TÓM TẮT VỀ VƯƠNG QUỐC
CAMPUCHIA
Cập nhật: 3/10/2012. Chí Dũng
1. Quốc hiệu, Quốc
khánh, Quốc kỳ, Quốc ca:
- Quốc hiệu: Vương quốc Campuchia (Pờ-rẹ Ria-chia-na-chạ
Campuchia). Tiêu ngữ của Vương quốc Campuchia là “Dân tộc, Tôn Giáo, Quốc
vương” (Điều 4, Hiến pháp 1993)
- Quốc khánh: Ngày 09 tháng 11 năm 1953, ngày Pháp trao trả
độc lập cho Campuchia được chọn là ngày Quốc khánh.
- Quốc kỳ: Hình chữ nhật, phía trên và dưới là hai dải rộng
màu xanh lam, giữa nền cờ là một dải màu đỏ có in hình ngôi đền Angkor Wat màu
trắng.
-Quốc ca: Bài hát Nokoreach được chọn là quốc ca của
Campuchia. Bài hát này do Vua sư Chuon Nath đồng thời là nhà ngôn ngữ học của
Campuchia viết mang màu sắc dân ca Khmer.
Bài hát này đã từng được công nhận là Quốc ca Campuchia năm 1941, năm
1976 thời Khmer Đỏ thay bằng quốc ca khác và được lấy lại làm Quốc ca Campuchia
năm 1993 khi lập Vương quốc Campuchia.
2. Thủ đô/ Trung tâm
hành chính/các thành phố lớn nhất
Campuchia có 24 tỉnh, thành phố. Thủ đô là Thành phố Phnôm –
Pênh (Phnom Penh) với dân số khoảng hai
triệu người. Một số tỉnh lớn là Bắt –đom –boong (Battambang), Kam-pông-Chàm
(Kompong Cham), Pờ-rẹ- Xi-ha-núc (Preah Sihanouk), Xiêm-Riệp (Siem Reap).
3.Chế độ chính trị
Vương quốc Campuchia là quốc gia theo mô hình Quân chủ lập
hiến, thực hiện các nguyên tắc: dân chủ tự do, đa nguyên, đa đảng, độc lập, tự
chủ, hòa bình, vĩnh viễn trung lập và không liên kết (Điều 1, Hiến Pháp 1993).
Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nhân dân thực hiện quyền lực thông qua
Quốc hội, Chính phủ Hoàng gia và các cơ quan tư pháp (Đ.51, Hiến pháp).
Quốc vương là nguyên thủ quốc gia. Quyền lực nhà nước được tổ
chức theo nguyên tắc tam quyền phân lập, ba nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp
và tư pháp hoạt động độc lập với nhau (Đ.51 Hiến Pháp). Nhánh lập pháp gồm Quốc
hội và Thượng viện. Nhánh Hành pháp gồm Chính phủ hoàng gia ở trung ương và
chính quyền địa phương gồm hội đồng và cơ quan hành chính ở ba cấp từ xã/phường,
quận/huyện tới tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương. Nhánh tư pháp gồm hệ thống
Tòa án, công tố và Hội đồng Hiến pháp.
4. Hiến pháp
Quốc hội lập hiến được thành lập ngày 24/9/1993, và ban hành
Hiến pháp năm 1993, sửa đổi năm 1999.
Nguyên tắc không được phép thay đổi trong Hiến pháp: chế độ
Quân chủ lập hiến, Dân chủ, Tự do, Đa nguyên.
Tư tưởng xuyên suốt của Hiến Pháp là xây dựng quốc gia độc lập,
tự chủ, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất dân tộc; vĩnh viễn trung lập và không
liên kết; thực hiện chính sách cùng tồn tại hòa bình với các nước láng giềng và
các nước khác trên thế giới; không xâm chiếm, không can thiệp vào công việc nội
bộ của nước khác; không tham gia liên minh quân sự; không cho phép căn cứ quân
sự nước ngoài trên lãnh thổ của mình, không đặt căn cứ quân sự ở nước ngoài, trừ
khi có yêu cầu của Liên hợp quốc (Điều 51, 54 Hiến Pháp).
Về chế độ kinh tế, Hiến pháp xác định Campuchia xây dựng
kinh tế thị trường, thừa nhận người dân có quyền sở hữu cá nhân, tự quyết định
bán các sản phẩm của mình ra thị trường; nhà nước có nghĩa vụ tìm thị trường
cho dân; xác định sở hữu nhà nước đối với đất đai, tài nguyên, núi, biển, nguồn
nước ngầm, thềm lục địa, hải phận, không phận, các đảo, sông ngòi, suối, hồ, rừng
và các tài nguyên thiên nhiên khác, các trung tâm văn hóa, căn cứ quân sự và những
đối tượng khác được quy định là tài sản quốc gia (Điều 56, 58, 60)
Hiến pháp có hiệu lực tối cao. Các luật và các quy định khác
của nhà nước phải nghiêm chỉnh tuân thủ Hiến pháp. Hội đồng Hiến pháp có thẩm
quyền giải thích và bảo vệ Hiến pháp. Hiến pháp chỉ được sửa đổi nếu có đề nghị
của Quốc vương, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội và được sự ủng hộ của ¼ tổng số đại
biểu Quốc hội. Luật sửa đổi Hiến pháp có giá trị khi đạt đa số 2/3 đại biểu Quốc
hội biểu quyết tán thành. Kiến nghị sửa đổi Hiến pháp không được xem xét khi đất
nước trong tình trạng khẩn cấp hoặc chiến tranh. Cấm mọi sửa đổi, bổ sung nhằm
thay đổi hệ thống chính trị dân chủ, tự do đa nguyên và chế độ Quân chủ lập hiến
đã được ghi nhận trong Hiến pháp.
5. Chế độ bầu cử
Tổng tuyển cử bầu Quốc hội
Đại biểu Quốc hội được bầu qua tổng tuyển cử theo chế độ bầu
cử tự do, phổ thông đầu phiếu, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín, theo
nguyên tắc tỷ lệ các đảng phái đăng ký tranh cử. Đại biểu có thể được bầu lại
không hạn chế số nhiệm kỳ. Ứng cử viên đại biểu Quốc hội phải là công dân
Campuchia có quốc tịch từ khi sinh ra, có quyền bầu cử, không phân biệt giới
tính, tròn 25 tuổi trở lên.
Nhiệm kỳ của Quốc hội là năm năm, tính từ phiên họp đầu tiên
sau ngày bầu cử và kết thúc vào ngày khai mạc phiên họp đầu tiên của Quốc hội
khóa mới. Quốc hội chỉ có thể bị giải tán giữa nhiệm kỳ khi Chính phủ bị Quốc hội
bất tín nhiệm hai lần trong vòng 12 tháng, và phải do Thủ tướng đề nghị, được
Chủ tịch Quốc hội phê chuẩn và Quốc vương tuyên bố giải tán để tổ chức tổng tuyển
cử trong vòng 60 ngày. Quốc hội có thể kéo dài nhiệm kỳ mỗi lần một năm, nếu vì
lý do chiến tranh hoặc tình huống đặc biệt khác không thể tổ chức tổng tuyển cử.
Quyết định kéo dài nhiệm kỳ phải theo đề nghị của Quốc vương và được ít nhất
2/3 tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
Vương quốc Campuchia từ 1993 đến nay đã tổ chức bốn cuộc tổng
tuyển cử bầu Quốc hội vào các năm 1993, 1998, 2003, 2008 Cuộc tổng tuyển cử bầu
Quốc hội khóa V dự kiến vào tháng 7/2013.
Đại cử tri bầu Thượng viện
Campuchia thành lập Thượng viện năm 1999. Hiến pháp quy định
số thượng nghị sỹ không vượt quá nửa số đại biểu Quốc hội (ít nhất là 60 thượng
nghị sỹ) và được bầu với nhiệm kỳ sáu năm bởi đại cử tri là đại biểu Quốc hội
và đại biểu hội đồng xã, phường toàn quốc trên danh sách ứng cử viên được lập
theo nguyên tắc tỷ lệ các đảng phái tranh cử. Ngoài số thượng nghị sỹ được bầu,
Quốc vương có quyền bổ nhiệm hai thượng nghị sỹ và Quốc hội biểu quyết theo
nguyên tắc đa số quá bán để chỉ định hai thượng nghị sỹ (Điều 100 Hiến pháp
1993 sửa đổi).
Thượng viện đầu tiên
được bầu là Thượng viện Khóa II, bầu ngày 22 tháng một năm 2006. Thượng viện
Khóa III hiện nay (bầu 29 tháng 1/2012) có 61 thượng nghị sỹ; trong đó 02 ghế
do Quốc vương bổ nhiệm, 02 ghế do Quốc hội biểu quyết chỉ định và 57 thượng nghị
sỹ được bầu theo nguyên tắc không trực tiếp, thông qua đại cử tri. Đảng CPP
giành 46 ghế và SRP 11 ghế trong Thượng viện Khóa III.
Bầu cử trực tiếp hội đồng xã, phường:
Chính quyền
cơ sở ở Campuchia là hội đồng cấp xã, phường (Sangkat) do dân bầu lên; trong
khi cơ quan hành chính tỉnh và quận huyện do Chính phủ bổ nhiệm. Bộ Nội vụ là
cơ quan quản lý nhà nước đối với chính quyền địa phương. Campuchia có 1621 xã,
phường. Tại mỗi đơn vị hành chính xã phường thành lập một hội đồng là hạt nhân
quyền lực của chính quyền cơ sở. Luật bầu cử hội đồng xã/phường quy định về việc
bầu cử ở hội đồng xã/phường.
Mỗi hội đồng xã/phường có từ 5 đến 11 thành viên tùy theo
dân số. Số lượng thành viên của từng hội đồng được Chính phủ công bố bằng một
nghị định không muộn hơn chín tháng trước ngày bầu cử (Đ.12 Luật tổ chức hành
chính địa phương). Hội đồng được bầu theo nguyên tắc cử tri bầu trực tiếp trên
danh sách ứng cử viên do các đảng phái tranh cử giới thiệu theo nguyên tắc tỷ lệ;
số ứng cử viên ít nhất phải gấp đôi so với số thành viên hội đồng cần bầu. Đảng
đạt đa số phiếu có quyền bổ nhiệm trưởng xã, phường. Nhiệm kỳ của hội đồng xã,
phường là năm năm.
Campuchia đã tổ chức ba cuộc bầu cử cấp xã, phường trong các
năm 2002, 2007 và ngày 3 tháng sáu năm 2012. Đảng CPP giành 8283 ghế trong tổng
số 11459 ghế thành viên hội đồng xã, phường toàn quốc; Đảng SRP giành 2155 ghế
và số còn lại là các đảng Nhân quyền, FUNCIPEC và Đảng Norodom Ranaridth. (??)
6. Tổ chức hành chính
Campuchia được chia thành 23 tỉnh (Khett) và 01 thành phố trực
thuộc trung ương là Thủ đô Phnom Penh (krong).Tỉnh được chia thành các huyện
(srok), huyện được chia thành các xã (khum). Xã và phường là đơn vị hành chính
cuối cùng. Một xã có thể có một hoặc được chia thành nhiều xóm (phum). Phum
không tổ chức chính quyền hành chính. Trưởng phum có nhiệm vụ báo cáo trực tiếp
tới trưởng xã. Campuchia thực hiện bầu trưởng Phum từ năm 2006.
Thủ đô Phnom Penh được chia thành các quận (khann) , quận được
chia thành các phường (sangkat).
Chính quyền địa phương ba cấp ở tỉnh/thành phố thuộc trung
ương, Quận/huyện và xã/phường gồm có hội đồng và cơ quan hành chính. Người đứng
đầu cơ quan hành chính ở tỉnh là tỉnh trưởng, ở Thủ đô Phnom Penh là Đô trưởng,
ở quận/huyện là quận trưởng/huyện trưởng và ở xã/phường là trưởng xã, trưởng
phường.
7. Cơ quan lập pháp
và các đảng chính trị chủ chốt:
Cơ quan lập pháp Campuchia được tổ chức theo chế độ lưỡng viện.
Quốc hội (Radhsaphea) : Hiến pháp quy định Quốc hội có nhiệm
kỳ năm năm tính từ kỳ họp đầu tiên sau bầu cử tới kỳ họp đầu tiên của Quốc hội
khóa mới. Quốc hội có ít nhất 120 đại biểu.
Quốc hội Khóa IV được bầu ngày 27/7/2008 hiện có 123 đại biểu
(Đảng nhân dân CPP có 90 ghế, Đảng Sam-Rainsy SRP có 26 ghế, Đảng Nhân quyền
HRP có 03 ghế, Đảng FUNCIPEC hai ghế và Đảng Norodom Ranaridth có hai ghế).
Ngày tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa V được công bố vào ngày…tháng 7/2013. Chủ
tịch Quốc hội Khóa IV là Xăm –đéc A-Kẹ Mô-ha Pô-nhia Chạ-cơ-rây Hêng-Xomrin
(Samdech Akkak Moha Ponhea Chakrei Heng Samrin).
Tổ chức Quốc hội gồm Chủ tịch Quốc hội là Chủ tịch Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, hai phó Chủ tịch Quốc hội và 9 ủy ban thường trực phụ trách
các lĩnh vực thẩm quyền của 26 bộ, ngành của Chính phủ. Ủy ban thường vụ Quốc hội
gồm Chủ tịch Quốc hội, hai phó Chủ tịch và chín chủ nhiệm ủy ban thường trực. Ủy ban thường vụ Quốc hội điều hành các công
việc của Quốc hội giữa hai kỳ họp.
Chủ tịch Quốc hội chủ trì các phiên họp của Quốc hội, tiếp
nhận các tờ trình, dự án luật và các nghị quyết của Quốc hội, bảo đảm việc tuân
thủ nội quy, thủ tục làm việc của Quốc hội và phụ trách quan hệ đối ngoại của
Quốc hội. Trong trường hợp Chủ tịch bị bệnh hoặc do ở nước ngoài mà không thể đảm
nhiệm nhiệm vụ tạm quyền quốc trưởng, thì một phó Chủ tịch Quốc hội được thay
thế thực hiện nhiệm vụ này.
Đại biểu Quốc hội vừa đại diện cho cử tri ở đơn vị bầu cử vừa
đại diện cho nhân dân toàn quốc. Đại biểu quốc hội hưởng đặc quyền miễn trừ nghị
sỹ, làm việc theo chế độ chuyên trách, được trả lương đại biểu và không được
kiêm nhiệm chức vụ công quyền, trừ trường hợp đại biểu đó được bổ nhiệm phục vụ
trong Chính phủ Hoàng gia. Nếu được bổ nhiệm vào chính phủ, thì đại biểu đó
không được bầu vào Ủy ban thường vụ hoặc thành viên của ủy ban thường trực.
Quốc hội họp thường kỳ hai lần mỗi năm tại trụ sở ở Thủ đô,
mỗi kỳ họp ít nhất 3 tháng liền. Ủy ban thường vụ Quốc hội có thể triệu tập họp
kỳ họp bất thường của Quốc hội theo đề nghị của Quốc vương hoặc của Thủ tướng
Chính phủ hoặc theo đề nghị của ít nhất 1/3 tổng số đại biểu Quốc hội. Các
phiên họp của Quốc hội đều công khai. Trong trường hợp cần họp kín phải theo đề
nghị của Chủ tịch Quốc hội hoặc đề nghị của ít nhất 1/10 tổng số đại biểu Quốc
hội hoặc yêu cầu của Quốc vương hoặc Thủ tướng Chính phủ. Phiên họp chỉ có giá
trị nếu có đủ 7/10 tổng số đại biểu Quốc hội tham dự.
Quốc hội có quyền lập pháp, giám sát, quyết định ngân sách
nhà nước và quyết định các vấn đề quan trọng khác của quốc gia. Quyền lập pháp
của Quốc hội không thể chuyển giao cho bất kỳ cơ quan hoặc cá nhân nào. Các đại
biểu và Thủ tướng chính phủ có quyền đề xuất sáng kiến lập pháp, tuy nhiên đề
xuất của đại biểu có thể bị từ chối nếu dẫn tới giảm thu ngân sách hoặc làm
tăng gánh nặng cho nhân dân. Luật sau khi được thông qua tại Quốc hội, được
chuyển tới Thượng viện cho ý kiến và trình Quốc vương ký lệnh công bố.
Quốc hội quyết định ngân sách hoạt động của Quốc hội và
thông qua ngân sách quốc gia, kế hoạch nhà nước, việc vay nợ, đặt và bãi bỏ các
sắc thuế; phê chuẩn hoặc hủy bỏ các điều ước quốc tế, ban hành luật tuyên bố
chuyến tranh; bỏ phiếu tín nhiệm Chính phủ Hoàng gia theo đa số 2/3 tổng số đại
biểu.
Hội đồng Hiến pháp có quyền xem xét và tuyên bố hủy bỏ các đạo
luật do Quốc hội ban hành trái với các nguyên tắc bảo vệ độc lập dân tộc, chủ
quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, gây hại tới sự đoàn kết chính trị hoặc quản
lý đất nước.
Đại biểu có quyền chất vấn, kiến nghị Chính phủ bằng văn bản
gửi qua Chủ tịch Quốc hội. Các bộ trưởng và Thủ tướng phải trả lời chất vấn bằng
văn bản hoặc trả lời trực tiếp trong thời gian 7 ngày kể từ ngày nhận được chất
vấn. Quốc hội thường quy định một ngày trong tuần dành cho chất vấn và trả lời
chất vấn. Chủ tịch Quốc hội có quyền quyết định cho phép tranh luận tại phiên
chất vấn.
Giải trình: Theo đề nghị của ít nhất 1/10 số đại biểu quốc hội,
Quốc hội có thể yêu cầu quan chức cao cấp của Chính phủ tới giải trình trước Quốc
hội. Các Ủy ban thường trực có quyền yêu cầu bộ trưởng tới giải trình tại ủy
ban.
Cách chức thành viên Chính phủ: QH có quyền biểu quyết cách
chức một thành viên của Chính phủ hoặc toàn thể nội các nếu ít nhất 30 đại biểu cùng ký tên kiến nghị QH biểu quyết việc này.
Quốc vương có quyền ký công bố luật do Quốc hội thông qua.
Thượng viện (Protsaphea): Khi Hiến pháp 1993 có hiệu lực,
lúc đó chưa tổ chức Thượng viện; mãi tới năm 1999 Luật sửa đổi bổ sung Hiến
pháp mới quy định thành lập Thượng viện với số thượng nghị sỹ không vượt quá nửa
số đại biểu Quốc hội. Việc thành lập Thượng viện nhằm bảo đảm nguyên tắc đa
nguyên, đại diện và cân bằng lợi ích quốc gia, lợi ích nhóm và địa phương.
Các Thượng nghị sỹ của Thượng viện đầu tiên được Quốc vương
bổ nhiệm với nhiệm kỳ năm năm (Đ.157.II. Hiến pháp). Sau nhiệm kỳ đầu tiên, Quốc
vương chỉ bổ nhiệm hai Thượng nghị sỹ, Quốc hội biểu quyết chỉ định hai TNS, số
TNS còn lại phải qua bầu cử không phổ thông (gián tiếp) với nhiệm kỳ sáu năm
(Đ.102.I. Hiến pháp). Thượng viện được bầu đầu tiên là Thượng viện Khóa II, được
bầu ngày 22/1/2006.
Thượng viện Khóa III được bầu ngày 29 tháng 1/2012 có 61 thượng
nghị sỹ; trong đó 02 ghế do Quốc vương bổ nhiệm, 02 ghế do Quốc hội biểu quyết
theo đa số đơn giản (Điều 100 Hiến pháp) và 57 thượng nghị sỹ được bầu theo
nguyên tắc không trực tiếp và do đại cử tri là đại biểu Quốc hội và đại biểu hội
đồng xã, phường bỏ phiếu bầu trên danh sách ứng cử viên được lập theo nguyên tắc
tỷ lệ các đảng phái tranh cử.
Chủ tịch Thượng viện Khóa III là Xăm-đéc A-kẹ Mô-ha Tho-ma
Pô-thi-san Chia Xim (Samdech Akka Moha Thamak Pothisal Chea Sim).
Thượng viện chia sẻ một phần nhỏ quyền lập pháp với Quốc hội,
nhưng chủ yếu đóng vai trò kiến nghị và tư vấn; không có thực quyền khởi xướng
thảo luận một dự án luật từ đầu. Nếu Thượng viện đề nghị Quốc hội thảo luận lại
một dự án luật, thì Quốc hội có toàn quyền quyết định thông qua Luật trong lần
thảo luận thứ hai mà không cần hỏi ý kiến Thượng viện.
Thượng viện họp hai kỳ mỗi năm, mỗi kỳ họp ít nhất là ba
tháng như Quốc hội, và có thể họp bất thường theo đề nghị của Quốc vương, Thủ
tướng hoặc ít nhất 1/3 số thượng nghị sỹ.
Thượng viện biểu quyết theo nguyên tắc quá bán khi bầu Chủ tịch,
các phó chủ tịch Thượng viện, thành viên các ủy ban; thông qua luật tổ chức,
thông qua nội quy làm việc của Thượng viện và thông qua các luật khác. Thượng
viện biểu quyết theo nguyên tắc đa số hai phần ba tổng số thượng nghị sỹ đối với
luật sửa đổi, bổ sung hiến pháp, bỏ phiếu thông qua các vấn đề kỷ luật, bắt,
giam, tước bỏ đặc quyền miễn trừ, bãi miễn, cách chức thượng nghị sỹ. Nguyên tắc
biểu quyết đa số ¾ tổng số thượng nghị sỹ
được áp dụng đối với quyết định hủy bỏ, tạm dừng việc bắt, tạm giữ hoặc truy tố
thượng nghị sỹ.
Tổ chức thượng viện gồm Ủy ban thường vụ (12 người, gồm chủ
tịch, hai phó chủ tịch và chín chủ nhiệm ủy ban thường trực). Thượng viện có
hai Phó Chủ tịch giúp Chủ tịch thực hiện nhiệm vụ. Chủ tịch Thượng viện được tạm
quyền Quốc trưởng trong trường hợp Quốc vương ở nước ngoài hoặc do bệnh. Nếu Chủ
tịch Thượng viện cũng bi bệnh hoặc ở nước ngoài, thì Phó Chủ tịch Thượng viện
có thể tạm quyền Chủ tịch và quyền quốc trưởng (Điều 110 Hiến pháp 1993 sửa đổi). Chín ủy ban thường trực của Thượng viện có thẩm
quyền về lĩnh vực trùng lắp với thẩm quyền của chín ủy ban thường trực của Quốc
hội.
Thượng nghị sỹ có đặc quyền miễn trừ nghị sỹ trong khi thực
hiện nhiệm vụ như quy định đối với đại biểu Quốc hội.
Các đảng chính trị
Campuchia hiện có 57 đảng chính trị, trong đó có 40 đảng
đăng ký với Bộ Nội vụ, tuy nhiên chỉ có bốn đảng đang tham gia nghị trường là
CPP, FUNCIPEC, NRP, SRP, HRP. Trong tháng 9/2012, một đảng mới do HRP và SRP
cùng phối hợp lập ra là Đảng Cứu quốc Campuchia (CNRP) đang làm thủ tục đăng ký
chuẩn bị tranh cử trong cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội năm 2013.
Các đảng chính trị hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
đăng ký, hoạt động theo Luật về các đảng phái chính trị ( công bố 18/11/1997).
Đảng nhân dân
Campuchia (CPP) hiện nay là đảng mạnh nhất chi phối chính trường Campuchia, kiểm
soát tất cả các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Chủ tịch Đảng CPP là
Xăm-đéc Chia Xim. CPP đề cử Xăm-đéc Hun Xen là ứng cử viên duy nhất của Đảng để
tranh cử chức Thủ tướng tại cuộc tổng tuyển cử 2013 và các nhiệm kỳ kế tiếp.
Đảng FUNCIPEC (Đảng Bảo hoàng) từng là một đảng lớn, sau
Tháng Bẩy năm 1997 bị phân hóa thành hai đảng là Đảng FUNCIPEC (do ông Keo Puth
Rasmey – con rể của cựu vương Norodom Sihanouk làm lãnh tụ tinh thần và Phó Thủ
tướng Nhek Bun Chhay làm Chủ tịch điều hành) và Đảng Norodom Ranarridth (NRP)
do Hoàng thân Ranaridth làm Chủ tịch. Vào tháng 9/2012, Đảng NRP đang chuẩn bị
đổi tên và có xu hướng sáp nhập với FUNCIPEC sau khi Hoàng thân Ranaridth đồng
ý thôi không tham gia chính trị lần thứ hai.
Hai đảng đối lập chính ở Campuchia là Đảng Sam Rainsy (SRP)
do ông Sam Rainsy làm chủ tịch và Đảng Nhân quyền (HRP) do ông Kem Sokha làm Chủ
tịch. Tháng 7/2012, hai đảng đối lập HRP và SRP họp thống nhất thành lập chung
một đảng đặt tên là Đảng Cứu quốc Campuchia: Cambodian National Rescue Party. Bộ
Nội vụ đã phê chuẩn đăng ký đảng này ngày 2/10/2012 với chủ tịch Đảng là Sam
Rainsy hiện đang sống lưu vong ở nước ngoài để tránh thi hành án tù. Sam Rainsy
đã từ chức Chủ tịch Đảng SRP. Dự kiến sau cuộc bầu cử 2013, hai đảng HRP và SRP
sẽ nhập vào NRP.
8. Nguyên thủ quốc
gia:
Đứng đầu nhà nước là Quốc vương (preahmâhaksat). Quốc vương
là nguyên thủ quốc gia suốt đời, là biểu tượng đoàn kết dân tộc và bất khả xâm
phạm, nhưng không tham gia chính trị, không tham gia điều hành nhà nước. Hiến
pháp Campuchia quy định Quốc vương trị vì nhưng không cai trị. Quốc vương không
có quyền chỉ định người kế vị. Hội đồng Hoàng gia về Ngôi vua có thẩm quyền chọn
Quốc vương.
Quốc vương có quyền ký công bố Hiến pháp, các đạo luật, ký
công bố các điều ước quốc tế đã được Quốc hội phê chuẩn; phê chuẩn quyết định của
Quốc hội bổ nhiệm Thủ tướng và nội các; theo đề nghị của Thủ tướng ký các sắc lệnh
(Kret) bổ nhiệm, miễn nhiệm quan chức cao cấp của Chính phủ Hoàng gia, phong,
tước hàm, cấp của tướng lĩnh cấp cao, cử đại sứ vả đặc phái viên đặc mệnh toàn
quyền; phê chuẩn hình thức việc bổ nhiệm, bãi nhiệm thẩm phán theo đề nghị của Hội đồng Thẩm phán
tối cao; Công bố tình trạng khẩn cấp sau khi có ý kiến của Thủ tướng, Chủ tịch
Quốc hội; ký lệnh ân xá, đặc xá tha tù trước thời hạn; quy định và trao tặng
huân, huy chương khen thưởng nhà nước theo đề nghị cảu Hội đồng bộ trưởng; ký sắc
lệnh cho nhập, thôi quốc tịch Campuchia; thực hiện các quyền hình thức liên
quan tới đề nghị giải tán Quốc hội, gia hạn nhiệm kỳ Quốc hội v.v.. Quốc vương
thực hiện các quyền đối ngoại của nguyên thủ quốc gia như đón tiếp các đoàn
nguyên thủ quốc gia theo nghi lễ nhà nước; tiếp các đại sứ, phái viên đặc mệnh
toàn quyền của nước ngoài trình Quốc thư v.v.
Về hình thức, Quốc vương là thống lĩnh tối cao các lực lượng
vũ trang Hoàng gia Khmer, là Chủ tịch Hội đồng Tối cao Quốc phòng. (Dự thảo luật
10/2012 về Hội đồng QP quy định Phó chủ
tịch Hội đồng là Thủ tướng)
Quốc vương phát biểu ý kiến với Quốc hội thông qua Thông điệp
Hoàng gia. Thông điệp này được Chủ tịch Quốc hội đọc trước phiên khai mạc và
không thảo luận. Quốc vương bố trí khoảng hai lần mỗi tháng để nghe Thủ tướng
và Nội các báo cáo về tình hình đất nước (Đ.20 HP).
Hiến pháp quy định các nhân vật được tạm quyền Quốc trưởng
trong trường hợp Quốc Vương không có mặt tại Campuchia, hoặc vì lý do sức khỏe
không đảm nhiệm được nhiệm vụ. Trong trường hợp này, lần lượt Chủ tịch Thượng
viện hoặc Chủ tịch Quốc hội hoặc người phó thứ nhất của những nhân vật này sẽ
thay mặt làm Quyền Quốc trưởng.
Quốc vương campuchia hiện nay là Pờ-rẹ Bạt Xăm-đéc Pờ -rẹ
Bô-rôm-niết Nô-rô-đôm Xi-ha-mô-ni (Preah Bat Samdech Boromneath Norodom
Sihamoni) đăng quang ngày 29/10/2004. Sau khi thoái vị, Nguyên Quốc vương
Sihanouk được Quốc hội xưng danh là Vua Cha ( preahmâhaviraksat) .
9. Nội các:
Chính phủ Hoàng gia được tổ chức thành Hội đồng các bộ trưởng,
đứng đầu là Thủ tướng và các thành viên khác của nội các là các phó thủ tướng,
các bộ trưởng Nhà nước, các bộ trưởng và quốc vụ khanh (Đ.99 Hiến pháp). Theo đề
nghị của Chủ tịch Quốc hội và được sự đồng ý của cả hai phó Chủ tịch Quốc hội,
Quốc vương chọn một ứng viên thuộc Đảng thắng cử để thương lượng với các đảng
viên của đảng thắng cử trong Quốc hội về danh sách thành viên Chính phủ (Đ.100
HP). Thủ tướng và danh sách các thành
viên Chính phủ do Quốc hội biểu quyết phê chuẩn tại kỳ họp thứ nhất và được Vua
ký sắc lệnh bổ nhiệm với nhiệm kỳ năm năm.
Chính phủ Nhiệm kỳ IV được thành lập ngày 25/09/2008, do Xăm
–đéc A-kẹ Mo-ha Xê-na-pa đây Tê-chô Hun –Xen (Samdech Akkak Moha Senapadei
Techo Hun Sen) làm Thủ tướng (liên tục từ 14/1/1985). Chính phủ Nhiệm kỳ IV có
10 phó Thủ tướng và 26 Bộ. Bộ trưởng Ngoại giao là Phó Thủ tướng Hor Namhong
liên tục giữ chức vụ này từ 1993 đến nay.
Hiến pháp quy định các mục tiêu bảo vệ ưu tiên của Chính phủ
là: bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện chính sách hòa hợp
dân tộc, bảo vệ đoàn kết và truyền thống dân tộc, bảo vệ pháp luật, an ninh và
an toàn xã hội; ưu tiên nâng cao phúc lợi
và mức sống của công dân.
Thành viên chính phủ phải từ bỏ các công việc kinh doanh, dịch
vụ công cộng; chịu trách nhiệm tập thể trước Quốc hội về chính sách của Chính
phủ Hoàng gia và chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng và Quốc hội về hành
vi của mình. Quốc hội thông qua biểu quyết quá bán quyết định việc truy tố một
thành viên của chính phủ về hành vi vi phạm pháp luật hoặc bất cẩn gây hậu quả
nghiêm trọng trong khi thực hiện nhiệm vụ.
Hội đồng các bộ trưởng họp mỗi tuần một lần do Thủ tướng chủ
trì. Biên bản cuộc họp được gửi tới Quốc Vương để thông báo. Luật về tổ chức và
hoạt động của Hội đồng các bộ trưởng quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ của
Chính phủ và các thành viên.
10. Hệ thống Tư pháp:
Các cơ quan trong hệ thống tư pháp của Campuchia gồm Hội đồng
tư pháp tối cao Hội đồng Hiến pháp, và hệ thống cơ quan xét xử và công tố ba cấp
thuộc Tòa án tối cao, Tòa án phúc thẩm, các tòa án cấp tỉnh/thành phố trực thuộc
trung ương và tòa án quân sự trung ương. Công tố ở Campuchia được tổ chức trong
tòa án các cấp và hoạt động độc lập.
Bộ tư pháp là cơ quan của chính phủ tham gia bảo đảm cơ sở vật
chất, kỹ thuật, hành chính tư pháp, tư vấn pháp luật cho các cơ quan xét xử và
công tố, giám sát bảo đảm thi hành án và quản lý lý lịch tư pháp.
Hệ thống tòa án, công tố được tổ chức trên nguyên tắc bảo đảm
quyền lực tư pháp độc lập, không thiên vị, bảo vệ quyền và tự do của công dân.
Hoạt động xét xử thực hiện thông qua hoạt động tố tụng của Tòa án tối cao, Tòa
phúc thẩm và các tòa án cấp tỉnh/ thành phố trực thuộc trung ương và tòa án
quân sự trung ương.
Quốc vương bảo đảm tính độc lập của tư pháp thông qua Hội đồng
tư pháp tối cao do Quốc vương làm chủ tịch. Bản án được tuyên nhân danh công
dân Khmer; chỉ thẩm phán có quyền ra phán quyết trên cơ sở chỉ tuân theo pháp
luật và sự kiện. Công tố là cơ quan duy nhất có quyền truy tố về hình sự.
Hội đồng Hiến pháp: được thành lập tháng 12/1997 theo Hiến
pháp 1993, có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp, giải thích Hiến pháp và pháp luật. Nếu
Hội đồng phán quyết một điều luật, đạo luật vi hiến thì điều luật, đạo luật đó
không được công bố hoặc chấm dứt hiệu lực. Hội đồng nhận để thụ lý và ra phán
quyết về các tranh chấp khiếu nại liên quan tới bầu cử.
Những nhân vật có quyền yêu cầu Hội đồng xem xét dự thảo luật
là Quốc vương, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội hoặc theo đề nghị của 1/10 tổng số
đại biểu Quốc hội hoặc các tòa án các cấp. Công dân muốn khiếu nại xin phúc xét
tính hợp hiến của luật đã ban hành phải thông qua các nhân vật có quyền yêu cầu
nói trên.
Hội đồng gồm chín thành viên với nhiệm kỳ chín năm, và lần
lượt được thay 1/3 nhân sự sau mỗi ba năm. Trong số chín thành viên, có ba
thành viên do Quốc vương bổ nhiệm, ba do Quốc hội và ba do Hội đồng Tư pháp tối
cao bổ nhiệm. Ứng viên vào Hội đồng là các chuyên gia có kinh nghiệm, uy tín,
không được kiêm nhiệm là thành viên chính phủ Hoàng gia, đại biểu quốc hội chủ
tịch hoặc phó chủ tịch đảng, chủ tịch hoặc phó chủ tịch công đoàn hoặc là thẩm
phán đương nhiệm. Chủ tịch Hội đồng do các thành viên bầu lên, có tiếng nói quyết
định khi 8 thành viên còn lại biểu quyết ngang bằng.
Hội đồng tư pháp tối cao: Chính thức đi vào hoạt động ngày
3/12/1997, được tổ chức và hoạt động theo Luật tổ chức Hội đồng tư pháp tối cao
năm 1994. Hội đồng gồm có Quốc Vương là Chủ tịch, và các thành viên là Bộ trưởng
Bộ Tư pháp, Chánh án Tòa án tối cao, Tổng công tố thuộc Tòa án tối cao, Chánh
án Tòa án Phúc thẩm, công tố viên tòa Tòa án Phúc thẩm, và 06 thẩm phán khác do
các thẩm phán bầu lên. Chức năng quan trọng của Hội đồng TPTC là bổ nhiệm thẩm
phán và xử lý kỷ luật thẩm phán, bảo đảm đạo đức hành nghề và vai trò độc lập của
ngành tư pháp.
Tòa án tối cao: có thẩm quyền toàn lãnh thổ, thụ lý giám đốc
thẩm các vụ do Tòa án Phúc thẩm kháng nghị. Phiên xét xử giám đốc thẩm cũng xem
xét chứng cứ, sự kiện và pháp luật. Tòa án tối cao gồm một Chánh án, hai phó
Chánh án và hai tòa: Tòa dân sự - xã hội phụ trách các việc dân sự, hôn nhân
gia đình, hành chính, lao động, thương mại và Tòa hình sự. Tòa án tối cao không
hướng dẫn xét xử đối với tòa cấp dưới thông qua án lệ.
Công tố trong TATC và các tòa án các cấp: Tại Tòa án tối cao tổ chức Cục Tổng công tố với
ba bộ phận chuyên trách:
-Văn phòng điều tra và kiểm sát điều tra, có nhiệm vụ bảo đảm
tính hợp pháp của các hoạt động tố tụng điều tra, hồ sơ điều tra, điều tra bổ
sung;
- Văn phòng hình sự có nhiệm vụ chuẩn bị cáo trạng cho Tổng
công tố, truy tố hình sự;
-Văn phòng dân sự: có nhiệm vụ hỗ trợ Tổng công tố trong kiểm
sát bảo vệ lợi ích nhà nước trong các vụ dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích của vị
thành niên, của người không có năng lực hành vi trong tố tụng hình sự.
Tòa Phúc thẩm: đặt tại Thủ đô Phnom Penh và có thẩm quyền
xét xử phúc thẩm trên toàn lãnh thổ đối với các bản án sơ thẩm cấp tỉnh / thành
phố trực thuộc trung ương và của tòa án quân sự. Phiên tòa phúc thẩm xét xử với
ba thẩm phán, có thể tiến hành điều tra bổ sung và cải sửa án sơ thẩm không giới
hạn. Hiện CPC đang nghiên cứu tổ chức tòa phúc thẩm khu vực.
Tòa sơ thẩm: là các tòa án tỉnh, tòa án quân sự. Tòa án tỉnh
có thẩm quyền giới hạn về lãnh thổ theo địa giới đơn vị hành chính. Tòa cấp tỉnh
thường tổ chức thành tòa dân sự và tòa hình sự, nhưng trên thực tế do thiếu thẩm
phán nên các thẩm phán phải xét xử tất cả các vụ việc. Tòa quân sự không giới hạn
về lãnh thổ, nhưng chỉ xét xử các vụ án liên quan tới quân nhân, lực lượng vũ
trang khác và các việc xâm phạm quốc phòng, an ninh quốc gia. Tòa quân sự đặt tại
Thủ đô Phnom Penh. Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm bảo đảm cơ sở vật chất, kỹ
thuật cho tòa quân sự .
Tòa án thương mại: đang trong quá trình nghiên cứu thành lập.
Bộ Tư pháp: có nhiệm vụ bảo đảm cơ sở vật chất, kỹ thuật,
tài chính, trụ sở cho hệ thống tòa án và công tố; giám sát thi hành án, hướng dẫn
tư vấn cho thẩm phán trong áp dụng pháp luật khi có những quy định gây nhầm lẫn;
quản lý hành chính tư pháp và lý lịch tư
pháp.
11. Hệ thống truyền
thông, thông tin đại chúng:
Theo Bộ Thông tin Campuchia, hiện tại Campuchia có 226 tờ
báo và 150 tạp chí trong nước, 33 báo và 26 tạp chí nước ngoài. Các báo lớn tại
Campuchia có Rasmey Kampuchea (Tia sáng Campuchia), Koh Santapheap (Đảo Hòa
bình), Phnom Penh Post (Bưu điện Phnom Penh), Kampuchea Thmey (Campuchia mới),
Cambodia Daily (Tin hàng ngày Campuchia – Tiếng Anh) Các đài truyền hình và
truyền thanh lớn có Đài Truyền hình quốc gia (TVK), Đài phát thanh và truyền
hình Bayon, Đài phát thanh và truyên hình Apsara, Đài truyền hình CTN, Đài truyền
hình Đông Nam Á SEA –TV v.v. Các báo, đài ở Campuchia chủ yếu là thuộc sở hữu
tư nhân. Chính phủ chỉ kiểm soát Đài Truyền hình và Đài phát thanh quốc gia và hãng thông tấn
AKP.
Báo chí và phương tiện thông tin đại chúng bắt đầu sử dụng
công nghệ thông tin để tiếp cận người dân qua mạng Internet.
Posted 4th October 2012 by ChiDzung Nguyen
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét