải khát bên đường. Gọi một ly uống, nín một hơi hết
ly nước mía. Tôi gọi tiếp ly thứ hai. Bắt đầu mới nhâm nhi từng miếng nhỏ. Mới
tận hưởng được cái ngọt của nước mía, cái mát của đá lạnh, cái vị thơm của dứa,
của tắc, của dâu tây ép cùng. Ly nước mía thứ nhất làm cho tôi giải nhiệt. Ly
thứ hai này, làm cho tôi lấy lại tỉnh táo, bình tĩnh và bản lĩnh thường nhật.
Nước
mía Sài Gòn thật ngon. Có lẽ không ở đâu uống nước mía ngon, bổ, rẻ, như là
uống ở Sài Gòn. Thứ nước giải khát này, mà trong những ngày chiến đấu nơi biên
ải. Giữa nắng trưa thiêu đốt, giữa cánh đồng mênh mông, khét lẹt mùi thuốc
súng, đặc khói của cỏ cháy, lúa cháy. Giữa những lúc thèm khát được uống nước,
khát khô, khát bỏng. Tôi thường mơ: "Khi nào về Sài Gòn sẽ mua cả một xô,
một chậu lớn mước mía. Để rồi gục đầu xuống, vừa gội đầu, vừa uống nước mía cho
thỏa thích. Bù lại cho những lúc khát thèm nước nơi chiến trường".
Nhâm
nhi hết ly nước mía thứ 2, đã thấy đỡ căng thẳng. Tôi trả tiền nước, cũng không
lấy lại tiền thối. Rồi quyết định đến thăm một vài gia đình quen biết, gần khu
vực đồn Cây Mai. Hồi đơn vị đóng quân ở đấy tôi thường đến chơi.
Gia
đình tôi tới chơi, mọi người rất vui khi gặp lại tôi. Mời tôi uống cà phê, rồi
hỏi thăm về anh em trong đơn vị. Tôi kể về từng người mà bà con hỏi thăm. Ai hy
sinh, ai bị thương, ai được trở về quê hay đi học. Mọi người tỏ ra rất thương
xót cho anh em. Rồi bà con kể về cuộc sống hiện tại, từ khi chúng tôi không làm
Quân Quản nữa. Thôi thì đủ thứ chuyện: nào là chính quyền mới, nhất là một số
cán bộ 30/4 rất sách nhiễu bà con. (Cán
bộ 30/4 là lớp cán bộ tham gia từ ngày giải phóng). Cuộc sống bây giờ vô
cùng khó khăn thiếu thốn, thiếu gạo, thiếu củi, thiếu dầu, thiếu thuốc, thiếu
xăng. Thiếu thốn tất cả các thứ đồ dùng sinh hoạt, nhu yếu phẩm thiết yếu của
cuộc sống. Rồi má chỉ vào một chậu đựng gạo. Bên cạnh là một cái chén đã có một
ít thóc, một ít hạt sạn. Má nói: “Đấy con xem, gạo rất khó mua. Mà gạo như vầy,
lẫn cả sạn cát, cả thóc vào, người ăn sao nổi? Hư răng, hư bao tử hết thôi. Thứ
này ngày xưa thì chỉ để nấu cám cho heo ăn.
Bây
giờ tôi mới quan sát kỹ lại căn nhà và nhìn quanh phòng. Hình như phòng rộng
hơn trước nhiều. Cái tủ lạnh để ở góc kia mà không thấy đâu. Tôi hỏi: "Uả
tủ lạnh Má hư mang sửa hay sao mà không thấy?". Má cười trên nét mặt lộ
những nỗi buồn, má nói: "Bán hết rồi con ơi! Không phải một nhà Má mà rất
nhiều nhà phải bán, từ tủ lạnh, ti vi, quần áo, tủ bàn ghế, đến xe honda, máy
may. Những gì ngày xưa sắm được, thì bây giờ lại bán đi ráo trọi rồi. Bán để
lấy tiền mua gạo. Tôi lại hỏi một câu rất ngớ ngẩn: "Uả ai mua mà nhiều
thế hả má?" Má nói: "thiếu gì người mua, nhất là số cán bộ ở ngoài
Bắc vào, mua để có tiện nghi trong gia đình, và họ mua để chuyển ra Bắc nhiều
lắm. Ô tô, tàu biển, chuyến nào cũng chở đầy hết. Những thứ như xe đạp cũ, thời
trước còn tốt hay những đồng hồ oDo hư đã lâu. Hay những loại xe môbilet cũ
rích cũng được sửa lại, bán được tiền không đó".
Tôi
lặng người đi, rồi nỗi buồn ập đến. Đúng là hiện tại, cuộc sống của dân ở Miền
Nam. Nhất là cuộc sống của bà con ngay tại Thành phố. Đang vô cùng khó khăn
thiếu thốn đủ đường. Chính quyền các cấp, đang áp dụng một số chính sách quản
lý như vào Tổ hợp, vào HTX, vào Công ty
hợp doanh v.v... rồi ngăn sông cấm chợ, không cho hoặc rất hạn chế mang lương
thực, thực phẩm vào Thành phố. Chính quyền lại áp dụng chính sách mua lương
thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm bằng tem phiếu như ngoài Bắc. Tưởng chừng rất
khoa học, nhưng lại không phù hợp với thực tế. Không phù hợp với một vùng miền
mới giải phóng, có tiếng là giàu có về gạo và lương thực, thực phẩm này.
Nên
tình hình xã hội có nhiều bất ổn, nhất là sau giải phóng đã được mấy năm. Sự
kiện “tắm máu” không xẩy ra. Một số phần tử phản động đã trỗi dậy, nhen nhóm
các tổ chức. Hòng phá hoại, hay ý đồ lật đổ chính quyền. Một số bà con người
Hoa thì bị xúi giục, bị xuyên tạc về tình cảm gắn bó hữu nghị của 2 dân tộc.
Nên đã có một vài cuộc biểu tình, chống phá hoặc truyền đơn phản đối chính
quyền ở khu vực Chợ Lớn v.v.. Quan hệ giữa ta và Trung Quốc, có nhiều diễn biến
phức tạp. Đã có nhiều gia đình, bồng bế nhau, bỏ nhà cửa, bí mật xuống tàu vượt
biên sang định cư ở nước khác.
Ôi!
Thật phức tạp. Khi được nghỉ về chơi ở Thành phố. Tôi tưởng sẽ vui, việc quyết
định gặp Thanh hay không, đã làm cho tôi khó xử. Giờ đây, được biết thêm về
tình hình cuộc sống thực tế của bà con Sài Gòn. Làm cho tôi lại càng ngán ngẩm
hơn. Tôi nói với má: "Đúng là đất nước đang gặp rất nhiều khó khăn. Không
ai nghĩ rằng cuộc chiến tranh Biên giới với Campuchia lại xẩy ra. Đã có rất
nhiều bộ đội, đã qua cuộc chiến tranh giải phóng nay lại phải hy sinh nơi Biên
giới để bảo vệ Tổ quốc. Trong lúc này, nhà nước lại phải đang trả một số nợ, vay
của các nước, trong thời kỳ chiến tranh. Mỹ thì lại cấm vận mình, không cho
mình mở mang bang giao với các Quốc gia khác. Càng làm cho chúng ta khó khăn
hơn!".
Chuyện
trò với Má một lúc, rồi tôi trở về chỗ đ/v Lộc trong sân bay Tân Sơn Nhất.
Đường phố Sài Gòn vẫn thế. Nhưng trong lòng tôi, thì thật nặng nề với bao nỗi
niềm khó tả.
Tôi
về chỗ Lộc với tâm trạng không vui. Nhưng rồi khi anh em bê mâm cơm ra có đủ
rượu, bia, rau thơm, ớt cay và hành thái. Các bạn bè đồng ngũ với Lộc vô tư, ồn
ào sôi nổi. Làm cho tôi quên đi những tâm sự nặng nề. Tôi nhanh chóng hòa nhập
vào tiệc rượu cùng anh em. Chú Lộc tuyên bố: "Hôm nay anh Phú về, chiêu
đãi anh món thịt thỏ nấu sốt vang". Do chính tay Thắng bạn Lộc biểu diễn.
Đúng
là bộ đội. Các sắc lính khác sao mà vui, sao mà sướng thế. Họ là đơn vị rada
điện tử, nên từ ngày nhập ngũ đến tham gia các chiến dịch. Hiện tại đang đóng
quân tại sân bay. Nhưng chưa một ngày nào hành quân phải đi bộ. Tiêu chuẩn nhu
yếu phẩm cao hơn chúng tôi nhiều. Chẳng bù cho thằng lính bộ binh súng dài
chúng tôi. Hành quân cơ động, hay tập luyện đều bằng sức người, bằng đôi chân,
mang vác bằng 2 vai là chính. Thiếu đói, khổ cực trăm đường. Tôi nhìn anh em
nhậu thật sôi nổi. Mọi người tranh nhau chúc rượu tôi. Tiệc rượu thật vui,
nhưng sau cứ một lần cụng ly, là tôi lại nhớ tới anh em, nhớ tới đơn vị. Nhớ
tới từng khuôn mặt những anh em cùng tôi đã chiến đấu, cùng tôi chịu bao đói
khổ, rồi hy sinh, rồi bị thương nơi chiến trận. Uống rượu mà tôi không sao lấy
được cảm giác vui, mà lại thấy tủi tủi, cay cay. Nước mắt tôi ứa ra chảy dài
xuống má.
Ở
chơi chỗ Lộc đến 3h chiều, tôi chia tay anh em . Lộc lấy xe đạp chở tôi ra khu
vực Lăng Cha Cả đón xe. Tôi trở về trường Quân chính sau một ngày đi chơi, với
bao buồn vui lẫn lộn. Cũng chính từ buổi đi chơi này. Tôi được biết thêm hoàn
cảnh khó khăn, cuộc sống thực tại của người dân Sài Gòn.
Những
ngày Chủ nhật sau, anh em chúng tôi thường ngại không ra ngoài trường, hoặc về
chơi ở Thành phố. Tôi đến chỗ Lộc 1- 2
lần nữa, còn lại những ngày nghỉ tiếp. Anh em học viên chúng tôi thường góp
tiền, cử người ra ngoài mua gà, mua vịt, mua rượu về tự nấu nướng. Tổ chức nhậu
với nhau, rồi chơi cờ, chơi bài cho hết ngày.
Học
ở trường mãi, nhàn rỗi quá lại thấy chán. Anh em học viên, ai cũng thấy nhớ
nhà, nhớ anh em. Muốn khóa học mau chóng kết thúc để có thể được nghỉ phép về
thăm gia đình. Hay trở về đơn vị.
Kết
thúc khóa học, nhà trường tổ chức một buổi nói chuyện, về tình hình thời sự
trong nước và Quốc tế. Qua buổi nói chuyện, mới thấy được chúng ta đang gặp vô
vàn khó khăn. Về quan hệ Quốc tế thì đang có nhiều bất lợi cho ta. Mỹ vẫn tăng
cường cấm vận. Trong phe XHCN, đã có dấu hiệu tan vỡ, hay thay đổi chính sách.
Một số nước anh em thân thiện, hoặc các nước trung lập. Trong chiến tranh chống
Mỹ, thì họ rất ủng hộ ta. Giờ đây họ lại lên tiếng phản đối ta. Cho rằng chúng
ta là nước lớn mạnh, bắt nạt, ăn hiếp nước bé v.v...
Tập
đoàn phản động Bắc Kinh, thì đã ra mặt gây khó khăn cho ta. Gần như công khai,
ủng hộ chế độ diệt chủng Khơ Me Đỏ. Chúng đang có nhiều chuyên gia, Cố vấn giúp
cho Khơ Me Đỏ xây dựng sân bay Quân sự, Quốc phòng, tăng cường cung cấp rất
nhiều vũ khí vv…Chiến sự dọc tuyến Biên giới Tây Nam, vẫn đang hết sức khốc
liệt. Bọn Pốt đã lại xua quân lấn chiếm một số vùng dọc tuyến Biên giới Tây Nam
của ta. Như An Giang, Bẩy Núi, chúng chuẩn bị lực lượng để ý đồ tổng tiến công
mùa khô 78-79. Với tham vọng ngông cuồng là Tết 78-79 sẽ chiếm huyện Châu
Thành, Gò Dầu, và thị xã Tây Ninh. Làm bàn đạp tấn công các tỉnh phía Nam và
Sài Gòn.
Hướng
Tây Ninh, nhất là hướng rừng Hòa Hội. Là địa hình có lợi cho chúng, vì khu rừng
rộng lớn phía Tây sông Vàm Cỏ. Chúng đã điều động các Sư đoàn mạnh về hướng
này, với ý đồ đánh chiếm rừng Hòa Hội làm bàn đạp cho âm mưu lớn. Lực lượng
cách mạng chân chính của Bạn mới phôi thai, còn trong trứng nước.
Nói
chung, đất nước chúng ta đang gặp rất nhiều khó khăn. Tình hình chiến sự, của
cuộc chiến tranh Biên giới Tây Nam vẫn còn vô cùng phức tạp. Ta cũng đã có kế
hoạch đối phó với Bọn Pốt. Mùa khô tới, nhưng cụ thể thế nào còn trong bí mật.
Chính vì những khó khăn trên, nên các đồng chí đừng có nói đến chuyện đi phép
về thăm gia đình. Mà Biên giới đang mong đợi chúng ta. Đơn vị đang mong chờ
chúng ta. Các đồng chí phải về đơn vị gấp. Chiều nay trường sẽ tổ chức liên
hoan chia tay với lớp học. Sáng mai có xe của Quân đoàn đưa các đ/c trở về đơn
vị.
Anh
em chúng tôi tiu ngỉu, thoáng buồn vì không được đi phép. Thế là tôi cũng không
đến chỗ Lộc chơi, chia tay với Lộc được nữa. Hôm sau, sau khi ăn sáng 7h đã có
xe đến. Anh em tôi lại lên xe. Hướng
Biên giới thẳng tiến. Sau gần 50 ngày, chúng tôi lại trở về đơn vị. Con phà Bến
Sỏi lại đưa chúng tôi qua sông. Rừng Hòa Hội, Búa Lớn những cây thốt nốt lại
hiện ra quen thuộc. Xe dừng lại khu vực cứ của Trung Đoàn. Đ/c chủ nhiệm Chính
trị gặp gỡ chúng tôi. Lại một bài giáo huấn về tình hình thời sự, tình hình
Trung đoàn cùng các đơn vị, từ ngày chúng tôi đi tập huấn. Đ/c hoan nghênh chúng tôi đã đi học, trở về 100% quân số.
Trước mắt đ/c nào, ở đơn vị nào, thì cứ về đơn vị đó. Nếu có thay đổi nhiệm vụ,
thì Trung đoàn sẽ có quyết định điều động sau. Các đ/c về cứ của đơn vị mình
nghỉ ngơi. Nắm tình hình, rồi ngày mai tất cả trở vể chốt của Đại đội mình.
Tôi
về cứ. Ngang qua quán của Cúc, tôi ghé vào chơi. chỉ có 2 chị em của Cúc. Họ
vui, hồ hởi khi gặp tôi. Hỏi thăm tôi đủ thứ từ ngày tôi đi học. Hỏi về tình
hình Sài Gòn. Tôi chưa kịp trả lời thì họ đã hỏi sang câu khác. Không thấy Cúc,
tôi hỏi: "Cúc đâu hả em?". Đang vui bỗng thấy hai chị em chùng
hẳn xuống, một cô nói: "Cúc hôm nay
không sang. Từ hôm anh Phú về Sài Gòn Cúc buồn lắm. Làm sao anh để cho chị Cúc
buồn thế?" "Anh có làm gì đâu?" Cô em nói tiếp: "Hồi này
chị Cúc ít sang đây lắm. Cũng có mấy người bộ đội hay đến chơi. Ngỏ lời yêu
đương với Cúc, nhưng chị Cúc chưa nhận lời ai. Chị vẫn nói: "Không ai được
như anh Phú cả. Nhưng mà anh ấy cao xa, lý tưởng quá."
Tôi
cũng lặng người đi khi nghĩ đến Cúc. Mình có lỗi gì không? Cúc không hiểu thôi.
Mình đâu phải là người cao xa hay lý tưởng. Mà chỉ là người lính có ý thức, có
kỷ luật chấp hành nghiêm túc các quy định, nhiệm vụ của quân đội. Thôi! Cũng
may, khi tôi không gặp lại Cúc. Cũng không có ý định sang nhà Cúc. Ngày mai tôi
lại sang chốt, như vậy có khi lại nhẹ lòng hơn.
Tôi
uống nốt cốc nước chanh, chào 2 chị em của Cúc. Rồi trở về khu vực lán của Đại
đội. Khu vực lán vẫn vậy. Anh Thú, anh Khi vẫn coi cứ. Các anh kể: Đại đội đã
được bổ sung lính 77 quê ở Thái Bình, lớp lính 78 thì quê ở Hải Phòng, Hà Nội,
Thanh Hóa rất nhiều. Lính mới nhiều, lính già (lớp 72- 74) bây giờ còn có mấy
người coi cứ, làm Quản trị trưởng. Hay lính chuyên nghiệp chuyên môn khác. Anh
Đạc vẫn Đại đội trưởng, anh Tiến Chính trị viên trưởng, anh Quang Trinh sát làm
Đại đội phó vẫn ê kíp trước ngày tôi đi.
Tôi
nằm xuống, vẫn cái giát giường gồ gề làm bằng các cây gỗi nhỏ, khấp khểnh, cộm
cộm dưới lưng. Không được phẳng như những tấm giường phản ở trường. Mái lán vẫn
là những tấm nilông. Anh em bẻ thân cành cây gác lên cho đỡ nóng. Một vài tia
nắng chiều rọi chiếu qua những lỗ thủng. Góc trong lán có những cái ba lô bẹp lép.
Chiều biên giới trong bài ca nào hay thế. Còn chiều biên giới của tôi là đây là
thế này. Nhạc sỹ họ lãng mạn thật. Cũng khung cảnh này, mà sao họ sáng tác, tạo
nên lời ca, nốt nhạc tuyệt vời. Gieo vào lòng người cảm giác bồi hồi, xao
xuyến, sống động…
Lại
tiếp tục, những ngày dài nơi chiến tuyến. Mùa khô gần tới. Ngày mai tôi sang
chốt. Không biết cuộc chiến này, cuộc sống này kéo dài đến bao giờ?? Không biết cấp trên có ý định xử lý cuộc
chiến này như thế nào? Miên man với những suy nghĩ tôi ngủ thiếp đi. Rồi choàng
tỉnh khi ae gọi dậy ăn cơm tối.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét