Không thể nào tiếp tục hợp tác vời Khmer Đỏ
Như vậy là từ tháng 3-1970, sau
khi bọn Lon Nol, Sirik Matak làm đảo chính lật đổ rồi kết án tử hình vắng mặt
tôi, tôi sống lưu vong ở Bắc Kinh cùng với vợ tôi là Bà hoàng Monic. Sau khi ra
lời kêu gọi kháng chiến, tôi được các thủ lĩnh Khmer Đỏ ở bưng biền Khieu
Samphan, Hu Nim, Hou Youn, Thiun Mun hưởng ứng, cùng tham gia Chính phủ đoàn
kết dân tộc Vương quốc Campuchia, do tôi đứng đầu. Chính phủ này có trụ sở
“kép” đóng ở Bắc Kinh, trong đó có Pen Nouth, Thiun Mun... và đóng ở bưng biền
trong nội địa Campuchia trong đó có Khieu Samphan, Hu Nim, Hou Youn... Điều đó
có nghĩa là tôi đứng đầu một Chính phủ có Khmer Đỏ tham gia, nhưng lúc đó họ
chưa phải là những kẻ tàn sát nhân dân, đồng bào của mình. Trong thời gian này
họ vẫn là những người kháng chiến chống đế quốc Mỹ và bọn đảo chính tiếm quyền,
tự xưng là những người “cộng hoà”.
Quan hệ giữa tôi với các thủ lĩnh
Khmer Đỏ ngày càng trục trặc. Tôi thường đề nghị với các bộ trưởng Khmer Đỏ ở
bưng biền cho tôi về thăm vùng giải phóng. Lần nào họ cũng từ chối, viện lý do
tính mạng tôi là rất quý, tôi không được liều mạng... Cuối cùng, mãi đến tháng
3, tháng 4-1973 các vị đó mới chấp nhận để tôi về thăm các khu vực giải phóng.
Tại đây tôi đã được gặp Khieu Samphan, Son Sen , Hou Youn, Hu Nim và... Saloth
Sar tức Pol Pot. Nhưng người ta chỉ cho tôi nhìn cái gì họ muốn tôi xem. Ngay
từ đó, tôi đã hiểu phải xử sự như thế nào. Tôi quyết định thông báo cho các
“đồng chí” Khmer Đỏ của tôi biết, sau khi chiến thắng tôi sẽ từ chức. Bởi vì
đến lúc đó thì có lẽ tôi chẳng còn phục vụ gì được cho những nhà cách mạng kiểu
Khmer Đỏ này nữa.
Từ đó, nhiều lần tôi công khai
bầy tỏ ý định này. Tại Hà Nội, trong dịp Tết Nguyên Đán năm 1975 của Việt Nam,
tức ba tháng trước khi những người cộng sản giành được thắng lợi vào hồi tháng
4 năm đó, tôi đã nói rõ với ông Ieng Sary và các bạn của ông ta, có cả các nhà
lãnh đạo Việt Nam cùng chứng kiến là Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy
Trinh, là sau khi chiến thắng đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, tôi sẽ từ bỏ mọi
chức vụ, xin trở về Campuchia sống như một công dân bình thường.
Ở Trung Quốc, tôi cũng đã nhiều
lần tâm sự với Thủ tướng Chu Ân Lai, có lẽ tôi không thể nào hợp tác được với
Khmer Đỏ, sau thắng lợi đã thấy rõ. Ông Chu Ân
Lai cam đoan là ông thông cảm với tôi nhưng khuyên tôi đừng bộc lộ ý định này
cho đồng bào tôi biết, vì họ đang cầm súng chiến đấu hy sinh cho sự nghiệp
chính nghĩa của Sihanouk.
Tôi trả lời, sẽ cố kìm hãm ý định
từ chức cho đến ngày thắng lợi. Chủ tịch Mao cũng biết được ý định của tôi sẽ
từ chức sau ngày đạt được “thắng lợi chung”, và đã thuyết phục tôi đừng “bỏ
rơi” Khmer Đỏ.
Tháng 9-1975, trước mặt ông Khieu
Samphan, Khieu Thirith (vợ Ieng Sary),
Xamđec Pen Nouth (lúc đó là Thủ tướng Chính phủ đoàn kết dân tộc Vương quốc
Campuchia) và vợ tôi là Monic, Chủ tịch Mao nói:
- Hoàng thân thân mến! Tôi biết
rõ giữa ngài với các đồng chí cộng sản Campuchia của ngài có những sự hiểu lầm.
Nhưng không nên quên rằng, những yếu tố hoà đồng vẫn nhiều hơn bất đồng.
Vì tôn kính nhân vật vĩ đại rất
cao tuổi và cũng đã rất ốm yếu này, tôi đành mỉm cười. Khieu Samphan cũng cười
theo nhưng là một nụ cười nhăn nhúm và lạnh lùng. Còn ông bạn già Pen Nouth của
tôi thì tỏ ra không lấy gì làm khoan khoái lắm. Lúc đó tôi còn hi vọng, mà sau
này mới biết mình ngây thơ, là sau ngày chiến thắng có lẽ tôi vẫn có thể sống
yên ổn ở trong nước như một người nghỉ hưu bình thường, không phiền toái mà
cũng không nhục nhã...
Ngày 17-4-1975, quân Khmer Đỏ
tiến vào Phnompenh. Ngay sau hôm chiến thắng tôi đã đề nghị ban lãnh đạo Khmer
Đỏ cho tôi được về nước. Vài ngày sau, Angca, tức tổ chức lãnh đạo của Khmer Đỏ
và chính phủ mới, thông qua ông Khieu Samphan lúc đó đang giữ chức Phó Thủ
tướng, đề nghị tôi “kiên nhẫn” chờ đợi vì trước mắt đang còn phải truy quét
“những tên tay sai của địch đang còn nhung nhúc ở Phnompenh” đe doạ tính mạng
tôi. Họ nói thêm, những điều kiện vệ sinh trong thủ đô hãy còn tồi tệ, đang có
“bệnh dịch hạch và dịch tả”.
Thật ra, Khmer Đỏ lúc đó đã xua
đuổi toàn bộ dân chúng ra khỏi thành phố rồi. Liền sau đó, qua báo chí và đài
phát thanh nước ngoài mà tôi rất háo hức theo dõi ở Bắc Kinh, tôi được biết
tình cảnh thảm khốc của việc lùa dân ra khỏi thành phố. Nhiều đồng bào của tôi
chạy trốn sang Pháp, viết thư kể chuyện cho tôi rõ, Khmer Đỏ đã lần lượt thanh
toán những người thuộc phe cánh của Lon Nol và của cả Sihanouk. Ngay đến dân
chúng Campuchia, những người chờ đón Khmer Đỏ tiến vào như những người giải
phóng cho họ, cũng bị đuổi khỏi thành phố, hàng ngàn người chết gục trên các
nẻo đường.
Ông bạn Kim Nhật Thành của tôi,
Chủ tịch nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên là người đã đón tôi sang
Bình Nhưỡng, cũng là người đã thương lượng, trong những điều kiện hết sức khó
khăn, để tôi được trở về Phnompenh “tương đối nhanh”, tránh cho tôi khỏi bẽ mặt
trước thế giới. Trước khi chịu mở cánh cổng Phnompenh cho tôi trở về vào tháng
9-1975, những người gọi là “đồng chí đỏ” của tôi còn dựng lên trước mặt vị lãnh
đạo Triều Tiên hàng ngàn vật chướng ngại.
Họ chỉ chịu đưa tôi về khi họ cần
sử dụng tôi làm tấm bình phong, một thứ cosmetic để “Quốc trưởng” Sihanouk đọc một bài diễn
văn trước Đại hội đồng Liên Hợp Quốc vào lúc đang loan truyền những tin đồn
đáng lo ngại về tai hoạ diệt chủng ở Campuchia.
Nếu tôi nhận lời đi họp ở Liên
Hợp Quốc, cũng là để có dịp ngẩng cao đầu trở về Campuchia, xuất hiện một lần
cuối cùng trên thế giới như một người đã góp phần xây dựng chiến thắng chung
sau 5 năm nhục nhã sống lưu vong và chịu nhiều hy sinh. Tôi chưa muốn rời bỏ
sân khấu chính trị trước khi bắn một “chùm pháo hoa” tại Liên Hợp Quốc.
Thời gian đầu của tôi ở trong
nước tương đối dễ chịu. Ban lãnh đạo Khmer Đỏ lúc này vẫn còn cần dùng tôi làm
người phát ngôn cho các chế độ của họ trên diễn đàn Liên Hợp Quốc, và cũng là
để sơn phết lại các huy hiệu của chế độ này trên trường quốc tế, thông qua
chuyến đi thăm hữu nghị chính thức của tôi tới nhiều nước bạn ở châu Á châu Âu,
châu Phi. Vả lại, Khmer Đỏ có lẽ cũng đã suy tính, nếu để sổng mất Sihanouk
trong chuyến đi công cán ở nước ngoài (từ tháng 9 đến tháng 12-1975) thì thật
là “nguy hiểm”. Vì vậy, họ đã cố làm ra vẻ tử tế đối với tôi và gia đình tôi
Khieu Samphan và Son Sen đã thưa với tôi:
- Tâu Đức vua (đúng thật vậy, họ
gọi tôi là Vua, nguyên văn tiếng Thơm là Preah Karuna), các hoàng tử Sihamoni
và Narinđrapông có thể tiếp tục học tập ở nước ngoài. Đức vua và Hoàng hậu
Mônêang (tức Monic, vợ tôi) có thể tự do đi lại từ Campuchia tới Trung Quốc,
Triều Tiên, tuỳ thích...
Trong thâm tâm, tôi tự nhủ thầm:
“Khmer Đỏ quả là những gentlemen, những người rất lịch sự, thế mà trước kia ta
vẫn nghi oan cho họ. Dù họ không yêu thích ta đi nữa, ít nhất họ cũng khá thông
minh để đối xử tốt với ta. Vả lại, họ cũng còn phải lưu ý đến những lời cực kỳ
thắm thiết mà Chủ tịch Mao Trạch Đông, Thủ tướng Chu Ân Lai đã gửi gắm ta cho
họ. Nhất định ta vẫn sẽ từ chức Quốc trưởng nhưng vẫn có thể chịu đựng được
suốt đời trong “xã hội mới” vì không bị tách rời khỏi các con, các cháu, vẫn
được tự do đi lại ở trong nước cũng như ngoài nước”.
Còn về việc dân chúng đồng bào
tôi bị lùa ra khỏi Phnompenh và các thành phố, đưa về nông thôn sinh sống ra
sao thì Khieu Samphan cam đoan với tôi là “họ vẫn mạnh khỏe, tất nhiên phải lao
động chân tay, vất vả nhưng ai nấy đều “tự nguyện”(?) và rất “phấn khởi”. Tôi
ngây thơ tin ngay.
Từ tháng 9-1975, Ban lãnh đạo
Khmer Đỏ cho tôi ở trong Điện Khêmarin, ngay bên cạnh Cung điện có đặt ngai
vàng. Điều đáng buồn là Cung điện có ngai vua không được bảo quản chút nào, phủ
đầy bụi và ngày càng đổ nát. Không nói gì đến Cung điện Vécxai ở Pháp mà ngay
tại Liên Xô, Điện Kremli và các cung vua ở Lêningrát vẫn được giữ gìn cẩn thận.
Tại Trung Quốc vẫn bảo quản, trùng tu, tô điểm các hoàng cung cũng như các đền
chùa. Còn ở Campuchia, Khmer Đỏ tiếp tục mối thù hận của họ đối với chế độ quân
chủ và với cả đạo Phật, kể cả những vật vô tri, vô giác.
Khmer Đỏ không thoả mãn với việc
giết hại một hoàng tử, công chúa, hoàng thân, những nhân vật bảo hoàng, những
tín đồ đạo Phật, đạo Hồi, đạo Thiên Chúa..., bọn cực đoan này còn “tàn sát” cả
tượng Phật, san bằng đền chùa thiêu huỷ các bản Kinh Phật, những báu vật của
văn minh, văn hoá và triết học Phật giáo.
Lúc này, bác gái tôi là Công chúa
Môm, mẹ vợ tôi là Pom Peang vẫn sống chung với Monic và tôi trong điện
Khêmarin. Ngoài ra, được phép sống trong Hoàng cung với chúng tôi còn có: bà
Sar Saorot là thư ký riêng của vợ tôi; ông Ker Mêat, cựu quan chức lễ tân của
Triều đình và cựu đại sứ Mặt trận đoàn kết dân tộc ở Bắc Kinh; bà Bua Tan là em
họ Mẫu hậu; bà Náp, hầu phòng của vợ tôi. Ban lãnh đạo Khmer Đỏ còn dành cho
chúng tôi một ân huệ nữa: bà Chin, tiến sĩ y học thành viên Đoàn y tế Cộng hoà
nhân dân Trung Quốc tại Phnompenh và một nữ y tá Bệnh viện trung ương từ Trung
Quốc tới cũng sống ngay trong Hoàng cung để tiện đêm ngay chăm sóc sức khỏe cho
tôi và gia đình tôi. Con gái tôi là Sorya Roenxi cùng với gia đình sống tại một
ngôi nhà kiểu mới gần tượng đài Độc Lập, sát tư dinh của vợ chồng Xamđec Pen
Nouth. Hoàng thân Norodom Phurissara lúc này hãy còn giữ chức Bộ trưởng Tư pháp
cùng với vợ và con rể cũ của tôi là Hoàng thân Sisowath Đussađi, con trai tôi
là Khêmanurắc, đã từng tham gia kháng chiến chống Lon Nol, trung thành phục vụ
sự nghiệp cách mạng của Khmer Đỏ, cũng được phép thường xuyên tới thăm tôi.
Các ông Khieu Samphan, Son Sen,
Hu Nim, bà Ieng Sary, ông Côi Thuôn - Bộ trưởng Tài chính và Thương mại, ông
Tốc Thon Bộ trưởng Công chính và một vài cán bộ cấp cao khác của Khmer Đỏ cũng
thường xuyên đến “cùng cơm gia đình” với tôi và những người thân của tôi trong
Điện Khêmarin. Họ ăn rất ngon lành, nhiệt liệt ca ngợi bác gái tôi là cụ Môm đã
chỉ đạo làm những món ăn tuyệt vời.
Bộ phận Khmer Đỏ phục vụ tôi lúc
này có một cán bộ (tiếng Thơm gọi là Kammaphibal) vốn là một kỹ sư bưu điện đã
học tại Pháp, hai nhân viên vừa là thư ký vừa là quản lý cũng là hai kỹ sư đã
tốt nghiệp đại học ở Liên Xô và Tiệp Khắc, ba thanh niên phục vụ việc quét dọn
nhà cửa và hai cô gái làm bếp. Nhiều quân nhân (tiếng Thơm gọi là Yuthea) phụ
trách canh gác Hoàng cung và làm vườn. Tất cả những người phục vụ tôi đều rất lễ
phép và chăm chỉ. Khi nói chuyện với tôi, các cô các cậu này hãy còn sử dụng
những danh từ cũ của Triều đình, nếu không hoàn toàn biểu lộ niềm tôn kính và
ưu ái đối với tôi thì ít nhất cũng chứng tỏ họ là “dân đô thị”. Một số binh
lính cho biết đã học cấp tiểu học và trung học rồi mới gia nhập quân đội Khmer
Đỏ sau khi Lon Nol làm đảo chính.
Chuyến trở về nước đợt này của
tôi chỉ vẻn vẹn có ba tuần, thời gian vừa đủ để cùng với ban lãnh đạo Khmer Đỏ
soạn thảo bài diễn văn mà tôi sẽ đọc trước Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. Trong
khoảng thời gian ngắn ngủi này, tôi chỉ ra khỏi Cung điện có một lần, mà lại là
bằng tàu thuỷ! Từ dưới sông nhìn lên, tôi không thấy một bóng người nào trên bờ
sông Mê công, sông Tônlê Xáp và sông Bassac. Thủ đô đã trở thành một thành phố
chết.
Tôi bàng hoàng cả người.
Sau ba tuần được coi như một
thiên diễm tình khá kỳ lạ với Khmer Đỏ, tôi lại rời đất nước một lần nữa để
thực hiện một chuyến công du dài ba tháng đến Trung Quốc, Triều Tiên, Liên Hợp
Quốc, Rumani, Nam Tư, Anbani, Irắc, Xyri, Xuđăng, Tandania, Pakixtan... Thiên
diễm tình không kéo dài nữa. Khi đến Bắc Kinh, tôi được ông Nut Sôhom, vốn là
tuỳ viên báo chí cũ thời kỳ thành lập Mặt trận đoàn kết dân tộc Vương quốc
Campuchia báo cáo với tôi là ông đã thông báo với giới báo chí nước ngoài (chủ
yếu là các báo xuất bản ở Pháp và Hồng Công) những tin tức về tình hình
Phnompenh dưới chế độ Khmer Đỏ từ hồi tháng 9-1975. Ông lượm lặt những “tin tức
quý giá” này từ một số thành viên trong gia đình tôi đã theo tôi từ Bắc Kinh về
nước rồi lại cùng với tôi đi thăm Bắc Kinh hồi tháng 9-1975. Những thành viên
này ngoài vợ tôi còn có bác gái tôi, mẹ vợ tôi, bà Sar Saorot, bà Náp. ở lại
Phnompenh lúc đó chỉ có ông Ker Mêat, bà Bua Tan, bà Tan, con gái tôi là Sorya
Roenxi và gia đình cháu. Còn Khêmanurắc, Phurisssara, Đussađi thì từ tháng
5-1975 đã phải tuân thủ một kỷ luật của Khmer Đỏ: không bao giờ được đi ra nước
ngoài. Ông Nut Sôhom đã thông báo với giới báo chí quốc tế là, những thành viên
trong gia đình tôi thừa nhận, Phnompenh đã thật sự trở thành một “thành phố
ma”. Tất cả bầu bạn của những người đi theo tôi đã “biến mất”.
Ông Nut Sôhom còn cho biết, báo
chí nước ngoài đưa tin tôi bị ngược đãi và khinh miệt. Thật ra, điều này lúc đó
chưa xảy ra với tôi, đến cuối năm 1975 nó mới trở thành sự thực. Báo chí cũng
viết, tôi đã khóc nức nở vì tuyệt vọng. Thật ra, điều này cũng chưa đúng. Hồi
tháng 9 này tôi chưa khóc, vì tôi chỉ ở Campuchia có ba tuần, và cũng chỉ sống
tại Phnompenh, trong Hoàng cung, lúc này tôi đang còn yên tâm. Thế nhưng, những
điều báo chí đăng và Sôhom tiết lộ với tôi đã như một tàn lửa bén vào mồi thuốc
súng. Trong khi tôi đang ở thăm Triều Tiên thì tại Campuchia, Hội đồng các bộ
trưởng của Khmer Đỏ đã quyết định gửi cho tôi một bức thư khiển trách, báo cho
tôi biết: “Trong tương lai những nhà cách mạng anh hùng (tức Khmer Đỏ) đã từng
đổ không biết bao nhiêu máu để cứu nước và vực nhân dân đứng dậy sẽ không dung
thứ cho bất cứ kẻ nào xúc phạm đến vinh dự và thanh danh của họ trên trường
quốc tế, vu không chế độ mới”.
Trong câu kết luận, cái chính phủ
họp ở Phnompenh dưới sự chỉ đạo của ban lãnh đạo Khmer Đỏ đã ném vào mặt tôi
một câu chửi, hỗn láo chưa từng thấy, nguyên văn như sau:
“Ông đã chọn con đường xấu, ông
sẽ chẳng được gì cả và sẽ mất hết”.
Lá thư, với lời lẽ không bình
thường, do Khieu Samphan, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc phòng ký tên. Vậy
mà lúc đó ở Phnompenh vẫn còn có Xamđec Pen Nouth rất khỏe mạnh đang làm Thủ
tướng. Sau này tôi mới được chính Pen Nouth sửng sốt và buồn bực báo cho biết,
Khmer Đỏ đã soạn thảo “công hàm khiển trách” này mà không thông báo gì cho ông
biết cả. Tôi cũng nhớ lại trong khoảng thời gian 1970 - 1975 tức là đang còn
kháng chiến, những thông báo của Khmer Đỏ phát ra nước ngoài khi nói đến những
phiên họp của Hội đồng Bộ trưởng trong vùng giải phóng đều nhấn mạnh đến sự có
mặt của anh họ tôi là Norodom Phurissara. Vậy mà, đến tháng 9-1975, khi gặp tôi
ở Điện Khêmarin, Phurissara lại bộc lộ với tôi là cái “Bộ Tư pháp” của ông cũng
không có quan toà, ông không bao giờ được mời đi dự các phiên họp của chính phủ
cả. Khmer Đỏ đưa tên Norodom Phurissara trong các bản thông báo để làm ra vẻ
đây là một chính phủ của “vương quốc” và “đoàn kết dân tộc” Campuchia, nhằm lừa
bịp dư luận. Thật ra, chỉ có một mình ban lãnh đạo Khmer Đỏ quyết định mọi việc.
Giờ đây, nhận được lá thư khiển
trách của Khmer Đỏ, lá thư đã làm tôi nhiều đêm mất ngủ, phản ứng đầu tiên của
tôi là viết thư trả lời báo tin tôi từ chức rồi sẽ sang sống lưu vong ở Pháp.
Nhưng rồi, như một ngạn ngữ Pháp
đã nói: “Đêm tối đem tới lời khuyên”, tôi lại quyết định cứ trở về nước. Trước
hết, đây là tôi trở về với nhân dân của tôi. Tôi biết, Khmer Đỏ không coi trọng
tôi như là một người đứng đầu Nhà nước Campuchia cách mạng. Tôi không trở về do
tham vọng cá nhân về quyền lực, mà do tình yêu đối với nhân dân, nhất là trong
lúc nhân dân đang bị hành hạ. Tôi là người theo đạo Phật. Đức Phật Tổ chẳng
phải là người tràn đầy tình thương đó hay sao?
Thế là, đến tháng 12-1975, tôi
nhất định trở về Campuchia, mặc dù nhiều người thân của tôi đang định cư vô
thời hạn ở Pháp, van nài tôi đừng trở về. Tôi trả lời: “Chính phủ Campuchia đề
nghị ta hoàn thành một sứ mệnh ở Liên Hợp Quốc và khoảng một chục nước bạn. Ta
đã làm xong nhiệm vụ và sẽ không làm gì cho chính phủ này nữa. Ta sẽ từ chức.
Nhưng, ta tự coi mình như một người lính, trước khi xin giải ngũ phải trở về
doanh trại đã”.
Lúc này tôi đang ở thăm Nam Tư,
cùng với một số người trong gia đình đến nơi họp mặt.
Không ai hào hứng về Campuchia.
Cũng như tôi, mọi người cảm thấy không có điều gì tốt lành đang chờ đón. Tôi
bảo họ: “Gia đình ta phải nêu cao tấm gương yêu nước. Chiến tranh đã kết thúc.
Chính quyền Lon Nol đã bị quét sạch. Bọn đế quốc đã bị trục xuất và không trở
lại nữa. Khmer Đỏ sau khi làm ta héo hon gầy mòn trong những ngày sống xa Tổ quốc,
cuối cùng đã chấp nhận cho chúng ta sống trong lòng “chế độ mới”. Ta phải chớp
lấy vận hội này, vì danh dự của Hoàng tộc, bằng cách chấp nhận cuộc sống bình
dị, thanh bần, như những dân thường, những nông dân”.
Các con tôi, mỗi gia đình nhỏ
quyết định một cách. Sorya Roenxi cùng với chồng là một đảng viên cộng sản và
các con đã trở về Phnompenh từ tháng 9-1975. Botum Bopha cùng chồng con, tuy
chẳng thích thú gì nhưng lúc này cũng miễn cưỡng vì đạo làm con mà theo tôi trở
về nước.
Yuvanath cùng vợ con xin được di
tản sang Hồng Công, sau đó ít lâu vì cuộc sống quá khổ cực đến 1980 lại xin
sang Mỹ. Ranarit, tiến sĩ Luật học tốt nghiệp ở Pháp cùng với gia đình xin ở
lại Pháp tiếp tục công việc giảng dạy tại một trường đại học.
Sakrapông, được sự giúp đỡ của nhiều
cô vợ, mở một tiệm ăn tại Pháp. Bopha Devi cùng chồng con xin định cư ở Paris . Còn Sihamoni và
Narinđrapông là hai người con chung của tôi với Monic tiếp tục học tập ở Bình
Nhưỡng và Matxcơva.
Khi tới Anbani, tôi lại gặp một
chuyện nhục nhã nữa do các “ông chủ mới” ở Phnompenh dành cho tôi. Trong bữa
tiệc chiêu đãi, tôi được Thủ tướng Anbani nâng cốc chúc mừng nhân sự kiện Hiến
pháp mới của Campuchia vừa công bố. Tôi rất sửng sốt vì chẳng biết gì cả. Đến
Bắc Kinh, tôi gọi điện cho Khieu Samphan đề nghị cho biết nội dung bản Hiến
pháp mới. Xamphon trả lời khi tôi trở về Phnompenh sẽ đưa cho xem. Tại Bắc
Kinh, bà vợ ông cựu đại sứ Đức ở Campuchia và là một người quen thân của tôi đã
không sao ngăn được những dòng nước mắt khi tôi và gia đình đến chào từ biệt và
xin lỗi vì không thể nghe theo lời khuyên thân thiết của bà là đừng trở về nước
nữa. Bà lo ngại có chuyện chẳng lành xảy đến với chúng tôi và toàn bộ Hoàng
gia.
Ngày 31-12-1975 một chiếc máy bay
của Trung Quốc đưa tôi cùng gia đình và những cán bộ Khmer Đỏ “tháp tùng” từ
Bắc Kinh trở về Phnompenh.
Ngày 5-1-1976 tôi chủ toạ phiên
họp của Hội đồng Bộ trưởng tại Hoàng cung.
Chương trình nghị sự gồm có:
trình Quốc trưởng bản hiến pháp mới mà Khmer Đỏ đã biên soạn và cũng đã thông
qua toàn bộ. Giới thiệu quốc kỳ mới, quốc ca mới cũng đã do Khmer Đỏ quyết
định.
“Vương quốc Campuchia” mà dưới
nhãn hiệu này Khmer Đỏ đã chiến đấu chống lại “chế độ cộng hoà” Lon Nol nay bãi
bỏ, thay bằng tên “Campuchia dân chủ”. Phật giáo không được coi là quốc đạo như
đã ghi trong Cương lĩnh chính trị của Mặt trận đoàn kết dân tộc Campuchia trong
cuộc chiến đấu chống Lon Nol. Mọi tôn giáo khác cũng đều bị thủ tiêu. Quyền tư
hữu, từ bàn ghế, nhà cửa, tiền bạc... đều bị cấm. Tất cả mọi người phải trở
thành vô sản. Toàn dân phải sống trong tập thể, trong các trại lao động. Hệ
thống luật pháp “cổ điển” bị bãi bỏ. Tổ chức của Khmer Đỏ, gọi là Angca, là tổ
chức cao nhất, lớn nhất, mạnh nhất, có thẩm quyền quyết định nhất, ngay cả
trong lĩnh vực sống chết. Danh từ “công dân” bị loại bỏ.
Đầu tháng 12-1975: trong lúc tôi
chưa trở về Campuchia, ông Yêng Xary ra lệnh cho các trưởng đoàn ngoại giao của
chính phủ Campuchia phải về ngay Phnompenh dự một khoá “tập huấn” kéo dài bốn
tuần. Ông Chia Xan, một cán bộ trung thành nhất với tôi đã kháng nghị lại. Ông
nhấn mạnh, Quốc trưởng Sihanouk sắp tới thăm Rumani, bản thân ông Chia Xan lại
đang làm đại sứ ở đó. Nếu rút ngay đại sứ về nước thì vừa bất kính đối với Quốc
trưởng, lại vừa bất nhã đối với Chủ tịch Rumani Nicôlai Xêauxexcu là vị chủ nhà
nghênh tiếp Quốc trưởng Campuchia tới thăm hữu nghị chính thức. Yêng Xary bác
bỏ kháng nghị của Chia Xan, viện lý do công việc nội bộ của nước “Campuchia
mới” còn quan trọng hơn chuyến đi thăm các nước bạn của Sihanouk. Cuối cùng, do
đích thân Thủ tướng Pen Nouth can thiệp, các đại sứ Campuchia ở những nước mà
tôi sẽ tới thăm mới được tạm hoãn về nước cho tới khi tôi hoàn thành chuyến
công cán này. Khoảng cuối tháng 12-1975, tất cả các đại sứ và trưởng đoàn ngoại
giao Campuchia ở nước ngoài đều đã trở về nước. Tôi về muộn vài ngày vì còn ở
lại Bắc Kinh chào từ biệt các quan chức Trung Quốc và các nhà ngoại giao nước
ngoài ở Bắc Kinh.
Ngày 31-12-1975 tôi về đến
Phnompenh. Tất cả các đại sứ đã về nước trước tôi không ai được phép ra sân bay
đón, cũng không ai được tới điện Khêmarin chào tôi. Ngay tối 32-12-1975, Khmer
Đỏ mở tiệc tại dinh Chính phủ đặt trụ sở trong toà biệt thự cũ của Khâm sứ Pháp
nhằm chiêu đãi các nhà ngoại giao nước ngoài tại Phnompenh. Vẻn vẹn chỉ có đại
sứ Trung Quốc, đại sứ Triều Tiên, đại sứ Việt Nam
và đại biện lâm thời Cuba .
Bữa tiệc này được đặt dưới sự chủ toạ của tôi! Khăn trải bàn, khăn ăn, đĩa,
cốc, thìa, dĩa, dao đều có thể chấp nhận được về mặt vệ sinh, nhưng mỗi vị
khách chỉ có một chiếc thìa, một dĩa, một dao dùng trong suốt bữa tiệc. Mãi đến
khi tráng miệng mới thay bằng một chiếc dĩa nhó xíu. Bát đĩa, cốc chén đều là
những thứ nhặt nhạnh từ nhiều nhà dân đã bị cưỡng bức lùa ra khỏi thành phố từ
ngày 17-4-1975. Tôi nhớ lại, hồi tháng 9 năm đó, trong đợt về nước đầu tiên,
khi đi dạo chơi trên tàu thuỷ, tôi được dùng cơm ngay trên tàu. Tôi rất ngạc
nhiên khi nhìn thấy những đĩa bầy trên bàn ăn lại in hình quốc huy... Malaixia!
Hẳt những thứ này là tài sản quý của sứ quán Malaixia tại Phnompenh. Ngay từ
hồi đó, tôi đã lưu ý các ông chủ Khmer Đỏ là khi chiêu đãi khách quốc tế chớ
dùng những bộ đồ ăn có in hình quốc huy nước ngoài. Tôi cho họ biết, trong
Hoàng cung có những bộ đồ ăn rất sang trọng. Hơn nữa, những thứ đó đều in hình
quốc huy Campuchia. Nhung đối với họ, quốc huy của Malaixia còn thích thú hơn
quốc huy của Vương quốc Campuchia?
Tháng 9 năm 1975, khi lên đường
đi Bắc Kinh, Liên Hợp quốc và tới thăm khoảng một tá nước bạn, tôi để lại trong
Điện Khêmari bác gái tôi cùng với bà Bua Tan là em họ Mâu hậu, bà Khôn là cung
tần của Mẫu hậu và ông Ker Meat, cựu quan chức lễ tân của Triều đình. Khi tôi
trở về Phnompenh ngày 31-12, ông Ker Meat bị mất tích. Sau đó tôi được biết,
thừa dịp tôi vắng nhà, bọn lính Khmer Đỏ đã lôi ông ra một chiếc xe Jeep đưa đi
một nơi nào đó không ai biết. Bà Bua Tan và bà Khon cũng bị đưa đi một công xã
thuộc tỉnh Battambang tiếp giáp với Thái Lan. May mắn làm sao, bà Ieng Thirith
là vợ ông Ieng Sary, người hùng số hai của chế độ mới đã vui lòng chấp nhận lá
đơn của vợ tôi là bà hoàng Monic, để cho hai bà phục vụ của Mẫu hậu được trở về
với chúng tôi.
Việc “phóng thích” hai bà này là
một ân huệ đặc biệt và duy nhất, bởi vì trước đó và sau đó, Khmer Đỏ không để
cho bất cứ một ai thoát khỏi những công xã địa ngục mà không bị trừng trị. Dĩ
nhiên, Angca đã chẳng vui vẻ gì khi quyết định trả lại chúng tôi bà Tan và bà
Khon. Họ phải làm điều đó vì hai lý do: trước hết, Angca chưa muốn cho tôi từ
chức như tôi đã bộc lộ với các ông Khieu Samphan và Ieng Sary nên họ muốn làm
việc này để tôi vui lòng phục vụ Angca. Thứ hai bà Ieng Thirith thời nhỏ cùng
học một trường trung học ở Phnompenh với Monic, vẫn thường gọi Monic là “Monich
bé nhỏ đảng yêu”, có khi còn gọi là “em gái Monic của chị”.
Bà Tan và bà Khon khi được trở về
nhà thường thì thầm kể lại: “Trong công xã mà chúng tôi lao động có gài mật vụ
của Angca theo dõi chặt chẽ tất cả mọi người thế mà vẫn không ngăn được mỗi đêm
có vài “nô lệ” chạy trốn. Người ta còn lôi kéo mua chuộc trong đám nô lệ một số
người trở thành đao phủ của Angca. Một mụ đàn bà không hề giấu giếm mình là một
trong những tên đao phủ đó. Mụ khoe đã giết được vô khối tên phản cách mạng
bằng cách đập gậy vào đầu cho đến chết”.
Nhiều trẻ nhỏ đã bị giết chỉ vì
đi lạc. Trời tối, đáng lẽ phải trở về công xã này thì các em lại đi nhầm sang
công xã khác. Thế là người ta phải thanh toán những tên “gián điệp” đó, mặc dù
kẻ bị tình nghi chỉ là những trẻ nhỏ sáu, bảy tuổi. Những hình phạt đối với trẻ
em phạm mỗi ở mức “trung bình” chưa tới tội tử hình cũng cực kỳ độc ác, tức là
bắt nhịn ăn, bắt phơi nắng hàng giờ không cho uống nước vụt bằng roi, đánh bằng
gậy. Nếu đứa trẻ trót nhặt một trái cây đã thối một nửa, rụng từ trên cây xuống
đất mấy ngày rồi cũng bị ghép vào tội ăn cắp tài sản của tập thể. Ngay cả con
cái của binh lính Khmer Đỏ khi đau ốm cũng không được chăm sóc, thuốc men”.
Tôi rất hoang mang khi nghe những
câu chuyện này, được kể lại bằng giọng nói thì thào trong đêm tối. Tại sao lại
có sự độc ác này, những tội ác này? Những câu hỏi đó cứ rộn lên trong đầu óc
tôi Trong lúc đó, cuộc sống của tôi vẫn cứ được bố trí một cách giả tạo. Với tư
cách là người đứng đầu Nhà nước, tôi vẫn cứ phải tiếp các đại sứ, vẫn phải tổ
chức những bữa tiệc chiêu đãi. Khách mời của tôi xếp theo trình tự như sau: đại
sứ Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam, Anbani, đại biện lâm thời Cuba, các đại sứ
Zambia, Palestin, Thuỵ Điển, Nam Tư, Xênêgan... Tôi mời người này người khác
những món ăn Pháp và được tất cả mọi người nhiệt hệt khen ngon trong đó có cả
các ông Khieu Samphan, Son Sen, Hu Nim, Coi Thuôn và cả hai vợ chồng ông bà
Ieng Sary. Tôi mang từ Bắc Kinh về cả một cửa hiệu thực phẩm trong đó có món
gan hấp béo và vài thứ đặc sản khác của Pháp để dùng trong các bữa tiệc chiêu
đãi. Còn về khoản rượu nho thì toàn là thứ thượng hảo hạng mà bọn Lon Nol đã
nhập từ Pháp và dùng suốt 5 năm tiệc tùng vẫn chưa cạn.
May mắn thay không phải ngày nào
tôi cũng ăn nhậu. Tôi còn phải dành thời gian cho đời sống tinh thần. Mỗi tháng
bốn lần theo “ngày tuần” của đạo Phật tôi tới chùa Bạc tụng kinh niệm Phật,
tuân theo tám điều răn của Phật rồi đi viếng lăng tẩm ông bà, cha mẹ tôi. Trong
Điện Khêmarin, bọn Lon Nol không hề đụng đến tủ sách của tôi trong đó có nhiều
tác phẩm văn học Pháp và cả nhiều tờ báo cũ. Tôi tự khuây khoả bằng cách đọc
lại các bài của Rôbe Cuatin trên tờ Thế giới và Giannơ Đơ Côkê trên tờ Lơ
Figarô viết về pho-mát và những món ăn ngon của Pháp... Tôi mơ nước Pháp để cố
quên lãng Campuchia đang đau khổ của tôi.
Tháng 1-1976, sau khi đã “phê
chuẩn” cái gọi là Hiến pháp mới của Campuchia, từ nay gọi là “Campuchia dân
chủ”, bản Hiến pháp đã giết một cách hợp pháp nền quân chủ của chúng tôi lần
thứ hai trong lịch sử hiện đại (lần thứ nhất là “chế độ cộng hoà” của Lon Nol)
tôi được tiếp xúc với nhân dân lần đầu tiên. Tôi bắt đầu bằng việc tới thăm
Compuông Chàm. Qua những khu đất trước kia là đồng ruộng, tôi không nhìn thấy
bóng một người nào. Đến khi tới một thung lũng trước kia vẫn bỏ hoang, lúc đó
tôi mới nhìn thấy một đám đông, trai có, gái có, từ 15 đến 25 tuổi đang lao
động dưới trời nắng gắt. Nhìn thấy tôi, mọi người rất kinh ngạc. Nhiều người
cũng mạnh dạn cười với tôi, nhưng không ai dám động đậy. Cho tới khi tôi đến
gần, họ mới vỗ tay... theo lệnh của một cán bộ Khmer Đỏ. Tôi hỏi ông Khieu
Samphan, “người bạn đồng hành” quyền cao chức trọng của tôi xem có bắt tay họ
được không. Sau khi được ông Khieu Samphan “bật đèn xanh”, vợ chồng chúng tôi
mới nắm lấy hàng trăm bàn tay đang chìa ra nhưng không được “sờ tay” tất cả vì
người cán bộ Khmer Đỏ đã hô đám nô lệ phải tiếp tục ngay công việc lao động,
không được để mất thời gian.
Chúng tôi tiếp tục cuộc hành
trình tới Compuông Chàm. Cũng như Phnompenh, thành phố này đã bị lùa hết dân.
Bàn ghế giường tủ bị vứt hết ra ngoài, dãi dầu mưa nắng. Có lẽ, chúng bị “trừng
phạt” vì là tài sản của những chủ nhà thuộc tầng lớp tư sản. Đến đây ở là binh
lính Khmer Đỏ và những người phục vụ, lao động khổ sai. Tất cả những thị trấn
từ Phnompenh đến Compuông Chàm cũng đều bị tàn phá triệt để, tan hoang đổ nát
như trong thời kỳ chiến tranh. Tại thành phố Compuông Chàm vợ chồng chúng tôi
được mời nghỉ tại dinh tỉnh trưởng cũ. Chúng tôi xúc động và... buồn rầu khi
nhìn thấy những dinh thự cũ xiêu vẹo, bẩn thỉu, phòng tắm không có nước, ống
dẫn nước han gỉ.
Đến thăm những lò cao (đốt bằng
củi) luyện kim từ những khung xe ô tô, xác xe tăng, máy bay cũ của địch, tôi
ngạc nhiên khi thấy những người lao động không được bảo hiểm một chút nào,
trang bị của họ như thời cổ xưa ở châu Âu. Trong suốt cuộc đi thăm, tôi chỉ
nhìn thấy vẻn vẹn có một đôi mắt kính bảo hiểm chống tia sáng chói.
Tôi nói với Khieu Samphan nên đề
nghị Trung Quốc viện trợ một số thiết bị phòng hộ lao động.
Ông ta đáp: “Không cần! Bởi vì
các đồng chí của chúng ta rất anh hùng, giầu tinh thần tự hào dân tộc biết dựa
vào sức mình chứ không ỷ lại vào viện trợ của nước ngoài”.
Chúng tôi tới thăm Chamcar
Anđung, trước kia là một đồn điền cao su của Pháp, nay đã bị Khmer Đỏ “quốc hữu
hoá”. Đây là một đồn điền tương đối ít bị ảnh hưởng vì chiến tranh. Tuy nhiên,
các công xưởng, nhà kho vẫn lộ vẻ tang thương đổ nát. Hệ thống điện bị hư hỏng
nặng, thợ điện đang sửa chữa. Đây là những công nhân cũ mới thoạt nhìn đã biết
là thạo nghề. Người nào cũng lộ vẻ ngỡ ngàng hoảng hốt. Tất cả đều biết tôi. Họ
lén nhìn tôi một cách tuyệt vọng. Tôi mỉm cười với họ, bắt tay để động viên họ
như đã bắt tay các công nhân viên Khmer Đỏ mà phần lớn là thiếu nữ và phụ nữ.
Theo lời những binh lính Khmer Đỏ có nhiệm vụ canh gác Hoàng cung tin cẩn bộc
lộ với các bà trong “triều đình” nhỏ bé của tôi ở Điện Khêmarin thì Angca
thường cho gọi công nhân và nhân viên kỹ thuật lành nghề của “xã hội cũ” đến
sửa chữa “một cái gì đó phức tạp”, hoặc đến truyền nghề cho “lớp người trẻ tuổi
thuộc thế hệ cách mạng”, sau đó thủ tiêu buôn những công nhân bậc thầy này. Hẳn
vì lẽ đó nên tôi đã gặp vẻ khiếp sợ của những người thợ già ở đồn điền cao su
Chamcar Anđung. Cách nấu cao su ở đây cũng rất thủ công. Tức là nướng “crếp”
như nướng cá. Trước kia crếp cao su sản xuất từ các xí nghiệp thường mềm mại và
rất trắng. Ngược lại cao su sản xuất tại đây dính đầy bụi, đen sạm khói cứng như
da trâu. Nhưng không lo chỗ bán. Trung Quốc sẵn sàng tiêu thụ.
Buổi kết thúc chuyến thăm
Compuông Chàm của tôi đã diễn ra như vậy. Ngoài cuộc gặp gỡ trong thung lũng
Batheay, tôi không nhìn thấy nơi nào có dân nữa, chỉ thỉnh thoảng mới gặp vài
chục thanh niên Khmer Đỏ được tổ chức Angca ở địa phương chỉ định “thay mặt
nhân dân” đứng đón tôi. Họ vỗ tay như một cái máy. Vẻ mặt cũng không hồn như
người máy. Trên đường về Phnompenh, tôi mới lại nhìn thấy một đám đàn ông, đàn
bà, trẻ con, đông như kiến đang lao động trên bờ trái sông Mê công, dưới ánh
nắng mặt trời gay gắt. Chỗ ở của họ là vài mái lán lợp lá thốt nốt, trống trải
cả bốn mặt.
Khieu Samphan cho biết, đây là
những người dân sơ tán từ Phnompenh gồm có nhà buôn và công chức. Từ nội thành
nay “được” ra ngoài lao động. Với vẻ lạc quan hiện rõ trên nét mặt, Khieu
Samphan nói với tôi:
- Họ rất sung sướng vì không bị
giam hãm trong bốn bức tường như trước. Ra ngoài này lao động, họ được thở hít
khí trời trong lành, lánh xa ô nhiễm.
Tôi hỏi Khieu Samphan:
- Thưa ngài, hiện nay vấn đề sức
khỏe của nhân dân là rất quan trọng. Liệu Angca đã nghĩ đến việc thu thập vài
trăm thầy thuốc của chế độ cũ để phục vụ cho Bộ Y tế của chúng ta chưa?
Khieu Samphan đáp ngay không cần
suy nghĩ:
- Bọn thầy thuốc đó chẳng giỏi
giang gì mà cũng chẳng phải là không thể thay thế được. Chúng nó chỉ là những
kẻ thối nát, cực kỳ tha hoá, phản dân, hại nước, chỉ nghĩ đến thu vén đầy túi,
ăn cắp của công và phá hoại sự nghiệp chăm sóc sức khỏe của chúng ta. Hiện nay
đã có đủ thầy thuốc cách mạng. Họ xuất thân từ các tầng lớp bần cố nông thông
cảm với nỗi khổ của nhân dân, và cũng biết cách chữa bệnh cho dân.
Tôi hỏi một câu cuối cùng:
- Thế các thầy thuốc của xã hội
cũ hiện nay ở đâu?
Ngập ngừng một chút, rồi Khieu
Samphan nói:
- Ở trong các công xã lao động.
Xế chiều hôm đó, tôi về đến Điện
Khêmarin.
Chuyến đi làm cho tôi ngao ngán:
nỗi đau của tôi, nỗi buồn của tôi trước nhân dân yêu quý đang bị Khmer Đỏ biến
thành nô lệ thật khó tả xiết.
Tháng 2-1976, Khieu Samphan lại
đưa tôi đi một vòng quanh đất nước, cốt để tôi ca ngợi những “thành tựu” của
chế độ Khmer Đỏ. Đấy là chuyến đi chính thức cuối cùng của tôi trên cương vị
Quốc trưởng trong chế độ Khmer Đỏ. Chúng tôi khởi hành từ Phnompenh bằng xe
lửa. Suốt chặng đường dài hơn ba trăm kilômét, Khieu Samphan quả quyết khẳng
định “nước Campuchia mới không thể áp dụng chế độ ngày nghỉ cuối tuần theo
“kiểu Tây” vì lý do đơn giản là “nhân dân lao động không muốn”. Sau này, mãi
tới năm 1978, tức một năm trước khi chế độ Pol Pot sụp đổ, Angca cực kỳ sáng
suốt mới áp dụng “trên lý thuyết” cho bầy nô lệ được nghỉ một ngày sau mười
ngày làm việc.
Tôi nói “trên lý thuyết” là vì
ngày nghỉ đó còn phải sử dụng vào việc học chính trị phê bình và tự phê bình
trong các tổ các nhóm, hoặc chăm chú nghe lãnh tụ Pol Pot, nhà “thông thái mọi
việc” nói đủ mọi điều vớ vẩn qua đài phát thanh, rồi lại còn phải làm nhiều
việc phụ nữa. Tóm lại, nghĩa là chẳng được nghỉ chút nào trong nhùng ngày gọi
là “ngày nghỉ”.
Trên con tàu đưa chúng tôi đến
Battambang, Khieu Samphan chỉ cho tôi xem những người đang làm việc ngoài đồng
và nói:
- Ngài nhìn xem, những người anh
em của chúng ta vui sướng biết chừng nào? Họ lao động trong niềm vui. Họ tuyệt
đối sung sướng. Đối với họ, ngày lao động nào cũng là những ngày hội. Còn dưới
xã hội cũ mỗi năm chỉ có vài ba ngày hội mà thôi. Hơn nữa, trong xã hội cũ anh
em chúng ta làm ăn cá thể đầu tắt mặt tối, ai lo phận nấy, cuộc sống thật buồn
tẻ. Ngày nay cuộc đời anh em ta cực kỳ vui tươi. Họ được sống tập thể, làm tập
thể, ăn tập thể, không còn tánh bạch riêng rẽ nữa đấy! Họ vừa lao động vừa hát,
chẳng phải là vui như hội đó hay sao.
Tới Battambang, tôi được đưa về
nghỉ tại dinh tỉnh trưởng cũ. Khoảng hai chục nhân viên Khmer Đỏ cả nam lẫn nữ
vỗ tay đúng phép, nghĩa là như một cái máy. Suốt hai ngày chúng tôi ở thăm
Battambang, các cô tiểu thư Khmer Đỏ tận dụng mọi cơ hội ngắm nhìn Monic vợ tôi
bằng một thái độ vừa tò mò, vừa bẽn lẽn. Ngày hôm sau, luôn luôn có Khieu
Samphan đi kèm, chúng tôi đi xe ô tô tới Xixôphôn, một thành phố giáp Thái Lan.
Trong những năm 60 của thế kỷ,
chính phủ Sihanouk rất phiền vì chính phủ Vương quốc Thái Lan không chịu công
nhận ngôi đền và ngọn núi thiêng liêng Preat Vihia là thuộc Campuchia. Thái Lan
muốn thôn tính cả ngôi đền và ngọn núi này mặc dù Toà án Quốc tế La Hay đã phán
xét chúng thuộc về Campuchia. Việc cắt đứt quan hệ ngoại giao giữa Campuchia và
Thái Lan trong những năm 60 không cản trở Xixôphôn phát triển, bởi vì những
hoạt động buôn lậu trong đó có cả sự tham gia mà không bị trừng phạt của các quan
chức, các binh sĩ và cuối cùng là cả công ty đường sắt lẫn những người trong Sở
Thuế quan đã biến Xixôphôn thành một thành phố buôn bán sầm uất.
Ông Khieu Samphan dẫn tôi đi thăm
một hợp tác xã nông nghiệp. Tới đây tôi gặp một vài người còn trung thành với
Sihanouk vỗ tay nồng nhiệt nhưng không dám hoan hô. Chủ tịch hợp tác xã là một
Khmer Đỏ “thuần chủng”, tỏ ra đặc biệt hữu nghị với tôi tới mức, cuối cùng
chúng tôi cùng khoác tay nhau đi dạo quanh như những người bạn. Anh ta nói:
- Thưa Xamđec, chúng tôi được
biết ngài muốn rời bỏ chúng tôi. Thưa ngài, xin ngài hãy ở lại với chúng tôi.
Ngài hãy tin tưởng ở nhân dân. Nhân dân cũng sẽ cảm thấy được cổ vũ bởi sự có
mặt của ngài.
Rất rõ ràng, Angca đang muốn giữ
tôi lại làm Quốc trưởng... bù nhìn, một vai trò bung xung mà người Anh gọi là
Figurehead . Thật là khôi hài khi Angca uỷ nhiệm cho một anh chủ tịch thấp bé
tại một công xã xa xôi, khêu gợi tôi một vấn đề mà tôi đã giữ hết sức bí mật là
tử chức. Tôi trả lời anh chủ tịch đáng yêu này bằng mấy câu chung chung như
sau:
- Tôi rất xúc động về sự tin cậy
của đồng bào thân yêu mà ông là đại biểu. Tôi không có ý định sống lưu vong.
Ngay cả một ngày nào đó nếu có rút lui thì tôi vẫn sống với nhân dân yêu quý
ngoài việc mỗi năm sang thăm Trung Quốc một đợt ngắn.
Khieu Samphan vẫn kèm sát tôi,
nghe rõ chúng tôi nói chuyện và... nở một nụ cười khó hiểu. Sau đó chúng tôỉ
tới Xiêm Riệp là một thành phố cổ vì có di tích, những khu đền Ăngco. Người
nước ngoài biết đến cái tên Ăngco nhiều hơn địa danh Xiêm Riệp.
Xiêm Riệp có nghĩa là đánh bại
quân Xiêm. Từ thế kỷ 14, chúng tôi bị Xiêm La tiến công nhiều lần. Phải thừa
nhận rằng, trong cuộc chiến đấu tay đôi kéo dài này chúng tôi không phải là
những người chiến thắng và chiến tranh chỉ chấm dứt khi Pháp đặt nền bảo hộ lên
Campuchia vào năm 1863. Những tai hoạ của Xiêm Riệp và Ăngco là hình ảnh của số
phận đất nước chúng tôi, chỉ có hai khoảng thời gian hoà bình là giai đoạn từ
năm 1863 đến 1939 và từ năm 1955 đến 1969. Hoà bình và hạnh phúc không tự
nguyện đến với Cambốt hoặc Campuchia.
Danh từ Campuchia bắt nguồn từ
ngôn ngữ Pali của Ấn Độ. Theo truyền thuyết, đất nước chúng tôi vốn là một
vương quốc thành lập bởi một ông hoàng Ấn Độ tên là Kambu (phát âm theo Khơme
là Campu) thuộc dòng dõi Mẫu hậu Nagia (còn gọi là Naga). vì thế trước kia có
tên Kambu Nagia rồi biến thành Campugia: sau đó là Cambodia , Cambôt. Nhưng đứng trước
những tai hoạ dồn dập giáng xuống đầu mình hàng thế kỷ nhân dân tôi đã chuyên
địa danh Campuchia thành Cam và puchia. Theo
tiếng Khơme, Kamm có nghĩa là đau khổ. Puchơ có nghĩa là chủng tộc. Chea nghĩa
là dịu hiền, không độc ác.
Campuchia, theo sự chuyển hoá
trong tiếng gọi của nhân dân chúng tôi, không còn là vương quốc của Cambu và
Nagia nữa, mà đã là chủng tộc (Khmer) dịu hiền gặp nhiều đau khổ. Hỡi ôi, điều
đó trong lúc này đang là sự thật.
Tới Xiêm Riệp, tôi được một
Kammaphibal (cán bộ Khmer Đỏ) vùng Đông Bắc biển Hồ và Kammaphibal tỉnh Xiêm
Riệp đón tiếp. Trong ngôn ngữ của Khmer Đỏ Kammaphibal có nghĩa rất rộng, vừa
là cán bộ, nhà chức trách sĩ quan, tư lệnh, thống đốc, quản trị... Tôi ở lại
Xiêm Riệp vài ngày. Sự thân ái của các Kammaphibal ở đây đối với tôi kéo dài
liên tục không lúc nào chấm dứt.
Trong những bài diễn văn đọc tại
bữa tiệc đón tiếp và tiễn đưa tôi, ông Kammaphibal vùng Đông Bắc Biển Hồ luôn
gọi tôi là Xamđec trăm kính ngàn yêu, ông Kammaphibal tỉnh Xiêm Riệp lại còn
quỳ gối vái tôi trước tượng Phật và đọc kinh niệm Phật trong khu đền Bayon. Tại
sao, từ Battambang trở đi, các Kammaphibal lại có thái độ đáng yêu dai dẳng như
vậy? Tôi cảm thấy, việc này có liên quan đến ý định từ chức Quốc trưởng mà tôi
đã nói riêng với ông Khieu Samphan.
Thú tướng Pen Nouth là người bạn
trung thành cùng đi với tôi, tỏ vẻ lo ngại về dự định từ chức này. Ông nói
riêng với tôi, chớ nên bộc lộ cho Khmer Đỏ biết tôi đang muốn rời bỏ họ. Vốn là
người khôn ngoan- sáng suốt, ông khuyên tôi phải tỏ ra bình tĩnh kiên nhẫn và
nói thêm:
- Hiện nay, chế độ mới đang cần
có sự bảo lãnh của Xamđec. Khi nào họ cảm thấy đã khá mạnh để tự cất cánh tung
bay, lúc đó tất nhiên họ sẽ để cho Xamđec rút lui. Xin Ngài hãy kiên trì chờ
đợi. Mọi việc rồi sẽ ổn. Tôi cam đoan, cuối cùng Ngài sẽ được tự do.
Cuộc đi thăm Xiêm Riệp và khu di
tích Ăngco thật ngao ngán. Trung tâm thành phố trước kia xinh đẹp, duyên dáng,
nay đổ nát tan hoang. Nhà khách vừa mới được quét vôi, nhưng bên trong thật
thảm hại. Sàn nhà mất nhiều gạch lát. Một vài chỗ phải lấy gạch lát từ phòng
tắm để lát phòng khách. Thang máy không chạy. Một gia đình nhện đã vào làm tổ
bên trong. Các gian phòng của nhà khách cũng đều bỏ mặc cho nhện giăng tơ.
Những vườn hoa chung quanh các khách sạn trước kia xinh tươi nay chuyển thành
vườn rau và là nơi chế tạo các loại phân bón “số một”, tức là phân người.
“Đến thăm Ăngco rồi chết cũng hả
dạ”. Đó là câu mà vợ chồng chúng tôi đã nói với nhau hồi 1-3-1973 khi về thăm
vùng giải phóng Campuchia bằng tuyến đường Hồ Chí Minh. Tại điện Bayon là ngôi
đền đẹp nhất và quan trọng nhất sau Ăngco Vát, hai tượng Phật khổng lồ từ thời
kỳ trước triều đại Ăngco đã bị quật ngã lăn chiêng xuống đất, đầu bị đập nát.
Tôi sực nhớ lời lời bà Tan kể lại cho chúng tôi nghe tại Điện Khêmarin vào một
buổi tối, khi bà vừa mới được từ công xã lao động của Khmer Đỏ trở về. Bà nói:
“Trong hợp tác xã nơi chúng tôi
lao động, có một ngôi chùa đã biến thành kho thóc. Các tiểu thư Khmer Đỏ đã
chọn các tượng Phật làm mục tiêu công kích. Trước khi chặt đầu và đập nát
tượng, các cô còn chửi rủa đức Phật Tổ: “Mày là con vật bất lương? Đạo Phật của
mày đã kìm hãm nhân dân ta hàng mấy ngàn năm trong vòng ngu dốt, đói nghèo. May
mà Angca đã được thành lập, đã lật đổ mày để giải phóng cho nhân dân từ nay làm
chủ vận mệnh của mình. Chúng tao, con cháu Angca, chúng tao xéo nát vụn mày
dưới chân như sâu bọ”.
Tôi hỏi ông Kammaphibal tỉnh Xiêm
Riệp đi kèm:
- Tại sao người ta lại quật ngã
hai pho tượng lớn này?
Với vẻ bối rối, ông ta đổ lỗi cho
máy bay Mỹ đã phá huỷ. Thật là lời nói dối trắng trợn, bởi vì nếu Mỹ ném bom
thì tại sao những cây cổ thụ chung quanh tượng Phật vẫn còn nguyên vẹn, thậm
chí thân cây không bị xước vỏ, cành cây không trụi lá?
Cũng ngay tại tỉnh Xiêm Riệp này,
trước kia tôi đã cho dựng một ngôi đền nhỏ theo kiểu Ăngco để bảo quản pho
tượng gỗ tuyệt đẹp từ thời trước Ăngco, có thể là từ thế kỷ 15. Ngày nay, ngôi
đền đa bị san bằng, các tượng Phật đều bị mất. Thay vào chỗ đó là một vườn rau.
Tôi tiếp tục đi thăm một số ngôi
đền nữa. Con đường trải nhựa từ “thời Sihanouk” hãy còn khá tốt, trừ một vài
chỗ bị chiến hào Khmer Đỏ cắt ngang trong thời gian chiến tranh. Ông
Kammaphibal có dừng xe trước những vệt cắt ngang đường cốt để tôi phải nhìn
ngắm kỹ vì đây là những chiến hào của Khmer Đỏ anh hùng đã chiến đấu chống lại
bọn Lon Nol. Để khỏi thoá mạ lịch sử, cần phải thừa nhận trong những năm 1970,
1971, 1972 không phải Khmer Đỏ mà chính các đồng minh Việt Nam đã góp phần
quyết định trong việc bảo vệ khu đền Ăngco. Các sĩ quan và chiến sĩ Việt Nam đã vui lòng
để cho những viên chức trường Viễn Đông của Pháp là những người có nhiệm vụ gìn
giữ và trùng tu khu đền Ăngco chụp ảnh làm kỷ niệm ngay trước khu đền này. Hồi
đó, những bức ảnh này đã được in trên nhiều tờ báo và tạp chí thuộc thế giới tự
do để chứng minh rằng cuộc chiến tranh chống Lon Nol không phải chỉ là “một
cuộc nổi dậy của Khmer Đỏ”. Cuối cùng, Khmer Đỏ đã trục xuất cả bộ đội Việt Nam lẫn các
nhân viên trường Viễn Đông của Pháp, vu cho họ làm “gián điệp”. Chính ông
Kammaphibal đi kèm tôi đã kết lại hiệp đầu kết thúc đầy sóng gió giữa các cán
bộ Khmer Đỏ với nhà bác học Pháp Becna Grôxliê và các nhân viên của ông đã bị
Khmer Đỏ hung hăng trục xuất. Ngoài ra, Khmer Đỏ còn thủ tiêu một số người
Khơme làm việc cho ông Grôxliê, cũng buộc tội họ “làm gián điệp”. Sau khi ông
Grôxliê và các nhân viên người Pháp, người Khơme rời khỏi khu đền Ăngco, tất cả
các công trình xây dựng trong khu di tích này đều bị bỏ rơi không ai chăm sóc,
bảo quản.
Chúng tôi tới thăm một công
trường tưới tiêu ở Phnôm Krôn gần Biển Hồ. Con đường đi qua một vài bản làng
cây cối sum sẽ: có rất nhiều dừa, cau, xoài, chuối, chanh, bưởi, mít... Nhà nào
cũng khang trang, chứng tỏ chủ nhân kiếm được khá nhiều tiền bán trái cây.
Nhưng Khmer Đỏ đã liệt những người này vào loại “kẻ thù của giai cấp vô sản” và
họ đã “biến mất”. Đến chiếm chỗ của họ là binh lính Khmer Đỏ. Đây là những
người trung thành vô hạn với Pol Pot - Ieng Sary, những kẻ đã cho họ hưởng tất
cả của cải trong làng và dĩ nhiên cả quyền định đoạt cái sống, cái chết của dân
làng.
Những “nô lệ” lao động trên công
trường này được điều động từ các nơi xa tới. Phần lớn đều là thanh niên, thiếu
niên, cả nam lẫn nữ. Theo lệnh Angca, họ phải đảm đương những công việc nặng
nhọc nhất “bởi vì họ trẻ và khỏe”, và phải liên tục lao động từ công trường này
đến công trường khác không được nghỉ. Ví dụ: một đội lưu động vừa đào xong một
con sống dài mấy trăm cây số trong khu vực Puaxat - Battambang thì ngay tối hôm
đó Angca ra lệnh phải hành quân cấp tốc tới một công trường mới ở Xiêm Riệp,
bên kia Biển Hồ. Angca không dung thứ cho bất cứ một lời kêu ca phàn nàn nào.
Mọi ý kiến chống đối hoặc đề nghị cho nghỉ giải lao hai mươi bốn giờ để lấy sức
tiếp tục đi bộ đều bị thủ tiêu ngay. Đó là những câu chuyện mà năm 1980, một
người trốn thoát khỏi Campuchia đã viết thư kể lại cho tôi biết.
Những cán bộ Khmer Đỏ ở địa
phương này là “những người cứng rắn nhất, trong số cứng rắn”. Họ không thân mật
với tôi lắm. Những nam nữ thiếu niên trong “đội lưu động” có vẻ ngây ngô đần
độn. Tất cả chỉ nhìn tôi bằng “một góc con mắt” và không dám bộc lộ một chút
tình cảm nào đối với tôi. Chỉ tới khi người cán bộ địa phương của Khmer Đỏ ra
hiệu, lúc đó các cháu mới dám vỗ tay rồi lại tiếp tục làm việc, vừa làm vừa
nhìn trộm tôi.
Chủ tịch nông trường Phnôm Krôn
tiếp đón tôi một cách lạnh nhạt, không buồn trả lời những nhận xét của tôi về
những cái mà tôi hỏi về “thành quả tiến bộ của chính sách tưới tiêu”. Cuối buổi
đi thăm, ông Kammaphibal tỉnh Xiêm Riệp cho kê vài chiếc ghế gần đám người lao
động để chúng tôi ngồi và mang nước dừa có đá mời “các vị thượng khách”.
Tôi chưa ngồi vội mà còn đi bắt
tay các cháu trai, cháu gái đang cuốc đất gần đó. Vẻ xúc động hiện rõ trên mặt
lũ trẻ. Những thanh, thiếu niên khác liếc trộm nhìn chúng tôi. Tôi hoan hô các
cháu, lớn tiếng ca ngợi chủ nghĩa yêu nước có hiệu quả của các cháu. Rồi tôi
chào tạm biệt mọi người.
Một cảm giác ngao ngán tràn ngập
tâm hồn tôi suốt ngày mà cuộc đi thăm trung tâm nuôi cá sấu cũng không làm tiêu
tan được. Trước kia, tôi đã từng đi thăm một khu nuôi cá sấu của người Việt Nam ở Compuông
Chơnăng. Ở đây, Khmer Đỏ nói với tôi thực đơn nuôi cá sáu là chó, mèo, khỉ.
Sau này, khi thoát khỏi địa ngục
của Pol Pot, tôi đọc báo phương Tây mới biết đôi lúc Khmer Đỏ vứt cả trẻ em
“khó bảo” cho cá sấu ăn thịt. Thật là một tội ác không sao tả xiết.
Chúng tôi trở về Phnompenh, luôn
luôn có ông Khieu Samphan đi kèm, bằng con đường Compuông Thom - Xcun - Preat
Kham, rồi dùng phà vượt sông Tônlê Xáp. Từ Compuông Thom tới Phnompenh những
vết thương chiến tranh vẫn còn nguyên trạng. Vào cửa ngõ Phnompenh, chiếc cầu
lớn qua sống Tônlê Xáp mà tôi khánh thành một năm trước khi đảo chính và sau đó
đặc công Việt Nam tới giúp chúng tôi đã đánh sập trong cuộc chiến tranh chống
Lon Nol vẫn chưa được Khmer Đỏ sửa chữa. Sứ quán Pháp vẫn trong tình trạng đổ
nát thảm hại. Trường đại học Y đóng cửa và việc học cũng đã bị xoá bỏ.
Tại chùa Bạc do cụ nội tôi là
Quốc vương Norodom xây dựng, chiếc bình bằng vàng đựng cốt tro sau khi hoả táng
con gái tôi là Cantha Bopha, chết năm 1952 vì bệnh bạch cầu lúc mới bốn tuổi đã
bị lấy mất. Theo lời nhiều người trong gia đình tôi chạy được sang Pháp lánh
nạn thì bọn Lon Nol đã ăn cướp chiếc bình vàng đựng toàn bộ tro than, di cốt
của con gái tôi, nhằm trả thù tôi đã phát động cuộc đấu tranh vũ trang chống
lại chúng. Dù là Khmer Đỏ hay bọn Lon Nol, hành động của bọn chúng đã dìm tôi
trong tuyệt vọng. Nhờ có những viên thuốc ngủ rất quý mà bác sĩ Gioócgiơ Pathê,
người bạn trung thành và người thầy thuốc tận tuỵ đã chăm sóc tôi trao cho tôi
từ bệnh viện Grasse
ở Pháp mà mãi vài giờ sau tôi mới chợp mắt được.
Sau khi nhận rõ Khmer Đỏ đã dìm
nhân dân Campuchia vào tình trạng thảm hại như thế nào, tôi nhất quyết rời bỏ
mọi chức vụ.
Khẩn khoản xin từ chức
Ngay sau hôm trở về Hoàng cung,
tôi viết đơn gửi Angca, “khúm núm” thỉnh cầu xin được nghỉ hưu. Tôi viện ra đủ
mọi lý do. Trước hết, tôi đang suy sụp cả thể xác lẫn tinh thần. Vì thể xác,
tôi đang có nguy cơ bì bệnh đái tháo đường và nhồi máu cơ tim, cần phải đi chữa
trị tại Trung Quốc.
Về mặt tinh thần, nhất là về mặt
tâm trí, tôi thừa nhận khả năng trí tuệ và trí nhớ của tôi đã giảm sút nhiều,
do những đau khổ về tinh thần mà bọn Lon Nol, Sirik Matak đã gây ra cho tôi
bằng đủ mọi cách trong quãng thời gian từ năm 1970 đến năm 1975, và nhất là do
cái chết của bà mẹ rất kính yêu của tôi. Mặt khác, tôi là người thuộc xã hội
cũ, tôi tự nhận có bổn phận không được làm lu mờ ánh sáng của các vị Khmer Đỏ
(trong đơn tôi gọi họ là những nhà đại ái quốc, đại cách mạng) tôi không được
bám mãi vào bộ máy nhà nước của nước Campuchia mới, bộ máy này chỉ có thể thuộc
riêng về Khmer Đỏ, những người đã giải phóng đất nước Campuchia.
Cuối cùng tôi viện nốt lý do, tôi
có một gia đình đông con nhiều cháu mà chưa hề bao giờ có được thời giờ rảnh
rang để chăm sóc chúng. Tôi sẽ tận dụng thời gian nghỉ hưu để được gần các con,
các cháu đang sống rải rác ở nhiều nơi trên trái đất. Tôi cam kết luôn luôn ủng
hộ Khmer Đỏ trong sự nghiệp khôi phục và bảo vệ Tổ quốc.
Vợ tôi đề nghị, chớ vội gửi ngay
lá đơn từ chức này lên Angca ghê gớm. Ông Pen Nouth, hôm đó cùng đến dùng cơm
với gia đình chúng tôi trong Điện Khêmarin cũng đồng ý như vậy. Tôi nhắc lại
với Xamđec Pen Nouth vài sự việc mà ông cũng đã biết rất rõ, để ông hiểu rằng
tôi không thể nào cộng tác được với Khmer Đỏ trên cương vị một Quốc trưởng
không có quyền hành. Vả lại, chung lưng gánh chịu toàn bộ trách nhiệm về những
đau khổ khủng khiếp hiện nay của nhân dân Campuchia. Hơn nữa, cũng cần hiểu rằng
giữa Sihanouk và Khmer Đỏ không bao giờ có những tình cảm mặn nồng tự nhiên.
Nếu giữa Khmer Đỏ và tôi có những mối quan hệ kỳ lạ thì có thể coi đó là “sự
đối lập thân thiết” đáng ghét. Tôi quá yêu đất nước Campuchia nên đã chấp nhận
phục vụ hoặc ủng hộ một chế độ mà còn xa tôi mới cùng chung tư tưởng, còn xa
tôi mới tán thành chính sách đối nội và đường lối đối ngoại của họ.
Khmer Đỏ nghĩ rằng họ ưu tú và đã
vượt xa Sihanouk. Bản thân tôi, cho mãi tới ngày 17-4-1975, cũng đinh ninh rằng
Khmer Đỏ vượt tôi hàng trăm sải tay trong nhiều lĩnh vực. Tôi đã nghĩ một cách
khiêm tốn (và ngây thơ) rằng Khmer Đỏ là những đại trí thức, còn tôi chỉ có
bằng tiểu học, chưa học hết cấp trung học. Khmer Đỏ trong sáng, không bị tha
hoá, còn tôi lại đã đứng đầu một chế độ mà nhiều nhà báo và cả những người đã
cộng tác với Pháp coi là “thoái hoá”, bản thân tôi bị họ coi là kẻ “bóc lột” và
“bóc lột đến tận cái khổ của người dân” (Họ nói đúng như vậy đó). Khmer Đỏ là
những người dân chủ mẫu mực còn tôi chỉ là một tên “độc tài xấu xa”, một tên
“bạo chúa của một chế độ phong kiến lạc hậu nhất thế giới”. Khmer Đỏ rất “kính
yêu cuộc sống của nhân dân”, còn tôi là một “tên vua khát máu”...
Vả lại từ trước khi kết thúc cuộc
chiến tranh 1970-1975 tôi đã nói rõ với các ông Chu Ân Lai, Phạm Văn Đồng
v.v... rằng, sau ngày chiến thắng tôi sẽ để cho Khmer Đỏ độc quyền cai trị,
không có Sihanouk. Tôi đã nhấn mạnh “quyết định của tôi là không thể đảo
ngược”.
Trong lúc tôi đang đắn đo suy
tính thì toàn thế giới đều đã thừa nhận một cách kinh khủng thực tế Khmer Đỏ.
Đúng, thủ lĩnh Khmer Đỏ đều là những nhà đại trí thức, họ không ngu dốt như
Sihanouk, nhưng họ đã ráo riết tiêu diệt các nhà trí thức khác, quét sạch cấp
trung học và đại học vốn là tác phẩm của anh chàng tiểu học Sihanouk.
Phải chăng Khmer Đỏ là những
người trong sạch, những người dân chủ mẫu mực? Nhưng một nhóm Khmer Đỏ lại
giành cho mình các đặc quyền về Nhà nước, chính phủ hành pháp, ngoại giao, vật
chất, những toà lâu đài, những cỗ xe đẹp, những chuyến công du, những khách sạn
xa xỉ ở nước ngoài, những chai rượu sâm-banh quý giá. Những lọ nước hoa nổi
tiếng của Pháp. Họ không phải là những kẻ giết hại nhân dân như Sihanouk ư?
Nhưng tại sao Khieu Samphan, Hu
Nim, Hou Youn mà người ta đồn là đã bị Sihanouk loại trừ, đến năm 1970 lại thấy
còn sống? Rồi thì, biết bao nhiêu người trong số “chống Sihanouk” lại bị chính
các đồng chí Khmer Đỏ của họ thủ tiêu, lệnh ám sát do chính tay Pol Pot, Ieng
Sary ký? Và đây là một vài chuyện có thật mà hôm đó tôi đã khơi lại trí nhớ của
Thủ tướng Pen Nouth, bạn tôi:
Qua Đài Phát thanh “Campuchia dân
chủ” của Pol Pot chúng tôi được biết đại sứ mới của Campuchia vừa tới Viêng
Chăn trình quốc thư lên Chủ tịch Souphanouvong . Lúc này Norodom Sihanouk vẫn
còn là người đứng đầu Nhà nước Campuchia dân chủ. Thế mà Sihanouk chẳng ký,
cũng chẳng nhìn thấy một mẩu quốc thư nào đã chuyển cho một đại sứ Campuchia
nào ở nước ngoài. Và cái ông đại sứ Campuchia này trước khi đi Viêng Chăn trình
quốc thư do ai ký tôi cũng chẳng được biết. Ông ta cũng chẳng đến trình diện với
Sihanouk lúc đó hãy còn là Quốc trưởng. Sihanouk cũng không bao giờ được biết
vị đại sứ “của mình” được cử đến đại diện cho Campuchia bên cạnh bạn đồng
nghiệp của Sihanouk là Hoàng thân Souphanouvong, người đứng đầu Nhà nước (cộng
sản) Lào, là ai cả.
Tôi hỏi ông Pen Nouth đang giữ
chức Thủ tướng Campuchia dân chủ, xem ông có dự phiên họp của Hội đồng Bộ
trưởng cử đại sứ mới của Campuchia ở Lào không? Ông Pen Nouth có vẻ xấu hổ, thú
thật với tôi là ban lãnh đạo Khmer Đỏ đã tự quyết định việc lựa chọn và bổ
nhiệm đại sứ, mà không hề báo cho Pen Nouth biết. Ông nói thêm, bản thân ông
cũng chỉ biết chuyện này qua Đài Phát thanh Campuchia dân chủ, và ông cũng
không hề quen biết người vừa được bổ nhiệm làm đại sứ ở Lào.
Không ai nghĩ đến việc giới thiệu
vị đại sứ đó với Pen Nouth, dù ông là người đứng đầu chính phủ. Vậy thì ai ký
thư uỷ nhiệm? Ông Khieu Samphan chăng? Nhưng lúc này ông Khieu Samphan chưa
phải là Quốc trưởng, ông ta hãy còn là Phó Thủ tướng. Thế thì Pol Pot chăng?
Nhưng Pol Pot lúc này cũng chưa xuất
đầu lộ diện, hãy còn hoạt động bí mật, cả cái đảng của ông ta lúc này cũng chưa
nêu tên hãy còn núp dưới chiếc mặt nạ “Angca” vô danh. Hay là Nuon Chia ? Nhưng
cái nghị viện của Khmer Đỏ (mà sau đó Nuon Chia làm chủ tịch) lúc này cũng chưa
ra đời. Hay là Ieng Sary? Vâng, đúng đấy! Với tư cách là Bộ trưởng Ngoại giao,
Ieng Sary thường ký tiếp theo chữ ký của Quốc trưởng, và không có chữ ký của
Quốc trưởng thì tại sao lại gọi là quốc thư được? Norodom Sihanouk là Quốc
trưởng duy nhất trên thế giới và duy nhất trong lịch sử bị tước quyền ký vào
Thư uỷ nhiệm cho các đại sứ đại diện cho chính mình, thậm chí còn không được
biết cả họ tên lẫn mặt mũi người gọi là đại sứ của mình.
Và cũng có nghĩa là, ngay cả đến
ông Pen Nouth cũng bị tách khỏi Hội đồng Bộ trưởng, như anh họ tôi là Norodom
Phurissara, người được coi là Bộ trưởng Tư pháp.
Lại một chuyện nữa về đại sứ: các
đại sứ Lào và Irắc tới Phnompenh. Tôi vẫn còn là người đứng đầu thực thụ của
Nhà nước Campuchia dân chủ, nhưng Ieng Sary đã không để tôi được nhận Thư uỷ
nhiệm của họ, cũng như không để cho họ yết kiến tôi. Ieng Sary đã tước bỏ quyền
này của tôi, đã làm nhục tôi trước mọi người và đã đi tới chỗ vi phạm cả luật
lệ sơ đẳng về nghi thức ngoại giao quốc tế
Rất rõ ràng, Khmer Đỏ cũng muốn
rũ bỏ tôi, nhưng tạm thời họ vẫn phải tôn trọng ý muốn của Chủ tịch Mao Trạch
Đông và của Thủ tướng Chu Ân Lai giữ tôi lại làm người đứng đầu Nhà nước mới
của Campuchia dân chủ, nhằm mục đích duy nhất để có một chút uy tín trên trường
quốc tế và để trấn an phần nào các nước “bạn” của Campuchia và các nước khác
trên thế giới. Sự khinh miệt và mối hằn thù sâu sắc mà Khmer Đỏ dành cho tôi
không phải mới xảy ra tử hôm qua và cũng không hề giảm bớt khi họ quyết định,
kể từ sau cuộc đảo chính của Lon Nol, hợp tác với Norodom Sihanouk trong khuôn
khổ Mặt trận đoàn kết dân tộc và Chính phủ Vương quốc đoàn kết dân tộc
Campuchia. Ngay khi tôi tới Bắc Kinh năm 1971, Ieng Sary đã nói với tôi là
nhiều đồng chí của ông ta tại bưng biền kịch liệt chống lại chủ trương hợp tác
với Sihanouk.
Trong khoảng thời gian từ tháng
3-1970 đến tháng 4-1975, các cán bộ Khmer Đỏ ở Trung Quốc đã đẩy tôi vào một
cuộc sống cực khổ về tinh thần và tâm lý, chẳng khác gì sống trong địa ngục.
Nhiều lúc quá uất ức và tuyệt vọng, tôi đã tìm cách thoát khỏi bọn hành hạ tôi
bằng việc vứt bỏ tất cả để sang sống lưu vong ở Pháp. Nhưng một số người bạn
lại khuyên tôi cố chịu đựng để tiến hành đến cùng cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc Tôi đành nghe theo và tự nhủ thầm: “Thôi được, những sự lăng nhục mà bọn
Khmer Đỏ bắt ta phải chịu đựng là nặng nề thật, nhưng nếu so sánh với những lời
chửi rủa, vu khống, miệt thị, hằn thù, công kích của bọn Lon Nol, Sirik Matak
thì dù sao những sự nhục mạ của Khmer Đỏ cũng chỉ là những chuyện vặt, Khmer Đỏ
muốn trả thù những hành động của ta đối với họ trong những năm 60. Họ có lý do
để trừng phạt lại ta về mặt tinh thần. Dù sao Khmer Đỏ cũng khác với bọn Lon
Nol, Sirik Matak. Khmer Đỏ là những người “sạch sẽ”, những người yêu nước thuần
tuý, và do đó là những người rất đáng kính trọng”. Tôi thật ngây thơ quá đi
mất?
Trước khi tới Bắc Kinh, Ieng Sary
lệnh cho Thiun Mum, một người đã tốt nghiệp Đại học Bách khoa ở Pháp, phải rời
khỏi Paris, rời vợ là người Pháp và các con để giám sát tôi, kiểm tra các hành
động cử chỉ của tôi. Một lần, trong khi ở thăm Việt Nam , tôi cần phải soạn thảo một bài
diễn văn và trả lời những câu phỏng vấn của một nhà báo châu Âu tại Hà Nội,
Thiun đòi xem các văn bản này. Tôi đưa cho Thiun đọc. Một lát sau, ông ta xộc
vào phòng tôi. Lúc đó tôi đang choàng khăn tắm, nhưng Thiun Mum không để tôi
tắm xong mà chỉ trích luôn một vài đoạn trong các bản thảo của tôi.
Tôi đành phải sửa theo ý Thiun
Mum. Lúc đó ông ta mới chịu rời khỏi phòng, có vẻ phần nào đắc ý.
Đợi cho ông Mum đi khỏi, lúc đó
tôi mới cho mời Xamđéc Pen Nouth tới buồng làm việc của tôi và nói:
- Ngài là Chủ tịch Bộ Chính trị
Mặt trận đoàn kết dân tộc, còn Thiun Mum chỉ là một trong số các thành viên. Từ
nay trở đi tôi chỉ chấp nhận một mình ngài là người kiểm soát thường xuyên các
bản viết của tôi. Thiun Mum và những người khác không có quyền đặt ách bảo hộ
lên Sihanouk là Quốc trưởng Campuchia và Chủ tịch Mặt trận đoàn kết dân tộc
Campuchia.
Thiun Mum phải chịu khuất phục,
nhưng các đồng chí của Mum lại chỉ trích tôi, kết án tôi không chịu “sửa chữa
khuyết điểm” mà vẫn chơi trò “độc tài, quân chủ chuyên chế”. Trong các cuộc
họp, Ieng Sary không quên bôi nhọ “xã hội cũ” và chế độ quân chủ ngày trước.
Ông ta cho in những bài trả lời phỏng vấn đó dưới hình thức những cuốn sách nhỏ
rồi chỉ thị cho tất cả các đại sứ và đại diện của “chính phủ Vương quốc” và Mặt
trận “đoàn kết dân tộc” phải phân phát cho mọi người, càng rộng rãi càng tốt:
Tại Australia, ông Côlin Prát là một người bạn lâu năm của Campuchia đã phản
đối những lời Ieng Sary vu cáo lăng mạ tôi. Ông hỏi tôi, tại sao lại cho phân
phát trên thế giới những tài liệu tuyên truyền chống Sihanouk?
Các thành viên thân Ieng Sary
trong Mặt trận đoàn kết dân tộc còn chỉ trích tôi “mê các món của Pháp”, chi
những số tiền lớn để mua món gan ngỗng và những thức ăn khác từ Pháp gửi tới.
Họ nói: “Mỗi đồng đô la kiếm được là nhờ máu của nhân dân đổ ra, không được
lãng phí. Tôi trả lời, đây là nhân dân Trung Quốc nuôi tôi chứ không phải là
máu của nhân dân Campuchia. Hơn nữa, tôi tiêu tiền bằng chính số tiền của tôi mang
đi từ trước cuộc đảo chính để mua sắm vật dụng cá nhân. Còn những chi tiêu cho
việc chiêu đãi ngoại giao là do Trung Quốc viện trợ tài chính, không có máu
nhân dân ở trong này. Vả lại, chính ông Ieng Sary mỗi tuần cũng đãi khách bằng
đủ loại tiệc tùng, ăn sáng, ăn tối gấp mười lần tôi chiêu đãi các nhà ngoại
giao và các nhân vật bạn hữu của Mặt trận và Chính phủ.
Trong chiến tranh, nhiều hiệp
định viện trợ về tài chính, quân sự v.v... đã được ký giữa Trung Quốc với Mặt
trận và Chính phủ Vương quốc đoàn kết dân tộc Campuchia. Những hiệp định quan
trọng nhất đều được ký bởi các Bộ trưởng Trung Quốc và Campuchia trước sự hiện
diện của Thủ tướng Chu Ân Lai, Thủ tướng Pen Nouth và cả tôi, Sihanouk, nhưng
Sihanouk không được biết gì về nội dung những bản hiệp định này. Khmer Đỏ không
bao giờ cho phép ông bạn già Pen Nouth của tôi tiết lộ với tôi bất kể chuyện
“quốc gia đại sự” nào.
Trước mặt ông Chu Ân Lai là người
tất nhiên được thông báo tất cả mọi việc và là người đã quen biết tôi ở Băng
đung năm 1955 và ở Phnompenh trong các năm 1955, 1958, lúc tôi còn rực rỡ hào
quang về cả uy tín lẫn uy lực, tôi cảm thấy xấu hổ vô bờ bến vì đã nhiều lần
đành phải “cạn chén đắng cay”. Nhưng đến lần này thì tôi nhất định không chịu
đựng mãi như vậy nữa.
Thấy tôi vẫn muốn đưa ngay đơn
xin từ chức, vợ tôi tìm cách làm dịu bớt sự nôn nóng của tôi:
- Tháng 3 và tháng 4 đều là những
tháng không hay gặp may. Từ những năm bốn mươi đến nay, tháng 3, tháng 4 nào
ông cũng có chuyện buồn. Vậy thì hãy kiên nhẫn một chút, đợi những tháng xấu
trôi qua rồi hãy có những quyết định quan trọng. Những tháng sau đều là những
tháng tốt lành đấy.
Tôi nhớ lại. Đúng là:
- Ngày 9-3-1945, sau khi thủ
tiêu nền bảo hộ của Pháp ở Campuchia, người Nhật Bản đã mưu toan phế truất tôi
và định thay bằng một ông hoàng... thân Nhật Bản, nhưng may mắn tôi chỉ bị kìm
hãm và hạn chế quyền lực vì Nhật Bản đã chọn được một Thủ tướng bù nhìn tay
sai.
Tháng 4-1955, tôi đã tự
thoái vị, rời bỏ ngai vàng.
- Tháng 3-1970, cánh tay
phải của tôi là tướng Lon Nol đã làm đảo chính, truất phế tôi.
- Tháng 4-1975, mẹ tôi là
Mẫu hậu Sisowath Kôssamắc đã qua đời.
Mặc dù vậy, tôi vẫn cứ trả
lời vợ:
- Cần phải chọn tháng xấu để
cầu may. Bởi vì đưa đơn từ chức trong cái tháng xấu này thì nhất định Angca sẽ
chấp thuận, và sẽ “truất phế” tôi như Lon Nol đã từng làm vào năm 1970.
Trước lý lẽ đó, vợ tôi đành
chịu thua nhưng rất buồn.
Tôi lập tức đưa đơn từ chức
cho một cán bộ của Khmer Đỏ được cử tới quản lý Hoàng cung và giám sát “bộ tộc
Sihanouk”, nhờ kính chuyển lên Angca. Sau vài ngày im lặng, Angca cử một phái
đoàn đến gặp tôi tại Điện Khêmari, gồm hai trong số các nhân vật trọng yếu nhất
của Khmer Đỏ là Khieu Samphan và Son Sen, cả hai lúc đó đều là Phó Thủ tướng.
Son Sen cố làm ra vẻ tươi cười đon đả nói trước:
- Sắp có tổng tuyển cử. Angca
của chúng ta đã quyết định sau cuộc bầu sẽ cử ngài làm Chủ tịch Đoàn chủ tịch
Nhà nước Campuchia dân chủ. Chúng tôi đã hứa giữ ngài làm người đứng đầu Nhà
nước mãi mãi, chúng tôi sẽ giữ lời hứa. Nếu ngài lo ngại bị giết hại, thì ngày
hôm nay Angca uỷ nhiệm tôi mang đến ngài sự bảo đảm chính thức và long trọng
rằng cuộc sống của ngài sẽ được bảo vệ. Tôi chịu trách nhiệm về quốc phòng. Tôi
đề nghị ngài hãy tin tưởng rằng quân đội cách mạng của chúng ta sẽ bảo đảm an
ninh tuyệt đối và thường xuyên cho ngài.
Tôi cám ơn Angca, cám ơn
nhân dân, cám ơn ngài Son Sen, nhưng vẫn khẩn khoản xin được giải phóng khỏi
chức vụ “vì lý do sức khỏe”. Khieu Samphan và Son Sen lộ rõ vẻ thất vọng,
khuyên tôi nên tiếp tục suy nghĩ rồi chào từ biệt, ra về. Vợ tôi càng lo lắng.
Sau cuộc tổng tuyển cử, một
phái đoàn rất quan trọng do Pol Pot cử đi lại tới Điện Khêmarin. Phái đoàn này
gồm có: Thủ tướng Pen Nouth; Phó Thủ tướng thứ nhất Khieu Samphan;
Phó Thủ tướng thứ hai Ieng
Sary; ông Son Sen, người đứng đầu quân đội; bà Ieng Sary (tức Khieu Thirith) và
cuối cùng là Hoàng thân Norodom Phurissara, anh họ tôi. Khieu Samphan mời ông
bạn già Pen Nouth của tôi, thay mặt toàn thể phái đoàn, phát biểu.
Ông Pen Nouth lộ rõ vẻ xúc
động van nài tôi chớ từ bỏ nhiệm vụ Quốc trưởng Campuchia dân chủ.
Trong lúc ông bạn già của
tôi lải nhải về những thành tích kỳ diệu của Khmer Đỏ thì tôi lại càng không
thể không nghĩ đến sự giảm sút uy tín ngày càng tăng trên trường quốc tế của
cái chế độ cực kỳ quái gở này và nhất là những tai hoạ khủng kiếp mà nhân dân
tôi đang gánh chịu. (Sau này tôi được Xamđec Pen Nouth bộc lộ, chính là sợ bị
Khmer Đỏ trừng phạt và nhất là do bà vợ trẻ của ông nài ép nên ông đã phải nói
như vậy).
Sau khi Pen Nouth nói xong,
Khieu Samphan lại mời ông anh họ mà tôi yêu quý nhất là Hoàng thân Norodom
Phurissara phát biểu. Phurissara lộ rõ vẻ tuyệt vọng trên nét mặt tái xanh tái
xám.
Ông biết tôi không chịu
khuất phục. Là người đã từng sống 6 năm với Khmer Đỏ, ông hiểu rõ số phận những
kẻ cứng đầu sẽ như thế nào. Ông lo cho tính mạng của tôi. Cổ họng ông như nghẹn
lại. Ông ấp úng, vụng về nói được mấy câu: “Angca rất tín nhiệm ngài... Nhân
dân mến yêu ngài.., chúng tôi thiết tha yêu cầu ngài ở lại với chúng tôi...
Ngài đừng bỏ chúng tôi ra đi...”.
Tôi cám ơn ông anh họ và
khẳng định tôi không có ý định sống ở nước ngoài. Tôi chỉ xin Angca hai điều
“chiếu cố”. Thứ nhất, cho tôi được nghỉ hưu và sống yên ổn ở Campuchia, xa lánh
các hoạt động chính trị gần gũi các con, các cháu... Thứ hai mỗi năm cho tôi
được một lần đi Trung Quốc chữa bệnh và một lần đi Triều Tiên chào ông bạn thân
là Chủ tịch Kim Nhạt Thành. (Ngày 8-1-1976, Thủ tướng Chu Ân Lai qua đời, mặc
dù tôi cầu khẩn Angca vẫn không cho phép tôi đi Bắc Kinh dự lễ tang).
Ieng Sary, nhân vật đầy uy
lực, gạt phắt:
- Đây là ý kiến Angca:
Xamđec, ngài phải ở lại đứng đầu Nhà nước chúng ta. Tôi biết ngài thích đi công
du nước ngoài. Vậy thì, đợi đến tháng 8 có hội nghị cấp cao các nước không liên
kết tại Xri Lanca, ngài sẽ có vinh dự thay mặt chúng tôi đi họp.
Tôi tỏ vẻ thách thức, hỏi
lại Ieng Sary:
- Thế nhỡ ra khi đến Côlômbô
tôi lợi dụng thời cơ để tự giải thoát thì ngài tính thế nào? Không! Tôi muốn xử
sự một cách trung thực đối với Angca. Tôi không thích đi dự hội nghị Côlômbô để
vênh vang bên cạnh ông Fidel Castro và các vị lãnh đạo khác. Tôi chỉ khao khát
được yên tĩnh. Tôi xin các ngài giải phóng cho tôi, ngay tại đây, khỏi chức vụ.
Khieu Samphan và Ieng Sary
hội ý với nhau một lát, rồi Khieu Samphan thay mặt đoàn phái đoàn tuyên bố sẽ
nghiên cứu lời thỉnh cầu của tôi.
Ông anh họ Phurissara của
tôi lộ rõ vẻ tuyệt vọng.
Ông biết, những câu dại dột
tôi vừa nói sẽ buộc tôi phải trả giá đắt. Vợ tôi mất ngủ. Liên tiếp nhiều ngày
không một nhân vật Khmer Đỏ nào đến thăm tôi nữa. Các lính gác ngày càng xa
lánh tôi một cách lộ liễu. Cổng Hoàng cung khoá chặt. Một bầu không khí mới
đáng lo ngại, vây quanh chúng tôi, bao trùm chúng tôi.
Rồi, đùng một cái, trước
ngày Quốc khánh 17-4 một hôm, tôi chợt nghe qua đài phát thanh bài diễn văn của
Khieu Samphan, gọi tôi là “Nhà yêu nước vĩ đại” và báo tin Quốc hội Campuchia
(vừa mới bầu xong) ra quyết định.
Điều 1 : Chấp thuận nguyện
vọng nghỉ hưu của Norodom Sihanouk.
Điều 2: Dựng một pho tượng
Sihanouk.
Điều 3: Cấp cho Sihanouk một
khoản lương hưu 8000 đô-la Mỹ một năm.
Cái tin khá giật gân này đã
được các hệ thống truyền thanh trên thế giới như Đài Tiếng nói Hoa Kỳ, Đài
BBC... loan đi rất nhanh. Riêng Đài Bắc Kinh vài ngày sau mới phát. Ngay trong
ngày hôm sau, 17-4-1976, tôi được Khieu Samphan tới thăm, ông ta rất tươi cười,
vẻ vui mừng bộc lộ rõ trên nét mặt vì vừa được Quốc hội (thật ra thì chỉ có bộ
ba Pol Pot, Nuon Chia, Ieng Sary) cử làm Chủ tịch Đoàn chủ tịch Hội đồng Nhà
nước. Khieu Samphan, cựu Bộ trưởng của Sihanouk thời kỳ 1950 - 1960, đón nhận
một cách hoan hỉ xen lẫn vênh vang, những lời chúc mừng của tôi và vợ tôi.
Khieu Samphan nói:
- Tâu Bệ hạ, (ông ta vẫn
thưa với tôi như vậy), nhân dân, Quốc hội và Angca rất muốn giữ Bệ hạ ở lại
cương vị đứng đầu Nhà nước của chúng ta. Nhưng chúng tôi đã ý thức được rằng
ngài không muốn tiếp tục công việc chính trị và quốc gia nữa. Chúng tôi nghĩ sẽ
không hợp lý nếu cứ nài ép. Chúng tôi cũng cho rằng ngài là một nhà yêu nước vĩ
đại đã có cống hiến quan trọng, công ơn của ngài cần được đền đáp. Vì vậy, Quốc
hội đã quyết định dành cho ngài những vinh dự mà ngài đã biết...
Tôi vội ngắt lời:
- Thưa ngài! Các ngài đã
chính thức thừa nhận Norodom Sihanouk là “Người yêu nước” đã đủ để tôi mãn
nguyện rồi. Tôi không dám yêu cầu thêm một khoản tiền nào, một tượng đài nào.
Về khoản tiền thì ở trong nước chẳng ai cần đến cả (tôi muốn ám chỉ việc Khmer
Đỏ huỷ bỏ cả tiền lẫn cửa hàng, cửa hiệu và chợ mua bán). Khi nào các ngài cho
phép tôi đi Bắc Kinh hoặc Bình Nhưỡng thì lúc đó chỉ xin các ngài báo cho các
ông bạn Trung Quốc và Triều Tiên của tôi, cho tôi được đi nhờ máy bay, ô tô và
cho tôi được ăn ở không phải trả tiền. Riêng pho tượng của tôi, tôi van nài các
ngài đừng dựng nó lên. Như các ngài đã biết đấy, bọn Lon Nol đã phá huỷ tất cả
những tượng, những đài trước kia dựng lên tưởng nhớ công đức của tôi rồi. Thưa
quý ngài, xin ngài làm ơn chuyển giùm những lời cảm tạ rất chân thành, rất xúc
động của tôi tới Angca, tới chính phủ, tới Quốc hội...
Khieu Samphan cười rất to
rồi chuyển sang vấn đề khác:.
- Á xin báo với ngài một tin
vui. Sáng sớm mai, các vị Hoàng tử Sihamoni và Narinđrapông sẽ về nước và ở lại
đây vài tuần cùng với các ngài. Chính phủ chúng ta đã cho mời các hoàng tử về
để cùng dự lễ Quốc khánh 17-4, ngày kỷ niệm chiến thắng vẻ vang của chúng ta.
Khi nghe tin đó, vợ tôi bàng
hoàng nhiều hơn là vui mừng. Monic nói với Khieu Samphan:
- Nhưng, thưa ngài, các con
tôi đang bận học mà? Đứa lớn đang ở Bình Nhưỡng. Đứa bé đang ở Matxcơva. Không
nên để chúng gián đoạn việc học. Đi máy bay về sẽ rất tốn cho ngân sách của
Campuchia dân chủ.
Khieu Samphan nói:
- Angca muốn gia đình ta
thêm vui vẻ.
Khi Sihamoni đã về tới nhà,
cháu mới cho tôi biết, nó nhận được bức điện ký tên Sihanouk gọi về dự lễ Quốc
Khánh. Bức điện này được gửi đi từ Bắc Kinh vì tại Phnompenh Khmer Đỏ đã triệt
bỏ toàn bộ hệ thống bưu điện. Sihamoni còn cho biết đại biện lâm thời của
Campuchia dân chủ đã kèm sát cháu từ Bình Nhưỡng đến Bắc Kinh. Đến đây Sihamoni
đã gặp em trai là Narinđrapông vừa từ Matxcơva tới và em họ là Sisowath
Chittara đang học ở Trung Quốc. Tất cả ba đứa được cán bộ ngoại giao của Khmer
Đỏ đưa lên máy bay về Phnompenh. Suốt cuộc hành trình, cả ba đứa trẻ đều không
biết gì về việc tôi đã từ chức. Rõ ràng Khmer Đỏ đưa chúng về không phải để dự
lễ Quốc khánh mà cốt để chúng không còn cách nào tự giải thoát sau khi biết tin
tôi không cộng tác với Khmer Đỏ nữa.
Cảm thấy mình đã rơi vào cạm
bẫy, Sihamoni oà khóc rồi quỳ mọp dưới chân tôi:
- Thưa cha, xin cha cố tìm
cách trốn khỏi Campuchia. Con nguyện sẵn sàng hy sinh, miễn là cha giành được
tự do, bình yên mạnh khỏe. Thưa cha, xin cha hãy kính báo với Angca giữ con lại
làm con tin để cha đi ra nước ngoài.
Tôi hôn con trai tôi và trả
lời:
- Con ơi! Nếu Angca đã gửi
cho con và em con bức điện ký tên Sihanouk giả mạo, tức là họ đã nhận thức
rằng, nếu để cho gia đình ta được tự do thì “rất nguy hiểm”. Có nghĩa là Angca
đã quyết định không cho gia đình ta thoát khỏi tay họ. Bắt đầu từ ngày hôm nay,
tất cả chúng ta, nam cũng như nữ, đều là những người tù của Khmer Đỏ.
Tuy nhiên, đứa con nhỏ của
tôi là Narinđrapông lại nhìn anh nó là Sihamoni bằng cặp mắt khinh bỉ và nói
to:
- Tất cả những gì mà Angca
kính yêu đã làm, đang làm và sẽ làm đều là việc tốt. Riêng cá nhân em, em chỉ
biết có cảm tạ và hoan nghênh Angca. Em đã tự quyết định bỏ học về phục vụ
Angca. Em chẳng cần phải chờ có người thúc ép mới quay về nước và có mặt ở đây
trong ngày hôm nay.
Cho tới năm 1973, tức là khi
Khmer Đỏ chưa có vẻ gì là sẽ chiến thắng, Narinđrapông vẫn thường nói và viết,
nó là “tín đồ của Sihanouk”, chống Khmer Đỏ đến cùng. Nhưng khi gió đổi chiều,
thổi về phía Pol Pot thì thằng con này của tôi cũng thay đổi mầu áo, trở thành
thân Khmer Đỏ một trăm phần trăm, đồng thời cũng trở thành kẻ tử thù chống đối
tới cùng cả bố đẻ ra nó lẫn chế độ quân chủ. Từ ngày 17-4-1975, sau khi Khmer
Đỏ chiến thắng, Narinđrapông đã tự lộ mặt như vậy suốt thời kỳ đau đớn và tủi
nhục của chúng tôi trong Hoàng cung. Đầu năm 1979, sau khi chúng tôi đã được
giải thoát, Narinđrapông sang Pháp định cư vẫn còn tiếp tục chống Sihanouk và
ủng hộ sự nghiệp đã tuyệt vọng của Pol Pot. Sự trở mặt của đứa con mà chính tôi
đã sinh ra nó, chống lại tôi và đứng về phía Khmer Đỏ, kẻ tử thù của Sihanouk
và chế độ quân chủ, đã làm tôi đau đớn kinh khủng. Nỗi đau này không bao giờ
nguôi.
Sihamoni và Narinđrapông
được gọi về nước nhưng đâu có phải để dự lễ Quốc khánh. Suốt ngày hôm đó, chúng
tôi cũng như đàn con không hề được mời đi dự một buổi lễ nào, một cuộc vui nào
trong chương trình ngày hội dân tộc. Tại gian phòng riêng trong Cung điện tôi
mở to hết cỡ loa phóng thanh đang truyền đi chương trình lễ Quốc khánh của
Angca. Cũng trong lúc đó, tôi đeo ống nghe vào tai, lén lút theo dõi liên tục
các đài phát thanh Tiếng nói Hoà Kỳ, đài Australia, đài BBC Luân Đôn, đài Quốc
tế - Pháp, đài NHK Nhật Bản... những tin tức thế giới và cả những tin tức về các
địa ngục trần gian của Khmer Đỏ.
Cách đây một tháng, tức
tháng 3-1976, con rể tôi là đại uý phi công Xôphôtra, chồng công chúa Botum
Bopha con gái tôi, đến Điện Khêmarin thăm tôi. Rất vui mừng hãnh diện, cháu báo
tin được Angca trao nhiệm vụ lái chiếc máy bay T28 (của Mỹ bỏ lại) biểu diễn
chào mừng lễ kỷ niệm lần thứ nhất. Ngày kỷ niệm chiến thắng lịch sử 17-4. Từ
tháng 3-1973, tức khi còn phục vụ trong chế độ cũ, Xôphôtra đã lập được một
chiến công vang dội. Cháu đã lái một máy bay chiến đấu của Mỹ, ném bom xuống
dinh Tổng thống Cộng hoà của Lon Nol rồi bay qua căn cứ không quân của Mỹ ở Đà
Nẵng sang lãnh thổ Trung Quốc. Lúc này tôi đang đi thăm vùng giải phóng và đang
gặp Khieu Samphan, Pol Pot, Ieng Sary, Son Sen, Hu Nim, Hou Youn. Chính Hu Nim
lúc đó là Bộ trưởng Thông tin đã báo cho tôi biết tin này. Khieu Samphan và các
đồng chí Khmer Đỏ của ông ta đã quyết định tặng Bằng khen cho Xôphôtra, chính
thức tuyên dương Xôphôtra là “người yêu nước”.
Sau đó, cháu được cử sang
Nam Tư bổ túc nghiệp vụ và được Nguyên soái Titô thưởng một khẩu súng ngắn.
Theo gợi ý của tôi, tháng 12-1975 cháu đã đưa tất cả vợ con về Campuchia phục
vụ chế độ mới của Khmer Đỏ.
Campuchia “dân chủ” lúc đó
chỉ có mỗi một phi công là đại uý Pêch Lim Khuôn. Vài tháng tiếp theo chiến
công của Xôphôtra, anh ta cũng đã lái một máy bay T28 của Mỹ ném bom dinh Tổng
thống của Lon Nol rồi bay ra vùng giải phóng.
Pêch Lim Khuôn không có quan
hệ họ hàng gì với triều đình nhà vua, vì vậy được coi như “người con trong sạch
của nhân dân” và được Angca đánh giá là phi công số một của lực lượng không
quân Khmer Đỏ. Về phần Xôphôtra, con rể tôi, cháu không hề tự ti mặc cảm là
người không thuộc thành phần giai cấp vô sản. Có điều tuy không phải dòng dõi
hoàng tộc nhưng cháu đã không kén chọn một cô gái chăn bò mà lại đi cưới một
công chúa. Nhưng, Angca chẳng những đã khước từ đơn tình nguyện phục vụ của
Xôphôtra mà còn tước bỏ cả quyền đi bầu của hai vợ chồng cháu trong cuộc Tổng
tuyển cử năm 1976. Với bản chất lạc quan, Xôphôtra vẫn hi vọng một cách hợp lý
là Angca sẽ cho cháu lái một máy bay biểu diễn trong ngày hội lớn giải phóng
dân tộc. Nhưng chẳng ai cho gọi cháu. Vả lại, cũng chẳng có diễu binh diễu hành
gì ngoài một cuộc mít tinh ở sân vận động.
Thế rồi, cuối cùng anh chàng
phi công “người yêu nước” Xôphôtra, con rể tôi, cùng với các công chúa con gái
tôi là Sorya Roenxy, Botum Bopha và chồng, con đều bị Khmer Đỏ dùng vũ lực lùa
ra khỏi thành phố, đưa đi mất tích. Mãi đến năm 1979, khi tiếp xúc với một vài
đồng bào tôi thoát khỏi địa ngục Pol Pot rồi trốn chạy được sang Pháp, tôi mới
biết tin, vì quá khổ cực Xôphôtra và Botum Bopha đã tìm cách trốn khỏi công xã
nhưng lại bị lính Khmer Đỏ lùng bắt được. Mọi người đều rõ số phận những kẻ
trốn chạy bị Khmer Đỏ bắt được sẽ như thế nào.
Từ tháng 9-1975, ngay khi
tôi vừa mới về nước, người ta đã cho tôi biết cậu tôi là Hoàng thân Sisowath
Mônirét, em trai của mẹ tôi, đang lao động ở vùng nông thôn thuộc tỉnh Compuông
Chàm. Ông được sống cùng với toàn bộ gia đình, các con và các cháu, trong một
căn nhà bằng gỗ khang trang, mái ngói, dựng trên nền cột như kiểu nhà sàn. Đó
là ngôi nhà của một nông dân giàu có để lại. Ông được chăm sóc rất chu đáo. Sau
khi từ chức hồi tháng 4-1976, tôi xin phép Angca đi Compuông Chàm thăm ông cậu.
Sau mấy tuần im lặng, Angca cử một cán bộ đến báo tín cho tôi biết: Hoàng thân
đã chết vì bệnh đái tháo đường. Có lẽ, nếu tôi không xin đi thăm cậu thì vẫn
tiếp tục được nghe kể về cuộc sống “sung sướng ở vùng nông thôn, dưới sự che
chở khoan dung độ lượng của Angca”.
Số phận Nariđapô, con trai
tôi cũng rất thảm thương. Mặc dù Khieu Samphan không bao giờ nói với tôi về
những đứa con, đứa cháu của tôi bị biệt tăm từ nửa cuối tháng 4-1976, tức sau
khi tôi từ chức, ông ta vẫn đặc biệt nhắc đến Nariđapô, mà ông gọi là “đứa con
ngoan”. Chảu sinh năm 1936, vẫn sống ở Phnompenh cho mãi tới ngày 17-4-1975 khi
Khmer Đỏ tiến quân vào thành phố, trục xuất toàn bộ dân chúng ra khỏi thủ đô.
Sau khi tôi từ chức, lần nào đến thăm tôi ngài Khieu Samphan, Chủ tịch Đoàn chủ
tịch Hội đồng Nhà nước cũng khen ngợi Nariđapô lao động tốt kỷ luật tốt, mặc dù
tôi không gợi ý.
Thế rồi, mãi đến tháng
1-1979 sau khi đã thoát khỏi bàn tay Khmer Đỏ, tôi chợt đọc trên tờ tuần báo Le
Point xuất bản ở Pháp, mới biết một tin đau đớn. Theo lời kể của một cán bộ
Khmer Đỏ ly khai rồi trốn sang Pháp, thằng con trai Nariđapô tội nghiệp của tôi
đã bị Angca kết tội tử hình. Cháu phạm tội gì? Trong những năm 50 cháu đã theo
học ở Bắc Kinh và sau khi bị lùa ra khỏi thành phố Phnompenh hồi tháng 4-1975
cháu đã dám chỉ trích cái chủ nghĩa cực đoan “quá độc đáo” của Pol Pot.
Lúc này chỉ còn lại có
Sihamoni và Narinđrapông tiếp tục sống cùng với vợ chồng chúng tôi, những người
tù của Khmer Đỏ, cho tới khi những người lính thiện chiến của Hà Nội mở cuộc
“chiến tranh chớp nhoáng đánh vào Phnompenh tháng 1-1979. Cuộc tiến công chớp
nhoáng này đã có hiệu quả là giải phóng được một bộ phận trong gia đình đông
đảo con cháu của tôi. Chỉ có hai đứa con gái khốn khổ của tôi là Sorya Roenxi,
Botum Bopha, và em trai của cháu là Khêmanurắc, chồng các cháu, con các cháu đã
biến mất trong các công xã lao động khổ sai của Khmer Đỏ, không để lại một dấu
vết gì. Người anh họ rất thân thiết, rất trung thành của tôi là Norodom
Phrissara cùng với gia đình cũng đã bị Khmer Đỏ đưa đi biệt tích rất xa thủ đô
để rồi vĩnh viễn không bao giờ trở lại.
Tổng cộng có tới gần hai
chục người, các con tôi, các cháu tôi bị đưa ra khỏi Phnompenh và mất tích.
Năm 1982, những người trốn thoát
địa ngục Pol Pot chạy được sang Pháp cho tôi biết, tất cả con trai, con gái,
con rể và các cháu tôi ở trong các trại lao động tập trung trong nước đều đã bị
bọn đao phủ Khmer Đỏ hành hạ, tra tấn dã man rồi giết hại. ở trong nước tôi chỉ
còn lại hai đứa con Sihamoni và Narinđrapông cùng sống với tôi và Monic.
Lai lịch Pol Pot và bè lũ
Tại sao Khmer Đỏ lại thù hằn tôi
đến như vậy? Bọn chúng là những người như thế nào, nguồn gốc, lai lịch ra sao?
Những nguyên nhân của sự thù hằn
này đã có từ lâu từ những năm bốn mươi và những năm mươi là thời kỳ Sơn Ngọc
Thành đang có ảnh hưởng đặc biệt đến các tầng lớp giáo viên, học sinh
Campuchia. Sơn Ngọc Thành tuy là bạn của cha mẹ tôi, tức Quốc vương và Hoàng
hậu Xuramarit, nhưng trong khoảng thời gian giữa năm 1941 là năm tôi lên làm
vua và năm 1975 là năm chiến thắng của Khmer Đỏ, ông ta đã chọn con đường một
mất một còn chống Sihanouk. Sơn Ngọc Thành lên án tôi là một Quốc trưởng “không
xứng đáng, bê tha truỵ lạc, tham nhũng, phản bội Tổ quốc, tay sai của thực dân
Pháp”. Thành cầm đầu một nhóm đấu tranh nhằm mục đích lật đổ chế độ quân chủ bị
ông ta coi là lạc hậu, áp bức, độc đoán, tham nhũng, ngu dân. Sơn Ngọc Thành
cùng với một người bạn là Sim Var nghĩ một cách có lý rằng muốn được người dân
đi theo thì phải chinh phục được giới sư sãi, còn muốn chinh phục được thanh
niên và trí thức thì phải vận động được giáo viên và các quan chức Bộ Quốc gia
giáo dục đứng về phía mình.
Thời kỳ đó, Pol Pot, Ieng Sary,
Son Sen, Khieu Samphan, Hou Youn, Hu Nim, Coi Thuôn, Nuon Chia... và các tiểu
thư Khieu Ponnary (sau này là vợ Pol
Pot), Khieu Thirith (sau này là vợ Ieng Sary) đều là những học sinh non trẻ đã
nhanh chóng trở thành những đồ đệ theo Sơn Ngọc Thành một cách cuồng nhiệt, và
là những kẻ chống chế độ quân chủ đến cùng. Cũng không nên quên rằng tất cả các
thủ lĩnh Khmer Đỏ hiện nay, khi còn là học sinh trung học đều đã được học bổng
của chính phủ Bảo hộ (tức chính quyền thực dân Pháp trong những năm bốn mươi)
và của cả triều đình Campuchia để tiếp tục theo học cấp cao hơn ở Pháp, trong
những trường đại học tốt nhất ở Paris và các tỉnh lẻ bên Pháp. Từ việc tiêm
nhiễm chủ nghĩa khuynh hữu của Sơn Ngọc Thành, đám du học sinh sau này trở
thành bọn cầm đầu Khmer Đỏ đã chuyển sang tả khuynh và cực tả. Học lịch sử cách
mạng Pháp, họ thích nhất và nhớ nhất các thời kỳ đẫm máu, đặc biệt là giai đoạn
tắm máu trong cuộc cách mạng 1789-1793 của Pháp. Việc chặt đầu vua Lui XVI là
sự kiện mà họ có thế hoàn toàn nghĩ đến sẽ áp dụng vào tôi. Sự hoạt động tích
cực của các máy chém, một phát minh. Ở Pháp hồi đó, cũng đã mê hoặc đám công
tủ, tiểu thư này, tuy họ cũng xuất thân từ tầng lớp tư sản.
Một số nhà cách mạng Pháp thời kỳ
đó cũng đã chẳng xuất thân từ các gia đình tư sản, thậm chí cả quý tộc nữa hay
sao?
Gia đình hai chị em, Khieu
Ponnary và Khieu Thirith đều thuộc tầng lớp tư sản quý tộc có quan hệ thân
thiết với gia đình ông bà nội tôi. Họ cùng ở một khu phố tại Phnompenh. Thời
thanh thiếu niên, tôi biết rất rõ Ponnary vì cùng học với nhau một trường, lúc
đầu là trường tiểu học Xutharôt (do ông bà tôi là Hoàng thân và Công chúa
Xutharôt sáng lập) sau đó là trường trung học Sisowath. Khieu Ponnary luôn được
xếp thứ nhất trong lớp.
Trong những năm 70 khi đã trở
thành lãnh tụ Khmer Đỏ, hai chị em Ponnary và Thirit đã chỉ thị cho các cán bộ
phải chọn những cái tên đơn âm cho “có vẻ nông dân nghèo”. Vì vậy, anh họ tôi
là Hoàng thân Norodom Phurissara, cựu bộ trưởng, đã trở thành “bạn Mơn” một cái
tên đơn âm cộc lốc. Còn Ponnary và Thirit đều thuộc dòng dõi quí tộc vì có
những cái tên nhiều âm tiết gốc Pali (là ngôn ngữ thiêng liêng cao quý của đạo
Phật, du nhập từ Ấn Độ), Thirit có nghĩa là “uy quyền”, chỉ có hai nữ mưu sĩ
này của chế độ Khmer Đỏ là giữ đặc quyền về những cái tên có nhiều âm tiết gốc
bác học, những người khác đều đổi và chọn tên có một âm tiết. Chính vì vậy cho
nên Saloth Sar đã đổi tên là Pol Pot. Vị thủ lĩnh này tự xưng là con trai một
gia đình nông dân nghèo, nhưng thực tế lại xuất thân từ một gia đình quan lại
của triều đình.
Chị họ của Pol Pot, nay cải tên
là bà Mich ,
đã từng là Đệ nhất quý phi của ông tôi, tức Quốc vương Monivong.
Tinh thần quyết liệt chống chế độ
quân chủ và chống Sihanouk của các thủ lĩnh Khmer Đỏ đã thể hiện rõ trong khát
vọng muốn thủ tiêu một “giống nòi thượng đẳng” cao hơn dòng dõi của họ, để rồi
đến lượt họ lại ngoi lên đỉnh cao của hệ thống tôn ti trật tự trong xã hội
Khmer Đỏ. Họ thay thế “chế độ phong kiến” và “chế độ độc tài” bằng chính cái
chủ nghĩa độc tài chuyên chế cực đoan được đẩy cao tới cực điểm của chính họ.
Một số “chuyên gia về Campuchia”
đã viết, nếu Khmer Đỏ trở thành cực kỳ hung ác thì đó là bởi chúng muốn trả thù
“những sự độc ác của Sihanouk”, trả thù những binh lính của Lon Nol, trả thù
những trận ném bom giết hại nhiều người của Mỹ. Về vấn đề này, mong bạn đọc hãy
nhớ lại bài tôi đã viết trong cuốn “Những kỷ niệm ngọt ngào và cay đắng”, trong
đó tôi đã giải thích kỹ: Đối với Khmer Đỏ, nhất định họ chỉ có thể phát khùng
lên bởi cách đối xử khủng khiếp mà các lực lượng của Lon Nol, của Nguyễn Văn
Thiệu và các máy bay Mỹ đã buộc họ phải gánh chịu trong khoảng thời gian từ năm
1970 đến 1975. Còn về chuyện Khieu Samphan, một linh mục Pháp đã viết rằng vì
tôi “lột truồng Khieu Samphan ra đánh đòn” (hồi tôi còn làm Quốc trưởng trước
khi xảy ra đảo chính) nên tôi đã đẩy ông ta lên bưng biền. Nhưng thật tình tôi
chẳng dính líu gì vào chuyện này cả. Đó là việc làm của một số nhân vật cánh
hữu chống Cộng.
Khieu Samphan không bao giờ bị
bắt bỏ tù, cũng không bị đánh bằng gậy như một số người nước ngoài đã ngộ nhận.
Ông ta mới chỉ bị “lột truồng mà thôi”. Dù sao, trong số Khmer Đỏ, Khieu
Samphan vẫn là người gần gũi với tôi lịch sự thân ái với tôi hơn cả thời kỳ từ
1960 đến 1970 và cho mãi tới nay, kể cả những ngày đen tối nhất ông ta cũng vẫn
còn chút ít nhã nhặn đối với tôi.
Có nên định nghĩa cuộc “Cách mạng
Khmer Đỏ”, như một cuộc đấu tranh có tính chất báo thù của nông dân chống lại
người thành thị, của người nghèo chống lại người giầu, của những người “trong
sạch và cứng rắn” chống lại những người “hư đốn” như một số nhà “đoán điềm giải
mộng” phương Tây đã suy diễn không? Dứt khoát không! Sự thật là, động lực của
Khmer Đỏ không phải nằm trong tầng lớp dân thường mà là ở những người cầm đầu
như Pol Pot, Ieng Sary, Khieu Samphan, Nuon Chia, Son Sen, bà vợ Pol Pot và vợ
Ieng Sary. Xin viết vài dòng về những người tự nhận là “con đẻ của nhân dân”
đó.
Như tôi đã viết, vợ Pol Pot (tức
Khieu Ponnary) và vợ Ieng Sary (tức Khieu Thirith) là hai chị em, xuất thân từ
một gia đình đại tư sản, được học hành phù hợp với những truyền thống tốt đẹp
nhất của Campuchia. Gia đình họ ở trong một toà nhà sang trọng, cạnh biệt thự
của ông nội bà nội tôi, tức ông bà Hoàng Xutharôt. Hai gia đình xóm giềng này
có quan hệ mật thiết với nhau. Tiểu thư Ponnary và anh chàng Sihanouk thời thơ
ấu đã cùng học bên nhau từ trường tiểu học Xutharôt đến trường trung học
Sisowath. Pol Pot (tên thật là Saloth Sar) cũng không phải sinh ra từ một gia
đình nghèo hoặc nông dân. Anh cả của Pol Pot đã làm quan trong triều đình, giữ
chức Đổng lý ngự tiền, tức thư ký Văn phòng của Quốc vương. Một người trong số
chị em của Pol Pot là bà Mich
đã từng là quý phi của Quốc vương Monivong. Thời niên thiếu Saloth Sar thường
được ra vào cung vua. Thật là nực cười khi người ta thấy Pol Pot tự xưng là
“nạn nhân của chế độ bất công của xã hội cũ”. Khieu Samphan và các nhân vật
Khmer Đỏ khác như Hou Youn, Hu Nim, Két Sơhôn, Châu Xeng đều đã làm quan thượng
thư trong triều đình. Họ không có điều gì đáng kêu ca phàn nàn về cách đối xử
mà nền quân chủ đã dành cho họ. Vả lại, tất cả bọn họ, kể cả anh em Thiun
Thiện, Thiun Mum, Thiun Praxít, đều xuất thân từ những gia đình giầu sang, có
thế lực, đều được hưởng học bổng của Chính phủ Hoàng gia để theo học tại những
trường trung học tốt nhất của Pháp ở Đông Dương, như trường trung học
Chasseloup Laubat ở Sài Gòn (tôi cũng đã học ở đây) và trường trung học Yecxanh
ở Đà Lạt. Họ tốt nghiệp từ những trường đại học tốt nhất ở Pháp. Thế mà sau đó
họ vẫn cứ khẳng định nền quân chủ Campuchia đã thực hiện một chính sách “ngu
dân” chăng cho thanh niên học hành gì cả.
Cuộc cách mạng Khmer Đỏ đã được
vạch ra và tiến hành bởi những đầu óc trí thức thuộc thành phần tư sản
Campuchia. Những người này chẳng phải chịu một bất công xã hội nào, và còn được
theo học tại các trường tiểu học, trung học xây dựng dưới chế độ quân chủ rồi
tiếp tục học đại học ở Pháp, nhờ học bổng của Chính phủ Hoàng gia Campuchia. Dĩ
nhiên, những binh lính của Pol Pot đều là nông dân. Thế nhưng, trong các lực
lượng vũ trang của Sơn Ngọc Thành (tức bọn lính đánh thuê do lính biệt tích “mũ
nồi xanh” của Mỹ huấn luyện) cũng như trong quân đội của Lon Nol (trong thời kỳ
1910 - 1975) và trong quân đội của Son Sen, của Sihanouk, phần rất đông binh
lính cũng là nông dân.
Chủ nghĩa cộng sản của bọn Pol
Pot. Ieng Sary, Khieu Samphan, Son Sen không những được soạn thảo bởi các nhà
trí thức tư sản mà còn ra đời ở Pháp như tôi đã viết ở trên. Sau khi từ Pháp về
nước, Khmer Đỏ bắt đầu tiếp xúc với Trung Quốc và cuộc cách mạng của Mao, và
chẳng bao lâu cũng chuyển hoá theo. Tiếp theo đó là cuộc “cách mạng văn hoá”
nổi tiếng, cầm đầu bởi “bè lũ bốn tên” và được kích động bởi bà Giang Thanh, bà
vợ quá quắt của Người cầm lái vĩ đại. Mọi người đều biết rõ tác hại to lớn mà
cuộc cách mạng “văn hoá” này gây ra cho nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, cho
nhân dân Trung Quốc, cho nền văn hoá và các lợi ích của Trung Quốc ở cả trong
nước lẫn ngoài nước. Bọn Pol Pot, Ieng Sary thấy cuộc cách mạng “văn hoá” này
hoàn toàn hợp với khẩu vị của mình. Điều tệ hại nhất cho đất nước và nhân dân
Campuchia là bọn Pol Pot, Ieng Sary còn muốn vượt hơn cuộc cách mạng “văn hoá”
của Trung Quốc bằng bất cứ giá nào. Đó là điều phi lý. Học trò muốn hơn thầy là
hiện tượng bình thường trong xã hội chúng ta. Trong lĩnh vực khoa học, nghệ
thuật, cuộc ganh đua này chỉ có lợi. Nhưng trong lĩnh vực khủng bố, việc “chơi
trội” này đã trở thành tội ác.
Từ tháng 9-1975, khi tôi trở về
Phnompenh, một số người cầm đầu Khmer Đỏ đã bộc lộ với tôi một cách tự hào,
cuộc cách mạng của họ đang cố vượt cách mạng “văn hoá” của Trung Quốc nhằm đạt
tới chủ nghĩa cộng sản hoàn toàn, chỉ bằng một bước đại nhảy vọt, bỏ qua giai
đoạn xã hội chủ nghĩa. Điều đó sẽ chứng minh cho toàn thế giới thấy rõ khả năng
của thế hệ kế thừa những người đã xây dựng các đền đài Ăngco như thế nào. Uy
danh của cuộc Cách mạng Campuchia, quán quân về việc cộng sản hoá toàn bộ đất
nước, toàn thể dân tộc trong một khoảng thời gian kỷ lục sẽ ghi vào lịch sử thế
giới, bằng những dòng chữ khủng khiếp không bao giờ phai nhạt. Sự điên rồ này
là đặc điểm thuần tuý của giới trí thức lãng mạn. Tôi nghĩ, nông dân bình
thường và dân nghèo thành thị không thể có được sự không tưởng này.
Có người hỏi tôi: “Thưa Hoàng
thân, ngài khẳng định Pol Pot cũng như Hítle là những tên “điên khùng và bạo
chúa khát máu”. Nhưng làm thế nào mà một cá nhân, hoặc thêm Ieng Sary là hai,
hoặc cả Tà Mốc mà ngài gọi là Himler nữa là ba, lại có thể buộc được hàng trăm
ngàn người Campuchia đi theo và làm theo trong cuộc phiêu lưu chết chóc này?”.
Xin các bạn hãy nhớ lại những gì đã xảy ra ở châu Âu năm 1931 là năm Hítle có
những thắng lợi đầu tiên, và năm 1945 là khi Hít le sụp đổ Hítle và Himler đâu
có thiếu những tên tay sai cuồng tín, cũng hung ác tàn bạo như chúng để hành
hạ, giết hại dã man những người yêu nước tại những quốc gia bị chúng chiếm đóng
và giết hại cả hàng ngàn dân thường vô tội, trước hết là những người Do Thái,
rồi đến toàn thể dân chúng trong các thị trấn thanh bình như Lidice ở Tiệp Khắc
hoặc Ôracđua ở Pháp. Một tên điên khùng tàn bạo, dù chỉ nắm được một chút quyền
hành nào đó cũng có bùa phép biết nhồi sọ, lôi kéo một bộ phận dân chúng và
tầng lớp thanh niên trong nước, có thể biến quần chúng thành những kẻ cũng điên
cuồng tàn bạo.
Ở Campuchia, ngay đến Lon Nol là
một tín đồ môn thần học, nhưng ít phép mầu và diễn thuyết rất tồi, vẫn có thể
lôi cuốn được “lũ nhóc” từ mươi đến mười hai tuổi, chưa được học tập gì về quân
sự, để chiến đấu chống những người cộng sản Khơme và Việt Nam thiện chiến. Tôi
xin nhấn mạnh một lần nữa, việc giết hại hàng loạt những người Việt và người
Campuchia chống đối không phải do Khmer Đỏ phát động mà là do bọn “cộng hoà”
Lon Nol tiến hành trước. Khmer Đỏ đã đi theo con đường mà Lon Nol vạch sẵn, và
đã nâng cao thêm những kỷ lục giết người mà Lon Nol đã đạt được Ban lãnh đạo
Khmer Đỏ cố làm mọi người tin rằng cần phải xoá sạch quá khứ để xuất phát từ số
không, xây dựng một nước “Campuchia mới” không mảy may dính líu với “xã hội
cũ”. Tôi nói “ban lãnh đạo” đây tức là Pol Pot, Ieng Sary, Khieu Samphan. Họ đã
bắt đầu bằng việc xoá bỏ triệt để luân lý đạo Phật là tôn giáo có nhiều ảnh
hưởng ở nước tôi.
Bọn “Khơme Xanh” của Sơn Ngọc
Thành cho rằng chúng biến đổi Campuchia thành một nước “cộng hoà” để chống lại
sự đồi bại, thiết lập nền dân chủ và đánh bật chủ nghĩa cộng sản vô thần ra
khỏi đất nước. Nhưng chúng đã hoàn toàn làm trái ngược lại. Chính một đối thủ
chính trị già nua của tôi là Sim Var đã viết trên tờ báo xuất bản ở Phnompenh, thừa
nhận rằng tệ nạn xã hội đồi bại dưới thời Lon Nol còn truyền nhiễm gấp trăm lần
thời kỳ tôi còn “ngự trị”. Nền dân chủ của Lon Nol thực tế là nền thống trị độc
tài của quân đội và cảnh sát có một không hai. Lon Nol tự coi là người “tôn
sùng đạo Phật” đã hoàn toàn làm trái lời dậy của đức Phật Tổ và mở đường cho
Khmer Đỏ. Những mưu đồ của Khmer Đỏ đã không trong sạch mà cũng chẳng tách rời
những tật xấu mà đức Phật Tổ đã vạch rõ. Chính những thói xấu như sự đố kỵ, hằn
thù, tham vọng đã dẫn dắt Khmer Đỏ hành động. Nếu tháng 4-1975 là khi vừa mới
bắt đầu giải phóng Campuchia khỏi ách thống trị của Lon Nol, bọn Khmer Đỏ còn
được dẫn dắt bởi chủ nghĩa yêu nước thuần khiết và chân chính - mà tôi đã tin
một cách ngây thơ - thì có lẽ họ đã tha thứ khoan hồng cho những người trước
kia đã chống lại họ và từ buổi sớm ngày 17-4-1975 đà gần như toàn tâm toàn ý
quy phục họ. Có lẽ họ đã xây dựng (và họ đã có thể xây dựng được) một nước
Campuchia mới, không phải trên đống xác chết chất cao như núi, mà là trên sự
hoà hợp dân tộc sự khoan hồng độ lượng (như đức Phật Tổ đã dạy) và sự đoàn kết
tương trợ lẫn nhau.
Tháng 9-1975 các ông Ieng Sary,
Khieu Samphan, Son Sen đã tiết lộ với tôi, họ không thể để cho hai triệu người
dân Campuchia sống tại thủ đô Phnompenh được bởi vì chính quyền của họ mới được
thiết lập có lẽ đang bị uy hiếp bởi nhiều gián điệp của Mỹ, Liên Xô, Pháp...
thâm nhập vào Phnompenh. Thành phố này đang biến thành một mê hồn trận” có
nhiều gián điệp và phá hoại mà chưa thủ tiêu được. (Họ nói đúng nguyên văn như thế
đó!) Hiển nhiên cái gọi là “sự cần thiết” phải lùa dân đô thị về nông thôn để
“có thức ăn” và tránh khỏi “máy bay Mỹ ném bom” chỉ là một cái cớ giả tạo nẩy
sinh từ một chính sách chủ trương quái gở, mất gốc, trái với những lời răn dạy
của đức Phật.
Về cái gọi là “có thức ăn” thì
thật sự dân chúng bị đuổi khỏi Phnompenh đã hoàn toàn bị bỏ đói vì không được
chuẩn bị một chút gì về lương thực cũng như tiếp tế lương thực. Còn về chuyện
“máy bay Mỹ ném bom” thì rõ ràng đã không bao giờ xảy ra. Hậu quả của những sự
lừa dối kinh khủng đó đã làm không biết cơ man nào là người chết.
Tháng 9-1976, Hội nghị cấp cao
các nước không liên kết họp ở Côlômbô, thủ đô Xri Lanca. Trung Quốc đã ngỏ ý
Norodom Sihanouk thay mặt chính quyền Khmer Đỏ đi họp; nhưng Khieu Samphan đã
tận dụng luôn sự từ chức của Sihanouk để “mở cửa đột phá” trên vũ đài chính trị
quốc tế. Lúc này, chính phủ Trung Quốc lại tỏ ý lo ngại về khả năng không thành
công của đoàn đại biểu Khmer Đỏ tại hội nghị vì thiếu Sihanouk.
Trung Quốc đã quá lo xa khi nghĩ
như vậy. Bởi vì, Khieu Samphan, Ieng Sary và các nhân vật Khmer Đỏ khác đã được
đón tiếp trọng thị tại Côlômbô như những anh hùng. Cả giới Phật giáo lẫn dân
chúng rất mộ đạo ở thành phố Canđi, nơi đặt di cốt đức Phật Tổ cũng hoan hô
Khmer Đỏ, những kẻ đã từng giết chết đạo Phật và các tôn giáo khác ở Campuchia.
Khi trở về nước, với vẻ thoả mãn rõ rệt Khieu Samphan đã giành cho tôi một vinh
dự được ông ta tới thăm và nói chuyện... rất lâu. Hai vợ chồng tôi chúc mừng
thắng lợi của ông ta tại Hội nghị Côlômbô. Khieu Samphan uống một ít sữa, có vẻ
như để thưởng thức thắng lợi của chính ông ta. Vài phút sau, ông mới nở một nụ
cười, đôi mắt sáng lên vì thoả mãn. Chúng tôi im lặng chăm chú nhìn. Khieu
Samphan có vẻ tự nhủ rằng dứt khoát Sihanouk không còn là nhân vật không ai
thay thế được nữa. Vài phút nữa lại trôi đi. Lúc đó người hùng của chúng tôi
mới mở miệng, kể lể về thành công to lớn của bản thân tại hội nghị suốt hơn ba
mươi phút không ngừng.
Với ngụ ý châm biếm nhẹ nhàng,
tôi nhấn mạnh với Khieu Samphan, nhờ có Angca “của chúng ta” và nhờ có ngài Chủ
tịch Khieu Samphan, từ nay đất nước Campuchia của ta sẽ được nâng bổng lên tít
hàng đầu, ngang tầm với những nước uy tín nhất trên thế giới và chế độ
Campuchia dân chủ cũng đang lên tới đỉnh cao sự khâm phục của toàn thế giới.
Khieu Samphan không trả lời. Ông
nhìn tôi bằng cặp mắt của kẻ kiêu ngạo có ý định trả thù rồi đứng dậy toan ra
về. Tôi giữ lại:
- Kính thưa ngài, xin ngài lui
lại mươi phút nữa để tôi được hầu chuyện về vấn đề cá nhân. Tôi có một lời thỉnh
cầu hèn mọn đệ trình lên ngài.
Khieu Samphan có vẻ không vừa ý.
Vẻ thoả mãn trên mặt nhường chỗ cho vẻ lo ngại. Tôi tiếp tục nói:
- Chắc ngài còn nhớ như lời chính
ngài và ngài Son Sen đã nói với tôi cách đây vài tháng. Các ngài đã nhân danh
Angca hứa hẹn, ủng hộ đề nghị của tôi đi Trung Quốc chữa bệnh. Cứ sáu tháng một
lần, các thầy thuốc Trung Quốc cần kiểm tra lại toàn bộ sức khỏe của tôi. Tháng
4 vừa qua, trước ngày tôi xin từ chức Quốc trưởng các ngài đã khuyên tôi “kiên
tâm” chờ đến khi nào chế độ mới của các ngài được củng cố trên trường quốc tế,
Ngài vừa mới nhấn mạnh là từ nay trở đi nước Campuchia dân chủ đã đạt được đỉnh
cao của uy tín và thiện cảm quốc tế được tất cả các nước không liên kết ủng hộ.
Kính thưa ngài, vợ tôi và tôi đang có những vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe.
Chúng tôi cầu khẩn Angca cho phép chúng tôi được đi sang Trung Quốc và ở bên đó
rất bí mật, không để ai biết, chúng tôi sẽ chỉ tiếp xúc với các thầy thuốc do
chinh phủ Trung Quốc cử với trông nom săn sóc, chúng tôi hứa sẽ quay trở về với
gia đình sau một tháng.
Khieu Samphan nói:
- Các ngài đừng quấy rầy các bạn
Trung Quốc của chúng ta. Các vị đó đang bận nhiều công việc.
- Nhưng ngày nào Trung Quốc cũng
tiếp đã vô số khách đến từ các nơi trên thế giới.
- Đó là những đoàn đại biểu chính
thức đi công cán. Còn Xamđec chỉ là người đã nghỉ hưu.
- Bà Chu Ân Lai và những nhân vật
cấp cao nhất của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đã khẳng định với tôi, lúc nào tôi
tới Trung Quốc cũng được hoan nghênh. Chính các vị lãnh đạo Trung Quốc đã nói
Trung Quốc là “Tổ quốc thứ hai của tôi”.
- Ngài hãy nghĩ đến lòng tự hào
dân tộc. Ở đây ngay tại Phnompenh này, chúng tôi có những thầy thuốc rất giỏi.
Nhất là “anh” Thiện (nguyên văn tiếng Thơm là Bâng, có nghĩa là anh em; bác sĩ
Thiện lúc đó là Bộ trưởng Y tế của Khmer Đỏ). Anh ấy có thể giải quyết tất cả
các vấn đề về sức khỏe của ngài. Hãy tin vào anh ấy.
- Kính thưa ngài, vợ tôi cần phải
được một nữ bác sĩ phụ khoa khám. Ở nước ta không có bác sĩ phụ khoa. Tôi cầu
khẩn Angca rất mực tôn kính của chúng ta cho phép vợ tôi, chỉ một mình vợ tôi
được chữa trị tại một bệnh viện thủ đô hoặc một bệnh viện tỉnh. Chuyến đi, cũng
nhất những ngày vợ tôi ở Trung Quốc, sẽ được giữ tuyệt đối bí mật.
- Tôi nói thẳng nhé! Đây chưa
phải thời điểm thuận tiện để Đức vua ra khỏi Campuchia (Khieu Samphan vẫn có
thói quen gọi tôi là Preah Karuna, tức là Đức vua, kể cả sau khi Khmer Đỏ đã
quyết định bãi bỏ cách xưng hô của triều đình cũ).
Tôi hỏi lại:
- Tại sao vậy?
- Vì đế quốc Mỹ, cụ thể là CIA,
đang tìm cách tách ngài khỏi chúng tôi.
- Nhưng tôi chỉ đi Trung Quốc,
quá lắm là sang Triều Tiên.
- Cựu tuỳ viên báo chí của ngài
là ông Nút Sơ hơn là một tên phản bội và là một tên gián điệp nguy hiểm của
CIA, hiện đang ở Paris. Từ Paris nó có thể viết thư hoặc gọi điện đến Bắc Kinh
cho ngài.
- Một tên Nút Sơ hơn thì làm sao
có thể thuyết phục tôi ly khai khỏi Angca được.
- Tại Hồng Công còn có một tên là
bạn rất thân của Nút Sơ hơn sẽ giúp hắn có hiệu quả thuyết phục ngài, lôi kéo
ngài về phía địch. Đó là Hoàng thân Yuvanath, con trai cả của ngài.
- Thưa ngài, chắc ngài nói đùa
cho vui đấy thôi chứ Yuvanath thiết gì làm chính trị. Dứt khoát, nó không có
ảnh hưởng một chút nào đến bố nó cả.
Khieu Samphan nói như để kết
luận:
- Ngài hãy tin là chúng tôi sẽ
không giam hãm ngài. Một ngày nào đó, chúng tôi sẽ cho phép ngài đi ra khỏi
Campuchia để thay đổi không khí, như ngài nói. Xin ngài hãy vui lòng kiên nhẫn
một chút. Nếu Bà hoàng vợ ngài và ngài cần các loại biệt dược của châu Âu hoặc
của Mỹ, tôi sẽ cho mua để ngài dùng. Chúng tôi rất quan tâm đến sức khỏe của
ngài.
Tôi còn biết làm gì được nữa,
ngoài việc đa tạ vị “Chúa ngục” của tôi.
Mao Chủ tịch qua đời ngày
9-9-1976. Hàng ngàn bức điện từ khắp nơi trên thế giới gửi tới Bắc Kinh chia
buồn. Nhiều vị đứng đầu nhà nước, chính phủ, các chính khách lưu vong v.v...
đều gửi điện chia buồn hoặc tới dự lễ tang, được đài phát thanh nêu tên, chỉ có
tên tôi là vắng trong danh sách những người tới truy điệu Chủ tịch, người đã
làm nhiều việc cho tôi, mẹ tôi, gia đình tôi cho nhân dân, đất nước tôi. Ngay
sau khi Mao Chủ tịch từ trần, tôi đã viết một bức thư dài gửi bà Giang Thanh để
chia buồn. Tôi nhờ chính phủ Campuchia “dân chủ” chuyển giúp. Tôi nói, vì không
còn là Quốc trưởng nữa nên tôi không được phép gửi Công hàm, đành phải viết thư
riêng. Tôi xin phép được bí mật tới đại sứ quán Trung Quốc tại Phnompenh để nếu
không được nghiêng mình trước thi hài thì ít nhất cũng được cúi đầu trước tấm
ảnh ông Mao.
Tôi chờ suốt hai mươi bốn giờ,
không thấy trả lời. Tôi lại viết lá thư thứ hai, lần này tôi gửi ông Khieu
Samphan, Chủ tịch Đoàn chủ tịch Nhà nước nhờ ông nói giúp với Angca. Tôi chờ
hai mươi bốn giờ nữa vẫn không thấy gì. Tôi lại viết lá thư thứ ba, gửi cho ban
lãnh đạo Khmer Đỏ. Cũng không có trả lời. Sự thật đúng như vậy. Tháng 1-1979,
khi tới Bắc kinh, tôi đã kể lại chuyện này và đưa cho người phiên dịch những
bản nháp các lá thư của tôi hồi đó, nhờ chuyển lên Chính phủ và Đảng Trung
Quốc, những bằng chứng về tấm lòng kính yêu của tôi đối với Mao Chủ tịch.
Những nỗi đau tinh thần
Tôi sinh ngày 31-10-1922. Từ đầu
tháng 10-1976 tôi đã gửi Chủ tịch Khieu Samphan lá thư viết:
“Kính thưa ngài!
Tháng 4 vừa qua, Angca kính yêu
đã uỷ nhiệm ngài báo tin cho tôi biết toàn thể gia đình tôi và tôi đều được
hưởng sự che chở cao cả của Angca. Vì vậy tôi xin phép đề nghị Angca cho tôi
một đặc ân được gặp các con cháu tôi, trong khoảng thời gian 24 giờ thôi, nhân
dịp kỷ niệm sinh nhật của tôi vào ngày 31 tháng 10 sắp tới, đó cũng là ngày tôi
tròn 54 tuổi và nếu Angca cho phép tôi cũng rất sung sướng được đặc ân gặp lại
vợ chồng người anh họ tôi là Norodom Phurissara, một người em họ nữa của tôi là
Sisowath Methavi (lúc viết thư này cho Khieu Samphan tôi chưa biết vợ Methavi
đã trở về Campuchia, cử tưởng cô ta vẫn còn ở Pháp) cùng với Xamđec Pen Nouth,
cựu Thủ tướng, hiện nay là Cố vấn tối cao của ngài, và phu nhân Pen Nouth...”.
Thời gian cứ trôi dần. Ngày 31-10
đã tới. Tôi không nhận được câu trả lời nào, một lời chúc tụng nào như trước
kia những người lãnh đạo Khmer Đỏ vẫn thường chuyển tới tôi “những lời chúc
mừng nồng nhiệt nhất”, trong khoáng thời gian 1970-1975. Họ cũng đã từng hứa
hẹn (khi nào Campuchia được giải phóng khỏi nanh vuốt đế quốc Mỹ và bè lũ tay
sai” mỗi năm đến ngày 31-10 sẽ tổ chức lễ mừng ngày sinh của tôi rất linh đình.
Ngày 31-10-1976 cuộc sống trong
Hoàng cung thật buồn tẻ vô cùng. Những đứa con gái, con trai, con rể, những đứa
cháu của tôi lúc này đang ở xa, rất xa tôi, và tôi cũng không biết chúng còn
sống hay đã chết. Đài phát thanh vẫn cứ lải nhải công kích chế độ cũ của tôi đã
cáo chung chế độ quân chủ. Dù sao, những người còn lại chung quanh tôi hôm đó
cũng tặng tôi một lẵng hoa. Mọi người đề ti mặc đẹp, trang điểm như ngày hội,
trừ Narinđrapông đã trở thành phần tử thân Khmer Đỏ.
Đêm hôm đó, tôi nằm trên giường
miên man suy nghĩ. Tôi nghĩ đến đất nước đang đau khổ. Tôi nghĩ đến các con,
các cháu tôi đang thiếu thốn đủ mọi thứ. Trong gian phòng vốn là Cung riêng của
mẹ tôi, Narinđrapông và em họ nó là Chittara tiếp tục hoan hô Angca và chửi rủa
chế độ quân chủ. Tôi không sao ngăn được dòng nước mắt. Kể từ ngày 27-4-1975 là
ngày Mẫu hậu, bà mẹ đau khổ cả về tâm trí lẫn sức khỏe của tôi từ trần, cho đến
hôm nay, sinh nhật tôi, tôi mới lại khóc.
Các nhà sư thường cạo trọc đầu.
Tôi không đi tu nhưng cũng nhiều lần cạo trọc đầu. Đối với người dân Khơme thì
cái tóc là vật rất thiêng liêng. Nhiều phụ nữ, thiếu nữ Campuchia nguyền rủa
Khmer Đỏ vì chúng bắt họ không được để tóc dài mà phải cắt rất ngắn làm cho đầu
họ như quả dừa. Khmer Đỏ nói, phải cắt tóc ngắn để đoạn tuyệt những hủ tục thời
Sangkum. Bà nào, cô nào để tóc dài và trang điểm đều bị kết tội nặng, thậm chí
bị kết án tử hình. Có điều rất kỳ lạ, Khmer Đỏ không cho để tóc dài, nhưng cũng
không cho phép cạo trọc đầu. Trước mặt tôi, Khieu Samphan đã nhiều lần chửi rủa
các sư sãi cạo trọc đầu. Có nghĩa là Khmer Đỏ cũng chửi cạnh khóe tôi vì tôi đã
cạo trọc đầu tới bốn lần. Sự phản kháng của tôi không chỉ dừng lại ở mức đó.
Trong năm 1976 tôi cũng đã hai lần tuyệt thực. Bị Khmer Đỏ chất vấn, tôi nói là
nhịn ăn để chay giới tụng kinh niệm Phật, nhịn ăn để “nhập thiền” theo Phật.
Những sợi dây liên hệ của tôi với
thế giới bên ngoài vẫn chỉ là vụng trộm nghe Đài Tiếng nói Hoa Kỳ, BBC,
Australia, đài Viễn Đông và cả đài của tín đồ đạo Thiên Chúa phát đi từ Manila,
đài Pháp, đài Bắc Kinh, đài Hà Nội, đài Băng cốc...
Nhiều đài loan tin tôi được phong
danh hiệu “người yêu nước”, được dựng tượng, được trợ cấp hậu hĩnh bằng đô-la
Mỹ. Sự thật trái ngược hẳn.
Tôi chẳng những không có một đồng
đô-la nào, một mẩu tượng nào, mà cả những quyền sơ đẳng của con người như tiếp
khách, viết thư cũng không có. Không một ai, kể cả họ hàng thân thích được phép
đến thăm tôi. Từ ngày 1-11-1976 tôi không bước ra khỏi phòng nữa. Khoảng hai
tuần sau, Khieu Samphan đến chỗ tôi. Tôi nói luôn:
- Xin ngài cho phép tôi hỏi một
câu: Angca có định bắt tôi phải tù suốt đời không? Có định tước bỏ mọi quyền sơ
đẳng của con người đối với tôi không? Các ngài đang cắt đứt mọi cây cầu nối tôi
với những bạn thân của tôi mà cũng là của các ngài, như Bắc Kinh và Bình
Nhưỡng. Tôi xin các ngài hãy đối xử với tôi như Rumani đã đối xử với vua Michel
của Rumani sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, tức là cho đi sống
lưu vong ở nước ngoài. Còn tôi thì tôi muốn luôn luôn ở lại đây với nhân dân
dưới sự che chở của Angca. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, những tù binh
của nước Đức phát xít còn được Hítle cho phép nhận thư và bưu kiện của những
người thân trong dịp lễ Noel và ngày Tết. Ở đây tôi không bằng tù binh của
Hítle. Tôi không được tiếp khách, kể cả các phái đoàn từ Trung Quốc và Triều
Tiên tới thăm Campuchia. Tôi không được gặp lại Xamđec Pen Nouth và anh họ tôi
là Phurissara. Tôi không nhận được thư của các bạn thân ở Pháp.
Tôi nói tiếp:
- Đối với tôi điều nhục nhã nhất
là sự nghi ngờ của Angca, dù tôi đã từng là bạn chiến đấu của các ngài, đã giúp
đỡ các ngài hết sức và bằng tất cả uy tín của mình để các ngài chiến thắng và
giành được chính quyền. Nếu bây giờ các ngài không tín nhiệm tôi nữa thì hãy để
tôi sống lưu vong ở Thuỵ Sĩ hoặc bất cứ nước nào do các ngài quyết định. Còn nếu
các ngài cứ thích giam tôi vĩnh viễn trong cung điện này thì xin Angca hãy đưa
tôi ra xử trước một toà án nhân dân. Ngay đến ông Risớt Nixon sau khi bị kết án
về vụ Watergate cũng vẫn còn được sang thăm Trung Quốc. Còn tôi là cựu Quốc
trưởng, được Quốc hội Campuchia dân chủ tuyên dương là “đại ái quốc” thế mà vẫn
là cựu nguyên thủ quốc gia duy nhất không được đi ra nước ngoài. Ngay ở trong
nước tôi cũng không được tự do đi lại. Tôi chỉ cách ông bạn già Pen Nouth có
vài bước chân thế mà cũng không được sang chơi. Thế thì Angca hãy bắn tôi đi.
Tôi chỉ xin các ngài, nếu có bắn thì xử bắn công khai trước mặt dân chúng.
Sau khi Khieu Samphan lẳng lặng
ra về, vợ tôi trách tôi đã đi quá đà, không những chỉ hại đến tính mạng của tôi
mà còn có hại cho tất cả các thành viên trong gia đình đang sống sót trong Điện
Khêmarin. Đúng là sau đó tôi đã bị Angca trừng phạt, tuy chưa đến chỗ chết
nhưng cũng đã bị hành hạ kéo dài suốt hai năm, bắt đầu từ ngày 30-3-1977. Ngày
hôm đó, Angca cho người tới báo tin sẽ rút những cán bộ phục vụ trong Hoàng
cung đi. Đêm hôm sau, bọn này kéo đi hết. Mọi người chung quanh tôi đều nghĩ,
có lẽ trong đêm nay bọn sát nhân sẽ tới làm nhiệm vụ. Tôi cũng tin như vậy.
Bác tôi, tức công chúa Mom. bà
già đã chăm bẵm tôi từ thời thơ ấu, oà khóc nức nở, mẹ vợ tôi ôm chặt lấy tôi,
nguyện cùng chết với tôi.
Trời tối đen. Vắng lặng. Chỉ nghe
thấy tiếng chim kêu đêm và những tiếng rít của đàn dơi kiếm mồi. Tất cả mọi
người đều sợ hãi nhưng ai cũng cố gắng giữ thái độ đĩnh đạc trước cái chết đang
tới gần, và nhất định là một cái chết thảm khốc.
Chúng tôi tắm rửa sạch sẽ, quỳ
trước tượng Phật đọc kinh cứu khổ cứu nạn. Đạo Phật cấm không được tự sát. Tôi
vẫn lo sợ bị tra tấn, hành hạ. Nếu bọn đao phủ tóm lấy tôi, lăng nhục tôi, chửi
rủa tôi, nhổ vào mặt tôi rồi nướng dần tôi trên ngọn lửa nhỏ cho đến chết hẳn
là tôi sẽ đau đớn lắm và sẽ kêu thét lên như con vật bị chọc tiết.
Có lẽ lúc đó tôi đã quá tưởng
tượng. Nhưng sau này, tức vào năm 1979, những người Việt Nam đóng quân ở
Campuchia và chính quyền Heng Xomrin đã công bố trước toàn thế giới, với những
dẫn chứng cụ thể, những tội ác mà bọn Pol Pot, Ieng Sary đã hành hạ, tra tấn
các “kẻ thù giai cấp” của chúng, bằng những hình thức mà tôi đã suy tưởng trong
Điện Khêmarin từ hai năm trước.
Người Việt Nam và Heng Xomrin đã
cho trưng bầy những cuốn vở trong đó Khmer Đỏ ghi tên những người bị chúng hành
hình. Trong số này có hai nhân vật quen biết là đại sứ Chia Xan và đại sứ Huot
Xambat, cả hai đều là cựu bộ trưởng chính phủ Vương quốc đoàn kết dân tộc và Uỷ
viên Bộ Chính trị Mặt trận đoàn kết dân tộc Campuchia.
Dĩ nhiên, thảm hoạ ghê gớm hơn
nữa sẽ dành cho tôi, người mà Khmer Đỏ lúc này coi là “kẻ thù số một”. Đó là
điều mà Pen Thula, con trai cựu Thủ tướng Pen Nouth đã nói lại với tôi vào hồi
tháng 5-1979. Nhờ cuộc tiến công của bộ đội Việt Nam Pen Thula đã thoát khỏi
địa ngục Pol Pot, trốn sang Thái Lan rồi tìm đường tới Trung Quốc gặp tôi. Có
lẽ, nếu bọn đao phủ tới đây điệu tôi đi thì tôi phải chạy vào buồng tắm uống
thuốc độc tự tử hoặc treo cổ lên một sợi dây mà tôi đã chuẩn bị sẵn, không cho
vợ tôi biết.
Nhưng rồi đêm đã qua đi mà không
xảy ra chuyện gì cả. Chỉ có điều bọn phục vụ đã rút hết, không ai tiếp tế thức
ăn cho chúng tôi nữa. Trong suốt ba ngày ba đêm, Angca cắt xuất ăn của chúng
tôi. Mãi tới ngày thứ tư chúng tôi mới lại được tiếp tế rau, thịt, trái cây.
Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là Angca đã chấm dứt trừng phạt chúng tôi.
Trong số những người theo tôi lúc
này có Ong Meang là người trung thành tận tuỵ nhất, can đảm nhất. Năm 1939, lúc
còn là một thanh niên rất trẻ anh đã phục vụ trong quân đội Pháp chống Hítle
xâm lược. Sau khi Pháp ký Hiệp ước đầu hàng Đức, anh theo lực lượng kháng chiến
của tướng Đờ Gôn, tham dự chiến dịch Bia Hakem nổi tiếng hai lần bị quân Đức
bắt làm tù binh, một lần trên đất Pháp, một lần trên đất Libi, anh đều trốn
thoát trở về tiếp tục chiến đấu. Năm 1953 khi Pháp trao trả cho Campuchia quyền
quản lý về quân sự, Ong Meang trở thành một sĩ quan trong quân đội Hoàng gia
Campuchia rồi làm tuỳ viên quân sự thuộc đại sứ quán Campuchia tại Paris. Anh ở
lại Pháp cho đến ngày 13-3-1970 thì theo tôi sang Matxcơva khi tôi đàm phán với
chính phủ Liên Xô, đề nghị Liên Xô viện trợ về quân sự. Cho tới khi giành được
toàn thắng trong cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ và Lon Nol, Ong Meang cũng như
cấp trên của anh là Sisowath Methavi luôn ở bên cạnh tôi tại Bắc Kinh, phục vụ
tôi với một tinh thần rất tận tuỵ và năng nổ. Tháng 12-1975, theo lệnh của Ieng
Sary, Sisowath Methavi từ Bắc Kinh trở về Phnompenh. Vài tháng sau, vợ Methavi
là Nanet (tức chị ruột của Monic) cũng theo chồng về Phnompenh. Tôi không bao
giờ gặp lại họ. Họ đã “mất tích” sau khi về nước được một thời gian. Nay lại
đến lượt Ong Meang.
Thật tình khi Ong Meang xin theo
tôi về nước, tôi đã bảo anh cứ ở lại Pháp. Vợ đại uý Ong Meang là người Pháp,
nhưng anh vẫn cứ tình nguyện theo tôi về Phnompenh, ngày 31-12-1975 để được
theo sát bên tôi, mặc dù anh biết Ieng Sary và bè lũ luôn coi anh như kẻ tử
thù, vì lúc còn ở Bắc Kinh (trong giai đoạn 1970 - 1975) anh đã công khai chỉ trích
chính sách “chống Sihanouk” của Ieng Sary. Anh còn ngang bướng tới mức không
bao giờ thèm chào hỏi Ieng Sary, Thioun Prasit, Kẹt Chuồn, Thiun Mum, thậm chí
bắt tay họ cũng không.
Trở về Phnompenh, Ong Meang nói
với tôi, nếu Khmer Đỏ hãm hại tôi anh sẽ lập tức chống lại Tôi trả lời, tôi lo
cho đại uý nhiều hơn. Bắt đầu từ tháng 4-1976, khi Khmer Đỏ tước hết mọi quyền
sơ đẳng của tôi và thế giới bên ngoài đang băn khoăn không hiểu Khmer Đỏ đối xử
với tôi ra sao, Ong Meang đã xin phép tôi để cho anh trốn khỏi cái “nhà ngục
vàng son” này. Anh sẽ ra nước ngoài báo động cho toàn thế giới biết tình cảnh
của tôi Anh nói: “Tính mạng của Đức ông đang bị đe doạ”. Tôi trả lời viên sĩ
quan tuỳ tùng lúc này đã trở thành người làm vườn, trồng hoa của tôi:
- Mang thân mến? Anh đừng tưởng
anh sẽ đánh lừa được Khmer Đỏ như đã đánh lừa được bọn Đức trong chiến tranh
thế giới thứ hai đâu.
Hơn nữa, anh muốn cứu mạng tôi
nhưng lại trốn khỏi cái nhà ngục này thế thi Khmer Đỏ lại càng nghi ngờ tôi ra
lệnh cho anh tẩu thoát, cái chết của tôi càng đến gần. Họ biết anh rất tận tuỵ
đối với tôi, vậy thì không khi nào anh lại bỏ tôi một mình để anh trốn chạy.
Mang thân mến! Anh không được ra khỏi cung điện. Đó là mệnh lệnh, và cũng là
lời cầu khẩn của tôi.
Suốt từ tháng 4-1976 đến tháng
4-1977, Norodom Narinđrapông và em họ nó là Sisowath Chittara luân phiên nhau
khủng bố tinh thần Ong Meang bằng cách chửi rủa chế độ quân chủ và chế độ cũ
của tôi trước mặt Ong Meang. Ong Meang không chịu hứa sẽ tuân theo mệnh lệnh
“không được đi trốn” của tôi. Anh vẫn tiếp tục lén nghe tin tức từ các đài Nhật
Bản, Australia, Mỹ, Pháp để tìm hiểu xem thế giới bên ngoài đang bàn tán những
gì chung quanh tình trạng im lặng nặng nề và đáng lo ngại của Sihanouk từ ngày
từ chức.
Ngày 18-4-1977, tức một ngày sau
lễ Quốc khánh của Campuchia “dân chủ”, Ong Meang biến mất. Như thường lệ, vào
hồi 17 giờ anh kéo chiếc xe rác ra bờ sống đổ. Những lần trước thường có hai
tên lính đi kèm. Lần này, chẳng có ai đi theo Ong Meang cả. Chúng tôi chờ mãi
tới 18 giờ, rồi tới bữa ăn tối cũng không thấy anh trở về.
Khoảng 20 giờ, một cán bộ quân sự
của Khmer Đỏ đến rủ Ong Meang đi dạo mát ngắm trăng. (Sau này, những người trốn
thoát gặp lại tôi ở Bắc Kinh cho biết, được mời đi “dạo chơi buổi tối” có nghĩa
là bị kết án tử hình), Ong Meang không có ở Hoàng cung. Lúc đó, tên Khmer Đỏ
này mới cho biết, người ta chỉ nhìn thấy chiếc xe hãy còn đầy rác bỏ lại trên
đường phố ở cổng phía nam Hoàng cung, mà không thấy Ong Meang đâu cả. Hắn kết
luận, vừa ra khỏi cổng Ong Meang đã lập tức đi trốn và mất tích.
Mất Ong Meang chưa phải là nỗi
đau tột cùng của tôi. Tôi còn nỗi đau thấm tận da thịt nữa.
Sau khi Ong Meang bỏ đi biệt
tích, chính một số thành viên trong gia đình tôi đã dìm tôi xuống đáy vực của
nỗi đau tinh thần, nỗi tủi nhục và tuyệt vọng. Narinđrapông đứa con thứ hai của
tôi với Monic và em họ nó là Chittara, con thứ của người em gái Monic hiểu rằng
tiền đồ của tôi chỉ là bị thất sủng thậm chí có thể còn bị giết chết, nên càng
ngày càng tỏ ra khinh miệt tôi. Thế mà trước kia, khi tôi còn cầm quyền và cả
trong những năm 1971, 1972, 1973, khi Chủ tịch Mao Trạch Đông và Thủ tướng Chu
Ân Lai tuyên bố là có thể tôi sẽ trở lại Campuchia đứng đầu Nhà nước thì chính
hai đứa này đã tâng bốc tôi hết lời, cả trong phát biểu cũng như trong thư. Chỉ
đến năm 1974 chúng mới bắt đầu thay đổi thái độ, khi Khmer Đỏ mở cuộc tiến công
mùa khô có tính quyết định vào bọn Lon Nol đã mất tinh thần. Ở Bắc Kinh, Ieng
Sary và vây cánh cũng nổi lên như ông chủ lớn về chính trị và ngoại giao thay
vào chỗ trước kia người ta dành cho Sihanouk để dễ bề hoạt động trên trường
quốc tế nhân danh Mặt trận đoàn kết dân tộc và chính phủ Vương quốc đoàn kết
dân tộc Campuchia.
Tháng 7-1974, Narinđrapông đang
học khoa Kinh tế chính trị tại trường Đại học Lơmônơxốp, từ Matxcơva tới Bắc
Kinh trong dịp nghỉ hè. Chịu ảnh hưởng của bọn thanh niên Khmer Đỏ do Ieng Sary
cầm đầu, Narinđrapông bắt đầu kịch liệt công kích Sihanouk, công kích chính bố
đẻ ra nó. Nó đã tiêm nhiễm thủ đoạn của Khmer Đỏ là khuyến khích con cái do
thám, điều tra, tố cáo bố mẹ. Cũng cần phải nói rằng, trong đám con trai đông
đúc của tôi thì Narinđrapông là đứa con duy nhất công khai tuyên bố là kẻ “tử
thù” của tôi, theo đúng câu chữ nó nói. Cho đến năm 1979 khi đã thoát được sang
Paris, nó vẫn cho biết sẽ “chiến đấu đến cùng chống lại Sihanouk” và làm mọi
cách không cho Sihanouk có thể nắm lại chính quyền ở Phnompenh.
Tại sao nó lại hằn thù tôi đến
như vậy trong khi chính nó lại là đứa con được tôi rất nuông chiều, dạy dỗ.
Trong số mười bốn đứa con trai của tôi, chỉ có Sihamoni và Narinđrapông là con
người vợ chính thức của tôi tức là Monic. Từ khi hai đứa ra đời cho đến tận năm
1970 là năm tôi bị lật đổ, Sihamoni và Narinđrapông đều được hưởng tất cả những
vinh dự quốc gia và quốc tế tương xứng với những người con trai của bà vợ chính
thức của một Nguyên thủ quốc gia. Năm 1969, tức chỉ một năm trước khi tôi bị
Lon Nol truất phế, Narinđrapông còn được mời tới Compuông Chàm là thành phố
quan trọng thứ hai sau Phnompenh để dự lễ đặt tên cho một sân vận động mới khánh
thành: Sân vận động Narinđrapông. Từ tuổi ấu thơ, Narinđrapông đã được chúng
tôi đưa sang Pháp và đi thăm nhiều nước bạn. Nó được theo học tại các trường
tiểu học, trung học, đại học tốt nhất ở trong và ngoài nước.
Chủ tịch Liên Xô Nikita Khrusev
đã cho Narinđrapông hồi đang học tại trường Lomonosov về nghỉ hè tại nhà riêng
của ông và ngồi trong lòng ông để chụp ảnh. Cũng như Sihamoni, Narinđrapông
không thiếu một thứ gì, và nhất là luôn luôn được hưởng hơi ấm của gia đình,
của bố mẹ, trong khi những đứa con khác của tôi lại không được cùng sống trong
cung điện. Có nên trách người Xô-viết đã nhồi sọ Narinđrapông không? Dứt khoát
không, bởi vì chính Narinđrapông vẫn tuyên bố nó chống Liên Xô, và chỉ tán
dương hết sức cái chủ nghĩa Pol Pot mà nó đánh giá là tuyệt vời.
Tại Điện Khêmarin, trong khoảng
thời gian từ tháng 4-1976 đến tháng 1-1979, Narinđrapông và em họ nó là
Chittara mặc dù thuộc phái thân Pol Pot nhưng cũng phải trải qua một cuộc sống
khổ sở trong cảnh tù đầy như tôi và Monic. Nhưng hai đứa vẫn hằng ngày chửi rủa
thậm tệ bà già Mom, và chửi cả bà ngoại của chúng, trong khi hai cụ cố hết sức
làm vui lòng chúng bằng đủ mọi cách. Hai đứa chửi tất cả các thành viên trong
gia đình, gọi mọi người là “đồ Sangkum bẩn thỉu”, là “bọn phong kiến mục nát”.
Những đau khổ tinh thần do chính
thằng con Narinđrapông của tôi gây ra, đã làm tôi đau đớn tới mức không tài nào
chịu nổi hơn tất cả những điều mà những kẻ thù xấu xa nhất đã nhục mạ tôi.
Trước kia, do muốn thắt chặt
những quan hệ giữa Campuchia với các nước xã hội chủ nghĩa, thời kỳ còn làm
Quốc trưởng tôi đã gửi năm con trai đi học ở nước ngoài. Yuvanath, Khêmanurắc,
Nariđapô học ở Trung Quốc, Sihamoni học ở Tiệp Khắc sau đó chuyển sang Triều
Tiên, Narinđrapông học ở Liên Xô. Trong số này chỉ có một mình Narinđapông theo
Khmer Đỏ. Cũng không một đứa nào học ở nước ngoài lại phản lại bố nó như
Narinđrapông.
Yuvanath, đứa anh cả, sau thắng
lợi của Khmer Đỏ đã không chịu về nước mà ở lại Hồng Công rồi sang Mỹ;
Khêmanurắc, sau cuộc đảo chính năm 1970 đã lên bưng biền chiến đấu, thư nào gửi
cho tôi cũng khẳng định “thuộc phái Sihanouk” và đã bị Khmer Đỏ giết chết từ
trước khi tôi từ chức Quốc trưởng năm 1976. Nariđapô không bao giờ có cảm tình
với Khmer Đỏ, trong những năm 60 đã quản lý một tờ báo hằng ngày in bằng tiếng
Trung Quốc xuất bản ở Phnompenh.
Sau cuộc đảo chính của Lon Nol
cháu vẫn ở lại Phnompenh tham gia các hoạt động đấu tranh bất hợp pháp (như rải
truyền đơn ủng hộ Sihanouk...) và đã bị chính quyền Lon Nol kết án 5 năm tù.
Ngày 17-4-1975 Khmer Đỏ tiến quân
vào Phnompenh đã trục xuất cháu ra khỏi thành phố cùng với toàn bộ dân chúng,
sau đó ít lâu đã bị giết chết. Cuối cùng, chỉ còn lại Sihamoni, anh ruột
Narinđrapông, đã luôn luôn và cho mãi tới nay vẫn còn là người thuộc phái bảo
hoàng, quốc gia, và... thân Sihanouk. Ít lâu sau, bà Khôn vốn là một cung tần
phục vụ Mẫu hậu mẹ tôi và bà Náp là người hầu phòng của vợ tôi cũng xin đi nơi
khác để “xa lánh bọn phong kiến”. Từ tháng 4-1977 vợ tôi bắt đầu phải tự mình
cáng đáng mọi công việc nội trợ. Rác chất đống trong vườn vì từ ngày Ong Meang
đi mất, không ai dám đẩy xe rác ra bờ sông nữa. Tôi không bị đưa đi lao động
khổ sai tại công xã, cũng không bị giết, nhưng lại phải chịu một hình phạt thậm
chí còn đau đớn hơn: đó là thái độ chửi rủa, hỗn xược của những kẻ mới cách đây
ít lâu còn đội ơn tôi.
Vợ tôi có lý khi nói với tôi:
“Tại các nước khác, bọn tội phạm đều biết bị kết án tử hình hoặc bao nhiêu năm
tù. Chúng biết rõ, cuộc sống của chúng sẽ dừng vào lúc nào, như thế nào. Còn
chúng ta, chúng ta cứ phải sống trong tình trạng bấp bênh nhất, mất tinh thần
nhiều nhất. Điều không thể chịu được là sống qua hết ngày hôm nay không chắc
chắn ngày mai sẽ còn sống nữa hay không”. Bắt đầu từ năm 1977 những thủ lĩnh
Khmer Đỏ lại bắt tôi chịu đựng thêm một hình phạt mới. Họ đã cho lùa vào Hoàng
cung một đàn bò, một đàn trâu, một lũ cừu rồi dê cái dê đực để chúng phá vườn,
hai cây ăn quả, huỷ diệt các gốc chuối, và là đái khắp mọi nơi, đặc biệt là
ngay trước nhà ở của chúng tôi. Tôi buồn rầu khi nghĩ rằng toà lâu đài này đã
từng đón tiếp nhiều nhân vật như Tướng Pháp Đờ Gôn và Nguyên soái Nam Tư Titô
nay trở thành một vườn thú thảm hại, hôi thối, suy sụp điêu tàn.
Sau này, mãi đến tháng 9-1977 đàn
gia súc mới được lùa ra khỏi Hoàng cung, nhưng thay vào đó lại là một con bò rừng
và hai con nai tơ. Một cô nai phải lòng ngay chú bò rừng lực sĩ, đi đâu cũng
cặp kè bên nhau nom rất dễ thương nhưng tôi không nhìn thấy chúng giao phối với
nhau bao giờ.
Có thể nói, phải đợi đến tận bây
giờ là khi tôi đã 55 tuổi tôi mới dần dần được biết nếp sống của những con vật
cùng chung sống trong nhà. Nếu Angca không giam giữ tôi trong cung điện thì
chẳng bao giờ tôi thèm để ý đến việc quan sát những con vật này. Trước khi xảy
ra cuộc đảo chính của Lon Nol cung điện đều phải giữ gìn hết sức sạch sẽ, trừ
diệt hết chuột, thằn lằn, thạch sùng... không được để chúng xuất hiện. Trong
thời gian hơn ba năm tôi bị cầm tù trong cung vua “nhà ngục vàng son” của tôi
ngày càng có thêm nhiều chuột, thạch sùng, thằn lằn, và cả rắn độc bò vào thăm
vợ tôi trong nhà tắm, hoặc bò vào nhà bếp thăm bà Sar Saorot và bà Khôn. Lại
thêm những tiểu đoàn côn trùng có cánh như ruồi muỗi, bướm, cào cào, châu chấu,
dế mèn, chuồn chuồn.., cứ đến tối là tràn vào các gian phòng của chúng tôi.
Muốn ngăn sự xâm lăng của chúng thì phải đóng cả cửa kính lẫn cửa chớp, nhưng
đóng kín như thế thì chết ngạt. Đành phải sống chung với chúng.
Khoảng từ năm 1976 đến 1978 vợ
chồng chúng tôi sống tại những gian phòng trước kia đã từng tiếp đón Tổng thống
Pháp Đờ Gôn, ngày nay có cả chuột kéo vào sinh sống. Những con chuột liều lĩnh
từ phòng chúng tôi chạy ra ngoài không thấy trở về đầy đủ vì lính Khmer Đỏ đã
chộp lấy chúng đem nướng sống. Phần lớn lũ chuột to cứ mất dần, chỉ còn nhiều
chuột con, chuột nhắt. Buổi sáng lũ chuột này biến đi đâu mất hết, buổi tối mới
trở về để cùng “mặt đối mặt” với vợ chồng chúng tôi trong lúc ăn cơm. Chuột bố
và chuột mẹ đi trước lũ chuột anh, chuột chị, rồi mới đến chuột con và cả chuột
cháu.
Thỉnh thoảng chúng lại trình diện
chúng tôi một lứa chuột mới đẻ, nom rất kháu khỉnh. Lũ chuột không sợ chúng
tôi. Chúng như một đàn chó tí hon, ngồi không xa bàn ăn của chúng tôi, chăm chú
nhìn chúng tôi và còn nói chuyện với chúng tôi bằng thứ ngôn ngữ riêng của
chúng, cố làm cho chúng tôi hiểu rằng phải cho chúng ăn. Chúng tôi tặng lũ
chuột những mẩu bánh mì vụn và những mẩu quả ăn thừa. Khi chậm cho chúng ăn,
chúng kêu “chít, chít” tỏ ý phản đối. Bữa ăn kết thúc, chúng khôn ngoan đi theo
một hàng dọc trở về tổ, tránh sự thèm muốn của lũ gecko.
Gecko, theo định nghĩa trong Từ
điển ngôn ngữ Rôbe của Pháp là một từ gốc Malaixia, có nghĩa là “một loài bò
sát có bốn chân, mỗi chân có những ngón dính với nhau bởi những mảng da như lá
mía”. Người Khơme chúng tôi gọi nó là con tắc kè, bởi vì nó kêu: “tắc kè, tắc
kè, tắc kè”...
Theo tập quán mê tín từ thời tổ
tiếng người Khơme chúng tôi thường đếm tiếng tắc-kè để bói xem người chung sống
với mình có lừa dối không; và nếu chưa có vợ có chồng thì đếm tiếng tắc-kè để
bói xem người vợ hoặc người chồng tương lai của mình có phải đã goá chồng, goá
vợ hay không, hoặc người vợ, người chồng tương lai của mình có phải là gái
trinh, trai tân hay không. Ví dụ, nghe tiếng “tắc-kè” đầu tiên anh con trai
đang cầu hôn nói: “Krâmom” (nghĩa là gái trinh) đến tiếng “tắc-kè” thứ hai lại
nói “mêmay” (có nghĩa là gái goá) và cứ thế, tuần tự nói “krâmom” rồi lại nói
“mêmay” nhịp với tiếng kêu của con tắc-kè cực kỳ xấu xa ghê tởm cho tới khi con
tắc-kè chấm dứt bài ca dai dẳng bằng cái giọng khàn khàn đáng sợ của nó.
Nếu tiếng kêu cuối cùng của con
tắc-kè nhịp với câu “mêmay” thì mọi người chung quanh sẽ cười ồ lên, tới tấp
chia buồn với người bói toán, bởi vì sẽ lấy phải gái goá, và những người goá
chồng hoặc đã ly dị chồng đều bị coi là “đồng tiền mất giá”.
Về phần tôi, tôi chỉ bói tắc-kè
để xem có thoát khỏi tay bọn Pol Pot hay không, khi con tắc-kè vừa bắt đầu kêu
tiếng đầu tiên, tôi nói: “sẽ thoát”. Đến tiếng thứ hai, tôi nói: “không thoát”
và cứ thế tiếp tục, tuần tự nhịp với tiếng kêu của con tắc-kè cho tới tiếng kêu
cuối cùng. Thật lạ cùng, bao giờ tiếng tắc-kè cuối cùng, dù là con tắc-kè trong
phòng tối hay con tắc-kè trên cây bên ngoài nhà, cũng nhịp với tiếng tôi nói:
“không thoát”. Có nghĩa là tôi sẽ bị Khmer Đỏ giam giữ suốt đời.
Điều đó làm tôi rất buồn. Cũng
may, tôi không bao giờ tò mò tới mức muốn hỏi con tắc-kè xem liệu tôi có bị bọn
Pol Pot, Ieng Sary thủ tiêu hay không.
Tôi chịu đựng rất khó khăn cảnh
tượng con vật này nhai ngấu nghiến con vật khác một cách không thương tiếc, vì
ngày nào tôi cũng đứng trầm lặng hàng giờ trong phòng khách, tôi đã buộc phải
nhìn thấy, rồi đi tới chỗ chăm chú quan sát tập quán của những con vật nhỏ
chung quanh tôi, nhung nhúc trên tường và cả trên trần nhà. Vì vậy, ngày nào
tôi cũng phải chứng kiến con vật bé bị con vật lớn tàn sát, con vật yếu bị con
vật khỏe ăn thịt. Đó là luật rừng. Luật rừng không phải chỉ có trong khung cảnh
thiên nhiên rộng lớn, nơi có sư tử hổ báo, chó soi, cá sấu tiến công và ăn ngấu
nghiến những con vật không có gì để tự vệ. Luật rừng khủng khiếp diễn ra ở khắp
mọi nơi, ở cả dưới nước, nơi con cá sấu hung dừ đớp cả người. Nhưng cũng không
nên quên, chính những con cá nhỏ bé, xinh xinh có vẻ vô hại cũng lại là những
con “cá sấu” không thương sót đối với những con vật bé nhỏ hơn chúng.
Trong gian phòng ở “Cung vua” của
tôi, tôi nhìn thấy ngay trước mắt mình những con thằn lằn cắn con thạch sùng.
Con thạch sùng vừa giãy giụa một cách vô ích vừa kêu những tiếng tuyệt vọng xé
lòng. Rồi thì những con thạch sùng bé nhỏ (cũng thuộc loài bò sát) cứ dần dần
lọt thỏm trong miệng con thằn lằn, y như con thỏ lọt vào mõm con trăn. Những
tiếng kêu tắt hẳn khi những chi dưới của con thạch sùng không còn cử động được
nữa và cái đầu cũng biến mất. Tuy nhiên, những con thạch sùng “ngây thơ và vô
hại” đến lượt chúng cũng biến thành những con quái vật hung dữ khi chúng bắt
gặp trước tầm mõm những con vật bé nhỏ hơn chúng, và chúng cũng nuốt trửng
không thương tiếc những miếng mồi đó.
Dù sao, những con vật nhỏ này
cũng có những lý do để xá tội: trước hết, chúng không phải như chúng ta, chúng
không có trí óc thông minh để phân biệt được đâu là thiện, đâu là ác, trong khi
chúng ta là những con người, chúng ta thật sự phải chịu trách nhiệm vì chúng ta
có ý thức về những hành động của mình. Hơn nữa, nếu những con vật nhỏ này tiến
công những con vật nhỏ hơn hoặc yếu hơn để ăn thịt, là bởi vì chúng đói và cần
tồn tại. Còn tội ác của con người thì không thể biện minh được.
Những con vật bị hi sinh, nhiều
khi chúng cũng tự nguyện làm mồi cho những con khác. Điều đó, âu cũng lại là
một định luật của tạo hoá muốn một số loài vật phải tự nguyện hiến thân cho đao
phủ. Đó là những con bướm trong gian phòng của tôi ở Điện Khêmarin. Một số con
bướm này, khi mới nhìn thấy, con thạch sùng đã vội ngừng đùa giỡn với ánh sáng
đèn điện để đến làm mồi cho thạch sùng. Với những chiếc cánh của nó, bướm có
thể bay đi trốn tránh tới cùng, không để cho thạch sùng đớp phải, nhưng nó vẫn
cứ có vẻ như tự nguyện dâng mình cho kẻ ăn thịt nó. Tôi đã cố cứu bướm thoát
chết bằng cách dùng khăn mặt hoặc dùng quạt đuổi bướm ra xa thạch sùng. Nhưng
không được. Bướm vẫn quay tít lại gần con vật “ngấu nghiến” chúng. Tôi dùng gậy
đuổi thạch sùng đi. Nhưng, bướm vẫn trung thành theo đuổi tên đao phủ cho tới
khi bị ăn thịt. Cũng đã nhiều lần, tôi cố đuổi tắc-kè xa thạch sùng, nhưng rõ
ràng thạch sùng không tỏ ra một chút cố gắng nào hòng thoát khỏi kẻ giết mình.
Vậy mà những con thạch sùng lại nhẹ nhàng hơn, linh hoạt hơn, chụp nhanh hơn
những con tắc-kè khá nặng nề.
Tôi cũng đã từng được biết những
con gà trống cực kỳ thông minh. Năm 1970, vài tuần trước khi xảy ra vụ đảo
chính của Lon Nol, khi đến chơi nhà ông bạn Xam Lơ Trôn ở bên Pháp, tôi đã nhìn
thấy những con gà trống hút thuốc lá, biết nhào lộn và những con gà mái chỉ đẻ
trứng khi ông bạn tôi ra lệnh. Trong khoảng thời gian từ năm 1976 đến năm 1977
ở Điện Khêmarin tôi rất chú ý đến một con gà trống xinh đẹp trong đàn gà của
Khmer Đỏ. Con gà trống này có ba vợ, sáng nào cũng dẫn ba con gà mái này đi dạo
chơi. Con vợ nó yêu thích nhất là một cô gà mái có vẻ trẻ nhất, có bộ lông đen
nhất, lúc nào cũng như dính sát bên cạnh con gà trống. Con gà chồng dẫn đàn vợ
đi một cách tự hào đến trước mặt vợ chồng chúng tôi để xin ăn. Nó thích ăn
chuối vô cùng. Khi không nhìn thấy tôi xuất hiện trước cửa sổ vào khoảng mười
giờ sáng như thường lệ, con gà trống liền nhảy lên chiếc ghế dài đặt ở bên dưới
cửa sổ. Tôi núp kín một chỗ, bí mật quan sát. Con gà trống chăm chú nhìn qua
cửa sổ, đảo mắt tìm tôi. Nếu vợ chồng chúng tôi chậm xuất hiện, nó liền cất
tiếng gáy tỏ vẻ sốt ruột. Lúc đó chúng tôi mới vứt một quả chuối cho nó. Con gà
chồng mời các bà vợ cùng ăn, dành cho các bà vợ những mẩu ngon nhất. Quả là một
đức ông quý tộc hào nhoáng, bên cạnh nó tôi cảm thấy bị... lu mờ?
Tôi vẫn thường mơ về một hành
tinh đẹp” là trái đất của chúng tôi. Nhờ có những vệ tinh nhân tạo của trái đất
và những con tàu vũ trụ, ngày nay người ta đã có những tấm ảnh rực rỡ của trái
đất, đẹp đẽ và cuốn hút, với tất cả những màu trắng của mây, màu xanh tươi của
thực vật, mầu xanh thẫm của biển và đại dương, màu vàng màu da cam, màu son,
màu xám của đất và đá... Từ trên cao nhìn xuống, trái đất có vẻ như thiên đàng.
Nhưng nếu các thiên thần hạ cánh
xuống trái đất thì có lẽ họ sẽ khiếp hãi vì những cảnh khốn cùng ở khắp mọi
nơi.
Con người đã chế tạo được nước
hoa, nhưng không bao giờ khử được hết mùi phân lộn mửa.
Và nhất là, có những người tự
xưng là văn minh nhưng lại là hiện thân của cả quỷ Sa-tăng lẫn ông Bụt, là
những kẻ đối xử với nhau tàn ác nhất.
Chẳng ở đâu có an ninh. Nơi nào
cũng có sự xấu xa kinh tởm, ngay cả ở Liên Hợp Quốc cũng là nơi người ta nhìn
thấy một ông Ieng Sary không chút mặc cảm nhân danh chế độ “diệt chủng” thảm
sát dân tộc và nhân dân “long trọng” ký tên gia nhập Hiến chương bảo vệ nhân
quyền. Sự tuyên truyền của Khmer Đỏ không ngừng tuyên bố Angca đạt được những
nguyên tắc tốt nhất về vệ sinh và tiết kiệm đã khắc sâu trong óc người dân và
người lính. Bị giam trong Hoàng cung nhiều tháng không được ra ngoài, tôi không
có điều kiện nhìn thấy những cái gọi là “kết quả vĩ đại và không gì so sánh
nổi” của chính sách moha aschar (cực kỳ ghê gớm) của Angca trong lĩnh vực này.
Nhưng tôi đã có thể quan sát được tất cả những gì trong lòng Hoàng cung đang
trở thành một thứ trại lính của Khmer Đỏ.
Từ khi đại uý Ong Meang, viên sĩ
quan tuỳ tùng trung thành của tôi biến mất, tôi không còn ai giúp việc để đi ra
bờ sông đổ những đống rác đang chất thành từng đống. Vả lại, con sông Tônlê Xáp
xinh đẹp từ ngày Khmer Đỏ lên nắm quyền cũng đã biến thành con sông cực kỳ bẩn
thỉu, hai bên bờ, ngập đầy những đống rác, nhất là vào mùa nước xuống. Nước sống
ngày càng bị ô nhiễm.
Những người dân (mới đến) vẫn cứ
phải tự coi là những người sung sướng ở Phnompenh vì còn có cái thứ nước sông ô
nhiễm này để giặt quần áo (chỉ còn ít ỏi), để tắm rửa và... uống. Trong Hoàng
cung có nước máy. Nhưng vin vào lý do phải tưới cây, lính Khmer Đỏ cứ để cho
nước máy chảy tràn suốt ngày đêm không buồn nghĩ đến chuyện khoá với nước.
Những ống dẫn nước, lắp nối rất kém, đã rò rỉ. Việc lãng phí nguồn nước có thể
uống được quả là kỳ cục. Nước sạch cứ thế ngập úng thảm cỏ, ngập cả lối đi suốt
ngày đêm. Trong Điện Khêmarin thỉnh thoảng người ta cũng sửa chữa những ống dẫn
nước. Nhưng căn cứ vào những nguyên tắc mà bộ đội Khmer Đỏ, bao gồm cả những bộ
tộc miền núi, cho rằng cái gì mình cũng biết làm; ta hãy thử hình dung các anh
thợ hàn và thợ điện bất đắc dĩ của năm 1977 này như thế nào?
Năm 1976 hãy còn vài công nhân
chuyên nghiệp của “xã hội cũ”. Đến năm 1977, có vẻ như những người Khmer Đỏ
“thuần chủng” có thể tự bay bổng được đôi cánh của mình và làm chủ được bất kể
môn khoa học nào, bất kể ngành kỹ thuật nào.
Những công nhân và nhân viên kỹ
thuật của xã hội cũ cứ biến mất dần. Tôi không bao giờ còn được gặp lại họ nữa.
Kết quả làm “ngôi nhà cung vua” của tôi cứ dần dần mục nát và đến cuối năm 1978
thì không thể ở được nữa. Các ống dẫn nước tiếp tục ngày càng rò rỉ. Mỗi ngày
nhà máy điện thành phố lại có ít nhất một hoặc hai sự cố kéo dài nhiều giờ.
Những lần mất điện ban đêm càng làm cho những buổi tối và đêm trong cung điện
thêm nặng nề, lo ngại và khiếp sợ. Ngay cả đêm sáng trăng cũng rất ảm đạm. Cuối
cùng, đến những cánh cửa ra vào và cửa sổ cũng không mở ra khép vào được từ
những chốt sắt đã gỉ. Những toà nhà khác trong Hoàng cung cũng ngày càng tồi
tệ. Điện chính, nơi đặt ngai vàng, phủ đầy bụi. Phần lớn các cánh cửa sổ không
khép lại được. Nhưng ngược lại, có những cánh cửa không mở ra được. Thời tiết
nắng mưa ảnh hưởng xấu đến nội thất.
Lính Khơme Đó chiếm đóng một phần
trong số nhiều toà nhà ở Hoàng cung. Khi một căn hộ nào đó không còn ở được nữa
hoặc một phòng tắm không dùng được bọn lính lại cuốn gói kéo đi tìm một toà nhà
khác. Thế là cuối cùng, chúng lần lượt chiếm cả toà lâu đài lộng lẫy nhất trong
Hoàng cung, sau Điện Khêmarin. Đó là Điện Cantha Bopha. Toà nhà đẹp đẽ có đồ
đạc sang trọng này đã được sử dụng làm nơi tiếp đón nhiều vị thượng khách tới
thăm chính thức hoặc với tư cách cá nhân, như vợ chồng Tổng thống Pháp Vanhxăng
Ôriôn, Công chúa Alêchxanđra xứ Kenia, Nguyên soái Trung Quốc Trần Nghị, Thống
chế Ai Cập Amer... Bộ đội Khmer Đỏ đã biến nơi đây thành trại lính với giường
dã chiến, võng... Nhà bếp biến thành chuồng nuôi một con khỉ, một con vẹt vài
con gà. Một trong những phòng khách sang trọng đã từng nghênh tiếp Công chúa
Alêchxanđra và Phu nhân Tổng thống Vanhxăng Ôriôn nay trở thành bếp ăn của lính
Khmer Đỏ. Qua cửa sổ một số nhà trong Hoàng cung có thể nhìn thấy những toà nhà
gần, như Viện Bảo tàng Quốc gia kiến trúc theo kiểu Khơme truyền thống, những
vườn hoa đã biến thành vườn rau trồng chuối hoặc biến thành những bãi đất trồng
dâu, trồng mía, gỗ cửa sổ đã bị dùng làm củi để nấu cơm. Bên trong Hoàng cung,
những đống rác rưởi phế thải lâu ngày chất cao như núi, thu hút hàng “sư đoàn”
ruồi. Lính Khmer Đỏ tha hồ bắt chuột đem nướng sống vì chuột nhung nhúc khắp
mọi nơi, cũng bởi vì không còn cả chó lẫn mèo để bắt chuột nữa. Lính Khmer Đỏ
ăn cả chó, mèo, rắn...
Mỗi buổi chiều, khi mặt trời lặn
tôi thường nhìn qua cửa sổ đàn chim bay về phía chân trời xa tắp Con chim có
cánh để bay. Khoảng trời tự do của chúng không bờ bến. Mặc dù dưới vòm trời
thanh bình vẫn có những con chim lớn săn mồi có thể đuổi bắt chim nhỏ để ăn
thịt, nhưng ít nhất con chim dù nhỏ bé nhất vẫn có cánh tung bay, tìm một vận
may ở một nơi nào đó. Còn tôi, tôi đang bị đóng đanh trên mặt đất, chẳng những
không bay đi tìm tự do được, mà cũng chẳng giúp gì cho nhân dân của tôi đang bị
giết hại.
Tất cả mọi người xứng đáng với
chữ “người” đều phải yêu thích trẻ con vì đó là hiện thân của sự ngây thơ,
trong trắng. Đi ra ngoài quy luật này, bọn Pol Pot, Ieng Sary, Nuon Chia... đã
dìm lũ trẻ Khơme trong đại dương của sự khốn cùng, phải lao động cực nhục, bị
cưỡng bức, hành hạ, kèm theo những sự trừng phạt tàn nhẫn. Năm 1978 đài phát
thanh của Việt Nam đã phát đi nhiều chứng cớ do những người Khơme thoát khỏi
địa ngục Pol Pot trốn chạy sang miền Nam Việt Nam lánh nạn kể lại. Những người
này cho biết những trẻ em bị Angca quyết định trừng phạt đã bị, hoặc vứt xuống
hồ nuôi cá sấu, hoặc nắm cẳng chân rồi quật mạnh vào thân cây cho đến chết,
hoặc trùm kín đầu trong túi ni-lông cho đến khi nghẹt thở, hoặc bị đập gậy vào
đầu, vào gáy bị giết bằng rìu, búa, xẻng, cuốc, bị treo lên cây, mổ bụng moi
gan đưa về bếp ăn cho binh lính. Ở nước chúng tôi, gan người được coi như thuốc
bổ trường sinh nổi tiếng. Trong những năm 1981, 1982 tôi cũng đã được nghe
chính miệng những người trốn thoát ra nước ngoài xác nhận cái chết của mười bốn
người con, người cháu gọi tôi bằng ông, cùng với bố mẹ chúng là con trai, con
gái, con dâu, con rể của tôi bị giết hại trong các công xã.
Tôi hình dung thấy những nỗi đau
đớn không tả xiết mà đàn cháu nhỏ vô tội của tôi đã phải chịu đựng trước khi
trút hơi thở cuối cùng. Có lẽ, trước khi chết, các cháu trai cháu gái khốn khổ
của tôi đã tự hỏi, tại sao ông nội, ông ngoại “đế vương” lại quyết định đưa các
cháu về Campuchia cùng với bố mẹ để rồi phải chịu đau khổ và chết thảm như thế
này. Trong lịch sử loài người chưa bao giờ có một sự độc ác dã man như vậy đối
với trẻ nhỏ. Nỗi ân hận cứ ám ảnh tôi suốt ngày đêm. Từ đó trở đi, không đêm
nào tôi chợp mắt được nếu không uống thuốc ngủ, và những giấc ngủ ngắn ngủi của
tôi cũng toàn là những cơn ác mộng.
Trước khi bị đưa đi đầy tại các
trại lao động tập trung, đàn cháu gọi tôi bằng ông vẫn còn được ở trong một
biệt thự hiện đại gần đài Độc Lập cùng với bố mẹ các cháu. Đó là một “đặc ân”
của Angca.
Các cháu không được phép nhặt các
trái cây đã bị thối, rụng xuống nền đất và trên bãi cỏ. Người lính chịu trách
nhiệm canh giữ đã báo với chúng và bố mẹ chúng: “Những trái cây này, dù đã bị
thối, cũng vẫn thuộc tài sản của Angca. Không được phép của Angca thì không ai
được nhặt”.
Những đứa con và đàn cháu không
được ưu tiên sống với tôi trong Hoàng cung mỗi ngày chỉ nhận được một suất ăn
không đủ no mà cũng chẳng ngon lành gì. Đàn cháu gọi tôi bằng ông, nhất là
những cháu còn nhỏ, rất đói, thường khóc nức nở suốt ngày. Để dẹp bớt phần nào
cơn đói, mặc dù đã có lệnh cấm, bố mẹ các cháu vẫn cố lén lút nhặt vài quả nhỏ
từ trên cây rụng xuống. Một lần, tên lính canh bắt được đã đe doạ giết chết “để
dạy cho con cái biết tôn trọng của cải của nhân dân trước kia đã từng bị bọn
vua chúa bóc lột”.
Trước khi tôi bị thất sủng, đàn
con cháu này theo lời đề nghị của tôi, vẫn được Angca cho phép tới thăm tôi mỗi
tháng một lần, khoảng hai mươi bốn giờ, tại Hoàng cung. Tôi đã cho con cháu ăn
trong một ngày bằng một tháng của chúng. Và hôm đó, các cháu cũng có thể tha hồ
nhặt các trái cây rơi từ các cây trong vườn Hoàng cung, từ cuối tháng 12-1975
đến tháng 4-1976 thì chấm dứt sau khi tôi từ chức.
Một hôm, tôi sửng sốt thấy hai
cổng lớn ở vành ngoài Hoàng cung và hai cổng nội cung mở rộng. Tôi chưa kịp tự
hỏi điều gì xảy ra thì từ cửa sổ gian phòng tỏi đã nhìn thấy cả một đội quân
trẻ con từ năm đến tám tuổi, mang theo các dụng cụ làm vườn tạp nham và thô sơ,
có binh lính khoảng từ 15 đến 20 tuổi đi kèm, tiến vào Hoàng cung. Lúc này, khu
vườn trong Hoàng cung đã trở thành một khu rừng thanh tân có nhiều thú vật bốn
chân và rắn rết, thằn lằn, còn các “đường mòn” trong rừng thì đầy phân súc vật
và phân người. Hẳn là Angca đáng tôn kính nghĩ rằng đã tới lúc phải tắm rửa đôi
chút cho cái công viên đang biến thành rừng này, bởi vì thỉnh thoảng ở vành
ngoài Hoàng cung vẫn có các vị khách nước ngoài tới thăm cung điện trước kia
đặt ngai vàng. Hơn nữa, thời kỳ tôi chưa bị thất sủng, một người lính đã nói
với tôi: “Những đám cỏ mọc quá cao và những lùm cây quá rộng có thể bị bọn gián
điệp và kẻ địch dùng làm nơi ẩn nấp để tìm cách tiếp xúc với những người chung
quanh Xamđec, hoặc xâm phạm đến tính mạng Xamđec”.
Sứ mệnh trao cho lũ nhóc “đàn con
của Angca” gồm có: cắt hoặc nhổ cỏ, tỉa cành tỉa là cho cây bớt rậm rạp. Bọn
con nít đi thành hàng hai. Khi chúng đến cách cửa sổ của tôi khoảng năm chục
mét, tôi cố tìm một cách tuyệt vọng trong đám trẻ con lam lũ, bẩn thỉu, đầu tóc
bù xù, quần áo bạc mầu bám đầy bụi và bùn đất, rách rưới, xem có các cháu tôi
bị tách biệt với tôi từ tháng 4-1976 trong đo không. Hỡi ôi? Chẳng có đứa trẻ
nào thuộc gia đình tôi. Hơn nữa phần lớn bọn trẻ con này đều thuộc các bộ tộc
miền núi giọng nói của chúng không thể nhầm lẫn được. Thái độ cử chỉ của chúng
cũng khác với trẻ con thành phố và vùng đồng bằng châu thổ Mê công. Nhưng, điều
làm cho tôi ngạc nhiên, chính là những câu nói không biết chúng đã học được của
ai, kể từ ngày Angca tách rời vĩnh viễn bọn chúng với môi trường tự nhiên và
cha mẹ chúng.
Ngay sau khi bọn lính đàn anh vừa
cho phép chúng được giải tán chúng liền bắt đầu ngay một trò chơi kỳ cục: chúng
chửi nhau, rủa nhau, vừa cười vừa tuôn ra những lời thô bỉ, tục tĩu. Đáng lẽ
phải dọn dẹp sửa sang vườn tược (mà bản thân chúng cũng rất bẩn thỉu tới mức không
thể tưởng tượng được là chúng lại có thể làm sạch được cung điện của các triều
đại vua cũ của chúng tôi) lũ nhóc này lại lao ngay vào việc nhặt những quả rơi
từ trên cây xuống đất. Rõ ràng chúng đang đói.
Từ trên cửa sổ nhìn xuống thấy
cảnh tượng đáng thương này, tôi đau đớn nghĩ đến đàn cháu tôi đang mất tích.
Nếu Angca vẫn còn cho chúng được sống, hoặc là nếu chúng còn sống sót, thì
chúng cũng vẫn đang còn khốn khổ như đám trẻ con miền núi này. Dù còn “man rợ”
vì sinh ra trên mảnh đất vốn quen săn bắn và sống tự do, ít nhất chúng vẫn còn
có thể được cười đùa, được chơi các trò chửi rủa nhau, đánh nhau một cách vui
vẻ để giành giật vài trái cây chưa bị chim mổ nát. Tôi không thể không so sánh
số phận lũ trẻ này với lớp thanh thiếu niên Bắc Triều Tiên. Tôi khâm phục
Nguyên soái Kim Nhật Thành về những việc ông đã làm cho nhân dân và thanh thiếu
niên của ông.
Tại nước Cộng hoà dân chủ nhân
dân Triều Tiên, người ta có thể tuyên bố mà không phải cải chính, rằng trẻ con
là vua. Ở thủ đô Bình Nhưỡng cũng như tại các tỉnh, các thị trấn, cho tới tận
các xóm làng xa xôi nhất, trẻ con không thiếu thốn một thứ gì, được cưng chiều
trong lòng gia đình, được Nhà nước và chính quyền chăm sóc tốt. Người ta chính
thức gọi chúng là “đàn con của lãnh tụ vĩ đại” ở nơi nào các cháu cũng có những
Cung thiếu nhi, những nhà trẻ, những trung tâm nghỉ hè. Các cháu lúc nào cũng
rất sạch sẽ, quần áo đẹp. Không những các cháu được hưởng một hệ thống giáo dục
rất hiện đại mà còn có cả những đồ chơi như thường thấy ở châu Âu, châu Mỹ. Trong
Cung thiếu nhi, từ khi còn rất ít tuổi, các cháu đã được học ký xướng âm và
chơi nhạc cụ. Thanh niên nam nữ Triều Tiên hiện nay, mỗi người chơi được hai
thứ nhạc cụ tuỳ theo sở thích của mình như pianô; accoócđêông, xacxôphôn,
clarinit, kèn đồng, viôlông xen, ghita, sáo và các nhạc cụ dân tộc truyền
thống. Tất cả các lớp học nhạc đều không phải đóng tiền. Ngoài ra còn được học
múa ba lê và các điệu múa dân tộc hoặc hiện đại, kể cả múa cổ điển phương Tây.
Ông Khieu Samphan đã chọc tức tôi
khi ông nói:
- Những việc chính phủ Triều Tiên
làm đối với trẻ con nước họ thật khó hiểu. Các bạn Triều Tiên chúng ta quả đã
tốn nhiều thời gian và tiền của để dốc vào việc nuông chiều trẻ con. Thật là kỳ
cục khi dậy trẻ con chơi pianô; accoócđêông. Ở nước ta, không có cái kiểu giáo
dục trẻ con như thế!
Khieu Samphan hiểu rằng tôi tán
thành việc giáo dục âm nhạc, nghệ thuật cho trẻ em như thế nào. Ông ta cũng
biết, bản thân tôi có chơi vài nhạc cụ khi chưa bị dìm sâu vào tai hoạ triền
miên kể từ ngày 18-3-1970. Ông nhìn tôi, cố tìm phản ứng khi nghe ông chỉ trích
ông bạn thân nhất của tôi là Chủ tịch Kim Nhật Thành. Nhưng tôi đành trả lời
ông:
- Kính thưa ngài, mỗi nước có một
cách giáo dục thanh thiếu niên thích ứng với từng nước đó.
Than ôi! Lứa thanh thiếu niên
được Angca tôi luyện “cứng rắn” chẳng bao lâu nữa sẽ tháo chạy toán loạn trước
đòn tiến công chớp nhoáng của Việt Nam trong khoảng thời gian từ 25-12-1978 đến
ngày 7-1-1979. Còn bây giờ, “đàn con của Angca” sau khi đã chén no tất cả những
trái cây có thể ăn được, rụng xuống đất trong vườn, bắt đầu bắt tay vào công
việc. Nếu chúng tôi đang không phải ngụp trong tấn bi kịch thì cái cảnh “tắm
rửa” cho cung điện do lũ nhóc này phụ trách quả là đã gây cười bởi vì nó là
đỉnh cao của hài kịch. Đó là cảnh tượng vô chính phủ mạnh ai nấy làm. Bọn lính
không phải làm công việc này. Còn lũ trẻ con cũng không biết làm được gì với
những lưỡi liềm hái đã gỉ, những xẻng, cuốc, kéo cắt cỏ, kéo cắt cành cũng hoàn
toàn gỉ, có những dụng cụ cao hơn cả bọn chúng. Bọn chúng cố làm được đến đâu
thì làm.
Ta hãy thử tưởng tượng một đứa bé
không có kinh nghiệm thợ cạo thế mà người ta lại bắt nó phải cắt tóc cạo râu
cho một người râu tóc bù xù thì thật là một thảm hoạ. Trước khi có cuộc tắm rửa
kỳ khôi này, những bãi cỏ vườn cây những cây to cây nhỏ dù hoang dã vẫn không
thiếu vẻ lôi cuốn và vẻ bí ẩn kỳ vĩ. Nhưng sau khi lũ trẻ dọn dẹp sửa sang xong
thì tất cả đều bị đảo lộn. Cỏ bị cắt xén lung tung, nham nhở cây nhỏ bị tỉa
cành đã không tôn vẻ văn minh cho khu vườn mà còn làm mất đi vẻ hoang vu quyến
rũ. Ngược lại, lũ trẻ con đã cung cấp cho tôi, suốt một ngày, một cảnh tượng
khác thường của những “người - khỉ” rất linh hoạt vừa nô đùa vừa nhanh nhẹn
trèo cây, chuyền cành, hái quả, rồi ngồi vắt vẻo như cưỡi ngựa trên những cành
cây không bị chặt để nhấm nháp. Lúc mặt trời lặn, các chú Tác-giăng tí hon quay
trở lại cái “công xã” hoặc một trại lao công nào đó tôi cũng chẳng biết nữa.
Tất cả những cảnh tượng giữa hai lớp tường bao quanh hoàng cung chỉ mở đặc biệt
trong ngày hôm đó nay lại khép kín, cài then và khoá chặt, tiếp tục dìm tôi
trong nỗi cô đơn và sự tuyệt vọng.
Vài tháng nữa tiếp tục trôi đi...
Một buổi sáng, lúc Sihamoni đang
quét lối đi và tưới cây thì lũ “người - khỉ” tí hon này lại xuất hiện trên
những cành cây phía ngoài bức tường bao quanh toà lâu đài trước kia là Cung
vua. Chúng hái me. Tôi nghe thấy những tiếng cười lanh lảnh và những tiếng chửi
rủa tục tĩu của chúng. Rồi, khi nhìn thấy Sihamoni, chúng chỉ tay về phía con
tôi đang lao động vất vả, từ trên cành cây cao hơn bức tường một tên trong bọn
chúng nói to: “Này, chúng bay ơi! Hãy nhìn thằng con bọn phong kiến đang bị
Angca của chúng ta bắt tù. Nó phải làm việc cật lực thế này, quả là thú vị”.
Quả thật, với bộ quần áo lao động
đã cũ và rách vá, Sihamoni giống hệt một thằng tù. Mà qui chế dành cho chúng
tôi kể từ khi bị giam giữ chặt chẽ từ tháng 4-1976 đến giữa năm 1978, cũng là
qui chế của nhà tù chính trị.
Tin xấu... tức là tin tốt lành
Tôi không thể hình dung được
cuộc sống trong tù sẽ như thế nào nếu như tôi không duy trì được sợi dây liên
lạc độc nhất với thế giới bên ngoài là cái máy thu thanh. Tôi nghĩ tôi sẽ phát
điên nếu không có phương tiện nghe ngóng tin tức thế giới, dù chỉ nghe lén lút.
Chính những “tin xấu” mà các đài phát thanh bên ngoài truyền đi về chế độ phản
dân của bọn Pol Pot đối với tôi và những người chung quanh tôi, trừ
Narinđrapông và Chittara lại là những “tin tốt lành”. Nó như liều thuốc làm dịu
vết thương của chúng tôi.
Qua các đài phát thanh nước
ngoài, tôi được biết một vài người bạn Pháp cùng với một số người trong gia
đình tôi lúc này đang sống ở Pháp, đang vận động các nhà lãnh đạo một số nước
vốn có thiện cảm với tôi, gây sức ép để Khmer Đỏ phải cho biết số phận hiện nay
của tôi ra sao. Sau này tôi được biết thêm, nhiều vị đứng đầu các nước và nhiều
nhân vật nổi tiếng ở châu Á, châu Phi, châu Âu và thế giới Arập đã tích cực
liên tiếp vận động Pol Pot, Ieng Sary và Khieu Samphan trả lại tự do cho tôi.
Tổng thống Mỹ thời kỳ bấy giờ là Jimmi Catơ có lần đã làm tôi vô cùng phấn khởi
khi nghe thấy ông công khai tuyên bố chế độ Pol Pot ở Phnompenh là phản động
nhất thế giới. Nhưng một lần khác ông lại làm tôi buồn nản khi ông lên tiếng
không đồng ý với thượng nghị sĩ Mác Gavôn đòi thành lập khẩn cấp một lực lượng
quốc tế giải phóng cho nhân dân Campuchia thoát khỏi bàn tay bọn đao phủ. Thế
là, hi vọng cuối cùng được nhìn thấy đất nước tôi, nhân dân tôi và bản thân tôi
thoát khỏi địa ngục Pol Pot vụt tan biến. Hỡi ôi thượng nghị sĩ Mỹ Mac Gavôn
lúc đó mới chỉ là một nhà chính trị duy nhất trên thế giới dám công khai tuyên
bố, biên giới của một nước có thể phải vượt qua nhằm cứu vớt toàn bộ một dân
tộc, một chủng tộc, đang có nguy cơ tuyệt diệt.
Những tin tức khác, hấp dẫn
hơn và đỡ buồn hơn, cho tôi biết về cuộc sống của các đoàn ngoại giao ở
Campuchia. Từ cuối năm 1977 một vài đài phát thanh trên thế giới đã loan tin có
sự bất đồng giữa chế độ Phnompenh với một số nước xã hội chủ nghĩa có đặt sứ
quán tại Phnompenh. Đặc biệt là Cuba và Anbani, tuy chưa hoàn toàn cắt đứt quan
hệ ngoại giao với Pol Pot nhưng đã tuần tự rút đại sứ, rồi đại biện lâm thời,
rồi cả một số cán bộ ngoại giao nữa ở Pol Pot về nước. Sau khi rời Phnompenh,
đoàn ngoại giao của Cuba lớn tiếng tuyên bố với thế giới: “Phnompenh là một
thành phố ma và đoàn ngoại giao ở Phnompenh là những người tù thật sự”. Những
nhà ngoại giao này của Cuba cho biết ở Phnompenh không sao nói chuyện điện
thoại với nhau được. Tuy sứ quán nào cũng có máy điện thoại, nhưng chỉ có một
đường dây liên lạc nối với Bộ Ngoại giao do Ieng Sary đứng đầu. Từ Bộ Ngoại
giao gọi xuống các sứ quán thì được, nhưng từ các sứ quán gọi cho nhau thì lại
không được. Chỉ riêng sứ quán Trung Quốc được ưu tiên gọi đi các nơi. Tôi phải
biết ơn Cuba và những đài phát thanh bên ngoài đã tiết lộ những chi tiết cụ thể
vạch trần chế độ quái gở của Pol Pot. Tôi tự an ủi và khuây khoả đôi chút khi
nghĩ rằng các nhà ngoại giao thuộc các nước bạn của chế độ Khmer Đỏ cũng chẳng
được tự do hoạt động hơn tôi mấy tí. Cả chúng tôi cũng như họ đều là những
người tù của Khmer Đỏ theo những cung cách hình thức khác nhau.
Một nguồn tin nữa cũng đem
lại cho tôi một chút hi vọng về tương lai đất nước. Từ nửa cuối năm 1977 các
đài phát thanh của những nước không thuộc khối cộng sản bắt đầu đưa tin về
những quan hệ đang trở nên xấu giữa “Campuchia dân chủ” và Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Hình như đã xảy ra những
cuộc xung đột nghiêm trọng giữa Quân đội Việt Nam và Khmer Đỏ, dựa vào nhiều
nguồn tin cho biết ở các tỉnh biên giới tiếp giáp với Việt Nam ngày càng có
nhiều người kể cả cán bộ Khmer Đỏ chạy trốn sang miền Nam việt Nam. Người ta
cũng loan tin về việc lính Pol Pot tiến hành những cuộc tiến công vào sâu rộng
các tỉnh Việt Nam tiếp giáp với Campuchia. Đài Hà Nội công bố những chi tiết
kinh tởm về những vụ Khmer Đỏ tàn sát dân thường Việt Nam.
Những cô phát thanh viên của
Đài Hà Nội giọng nói nghẹn ngào đẫm nước mắt, phát đi bằng các thứ tiếng Thơm,
Pháp, Anh... về những hành động cực kỳ man rợ của bọn lính Khmer Đỏ mổ bụng phụ
nữ có thai, hãm hiếp thiếu nữ, bóp chết các cụ già, chặt các em nhỏ thành từng
khúc và hành hạ những người chúng bắt được một cách rất dã man cho đến chết.
Pol Pot tưởng rằng hắn sẽ trở thành một Hítle có vận may hơn. Mặt khác, hắn
cũng muốn trả thù nước láng giềng Việt Nam và cả Thái Lan đã để cho nhiều người
Khơme vượt địa ngục của Pol Pot trốn sang đó.
Bắt đầu từ tháng 10 năm
1977, việc lén lút nghe đài nước ngoài kết hợp với việc phân tích những buổi
phát thanh của chế độ Pol Pot đã mang đến cho tôi niềm hi vọng khi thấy đảng
của Pol Pot bị lột mặt nạ. Ngay chính Pol Pot, tên “phó của Hítle” cũng phải
công nhận ở cả thành thị lẫn nông thôn đều đang có nhiều cán bộ Khmer Đỏ “không
phục vụ tốt, không thực hiện nghiêm chỉnh các chỉ thị của Đảng...”. Pol Pot gọi
những cán bộ này là những con cua, không biết bò đi đằng nào, cứ tiến một bước
lại lùi một bước, sang trái một bước rồi lại sang phải một bước.
Đã có một thời kỳ, Hu Nim,
Hou Youn, Khieu Samphan được gọi là “ba gương mặt lịch sử”. Trong những năm năm
mươi họ là những sinh viên đồ đệ của Sơn Ngọc Thành, mãi đến năm 1954 mới cùng
với Pol Pot, (tức Saloth Sar), Ieng Sary, Son Sen chuyển sang hướng thành lập
Khmer Đỏ chống lại Khơme Xanh của Sơn Ngọc Thành. Đến năm 1955 họ lao vào hoạt
động chính trị chống chế độ quân chủ và dĩ nhiên chống cả Sihanouk. Năm 1955
cũng là năm tôi thoái vị, tự ý rời bỏ ngôi vua để thành lập tổ chức Sangkum
Reastre Niyum, có nghĩa là Cộng đồng xã hội chủ nghĩa bình dân, nhằm phục vụ
nhân dân Campuchia. Năm 1956, Hu Nim, Hou Youn và Khieu Samphan cùng gia nhập
tổ chức này. Năm 1977, khi giữ chức Thủ tướng, Pol Pot công khai tuyên bố, Đảng
của Pol Pot đã cử “bộ ba lịch sử” này chui vào pháo đài địch (tức tổ chức
Sangkum) để phá hoại từ bên trong. Thế nhưng, do không làm lung lay được cái
pháo đài Sangkum của Sihanouk trong những năm sáu mươi, Hu Nim, Hou Youn, Khieu
Samphan đã phải bỏ chạy ra bưng biền theo Pol Pot, Nuon Chia, Ieng Sary.
Trong những năm 1970-1975,
Pol Pot và Ieng Sary lớn tiếng tuyên bố với thế giới là “bộ ba lịch sử” Khieu
Samphan, Hu Nim, Hou Youn đều là những lãnh tụ chủ chốt của Khmer Đỏ. Tháng 3
năm 1973 khi Khmer Đỏ đồng ý để tôi về thăm vùng giải phóng một tháng, Pol Pot
và Ieng Sary cùng nói với tôi là họ ở dưới sự chỉ huy của “bộ ba lịch sử”.
Trong cuộc mít tinh quần
chúng đón chào tôi tại khu rừng dưới chân núi Kulen cách Ăngco khoảng ba mươi
kilômét, Monic và tôi được mời ngồi trên những chiếc ghế bành kê chính giữa,
hai bên là “bộ ba lịch sử” Khieu Samphan, Hu Nim, Hou Youn. Còn Pol Pot, Son Sen, Ieng Sary đều ngồi ở hàng
ghế sau. Mãi đến tháng 9-1977 trong khi đọc bài diễn văn kỷ niệm ngày thành lập
Đảng Khmer Đỏ lúc đó Pol Pot mới lại thừa nhận một cách trơ trẽn là “bộ ba lịch
sử” này đặt dưới quyền chỉ huy của Pol Pot, và chính Pol Pot mới thật sự là
“Tổng tư lệnh”, là “nhà chiến lược vĩ đại” và chính Pol Pot thời kỳ 1955-1960 đã
cử những “con chuột chũi” Hu Nim, Hou Youn, Khieu Samphan này chui vào Sangkum
của Sihanouk để do thám và phá hoại.
Theo tôi, Hou Youn và Hu Nim là
những kẻ có quá nhiều tham vọng vì thế họ không thể chịu ép một bề quá lâu dưới
sự chuyên chính ngu dốt có tính chất phong kiến của Pol Pot và Ieng Sary là
những kẻ trình độ học thức kém xa “bộ ba lịch sử”.
Riêng Khieu Samphan là người duy
nhất trong bộ ba này đã thoát khỏi mọi cuộc thanh trừng nội bộ bởi vì Khieu
Samphan là một tên cơ hội chủ nghĩa, cũng là một tên không kém phần cực đoan
trong việc theo đuổi chủ nghĩa cứng rắn của Pol Pot, Ieng Sary. Nhờ sự bép xép
của những chú lính trẻ canh gác chúng tôi, vợ tôi được biết Angca đã thẳng tay
thủ tiêu Hou Youn vào năm 1975 ngay sau chiến thắng 17-4. Còn Hu Nim thì đến
tháng 3-1977 tức ba năm sau cũng bị thủ tiêu. Hou Youn bị giết vì đã tranh cãi
nẩy lửa với Pol Pot và Ieng Sary xoay quanh chủ trương trục xuất toàn bộ nhân
dân ra khỏi các thành phố. Còn Hu Nim thì bị giết vì tội “phản lại Angca”, có
nghĩa là chống lại Pol Pot, Ieng Sary. Hồi đó, Hu Nim muốn có đủ thẩm quyền
trên cương vị Bộ trưởng Thông tin tuyên truyền, do đó đã làm phật ý Ieng Sary
là kẻ hay ghen ghét với tất cả mọi người, chỉ trừ có Pol Pot. Rồi đến Tốc Phôn,
Bộ trưởng Công chính cũng bị “mất tích”. Côi Thuôn Bộ trưởng Tài chính và
Thương mại cũng bị thủ tiêu.
Thấm thoát, đã tới ngày
31-12-1977. Vào ngày này năm ngoái, Đài Phát thanh Campuchia dân chủ không quên
báo trước chương trình đặc biệt mừng năm mới dương lịch và trọng tâm là bài
diễn văn (tràng giang đại hải) của ngài Khieu Samphan, Chủ tịch nước Campuchia.
Tôi nghĩ thầm: “Ngày mai chắc cũng lại như vậy thôi!”, cứ là tái diễn những đau
khổ về tinh thần khi Đài Phnompenh om sòm lên tiếng qua loa phóng thanh. Tôi
uống một liều thuốc ngủ và cuối cùng đã chợp mắt sau khi đọc khoảng mươi trang
sách triết lý đạo Phật. Ngày 1-1-1978 do ngấm thuốc ngủ nên tôi dậy muộn. Chợt
thư ký riêng của vợ tôi là bà Xan Xaorôt, vốn là người quen dậy sớm chuẩn bị ăn
sáng cho mọi người, chạy vụt từ nhà bếp vào phòng ngủ, với vẻ xúc động lộ rõ
trong giọng nói, báo cho vợ chồng chúng tôi biết, Đài Phnompenh vừa loan tin
một trận đánh ác liệt suốt mấy ngày vừa diễn ra giữa quân Khmer Đỏ và bộ đội
Việt Nam. Chính phủ Campuchia đã cắt quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Tôi rất xúc động, vội vàng dò tìm
luồng sóng các đài phát thanh của thế giới tự do từ chiếc máy thu thanh đặt
trong phòng ngủ. Thế giới bên ngoài xác nhận, quả là có một trận đánh đẫm máu
vừa xảy ra trong mấy ngày qua giữa Campuchia “dân chủ” của Pol Pot và Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Phải nói ngay rằng, đây là một sự kiện lịch sử quan
trọng bậc nhất một bước ngoặt mới trong lịch sử Campuchia, một dấu hiệu báo
trước tiền đồ của Campuchia “dân chủ” của Pol Pot từ nay sẽ chẳng có gì chắc
chắn. Trước kia các thầy bói đã đoán chế độ “cộng hoà” của Lon Nol sẽ tồn tại
“một nghìn năm”, nhưng nó đã đổ sụp trong vòng 5 năm. Ngày nay, các thủ lĩnh
Khmer Đỏ lại khẳng định Campuchia “dân chủ” có thể tồn tại tới “năm vạn năm và
hơn nữa”. Nhưng nó đang có nguy cơ tan biến trong kiếp phù du ngắn ngủi.
Cả hai chế độ của Lon Nol và của
Pol Pot đều là kẻ thù của chúng tôi, cả hai đều phạm một sai lầm tai hại đối
với bọn chúng, đồng thời cũng mang lại tai hoạ cho Campuchia. Đó là, khiêu
khích liên tục nước Việt Nam láng giềng của chúng tôi và dại dột tiến công
những người Việt Nam. Tôi, Sihanouk, tôi đã tìm cách để không xảy ra tai hoạ đó
trong việc làm cho những người hàng xóm láng giềng của chúng ta tôn trọng nền
độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của chúng ta sau khi họ đã rõ ràng chiến thắng đạo
quân viễn chinh của Mỹ và lũ tay sai. Khmer Đỏ lại nghĩ khác. Họ muốn đánh phủ
đầu Việt Nam mà họ gọi là “kẻ thù truyền kiếp”. Quả là Khmer Đỏ cứ tưởng mình
vô địch, muốn làm gì cũng được. Khmer Đỏ là những kẻ sùng bái Mútxôlini và
Hítle. Khmer Đỏ cứ tưởng mình khỏe hơn phát xít. Chính Pol Pot đã tuyên bố rất
nghiêm túc, không chút khôi hài: “Việt Nam quá yếu. Một mình Việt Nam không dám
đọ sức với ta đâu?”. Chính vì vậy, Khmer Đỏ đã tự chui mình vào cạm bẫy của
chính họ.
Từ năm 1973 Khmer Đỏ đã tàn sát
hàng vạn kiều dân Việt Nam, tố cáo họ là “gián điệp”! Khmer Đỏ còn giết hại cả
những đảng viên cộng sản có thiện cảm với Việt Nam. Trước khi Mỹ và Việt Nam ký
Hiệp định Paris năm 1973, Khmer Đỏ đã trục xuất những đơn vị quân đội Việt Nam
(giúp Campuchia đánh Lon Nol) đóng trên đất Campuchia về nước. Sau chiến thắng
ngày 17-4-1975, Khmer Đỏ còn mưu toan đánh chiếm những vùng có người Khơme Khom
trên lãnh thổ Việt Nam, phạm nhiều tội ác kinh tởm đối với dân thường, kể cả
phụ nữ, trẻ em. Khmer Đỏ khước từ mọi đề nghị thường lượng, đàm phán hoà bình
của Việt Nam. Vì vậy, đến cuối năm 1977, những người Việt Nam quá bực tức vì
Khmer Đỏ tiến công khiêu khích đã đánh lại bọn Pol Pot trên nhiều mặt trận suốt
dọc biên giới hai nước. Xe tăng Việt Nam có lần chỉ cách Phnompenh 50 kilômét
nhưng đến hôm sau lại rút ngay về phía bên kia biên giới.
Chính phủ Việt Nam đề nghị dàn
hoà, đổng thời đề nghị thiết lập một khu phi quân sụ dọc theo biên giới hai
nước có chiều rộng 10 kilômét, (ăn sâu vào lãnh thổ mỗi bên 5 kilômét). Một đội
giám sát quốc tế do hai nước cử ra sẽ tuần tiễu trong khu phi quân sự đó để bảo
đảm hoà bình lâu dài giữa hai nước. Suốt mấy tháng liền, Đài Hà Nội liên tục
nhắc đi nhắc lại đề nghị này. Nhưng các thủ lĩnh Khmer Đỏ, thông qua Pol Pot,
đã bác bỏ mọi đề nghị của Việt Nam. Những cuộc tàn sát người Việt Nam do hằn
thù dân tộc, bắt đầu diễn ra từ thời kỳ ngự trị của Lon Nol, nay lại tiếp tục
dưới thời Pol Pot. Do kiêu ngạo và quá ngu dốt, Pol Pot đã cố tình gạt cái sào
mà Hà Nội đã chìa ra, do đó Pol Pot đã chuốc lấy sự sụp đổ của chính bản thân
cùng với sự sụp đổ của chế độ Pol Pot.
Một buổi sáng tháng 8-1978, Chủ
tịch Khieu Samphan tới điện Khêmarin mời tôi cùng với Monic, Sihamoni,
Narinđrapông, Chittara cùng đi dạo chơi với ông bằng xe ô tô, thăm các khu vực
quanh Phnompenh. Ông Khieu Samphan lúc này tỏ ra rất đáng yêu, gần giống như
thời kỳ mà tôi chưa từ chức Quốc trưởng (bù nhìn). Nhưng tôi không còn có quyền
sử dụng chiếc xe Mercedes hạng “lux” như trước kia nữa. Thay vào đó là chiếc xe
Ford nhiều chỗ ngồi đã đưa chúng tôi đi chơi (lần cuối cùng).
Rời Hoàng cung chúng tôi theo con
đường dẫn tới Compuông Cantuoth thuộc tỉnh Kandal, cách Phnompenh 24 kilômét về
phía Tây - Nam.
Đó là một thị trấn trên bờ sông
Prek Thuot rất đẹp mà trước kia cha tôi, hồi còn là Hoàng thân Xuramarit chưa
lên ngôi vua, rất thích. Hồi đó, cha tôi là quan Thượng thư dưới triều đại Quốc
vương Monivong là ông ngoại tôi. Compuông Cantuoth thời kỳ đó hãy còn là một
vùng nông thôn tươi đẹp với những cánh đồng lúa điếm những hàng dừa. Nông dân ở
đây nuôi gà thả rông, gà tha hồ tự do nhặt thóc, ngô và sâu bọ. Thịt gà ở đây
nổi tiếng không kém thịt gà xứ Basque ở Pháp. Cha tôi, vốn là người sành ăn, đã
tuyên bố thịt gà và trứng gà ở đây có hương vị “toàn thế giới không đâu có”,
ông đã cho xây một ngôi nhà sàn xinh đẹp phía trước có một nền đất nổi bật trên
bờ sông Prek Thuoth. Đó là nơi cha mẹ tôi và tôi thường về nghỉ cuối tuần. Khi
quay lại nơi đây cùng với ông Khieu Samphan những gì nhìn thấy đã làm tôi đau đớn
vô cùng. Thị trấn này, trước kia trù phú, nay chỉ còn là một đống hoang tàn.
Vài ngôi nhà, tường lỗ chỗ vết đạn đang được vài tên lính Khmer Đỏ sử dụng làm
nơi đóng quân.
Chiếc xe chở chúng tôi nhẩy chồm
chồm trên con đường trước kia trải nhựa nay toàn “ổ gà”, còn gà thật thì tôi
chẳng nhìn thấy một con nào cả.
Nhà nghỉ của cha tôi đã đổ nát,
nền đất trở thành vườn rau nhưng do ít chăm sóc nên cỏ dại nhiều hơn rau. Hai
bên đường trước kia là nhà cửa phố xá thì nay thay bàng hai dẫy lán trại, sàn
tre, mái rơm, chắc là nhà ngủ dành cho “những người lao động” nô lệ của Angca.
Sau Compuông Cantouth, cuộc “dạo chơi còn đưa chúng tôi tới một vài thị trấn
nữa, nơi nào cũng chỉ thấy những cảnh tương tự. Cuộc dạo chơi đã kết thúc.
Chúng tôi vòng về Phnompenh bằng một con đường khác đi qua thị trấn Kandal Sun
thuộc tỉnh Kandal. Những cảnh thay đổi khiến tôi vừa sửng sốt vừa đau đớn. Còn
ông Khieu Samphan thì lộ rõ vẻ rất thích thú. Trái tim tôi như rớm máu khi nhìn
thấy Khmer Đỏ chặt trụi hàng vạn cây thốt-nốt, tức là một loại cây thuộc loài
cọ, có đường, mảnh khảnh, duyên dáng, ngọn cây điểm những tàu lá hoặc chùm quả
màu gụ. Đó là những cây mà không có nó thì phong cảnh Campuchia không còn gì
nét cổ xưa nữa.
Điều nghiêm trọng hơn nữa là khi
chặt trụi những cây thốt-nốt, Khmer Đỏ đã bóp chết một trong những tài nguyên
chính về xã hội - kinh tế của Campuchia. Thật vậy? Những cây cọ cho đường tức
là cây thốt-nốt này ngoài bóng mát còn cung cấp cho dân vùng nông thôn đường,
quả, vật liệu xây nhà từ vách đến mái, kể cả vật liệu để đan mũ và nhiều vật
dụng khác rất được ưa chuộng, thu hút nhiều khách du lịch, dĩ nhiên trong thời
kỳ còn có khách du lịch tới Campuchia. Như vậy là trong danh sách những “kẻ thù
của Khmer Đỏ”, gồm có: hoàng tộc, tư sản, tư thương, trí thức, sinh viên, nông
dân khá giả... nay Angca lại thêm cả “cây thốt-nốt” nữa. Việc huỷ diệt cây
thốt-nốt chỉ làm nghèo thêm nông thôn và nền kinh tế nông nghiệp của chúng tôi.
Còn về phía nông dân thì họ mất đủ mọi thứ: tự do, làng xóm, nhà cửa, ruộng
vườn, gia súc (vì phải tập trung trong các công xã lao động) chưa kể đến chuyện
mất cả gia đình.
Qua chuyến đi chơi, tôi đã nhìn
thấy rải rác chỗ này chỗ khác những lán trại làm theo kiểu nhà sàn, mỗi lán có
thể chứa được khoảng năm chục người. Những công trình xây dựng này dùng để làm
gì? Mãi sau khi thoát khỏi nanh vuốt Angca vào năm 1979, lúc đó bà Pen Nouth,
tức bà vợ trẻ của ông bạn già cựu Thủ tướng của tôi, mới cho tôi biết: từ năm
1977 đứng trước cái mà Pol Pot gọi là “hiểm hoạ Việt Nam”, Angca chợt nhận thấy
số dân Campuchia đang giảm sút (mà chính Angca phải chịu trách nhiệm do chính
họ đã gây ra nạn diệt chủng khủng khiếp). Do đó, Angca đã nẩy ra ý định phát
động chiến dịch tích cực sinh đẻ nhiều trẻ con cho Campuchia “dân chủ” bằng
cách tập trung tại những lán trại này, mỗi lán khoảng năm mươi đàn ông đàn bà
để họ làm công việc sản xuất trẻ con. Nhưng cho đến năm 1979 những đứa trẻ ra
đời từ cuộc tập dượt này cũng mới chỉ chưa tròn hai tuổi và lẽ dĩ nhiên không
thể đương đầu nổi với bộ đội Việt Nam.
Phải chăng, cái sáng kiến này của
Khmer Đỏ cũng gần gũi với sáng kiến của Himle, tên trùm phát xít SS hung ác?
Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Himler đã lập ra những cái được gọi là
“trại ngựa giống thượng hạng”, để cho những binh lính Đức trẻ, đẹp, ghép đôi với
những nữ thanh niên Đức, nhằm sản sinh ra những trẻ em Đức “thuần chủng” để tạo
ra một dân tộc Đức “thượng đẳng”. Cả Himle lẫn Pol Pot đều thiếu thời gian...
Sau khi kết thúc cuộc dạo chơi,
trên đường về, ông Khieu Samphan chợt nhìn thấy bên đường có một đầm sen. Vị
Chủ tịch Nhà nước tập tức cho dừng xe lại. Một quân nhân từ chiếc xe hộ tống
vội chạy tới chờ lệnh. Ông Khieu Samphan giơ một ngón tay, chỉ về phía các hoa
sen trong đầm. Anh lính trẻ vội vã xắn quần lội bì bõm hái một ôm hoa sen xinh
tươi mang về cho ông Khieu Samphan.
Ông Khieu Samphan lộ vẻ rất hào
hoa phong nhã, biếu vợ tôi bó hoa sen vừa hái. Vợ tôi lịch sự cám ơn, kèm theo
một nụ cười duyên dáng đúng như tôi chờ đợi. Tôi không thể không nghĩ rằng,
chính những thắng lợi quân sự của ông bạn láng giềng Việt Nam đang đẩy vợ chồng
chúng tôi lên dốc một cách có hiệu quả, trong khi Khmer Đỏ lại bị đẩy xuống dốc
với một tương lai ngày càng trở nên không chắc chắn.
Đến tháng 9-1978, một cán bộ
quân sự quan trọng của Khmer Đỏ mà tôi không bao giờ được biết tên lại được
Angca cử đi tháp tùng tôi từ Phnompenh đến Compuông Som bằng ô tô. Trong suốt
cuộc hành trình và cả những ngày tôi nghỉ lại ở Compuông Som, người cán bộ quân
sự tiếng Thơm gọi là Kammaphibal này đã xử sự rất đúng đắn có thể nói là rất lịch
sự với tất cả những người cùng đi theo tôi. Riêng đối với tôi, anh ta tỏ ra rất
lễ phép, ân cần, đồng thời còn cố tận dụng thời gian gần tôi để tuyên truyền về
chính sách của Khmer Đỏ. Mỗi khi có dịp thuận tiện anh ta lại nhắc đi nhắc lại
với tôi về sự “tín nhiệm cao” mà các nhà lãnh đạo và nhân dân Campuchia “dân
chủ” đã dành cho tôi, vì những “cống hiến lỗi lạc” mà tôi đã phục vụ cho tổ
quốc của chúng ta và cả cho cuộc cách mạng của anh ta. Rất rõ ràng, những khó
khăn về quân sự mà bọn Pol Pot đang gặp tại các khu vực biên giới tiếp giáp với
Việt Nam đã đóng góp vào việc làm thay đổi cách đối xử của Angca đối với tôi.
Cũng có thể Trung Quốc đã thúc ép để họ phải cho tôi ra khỏi sự giam hãm lâu
ngày, để tôi thỉnh thoảng lại xuất hiện càng nhiều càng tốt trước nhân dân và
thanh niên trong nước.
Với những quả cà chua chín
mọng, tôi có thể làm nước sốt cà chua và mứt. Tủ lạnh của tôi bấy lâu trống
rỗng nay đầy ắp thịt. Nhưng, Việt Nam tiến quân quá nhanh đã khiến cho tôi
không thể hưởng lâu những của quý bất ngờ trời ơi đất hỡi này?
Trong khi đó, chế độ Pol Pot
ngày càng mất lòng dân. Nó lên tới đỉnh cao hồi tháng 11-1978 khi toàn thế giới
đều biết rõ tội ác diệt chủng của Pol Pot. Hàng ngàn nô lệ của Khmer Đỏ cố tìm
cách chạy trốn. Hàng trăm người đã bị bắt giết hoặc chết trong rùng. Nhưng
nhiều người cũng đã đến được khu vục biên giới của Thái Lan.
Họ tập trung trong các trại
tị nạn, kể lại những tội ác của Khmer Đỏ rồi được truyền đi toàn thế giới qua
các Đài BBC, Tiếng nói Hoa Kỳ, Australia, Pháp, quốc tế... Khắp nơi trên trái
đất người ta sợ hãi kinh tởm khi Angca công khai tuyên bố thà chỉ giữ lại từ
một đến hai triệu người thật sự trung thành còn hơn duy trì từ sáu đến tám
triệu “kẻ thù giai cấp”. Liệu các thủ lĩnh Khmer Đỏ có tính đến hậu quả mà chế độ
của họ gây ra không? Chính Ieng Sary, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao
đã triệu tập phái đoàn ngoại giao (rất nhỏ bé) ở Phnompenh để thông báo (thật
là ngây thơ!) là trong vòng hai năm qua đã xảy ra tới sáu vụ mưu toan chống lại
chế độ “dân chủ” của Khmer Đỏ. Trong số các tội phạm, Ieng Sary nêu tên ông Coi
Thuôn, Bộ trưởng Nội các, và sau đó cả hai vợ chồng Coi Thuôn đều bị tra tấn
đến chết. Chính ông Khieu Samphan sau đó cũng đã thừa nhận với tôi là nhiều
tỉnh tiếp giáp với Việt Nam đã “ra khỏi sự kiểm soát của chính phủ” vì vậy, ông
đã quyết định cấp tốc dồn càng nhiều dân “tăng cường lực lượng” cho các vùng
đang còn (tạm thời) dưới sự cai trị của Khmer Đỏ.
Trên bước đường đấu tranh gay go phức tạp
Ngay từ khi lên ngôi vua tôi
đã nghĩ đến vấn đề độc lập của Campuchia. Tôi được chọn làm Vua ngày 25-4-1941
sau khi cụ tôi là Quốc vương Sisowath Monivong băng hà. Lúc đó tôi mới mười tám
tuổi, đang học ban tú tài khoa Triết trường Trung học Chasseloup Laubat của
Pháp tại Sài Gòn và đang về nước nghỉ hè. Tôi chưa bao giờ nghĩ, và mẹ tôi cũng
không khi nào nghĩ rằng tôi sẽ nối ngôi cụ nội. Tôi cho rằng, người ta sẽ chọn
cha tôi là Hoàng tử Norodom Xuramarit, hoặc ông trẻ tôi là Hoàng thân Sisowath
Mônirét. Theo thông tục, việc chọn người kế vị sau khi vua băng hà là công việc
của Hội đồng ngôi vua, gồm các vị đứng đầu hai phái Đại thừa và Tiểu thừa đạo
Phật, vị đứng đầu đạo Bà-la-môn, vị Chủ tịch Hội đồng Hoàng gia và một vài
thành viên chính phủ. Đây là lần đầu tiên Hội đồng này lại do Khâm sứ Pháp là Tibađô
chủ toạ. Chính ông Tibađô đã quyết định tôi sẽ lên ngôi vua chứ không phải là
Hoàng thân Mônirét, mặc dù Hoàng thân là con trai cả Vua Monivong, đáng lẽ phải
nối ngôi vua cha mới đúng. Quả là nếu người Pháp không can thiệp vào công việc
nội bộ của chúng tôi thì việc nối ngôi ở Campuchia cũng như tại các nước theo
chế độ quân chủ vẫn theo truyền thống cha truyền con nối.
Quốc vương Ang Dương, người
châm mồi lửa yêu nước chống thực dân từ thế kỷ 19, có hai con trai là Norodom
và Sisowath. Năm 1860, vua Ang Dương băng hà, con trai cả là Thái tử Norodom đã
nối ngôi theo đúng tục lệ đặt ra từ lâu đời. Triều đại Norodom tương ứng với
thời kỳ thực dân Pháp đánh chiếm thuộc địa. Nhà vua đã chống lại một cách tuyệt
vọng. Năm 1904 Vua Norodom qua đời, người con trai đầu là Thái tử Yucantor vì
tham gia kháng chiến đã bị thực dân lên án phải trốn đi biệt xứ, đáng lẽ người
con thứ hai là Hoàng tử Xutharôt phải được nói ngôi mới đúng. Nhưng người Pháp
lại chọn Hoàng tử Sisowath là em trai vua Norodom lên nối ngôi. Đó là một hành
động rõ ràng trái với truyền thống, gây bất bình cho dòng Norodom cũng như
trong nhân dân. Vì vậy, khi vua Sisowath từ trần vào năm 1927 người Pháp lại
phải quay về với tập tục truyền thống, tức là chọn con trai cả của vua Sisowath
là Thái tử Sisowath Monivong đặt lên ngai vàng. Nhưng dư luận vẫn không hài
lòng vì nhân dân đều muốn chọn dòng họ Norodom có truyền thống yêu nước. Người
Pháp buộc phải chọn cơ hội để làm yên lòng dân. Sau khi vua Monivong qua đời,
người Pháp đứng trước hai sự lựa chọn, hoặc là con trai cả của Cựu vương
Norodom tức Thái tử Xutharôt lúc đó đã bẩy mươi chín tuổi, hoặc là con trai của
Thái tử Xutharôt là Hoàng tử Xuramarit, ông thân sinh ra tôi.
Nhưng tại sao người Pháp lại
chọn tôi? Chắc hẳn vì cha tôi thuộc dòng họ Norodom và mẹ tôi thuộc dòng họ
Sisowath. Hai dòng họ này kết hợp với nhau, tức là triệt được nguồn tranh
giành, bất mãn. Hơn nữa lúc đó tôi đang còn rất trẻ, lại hiền lành, chăm học.
Người Pháp nghĩ rằng tôi sẽ dễ bảo, dễ uốn nắn hơn ông trẻ tôi là Môniret đã
từng phục vụ trong đội quân Lê Dương của Pháp, nổi tiếng là một tay cứng rắn.
Theo nhận xét của nhà văn Đức Claodơ Mê-nét người Pháp chọn tôi làm vua có lẽ
vì nghĩ rằng tôi sẽ là một chú “cừu non”, nhưng rồi sau đó đi ngược những hy
vọng của Pháp tôi lại trở thành một “con cọp”. Thật vậy, trong vấn đề đòi độc
lập cho Campuchia, tôi đúng là một con cọp, nhưng lúc đặt lên ngai vàng mới chỉ
là một con hổ bé con.
Cuộc đụng đầu dữ dội giữa
tôi với thực dân Pháp mở đầu bằng việc tôi muốn giành độc lập cho cá nhân tôi.
Đó là lúc Khâm sứ Pháp Gióoc-giơ Gôchiê muốn đứng làm chủ hôn, ép tôi kết duyên
với một cô gái con quan nhà giàu, do ông ta chọn mặc dù tôi chống lại quyết
liệt. Đây là lần đầu tiên tôi bị cưỡng ép tước đoạt quyền tự do cá nhân. Sự
việc này đã ghi lại trong tôi một kỷ niệm cay đắng.
Thời kỳ đó Đô đốc Đơ-cu đang
giữ chức Toàn quyền Đông Dương. Đối với Đô đốc Đơ-cu, tôi lại biết ơn vì ông
thường khuyên tôi nên đi thăm các địa phương trên đất nước Campuchia để tìm
hiểu tình hình.
Tôi đã nghe theo lời ông đã
đi đến cả những vùng chỉ có thể tới được bằng cách ngồi trên lưng voi. Đó là
những dịp tôi được tiếp xúc với nông dân, ngư dân, được khám phá những cảnh
tươi đẹp của đất nước. Kết quả của sự khảo sát này đi ngược lại ý định của Toàn
quyền Đơ-cu, bởi vì càng hiểu biết người dân và những vấn đề của dân tôi càng
bất bình với luật pháp thuộc địa và càng quyết tâm một ngày nào đó phải giành
bằng được độc lập cho Campuchia.
Thời kỳ đó, Campuchia là một
xứ bảo hộ của Pháp. Tôi đã phát hiện ra tất cả sự mỉa mai của từ “bảo hộ” này
khi chính quyền Pháp dâng Campuchia cho Nhật, hồi tháng 12-1941. Nếu những
người Pháp dường như lúc đó cũng bắn vài ba phát đạn để tự bảo vệ thì họ lại
chẳng bắn một phát súng nào để bảo vệ Cung điện Hoàng gia Campuchia. Trong
những năm đầu tiên chiếm đóng Campuchia, người Nhật vẫn cai trị qua hệ thống
thực dân của Pháp mà họ đã duy trì. Vì vậy, tôi chẳng có quan hệ gì với đạo
quân chiếm đóng.
Đến ngày 9-3-1945, người
Nhật làm đảo chính hất căng Pháp, tự nắm lấy quyền cai trị trong tay, lúc đó họ
mới báo cho tôi là Campuchia đã được độc lập trong những cuộc tiếp xúc đầu tiên
với tôi. Lúc đó tôi đã hết sức ngạc nhiên sửng sốt chẳng khác gì trước kia
người Pháp báo đã chọn tôi làm Vua, hồi bốn năm trước. Và tôi cũng phát hiện
được ngay là người Nhật đã đòi tôi phải trả giá cho sự độc lập này bằng cách
huy động tất cả mọi nguồn nhân lực, của cải phục vụ cho Nhật Bản.
Quả là lúc đó tôi không có ý
định phục tùng nhưng tôi đã quyết định lợi dụng qui chế mới này để dành độc lập
cho Campuchia. Vì vậy, tôi đã đề nghị với Bộ Tổng chỉ huy quân đội Nhật Bản
tuyên bố rõ ràng bằng văn bản để nền độc lập của Campuchia có cơ sở pháp lý.
Thế là bắt đầu một loạt cuộc đàm phán thương lượng đi lại giữa Tokyo và
Phnompenh, cuối cùng tôi đã tránh được cho Campuchia thoát khỏi chiến tranh và
có được văn bản “độc lập” trong túi để sau này tiếp tục đấu tranh với Pháp.
Trong khoảng thời gian đàm phán kéo dài năm tháng, Sơn Ngọc Thành được người
Nhật đưa từ Tôkyô về nước đặt lên. ghế Thủ tướng và không ngừng quấy rối tôi.
Điều mà Thành thèm khát chính là tham vọng uy quyền cá nhân. Chính vì vậy cho
nên khi Pháp quay trở lại Đông Dương với sự giúp đỡ của Anh hồi tháng 9-1945,
Sơn Ngọc Thành đã bị Pháp bắt giữ kết án tử hình về các tội ác và phản bội
(nhưng sau đó Thành đã được tôi giải thoát, sống lưu vong ở nước ngoài).
Người Pháp sau khi trở lại
Đông Dương với sự giúp đỡ của Anh quốc hồi tháng 9-1945 đã yêu cầu tôi cử một
phái đoàn tới gặp Đô đốc Đácgiăngliơ vừa được cử làm Cao uỷ Đông Dương.
Không cần phải là một nhà
tiên tri cũng có thế đoán biết cuộc tiếp xúc này có liên quan đến những vấn đề
gì. Tôi đã trả lời bằng một công hàm ngày 28-9-1945 như sau:
“Đề nghị Đô đốc vui lòng cho
biết đoàn đại biểu do chúng tôi chỉ định có được coi là những đại diện của một
quốc gia độc lập hay không. Campuchia đã được độc lập từ ngày 9-3-1945. Chúng
tôi sẵn sàng đàm phán với Pháp và thiết lập với Pháp những quan hệ hữu nghị
trên các lĩnh vực chính trị, kinh tê, văn hoá. Những quan hệ này phải được xác
định trên thực chất là không uy hiếp nền độc lập của đất nước chúng tôi”.
Công hàm này không được trả
lời. Cuộc tiếp kiến Đô đốc Đácgiăngliơ cũng không có. Sau đó ít lâu, người Pháp
giải thích rõ là họ chỉ dự định nối lại những quan hệ với Campuchia dựa trên
các điều khoản đã ghi trong Hiệp ước Bảo hộ năm 1863, là bản hiệp ước đã áp đặt
đối với Campuchia sau khi Pháp gửi tối hậu thư cho cụ nội tôi là Quốc vương
Norodom buộc phải chấp nhận trong vòng hai mươi bốn giờ. Một pháo hạm của Pháp
đã tiến sâu vào sông Mê công, cắm neo ngay trước mặt Hoàng cung, chờ đợi Nhà
vua trả lời.
Sau khi đã chấp nhận bản
Hiệp ước Bảo hộ năm 1863, Quốc vương Norodom lại còn phải ký nhận thêm bản Thoả
thuận năm 1884, một bản thoả thuận rất nhục nhã, áp đặt bằng các thủ đoạn còn
tàn bạo hơn nữa đối với Campuchia.
Nếu hiểu theo nghĩa đàm phán
mà người Pháp đề nghị với tôi thì có lẽ phải thương lượng ngay từ đầu, từ các
điều khoản áp đặt trong Hiệp ước Bảo hộ năm 1863 mới đúng.
Nhiều người hoài nghi cho
rằng tôi đã cường điệu khi nói đến những điều sỉ nhục đối với nhân dân
Campuchia trải qua những triều đại trước đây. Những kẻ thù địch với tôi thì lại
mỉa mai chế giễu, gọi tôi là “quá khích”, là “bốc đồng” khi nói về các vấn đề
có liên quan đến phẩm giá dân tộc và cá nhân tôi. Nhưng, chỉ cần nêu lên một
thí dụ có thật, đã xảy ra trong triều đại trước, để trả lời họ.
Năm 1900, Quốc vương Norodom
đã cử Thái tử Yucantor đi Pháp mang theo một bản kháng nghị tới chính phủ Pháp.
Người Pháp đã tiếp đón Thái tử rất long trọng, dâng biếu nhiều món quà quý giá
với hi vọng Thái tử sẽ không làm theo lời Vua căn dặn, sẽ thay bản kháng nghị
bằng bài diễn văn đa tạ nước Pháp. Thái tử cám ơn Pháp về sự đón tiếp nhưng lại
nói thêm, ở Campuchia, nhân dân đang bị đối xử tồi tệ.
Trong bài diễn văn đọc trước
chính phủ Pháp, Thái tử Yucantor nói:
“Tôi xin trân trọng chuyển
tới nước Pháp những lời chào mừng của Quốc vương cha tôi đồng thời cũng xin
được nói thẳng ra đây những nỗi đau của đất nước.
Chính phủ Pháp hiểu rõ hơn
ai hết họ đã dùng những biện pháp nào để đạt được mục đích quyền lực của Triều
đình Campuchia phải chuyển giao sang tay người Pháp vào năm 1887. Trước đó, tức
là năm 1884, Hoàng cung đã bị quân đội Pháp tiến công, binh lính Pháp đã dí
lưỡi lê vào cổ họng Quốc vương, đe doạ đưa đi đầy biệt xử nếu không quy thuận.
Đến năm 1887 một lần nữa Pháp lại sử dụng vũ lực uy hiếp. Toàn quyền Đông Dương
hồi đó là ông Đume (Doumer) dù ít tàn bạo hơn người tiền nhiệm, nhưng vẫn không
kém phần tàn nhẫn, đã buộc Campuchia phải tuần tự nhường cho Pháp quyền chỉ đạo
về hành chính, kinh tế và lãnh thổ.
Thống sứ Pháp hồi đó là ông
Vecnêvin (Verneville) và cả người tình của ông ta là Mi Mun đã tỏ ra rất quá
quắt mọi người dân đều biết rõ sụ lộng hành của nhân vật này. Thống sứ Vecnêvin
rất căm ghét Quốc vương Norodom vì Nhà vua thường kháng nghị chống lại sụ áp
bức bóc lột của Pháp đối với nhân dân Campuchia. Ông ta đã vu cáo Nhà vua bị
điên, đã bắt giam và sau khi đe doạ chặt đầu đã quyết định đưa Vua đi đầy ở Côn
Đảo. Toàn quyền Đume đã can thiệp để cứu sống Quốc vương, nhưng đổi lại đã buộc
Quốc vương phải sửa lại các điều khoản trong Hiệp ước 1884 một cách có lợi cho
Pháp nhiều hơn nữa. Từ đó trở đi cả Triều đình lẫn nhân dân Campuchia đều phải
hoàn toàn phụ thuộc vào Thống sứ pháp.
Chính nhân dân Campuchia là
người đầu tiên phái trả giá cho sự việc này. Nông dân là tầng lớp đau đớn nhất
vì phải chuyển giao nhiều đất đai cho quan Thống sứ Pháp. Trên lý thuyết cổ
truyền, toàn bộ đất đai Campuchia là thuộc về nhà vua. Trên thực tế, ruộng đất
thuộc về người dân đang cày cấy trên đó. Điều này cũng phù hợp với lời răn của
đạo Phật với Triều đình. Hiển nhiên, đất đai là thuộc về Trời Phật, Trời Phật
lại uỷ thác cho Vua và Nhà vua là người quyết định trao cho những ai có thể
chăm sóc đất đai, ruộng vườn.
Nhưng người Pháp đã ban hành
luật sở hữu tư nhân, và chính người Pháp đã chiếm đoạt những vùng đất đai rộng
lớn của Campuchia đế lập đồn điền. Chính do người Pháp mà nhân dân Campuchia bị
bần cùng hoá. Chính bằng bạo lực và vũ khí, người Pháp đã tước đoạt của nhân
dân Campuchia quyền lợi khai thác ruộng đất mà các triều đình trước kia đã ban
hành bằng các đạo luật”.
Trong khi đọc bản kháng
nghị, Thái tử Yucantor đã nêu lên rất nhiều dẫn chứng cụ thể tố cáo sự đàn áp
dã man của Pháp đối với nhân dân Campuchia và nhấn mạnh:
“Những cuộc đàn áp, bắt bớ,
lưu đầy, giam giũ trong ngục tối, chặt đầu mà lại có thể được gọi là những biện
pháp chính trị được hay sao? Sự thù hằn, điên khùng của các quan chức người
Pháp, đặc biệt là khi họ bị ảnh hưởng bởi rượu cồn, thuốc phiện và cả những lời
quyên rũ của những người tình bản xử đã gieo rắc sự khủng bố tràn lan trong
nhân dân Campuchia. Cả tự do đến mạng sống của họ đều bị thử thách nêu họ dám
kêu ca, phàn nàn”.
Thái tử Yucantor cũng thông
báo với chính phủ Pháp là Thống sứ Pháp tại Campuchia đã đe doạ bắt giữ khi Thái
tử nhận lệnh vua cha mang bản kháng nghị tới Pháp. Thái tử nói: “Họ đe doạ tôi,
bởi vì họ sợ tôi nói lên sự thật mà có lẽ sẽ có người nghe ra”. Thái tử cũng
cho biết, vua cha rất đau buồn vì những điều xỉ nhục và bạo lực mà nhân dân
Campuchia đang gánh chịu. Quốc vương đã nói: “Có lẽ ta đến chết vì phiền muộn
mất?”.
Có thể, có người nghĩ rằng,
chính phủ Pháp là một nước được coi là tinh tế trong thế giới phương Tây có lẽ
sẽ mủi lòng, xúc động trước bản tường trình dũng cảm và cao thượng về những sự
việc đang diễn ra trên mảnh đất tận cùng của đế quốc Pháp. Phản ứng của chính
phủ Pháp hồi đó như thế nào? Họ đã hạ lệnh bắt giam Thái tử Yucantor nhưng Thái
tử đã may mắn trốn được sang nước Anh rồi từ Anh tìm đường trở về Xiêm (nay là
Thái Lan) rồi ba mươi bốn năm sau đã qua đời trên đất nước này. Nếu còn được
sống thêm, hẳn là Thái tử sẽ được nối ngôi vua vì bốn năm sau đó vua cha tạ
thế. Một năm trước khi qua đời, vua Norodom cho xây chùa Bạc ngay trong khuôn
viên Hoàng cung, tự thân trông nom việc xây dựng. Từ ngày buộc phải ký bản Thoả
thuận 1884 Đức vua không ra khỏi Hoàng cung nữa. Sau khi chùa Bạc hoàn thành
việc xây dựng, Nhà vua thỉnh cầu Đức Phật ngự trị trong chùa để chứng kiến niềm
tuyệt vọng của mình và để chứng giám việc tụng kinh niệm phật do chính Vua đảm
nhiệm. Đức Vua căn dặn gìn giữ ngôi chùa cho con cháu về sau là những thế hệ
“có thể sẽ giành được nền độc lập và sự vinh quang cho Campuchia”.
Mọi người dễ dàng hiểu ngay
tôi đã phẫn nộ như thế nào khi phát hiện thấy bản kháng nghị do Thái tử Yucantor
tuyên đọc trước Chính phủ Pháp, được cất giữ cẩn thận trong tập Hồ sơ lưu trữ
của Hoàng gia Campuchia. Tôi đã đọc lại bản kháng nghị này vào tháng 9-1945 khi
người Pháp cũng đang gây sức ép để thiết lập lại hệ thống thuộc địa một cách
thản nhiên, coi như không có chuyện gì xảy ra trong quá khứ. Cũng không lấy gì
làm lạ, khi ngay từ lúc được chọn để nối ngôi cụ nội tôi năm 1941 tôi đã thề sẽ
đấu tranh cho sự nghiệp thiêng liêng mà cụ khởi xướng. Tôi đã tích cực với mọi
khả năng có thể của mình để giành lại độc lập nhất là từ khi Pháp âm mưu chiếm
lại toàn bộ Đông Dương năm 1945. Có điều tôi đã tránh không đấu tranh vũ trang
để không phải đổ máu. Dĩ nhiên, nhiều đồng bào của tôi không muốn đi theo con
đường này và một số đã sát cánh chiến đấu bên cạnh Mặt trận Việt Minh của Hồ
Chí Minh.
Hồi đó, do sự giáo dục từ
thời thơ ấu và do thuộc dòng dõi Hoàng tộc tôi không muốn đi theo Việt Minh.
Nhưng bây giờ tôi lại rất vui mừng khi nhận thấy nhiều đồng bào của tôi đã học
được nhiều kinh nghiệm chiến đấu du kích trong hàng ngũ Việt Minh. Họ đã xây
dựng được một số căn cứ kháng chiến ở trong nước và chính những căn cứ này đã
tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển phong trào kháng chiến sau cuộc đảo
chính 18-3-1970. Còn tôi, tôi đã mở đầu cuộc đấu tranh bằng các biện pháp hợp
pháp, hợp hiến mà tôi có được.
Năm 1946 và tiếp đó là năm
1948 tôi được theo học các khoá quân sự của trường Ky binh Xômuya ở Pháp. Tướng
Lănglat là hiệu trưởng, đồng thời cũng là giáo viên chủ nhiệm của tôi. Sau khi
phát hiện thấy tôi bắt đầu đi khá gần đến các vấn đề độc lập của đất nước,
Chính phủ Pháp liền cử Tướng Lănglát làm Tổng tư lệnh quân đội Pháp ở Đông
Dương để chế ngự tôi. Chắc hẳn, hồi đó chính phủ Pháp nghĩ rằng tôi đã là học
trò ngoan của Tướng Lănglát ở trường Cao đẳng quân sự Xômuya sẽ tiếp tục dễ bảo
khi trở về làm Vua và sẽ lại phục tùng Lănglát. Nhưng tôi lại nghĩ dù cho Tướng
Lănglát có làm Vua ở Xômuya đi nữa, thì tôi cũng là Vua ở Campuchia. Năm 1949,
tôi chuyển tới chính phủ Pháp bản kiến nghị, yêu cầu:
1. Trao quyền tự trị cho
Campuchia.
2. Cho Campuchia được thiết lập
quan hệ với các cường quốc chủ yếu và có đại diện ở Liên Hợp Quốc.
3. Nhanh chóng tuần tự thu hẹp
các khu vực quân sự của Pháp ở Campuchia, để quân đội Campuchia thay thế dần
quân đội Pháp.
4. Tổng đại xá cho tất cả những
người kháng chiến.
5. Khoan hồng, tiến tới trả lại
tự do và ân xá cho các tù chính trị và những người bị lưu đầy, trong đó có Sơn
Ngọc Thành.
Cuối cùng những kiến nghị của tôi
đã được ghi nhận trong bản Thoả thuận mới. Campuchia được tham dự Hội nghị quốc
tế Xan Phranxitcô tháng 9-1951. Đây là lần đầu tiên, Campuchia được coi như một
thực thể tách rời Pháp, được đặt bút ký vào bản Hiệp định Hoà bình đối với Nhật
Bản, cùng với bốn mươi bẩy quốc gia khác trên thế giới. Tuy nhiên, tôi cũng như
nhân dân Campuchia vẫn chưa thật sự hài lòng với bản Thoả thuận ký năm 1949 với
Pháp. Dù đây là một bước tiến dài, chúng tôi vẫn còn xa mới đi được tới đích
cuối cùng là: Độc lập vô điều kiện. Trong thông điệp gửi nhân dân Campuchia
ngày 15-6-1952, tôi hứa trong vòng ba năm nữa sẽ giành được độc lập hoàn toàn.
Trên thực tế, vấn đề còn lại chỉ là đấu tranh đòi Pháp phải trao trả nốt cho
Campuchia một số quyền lực mà người Pháp vẫn muốn nắm giữ tới cùng hằng mọi giá
vin vào lý do cần phải tiếp tục chiến tranh chống Việt Minh. Tôi đã trình bầy
dứt khoát rõ ràng với Pháp: Tôi không muốn Việt Minh có mặt trên lãnh thổ
Campuchia. Còn Việt Minh làm gì trên đất Việt Nam thì tôi tuyệt đối không can
thiệp. Vì vậy tôi từ chối việc sử dụng Campuchia làm bàn đạp quân sự tiến đánh
Việt Minh. Một lần nữa, tôi lại nài Pháp trao trả độc lập cho Campuchia.
Ngày 25-3-1953 tôi được Tống
thống Pháp Ôriôn mời ăn cơm trưa. Trước khi đi tôi đã được thông báo, chính phủ
Pháp đã chăm chú nghiên cứu lập hồ sơ về Campuchia do tôi vừa chuyển tới. Tôi
rất phấn khởi như được động viên thêm. Tuy nhiên, cuộc thảo luận trong bữa ăn
hoàn toàn không đạt được chút kết quả nào. Cuối cùng Tổng thống Pháp đã cố tình
gợi ý là ông rất mừng nếu tôi rời khỏi Pháp càng sớm càng tốt. Thậm chí, trong
bản Thông cáo chung người ta còn ghi một câu: “Quốc vương Sihanouk nên trở về
Phnompenh trong vài ngày tới”. Bộ trưởng Bộ các nước liên kết với Pháp là ông
Lơtuốcnô thân chinh tới gặp tôi để khẳng định những lời thỉnh cầu của tôi nhằm
giành độc lập cho Campuchia là “không thích hợp trong lúc này”.
Dù sao, tôi cũng còn may mắn hơn
ông cụ trẻ của tôi là Thái tử Yucantor hồi nửa thế kỷ trước, tức là đã được rút
lui an toàn. Nhưng tôi vẫn không chịu để cho Pháp đối xử như vậy. Tôi quyết
định quay sang cầu cạnh Mỹ giúp đỡ. Tôi nghĩ có lẽ tại Mỹ là nước tự coi là
thành trì của tự do, đối lập với mọi âm mưu thực dân hoá Đông Dương, tôi sẽ tìm
được sự thông cảm và có được sự ủng hộ mà tôi đang cần. Bộ trưởng Lơtuốcnô đánh
hơi thấy những dự định sắp tới của tôi, đã thông qua ông chú thân Pháp của tôi
là Hoàng thân Sisowath Mônirét báo cho tôi biết, chiếc “ngai vàng” của tôi sẽ
bị đe doạ nếu tôi phát đi những lời “tuyên bố phiêu lưu chống Pháp” ở nước
ngoài. Lúc này, cuộc tranh cãi giữa tôi với chính phủ Pháp đang xoay quanh vấn
đề “Campuchia cần phải tham gia cùng với Pháp trong cuộc chiến tranh chống Việt
Minh” (là vấn đề tôi đã từ chối thẳng thừng) và về việc Campuchia cần có mặt
trong khối Liên hiệp Pháp.
Tôi đã nói thẳng với Tổng thống
Pháp Ôriôn:
“Nước Pháp không có lý do gì để
bận tâm đến số phận của tôi cũng như ngôi vua, cũng không cần phải quan tâm đến
vận mệnh của nền quân chủ Campuchia. Chỉ cần chính phủ Pháp trao trả độc lập
cho Campuchia đơn giản thế thôi. Sau đó, dù Pháp có hoàn toàn bỏ rơi Campuchia cũng
được”.
Trong thời điểm quyết định này
của lịch sử Campuchia và cũng là thời điểm quyết định những quan hệ giữa
Campuchia với Pháp, tôi buộc phải lựa chọn giữa việc theo Pháp hay theo đồng
bào của tôi. Tất nhiên là tôi phải theo đồng bào Campuchia của tôi Tôi không
hiểu tại sao nước Pháp vừa mới thoát khỏi sự chiếm đóng của phát xít Đức hồi đó
lại có thể dửng dưng trước những khát vọng tự do, độc lập của Campuchia cũng
như của nhân dân toàn Đông Dương. Nhất là thái độ thản nhiên này lại xuất phát
từ một Tổng thống thuộc Đảng Xã hội Pháp, là điều làm cho tôi càng khó hiểu.
Người ta đang đe doạ là tôi có thể sẽ “mất ngôi vua” nếu đi quá xa trong cuộc
đấu tranh giành độc lập.
Nhưng làm thế nào mà người ta
tước đoạt được cái mà người ta không có?
Ngày 13-4-1953 tôi bay đi Mỹ, qua
Canada, mang theo một bản giác thư trong đó yêu cầu Mỹ ủng hộ nền độc lập của
các nước Đông Dương, trước hết là Campuchia. Tôi nhấn mạnh rằng Campuchia chưa
thể nào tham gia vào các hoạt động dân chủ chừng nào chưa được độc lập thật sự
và hoàn toàn. Các nước khác ở Đông Dương cũng vậy. Đó cũng là chủ đề mà tôi
thảo luận trong cuộc đàm thoại kéo dài suốt một giờ với Ngoại trưởng Mỹ Đa-lét.
Phản ứng của ông Đa-lét quả là cay đắng đối với tôi ông ta tuyên bố: “Các ông
trước hết phải đánh bại chủ nghĩa cộng sản trong khu vực của mình đã. Lúc đó
chúng tôi sẽ gây sức ép để Pháp phải làm cái gì cần làm”. Thế thì còn nói gì
nữa! Ý đồ rõ ràng của Mỹ là sự cấp bách phải tiêu diệt Việt Minh, và Campuchia
phải đóng góp phần quan trọng vào đó. Ông Đa-lét nói tiếp:
“Kẻ thù chung của chúng ta là
Việt Minh. Campuchia các ông phải hiểu rằng nếu Việt Minh không bị tiêu diệt
thì họ có thể sẽ quét sạch nền quân chủ của Campuchia, cả nền văn hoá ngàn năm
và nền dân chủ Khơme nữa. Chừng nào nguy cơ tai hại đối với chúng ta đó chưa bị
gạt bỏ thì chúng tôi không thể làm điều gì để Pháp nản lòng vì hiện Pháp đang
chịu nhiều hy sinh to lớn ở Đông Dương để bảo vệ nền tự do chung của chúng ta.
Chiến tranh đang bước vào thời điểm quyết định. Chúng tôi phải chiến thắng. Hơn
bao giờ hết chúng ta phải đoàn kết phối hợp chặt chẽ mọi lực lượng, mọi phương
tiện của chúng ta chứ không phải để cãi vã, gây chia rẽ. Bất đồng giữa các ông
với Pháp sẽ có lợi cho kẻ thù chung. Nếu không có quân đội Pháp đóng trên đất
Campuchia, đất nước các ông sẽ bị bọn Đỏ thôn tính, nền độc lập của Campuchia
cũng bị tan biến hoàn toàn”.
Tôi đã trả lời Ngoại trưởng Mỹ
Đa-lét giống như những điều đã nói với Tổng thống Pháp Ôriôn, là không nên quá
quan tâm vào những chuyện nội bộ của chúng tôi. Bây giờ nhớ lại những lời tuyên
bố của Ngoại trưởng Mỹ Đa-lét năm 1953, đối chiếu với thực tế năm 1970, quả là
nực cười: Ai là người đã quét sạch nền văn minh truyền thống của Campuchia, nếu
không phải là những người kế tục sự nghiệp của ông Giôn Phôxtơ Đa-lét trong học
thuyết “dùng người châu Á đánh người châu Á”. Tôi không cùng chung hệ tư tưởng
với Việt Minh, nhưng tôi có thiện cảm với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Nếu đã tự nhận là một người Campuchia yêu nước thì làm sao có thể nghĩ khác
được? Chúng tôi cùng chung mục đích, nhưng chỉ khác nhau về con đường đấu tranh
để đạt tới mục đích đó. Tôi đã cố giải thích cho ông Đa-lét rõ, nhưng ông không
chịu nghe, lại còn bác bỏ bằng cách trả lời: “Thôi, Hoàng thân hãy quay về đi
và hãy giúp tướng Pháp Nava chiến thắng cộng sản!”. Về cái gọi là “sự đe doạ
của cộng sản”, tôi đã trả lời phỏng vấn đăng trên tờ Thời báo New York, số ra
ngày 19-4-1953: “Trong những năm gần đây, giới trí thức Campuchia ngày càng
nhận rõ cộng sản Việt Minh chỉ chiến đấu để giành độc lập cho nước họ”. Tôi
cũng nói thêm người Campuchia nhận thức rõ vấn đề, không muốn “chết vì nước
Pháp và giúp Pháp ở lại Campuchia”. Điều mà tôi không đạt được khi trình bầy
với ông Ôriôn và ông Đa-lét đã có tiếng vang sau khi bầy tỏ trên tờ Thời báo
New York.
Bốn ngày sau khi báo phát hành,
Chính phủ Pháp đề nghị Campuchia cử một phái đoàn tới Paris thảo luận tiếp
những vấn đề đang treo lơ lửng.
Lúc đó, tôi đang trên đường từ Mỹ
trở về Campuchia, đã ghé lại Nhật Bản chờ đón kết quả cuộc đàm phán. Đúng lúc
này tôi lại nhận được một bức điện của ông Đa-lét đề nghị tôi “cố gắng hợp tác
với Pháp trên tinh thần hoà hợp cao nhất” và Mỹ sẽ làm tất cả mọi việc tuỳ theo
khả năng nhằm tăng cường viện trợ cho Campuchia để cùng ngăn chặn sự xâm lăng
của cộng sản”. Bức điện đó đã làm cho tôi suy nghĩ: Campuchia chỉ có thể dựa
vào chính sức mình để giành độc lập. Lúc đó, tôi đã thoáng nghĩ tới đấu tranh
vũ trang. Những kẻ gièm pha bài xích tôi thường xuyên tạc là trong quá trình
đấu tranh tôi đã được Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai tẩy não. Nhưng trên thực tế
chính Vanh-xăng Ôriôn, Giôn Phôxtơ Đa-lét và sau này thêm cả Risớt Nixon mới
thật sự là các giáo viên phản diện huấn luyện chính trị cho tôi. Cũng đúng vào
lúc tôi đe doạ sẽ đấu tranh vũ trang và được nửa triệu người Campuchia hưởng
ứng lời kêu gọi, khi đó Pháp mới chịu đàm phán nghiêm chỉnh.
Tháng 9-1953 sau khi Pháp đã chấp
nhận sẽ trao lại cho Campuchia tất cả quyền lực về quân sự, cảnh sát, tư pháp,
tôi chỉ thị cho Thủ tướng Pen Nouth gửi một thông điệp tới các lực lượng Việt
Minh và Khơme Issarac, trong đó nêu rõ: “Dù chúng tôi không phải là cộng sản,
nhưng chúng tôi cũng không chống lại chủ nghĩa cộng sản ở bên ngoài lãnh thổ
Campuchia. Chúng tôi không chú ý đến tình hình diễn ra ở Việt Nam”. Tôi cũng
đảm bảo, nước Campuchia độc lập không trở thành bàn đạp quân sự nhằm tiến công
Việt Minh. Lời tuyên bố này cũng là định hướng đầu tiên cho đường lối trung lập
của Campuchia và đã vấp phải phản ứng của Mỹ. Thượng nghị sĩ Mỹ Uyham Naolen
cùng với đại sứ Mỹ ở Sài Gòn là Đônan Hít lập tức tới thăm Campuchia, cố thuyết
phục tôi phải để cho Pháp tiếp tục giữ vai trò chủ chốt ở Campuchia nhằm hoàn
thành sứ mệnh trọng đại hàng đầu là tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản. Sirik Matak
hồi đó giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao Campuchia dễ dàng ngả theo những lý lẽ
thuyết phục của Naolen, nhưng tôi vẫn tỏ ra không thể nào khuất phục nổi.
Chuyến đi của Thượng nghị sĩ
Naolen mở đầu cho một thời kỳ dài Mỹ ngày càng can thiệp vào tình hình
Campuchia, đỉnh cao là việc Tổng thống Mỹ Nixon đã tiến quân vào Campuchia năm
1970. Hồi đó, cả Naolen lẫn Đônan Hít, được Sirik Matak ủng hộ đã cố đưa ra tất
cả những lý lẽ tưởng tượng và bịa đặt, nhằm thúc ép tôi ủng hộ “sự nghiệp
chung”. Nhưng quyết định của tôi là không thể đảo ngược. Họ đã phải ra về với
bàn tay trắng.
Ngày 17-10-1953, Pháp và
Campuchia thảo luận những điểm cuối cùng trong vấn đề chuyển giao quyền lục
quân sự và đến ngày 9-11-1953, chúng tôi đã nắm trong tay mọi yếu tố của nền
độc lập, dù một số đơn vị nhỏ quân đội Pháp mới chịu rút hết khỏi Campuchia.
Tôi đã biết lợi dụng sức ép ngày
càng mạnh của Việt Minh đối với Pháp trên đất Việt Nam và Lào cộng với sức ép
có thể có một cuộc kháng chiến nữa của Campuchia ngay trên lãnh thổ Campuchia
để giành được thắng lợi. Trong buổi lễ chính thức bàn giao quyền lực ở
Campuchia, tôi đã gặp lại Tướng Lănglát, huấn luyện viên về khoa cưỡi ngựa, ông
thầy cũ rất kính mến của tôi. Tướng Lănglát nói:
- Thưa Đức vua, ngài vừa cho
chúng tôi một cái tát mạnh mẽ!
Tôi đáp:
- Thưa tướng quân, không phải
thế. Đó là vì tôi muốn tỏ ra xứng đáng với những gì tướng quân đã dạy dỗ tôi.
Thắng lợi của tôi xét cho cùng cũng là thắng lợi của tướng quân, bởi vì tướng
quân đã dạy tôi nghề võ.
Ông Lănglát vẫn nói tiếp:
- Ngài không được lịch sự lắm đối
với giáo sư của ngài.
Tôi trả lời:
- Thưa tướng quân, tôi cần phải
chứng minh khả năng của mình, với tư cách là một học trò cũ. Tôi không thể thua
trong một trận đấu mà đất nước của tôi bị đem ra đặt cược.
Một sĩ quan nói nhỏ với Tướng
Lănglát:
- Nhà vua điên rồi. Ông ta đuổi
chúng ta ra khỏi Campuchia. Nhưng không còn Pháp thì Campuchia sẽ bị Việt Minh
nghiền nát mất.
Tướng Đờ Lănglát quay lại phía
tất cả các sĩ quan đang đứng và nói to:
- Có thể là Nhà vua điên. Nhưng
trong trường hợp này, đây là một sự điên cuồng rất sáng suốt.
Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương
năm 1954 đem lại cho chúng tôi sự công nhận chủ quyền và sự đảm bảo tôn trọng
nền độc lập của Campuchia của cộng đồng quốc tế, nhưng trên thực tế Campuchia
đã giành được độc lập từ ngày 9-11-1953. Đó là kết quả của một quá trình đấu tranh
trên chặng đường dài đầy khó khăn trắc trở.
Tôi biết, đây mới chí là giai
đoạn đầu của cuộc chiến đấu còn phức tạp hơn tất cả những cuộc đấu tranh mà tổ
tiên tôi cũng như bản thân tôi đã trải qua, kể từ ngày một cường quốc đầu tiên
ban cho Campuchia sự “bảo hộ”, cách đây một thế kỷ.
Trong buổi dự lễ tang Chủ tịch Hồ
Chí Minh tại Hà Nội, tôi được vinh dự đứng túc trực bên cạnh linh cữu. Tôi lại
sực nhớ đến câu nói của Người mà tôi cho rằng không gì đúng hơn. Đó là câu:
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Cụ Hồ là một bậc cách mạng lão thành,
xuất thân từ tầng lớp bình dân. Tôi là một nhà quí tộc thuộc dòng dõi quân chủ
lâu đời nhất ở Campuchia. Cụ với tôi không cùng chung thế hệ, bởi vì Cụ hơn tôi
tới ba chục tuổi. Nhưng Cụ và tôi đều cùng chung nguyện vọng muốn cho nước nhà
độc lập. Để đạt mục đích này, Cụ đã chọn con đường cách mạng gay go ác liệt.
Còn tôi, một con người trẻ tuổi lại rất sợ đổ máu. Nhưng cuối cùng chính Cụ đã
dạy chúng tôi bài học là tất cả các thế lực đế quốc chỉ cho các dân tộc bị chúng
áp bức một con đường duy nhất để giành lại tự do. Đó là con đường đấu tranh vũ
trang mà Hồ Chí Minh đã xác định.
Ngày 2-3-1955, tôi gửi một băng
cát xét đã ghi sẵn bài nói của tôi tới Đài Phát thanh Phnompenh, dặn kỹ đến
buổi trưa mới được mở và phát vào buổi thông tin giữa lúc mọi người đang ăn
cơm. Những người nghe đã rất sửng sốt khi thấy tôi tuyên bố từ bỏ ngôi vua. Các
thành viên trong Hoàng tộc và Chính phủ cũng rất ngạc nhiên. Tôi đã suy nghĩ kỹ
một mình, không hỏi ý kiến bất cứ một ai và đã tự quyết định thoái vị.
Hiến pháp năm 1947 của Campuchia
qui định, trong trường hợp Nhà vua tự nguyện rời bỏ ngai vàng thì Hội đồng Ngôi
vua phải chọn người kế vị trong số nam giới thuộc dòng dõi Ang Dương, tức là
dòng họ Sisowath hoặc Norodom. Cha tôi là Norodom Xuramarit lúc đó sáu mươi
tuổi, đã được chọn. Còn tôi thì cũng đã ba mươi tư tuổi và đã trị vì được mười
bốn năm.
Tại sao tôi đi đến quyết định
này? Và tại sao lại quyết định vào thời điểm này? Đó là do nhiều nguyên nhân,
kể cả khách quan lẫn chủ quan.
Năm 1952, tôi cam kết sẽ đẩy mạnh
đấu tranh giành độc lập trong vòng ba năm, việc này đã hoàn thành, nếu so với
lịch 1955 thì còn sớm hơn đôi chút. Ngày 7-2-1955 tôi chỉ thị tổ chức trưng cầu
ý dân và 99,8% dân chúng đã trả lời “tán thành” để nhà vua được miễn nhiệm khi
tự nguyện yêu cầu. Trong thời gian này, tôi đã học được cách đương đầu với các
chính khách và tích luỹ được những kinh nghiệm quý báu đối với những người
thuộc cùng lứa tuổi với tôi. Tôi không còn ngây thơ như trước, vào thời điểm
còn tin là Pháp hoặc Mỹ có thể có một chính sách “không vụ lợi”. Đối với tôi,
vai trò của Nhà vua là rất phù hợp trong cuộc thập tự chinh đấu tranh giành độc
lập. Nhưng nay đã độc lập rồi, vai trò đó không còn thích hợp để thúc đẩy đất
nước tiến lên.
Lúc này Uỷ ban kiểm soát, giám
sát đình chiến (thành lập từ Hội nghị Giơnevơ 1954 về Đông Dương) gồm đại diện
ba nước Ấn Độ, Ba Lan, Canada đang hoạt động trên đất Campuchia như một tổ chức
siêu chính phủ. Người Ba Lan coi tôi như một tên quý tộc, kẻ thù của tiến bộ và
cánh tả. Người Canada, bảo vệ những quyền lợi của Mỹ, đã nhắm mắt làm ngơ trước
việc các khu vực biên giới giữa Thái Lan và Nam Việt Nam của chúng tôi bị vi
phạm. Các thế lực chính trị phe phái ở Campuchia không ngừng xung đột lẫn nhau
và muốn tôi chỉ là một kẻ tượng trưng trên ngai vàng. Chính vì vậy cho nên tôi
quyết định từ bỏ vai trò tượng trưng mà người ta đang muốn gán ghép, rời bỏ
ngai vàng, bước xuống đấu trường chính trị.
Các thế lực bên ngoài đang gây
sức ép để buộc Campuchia chấp nhận cái “ô bảo hộ” của khối liên minh quân sự
Đông Nam Á do Mỹ cầm đầu. Đối với một số thế lực cánh hữu trong nước, cái “ô
bảo hộ” này là cứu cánh để thoả mãn các tham vọng chính trị của họ. Ngoại
trưởng Mỹ Đa-lét công khai bộc lộ ý định sẵn sàng gửi các sĩ quan đến Campuchia
làm huấn luyện viên quân sự “miễn là Campuchia để họ được hoàn toàn thực hiện
nhiệm vụ và Pháp không cản trở họ”. Có nghĩa là Mỹ muốn “lấp chỗ trống” sau khi
quân đội Pháp rút khỏi Campuchia.
Tôi cũng muốn thử thách khả năng
của mình trong lĩnh vực chính trị trước các đối thủ của tôi mà không cần phải
dựa vào uy thế kiểu cha truyền con nối. Đảng Dân chủ Campuchia được Mỹ nâng đỡ
đang muốn thiết lập một chế độ dân chủ nghị viện thân phương Tây theo kiểu
Pháp. Còn những người Ba Lan trong Uỷ ban quốc tế lại muốn bảo vệ lợi ích của
nhóm Pracheachon thân cộng sản. Năm 1947 tôi đã chuyển chế độ quân chủ chuyên
chính thành quân chủ lập hiến, có nghị viện. Sau đó tôi chợt hiểu rằng chế độ
này vẫn chưa vận hành tốt bởi nhân dân Campuchia hồi đó chưa hiểu biết gì về
kiểu dân chủ hình thức này mà nội dung chỉ là thỉnh thoảng lại đi bầu và bầu
cho những người có những lời tuyên bố hứa hẹn lôi cuốn. Năm 1952 tôi đã quyết
định giải tán nghị viện đầu tiên được bầu theo kiểu này để tập trung quyền lực
vào việc đấu tranh giành độc lập trong vòng ba năm như đã cam kết. Lập tức tôi
nhận được một bức thư lời lẽ cháy bỏng của một sinh viên lên án tôi đã bóp chết
nền dân chủ ngay khi mới đang nằm trong nôi. Cậu sinh viên đó là Hou Youn, hiện
nay là một trong ba Bộ trưởng Chính phủ kháng chiến chống Lon Nol đặt trụ sở ở
trong nước. Sự thật này chứng tỏ, chúng tôi chưa có kinh nghiệm hoạt động chính
trị và trong chúng tôi lúc đó chưa ai biết phải làm gì để đạt được một nền dân
chủ lâu dài, có sức sống. Nhiều nước sau khi giành được độc lập cũng gặp những
khó khăn như vậy. Nhất là khi đó trong nghị viện Pháp lại xuất hiện sự tranh
cãi hỗn loạn vô chính phủ, tháng nào cũng thay đổi chính phủ càng làm cho người
ta ngán cái chế độ dân chủ kiểu này.
Ngày 19-2-1955, tức ba tuần trước
khi tôi rời bỏ ngôi vua, tôi đã cho bổ sung vào Hiến pháp năm 1949 một điều
khoản là các xã có thể bầu đại biểu đi dự hội đồng cấp tỉnh. Các hội đồng cấp
tỉnh có quyền hạn rộng rãi trong việc giải quyết các vấn đề thuộc địa phương
mình và bầu đại biếu tham gia Quốc hội. Các chính đảng vẫn được tồn tại nhưng
các ứng cử viên Quốc hội chỉ được lấy danh nghĩa cá nhân chứ không được mang
danh các đảng phái. Quốc vương sẽ chọn trong số những người đã được bầu vào
Quốc hội để thành lập chính phủ. Đại biểu Quốc hội sẽ bị miễn nhiệm nếu một nửa
số cử tri xét thấy không làm tròn chức trách của người được bầu. Ý định của tôi
khi quyết định hệ thống chính trị mới mẻ này là cốt để người dân có thể bầu đại
diện cho mình ngay từ cấp xã, trên cơ sở đã hiểu biết các hoạt động của người
đó ở ngay cấp cơ sở chứ không phải chỉ qua việc nghe những bài diễn thuyết hoa
mỹ. Các đảng phái đối lập đã chỉ trích đề xuất này của tôi và còn tố cáo tôi
trước Uỷ ban quốc tế là tôi đã vi phạm các qui định của Hiệp nghị Giơnevơ 1954
về Đông Dương. Trước sự hung hăng của một số cuộc tiến công chính trị, và trước
lời vu khống hèn hạ đối với tôi tôi đã buộc phải từ bỏ qui chế quân chủ của
mình sau khi suy nghĩ, hoặc là tôi cứ làm vua đặt mình lên trên tất cả mọi lời
công kích, hoặc là tôi trở thành một nhà chính trị sẵn sàng đấu tranh.
Tuy nhiên, khi giải thích cho mọi
người về sự thoái vị này, tôi nhấn mạnh đến những khó khăn của một ông vua
trong việc thường xuyên tiếp xúc với dân chúng mà tôi luôn luôn coi là thiết
yếu. Tôi muốn thuyết phục giới thanh niên, sinh viên là tôi muốn cống hiến
nhiều cho đất nước, phục vụ đất nước chứ không phải để làm một “đức Hoàng
thượng” ngụp lặn trong sự xa hoa của những ưu tiên trong Hoàng cung. Tôi nói
với họ:
“Quyền lực của một nhà vua rất
cần thiết trong cuộc đấu tranh chống lại sự thống trị của nước ngoài. Tôi cần
có danh hiệu đó, tự coi như người đại diện cao quý hợp pháp của nhân dân. Nếu
không, người Pháp sẽ nói là tôi không đại diện cho toàn bộ đất nước Campuchia
được. Ngày nay, tình hình đã thay đổi. Vấn đề chủ yếu hiện nay là chính trị nội
bộ. Nếu tôi cứ ngồi trong cung cấm tách biệt với bên ngoài thì không thể nào
biết rõ được tình hình thực tế và những thói lộng hành mà nhân dân là nạn nhân.
Tôi biết một cách đau buồn là trong buổi tiếp dân trong cung điện, người dân
ngại ngùng sợ hãi không dám bộc lộ hết những nỗi niềm đau khổ của mình. Chung
quanh tôi có quá nhiều cận thần, họ sẽ quy trách thậm chí trừng phạt những
người đến khiếu tố về một vấn đề gì đó Ai biết được những người vừa đến gặp tôi
trong cung cấm, khi quay về nhà số phận sẽ ra sao”. Tôi nhấn mạnh: “Trong cung
cấm chật ních những quan lại có nhiều thủ đoạn giống như những con đỉa bám chặt
lấy chân voi. Tôi chán ngấy cái cảnh giam mình trong các hàng rào lễ nghi vây
bọc bởi đám nịnh thần chỉ muốn cầu cạnh ơn huệ. Nếu tôi muốn đi thị sát một địa
phương nào đó, thì lập tức địa phương đó được báo tin trước. Khi tôi tới nói
cái gì cần giấu giếm đã bị giấu hết trơn. Chuyến đi nào, tôi cũng chỉ gặp những
người dân mặc quần áo đẹp, đứng dưới cổng chào vẫy cờ hoan nghênh và đám quan
chức ngăn cách tôi với thực tế xã hội. Tôi rất ghét những cảnh như vậy nhưng
vẫn phải phục tùng nghi lễ bởi vì tôi là Thiên hoàng”.
Lúc này Campuchia đã được hơn bốn
mươi nước trên thế giới công nhận. Vì là Thiên hoàng, tôi còn phải tiếp các đại
sứ trình Quốc thư, các chính khách tới thăm, chủ trì các yến tiệc chiêu đãi,
tham dự các buổi trình diễn ca múa và một loạt các nghi thức khác, choán khá
nhiều thời gian, làm cho những chuyến đi của tôi tới các địa phương trong nước bị
hạn chế. Chính vì những lý do đó, tôi đã quyết tâm rời bỏ ngôi vua để dành tất
cả thời gian và năng lực vào việc chăm lo cuộc sống cho dân.
Một tháng sau khi tuyên đọc bản
“Chiếu thoái vị” tôi tuyên bố ý định thành lập một tổ chức chính trị mang tên
Sangkum Reastr Niyum, có nghĩa là “Cộng đồng xã hội chủ nghĩa bình dân” coi như
nòng cột của khối đoàn kết dân tộc mà tôi quyết định thực hiện. Tôi kêu gọi các
đảng phái trong nước hãy chôn vùi hết những bất đồng nội bộ, gia nhập tổ chức
mới thành lập này mà tôi hi vọng sẽ là một mặt trận, hoặc một phong trào hơn là
một đảng chính trị. Mục đích của Sangkum là cho ra đời một nước Campuchia “thật
sự dân chủ bình đẳng, xã hội chủ nghĩa nhằm phục hưng sự lớn mạnh của Tổ quốc”.
Khoảng hai tháng sau khi tôi ra
lời kêu gọi, Ban chấp hành ba đảng cánh hữu là Đảng Phục hưng Khơme của Lon
Nol, Đảng Vì dân của Sam Sary, Đảng Dân chủ quốc gia của Un Chơhana Xun tuyên
bố tự giải tán để các thành viên gia nhạp Sangkum. Các đảng phái cánh tả như
Đảng Dân chủ, Đảng Pracheachon, Đảng Tự do và một số tổ chức khác tuyên bố sẽ
đưa đại biểu ra tranh cử trong cuộc bầu cử dự định tổ chức vào ngày 11-9-1955.
Từ cuộc bầu cử này các ứng cử viên của Sangkum đã giành được 91 ghế Quốc hội.
Sangkum giành được 83% số phiếu, Đảng Dân chủ 13%, Đảng Pracheachon chỉ giành
được 3% số phiếu bầu. Hai tuần sau ngày bầu cử Quốc hội, Sangkum tiến hành Đại
hội lần thứ nhất, thông qua những quyết định lịch sử: phụ nữ được quyền đi bầu;
tiếng Thơm là ngôn ngữ chính thức (Vấn đề này là một trong những bất hoà giữa
tôi với Pháp. Ông Gôchiê trước kia đã từng giữ chức Khâm sứ Pháp tại Campuchia
và đã bắt ép tôi phải kết hôn với người con gái do ông chọn, cũng là người định
La tinh hoá chữ Khơme, quả quyết với tôi là nếu chọn tiếng Thơm là ngôn ngữ
chính thức thì Campucllia không thể nào trở thành một nước hiện đại được). Từ
đó trổ đi, mỗi năm Sangkum đều tiến hành đều dặn hai kỳ đại hội.
Ngoài ra còn tổ chức những cuộc
họp bất thường trong trường hợp đất nước gặp khủng hoảng.
Chỉ trong vòng tám năm, Campuchia
đã chuyển từ chế độ quân chủ chuyên chính sang quân chủ lập hiến, có nghị viện
do dân bầu và nay lại có thêm một hình thức dân chủ độc đáo là Cộng đồng xã hội
chủ nghĩa bình dân (Sangkum). Theo sáng kiến do tôi đề ra vai trò của Quốc
vương hoàn toàn chỉ còn ý nghĩa tập trung; quyền hành pháp nằm trong tay Thủ
tướng và nội các, chế độ này đã vận hành không gặp trở ngại vấp váp suốt 5 năm
tiếp theo.
Ngày 3-4-1960, tức sáu tháng sau
vụ nổ bom giấu trong quà biếu tại Hoàng cung, cha tôi qua đời, thọ sáu mươi
nhăm tuổi. Hội đồng ngôi vua lại tiến hành chọn người nối ngôi trong số một
trăm tám mươi Hoàng tử hậu duệ của hai người con trai Cố vương Ang Dương. Mặc
dù Quốc hội đã chấp nhận để phụ nữ được đi bầu, nhưng trong việc kế tục ngôi
vua chỉ có nam giới được chọn, nếu không nhất định mẹ tôi sẽ lên làm vua.
Ngay trong phiên họp đầu tiên của
Hội đồng ngôi vua tôi đã gợi ý, cống hiến to lớn của nền quân chủ là ngôi vua
phải tiêu biểu cao nhất cho tính đoàn kết dân tộc, nhất là trong tình hình lúc
này, có một nhóm đang vận động “làm suy yếu cuối cùng dẫn đến thanh toán Hoàng
tộc để dựng lên một nền Cộng hoà đứng đầu là Sơn Ngọc Thành.
Một số thành viên Hội đồng ngôi
vua đề nghị tôi trở lại ngai vàng, nhưng tôi kiên quyết giữ vững việc tôi đã
quyết định thoái vị. Nhiều người đề nghị chọn con trai cả của tôi nhưng tôi
cũng phản đối và nói:
“Không súc mạnh nào trên đời có
thề ép tôi cho phép con mình ngồi trên ngai vàng. Qua kinh nghiệm bản thân, tôi
đã qui rõ những trách nhiệm nặng nề nặng chĩu trên đôi vai Quốc vương, và tôi
cũng đã biết rõ, thêm vào đó còn có mọi thử mánh khóe thủ đoạn, tham vọng, ganh
ghét mà tôi đã tùng chống chọi trong suốt thời kỳ trị vì. Vì vậy, các vị dễ
dàng thông cảm tôi không muôn bất cứ đứa con nào của tôi làm vua. Tôi cũng muốn
trước hết, tránh cho đất nước bị xâu xé vì những mâu thuẫn dòng họ trong việc
tranh giành quyền lực có thể dẫn đến nội chiến.
Đồng thời, tôi cũng hiểu rõ là,
với lập trường này tôi có thể làm cho chế độ quân chủ bị bãi bỏ, dù nền quân
chủ hiện chỉ là hình thức. Nhưng dù sao nền quân chủ Campuchia cũng tiếp tục
duy trì sự đoàn kết dân tộc, một sự thay đổi đột ngột chỉ có lợi cho kẻ thù. Do
đó, tôi xin nói thêm là, cho tới khi nào nền quân chủ không còn là “cái khung
hoà hợp và hữu hiệu” để tập hợp dân chúng, thúc đẩy đất nuộc đi lên, đến lúc đó
tôi sẽ không ngần ngại đưa ra sáng kiến từ bỏ nền quân chủ để dẫn dắt đất nước
theo những con đường khác và giúp thực hiện trong hoà bình, không đổ máu, con
quãng cách mạng đã được chọn lựa”. (Bài nói này của tôi đã được đăng trên tờ
báo Thực tế Campuchia, số ra ngày 3-8-1962.
Cuối cùng, do không chọn được
người tiêu biểu, người ta đành phải thành lập một Hội đồng nhiếp chính, do ông
chú tôi là Hoàng thân Sisowath Môniret làm Chủ tịch. Ngày 4-4-1960, ông đã
tuyên thệ trước Quốc hội. Cuộc khủng hoảng lãnh đạo vẫn tiếp diễn. Khắp mọi nơi
trong nước, nhân dân đề đạt nguyện vọng tôi trở lại ngôi vua, hoặc đề nghị tôi
đề ra một giải pháp quyết định. Giải pháp đã được tìm ra bằng cách sửa đổi Hiến
pháp, cho phép Hội đồng ngôi vua được “căn cứ vào ý nguyện của dân trao những
quyền hành của một Quốc trưởng cho một nhân vật xuất chúng, thông qua trưng cầu
dân ý”.
Ngày 5-6-1960, cuộc trưng cầu dân
ý được tổ chức và giải pháp trên được hai triệu phiếu tán thành so với vài trăm
phiếu không đồng ý. Điều 122 của Hiến pháp sửa đổi ghi rõ, sau khi được bầu
“Quốc trưởng sẽ có đầy đủ quyền hạn và đặc quyền như một Quốc vương”. Điều
khoản này được nhất trí thông qua trong phiên họp toàn thể
Quốc hội ngày 9-6-1960 và năm
ngày sau, tức ngày 14-6 tôi được nhất trí cử vào chức vụ vừa mới đặt ra là Quốc
trưởng Campuchia.
Mẫu hậu, mẹ tôi, vẫn là biểu
tượng của nền quân chủ, còn tôi là người đùng đầu Nhà nước. Với giải pháp này
chúng tôi đã chấm dứt cuộc khủng hoảng lãnh đạo.
Điều 53 của Hiến pháp mới ghi
nhận: “Cá nhân Quốc trưởng là tuyệt đối thiêng liêng và không thể xâm phạm” có
nghĩa là Quốc hội không được truất phế Quốc trưởng. Điều khoản trên cũng quy
định, tất cả các đại biểu Quốc hội đều phải tuyên thệ trung thành với bản Hiến
pháp mới. Có thể nói, trong cuộc đảo chính ngày 18-3-1970. những kẻ giơ ray
truất phế tôi đều chính là những người đã tuyên thệ trung thành với bản Hiến
pháp sửa đổi năm 1960. Điều khoản ghi rõ “cá nhân Quốc trưởng là tuyệt đối
thiêng liêng, bất khả xâm phạm” đã hai lần bị vi phạm, lần đầu là truất phế
tôi, lần thứ hai là xử vắng mặt tôi vào tội tử hình. Điều rất mỉa mai là, chỉ
hai năm sau, trong khi cái gọi là chế độ cộng hoà của Lon Nol - Sirik Matak -
Cheng Heng đang gặp khó khăn bế tắc và rối loạn thì chính Mỹ năm 1972 đã khuyên
họ nên tìm cách khôi phục lại chế độ quân chủ Lý do là vì, cái chế độ cộng hoà
vừa mới dựng lên đã đồng nghĩa với tham nhũng, vi phạm các quyền dân chủ, đi
đôi với những thất bại về chính trị và quân sự.
Thế là, cường quốc tự nhận
là dân chủ nhất thế giới tức là Mỹ lại khuyên chư hầu Campuchia tìm một ông vua
để tái hồi chế độ quân chủ? Mới đầu, họ chọn Hoàng thân Môniret đang còn mắc
kẹt ở Phnompenh nhưng ông cậu tôi không thiết tha lắm, hẳn vì ông nghĩ rằng cái
ngôi vua này không có tiền đồ. Người ta lại chạy đi tìm con trai cả của ông là
Hoàng thân Sisowath Ratnara. Thật là một sự trùng hợp lịch sử. Người Pháp trước
kia đã đặt Sihanouk lên ngôi vua mà đáng lý ra ngai vàng phải thuộc về cha tôi
là ông Hoàng Xuranarit. Bây giờ, người Mỹ lại chọn Ratnara là con trai của
Hoàng thân Moriret Ratnara bắt đầu công danh từ một viên chức Bộ Ngoại giao của
Lon Nol, là một nhân vật cánh hữu, chống Cộng và thân Mỹ. Đó là một ứng cử viên
lý tưởng vì Lon Nol quen, thân vôi Ratnara. Sau khi làm đảo chính, chuyến công
du nào của Lon Nol ra nước ngoài Ratnara đều được đi theo. Nhưng lại xuất hiện
một điểm nút khó giải quyết. Dù rất thân với Ratnara, Lon Nol vẫn không muốn
nhường chỗ cho Ratnara vì hiện Lon Nol trên thực tế đang giữ vai trò của “Ông
Vua Cộng hoà”? Giải pháp “Ratnara” cuối cùng đã không được thực hiện và rơi vào
bế tắc như mọi giải pháp khác của Mỹ bầy ra cho bọn Lon Nol.
Trong khi đó, tôi tự coi như
một con người sung sướng vì đang trên đường kháng chiến chuẩn bị cho một tương
lai tốt đẹp.
Sihanouk về Campuchia, 1973
Nguyễn Việt Phương
(*Tác giả nguyên là Sư đoàn
trưởng Sư đoàn 472, đã có dịp đón tiếp và theo dõi chuyến thăm quê của ông bà
Hoàng Sihanouk)
Báo An ninh thế giới cuối tháng,
4-2003
Sau Hiệp định Paris và Viêngchăn 22-2-1973, trời Trường Sơn
không còn máy bay Mỹ đánh phá. Quốc trưởng Sihanouk đang ở Bắc kinh, thấy thời
cơ thuận lợi liền đề đạt nguyện vọng với Nhà nước Việt nam dân chủ cộng hoà
giúp đỡ vợ chồng ông về thăm quê. Vì tình nghĩa, Chính phủ ta nhiệt thành ủng
hộ ông bà Hoàng thực hiện ước nguyện này. Chiếc chuyên cơ hạ cánh. Sân bay Đồng
Hới thoắt nhộn nhịp khi cựu Quốc trưởng Sihanouk và bà Hoàng Môních xuất hiện ở
cửa khoang máy bay. Tuy là vùng đất mới hưu chiến, lễ đón rước vẫn đúng nghi
thức trọng thể, nồng hậu.
Tối đó, Bộ Tư lệnh Binh đoàn
Trường Sơn mở tiệc chào mừng khách. Tư lệnh và Chính ủy trịnh trọng chúc sức
khỏe ông bà Hoàng và ngài Yêngxari, đại diện Khmer Đỏ. Cựu Quốc trưởng đứng dậy
đáp lễ. Với giọng cung kính, ông Hoàng ca ngợi công đức và thiên tài của cố Chủ
tịch Hồ Chí Minh, cảm ơn Đảng Lao động và Chính phủ Việt nam đã giúp đỡ rất to
lớn cho công cuộc đấu tranh của nhân dân Campuchia. Ông cảm khái cao giọng: Tôi
suốt đời ghi nhớ mối ân tình sâu nặng của Việt nam đã dang rộng tay thân hữu
với tôi, khi mà tên phản bội Lonnon câu kết với kẻ thù làm cuộc đảo chính tôi
vắng mặt... Trong cuộc hội nghị cấp cao Đông Dương (từ 24 đến 25-4-1970), cũng
chính ngài Thủ tướng Phạm Văn Đồng kính mến đề nghị tôi làm Chủ tịch... Và hôm
nay, người anh em Việt nam lại tạo điều kiện cho vợ chồng tôi về thăm cố
hương...
Yêngxari bức bối cứ luôn mồm khậm
khạc. Bà Hoàng Monique nhạy cảm với thứ “tín hiệu” chẳng đẹp ấy, khéo ngầm báo
chồng. Cựu Hoàng chợt lúng túng một chút, rồi cất tiếng cười nhè nhẹ: “Cuộc hội
ngộ hôm nay vâng, tôi và ngài Yêngxari rất xúc động...”. Quan khách cảm thông.
Ai cũng biết mối quan hệ bề ngoài giữa Ban lãnh đạo Khmer Đỏ với người đại diện
vương triều thất thế vẫn đang âm ỉ thâm thù không thể dung hoà.
Chính phủ ta cử một số cán bộ cao
cấp chuyên trách quan hệ với Campuchia, Đại sứ Việt nam ở Campuchia, Trưởng
phòng Phục vụ lễ tân và 4 sĩ quan an ninh làm vệ sĩ của ông bà Hoàng. Bộ trưởng
Quốc phòng trực tiếp giao trách nhiệm cho Tư lệnh, Chính ủy Binh đoàn Trường
Sơn tổ chức thực hiện đảm bảo tuyệt đối an toàn chuyển “công du” của khách. Tử
xưa đến nay bộ đội chiến đấu có bao giờ phải đưa đón đoàn khách cỡ đó trên
Trường Sơn? Tám trạm dừng chân phải cấp tốc dựng nhà nghỉ tương xứng ông bà
Hoàng, yêu cầu đủ tiện nghi sinh hoạt thích hợp. Cục Hậu cần vội tung cán bộ đi
khắp nơi để mướn hoặc mua sắm giường, đệm, tủ gương, xalông, quạt máy, bàn ghế
làm việc, điện thoại và các thứ đồ dùng thường nhật như giấy vệ sinh, xà bông
thơm, nước hoa... Trong hoàn cảnh phục vụ chiến đấu và chiến đấu ở Trường Sơn
đòi hỏi có ngay mọi thứ đó thật vô cùng khó. Chỉ riêng lo cái “hố xí máy” đã
thành chuyện khá vất vả. Thế nhưng, những người lính của ta thật khéo tay. Ba
ngày sau, mọi nhu cầu phục vụ lộ trình hơn ngàn cây số đều sẵn sàng chờ đón
khách quý.
Sáng tháng ba, trời cao vút xanh
thẳm. Đỉnh động Vành Vàng cao hơn 1.300m cũng chỉ vương vất vài làn mây mỏng.
Đoàn xe hơn 20 chiếc xuất hành. Để giữ sức cho khách, đoàn xe đi hai giờ lại
dừng mười lăm phút giải lao. Đúng 15 giờ 30 phút, Đoàn đến trạm Chà Lý, Đại tá
Lê Đình Sum, Phó Tư lệnh Binh đoàn Trường Sơn báo cáo với khách sẽ nghỉ đêm tại
đây theo kế hoạch. Bà Hoàng Môních hoan hỉ, hồn nhiên reo lên:
- Ôi, tuyệt quá! Tôi được ngắm
dòng thác bạc... Hình như có cả đàn hươu dưới thung...
- Còn sớm! - Xari quạu mắt - Đến
trạm sau hãy nghỉ.
Sihanouk ngớ người. Môních xịu
mặt.
Đại tá Sum sẽ sàng nói:
- Trạm sau ở Mường Noọng. Phải
chạy liền tám tiếng, nhanh nhất cũng quá nửa đêm mới đến. Đi thế dễ mất an toàn
lắm.
Xari đành chịu rút ý kiến. Thực
ra, sức ông ta cũng chẳng dẻo dai, song cái trò “lên mặt” của kẻ tiểu khí
thường hay thế. Vợ chồng ông Hoàng cũng mất hào hứng, lặng lẽ vào phòng riêng,
ngả lưng xuống chiếc “xích đu” bên lan can hàng hiên, đắm chìm trong mặc cảm u
hoài. Bác sĩ thăm sức khỏe đến khá lâu khi lên tiếng hai ông bà mới bừng tỉnh.
Sau bữa cơm tối, trưởng phó đoàn đến báo cáo tình hình chặng đường tiếp theo
với khách. Sihanouk và Yêngxari nhìn tấm sơ đồ, lắng nghe:
- Đường 24 là trục kín, hẹp, khó
đi nhanh, trạm Mường Noọng cách 185km. Nếu xuất phát như hôm nay thì 6 giờ tối
mới đến, sẽ rất mệt...
Sihanouk tỏ ra lo ngại, Yêngxari
liếc nhìn ông Hoàng, xẵng giọng:
- Đi thế cũng được.
Vốn đã biết họ, hai anh chẳng
ngạc nhiên trước thái độ cục cằn của Yêngxari.
Đại tá Sum lựa lời:
- Vâng. Nhưng liệu có nên điều
chỉnh phương án thích hợp không?
Sihanouk nói ngay:
- Hay lắm! Ông trình bày đi.
- Thưa Xamđéc! Nếu chúng ta dậy
lúc 4 giờ, 5 giờ khởi hành, 7 giờ đến trạm rồi giải lao hãy ăn lót dạ, 11 giờ
tạm dừng ăn cơm trưa, nghỉ một tiếng, sau đó đi liền mạch thì 15 giờ rưỡi đến
trạm thoải mái.
- Rất hay! - Sihanouk cười rộng
miệng - Tôi sẵn sàng chấp nhận.
Xari đảo ngược mắt nhìn ông Hoàng
rồi nhìn cán bộ Việt nam, giọng hơi gắn gắt:
- Đi đứng thế nào là trách nhiệm
của các anh, khỏi bàn.
Anh Xuân Hoành đã quá rõ tính
cách của Xari, liền đáp:
- Vâng. Chúng tôi hiểu, nhưng vì
sức khỏe của quý vị nên mới đề nghị chuyển dịch thời gian.
- Thôi được! - Yêngxari xịu mặt.
Xuân Hoành hướng sang ông Hoàng,
lễ phép:
- Còn ý ngài? Thưa Xamđéc!
- Ồ! Tôi đã nói trước rồi -
Sihanouk cười tươi, giơ ngón tay - Xin thêm một đề nghị. Để bảo mật đi sâu
xuống phía nam, nên dùng bí danh, Frère Phạm Văn Đồng đã cho tôi là “đồng chí
Thắng”, Môních là “đồng chí Lợi” - ông nghiêng đầu sang Yêngxari - Còn ngài...
- Là Thông! - Xari nói cụt
ngủn.
Xuân Hoành cười mỉm:
- Vâng, xin theo ý quý vị.
Mời các “đồng chí” nghỉ sớm lấy sức mai đi. Đêm Trường Sơn mát dịu, không tiếng
phản lực gầm rú khiến ai cũng yên giấc. Mãi đến khi tiếng gà rộn rừng, đội gác
thay phiên, mọi người mới lục tục sửa soạn lên đường. Hai vợ chồng ông Hoàng đã
gọn ghẽ, nhanh nhẹn bước sang phòng ăn đỡ tách càphê từ tay cô phục vụ. Trưởng
phó đoàn đến chào chúc buổi sáng và hỏi thăm:
- Đêm qua các đồng chí
Thắng, Lợi và Thông ngon giấc chứ?
Ông bà Hoàng rất khoan khoái
với cách xưng hô thân tình thế. Môních nở nụ cười vồn vã:
- Xin cảm ơn hai đồng chí.
Nắc tà phnôm (thần núi) cho chúng tôi giấc mơ đẹp lắm.
Xari lặng thinh uống hết
tách càphê, xách cặp da lầm lũi tới chiếc xe đỗ trước. Sau hai chặng nghỉ, đoàn
xe đến trạm sớm hơn nửa giờ. Sihanouk không nén được, reo to:
- Tuyệt chưa! Quyết định
đúng là vậy đấy!
Ánh mắt bà Hoàng bắt được
nếp nhà sàn xinh xắn, mái lá uốn cong, không thưng vách, dựng ở ngã ba đường rẽ
vào trạm “Sa la”, Môních nghiêng đầu sang cô Minh, thiếu úy bảo vệ: “Ôi! Bộ đội
Việt nam hiểu biết phong tục quê tôi quá! Nhà mời khách qua đường nghỉ chân đấy
em ạ! Trên đất Chùa Tháp làng nào cũng có sa la như thế”.
Xuống xe. Ông bà Hoàng chắp
tay đưa quá đầu, líu ríu bước giữa hai hàng nam nữ bộ đội Việt nam phất cờ hoa
hớn hở chào đón. Vợ chồng ông Hoàng sững nhìn ngôi nhà thanh nhã dựng trên nền
cao, hàng lan can ban quan mảnh vườn xinh xinh trổ bông rực rỡ. Trong nhà sàn
lát gỗ đỏ au, trần ken trúc ngà vàng rươm, đủ các phòng ăn, ngủ, tiếp khách và
phòng toa lét. Phòng nào cũng có cửa sổ căng rèm trắng tinh. Ông Sihanouk nắm
tay anh trạm trưởng, giọng xúc động:
- Trong hoàn cảnh này mà các
bạn chu đáo quá... Tôi không biết bày tỏ lòng ghi ơn thế nào cho xứng...
Chiều đó ông bà Hoàng xuống
“hồ bơi” - Vịnh nước trong sông La Nông được cải tạo. Cả hai cùng bơi thỏa
thích. Sihanouk ngẫu hứng sáng tác bản nhạc “Biết ơn con đường”. Tối hôm ấy ông
đàn, bà hát cho số anh chị em phục vụ thưởng thức. Đúng lịch, hôm sau đoàn sẽ
đi tiếp. Chúng tôi bắt gặp ánh mắt lưu luyến của Môních. Chẳng ai nỡ thui chột
tình yêu thiên nhiên của người phụ nữ này, bà ấy lại đang lâm “cảnh khó” phải
nén lòng. Chúng tôi bèn viện lý do kỹ thuật và sức khỏe của lái xe để lưu lại
ngày nữa. Bà Hoàng mừng khôn kể.
Những ngày sau đi liên tiếp
đến các trạm nằm trên đất Lavân màu mỡ. Nơi nào cũng dư dật thực phẩm, hồng
xiêm, thốt nốt bạt ngàn, khiến ông bà Hoàng ngỡ như mình đang đi trên mảnh đất
quê hương.
Hôm đến trạm cuối của Sư
đoàn 470 tại Tà Ngân trên đất Campuchia, Đại tá Nguyễn Lang, Phó tư lệnh Binh
đoàn Trường Sơn, đứng trước cổng chào chờ đón ông bà Hoàng. Sihanouk xuống xe
vội cúi hôn mảnh đất địa đầu Tổ quốc, rồi đứng dậy bắt tay đáp lễ Đại tá Lang,
đoạn chạy sang ôm nhẹ vai hai quan chức kháng chiến Campuchia. Sau đó Bộ Tư
lệnh Binh đoàn Trường Sơn mở tiệc chiêu đãi rất long trọng, tặng quà lưu niệm
các quý khách.
Tiếp theo sẽ là lễ ra mắt
của các nhân vật Chính phủ kháng chiến Campuchia với Quốc trưởng. Bộ Thông tin
đã thông báo cho Iêngxan và Sihanouk thay đồng phục đen, Môních vận đồ nữ vùng
giải phóng Campuchia. Đại tá Lê Đình Sum báo cáo với ông bà Hoàng: “Phận sự của
đoàn Việt nam chỉ còn đưa khách đến Xiêm Pạng. Từ đó, đồng chí Thắng, Lợi sẽ
được Chính phủ kháng chiến Campuchia đón tiếp”. Sihanouk khe khẽ thở dài, vầng
trán rộng nổi rõ những đường gân máu rần rật. Bà Môních thì cứ ôm riết lấy cô
Minh.
- Mai chị về nước - Cô thiếu
úy bảo vệ lựa lời - chắc cũng chỉ ít hôm sẽ quay ra. Chị thay quần áo để em
giặt nhé! Môních siết chặt cô vào lòng, nghẹn ngào:
- Không biết chị có còn sống
mà quay ra gặp em...
- Ôi! Chị nói gở. Về thăm Tổ
quốc có gì mà sợ.
- Em chưa biết rõ thôi -
Môních nức nở - Bọn họ căm thù vợ chồng chị lắm... Mấy ngày qua có bộ đội Việt Nam
họ chưa dám làm gì đấy
Chúng tôi cảm nhận chặng
đường sắp tới là chuỗi dài lo âu của vợ chồng ông Hoàng. Ai cũng cầu mong cho
chóng qua đi những ngày đen tối đầy hiểm hoạ với ông bà, để sớm có dịp tái ngộ
sau chuyến thăm quê.