Mặt trận Quân khu V- 1979
Sau đòn trừng phạt đầu tiên của ta sâu vào đất đối phương, địch đã tỏ ra
lúng túng. Các hoạt động quấy rối của chúng giảm xuống đảng kể.
Trung đoàn bộ binh 95 và trung đoàn bộ binh 31 được giao nhiệm vụ chốt
lại để mở rộng và giữ vững bàn đạp. Trung đoàn bộ binh 95 có nhiệm vụ chốt giữ
các mục tiêu vừa mới đánh chiếm: trung đoàn bộ binh 31 triển khai trận địa
phòng ngự tại ngã ba Công hương và trên trục đường đất đỏ để đánh địch phản
kích từ trong nội địa ra.
Ở phía sau, Quân khu đã điều ra một số đơn vị triển khai dọc đường 19 từ
đồn biên phòng 23 vào sâu trong đất địch khoảng 1 km, đồng thời, đã huy động
hàng ngàn dân ở hậu phương lên phá quang và sửa chữa lại đường để vận chuyển
tiếp tế ra phía trước. Trên con đường quốc lộ 19 từ phía Tây đồn biên phòng 23
đến Đức Cơ, đông như ngày hội. Từng đoàn dân công nam có, nữ có đi xen kẽ với
những chiếc xe vận tải chở đầy ắp hàng hoá, lương thực quân trang, quân dụng và
đạn được nối đuôi nhau từ sân bay dã chiến Đức Cơ lên đến đồn bp 23. “Tất cả
cho phía trước!” câu khẩu hiệu hồi chiến tranh giải phóng đã được phục sinh
trong cuộc chiến tranh hôm nay.
Sư đoàn bộ binh 801 Pôn Pốt đã lùi căn cứ sâu vào nội địa. Chúng lại
tung ra nhiều toán biệt kích tiếp tục bu bám, đánh vào các đơn vị của ta ở phía
trước, nhất là xung quanh các trận địa phòng ngự của trung đoàn bộ binh 31 ở
khu vực Ngã ba Công hương. Thật đúng với phương châm “địch tiến, ta lùi, địch
dừng, ta quấy” mà chúng đã áp dụng từ trước đến nay.
Được giao nhiệm vụ phòng giữ khu vực mới đánh chiếm, chúng tôi đã tiên
liệu được tất cả những khó khăn mà đơn vị phải đương đầu. Trung đoàn bộ binh 95
đã sử dụng tiểu đoàn 9, trung đoàn bộ binh 31 (được tăng cường từ khi đánh
chiếm XA-XB) làm lực lượng chủ yếu chốt giữ mục tiêu. Còn trung đoàn bộ binh 95
được rút ra, bố trí gần đó làm lực lượng cơ động. Như vậy thực chất toàn bộ
trung đoàn bộ binh 31 chúng tôi (bao gồm tiểu đoàn 9) làm nhiệm vụ phòng ngự
trực tiếp, đối đầu với sư đoàn bộ binh 801 của địch. Tuy nhiên, sư đoàn bộ binh
801 lúc này đã phân tán trên một diện rộng bao gồm một trung đoàn rải ra, đương
đầu với trung đoàn bộ binh 31 trên vòng cung từ phía Đông căn cứ XA-XB-đường
đất đỏ-ngã ba Công hương dài gần chục km. Một trung đoàn đứng ở phía Bắc đường
19 cũng bị phân tán, rải ra từ đồnbp 23 đến cao điểm 174 (phía Bắc ngã ba Công
hương). Đó là chưa tính đến lực lượng phía sau thuộc các đơn vị của Quân khu
109 nối đuôi với các lực lượng tác chiến với ta ở phía trước theo đội hình “đầu
nhọn, đuôi dài”.
Đội hình các đơn vị của ta ở ngã ba Công hương triển khai chưa xong,
công sự trận địa còn sơ sài, lực lượng chưa được bổ sung thì địch đã áp sát các
vị trí xung quanh ngã ba Công hương và phản kích liên tục hòng đánh bật lực
lượng của ta, để chiếm lại những khu vực đã mất.
Cuộc chiến đấu ngày càng quyết liệt. Bước đầu địch có ưu thế về địa
hình, lực lượng của chúng còn sung sức (trong trận đánh vừa qua ta diệt không
được bao nhiêu, chủ yếu là địch tháo chạy). Có nơi chúng tập trung 2 đến 3 khẩu
ĐKZ cùng với các hoả lực khác đánh vào một công sự, hoả điểm của ta. Có những
công sự hình chữ A tuy chỉ cao hơn mặt đất khoảng 50-60cm mà trúng đến ba quả
đạn ĐKZ75.
Lúc đó, một số vị trí của ta chịu không được, anh em bì ù tai, một số bị
thương phải bật ra khỏi công sự, bọn địch nhảy lên đánh chiếm. Sau đó, ta cơ
động lực lượng ra đánh chiếm lại. Ta và địch giành nhau từng công sự, từng ụ
súng…
Về sau này, công sự, trận địa của bộ đội ta ngày càng vững chắc hơn. Hệ
thống hoả lực từ các trận địa pháo 105 của Quân khu 5 và hoả lực đi cùng của các
đơn vị đã chi viện cho chúng tôi, chính xác, chặt chẽ và có hiệu quả. Từ kinh
nghiệm trong chiến tranh chống Mỹ, chúng tôi đã tổ chức đội hình phòng ngự một
cách phù hợp và kịp thời. Ở tất cả các cấp, nhất thiết phải có lực lượng cơ
động dự bị. Lực lượng này do người chỉ huy từng cấp trực tiếp nắm, được bố trí
gần vị trí chỉ huy và những nơi có thể vận động đánh tạt sườn và đánh vu hồi
vào sau lưng địch. Thực tế cho thấy kẻ địch rất chú ý đến việc đánh bên sườn và
phía sau đội hình của ta. Ngược lại chúng cũng rất sợ những mũi vu hồi của ta
đánh tạt sườn vào sau lưng chúng. Mỗi một trung đội nhất thiết phải rút ra một
tiểu đội làm lực lượng cơ động, mỗi một tiểu đoàn phải rút ra một đại đội làm
lực lượng cơ động. Trung đoàn bộ binh 31 chúng tôi sử dụng tiểu đoàn 8 làm lực
lượng dự bị cơ động. Đây cũng là quán triệt tư tưởng tiến công trong chiến đấu
phòng ngự. Phải loại trừ cho được tư tưởng phòng ngự một cách thụ động, đơn
thuần.
Còn lực lượng trực tiếp đối đầu với địch thì đội hình bố trí cũng có lực
lượng phía trước, lực lượng phía sau. Lực lượng phía trước chủ yếu dựa vào công
sự vững chắc, có chiến hào giao thông nối liền từ vị trí này sang vị trí khác,
từ phía trước ra phía sau. Đây là một khối lượng công trình rất lớn, bộ đội ta
phải làm cả ngày lẫn đêm dưới làn đạn hoả lực của địch. Cường độ lao động phải
bỏ ra không sao kể hết được. Công tác Đảng-công tác chính trị đã giúp cho cán
bộ, chiến sĩ trên chiến trường xác định được nhiệm vụ, dũng cảm trong chiến
đấu, bằng mọi cách để hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao phó. Tôi xin nói rằng
suốt một tháng trời, trung đoàn bộ binh 31 của chúng tôi bám trụ nơi đây trong
điều kiện mùa mưa, đường vận chuyển tiếp tế phía sau ra phía trước bị lầy lội
và địch đánh phá liên tục. Bộ đội chúng ta đã phải chịu thiếu thốn đủ thứ. Mỗi
ngày chỉ ăn được một bữa cơm nóng. Riêng lực lượng trực tiếp đối đầu với địch
phía trước, lại càng khó khăn hơn nhiều. Có khi phải dùng đến gạo rang, uống
nước mưa. Có thời kỳ, trung đoàn bị loại khỏi vòng chiến đấu từ 10-13 đồng chí
một ngày. Thế mà suốt một tháng mùa mưa, các đơn vị vẫn kiên cường bám trụ,
đánh lui được nhiều đợt phản kích của địch, giữ vững trận địa. Bộ đội chúng ta
trong những ngày tháng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc tuyệt vời như thế đó.
Tuy nhiên, trong cuộc chiến đấu này, đứng giữa cái sống và cái chết
trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, một số cán bộ chiến sĩ đã xuất hiện tư tưởng
sợ hy sinh ác liệt, ngán ngại vất vả, gian lao.
Ngày 10 tháng 7 năm 1978, lực lượng địch khoảng một tiểu đoàn, thuộc
trung đoàn bộ binh 81 từ trong nội địa Campuchia theo đường 19 ra phản kích
cách ngã ba Công hương khoảng 500 m. Bộ binh của chúng chia thành nhiều mũi tấn
công vào trận địa của ta trên hai hướng: một hướng tiến dọc theo đường 19, một
hướng từ phía Bắc cao điểm 174, tiến xuống.
Các lực lượng phía trước của tiểu đoàn 7 dựa vào công sự, hầm hào đánh
trả quyết liệt, hoả lực của trung đoàn chi viện bắn vào đội hình và trận địa
cối của chúng ở sườn dốc đối diện. Lúc này, trung đoàn ra lệnh cho tiểu đoàn 8
dùng một đại đội vận động xuất kích vượt qua phía Bắc đường 19, chiếm lĩnh điểm
cao 174 rồi từ đó tiến công vào bên sườn và phía sau của đội hình địch. Khi đội
hình vận động vượt qua đám ruộng cạnh đường, địch từ sườn dốc bắn ra rất rát.
Lẽ ra đồng chí Cao Ích Nhường là đại đội trưởng phải nhanh chóng triển khai hoả
lực chi viện cho bộ đội vượt qua, công kích vào bên sườn đội hình địch, thì anh
lại không làm được việc đó, mà cùng với đồng chí Từ Văn Vy là chính trị viên,
bỏ lại khẩu ĐKZ75 trên bờ ruộng, rồi kéo cả đại đội chạy về phía sau.
Đây là trường hợp đầu tiên xảy ra đối với một tiểu đoàn mà trước đó chưa
từng có.
Tuy nhiên, nhìn chung, toàn thể cán bộ, chiến sĩ của tiểu đoàn 8 nói
riêng và trung đoàn bộ binh 31 nói chung, vẫn phát huy được truyền thống của
đơn vị, luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ trong giai đoạn phòng ngự và trong cuộc
tổng tiến công sau này.
Dĩ nhiên hai cán bộ chủ chốt nêu trên sẽ phải chịu trách nhiệm về hành
động của mình.
Cuộc chiến đấu phòng ngự giữ vững khu vực đầu cầu này ngày càng quyết
liệt. Các vị trí ở tiền duyên bị địch bu bám, áp sát các điểm tựa, bộ đội không
xuất kích ra được, do hoả lực và những bãi mìn của địch ngăn chặn. Các đơn vị ở
phía sau cũng bị địch tung nhiều toán lợi dụng sơ hỏ nơi tiếp giáp giữa các đơn
vị, để luồn vào gài mìn, phục kích, cắt đường vận chuyển tiếp tế của ta.
Sở chỉ huy trung đoàn bộ binh 31 đóng ở chính giữa. Phía trước chưa đầy
1 km là tiểu đoàn 7. Bên phải, phía sau (gần trục đường 19) là tiểu đoàn 9. Lúc
này tiểu đoàn 9 đã về lại đội hình của trung đoàn bộ binh 31. Còn tiểu đoàn 8
thì bố trí bên cạnh Sở chỉ huy trung đoàn.
Phía sau đội hình trung đoàn bộ binh 31 là trận địa pháo 105 mm của Quân
khu. Trận địa pháo này, sau đó được bổ sung cho sư đoàn bộ binh 309 khi được
thành lập.
Trên hướng phòng ngự của tiểu đoàn 7 luôn luôn bị địch gây sức ép.
Ngày 25 tháng 8, tôi cử đồng chí Phan Hành Sơn-phó tham mưu trưởng trung
đoàn cùng một số cán bộ gồm trợ lý tác chiến, trợ lý trinh sát, trợ lý công
binh lên nghiên cứu để điều chỉnh lại đội hình của tiểu đoàn 7 cho phù hợp. Số
cán bộ này vừa ra khỏi Sở chỉ huy trung đoàn khoảng 300 m, thì đồng chí trợ lý
tác chiến đi đầu vướng phải mìn. May mắn, anh không sao nhưng đồng chí Phan
Hành Sơn đi sau, thứ ba, bị thương nặng.
Phan Hành Sơn là cán bộ chỉ huy dũng cảm, táo bạo. Đồng chí làm một
người con của quê hương đất Quảng. Trong chiến tranh chống Mỹ, một mình đồng
chí quần nhau với địch xung quanh núi Ngũ Hành Sơn, tiêu diệt hàng chục tên
lính Mỹ. Đồng chí được tuyên dương Anh hùng lực lượng vị trí nhân dân.
Trong chiến đấu, mỗi khi giao nhiệm vụ cho đồng chí, chúng tôi rất yên
tâm. Với vóc dáng to khỏe, nặng trên 70 kg nhưng tác phong đồng chí nhanh nhẹn,
sống chân tình, cởi mở với anh em đồng chí đồng đội. Trong cuộc sống đời thường
sau này, đồng chí rất giản dị. Đồng chí bị mất sức chiến đấu lần này, chúng tôi
rất tiếc và lại càng thương tiếc hơn khi được tin đồng chí đã từ trần trong một
cơn bạo bệnh vào năm 2003, tại quê nhà-nơi đồng chí đã lập nhiều chiến công
trong chiến đấu chống Mỹ.
Cuối tháng 8, miền Đông Bắc Campuchia vẫn đang là mùa mưa. Tất cả các
con suối trên trục đường 19 từ Đức Cơ lên biên giới và cả trên phạm vi tỉnh
Ratanakiri của Campuchia đều đầy ắp nước và chảy xiết, Lực lượng công binh của
Quân khu và dân công phải bắc cầu, nhưng đường thì lầy lội. Do đó bắc cầu xong
thì xe cũng không thể đi được. Nhiều đoạn phải chặt cây chống lầy cho xe vận
chuyển hàng hoá lên cho bộ đội, nhưng cũng rất hạn chế. Vì vậy, ở phía trước
vẫn thiếu thốn đủ thứ.
Quân số ngày càng hao hụt, sức khỏe bộ đội giảm sút nhiều, trong khi cường
độ đánh phá của địch lại tăng lên. Chúng lợi dụng mùa mưa tăng cường đánh phá,
gây cho ta không ít khó khăn.
Để bảo đảm cho bộ đội chiến đấu lâu dài và nhất là chuẩn bị cho đồng chí
tổng tiến công sắp tới, Quân khu quyết định điều động trung đoàn bộ binh 95 và
một số đơn vị khác như trung đoàn bộ binh 93, 94 lên thay thế, giữ vững bàn
đạp, rút trung đoàn bộ binh 31 chúng tôi về củng cố. Đây là một quyết định đúng
đắn và rất kịp thời.
Những ai đã từng sống trong những hoàn cảnh này mới thấy được niềm vui
sướng của những người lính từ trong gian khổ, ác liệt được trở về hậu phương
tận hưởng những giờ phút nghỉ ngơi.
Hơn một tháng chiến đấu trong mùa mưa, bộ đội gần như kiệt sức, ai cũng
mong có được một giấc ngủ thật sâu, một không khí yên tĩnh của thời bình, một
ước mơ đơn giản mà đã hàng tháng nay mới có được.
Sau khi bàn giao trận địa cho trung đoàn bộ binh 95, chúng tôi lại về
căn cứ mà lòng cảm thấy nhẹ nhõm. Trong cuộc chiến đấu vừa qua, chúng tôi đã
vượt qua bao khó khăn thử thách, đã kiên cường bám trụ và cuối cùng đã hoàn
thành nhiệm vụ, không để mất một vị trí nào trước khi bàn giao lại cho Bạn.
Trở về căn cứ, ai cũng tưởng rằng sẽ được xả hơi mấy ngày. Nhưng không!
Bộ đội có thể được nghỉ ngơi, nhưng những người chỉ huy, lãnh đạo như chúng tôi
thì công việc lại ngập đầu: nào là hội họp, sơ kết, tổng kết, nào là bổ sung
quân số, vũ khí trang bị và phải bắt tay ngay vào công tác huấn luyện.
Chúng tôi về căn cứ để củng cố lực lượng, nhưng hàng ngày vẫn dõi theo
tình hình diễn biến trên chiến trường Đông Bắc nói riêng và tình hình Campuchia
nói chung. Tình hình ở Campuchia lúc này đã có những dấu hiệu đáng chú ý. Tập
đoàn phản động Pôn Pốt – Iêng Xa-ri-Khieu Xamphon ngày càng lộ rõ bộ mặt phản
bội tư tưởng Mác-xít của chúng. Ở trong nước, chúng thực hiện chính sách vô
cùng tàn ác, hà khắc với nhân dân Campuchia. Vì vậy đã xuất hiện phong trào
phản chiến trong quân đội. Một số đơn vị bộ đội thuộc Quân khu 203 chạy sang
Việt Nam.
Một bộ phận nhân dân Campuchia cũng tìm đường vượt biên giới sang nước ta lánh
nạn.
Trên chiến trường Đông Bắc, sau khi trung đoàn bộ binh 95 vào thay thế
trung đoàn bộ binh 31 để tiếp tục chiến đấu giữ vững bàn đạp, địch tăng cường
đánh phá gây sức ép trên toàn tuyến, không những ở chính diện mà ngay cả hai
bên sườn và phía sau của các đơn vị cũng bị địch tấn công.
Tại đồn biên phòng 23, chúng lại tiếp tục bu bám và cài mìn xung quanh.
Đường 19 từ đồn biên phòng ra phía trước cũng liên tục bị phục kích và gài mìn,
khiến cho công tác vận chuyển tiếp tế gặp rất nhiều trở ngại. Một số vị trí của
ta ở ngã ba Công hương đã bị địch đánh chiếm. Một số dân công hoả tuyến bị địch
phục kích bắt trong đó có cả phụ nữ. Tình hình ngày một phức tạp.
Không thể để mất khu vực đầu cầu có tính chất trọng yếu này. Trước tình
hình đó, Quân khu 5 đã điều trung đoàn bộ binh 94, thuộc sư đoàn bộ binh 307
lên triển khai dọc đường 19, sau đội hình trung đoàn bộ binh 95 và một số đơn
vị khác, với mục đích tạo thế liên hoàn giữa phía trước với phía sau. Nhưng
tình hình vẫn không cải thiện được bao nhiêu.
Tháng 10 năm 1978, sư đoàn bộ binh 801 của địch đã cho một bộ phân lực
lượng chiếm lĩnh điểm cao 312 (phía Bắc đường 19 thuộc tỉnh Ratanakiri). Từ bàn
đạp này chúng cho nhiều toán xuống khống chế đường 19 và ngầm Ô Gia Đao bằng
các thủ đoạn phục kích, gài mìn cắt đứt tiếp tế, cô lập các đơn vị phía trước
gồm: trung đoàn bộ binh 94, trung đoàn bộ binh 95 và một số đơn vị khác với
phía sau của ta.
Tình hình trên hướng Quân khu 5 lúc này rất nghiêm trọng. Giữa lúc cuộc
chiến đấu trên tuyến biên giới Tây Nam ngày càng quyết liệt và phức tạp thì hầu
như đồng thời có nhiều sự kiện quan trọng diễn ra cùng lúc: trước tình hình
quân đội địch và nhân dân Campuchia gần biên giới căm ghét chế độ Pôn Pốt chạy
sang ta ngày một đông, được sự giúp đỡ chí tình của Đảng và Nhà nước ta, “Mặt
trận Cứu nguy Dân tộc Campuchia” ra đời. Sau này gọi là “Mặt trận Dân tộc Cứu
nước Campuchia” do đồng chí Hêng Somrin làm chủ tịch. Sự kiện này có ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong diễn biến tình hình ở Campuchia và các nước trong khu vực.
Đây là hành lang pháp lý để chúng ta tiến hành thực hiện hai nhiệm vụ cùng lúc:
là nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ quốc tế. Trong đó, nhiệm vụ dân tộc là động lực
thúc đẩy.
Từ sự kiện đó, để hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang của dân tộc, Bộ Quốc phòng
và Bộ Tổng tham mưu đã thành lập nhiều đơn vị mới thuộc các Quân khu phía Nam,
trong đó có sư đoàn bộ binh 309 chúng tôi. Sau chiến thắng mùa Xuân năm 1975,
trước tình hình diễn biến bất lợi cho ta ở hai đầu đất nước, quân đội ta cũng
đã thành lập ra nhiều đơn vị cơ động của bộ. Đó là những chủ trương rất sáng
suốt và kịp thời của Đảng và Nhà nước ta, quân đội ta.
Như vậy chúng ta có thể hiểu là sư đoàn bộ binh 309 và các đơn vị khác
ra đời trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, nhằm cùng toàn quân và
dân ta thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược của Đảng và nhiệm vụ dân tộc
và nhiệm vụ quốc tế.
Ra đời tại thị xã Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắc Lắc vào ngày 27-9-1978, sư
đoàn bộ binh 309 lúc mới thành lập gồm ba trung đoàn bộ binh, nòng cốt là trung
đoàn bộ binh 31, một trung đoàn pháo binh (trung đoàn pháo binh 36-sau này đổi
thành trung đoàn pháo binh 487) cùng các tiểu đoàn trực thuộc và chuyên môn.
Bộ tư lệnh sư đoàn đầu tiên gồm các đồng chí:
-Thượng tá Lê Chí Thuận (Lê Văn Nẹc)-sư đoàn trưởng.
-Thượng tá Nguyễn Văn Chức-chính uỷ.
-Thượng tá Lê Tá-phó sư đoàn trưởng.
-Trung tá Trần Dực-phó chính uỷ kiêm chủ nhiệm chính trị sư đoàn.
Còn chỉ huy các trung đoàn bộ binh và nhiệm vụ của họ tôi xin nói cụ thể
ở các phần sau.
Bây giờ, chúng ta hãy trở lại tình hình ở chiến trường Đông Bắc
Campuchia mà lực lượng vị trí Quân khu 5 đang chiến đấu ở đó.
Trước tình hình các đơn vị phía trước bị địch chia cắt. Ngày 20-10-1978,
sau khi lui về củng cố chưa được một tháng, theo lệnh của Quân khu, trung đoàn
bộ binh 31 lại được giao nhiệm vụ đánh chiếm cao điểm 312, giải toả đường 19 để
chi viện cho các đơn vị phía trước đang gặp rất nhiều khó khăn, do không được
tiếp tế lương thực, đạn được từ phía sau lên và số thương binh chưa được chuyển
về hậu phương.
Đêm 19 tháng 10, đồng chí Lê Chí Thuận sư đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn
Văn Chước-chính uỷ sư đoàn, trực tiếp xuống giao nhiệm vụ cho trung đoàn bộ
binh 31, có đồng chí Khiếu Anh Lân-cán bộ thuộc Quyết định 3 cùng đi để tìm
hiểu tình hình ở chiến trường để phục vụ cho các hoạt động sau này.
Vì đang chiến đấu phía trước, nên ngày thành lập sư đoàn chúng tôi không
có mặt. Hôm nay mới được gặp sư trưởng và chính uỷ lần đầu tiên trên cương vị
mới. Trước đây, trong chiến tranh chống Mỹ, chúng tôi đều ở sư đoàn bộ binh 3
Sao Vàng. Anh Thuận Nẹc là lữ đoàn trưởng đoàn 52, trực tiếp chỉ huy lữ đoàn
đánh trận công kiên nổi tiếng ở Gia Vực (Quảng Ngãi), rồi làm trung đoàn trưởng
trung đoàn 12. Sau năm 1975, anh là tư lệnh kiêm Bí thư Đảng uỷ đoàn 352 làm
kinh tế ở Tây Nguyên. Anh là người rất năng động, miệng nói tay làm. Những chủ
trương đã được Đảng uỷ đề ra hoặc mệnh lệnh của cấp trên đưa xuống anh bắt buộc
cấp dưới phải thực hiện cho bằng được. Với tác phong kiên quyết, giọng Huế oang
oang, có lẽ cũng vì thế mà bộ đội gọi là Nẹt, thay vì Nẹc, tên của anh.
Còn chính uỷ Nguyễn Văn Chước thì hoàn toàn ngược lại. Anh là người điềm
đạm, lập luận chặt chẽ, tưởng như anh tiết kiệm từng lời nói. Nhưng đối với
công tác Đảng, công tác chính trị thì rất sâu sắc. Những năm cuối của cuộc
chiến tranh chống Mỹ, anh là chính uỷ trung đoàn bộ binh số 2 sư đoàn 3 Sao
Vàng. Chiến dịch Hồ Chí Minh anh vẫn là chính uỷ,còn tôi là quyền trung đoàn
trưởng trung đoàn. Chúng tôi cùng tham gia lãnh đạo và chỉ huy trung đoàn tiến
công đánh chiếm Vũng Tàu trên hướng Đông Nam của chiến dịch Hồ Chí Minh. Sau
năm 1975, chúng tôi lại gặp nhau và cùng công tác tại trường Hạ sĩ quan Quân
khu, đóng ở huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Hôm nay, chúng tôi lại sát cánh cùng
nhau trên chiến trường này. Một lần nữa, chiến tranh lạ đưa chúng tôi đến với
nhau.
Tại Sở chỉ huy của trung đoàn, bây giờ đã là 23 giờ, bộ đội đang chìm
vào giấc ngủ say sưa sau những tháng ngày căng thẳng ở chiến trường. Duy chỉ có
số anh em canh gác và một số đồng chí trực ban của các cơ quan là đang thức.
Đồng chí Khiếu Anh Lân trải tấm bản đồ khu vực thuộc tỉnh Ratanakiri
(Campuchia) và Đức Cơ (Việt Nam)
lên bàn. Tôi với anh Vũ Huy Lẫm (lúc này anh Lẫm đã được điều về làm chính uỷ
trung đoàn thay anh Mai) cùng với một số đồng chí như: trợ lý tác chiến, chủ
nhiệm trinh sát, thông tin… tập trung xung quanh tấm bản đồ đã được tác nghiệp
về diễn biến địch-ta mới nhất. Nhìn vào tấm bản đồ có những mũi tên “xanh” xen
lẫn những chấm “đỏ”, ta có thể hình dung được địch đã tạo được thế xen kẽ với
các đơn vị của ta trên toàn bộ phạm vi tác chiến của các đơn vị. Đặc biệt là
trên trục đường 19, khu vực cao điểm 312. Đồng chí Khiếu Anh Lân cung cấp một
số tình hình mà Quân đoàn 3 nắm được về diễn biến giữa ta và địch, đồng thời,
đồng chí sư trưởng sư đoàn 309 phổ biến vụ của Quân khu và tiền phương Bộ giao
nhiệm vụ cho sư đoàn 309 nói chung và trung đoàn 31 nói riêng.
Ai nấy đều im lặng. Mỗi người theo đuổi một suy nghĩ, nét mặt đượm vẻ
buồn phiền, lo lắng… Có thể buồn vì sau đợt chiến đấu vừa qua, đơn vị rút về
củng cố thời gian chưa được bao nhiêu, sức khỏe chưa được hồi phục và đang bộn
bề công việc phải làm, thế mà giờ đây, ngay sáng mai, chúng tôi phải lên đường
ra trận. Lo lắng là vì nhiệm vụ quá gấp, trong một điều kiện thời gian eo hẹp
liệu có hoàn thành được nhiệm vụ ?
Đồng chí sư trưởng Lê Chí Thuận phá tan không khí im lặng bằng giọng nói
sang sảng gần như ra lệnh và cũng gần như thuyết phục. Đồng chí nói:
-Tình hình phía trước đang rất khó khăn, sư đoàn giao nhiệm vụ cho trung
đoàn bộ binh 31 phải bằng mọi biện pháp khắc phục những khó khăn để hoàn thành
nhiệm vụ, tạo thuận lợi cho các đơn vị bạn. Trước mắt, ngay ngày mai, các đồng
chí tổ chức cho cán bộ đi trinh sát mục tiêu, còn các đồng chí ở nhà chuẩn bị
mọi mặt cho bộ đội. Có khó khăn gì thì cứ báo cáo lên sư đoàn. Các cơ quan phải
tập trung mọi khả năng cho trung đoàn bộ binh 31. Nhiệm vụ cụ thể thì lên tiền
phương, Quân khu sẽ giao.
Với đức tính điềm đạm của một cán bộ chính trị lâu năm, đồng chí Chước
bổ sung thêm:
-Sư đoàn 309 vừa mới thành lập, biên chế, tổ chức và trang bị chưa được
hoàn thiện cho lắm. Trung đoàn 31 vừa trải qua chiến đấu hàng tháng trời, bộ
đội xuống xuống sức, mệt mỏi. Quân số và trang bị cũng chưa được bổ sung, nhưng
trung đoàn đã có những cơ sở thuận lợi hơn các trung đoàn khác. Vì anh em đã
kinh qua chiến đấu với đối tượng này, đã có những kinh nghiệm bước đầu, địa
hình cũng đã nắm được. Trung đoàn lại là đơn vị chủ công của sư đoàn, yêu cầu
các đồng chí nỗ lực cố gắng lãnh đạo, chỉ huy bộ đội. Đánh thắng trận này có ý
nghĩa tạo đà để xây dựng sư đoàn. Tuy trung đoàn bộ binh 31 là lực lượng chủ
công nhưng tất cả mọi công tác bảo đảm thì sư đoàn và Quân khu sẽ lo, và coi
đây là trận chiến đấu đầu tiên của sư đoàn bộ binh 309 sau khi thành lập!
Suốt từ đó trở về sáng, chúng tôi không tài nào chợp mắt được. Bao nhiêu
công việc dồn dập ập tới, không biết việc nào cần làm trước, việc nào cần làm
sau. Vì tất cả mọi công việc đều cần tiến hành trong một thời gian rất ngắn.
Đêm cuối tháng, trời không mưa. Rừng Tây Nguyên im lìm như trong giấc
ngủ. Song tại Sở chỉ huy trung đoàn nhộn nhịp, tất bật hẳn lên.
Như một chương trình đã được cài đặt sẵn trong bộ nhớ máy tính, ba chúng
tôi gồm tôi, đồng chí Vũ Huy Lẫm, đồng chí Trương Đình Xướng và mời thêm đồng
chí chủ nhiệm chính trị trung đoàn, họp thường vụ. Còn các cơ quan tuy chưa
được giao nhiệm vụ cụ thể, nhưng với kinh nghiệm của những năm chiến đấu, các
đồng chí đều chủ động triển khai công việc.
Tôi nghĩ bụng: nếu không có những cơ quan như thế này thì tài thánh cũng
không thể chỉ huy được bộ đội. Thế mà trong thực tế, lại có những vị chỉ huy
thường hay ôm đồm cả công việc của cơ quan, ít quan tâm đến công tác bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ trợ lý. Thậm chí, còn xem nhẹ vai trò của cơ quan. Do đó, khi sơ
kết, tổng kết rút kinh nghiệm, cơ quan thường bị phê phán nhiều nhất. Nhất là
cơ quan tham mưu và hậu cần. Đó là những điểm vô cùng sai trái
Sáng sớm ngày 20 tháng 10, tôi dẫn đầu đoàn cán bộ chuẩn bị chiến trường
xuấ phát lên Đức Cơ. Xe chạy bon bon trên quốc lộ 14 về huớng Pleiku, nhân dân
hai bên trục đường vẫn sinh hoạt bình thường như mọi ngày. Bà con ở một số tỉnh
phía Bắc vào vùng kinh tế mới đã dựng lên các dãy nhà lợp tranh, vách đất dọc
hai bên đường, tập trung nhiều ở khu vực ngã ba đường số 7 và đường 14. Tuy
nhiên, trong đàu óc tôi lại suy nghĩ việc khác. Trên đường đi, chúng tôi đã tự
sắp xếp cho mình những công việc phải làm như tổ chức các mũi trinh sát, dự
kiến phân công cán bộ, công tác bảo đảm thông tin liên lạc…
Tôi nhắc đồng chí Dương Minh Vui-chủ nhiệm trinh sát và đồng chí Nguyễn
Hồng Vân-trưởng ban tác chiến:
-Các cậu lên tới nơi nhớ xin bản đồ, địa bàn cho đủ. Như lần trước thì
rất khó khăn cho anh em. Lần trước may mắn nhờ anh em trung đoàn bộ binh 95
giúp đỡ, nhưng lần này, mình phải chủ động. Riêng đồng chí Vui nhớ quan hệ với
trinh sát trung đoàn bộ binh 95 và trinh sát Quân khu, nắm thật chắc tình hình
địch. Vì ta đã rời địa bàn này một tháng trời rồi, trong khi kẻ địch thì luôn
luôn thay đổi!
Hai đồng chí cứ vâng vâng, dạ dạ mà không đề nghị gì cả. Có thể các đồng
chí cũng đang dè dặt, thận trọng khi chưa biết nhiệm vụ cụ thể ra sao.
Dọc đường vừa nói chuyện, vừa suy nghĩ miên man, chẳng mấy chốc, chúng
tôi đã đến nơi.
Trước khi giao nhiệm vụ cụ thể cho trung đoàn bộ binh 31, đồng chí sư
đoàn trưởng cho biết một số tình hình địch, tập trung vào mục tiêu được phân
công-cao điểm 312.
So với tối hôm qua, tại Sở chỉ huy của trung đoàn vẫn không có gì mới.
Tôi nghĩ thầm “Có lẽ các bố nắm địch không chắc”. Mà đúng vậy, với một đối
tượng như thế này quả là rất khó xác định. Cho đến bây giờ vẫn chưa ai xác định
được phiên hiệu đơn vị, biên chế, tổ chức, trang bị của địch trên Quân khu Đông
Bắc này. Chúng có bao nhiêu sư đoàn, trung đoàn trên các Quân khu và cả nước Campuchia?
Chỉ biết rằng qua khai thác tù bình và đào binh thì trên phạm vi tỉnh
Ratarakiri, lực lượng chính quy của địch tác chiến với các đơn vị của Quân khu
5 lúc này chỉ có sư đoàn bộ binh 801. Với những điều kiện khó khăn về địa hình,
về âm mưu thù đoạn của địch và cả về những mặt hạn chế của trinh sát ta, cho
đến giờ này, ta vẫn chưa nắm được và có thể sẽ không nắm được lực lượng, mức độ
công sự và hoả lực của địch trên cao điểm 312. Chỉ biết chắc chắn rằng địch đã
bố trí hoả lực ĐKZ, 12.7 mm và cối 100 mm tại sườn Đông Nam điểm cao 312 cùng
với một lực lượng bộ binh để khống chế đường số 19. Các nơi khác, đặc biệt là
ngầm Ô Gia Đao, bộ đội ta đi qua thường xuyên bị phục kích, hoặc giẫm phải mìn.
Còn vật cản xung quanh cao điểm 312 thì chủ yếu là mìn với mật độ cao, nhiều
loại, nhiều kiểu, được bố trí rất nham hiểm.
Cũng vì mới biết về địch như thế nên đồng chí sư trưởng giao ngay nhiệm
vụ cho trung đoàn như sau:
-Trung đoàn bộ binh 31 được sự chi viện trực tiếp của 2 trận địa pháo
155 mm và 105 mm của Quân khu (bố trí tại khu vực ngầm Ô Gia Đao) và sự phối
hợp của các đơn vị phía trước (như trung đoàn bộ binh 94) có nhiệm vụ:
1.Tiến công đánh chiếm cao điểm 312, từ đó phát triển chiến đấu xuống
trục đường số 19 nhằm giải toả đoạn đường từ ngầm Ô Gia Đao đến đoạn tiếp giáp
với trung đoàn bộ binh 94, phía Tây Nam điểm cao 312.
2.Tổ chức chốt giữ các mỏm 1, 2, 3 của cao điểm 312, nhanh chóng củng cố
đội hình, sẵn sàng khi có lệnh sẽ cơ động theo nhiệm vụ của Quân khu giao.
-Sở chỉ huy trung đoàn đặt cạnh Sở chỉ huy tiền phương của sư đoàn bên
cạnh đường số 19, phía Nam
điểm cao 312.
-Vào 17 giờ, ngày 22 tháng 10, phải hoàn thành mọi công tác chuẩn bị và
báo cáo cho sư đoàn.
Thời gian gấp quá, biết làm thế nào bây giờ? Tình hình khó khăn của
trung đoàn thì sư đoàn và Quân khu cũng đã biết mà các đơn vị Bạn đang chiến
đấu phía trước lại rất cần sự có mặt của chúng tôi. Nghĩ thế, tôi điện cho đồng
chí Vũ Huy Lẫm-chính uỷ và đồng chí Trương Đình Xướng-tham mưu trưởng, cơ động
bộ đội lên Đức Cơ. Và, ngay chiều tối hôm đó, tổ chức trinh sát điểm cao 312.
Tôi trực tiếp đi trinh sát trên hướng chủ yếu-hướng Nam, Đông Nam điểm cao. Trên hướng này, dự
kiến sẽ sử dụng một tiểu đoàn tăng cường, tiểu đoàn bộ binh số 7. Cán bộ đi
trinh sát bao gồm đồng chí Lê Văn Thuận-tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn số 7 và hai
cán bộ đại đội trưởng, đồng chí Dương Minh Vui-chủ nhiệm trinh sát và một số
chiến sĩ. Ngoài ra, còn có một số cán bộ chỉ huy hoả lực của trung đoàn và hoả
lực tăng cường.
Trên hướng Tây Bắc, dự kiến sử dụng một tiểu đoàn bộ binh số 9 phối hợp
với một tiểu đoàn của trung đoàn bộ binh 276, tỉnh Đắc Lắc, đang hoạt động tại
đây. Do đó, trên hướng này, đồng chí trợ lý tác chiến trung đoàn cùng với đồng
chí Đinh Văn Tự-tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn số 9 và các đại đội trưởng đi trinh
sát. Tối 21 tháng 10, lực lượng trinh sát đi trên hướng chủ yếu đã vào đến chân
điểm cao 312, thì đồng chí Dương Minh Vui đạp phải mìn bị thương rất nặng. Tuy
vậy, công việc vẫn được tiến hành.
Tối hôm đó, đội hình trung đoàn cũng đã cơ động lên Đức Cơ. Quân khu bổ
sung cho trung đoàn trên 500 tân binh, hầu hết anh em quê ở Quảng Nam-Đà Nẵng
và một số tỉnh miền Trung. Lớp tân binh này vừa mới hoàn thành chương trình
huấn luyện cơ bản. Bao gồm các bài bắn súng tập 1, kỹ thuật gỡ và cách bố trí mìn
của địch, động tác đào công sự, nguỵ trang và chiến thuật từ cá nhân đến tổ 3
người. Có thể nói về quân số là tương đối đủ, đảm bảo được biên chế thấp nhất
trong thời chiến (trong chiến tranh vừa qua ta đã thực hiện các biểu biên chế
cho từng đơn vị, lấy cơ sở là tiểu đội bộ binh 7, 9, 12 đồng chí)
Công việc bổ sung vũ khí, đạn dược, sinh hoạt bộ đội và làm các công tác
khác được thực hiện từ ngày 22 đến chiều ngày 23 tháng 10. Đúng 18 giờ từ vị
trí tập kết, các mũi, các hướng tiếp cận tuyến triển khai xuất phát tiến công.
Trời mùa dông, vùng rừng núi tối đen như mực, mọi người phải bám sát nhau.
Hướng thứ yếu, đường xa phải vòng xuống phía Nam rồi ngược lên băng qua đường
19 là nơi địch thường ra phục kích, gài mìn. Ngày hôm trước chúng tôi đã cho
trinh sát chốt lại, đồng thời hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng chiến đấu
tại chỗ. Vượt qua đường 19 là vào khu vực của một tiểu đoàn thuộc trung đoàn bộ
binh 726 đang đóng chốt tại đây. Có thể nói suốt đêm 23 tháng 10, đội hình tiếp
cận phải nhích từng bước. Lâu nhất là công tác gỡ mìn địch, rồi đưa từng bộ
phận vào chiếm lĩnh.
Các trận địa hoả lực như pháo 105mm, 155mm của Quân khu đã bố trí từ
trước, sẵn sàng chi viện cho bộ đội tiếp cận tuyến xuất phát tiến công. Chỉ còn
trận địa ĐKZ75 thì đêm nay mới chiếm lĩnh, để trực tiếp chi viện cho bộ đội đột
phá cửa mở, trên hướng chủ yếu của trung đoàn. Cán bộ chỉ huy các cấp chạy ra
chạy vào như con thoi để đưa lực lượng vào vị trí, giao nhiệm vụ cho bộ đội tại
thực địa và nhắc lại hiệp đồng chiến đấu.
Sườn cao điểm 312 nhiều đá không làm được công sự như mong muốn. Bù vào
đó là có nhiều gốc cây to và một số ụ mối. Bộ đội chủ yếu lợi dụng địa hình tự
nhiên để triển khai lực lượng. Tôi ở Sở chỉ huy trung đoàn, phía sau đội hình
trên hướng chủ yếu, mà trong lòng cứ nôn nao. Nhiều lúc như nín thở theo dõi
từng bước tiếp cận của các lực lượng qua mạng thông tin hữu tuyến. Đồng chí trợ
lý tác chiến, dưới ánh đèn pin được che sáng, đánh dấu từng vị trí mà các đơn
vị đã được triển khai xong lên bản đồ. Mỗi một ký hiệu mũi tên màu đỏ nhích lên
đến đâu thì bên dưới có ghi thời gian. Mọi người đều tập trung cao độ tâm trí
trong giai đoạn này.
Trên hướng thứ yếu, tôi cử đồng chí Nguyễn Thành Út-Phó chính uỷ trung
đoàn và một số cán bộ cơ quan tham mưu đi theo để đôn đốc, chỉ đạo và giúp đỡ
anh em trong những lúc khó khăn.
Cho đến lúc này, khoảng 23 giờ 30 mạng thông tin liên lạc vẫn thông
suốt, chủ yếu trên hướng tiểu đoàn 7. Còn tiểu đoàn 9, trên hướng thứ yếu dùng
thông tin vô tuyến, chỉ mở máy “canh” nhưng không được “phát”.
Với địa hình rừng núi, nếu như trước đây, sở trường của bộ đội ta là
thường hay tập kích ban đêm, còn bây giờ, điều đó là không thể. Do đó, hợp đồng
tác chiến trong trận này và mọi công tác chuẩn bị phải hoàn thành trước 5 giờ
sáng ngày 24 tháng 10.
Đồng hồ như chạy chậm lại. Thời gian như dài ra. Tôi ngồi tại Sở chỉ huy
trung đoàn mà trong lòng như lửa đốt, xung quanh là các trợ lý tác chiến, trinh
sát, thông tin, pháo binh… Ngoài mạng thông tin hữu tuyến còn có tổ máy thông
tin vô tuyến của trung đoàn và một tổ của sư đoàn tăng cường xuống để liên lạc
với cấp trên. Để bảo đảm hệ thống thông tin chỉ huy luôn được thông suốt, ngoài
hai mạng thông tin vô tuyến và hữu tuyến, đồng chí chủ nhiệm thông tin còn đưa
đến Sở chỉ huy thêm một tổ ba đồng chí liên lạc chạy bộ. Chúng tôi đã áp dụng
mọi biện pháp để lúc nào cũng nắm được tình hình diễn biến trên các hướng và có
thể chỉ huy các đơn vị một cách nhanh nhất. Vì vậy, sau khi nổ súng, mỗi một
mệnh lệnh đều được phát đi bằng tất cả mọi phương tiện.
5 giờ rồi, 6 giờ đã trôi qua mà trời chưa sáng hẳn. Trên các hướng đã
chiếm lĩnh trận địa một cách thuận lợi.
Sương mù dày đặc, trắng như bông trùm xuống các điểm cao. Đến 7 giờ 30,
cao điểm 312 chỉ còn một lớp mây trắng bao quanh sườn núi như một vành khăn
tang. Trên hướng chủ yếu, đồng chí Lê Văn Thuận-tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 7
báo cáo là anh đã nhìn thấy rõ đỉnh đồi và một số công sự được xếp lại bằng đá
cách tuyến xuất phát xung phong chưa đầy 200 m. Đài quan sát pháo binh của Quân
khu cũng báo cáo là đã nhìn thấy rõ đỉnh của ba mỏm đồi thuộc điểm cao 312!
Đồng chí Lê Chí Thuận-sư đoàn trưởng điện cho tôi hỏi:
-Đã nổ súng được chưa?
Tuy đây không phải là lần đầu tiên ra trận, nhưng sao tôi vẫn cảm thấy
hồi hộp.
-Đề nghị thủ trưởng cho nổ súng!-Tôi báo cáo với đồng chí sư trưởng.
Sau khi được câp trên cho phép, tôi ra lệnh nổ súng. Lập tức các trận
địa pháo, cối của Quân khu và sư đoàn dồn dập nện xuống các mục tiêu theo kế
hoạch hiệp đồng. Tiếng nổ ầm ầm của đạn pháo, đất đá văng tứ tung, cây cối gãy
đổ ngổn ngang. Đạn ĐKZ xé tan không khí nghe chát chúa. Cả một vùng rừng núi ầm
ầm tiếng nổ.
Bộ đội trên các hướng vẫn tận dụng những yếu tố bất ngờ vận động tiếp
cận vào gần mục tiêu hơn. Anh em lợi dụng những gốc cây, ụ mối di chuyển từ vị
trí này đến vị trí khác, dưới sự chi viện của hoả lực pháo binh. Phải nói rằng
lớp chiến sĩ vừa mới được bổ sung hôm qua, tuy lần đầu ra trận nhưng thể hiện
được tinh thần dũng cảm chiến đấu. Họ đã vận động dưới làn đạn của ta bay vèo
vèo trên đầu mà không hề biết sợ, cứ thế xông lên.
Sau 15 phút pháo bắn dồn dập lên đỉnh đồi, bộ đội ta ào ào xung phong
đánh chiếm các mục tiêu trên sườn đồi và phát triển lên đỉnh đồi. Lợi dụng địa
hình điểm cao khống chế, địch chống trả quyết liệt. Với lối đánh táo bạo và
tinh thần tiến công kiên quyết của bộ đội ta, nhưng bọn địch vẫn chống trả đến
cùng. Tiểu đoàn 7 đã phải tổ chức nhiều đợt công kích liên tiếp, mới làm chủ
được mỏm 1. Địch bỏ lại nhiều xác chết. Số còn lại di chuyển sang mỏm đồi thứ
2, trên hướng của tiểu đoàn 9. Tôi rời Sở chỉ huy mang theo một máy thông tin
vô tuyến rồi kéo cả đồng chí Thuận chạy lên. Tại đây, bộ đội ta đã làm chủ,
đang khẩn trương tổ chức triển khai đội hình tiến công sang mỏm 2.
Đồng chí Thuận đã cơ động kịp thời khẩu ĐKZ75, một khẩu súng máy 12,7 mm
và cùng mấy khẩu cối 60 mm của các đại đội lên trước triển khai hai bên sườn
mỏm 1 và chế áp mãnh liệt cao điểm số 2. Chẳng mấy chốc bộ đội ta đã chiếm được
cao điểm này.
Phải thừa nhận đồng chí Thuận nắm bộ đội rất chắc, tiến tới đâu là kịp
thời đưa hoả lực lên đến đó. Bình thường trong sinh hoạt, tác phong đồng chí
chậm chạp, bản tính thật thà, nên ai cũng quý mến. Trong chiến đấu đồng chí lại
rất bình tĩnh và kiên quyết. Sau này đồng chí đã trở thành một cán bộ sư đoàn,
có nhiều kinh nghiệm trên chiến trường.
Tại cao điểm số 3, hướng của tiểu đoàn bộ binh số 9, bọn tàn quân từ cao
điểm 1 và 2 chạy dồn sang, ra sức kháng cự một cách ngoan cố. Đến 13 giờ, mà
tiểu đoàn bộ binh số 9 vẫn chưa tiến lên được. Địch từ trên cao bắn xuống rất
rát, đạn bay rít trên đầu. Tiểu đoàn 9 phải nằm lại trên trận địa của tiểu đoàn
3 thuộc trung đoàn bộ binh 726. Tình hình quá căng thẳng, tôi cũng một tổ trinh
sát vận động sang và cùng với đồng chí Nguyễn Thành Út tổ chức cho tiểu đoàn 9
tiếp tục công kích. Được sự phối hợp của tiểu đoàn bộ binh 7 từ cao điểm số 2
tiến công sang, tiểu đoàn bộ binh 9 xung phong liên tục và làm chủ được điểm
cao số 3. Địch bỏ trận địa, chạy xuống bờ sông Tôn-lê San. Chúng di chuyển về
hướng Tây, rồi vòng xuống, đánh tạt sườn vào phía sau tiểu đoàn bộ binh 9 và
tiểu đoàn bộ binh 3 của trung đoàn bộ binh 726. Ta lại phải tổ chức đánh phản
kích, đồng thời, củng cố trận địa vừa mới chiếm được.
Vào 15 giờ ngày 24 tháng 10, trung đoàn bộ binh 31 hoàn toàn làm chủ
trận địa, tiêu diệt tại chỗ 66 tên, thu 23 khẩu súng các loại.
Phối hợp với trung đoàn bộ binh 31, trung đoàn bộ binh 94 và một số lực
lượng khác cũng tiến công các toán địch trên đường số 19 và lực lượng của chúng
ở sương Tây Nam cao điểm 312, cách mặt đường số 19 khoảng 200m. Đến chiều ngày
24 tháng 10, đường số 19 được giải toả thông suốt nối liền tiền tuyến với hậu
phương. Các đơn vị ở phía trước rất phấn khởi. Như vậy, trận đầu ra quân của sư
đoàn bộ binh 309 hoàn toàn thắng lợi. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng và
là nền tảng, là trang sử hiển hách đầu tiên của sư đoàn.
Quân khu Đông Bắc là một địa bàn chiến lược quan trọng đối với chiến
trường Campuchia. Đường quốc lộ số 19 nối với đường quốc lộ số 14, Việt Nam
chạy xuyên qua tỉnh Ratanakiri đến thị trấn Bô Keo, qua Stưng Treng, Prêch-vi-hia
rồi đến các tỉnh phía Bắc và Tây Bắc Campuchia.
Sau một loạt những trận chiến đấu mở màn, ta đã đưa chiến tranh sang đất
đối phương, giải phóng được một khu vực rộng lớn. Địch bị đẩy sâu vào nội địa.
Đối với ta, đây là một địa bàn rất quan trọng. Trước mắt cùng với các
hướng khác, chúng ta đã loại trừ được mối nguy cơ đe dọa tình hình an ninh quốc
gia và vùng lãnh thổ Tây Nguyên. Sau nữa, đây là bàn đạp lý tưởng bảo đảm triển
khai đội hình tổng tiến công trên một hướng chiến dịch, có ý nghĩa chiến lược
của quân đội ta ở phía Tây Nam.
Vì vậy, cuộc chiến đấu ở nơi đây giữa ta và địch ngày càng quyết liệt.
Sau khi ta đánh chiếm cao điểm 312, giải toả đường 19, nối liền các đơn
vị phía trước với phía sau, Quân khu đã đưa một bộ phận lực lượng lên chốt giữ.
Trung đoàn bộ binh 31 cơ động xuống sườn phía Nam để ngăn chặn địch phản kích ở
cao điểm 230, đoạn Phinây-đồi không tên, phía nam đường số 19 gần 2 km.
Sư đoàn bộ binh 801 Pôn Pốt, đã vòng xuống phía Nam hòng đột
kích vào sườn cánh trái của đội hình hướng Quân khu 5.
Thắng lợi của Trung đoàn bộ binh 31 tại cụm điểm cao 312 đã khích lệ các
đơn vị trong sư đoàn và trên toàn bột Mặt trận Đông Bắc. Trong các đơn vị dấy
lên một phong trào thi đua giết giặc lập công.
Trung đoàn bộ binh 96 bắt đầu bước vào chiến đấu bên cạnh trung đoàn bộ
binh 31. Là một trung đoàn có bề dày lịch sử từ cuộc chiến tranh chống Pháp rồi
đến chiến tranh chống Mỹ, trung đoàn bộ binh 96 đã làm nên những chiến công
hiển hách cùng các lực lượng vũ trang Quân khu 5, giải phóng thị xã Tam Kỳ
(tỉnh Quảng Nam) và đảm nhiệm trên hướng quan trọng giải phóng thành phố Đà
Nẵng trong cuộc tổng tiến công mùa Xuân năm 1975.
Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, cùng với cả nước hàn gắn vết
thương chiến tranh, xây dựng và phát triển kinh tế, trung đoàn bộ binh 96 được
điều về đứng trong đội hình sư đoàn bộ binh 309. Người trung đoàn trưởng đầu
tiên trong thời gian này là thiếu tá Huỳnh Kim Sơn và chính uỷ trung đoàn là
thiếu tá Lê Đình Phùng. Sở trường chiến đấu của trung đoàn bộ binh 96 là đánh
vận động. Sau này, trong nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, trung đoàn bộ binh 96
cũng là một trung đoàn luôn hoàn thành nhiệm vụ trong tác chiến vận động và
chiến đấu phòng ngự trong những điều kiện bất lợi.
Thời gian này, trong nhiệm vụ đánh địch phản kích giữ vững và phát triển
thế tiến công, trung đoàn bộ binh 96 đã từ căn cứ đóng quân ở chân đèo An
Khê-tỉnh Gia Lai, cơ động lên ngăn chặn địch ở khu vực điểm cao 230 đến Phinây,
cùng với trung đoàn bộ binh 31. Đây cũng là nơi diễn ra nhiều trận đánh ác
liệt.
Tại khu vực này, địch có một trung đoàn bộ binh, được rải ra trên một
tuyến dài khoảng 5 km hòng ngăn chặn sự phát triển mở rộng bàn đạp của ta. Lực
lượng của địch trực tiếp đối đầu với ta được bố trí như sau:
-Một tiểu đoàn ở khu vực cao điểm 230
-Một tiểu đoàn ở khu vực đồi không tên
-Sở chỉ huy và một tiểu đoàn cùng với trận địa hoả lực cối 120 mm ở khu
vực làng Phinây.
Tuy đã hình thành một tuyến ngăn chặn như vậy, nhưng địch không hề phòng
ngự thụ động, cố định, mà mục tiêu luôn luôn cơ động, biến đổi. Chúng đã tích
cực áp dụng lối đánh luồn sâu, vu hồi hai bên sườn và phía sau đội hình của ta.
Có thể nói, bước đầu, những đơn vị của ta từ phía sau được đưa lên đây
chiến đấu có phần lúng túng. Thêm vào đó là địa hình ở đây là rừng già, rừng
tái sinh kín mít, rất khó cơ động những lực lượng lớn. Khắp nơi, từ phía trước,
phía sau và hai bên, súng địch nổ liên tục, những lại không thấy rõ mục tiêu cụ
thể nào để tiến công. Nhiều lúc ta phải nổ súng tiêu diệt những mục tiêu nhỏ lẻ
và phải đánh vỗ mặt. Tình hình có nhiều bất lợi. Bộ đội ta ngày nào cũng có
thương vong. Có khi thương vong do mìn địch, có khi bị chúng phục kích sâu
trong đội hình của ta. Và, đặc biệt là trận địa cối 120 mm ở Phinây đã gây
không ít khó khăn cho các đơn vị ở đây.
Phải bằng mọi giá tiêu diệt bằng được trận địa cối này! Buộc chúng phải
câm họng. Vấn đề quan trọng bây giờ là công tác trung đoàn nắm địch.
Tất cả những ai đã từng kinh qua chiến đấu ở đây đều biết, việc trinh
sát nắm địch là rất khó khăn. Mục tiêu Sở chỉ huy và trận địa hoả lực của địch
đặt sâu trong đội hình phía sau. Phía trước, chính diện với các đơn vị của ta,
thì địch đang bu bám. Mỗi hành động của ta lúc này đều không lọt được qua các
bộ phận tiền tiêu của địch. Anh em ta chỉ dựa vào bản đồ, địa bàn, và tính toán
cự ly bằng tiếng động từ khi trận địa cối “đềpa” đến khi tiếng nổ của quả đạn
mà xác định trận địa cối của kẻ địch ở ngay tại Phinây-một phum nhỏ hẹp. Các
trận địa cối, pháo của ta bắn mãi mà không trúng. Sư đoàn đã chỉ thị ngay cho
tổ trinh sát, trong đó có đồng chí Phạm Văn Mai, phải “mò” cho bằng được trận
địa cối này của địch.
Phạm Văn Mai là một cán bộ trinh sát rất bình tĩnh, gan dạ và là một cán
bộ xuất sắc trong công tác trinh sát. Trong trận đánh vào Phinây, đồng chí đã
vào ngay trận địa cối của địch, giúp cho sư đoàn hạ quyết tâm chính xác. Dù kẻ
địch có nham hiểm che mắt ta đến đâu, đồng chí cũng “mò” ra được nơi ở của
chúng. Tôi là một trong những cán bộ chỉ huy đã đi điều nghiên với đồng chí và
các chiến sĩ trinh sát của đồng chí rất nhiều lần. Lần nào có Mai đi cùng, tôi
cũng cảm thấy rất yên tâm.
Phạm Văn Mai có dáng người thâm thấp, cao chưa đến 1m60, nước da ngâm
đen vì thường xuyên dải dầi mưa nắng, đôi môi tái nhợt vì bị sốt rét nhiều. Sau
khi chuyển sang địa bàn Bát Tam Băng, từ một trợ lý trinh sát, anh đã được bổ
nhiệm làm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn trinh sát 21 của sư đoàn bộ binh 309. Có
lần anh tổ chức, đưa đoàn cán bộ trinh sát của sư đoàn và trung đoàn bộ binh
31, gồm có tôi, đồng chí Đào Quang Năm-phó sư đoàn trưởng và một số đồng chí
khác luồn sâu vào đất Thái Lan trên 10 km để tìm căn cứ của Pôn Pốt. Chuyến đi
này rất thành công. Sau đó, anh lại tiếp tục dẫn một đoàn cán bộ khác do đồng
chí Nguyễn Văn Táo-phó trung đoàn trưởng đi tiếp. Trên đường về, đơn vị lại bị
địch bám theo tập kích vào đội hình lúc anh em dừng lại nghỉ giải lao trên đất
Thái Lan. Ở “nhà” chúng tôi bắt được đài kỹ thuật, biết được số cán bộ của ta
bị đích tập kích, thu một số trang bị. Nhưng rất may dưới sự dẫn đường của tổ
trinh sát do anh chỉ huy, đã đưa được cán bộ về nơi an toàn cả người và vũ khí.
Trong các trận tiến công hàng loạt vào các căn cứ địch từ Phnôm Mê Lai đến Ô-đa
sau này, nhiều lần các toán trinh sát do Phạm Văn Mai chỉ huy, đã luồn sang đất
Thái Lan, bọc phía sau các căn cứ địch dọc tuyến biên giới. Do vậy, trước khi
tiến công địch, sư đoàn đã nắm chính xác được các mục tiêu.
Trong các trận tiến công vào Phinây lần này, nhờ công tác trinh sát tốt,
nắm rõ được mục tiêu mà ngay từ đầu, sư đoàn đã tập trung được hoả lực, tiêu diệt
được trận địa cối và Sở chỉ huy của địch ở đây.
Trong trận này, sư đoàn đã đưa pháo 105 mm và pháo phòng không 37 mm vào
gần, hạ nòng bắn theo tà âm. Với sức công phá của pháo 105 mm bắn thẳng và đạn
pháo phòng không 37 mm vướng vào cây nổ từ trên cao chụp xuống đã uy hiếp mạnh
mẽ tinh thần của địch. Chỉ sau 30 phút chiến đấu, trung đoàn bộ binh 812 đã
đánh chiếm mục tiêu Phinây mở toang được cánh để đưa đội hình chiến dịch vào
tổng tiến công trên hướng của Quân khu 5.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét