Thứ Năm, 20 tháng 2, 2014

TÓM TẮT VỀ VƯƠNG QUỐC CAMPUCHIA



TÓM TẮT VỀ VƯƠNG QUỐC CAMPUCHIA
Cập nhật: 3/10/2012. Chí Dũng
1. Quốc hiệu, Quốc khánh, Quốc kỳ, Quốc ca:
- Quốc hiệu: Vương quốc Campuchia (Pờ-rẹ Ria-chia-na-chạ Campuchia). Tiêu ngữ của Vương quốc Campuchia là “Dân tộc, Tôn Giáo, Quốc vương” (Điều 4, Hiến pháp 1993)
- Quốc khánh: Ngày 09 tháng 11 năm 1953, ngày Pháp trao trả độc lập cho Campuchia được chọn là ngày Quốc khánh.
- Quốc kỳ: Hình chữ nhật, phía trên và dưới là hai dải rộng màu xanh lam, giữa nền cờ là một dải màu đỏ có in hình ngôi đền Angkor Wat màu trắng.
-Quốc ca: Bài hát Nokoreach được chọn là quốc ca của Campuchia. Bài hát này do Vua sư Chuon Nath đồng thời là nhà ngôn ngữ học của Campuchia viết mang màu sắc dân ca Khmer.  Bài hát này đã từng được công nhận là Quốc ca Campuchia năm 1941, năm 1976 thời Khmer Đỏ thay bằng quốc ca khác và được lấy lại làm Quốc ca Campuchia năm 1993 khi lập Vương quốc Campuchia.
2. Thủ đô/ Trung tâm hành chính/các thành phố lớn nhất
Campuchia có 24 tỉnh, thành phố. Thủ đô là Thành phố Phnôm – Pênh (Phnom Penh)  với dân số khoảng hai triệu người. Một số tỉnh lớn là Bắt –đom –boong (Battambang), Kam-pông-Chàm (Kompong Cham), Pờ-rẹ- Xi-ha-núc (Preah Sihanouk), Xiêm-Riệp (Siem Reap).
3.Chế độ chính trị
Vương quốc Campuchia là quốc gia theo mô hình Quân chủ lập hiến, thực hiện các nguyên tắc: dân chủ tự do, đa nguyên, đa đảng, độc lập, tự chủ, hòa bình, vĩnh viễn trung lập và không liên kết (Điều 1, Hiến Pháp 1993). Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nhân dân thực hiện quyền lực thông qua Quốc hội, Chính phủ Hoàng gia và các cơ quan tư pháp (Đ.51, Hiến pháp). 
Quốc vương là nguyên thủ quốc gia. Quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tam quyền phân lập, ba nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp hoạt động độc lập với nhau (Đ.51 Hiến Pháp). Nhánh lập pháp gồm Quốc hội và Thượng viện. Nhánh Hành pháp gồm Chính phủ hoàng gia ở trung ương và chính quyền địa phương gồm hội đồng và cơ quan hành chính ở ba cấp từ xã/phường, quận/huyện tới tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương. Nhánh tư pháp gồm hệ thống Tòa án, công tố và  Hội đồng Hiến pháp.
4. Hiến pháp
Quốc hội lập hiến được thành lập ngày 24/9/1993, và ban hành Hiến pháp năm 1993, sửa đổi năm 1999.
Nguyên tắc không được phép thay đổi trong Hiến pháp: chế độ Quân chủ lập hiến, Dân chủ, Tự do, Đa nguyên.
Tư tưởng xuyên suốt của Hiến Pháp là xây dựng quốc gia độc lập, tự chủ, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất dân tộc; vĩnh viễn trung lập và không liên kết; thực hiện chính sách cùng tồn tại hòa bình với các nước láng giềng và các nước khác trên thế giới; không xâm chiếm, không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác; không tham gia liên minh quân sự; không cho phép căn cứ quân sự nước ngoài trên lãnh thổ của mình, không đặt căn cứ quân sự ở nước ngoài, trừ khi có yêu cầu của Liên hợp quốc (Điều 51, 54 Hiến Pháp).
Về chế độ kinh tế, Hiến pháp xác định Campuchia xây dựng kinh tế thị trường, thừa nhận người dân có quyền sở hữu cá nhân, tự quyết định bán các sản phẩm của mình ra thị trường; nhà nước có nghĩa vụ tìm thị trường cho dân; xác định sở hữu nhà nước đối với đất đai, tài nguyên, núi, biển, nguồn nước ngầm, thềm lục địa, hải phận, không phận, các đảo, sông ngòi, suối, hồ, rừng và các tài nguyên thiên nhiên khác, các trung tâm văn hóa, căn cứ quân sự và những đối tượng khác được quy định là tài sản quốc gia (Điều 56, 58, 60) 
Hiến pháp có hiệu lực tối cao. Các luật và các quy định khác của nhà nước phải nghiêm chỉnh tuân thủ Hiến pháp. Hội đồng Hiến pháp có thẩm quyền giải thích và bảo vệ Hiến pháp. Hiến pháp chỉ được sửa đổi nếu có đề nghị của Quốc vương, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội và được sự ủng hộ của ¼ tổng số đại biểu Quốc hội. Luật sửa đổi Hiến pháp có giá trị khi đạt đa số 2/3 đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Kiến nghị sửa đổi Hiến pháp không được xem xét khi đất nước trong tình trạng khẩn cấp hoặc chiến tranh. Cấm mọi sửa đổi, bổ sung nhằm thay đổi hệ thống chính trị dân chủ, tự do đa nguyên và chế độ Quân chủ lập hiến đã được ghi nhận trong Hiến pháp.
5. Chế độ bầu cử
Tổng tuyển cử bầu Quốc hội
Đại biểu Quốc hội được bầu qua tổng tuyển cử theo chế độ bầu cử tự do, phổ thông đầu phiếu, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín, theo nguyên tắc tỷ lệ các đảng phái đăng ký tranh cử. Đại biểu có thể được bầu lại không hạn chế số nhiệm kỳ. Ứng cử viên đại biểu Quốc hội phải là công dân Campuchia có quốc tịch từ khi sinh ra, có quyền bầu cử, không phân biệt giới tính, tròn 25 tuổi trở lên.
Nhiệm kỳ của Quốc hội là năm năm, tính từ phiên họp đầu tiên sau ngày bầu cử và kết thúc vào ngày khai mạc phiên họp đầu tiên của Quốc hội khóa mới. Quốc hội chỉ có thể bị giải tán giữa nhiệm kỳ khi Chính phủ bị Quốc hội bất tín nhiệm hai lần trong vòng 12 tháng, và phải do Thủ tướng đề nghị, được Chủ tịch Quốc hội phê chuẩn và Quốc vương tuyên bố giải tán để tổ chức tổng tuyển cử trong vòng 60 ngày. Quốc hội có thể kéo dài nhiệm kỳ mỗi lần một năm, nếu vì lý do chiến tranh hoặc tình huống đặc biệt khác không thể tổ chức tổng tuyển cử. Quyết định kéo dài nhiệm kỳ phải theo đề nghị của Quốc vương và được ít nhất 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. 
Vương quốc Campuchia từ 1993 đến nay đã tổ chức bốn cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội vào các năm 1993, 1998, 2003, 2008 Cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa V dự kiến vào tháng 7/2013.
Đại cử tri bầu Thượng viện
Campuchia thành lập Thượng viện năm 1999. Hiến pháp quy định số thượng nghị sỹ không vượt quá nửa số đại biểu Quốc hội (ít nhất là 60 thượng nghị sỹ) và được bầu với nhiệm kỳ sáu năm bởi đại cử tri là đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng xã, phường toàn quốc trên danh sách ứng cử viên được lập theo nguyên tắc tỷ lệ các đảng phái tranh cử. Ngoài số thượng nghị sỹ được bầu, Quốc vương có quyền bổ nhiệm hai thượng nghị sỹ và Quốc hội biểu quyết theo nguyên tắc đa số quá bán để chỉ định hai thượng nghị sỹ (Điều 100 Hiến pháp 1993 sửa đổi).
 Thượng viện đầu tiên được bầu là Thượng viện Khóa II, bầu ngày 22 tháng một năm 2006. Thượng viện Khóa III hiện nay (bầu 29 tháng 1/2012) có 61 thượng nghị sỹ; trong đó 02 ghế do Quốc vương bổ nhiệm, 02 ghế do Quốc hội biểu quyết chỉ định và 57 thượng nghị sỹ được bầu theo nguyên tắc không trực tiếp, thông qua đại cử tri. Đảng CPP giành 46 ghế và SRP 11 ghế trong Thượng viện Khóa III.  
Bầu cử trực tiếp hội đồng xã, phường:
          Chính quyền cơ sở ở Campuchia là hội đồng cấp xã, phường (Sangkat) do dân bầu lên; trong khi cơ quan hành chính tỉnh và quận huyện do Chính phủ bổ nhiệm. Bộ Nội vụ là cơ quan quản lý nhà nước đối với chính quyền địa phương. Campuchia có 1621 xã, phường. Tại mỗi đơn vị hành chính xã phường thành lập một hội đồng là hạt nhân quyền lực của chính quyền cơ sở. Luật bầu cử hội đồng xã/phường quy định về việc bầu cử ở hội đồng xã/phường.
Mỗi hội đồng xã/phường có từ 5 đến 11 thành viên tùy theo dân số. Số lượng thành viên của từng hội đồng được Chính phủ công bố bằng một nghị định không muộn hơn chín tháng trước ngày bầu cử (Đ.12 Luật tổ chức hành chính địa phương). Hội đồng được bầu theo nguyên tắc cử tri bầu trực tiếp trên danh sách ứng cử viên do các đảng phái tranh cử giới thiệu theo nguyên tắc tỷ lệ; số ứng cử viên ít nhất phải gấp đôi so với số thành viên hội đồng cần bầu. Đảng đạt đa số phiếu có quyền bổ nhiệm trưởng xã, phường. Nhiệm kỳ của hội đồng xã, phường là năm năm.
Campuchia đã tổ chức ba cuộc bầu cử cấp xã, phường trong các năm 2002, 2007 và ngày 3 tháng sáu năm 2012. Đảng CPP giành 8283 ghế trong tổng số 11459 ghế thành viên hội đồng xã, phường toàn quốc; Đảng SRP giành 2155 ghế và số còn lại là các đảng Nhân quyền, FUNCIPEC và Đảng Norodom Ranaridth. (??)
6. Tổ chức hành chính
Campuchia được chia thành 23 tỉnh (Khett) và 01 thành phố trực thuộc trung ương là Thủ đô Phnom Penh (krong).Tỉnh được chia thành các huyện (srok), huyện được chia thành các xã (khum). Xã và phường là đơn vị hành chính cuối cùng. Một xã có thể có một hoặc được chia thành nhiều xóm (phum). Phum không tổ chức chính quyền hành chính. Trưởng phum có nhiệm vụ báo cáo trực tiếp tới trưởng xã. Campuchia thực hiện bầu trưởng Phum từ năm 2006.
Thủ đô Phnom Penh được chia thành các quận (khann) , quận được chia thành các phường (sangkat).
Chính quyền địa phương ba cấp ở tỉnh/thành phố thuộc trung ương, Quận/huyện và xã/phường gồm có hội đồng và cơ quan hành chính. Người đứng đầu cơ quan hành chính ở tỉnh là tỉnh trưởng, ở Thủ đô Phnom Penh là Đô trưởng, ở quận/huyện là quận trưởng/huyện trưởng và ở xã/phường là trưởng xã, trưởng phường.
7. Cơ quan lập pháp và các đảng chính trị chủ chốt:
Cơ quan lập pháp Campuchia được tổ chức theo chế độ lưỡng viện.
Quốc hội (Radhsaphea) : Hiến pháp quy định Quốc hội có nhiệm kỳ năm năm tính từ kỳ họp đầu tiên sau bầu cử tới kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa mới. Quốc hội có ít nhất 120 đại biểu.
Quốc hội Khóa IV được bầu ngày 27/7/2008 hiện có 123 đại biểu (Đảng nhân dân CPP có 90 ghế, Đảng Sam-Rainsy SRP có 26 ghế, Đảng Nhân quyền HRP có 03 ghế, Đảng FUNCIPEC hai ghế và Đảng Norodom Ranaridth có hai ghế). Ngày tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa V được công bố vào ngày…tháng 7/2013. Chủ tịch Quốc hội Khóa IV là Xăm –đéc A-Kẹ Mô-ha Pô-nhia Chạ-cơ-rây Hêng-Xomrin (Samdech Akkak Moha Ponhea Chakrei Heng Samrin).
Tổ chức Quốc hội gồm Chủ tịch Quốc hội là Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội, hai phó Chủ tịch Quốc hội và 9 ủy ban thường trực phụ trách các lĩnh vực thẩm quyền của 26 bộ, ngành của Chính phủ. Ủy ban thường vụ Quốc hội gồm Chủ tịch Quốc hội, hai phó Chủ tịch và chín chủ nhiệm ủy ban thường trực.  Ủy ban thường vụ Quốc hội điều hành các công việc của Quốc hội giữa hai kỳ họp.
Chủ tịch Quốc hội chủ trì các phiên họp của Quốc hội, tiếp nhận các tờ trình, dự án luật và các nghị quyết của Quốc hội, bảo đảm việc tuân thủ nội quy, thủ tục làm việc của Quốc hội và phụ trách quan hệ đối ngoại của Quốc hội. Trong trường hợp Chủ tịch bị bệnh hoặc do ở nước ngoài mà không thể đảm nhiệm nhiệm vụ tạm quyền quốc trưởng, thì một phó Chủ tịch Quốc hội được thay thế thực hiện nhiệm vụ này.
Đại biểu Quốc hội vừa đại diện cho cử tri ở đơn vị bầu cử vừa đại diện cho nhân dân toàn quốc. Đại biểu quốc hội hưởng đặc quyền miễn trừ nghị sỹ, làm việc theo chế độ chuyên trách, được trả lương đại biểu và không được kiêm nhiệm chức vụ công quyền, trừ trường hợp đại biểu đó được bổ nhiệm phục vụ trong Chính phủ Hoàng gia. Nếu được bổ nhiệm vào chính phủ, thì đại biểu đó không được bầu vào Ủy ban thường vụ hoặc thành viên của ủy ban thường trực.
Quốc hội họp thường kỳ hai lần mỗi năm tại trụ sở ở Thủ đô, mỗi kỳ họp ít nhất 3 tháng liền. Ủy ban thường vụ Quốc hội có thể triệu tập họp kỳ họp bất thường của Quốc hội theo đề nghị của Quốc vương hoặc của Thủ tướng Chính phủ hoặc theo đề nghị của ít nhất 1/3 tổng số đại biểu Quốc hội. Các phiên họp của Quốc hội đều công khai. Trong trường hợp cần họp kín phải theo đề nghị của Chủ tịch Quốc hội hoặc đề nghị của ít nhất 1/10 tổng số đại biểu Quốc hội hoặc yêu cầu của Quốc vương hoặc Thủ tướng Chính phủ. Phiên họp chỉ có giá trị nếu có đủ 7/10 tổng số đại biểu Quốc hội tham dự.
Quốc hội có quyền lập pháp, giám sát, quyết định ngân sách nhà nước và quyết định các vấn đề quan trọng khác của quốc gia. Quyền lập pháp của Quốc hội không thể chuyển giao cho bất kỳ cơ quan hoặc cá nhân nào. Các đại biểu và Thủ tướng chính phủ có quyền đề xuất sáng kiến lập pháp, tuy nhiên đề xuất của đại biểu có thể bị từ chối nếu dẫn tới giảm thu ngân sách hoặc làm tăng gánh nặng cho nhân dân. Luật sau khi được thông qua tại Quốc hội, được chuyển tới Thượng viện cho ý kiến và trình Quốc vương ký lệnh công bố.
Quốc hội quyết định ngân sách hoạt động của Quốc hội và thông qua ngân sách quốc gia, kế hoạch nhà nước, việc vay nợ, đặt và bãi bỏ các sắc thuế; phê chuẩn hoặc hủy bỏ các điều ước quốc tế, ban hành luật tuyên bố chuyến tranh; bỏ phiếu tín nhiệm Chính phủ Hoàng gia theo đa số 2/3 tổng số đại biểu.
Hội đồng Hiến pháp có quyền xem xét và tuyên bố hủy bỏ các đạo luật do Quốc hội ban hành trái với các nguyên tắc bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, gây hại tới sự đoàn kết chính trị hoặc quản lý đất nước.
Đại biểu có quyền chất vấn, kiến nghị Chính phủ bằng văn bản gửi qua Chủ tịch Quốc hội. Các bộ trưởng và Thủ tướng phải trả lời chất vấn bằng văn bản hoặc trả lời trực tiếp trong thời gian 7 ngày kể từ ngày nhận được chất vấn. Quốc hội thường quy định một ngày trong tuần dành cho chất vấn và trả lời chất vấn. Chủ tịch Quốc hội có quyền quyết định cho phép tranh luận tại phiên chất vấn.
Giải trình: Theo đề nghị của ít nhất 1/10 số đại biểu quốc hội, Quốc hội có thể yêu cầu quan chức cao cấp của Chính phủ tới giải trình trước Quốc hội. Các Ủy ban thường trực có quyền yêu cầu bộ trưởng tới giải trình tại ủy ban.
Cách chức thành viên Chính phủ: QH có quyền biểu quyết cách chức một thành viên của Chính phủ hoặc toàn thể nội các nếu ít nhất 30 đại biểu  cùng ký tên kiến nghị QH biểu quyết việc này.
Quốc vương có quyền ký công bố luật do Quốc hội thông qua.
Thượng viện (Protsaphea): Khi Hiến pháp 1993 có hiệu lực, lúc đó chưa tổ chức Thượng viện; mãi tới năm 1999 Luật sửa đổi bổ sung Hiến pháp mới quy định thành lập Thượng viện với số thượng nghị sỹ không vượt quá nửa số đại biểu Quốc hội. Việc thành lập Thượng viện nhằm bảo đảm nguyên tắc đa nguyên, đại diện và cân bằng lợi ích quốc gia, lợi ích nhóm và địa phương.
Các Thượng nghị sỹ của Thượng viện đầu tiên được Quốc vương bổ nhiệm với nhiệm kỳ năm năm (Đ.157.II. Hiến pháp). Sau nhiệm kỳ đầu tiên, Quốc vương chỉ bổ nhiệm hai Thượng nghị sỹ, Quốc hội biểu quyết chỉ định hai TNS, số TNS còn lại phải qua bầu cử không phổ thông (gián tiếp) với nhiệm kỳ sáu năm (Đ.102.I. Hiến pháp). Thượng viện được bầu đầu tiên là Thượng viện Khóa II, được bầu ngày 22/1/2006.
Thượng viện Khóa III được bầu ngày 29 tháng 1/2012 có 61 thượng nghị sỹ; trong đó 02 ghế do Quốc vương bổ nhiệm, 02 ghế do Quốc hội biểu quyết theo đa số đơn giản (Điều 100 Hiến pháp) và 57 thượng nghị sỹ được bầu theo nguyên tắc không trực tiếp và do đại cử tri là đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng xã, phường bỏ phiếu bầu trên danh sách ứng cử viên được lập theo nguyên tắc tỷ lệ các đảng phái tranh cử.
Chủ tịch Thượng viện Khóa III là Xăm-đéc A-kẹ Mô-ha Tho-ma Pô-thi-san Chia Xim (Samdech Akka Moha Thamak Pothisal Chea Sim).
Thượng viện chia sẻ một phần nhỏ quyền lập pháp với Quốc hội, nhưng chủ yếu đóng vai trò kiến nghị và tư vấn; không có thực quyền khởi xướng thảo luận một dự án luật từ đầu. Nếu Thượng viện đề nghị Quốc hội thảo luận lại một dự án luật, thì Quốc hội có toàn quyền quyết định thông qua Luật trong lần thảo luận thứ hai mà không cần hỏi ý kiến Thượng viện.
Thượng viện họp hai kỳ mỗi năm, mỗi kỳ họp ít nhất là ba tháng như Quốc hội, và có thể họp bất thường theo đề nghị của Quốc vương, Thủ tướng hoặc ít nhất 1/3 số thượng nghị sỹ.
Thượng viện biểu quyết theo nguyên tắc quá bán khi bầu Chủ tịch, các phó chủ tịch Thượng viện, thành viên các ủy ban; thông qua luật tổ chức, thông qua nội quy làm việc của Thượng viện và thông qua các luật khác. Thượng viện biểu quyết theo nguyên tắc đa số hai phần ba tổng số thượng nghị sỹ đối với luật sửa đổi, bổ sung hiến pháp, bỏ phiếu thông qua các vấn đề kỷ luật, bắt, giam, tước bỏ đặc quyền miễn trừ, bãi miễn, cách chức thượng nghị sỹ. Nguyên tắc biểu quyết đa số  ¾ tổng số thượng nghị sỹ được áp dụng đối với quyết định hủy bỏ, tạm dừng việc bắt, tạm giữ hoặc truy tố thượng nghị sỹ.
Tổ chức thượng viện gồm Ủy ban thường vụ (12 người, gồm chủ tịch, hai phó chủ tịch và chín chủ nhiệm ủy ban thường trực). Thượng viện có hai Phó Chủ tịch giúp Chủ tịch thực hiện nhiệm vụ. Chủ tịch Thượng viện được tạm quyền Quốc trưởng trong trường hợp Quốc vương ở nước ngoài hoặc do bệnh. Nếu Chủ tịch Thượng viện cũng bi bệnh hoặc ở nước ngoài, thì Phó Chủ tịch Thượng viện có thể tạm quyền Chủ tịch và quyền quốc trưởng (Điều 110 Hiến pháp 1993 sửa đổi).  Chín ủy ban thường trực của Thượng viện có thẩm quyền về lĩnh vực trùng lắp với thẩm quyền của chín ủy ban thường trực của Quốc hội.
Thượng nghị sỹ có đặc quyền miễn trừ nghị sỹ trong khi thực hiện nhiệm vụ như quy định đối với đại biểu Quốc hội.
Các đảng chính trị
Campuchia hiện có 57 đảng chính trị, trong đó có 40 đảng đăng ký với Bộ Nội vụ, tuy nhiên chỉ có bốn đảng đang tham gia nghị trường là CPP, FUNCIPEC, NRP, SRP, HRP. Trong tháng 9/2012, một đảng mới do HRP và SRP cùng phối hợp lập ra là Đảng Cứu quốc Campuchia (CNRP) đang làm thủ tục đăng ký chuẩn bị tranh cử trong cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội năm 2013. 
Các đảng chính trị hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và đăng ký, hoạt động theo Luật về các đảng phái chính trị ( công bố 18/11/1997).
 Đảng nhân dân Campuchia (CPP) hiện nay là đảng mạnh nhất chi phối chính trường Campuchia, kiểm soát tất cả các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Chủ tịch Đảng CPP là Xăm-đéc Chia Xim. CPP đề cử Xăm-đéc Hun Xen là ứng cử viên duy nhất của Đảng để tranh cử chức Thủ tướng tại cuộc tổng tuyển cử 2013 và các nhiệm kỳ kế tiếp.
Đảng FUNCIPEC (Đảng Bảo hoàng) từng là một đảng lớn, sau Tháng Bẩy năm 1997 bị phân hóa thành hai đảng là Đảng FUNCIPEC (do ông Keo Puth Rasmey – con rể của cựu vương Norodom Sihanouk làm lãnh tụ tinh thần và Phó Thủ tướng Nhek Bun Chhay làm Chủ tịch điều hành) và Đảng Norodom Ranarridth (NRP) do Hoàng thân Ranaridth làm Chủ tịch. Vào tháng 9/2012, Đảng NRP đang chuẩn bị đổi tên và có xu hướng sáp nhập với FUNCIPEC sau khi Hoàng thân Ranaridth đồng ý thôi không tham gia chính trị lần thứ hai.
Hai đảng đối lập chính ở Campuchia là Đảng Sam Rainsy (SRP) do ông Sam Rainsy làm chủ tịch và Đảng Nhân quyền (HRP) do ông Kem Sokha làm Chủ tịch. Tháng 7/2012, hai đảng đối lập HRP và SRP họp thống nhất thành lập chung một đảng đặt tên là Đảng Cứu quốc Campuchia: Cambodian National Rescue Party. Bộ Nội vụ đã phê chuẩn đăng ký đảng này ngày 2/10/2012 với chủ tịch Đảng là Sam Rainsy hiện đang sống lưu vong ở nước ngoài để tránh thi hành án tù. Sam Rainsy đã từ chức Chủ tịch Đảng SRP. Dự kiến sau cuộc bầu cử 2013, hai đảng HRP và SRP sẽ nhập vào NRP.
8. Nguyên thủ quốc gia:
Đứng đầu nhà nước là Quốc vương (preahmâhaksat). Quốc vương là nguyên thủ quốc gia suốt đời, là biểu tượng đoàn kết dân tộc và bất khả xâm phạm, nhưng không tham gia chính trị, không tham gia điều hành nhà nước. Hiến pháp Campuchia quy định Quốc vương trị vì nhưng không cai trị. Quốc vương không có quyền chỉ định người kế vị. Hội đồng Hoàng gia về Ngôi vua có thẩm quyền chọn Quốc vương.
Quốc vương có quyền ký công bố Hiến pháp, các đạo luật, ký công bố các điều ước quốc tế đã được Quốc hội phê chuẩn; phê chuẩn quyết định của Quốc hội bổ nhiệm Thủ tướng và nội các; theo đề nghị của Thủ tướng ký các sắc lệnh (Kret) bổ nhiệm, miễn nhiệm quan chức cao cấp của Chính phủ Hoàng gia, phong, tước hàm, cấp của tướng lĩnh cấp cao, cử đại sứ vả đặc phái viên đặc mệnh toàn quyền; phê chuẩn hình thức việc bổ nhiệm, bãi nhiệm  thẩm phán theo đề nghị của Hội đồng Thẩm phán tối cao; Công bố tình trạng khẩn cấp sau khi có ý kiến của Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội; ký lệnh ân xá, đặc xá tha tù trước thời hạn; quy định và trao tặng huân, huy chương khen thưởng nhà nước theo đề nghị cảu Hội đồng bộ trưởng; ký sắc lệnh cho nhập, thôi quốc tịch Campuchia; thực hiện các quyền hình thức liên quan tới đề nghị giải tán Quốc hội, gia hạn nhiệm kỳ Quốc hội v.v.. Quốc vương thực hiện các quyền đối ngoại của nguyên thủ quốc gia như đón tiếp các đoàn nguyên thủ quốc gia theo nghi lễ nhà nước; tiếp các đại sứ, phái viên đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài trình Quốc thư v.v.
Về hình thức, Quốc vương là thống lĩnh tối cao các lực lượng vũ trang Hoàng gia Khmer, là Chủ tịch Hội đồng Tối cao Quốc phòng. (Dự thảo luật 10/2012  về Hội đồng QP quy định Phó chủ tịch Hội đồng là Thủ tướng)
Quốc vương phát biểu ý kiến với Quốc hội thông qua Thông điệp Hoàng gia. Thông điệp này được Chủ tịch Quốc hội đọc trước phiên khai mạc và không thảo luận. Quốc vương bố trí khoảng hai lần mỗi tháng để nghe Thủ tướng và Nội các báo cáo về tình hình đất nước (Đ.20 HP).
Hiến pháp quy định các nhân vật được tạm quyền Quốc trưởng trong trường hợp Quốc Vương không có mặt tại Campuchia, hoặc vì lý do sức khỏe không đảm nhiệm được nhiệm vụ. Trong trường hợp này, lần lượt Chủ tịch Thượng viện hoặc Chủ tịch Quốc hội hoặc người phó thứ nhất của những nhân vật này sẽ thay mặt làm Quyền Quốc trưởng.
Quốc vương campuchia hiện nay là Pờ-rẹ Bạt Xăm-đéc Pờ -rẹ Bô-rôm-niết Nô-rô-đôm Xi-ha-mô-ni (Preah Bat Samdech Boromneath Norodom Sihamoni) đăng quang ngày 29/10/2004. Sau khi thoái vị, Nguyên Quốc vương Sihanouk được Quốc hội xưng danh là Vua Cha ( preahmâhaviraksat) .
9. Nội các:
Chính phủ Hoàng gia được tổ chức thành Hội đồng các bộ trưởng, đứng đầu là Thủ tướng và các thành viên khác của nội các là các phó thủ tướng, các bộ trưởng Nhà nước, các bộ trưởng và quốc vụ khanh (Đ.99 Hiến pháp). Theo đề nghị của Chủ tịch Quốc hội và được sự đồng ý của cả hai phó Chủ tịch Quốc hội, Quốc vương chọn một ứng viên thuộc Đảng thắng cử để thương lượng với các đảng viên của đảng thắng cử trong Quốc hội về danh sách thành viên Chính phủ (Đ.100 HP).  Thủ tướng và danh sách các thành viên Chính phủ do Quốc hội biểu quyết phê chuẩn tại kỳ họp thứ nhất và được Vua ký sắc lệnh bổ nhiệm với nhiệm kỳ năm năm.
Chính phủ Nhiệm kỳ IV được thành lập ngày 25/09/2008, do Xăm –đéc A-kẹ Mo-ha Xê-na-pa đây Tê-chô Hun –Xen (Samdech Akkak Moha Senapadei Techo Hun Sen) làm Thủ tướng (liên tục từ 14/1/1985). Chính phủ Nhiệm kỳ IV có 10 phó Thủ tướng và 26 Bộ. Bộ trưởng Ngoại giao là Phó Thủ tướng Hor Namhong liên tục giữ chức vụ này từ 1993 đến nay.
Hiến pháp quy định các mục tiêu bảo vệ ưu tiên của Chính phủ là: bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện chính sách hòa hợp dân tộc, bảo vệ đoàn kết và truyền thống dân tộc, bảo vệ pháp luật, an ninh và an toàn xã hội;  ưu tiên nâng cao phúc lợi và mức sống của công dân.
Thành viên chính phủ phải từ bỏ các công việc kinh doanh, dịch vụ công cộng; chịu trách nhiệm tập thể trước Quốc hội về chính sách của Chính phủ Hoàng gia và chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng và Quốc hội về hành vi của mình. Quốc hội thông qua biểu quyết quá bán quyết định việc truy tố một thành viên của chính phủ về hành vi vi phạm pháp luật hoặc bất cẩn gây hậu quả nghiêm trọng trong khi thực hiện nhiệm vụ.
Hội đồng các bộ trưởng họp mỗi tuần một lần do Thủ tướng chủ trì. Biên bản cuộc họp được gửi tới Quốc Vương để thông báo. Luật về tổ chức và hoạt động của Hội đồng các bộ trưởng quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ và các thành viên.
10. Hệ thống Tư pháp:
Các cơ quan trong hệ thống tư pháp của Campuchia gồm Hội đồng tư pháp tối cao Hội đồng Hiến pháp, và hệ thống cơ quan xét xử và công tố ba cấp thuộc Tòa án tối cao, Tòa án phúc thẩm, các tòa án cấp tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương và tòa án quân sự trung ương. Công tố ở Campuchia được tổ chức trong tòa án các cấp và hoạt động độc lập.
Bộ tư pháp là cơ quan của chính phủ tham gia bảo đảm cơ sở vật chất, kỹ thuật, hành chính tư pháp, tư vấn pháp luật cho các cơ quan xét xử và công tố, giám sát bảo đảm thi hành án và quản lý lý lịch tư pháp.
Hệ thống tòa án, công tố được tổ chức trên nguyên tắc bảo đảm quyền lực tư pháp độc lập, không thiên vị, bảo vệ quyền và tự do của công dân. Hoạt động xét xử thực hiện thông qua hoạt động tố tụng của Tòa án tối cao, Tòa phúc thẩm và các tòa án cấp tỉnh/ thành phố trực thuộc trung ương và tòa án quân sự trung ương.
Quốc vương bảo đảm tính độc lập của tư pháp thông qua Hội đồng tư pháp tối cao do Quốc vương làm chủ tịch. Bản án được tuyên nhân danh công dân Khmer; chỉ thẩm phán có quyền ra phán quyết trên cơ sở chỉ tuân theo pháp luật và sự kiện. Công tố là cơ quan duy nhất có quyền truy tố về hình sự.
Hội đồng Hiến pháp: được thành lập tháng 12/1997 theo Hiến pháp 1993, có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp, giải thích Hiến pháp và pháp luật. Nếu Hội đồng phán quyết một điều luật, đạo luật vi hiến thì điều luật, đạo luật đó không được công bố hoặc chấm dứt hiệu lực. Hội đồng nhận để thụ lý và ra phán quyết về các tranh chấp khiếu nại liên quan tới bầu cử.
Những nhân vật có quyền yêu cầu Hội đồng xem xét dự thảo luật là Quốc vương, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội hoặc theo đề nghị của 1/10 tổng số đại biểu Quốc hội hoặc các tòa án các cấp. Công dân muốn khiếu nại xin phúc xét tính hợp hiến của luật đã ban hành phải thông qua các nhân vật có quyền yêu cầu nói trên.
Hội đồng gồm chín thành viên với nhiệm kỳ chín năm, và lần lượt được thay 1/3 nhân sự sau mỗi ba năm. Trong số chín thành viên, có ba thành viên do Quốc vương bổ nhiệm, ba do Quốc hội và ba do Hội đồng Tư pháp tối cao bổ nhiệm. Ứng viên vào Hội đồng là các chuyên gia có kinh nghiệm, uy tín, không được kiêm nhiệm là thành viên chính phủ Hoàng gia, đại biểu quốc hội chủ tịch hoặc phó chủ tịch đảng, chủ tịch hoặc phó chủ tịch công đoàn hoặc là thẩm phán đương nhiệm. Chủ tịch Hội đồng do các thành viên bầu lên, có tiếng nói quyết định khi 8 thành viên còn lại biểu quyết ngang bằng.
Hội đồng tư pháp tối cao: Chính thức đi vào hoạt động ngày 3/12/1997, được tổ chức và hoạt động theo Luật tổ chức Hội đồng tư pháp tối cao năm 1994. Hội đồng gồm có Quốc Vương là Chủ tịch, và các thành viên là Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Tòa án tối cao, Tổng công tố thuộc Tòa án tối cao, Chánh án Tòa án Phúc thẩm, công tố viên tòa Tòa án Phúc thẩm, và 06 thẩm phán khác do các thẩm phán bầu lên. Chức năng quan trọng của Hội đồng TPTC là bổ nhiệm thẩm phán và xử lý kỷ luật thẩm phán, bảo đảm đạo đức hành nghề và vai trò độc lập của ngành tư pháp.
Tòa án tối cao: có thẩm quyền toàn lãnh thổ, thụ lý giám đốc thẩm các vụ do Tòa án Phúc thẩm kháng nghị. Phiên xét xử giám đốc thẩm cũng xem xét chứng cứ, sự kiện và pháp luật. Tòa án tối cao gồm một Chánh án, hai phó Chánh án và hai tòa: Tòa dân sự - xã hội phụ trách các việc dân sự, hôn nhân gia đình, hành chính, lao động, thương mại và Tòa hình sự. Tòa án tối cao không hướng dẫn xét xử đối với tòa cấp dưới thông qua án lệ.
Công tố trong TATC và các tòa án các cấp:  Tại Tòa án tối cao tổ chức Cục Tổng công tố với ba bộ phận chuyên trách:
-Văn phòng điều tra và kiểm sát điều tra, có nhiệm vụ bảo đảm tính hợp pháp của các hoạt động tố tụng điều tra, hồ sơ điều tra, điều tra bổ sung;
- Văn phòng hình sự có nhiệm vụ chuẩn bị cáo trạng cho Tổng công tố, truy tố hình sự;
-Văn phòng dân sự: có nhiệm vụ hỗ trợ Tổng công tố trong kiểm sát bảo vệ lợi ích nhà nước trong các vụ dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích của vị thành niên, của người không có năng lực hành vi trong tố tụng hình sự.
Tòa Phúc thẩm: đặt tại Thủ đô Phnom Penh và có thẩm quyền xét xử phúc thẩm trên toàn lãnh thổ đối với các bản án sơ thẩm cấp tỉnh / thành phố trực thuộc trung ương và của tòa án quân sự. Phiên tòa phúc thẩm xét xử với ba thẩm phán, có thể tiến hành điều tra bổ sung và cải sửa án sơ thẩm không giới hạn. Hiện CPC đang nghiên cứu tổ chức tòa phúc thẩm khu vực.
Tòa sơ thẩm: là các tòa án tỉnh, tòa án quân sự. Tòa án tỉnh có thẩm quyền giới hạn về lãnh thổ theo địa giới đơn vị hành chính. Tòa cấp tỉnh thường tổ chức thành tòa dân sự và tòa hình sự, nhưng trên thực tế do thiếu thẩm phán nên các thẩm phán phải xét xử tất cả các vụ việc. Tòa quân sự không giới hạn về lãnh thổ, nhưng chỉ xét xử các vụ án liên quan tới quân nhân, lực lượng vũ trang khác và các việc xâm phạm quốc phòng, an ninh quốc gia. Tòa quân sự đặt tại Thủ đô Phnom Penh. Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm bảo đảm cơ sở vật chất, kỹ thuật cho tòa quân sự .
Tòa án thương mại: đang trong quá trình nghiên cứu thành lập.
Bộ Tư pháp: có nhiệm vụ bảo đảm cơ sở vật chất, kỹ thuật, tài chính, trụ sở cho hệ thống tòa án và công tố; giám sát thi hành án, hướng dẫn tư vấn cho thẩm phán trong áp dụng pháp luật khi có những quy định gây nhầm lẫn; quản lý  hành chính tư pháp và lý lịch tư pháp.
11. Hệ thống truyền thông, thông tin đại chúng:
Theo Bộ Thông tin Campuchia, hiện tại Campuchia có 226 tờ báo và 150 tạp chí trong nước, 33 báo và 26 tạp chí nước ngoài. Các báo lớn tại Campuchia có Rasmey Kampuchea (Tia sáng Campuchia), Koh Santapheap (Đảo Hòa bình), Phnom Penh Post (Bưu điện Phnom Penh), Kampuchea Thmey (Campuchia mới), Cambodia Daily (Tin hàng ngày Campuchia – Tiếng Anh) Các đài truyền hình và truyền thanh lớn có Đài Truyền hình quốc gia (TVK), Đài phát thanh và truyền hình Bayon, Đài phát thanh và truyên hình Apsara, Đài truyền hình CTN, Đài truyền hình Đông Nam Á SEA –TV v.v. Các báo, đài ở Campuchia chủ yếu là thuộc sở hữu tư nhân. Chính phủ chỉ kiểm soát Đài Truyền hình và Đài  phát thanh quốc gia và hãng thông tấn AKP. 
Báo chí và phương tiện thông tin đại chúng bắt đầu sử dụng công nghệ thông tin để tiếp cận người dân qua mạng Internet.
Posted 4th October 2012 by ChiDzung Nguyen

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét