Pleime - cuộc đọ sức lịch sử
Cập nhật lúc :2:00 PM, 17/10/2011
Đàm Quang Thái
Chiến dịch Pleime (Plây Me) là đòn đánh phủ đầu đối với sư
đoàn kỵ binh bay số 1 - niềm kiêu hãnh của quân đội Mỹ.
(Đất Việt) Chiến dịch Pleime
diễn ra từ ngày 19/10 đến ngày 26/11/1965 qui mô tương đương cấp sư đoàn, là
đòn đánh phủ đầu của bộ đội chủ lực Mặt trận Tây Nguyên đối với sư đoàn kỵ binh
bay số 1 - đơn vị được coi là niềm kiêu hãnh của quân đội Mỹ.
Trận chiến tuy đã đi qua hơn
một nửa thế kỷ, nhưng bài học về lòng dũng cảm, sự sáng tạo và ý chí quyết
chiến, quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam trước một đội quân nhà nghề
vẫn còn nguyên giá trị.
Kỳ 1: Tầm nhìn chiến lược
Trước nguy cơ chiến lược
“chiến tranh đặc biệt” bị thất bại, đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược
“chiến tranh cục bộ”. Tháng 9/1965, chính phủ Mỹ gấp rút triển khai kế hoạch
đưa quân Mỹ và chư hầu vào miền Nam trực tiếp tham chiến để giành quyền kiểm
soát miền Nam Việt Nam.
Cục diện mới
Trước nguy cơ tan rã của quân
đội và chính quyền Sài Gòn, chính phủ Mỹ gấp rút đưa quân vào miền Nam Việt Nam
để làm chỗ dựa cho ngụy quân, ngụy quyền và chuyển sang thực hiện chiến lược
“chiến tranh cục bộ”. Cùng với lực lượng chiến đấu của Mỹ vào Chu Lai (8/3),
Vũng Tàu (10/5) và Cam Ranh (10/6), đến tháng 9, kế hoạch đưa sư đoàn kỵ binh
bay số 1 vào An Khê cũng được hoàn tất.
Mỹ đã đẩy cuộc chiến tranh
xâm lược Việt Nam sang giai đoạn mới, với lực lượng tác chiến mới, phương thức
tiến hành chiến tranh mới; quy mô chiến tranh lớn hơn và cường độ ác liệt hơn trước.
Trên địa bàn Tây Nguyên, địch
đưa lên nhiều đơn vị tinh nhuệ. Tại Plây Cu, lực lượng quân đội Sài Gòn có sở
chỉ huy vùng II, sư đoàn số 4 không quân; ở Buôn Ma thuột có sư đoàn bộ binh số
2 và 1 chiến đoàn thiết giáp; dọc biên giới từ Đắc Pét đến Plây Cần có 4 liên
đoàn biệt động quân (số 2, 6, 21 và 22). Riêng tại khu vực An Khê (Gia Lai) còn
có 1 lữ đoàn lính thủy đánh bộ thuộc sư đoàn “Mãnh Hổ” Nam Triều Tiên.
Đưa quân chiến đấu của Mỹ và
chư hầu đến khu vực Tây Nguyên, Mỹ muốn “giành quyền kiểm soát cao nguyên chiến
lược để giành chiến thắng ở miền Nam Việt Nam”. Tin tưởng vào ưu thế của sức
mạnh quân sự, họ chủ động tiến công “tìm diệt”, nhằm tiêu diệt quân chủ lực,
phá căn cứ kháng chiến, ngăn chặn, chia cắt hành lang chiến lược từ hậu phương
miền Bắc vào chiến trường miền Nam của ta, khu vực Tây Nguyên đang trở thành
chiến trường lớn.
Nhạy bén, sắc sảo trong dự báo
Lúc này, tại miền Nam Việt
Nam, giữa ta và phía bên kia đã có sự thay đổi lớn về tương quan. Số quân Mỹ,
chư hầu và quân ngụy đông hơn; vũ khí, trang bị kỹ thuật của họ hiện đại hơn
nhiều. Đối phương lại chiếm ưu thế tuyệt đối về không quân, hải quân, pháo
binh, xe tăng - thiết giáp. Với khả năng cơ động của trực thăng, họ có thể
nhanh chóng chuyển hóa thế trận, làm đảo lộn một số nguyên tắc tác chiến.

Lính Mỹ tại Pleime.
Tuy vậy, quân Mỹ và chư hầu
được đưa vào trong thời điểm mà chiến tranh nhân dân ở miền Nam đã phát triển
cao. Các vùng chiến lược: rừng núi, đồng bằng - nông thôn và đô thị đều có sự
xen kẽ giữa ta và địch theo kiểu “cài răng lược”. Vì thế, đối phương phải phân
tán lực lượng trên toàn miền để đối phó. Cũng vào thời điểm này, các đơn vị tập
trung của ta đã có sự phát triển mới về chất, nhất là trình độ chỉ huy, tác
chiến.
Những chiến dịch tiến công
quy mô nhiều trung đoàn bộ đội chủ lực phối hợp với bộ đội địa phương đã được
tổ chức trên các chiến trường. Từng tiểu đoàn, thậm chí cả chiến đoàn quân ngụy
bị tiêu diệt đã trở thành phổ biến. Một số trận đầu đánh quân Mỹ và giành thắng
lợi như ở Núi Thành (Quảng Nam), Vạn Tường (Quảng Ngãi) của bộ đội Khu 5 đã cổ
vũ, khích lệ quân và dân trên các chiến trường toàn miền Nam.
Với dự báo và nhận định tình
hình, quân Mỹ đã vào và trở thành lực lượng tham chiến chủ yếu trên chiến
trường miền Nam. Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương đã chỉ đạo “... chuẩn bị
sẵn sàng đối phó để có thể thắng địch nếu chúng biến chiến tranh ở miền Nam
hiện nay thành cuộc chiến tranh cục bộ..; tổ chức lực lượng căng kéo, kìm giữ
không cho quân Mỹ rảnh tay thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt”... Yêu
cầu các đơn vị khẩn trương làm tốt công tác chuẩn bị, nhất là về tư tưởng, sẵn
sàng đánh và quyết thắng quân Mỹ ngay từ trận đầu, góp phần đánh bại kế hoạch
“đánh nhanh, giải quyết nhanh”, tiến tới đánh bại “chiến tranh cục bộ” của Mỹ”.
Khó khăn từ thực tiễn
Quán triệt chỉ thị của cấp
trên, Đảng ủy Mặt trận Tây Nguyên (B3) ra nghị quyết lãnh đạo, chỉ đạo các đơn
vị chủ lực Mặt trận phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương chủ động đánh
địch, mở rộng vùng giải phóng, xây dựng căn cứ địa, phát triển lực lượng du
kích. Đồng thời, “…thường xuyên bồi dưỡng chuẩn bị cho bộ đội, sẵn sàng tiêu
diệt quân Mỹ, quyết đánh thắng trận đầu”. Đảng ủy Mặt trận Tây Nguyên cũng xác
định rõ: đối tượng tác chiến là lực lượng tổng dự bị quân đội Sài Gòn và sư
đoàn số 1 kỵ binh bay Mỹ.
Nhưng khó khăn đang đặt ra
trong thực tiễn là đến thời điểm đó, toàn Miền, cũng như trên địa bàn Tây
Nguyên chưa có cuộc đọ sức giữa bộ đội chủ lực với lực lượng của sư đoàn kỵ
binh bay số 1. Tuy nhiên, trước đó chiến trường Khu 5 đã tổ chức trận tập kích
quân Mỹ ở Núi Thành (5/1965), trận chống quân Mỹ càn quét ở Vạn Tường (8/1965).
Đây là 2 trận đánh diễn ra ở
đồng bằng ven biển, đối tượng là lính thủy đánh bộ Mỹ. Vì thế, chúng ta có thể
bước đầu rút ra một số kinh nghiệm, đánh giá thủ đoạn tác chiến, qui luật hoạt
động phi pháo... của quân Mỹ; các hình thức tác chiến đã được bộ đội Khu 5 vận
dụng đạt hiệu quả cao trong chiến đấu.
Sau khi phân tích, đánh giá
tình hình một cách thận trọng cả chủ quan và khách quan về ta và địch, Bộ Tư
lệnh Mặt trận một lần nữa củng cố quyết tâm, chủ động mở chiến dịch tiến công
Pleime - Ia Đrăng trên hướng có lựa chọn. Dự kiến diến biến chiến dịch được
triển khai làm 3 đợt. Về quy mô, sử dụng 3 trung đoàn, nhằm tiêu diệt 1 bộ phận
sinh lực tinh nhuệ quân đội Sài Gòn; buộc quân đội Mỹ tham chiến để chúng ta
tiêu diệt gọn đơn vị quân Mỹ.
Kỳ 2: Sóng ngầm
(Đất Việt) Trước một đối thủ
có khả năng cơ động cao, sức mạnh gần như tuyệt đối của hỏa lực phi pháo,
Thường vụ Đảng ủy Mặt trận đã kịp thời lãnh đạo, quán triệt cho cấp ủy, cán bộ
chỉ huy; phân tích, đánh giá tiềm lực của sức mạnh chiến tranh nhân dân, những
điểm mạnh, yếu của kẻ địch về mặt chiến lược.
Mở rộng dân chủ trong quân sự
Tại hội nghị Đảng ủy Mặt trận
Tây Nguyên mở rộng, Tư lệnh kiêm Chính ủy Chu Huy Mân đã đưa ra những lập luận,
tình huống định hướng cho các cán bộ chỉ huy thảo luận, trao đổi, bàn bạc tập
trung vào chủ đề “đánh như thế nào để thắng Mỹ?”. Qua đó, giúp cán bộ, đảng
viên xác định “... trước hết phải dám đánh Mỹ và quyết tâm đánh thắng; vừa đánh
vừa tìm hiểu địch nhất định chúng ta sẽ tìm ra cách đánh thắng chúng”.
Đại tá Trần Ngọc Quế, năm nay
84 tuổi, nguyên thư ký riêng cho Đại tướng Chu Huy Mân (thời kỳ 1964 - 1975),
cho biết lúc này Thường vụ Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Mặt trận đã thống nhất: Lấy
việc vây điểm là chủ yếu, trong vây điểm thực hiện đánh mẻ, tiêu hao quân địch,
buộc chúng phải viện nhanh. Trong diệt viện thì diệt cả viện đường bộ, viện
đường không, đánh cả viện đi, viện về.
Dùng lối đánh vận động phục
kích, vận động tấn công, tập kích, pháo kích, dùng mìn để tiêu diệt, tiêu hao
quân địch. Kết hợp mọi cách đánh của ba thứ quân đánh tiêu diệt nhỏ với tiêu
diệt vừa và lớn, thực hiện nghi binh rộng rãi, tạo thành thế liên tục tiến
công; đánh thắng trận đầu, đánh thắng các trận tiếp theo, trận trước thắng lợi
tạo điều kiện và thời cơ cho trận sau giành thắng lợi cao hơn.
Quá trình nghiên cứu, sau
nhiều công sức xác định khu vực quyết chiến và thời cơ diễn ra trận then chốt,
ta chọn Thung lũng Ia-Đrăng dưới chân núi Chư Pông là nơi mở trận quyết chiến
với quân Mỹ.
Kiểm tra, điều chỉnh kế hoạch
Thiếu tướng Bùi Nam Hà năm
nay 87 tuổi, nguyên Tham mưu trưởng Mặt trận Tây Nguyên, kể lại: Kế hoạch chiến
dịch được điều chỉnh tập trung vào một số nội dung lớn. Về chủ trương, thực
hiện “vây điểm Pleime buộc địch phải viện quân theo thứ tự, ý định của ta; dụ
quân viện của quân nguỵ đánh trước, sau đó dụ lính Mỹ ra để vây diệt”.
Bộ Tư lệnh Mặt trận dự kiến
sử dụng lực lượng Trung đoàn 33 tiêu diệt căn cứ Chư Ho và vây ép đồn Pleime,
Trung đoàn 320 bố trí sẵn thế trận phục kích quân đội Sài Gòn đi cứu viện trên
đoạn dài khoảng 3km, dọc đường 21 từ Playcu đi Pleime, nơi đi qua các điểm cao
600, 607, Pơ Lu, đồi Độc Lập. Sau đó đơn vị chuyển sang làm lực lượng dự bị và
bảo vệ phía sau, 2 bên sườn đội hình chiến dịch.

Khói bốc lên từ ven rừng phía
nam vùng LZ X RAY (tia X) khi các máy bay của Mỹ dội bom Napal và bom 500 bảng
Anh xuống vị trí các đơn vị bộ đội Bắc Việt Nam.
Trung đoàn 66 ngoài miền Bắc
mới vào bổ sung cho chiến trường Tây Nguyên sẽ phối hợp với một bộ phận của
Trung đoàn 33 đảm nhiệm trận quyết chiến với quân Mỹ tại thung lũng Ia-Đrăng
dưới núi Chư Pông.
Tương quan lực lượng
Thành lập ngày 1/7/1965 tại
trung tâm huấn luyện Fort Benning, thuộc bang Georgia, sư đoàn kỵ binh không
vận số 1 của Mỹ được tổ chức theo nguyên tắc sư đoàn có 3 lữ đoàn; lữ đoàn có 3
tiểu đoàn; tiểu đoàn có 4 đại đội.
Sư đoàn có khoảng 16.000
quân, 434 máy bay các loại, chủ yếu là trực thăng, (có cả loại Chinook CH47 có
thể mang dàn pháo 105mm), 1.600 xe các loại, trong đó có 26 xe bọc thép loại
nhẹ, 54 khẩu pháo 105mm, 78 dàn rốc két với 1.872 ống phóng cỡ 70mm lắp trên
trực thăng UH.1B... (1 thăng UH.1B có hỏa lực tương đương 12 khẩu pháo 105mm;
hoả lực 1 tiểu đoàn trực thăng UH.1B sẽ mạnh gấp 6 lần tiểu đoàn pháo hỗn hợp).
Do có ưu thế vượt trội, sư
đoàn này có khả năng tổ chức tập kích bằng đổ bộ đường không vào phía trước,
phía sau, hai bên sườn đội hình đối phương theo kiểu “cóc nhảy”, bao vây, chia
cắt, đánh phá, gây tổn thất lớn các đơn vị ở gần, hoặc sâu trong hậu phương,
hậu cứ... Bộ trưởng quốc phòng Mỹ R.
McNamara đã phát biểu: sư đoàn kỵ binh bay số 1 đã “tạo ra cho lục quân
một khả năng mà không một lục quân nào trên thế giới ngày nay có được”.
Bởi vậy, Mỹ coi đây sẽ là đơn
vị tinh nhuệ bậc nhất, “con chủ bài” trong chiến tranh tại miền Nam Việt Nam.
Nhà báo người Mỹ J. Galoway đã viết: “Bằng cách sử dụng chiến thuật “tìm diệt”,
sư đoàn kỵ binh bay có thể dồn đuổi đối phương, nghiền nát họ và giành được
thắng lợi”.
Cũng theo Thiếu tướng Bùi Nam
Hà, thể hiện quyết tâm đánh thắng, Bộ Quốc phòng tổ chức 3 trung đoàn đủ quân,
được huấn luyện hơn 1 năm để bổ sung cho Mặt trận Tây Nguyên.

Cảnh các binh sĩ bị thương
của trung đội 7 thuộc tiểu đoàn kỵ binh bay tại LZ X RAY (tia X) được khiêng
xuống núi. Đó cũng là cách mà hầu hết các binh sĩ bị thương trong toàn bộ chiến
dịch được sơ tán khỏi các vị trí tiền phương. Sự căng thẳng của cuộc chiến này
thể hiện trên khuôn mặt những người lính trẻ này.
Trong đó, Trung đoàn 66 thuộc
Sư đoàn 304 với đội ngũ cán bộ chỉ huy được tuyển lựa từ các đơn vị có kinh
nghiệm trong đánh Pháp; được ưu tiên biên chế vũ khí đủ mạnh so với khả năng
của quân đội hồi đó (cấp tiểu đội có 10 người, 7 súng AK.47, 2 súng CKC, 1 B40;
cấp trung đội có 1 súng thượng liên, 1 đại liên; cấp đại đội có 1 đại liên, 1
cối 60mm, 1 DKZ 57mm; cấp tiểu đoàn có cối 82mm, sơn pháo 75mm, súng phòng
không 12,7 mm…).
Trên hướng chủ yếu chiến
dịch, quân ta còn có tiểu đoàn pháo binh, tiểu đoàn đặc công và một số đơn vị
thuộc lực lượng vũ trang địa phương tỉnh Gia Lai đánh phân tán, căng kéo, kìm
chân địch.
Đúng 18h ngày 19/10/1965,
chiến dịch Plây Me bắt đầu mở màn.
Kỳ 3: Trận chiến không khoan nhượng
Thiếu tướng Bùi Nam Hà nhớ
lại: “Ngày 8/11/1965, Đảng uỷ Mặt trận tổ chức cuộc họp mở rộng, đánh giá tình
hình và nhận định vài ngày tới quân Mỹ sẽ mở cuộc tấn công quyết giành thắng
lợi về chiến thuật, đây là cơ hội tốt cho bộ đội Tây Nguyên tiêu diệt gọn đơn
vị quân Mỹ”.
Những điều tâm huyết
Ngoài việc chỉ đạo các đơn vị
chủ động tổ chức liên tục những trận đánh Mỹ đạt hiệu suất cao, Bộ Tư lệnh còn
thành lập sở chỉ huy tiền phương đặt tại phía bắc núi Chư Pông và phân công
Thượng tá Nguyễn Hữu An làm Tư lệnh, Trung tá Đặng Vũ Hiệp làm Chính ủy.
Khi chia tay 2 người về sở
chỉ huy tiền phương, Tư lệnh kiêm Chính ủy Mặt trận Chu Huy Mân còn căn dặn:
“Thắng trận này không chỉ là vấn đề tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch mà điều
quan trọng nhất là cổ vũ sĩ khí và lòng tin đánh thắng Mỹ của quân dân Tây
Nguyên nói riêng, quân dân cả nước nói chung”.

Thiếu tướng Bùi Nam Hà, nguyên tham mưu
trưởng Mặt trận Tây Nguyên.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo quan
trọng đó, trước khi chuyển sang đợt 3 của chiến dịch, sở chỉ huy tiền phương đã
trực tiếp đi kiểm tra tình hình các đơn vị, kịp thời xử lý những diễn biến đột
xuất trên chiến trường; giao nhiệm vụ cho từng đơn vị tổ chức đánh nghi binh,
thu hút, “điều, dụ” quân Mỹ về thung lũng Ia-Đrăng, nơi có thế trận của quân ta
bày binh, bố trận sẵn để tiêu diệt.
Do nắm chắc tình hình, dự
kiến tình huống cụ thể, tỉ mỉ và sát thực tế, nên ta chủ động tổ chức tác chiến
trong diễn biến đợt 3. Đặc biệt, ngày 17/11/1965 kết thúc loạt trận thứ 4, bộ
đội Tây Nguyên đã diệt gọn 1 tiểu đoàn quân Mỹ tại khu vực LZ X RAY (tọa độ X)
được coi là dấu mốc của trận then chốt chiến dịch.
Sau này, Thượng tướng Nguyễn
Hữu An nhận xét: “Cuộc chiến đấu ngày 17/11/1965 là quan trọng nhất trong toàn
bộ chiến dịch. Tôi lệnh cho các tiểu đoàn khi gặp quân Mỹ, hãy chia thành nhiều
nhóm và tấn công từ tất cả các hướng để chia cắt đội hình quân Mỹ ra thành
nhiều đoạn và nắm lấy thắt lưng họ mà đánh”.
Tao ngộ chiến
Quân Mỹ sau 3 ngày tham
chiến, quân số bị hao hụt nhiều do thương vong, tinh thần binh lính mệt mỏi,
tối 16/11/1965, tiểu đoàn 1 từ khu vực tọa độ X
rút về bãi đỗ Albany để chờ thay phiên.
Sáng 17/11/1965, tiểu đoàn 2
của Bob McDade thuộc trung đoàn kỵ binh bay số 7 và tiểu đoàn 2 của Bob Tully,
thuộc trung đoàn kỵ binh bay số 5, nhận nhiệm vụ thay phiên hành quân đến 2 khu
vực gần tọa độ X nhằm ngăn chặn đường rút lui và tiêu diệt đối phương. Như vậy,
từ ngày 14 - 17/11/1965, cả 3 tiểu đoàn của lữ đoàn kỵ binh bay số 3, đã bị Bộ
Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên “điều” vào tham chiến tại thung lũng Ia-Đrăng.
Phía ta đã điều Tiểu đoàn 8,
Trung đoàn 66 (dự bị chiến dịch) và Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 33, triển khai lực
lượng tổ chức đánh 2 tiểu đoàn “kỵ binh bay” của Mỹ. Đến 12h20, bộ phận đi đầu
của Tiểu đoàn 8 đã chạm quân Mỹ và chủ động tiến công. Tiểu đoàn 1 của ta cũng
lao ngay về hướng có tiếng súng, phối hợp đánh thọc vào 2 bên sườn đội hình
địch.

Binh lính chết và bị thương
nằm ngồi cùng chung với nhau trong khu tác chiến LZ ALBANY để chờ trực thăng
đến mạng đi. Đây là số sống sót của tiểu đoàn kỵ binh số 2, trung đoàn 7 ngày
17/11/1965.
Do giành thế chủ động, bộ đội
ta nhanh chóng áp sát, thọc sâu, chia cắt, bao vây bốn phía không cho địch co
cụm; đồng thời dũng cảm, táo bạo dùng lê, dao găm “tao ngộ chiến” với quân Mỹ.
Có chiến sĩ vóc dáng nhỏ bé nhưng vẫn nằm đè lên xác lính Mỹ mà lưỡi lê còn cắm
vào ngực đối phương; có tổ chiến đấu hi sinh cả ba người, nhưng xung quanh ngổn
ngang xác lính Mỹ...
Một số lính Mỹ khi sống sót
trở về hậu cứ, thừa nhận: “Chúng tôi đã chịu nhiều thương vong; chúng tôi bắn
trả bằng tất cả khả năng của mình, nhưng
không có mục tiêu cụ thể. Rõ ràng là chúng tôi bị bao vây và sa bẫy và
phải hứng chịu hỏa lực từ tất cả các phía”; “…ở đó các đại đội chủ lực của kỵ
binh bay bị chia cắt thành nhiều nhóm nhỏ…” và “…tất cả chúng tôi ở lẫn lộn với
nhau, quân ta và quân địch. Thật vô cùng hỗn loạn…”, “Có đại đội 108 binh sĩ
nhận nhiệm vụ vào buổi sáng, 1 ngày sau chỉ còn lại 8 người còn sức chiến
đấu…”.
Đến thời điểm này, bộ đội chủ
lực Tây Nguyên đã “tiêu diệt tiểu đoàn 2 của B. Mắc-đát, trung đoàn số 7; đánh
thiệt hại nặng tiểu đoàn 5 của B. Tu-ly, thuộc trung đoàn số 5. Trước đó, tiểu
đoàn 1, trung đoàn số 5 của trung tá H. Mo-rơ cũng mất đứt 1 nửa. Sau đó, chiều
17/11/1965, 2 đại đội của tiểu đoàn phái đến cứu nguy cho tiểu đoàn B. Mắc-đát
tại khu vực “tọa độ X”, lại bị Tiểu đoàn 8 và 1 Đại đội của Tiểu đoàn 1, Trung
đoàn 33 của ta tiêu diệt thêm 1 số, thì cũng gần như xóa sổ”.
Kỳ cuối: Dấu ấn lịch sử
Xác định đúng trận then chốt
đầu tiên vận động phục kích, diệt gọn đơn vị quân đội Sài Gòn trên đường 21 đi
giải tỏa Pleime và dự kiến đúng điểm quyết chiến, trận then chốt chiến dịch. Ta
đã chủ động “điệu hổ ly sơn”, buộc quân Mỹ tổ chức hành quân “tìm diệt”, dẫn
tới bị động và mắc vào thế trận “vây diệt” đã bày sẵn của ta tại thung lũng
Ia-Đrăng.
Nghệ thuật quân sự
Bằng vũ khí mang vác, bộ đội
ta vẫn chủ động tiến công giành thắng lợi ròn rã trước đối tượng đó có ưu thế
tuyệt đối về vũ khí, trang bị kỹ thuật, với chiến thuật mới nhất. Bộ đội chủ
lực Mặt trận Tây Nguyên đã dũng cảm, táo bạo, sáng tạo, tổ chức đánh gần, “nắm
thắt lưng địch mà đánh”, đội hình không bị phân tuyến, hạn chế tối đa sức mạnh
hoả lực phi pháo của địch; dùng lực lượng tại chỗ đối phó có hiệu quả trước sự
cơ động bằng máy bay lên thẳng của địch.
Bộ đội chủ lực Tây Nguyên
viết tiếp truyền thống vẻ vang “đánh thắng ngay từ trận đầu”của quân đội ta,
tạo thế giành thắng lợi cho các chiến dịch tiếp theo đến chiến dịch tiến công
Buôn Mê Thuột, chiến dịch mở đầu đại thắng mùa Xuân năm 1975.
Chiến thắng Pleime góp phần
thúc đẩy nhanh hơn sự suy sụp về ý chí chiến đấu của quân đội Mỹ trên chiến
trường miền Nam; tác động trực tiếp tới công luận tại nước Mỹ. Đánh dấu sự khởi
đầu “hội chứng Việt Nam”, gây ra sự ám ảnh dai dẳng, nặng nề đối với quân đội
và nhân dân Mỹ trong nhiều thập kỷ.
Dấu ấn lịch sử
Qua nhiều năm suy ngẫm, trung
tướng Harold G. Moore, nguyên là trung tá tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn số 1 thuộc
sư đoàn kỵ binh bay và J.Galloway, phóng viên chiến trường, người trực tiếp
chứng kiến những trận chiến đấu tại thung lũng Ia-Đrăng của quân đội Mỹ, đã
đắng cay thừa nhận “Ia-Đrăng, trận đánh làm thay đổi cuộc chiến tranh Việt
Nam”.

Thượng tướng
Nguyễn Hữu An (áo sẫm, mang kính đứng ở gần giữa) cùng đoàn cựu chiến binh của
Mỹ do trung tướng H. Mo-rơ (mặc áo ca rô), nguyên trung tá tiểu đoàn trưởng
tiểu đoàn kỵ binh bay số 1 thăm lại khu vực LZ X RAY (tia X), nơi tiểu đoàn này
đổ bộ xuống để tham chiến với bộ đội chủ lực Tây Nguyên, tháng 10/1993.
Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc
trong tương lai nếu chúng ta buộc phải tiến hành sẽ là cuộc chiến tranh nhân
dân chống lại cuộc chiến đa chiều, tác chiến cả ban ngày lẫn ban đêm trên mọi
địa hình, với cường độ hoả lực cực kỳ khốc liệt và chính xác của đối phương.
Nhưng bao giờ cũng vậy, muốn giải quyết gọn cuộc chiến, đối phương phải thực
hiện phương châm “đánh nhanh, thắng nhanh” nhằm hạn chế thấp nhất tổn thất về
vật chất và con người.
Song, dù đối phương có sử
dụng vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự hiện đại tới đâu chăng nữa thì vẫn có
những mặt hạn chế. Từ Ia-Đrăng đến những cuộc xung đột khu vực gần đây trên thế
giới đều phơi bày điểm yếu cố hữu của bên gây chiến: sự tiêu tốn vật chất vô
cùng lớn và qui trình kỹ thuật của các phương tiện chiến tranh luôn đòi hỏi
khắt khe về tính đồng bộ trong quá trình bảo đảm hậu cần, kỹ thuật.
Đó là chưa kể tới tính 2 mặt
của công nghệ thông tin trong chỉ huy, điều hành và trong khai thác, sử dụng
khí tài (như cuộc chiến Kosovo). Bởi thế, chỉ cần có giải pháp kéo dài cuộc
chiến; cũng như có thủ đoạn làm cản trở sự đồng bộ của hệ thống thiết bị kỹ
thuật…, thì chẳng ai dám nói trước kết cục cuộc chiến đó sẽ xảy ra điều gì!
Điều quan trọng hơn nữa, bất
kể cuộc chiến nào, lực lượng làm chủ chiến trường cuối cùng vẫn là sự đối kháng
giữa những người lính 2 phía. Và điều cốt tủy bên nào có sự chuẩn bị tốt hơn
cho người lính về niềm tin, ý chí, động cơ, lý tưởng chiến đấu, thì thắng lợi
sẽ thuộc về bên đó.
Thay cho phần kết
Với kinh nghiệm quý báu được
đúc kết qua cuộc chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, quân đội
ta không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, trình độ và khả năng sẵn sàng
chiến đấu. Đồng thời, tập trung xây dựng chính trị, tư tưởng và tổ chức vững
mạnh, rèn luyện kỷ luật, giáo dục lý tưởng, động cơ, mục tiêu chiến đấu cho bộ
đội. Kiên quyết đấu tranh không để “tự diễn biến”; bất luận trong trường hợp
nào quân đội nhân dân cũng xứng đáng là lực lượng tin cậy và trung thành của
Đảng, của giai cấp và nhân dân.
Trong huấn luyện, kết hợp
chặt chẽ giữa huấn luyện quân sự và huấn luyện hậu cần - kỹ thuật; nắm vững và
vận dụng thành thạo nguyên tắc nghệ thuật quân sự, đáp ứng yêu cầu cách đánh
truyền thống “lấy ít đánh nhiều, lấy yếu đánh mạnh, lấy nhỏ thắng lớn, lấy chất
lượng thắng số lượng, lấy trang bị kém hiện đại để thắng quân địch có trang bị
hiện đại”. Phòng khi Tổ quốc có họa xâm lăng, quân đội ta sẽ lập nhiều chiến
thắng như Pleime, bất luận đó là đối tượng tác chiến nào, được tiến hành ở đâu,
rừng núi, đồng bằng, hay ở trên không, ngoài biển, đảo.
Trận chiến Pleime đã lùi xa
hơn 5 thập kỷ, nhưng nghệ thuật quan sự và ...truyền thống quyết chiến quyết
thắng vẫn là bài học đáng được ôn lại. Nhân ngày khai cuộc chiến dịch Pleime,
bài viết này xin thay nén nhang, thành kính tri ân các anh hùng, liệt sĩ trên
Mặt trận Tây Nguyên đã dũng cảm quên mình vì sự nghiệp độc lập, tự do của dân
tộc.
Đàm Quang Thái
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét