Hồi Ký Biên Cương (lính Hà Nội 81-85)
Hồi ký của anh Thịnh
- Bên kia Biên Giới Trung Quốc vẫn
tiếp tục có những ô tô đi ra sát Biên Giới nước ta. Chúng tôi quan sát được vì
từ đỉnh Cổng Trời Cốc Lại chỗ lập Chốt của bọn tôi theo đường chim bay còn khoảng
1000m nữa. Chúng tôi không nghe được tiếng động cơ ô tô nhưng nhìn thấy những
ánh đèn pha ô tô loang loáng. Nhưng chúng tôi chả lo nếu khi quân TQ tiến sang
hướng của bọn tôi thì chỉ có người và ngựa đi được thôi vì thung lũng xã Vị
Quang là một cái lòng chảo hình chữ Y. Đầu của chữ Y bên trái là Bản Đơ, Bản Đơ
nằm ở sườn 800 Đông mà đầu chữ Y bên phải là Bản Phia Bủng ( có cột mốc Biên Giới
Việt - Trung, số 117 ) sát Sóc Giang ( Hà Quảng ) mà chúng tôi Chốt ở phần đuôi
của chữ Y là Cổng Trời Cốc Lại. Nên Trung Quốc không thể điều phương tiện cơ giới
sang theo hướng chúng tôi Chốt giữ được kể cả trận 17-02-1979 cũng không có xe
cơ giới của Trung Quốc sang ở hướng này, mà chúng chỉ đi bộ và có ngựa thồ
thôi.
- Tôi suy nghĩ miên man như thế một
lúc lâu rồi đi đến quyết định, mình phải mở một lớp huấn luyện cấp tốc cho 3 thằng
lính ở khẩu đội tôi. Trời tối không có đèn, dưới ánh trăng yếu ớt, lờ mờ của lưỡi
liềm đầu tháng cũng giúp tôi thấy đường mòn, đi lại được. Tôi liền đi xuống Chốt
của B1 gặp anh Sử Trung Đội Trưởng và nói rõ lý do để mượn anh Sử cái đèn Pin một
lát. Khi đã biết lý do mượn đèn Pin của tôi là chính đáng, anh Sử đưa đèn Pin
cho tôi mượn ngay ( vì đèn pin Đại Đội phát ). Tôi về khẩu đội liền phá một hòm
đạn Cối 60 ra lấy cả ngòi nổ ( toàn ngòi tức thì ). Kể cả liều phóng chính và
phụ hướng dẫn tỉ mỉ, cẩn thận từng tí một. Khi chúng nó đã thao tác thành thạo
cách lắp ngòi nổ, liều phóng chính và phụ theo lệnh của tôi, rồi tôi chuyển
sang hướng dẫn cách lấy phần tử bắn. Theo lệnh của tôi ở máy ngắm quang học và
cách lấy thăng bằng bọt nước ( ETE ) của máy ngắm tôi cho tập vài lần thao tác
theo khẩu lệnh của tôi rồi kiểm tra thực tế. Khi thước tầm và độ hướng mà khẩu
lệnh của tôi ban ra chúng nó đã thao tác được chính xác, gọn gàng đúng theo khẩu
lệnh của tôi, tôi mới yên tâm.
Ở cối 60 coi như 1 khẩu pháo nhỏ
bắn cầu vồng đường kính sát thương của đạn 15m tầm bắn tối đa 1474m lòng cối ngả
ở vị trí 45 độ. Bắn với liều 3, tầm bắn tối thiểu 77m đối với liều không ( vì cối
60 gồm có liều phóng chính và liều phóng phụ, mục tiêu bắn gồm mục tiêu lộ và mục
tiêu bị che khuất, mục tiêu bị che khuất thì phải có 3 cọc chuẩn để gióng và ngắm
bắn theo cọc chuẩn ). Thứ tự biên chế theo số pháo thủ ( theo sách dậy và tài
liệu hướng dẫn sử dụng Cối 60 trong chiến đấu phòng ngự và phản công ). Khẩu đội
trưởng mang súng AK ống nhòm đo cự ly, tính toán phần tử bắn, hạ khẩu lệnh pháo thủ số 1 Lấy thông số ly giác ở máy ngắm
quang học cân bằng bọt nước dọc tầm bắn và ngắm mục tiêu theo máy ngắm. Pháo thủ
số 2 lấy cân bằng cho pháo ( bọt nước ngang ) và thả đạn. Pháo thủ số 3 lắp
ngòi nổ vào đạn Cối và tháo nắp an toàn của ngòi nổ truyền đạn cho pháo thủ số
2. Pháo thủ số 4 lắp liều phóng chính và liều phóng phụ chuyển đạn lên cho số
3. Pháo thủ số 5 mang súng AK quan sát báo đạn nổ lệch, xa, gần, trái, phải so
với mục tiêu ( Nếu bắn ở mục tiêu bị che khuất ). Nếu bắn mục tiêu lộ thì khẩu
đội trưởng tự quan sát mục tiêu điểm nổ sai lệch để tính toán lại phần tử bắn
chính xác, tiêu diệt mục tiêu một cách nhanh nhất.
- Giờ thì tôi hạ một khẩu lệnh bắn
để các bạn tham khảo, vì tôi vẫn nhớ như in ở trong đầu mặc dù nó đã qua đi gần
30 năm rồi
* Mục tiêu bộ binh lộ ( giặc )
Đạn nổ ngòi tức thì
Liều 2 chuẩn bị
Thước tầm 650
Độ hướng 00
Ngắm chính giữa mục tiêu
Một phát chuẩn bị.
Khi thằng Hà, Khải, Phượng 3 thằng
chúng nó đã thao tác khá thành thạo khẩu Cối 60 ( có thể chiến đấu được ngay
theo khẩu lệnh của tôi ). Tôi liền cắt gác phân công luôn, mỗi người gác 2 tiếng
kể cả tôi và dặn dò chúng nó gác cẩn thận, nghiêm chỉnh ( vì đạn rất nhiều ) rồi
tôi phá hòm đạn AK ( K 56 ) lắp đầy vào 4 hộp tiếp đạn đưa súng AK cho thằng Khải
( nó gác ca đầu ) đồng thời tôi xuống trả anh Sử B1 cái đèn Pin rồi quay về lán
nằm nghỉ. Tôi ngả lưng xuống chiếu suy
nghĩ, mai phải về Lũng Ngẳm vay quản lí ít tiền, rồi bảo quản lý trừ vào phụ cấp
của tôi sau. Phải mua cho khẩu đội 2 cái đèn pin và bật lửa ( lúc đó hàng tâm
lý chiến rất nhiều, lại rẻ ) chứ không có đèn pin ở Chốt thế này đi lại đêm
hôm, gác sách khổ lắm. Đêm Chốt ở Cổng Trời yên tĩnh quá, thỉnh thoảng 1 vài
con đom đóm bay lượn lờ vào cả trong lán của tôi, ở núi đá những con tắc kè gọi
nhau liên miến sao mà ai oán quá. Tôi nằm lại nghĩ về gia đình, thương cha mẹ
già quá mà 2 hàng nước mắt trào, lăn xuống 2 bên má. Tôi thổn thức, thầm gọi và
hỏi mẹ:" Mẹ ơi ! Biên giới căng thẳng thế này, liệu con còn được về với mẹ
nữa không". Tôi đang xúc động, suy tư như thế thì thằng Khải nó đang gác gọi
giật giọng và bảo:" Anh Thịnh ơi, bên TQ nhiều ánh đèn pha ô tô chưa
kìa". Tôi liền nói vọng ra:" Kệ nó việc đấy đã có Đài Trinh Sát Trung
Đoàn nó lo, việc gì đến mày, gác đi, trật tự cho chúng nó ngủ ". Vì ở lán
bên kia thằng Phượng và thằng Hà đã thả những tiếng ngáy đều đều rồi. Thằng Khải
bị tôi mắng như thế, chả nói năng gì nữa, tôi ngủ thiếp đi 1 lúc thì thằng Khải
nó chui vào màn ngủ với tôi, tôi đang mơ ngủ nhưng vẫn hỏi nó:" Đã gọi thằng
Phượng dậy gác chưa " Nó nói:" Em gọi rồi". Tôi lại tiếp tục ngủ,
đang ngủ say thì thấy có người lay lay chân gọi:" Dậy gác đi anh "
thì ra thằng Hà nó gọi tôi dậy để đổi gác. Tôi liền hỏi nó mấy giờ rồi, nó bảo:"
Em chả biết " Nhưng em gác lâu lắm rồi. Thì tôi lại nghĩ:" Mình buồn
cười thật, làm quái gì có đồng hồ mà hỏi nó mấy giờ" Grin. Tôi liền bảo nó:"
Thôi được rồi, để súng đấy cho tao, rồi mày đi ngủ đi" tôi nhẹ nhàng chui
ra khỏi màn, xách khẩu súng AK ra mỏm đá khá bằng phẳng ngồi, trăng lưỡi liềm
đã lặn khuất sau đỉnh núi, sương đêm xuống lạnh tôi rùng mình 1 cái. Trời hôm
nay nhiều sao quá, chắc ngày mai nắng to đây - Tôi nghĩ thế. Rồi tôi lại đến
nghĩ đến cây thuốc lá cuộn con gà mà hội thằng Thanh Trố đưa cho tôi giữ để
liên hoan. Tôi vào góc ba lô lấy ra 1 gói, nhưng không có lửa, tôi liền khoác
súng xuống Chốt B1 xin lửa và hút nhờ mấy điếu thuốc lào ( vì chúng tôi chưa có
điếu cày) và cũng tiện hỏi xem mấy giờ rồi (Anh Sử là Sỹ Quan nên có đồng hồ ).
Thì lúc đó mới là 1h sáng ngày 20-04-1984. Đêm yên ắng, tôi lắng tai nghe rõ tiếng
máy ô tô và ánh đèn pha loang loáng ở bên kia Biên Giới. Tôi về Chốt của mĩnh
nghĩ bụng:" Bây giờ mới 1 giờ, tôi không thể gác đến sáng được, mà gọi
chúng nó dậy gác thêm thì tội quá. Tôi liền chui vào màn nằm bụng bảo dạ, gác
trong màn cũng được cho đỡ muỗi, vì đêm yên tĩnh quá, chỉ 1 tiếng động nhỏ cũng
phát hiện được, còn tiếng chân người đi thì từ xa đã phát hiện ra rồi. Tôi nghĩ
lung tung như thế và ngủ thiếp đi lúc nào không hay.
Tôi nghĩ lung tung như thế rồi ngủ
thiếp đi lúc nào không hay ! Đang mơ ngủ tôi nghe thấy tiếng gà rừng gáy ở đâu
đó xa xa, rồi liên hồi. Tôi choàng tỉnh ( Bỏ mẹ, tôi đang gác cơ mà rồi tôi
chui luôn ra khỏi màn và ra bếp tìm lửa. May quá, khúc củi có lửa lúc 1 giờ tôi
xin ở B1 vẫn còn than nhưng yếu ớt lắm. Tôi liền dí cái liều phóng phụ của Cối
60 vào, lửa bùng cháy luôn. Tôi nhóm bếp và đun nước pha trà ( các đồng chí nên
nhớ lính pha trà bằng bát sắt, cũng dùng bát sắt làm chén luôn ) và trâm thuốc
lá hút. Rồi tôi nghe thấy tiếng chân người bước đi lịch bịch càng gần nghe càng
rõ. Khi đã nhìn thấy dáng người di chuyển, tôi liền nhảy sang đứng lấp ở một tảng
đá dõng dạc quát to :" Ai ?" và mở khóa an toàn súng AK lên quy lát
" Roạp " ( khô khốc !). Thì có người đáp :" Tôi lính B1 đây
". Tôi thở phào rồi đóng khóa an toàn khẩu AK lại. Tôi hỏi đi đâu đấy nó bảo
:" gác một mình buồn quá thấy chốt tôi có ánh lửa sáng nó đoán là đun nước
pha trà nên sang uống ké " ( Thằng Chắt cũng lính tháng 4-1981 nhưng người
Hà Bắc ). Tôi rót nước chè ra một cái bát 2 thằng uống chung và đưa cho nó 1 điếu
thuốc lá cuộn. 2 thằng thì thầm tâm sự và than thở, nâng cấp báo động thế này
không biết đến bao giờ chúng mình mới được ra quân đây ( Vì lúc đó đã có luật
nghĩa vụ quân sự đối với Hạ Sỹ Quan và Chiến Sĩ thời gian phục vụ tại ngũ không
quá 3 năm 6 tháng ).
- Liên miên tâm sự, trời đã bắt đầu
tảng sáng, thằng Chắt nó đi về B1. Tôi liền gọi thằng Khải dậy và bảo nó xuống
mỏ nước ở dưới Chân Cổng Trời Cốc Lại lấy nước sớm đi cho mát chứ để nắng lên mới
đi thì mệt lắm. Trong can còn ít nước tôi bảo nó đổ nốt ra cái xoong để tí nữa
thổi cơm, khi thằng Khải mang 2 cái can đi lấy nước. Rồi tôi hô nốt thằng Phượng
và thằng Hà dậy để cùng tôi đi nhặt đá về để ra cố nốt cái hầm cho chắc chắn,
tôi và 2 thằng chúng nó cần mẫn nhặt đá xếp đầy 2 đến 3 hàng đá đè vào bên
ngoài những cây gỗ. Khi tôi cảm thấy cái hầm chắc chắn lắm rồi. Tôi bảo chúng
nó nghỉ tay đun nước pha lại bát trà ( mà tôi pha lúc gần sáng ) để uống tráng
miệng coi như là đánh răng luôn ( tôi nói đùa với chúng nó như thế ). Uống nước
xong tôi bảo thằng Hà và Phượng đi hái rau ở quanh lán thôi còn tôi cầm dao vào
khe núi có rừng trúc xem có măng không và để chặt 1 cây trúc để làm tầm điếu.
Khi tôi vác cây trúc về đến trận địa Cối. Mệt quá, đang ngồi thở, thằng Hà nó
múc cho tôi 1 bát nước. Tôi đưa bát nước lên miệng chuẩn bị uống, thì mấy tiếng
nổ liên tục :" Oành....oành....oành ". Tôi quay mặt về hướng phát ra
tiếng nổ, lại cấp tập vài tiếng nổ nữa ở sườn 800 Đông và phía trên bản Đơ. Bụi
mù và khói đen.
Tôi thầm nghĩ :" Tẩn nhau rồi
đây ! Lúc đó gần 8 giờ sáng ngày 20-04-1984.
Khi có những tiếng nổ liên tiếp ở
sườn 800 Đông và ở phía trên Bản Đơ. Thằng Hà và thằng Phượng đang hái rau cũng
hớt hải chạy về trận địa hỏi tôi:" Nó đánh ở đâu đó anh ", tôi chỉ
tay về hướng Bản Đơ và sườn 800 Đông rồi bảo nó:" Đang bắn pháo sang Chốt
800 Đông kia kìa. Tôi liền giục 2 thằng chúng nó để rau vào gọn 1 chỗ vào lán
mang khẩu Cối ra trận địa sẵn sàng đi, và mang 2 hòm đạn Cối ra chuẩn bị. Liên
lạc B1 cũng truyền lệnh của Trung Đội Trưởng :" chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu
" ( Vì khẩu Cối của tôi đánh phối thuộc với Trung Đội 1 ). Tôi vẫn ngồi
quan sát điểm nổ của đạn quân TQ bắn tay vẫn làm cho xong cái điếu cày để còn
hút thuốc lào. Dân bản bắt đầu gánh gồng và dắt díu nhau chạy loạn, gọi nhau í ới,
thằng Khải cũng mang được 2 can nước đến trận địa, lúc đó tôi làm gần hoàn
thành cái điếu cày thì quân TQ cũng dừng bắn ( TQ chỉ bắn pháo sang hướng của
chúng tôi ngày 20-04-1984 có hơn 1 tiếng đồng hồ thôi ). Tôi chưa có kinh nghiệm
phán đoán chúng bắn bằng pháo gì, nhưng tôi suy đoán hình như chúng bắn bằng Cối
82 thì phải. Vì điểm nổ rất gần với đường Biên Giới ( Ngay chiều hôm đấy Trung
Đoàn tôi cũng cho C8 Cối 82 của Tiểu Đoàn 5 cơ động lên Lũng Pươi để bắn trả (
gọi là phản pháo) ). Tôi vừa làm xong cái điếu cày, hút thử 1 điếu thuốc lào
đang say lơ mơ thì anh Hòa Đại Đội Trưởng cùng liên lạc Đại Đội lên đến trận địa
Cối của tôi kiểm tra trận địa, và công tác sẵn sàng chiến đấu cùng hầm bảo quản
đạn Cối, rồi khen khẩu đội Cối của tôi làm công tác chuẩn bị chiến đấu tốt. Và
thông báo cho tôi biết TQ đã bắn pháo sang mình. Khiêu khích vào lúc 8 giờ sáng
nay, tôi trả lời luôn:" Vâng em biết rồi, mắt em còn nhìn thấy điểm nổ của
đạn pháo TQ mà". Nhân tiện tôi cũng kiến nghị luôn với anh Hòa C Trưởng,
những khó khăn của khẩu đội Cối tôi. Nhất là về người vì theo biên chế chính thức
khẩu đội Cối 60 của tôi đánh phối thuộc theo chiến thuật phòng ngự và phản công
( Nhưng lại là độc lập tác chiến phải có 6 người ) Rồi tôi muốn ứng phụ cấp để
mua cho khẩu đội Cối mấy cái đèn pin và bật lửa để tiện cho sinh hoạt và phục vụ
chiến đấu. Anh Hòa C trưởng hứa:" Khi có quân lên thì sẽ bổ xung ngay, còn
ứng phụ cấp thì chiều về Đại Đội giao ban và nghe thông báo thời sự ở trên thì
sẽ bảo quản lý ứng cho luôn". Khi anh Hòa C trưởng cùng liên lạc đi sang
các Chốt của bộ phận khác tôi liền hô chúng nó khẩn trương thổi cơm ăn cái đã.
Còn mọi việc tính sau. Ngay chiều hôm đó 20-04 tôi về ban chỉ huy Đại Đội ở
Lũng Ngẳm hội ý thì đã thấy có lính mới rồi (Lính tháng 3-84 Mê Linh huấn luyện
ở Rẻ Gà đã giải tán và biên chế về cho các đơn vị. Và tôi được biết tình hình
biên giới ở các phía Bắc TQ tiến công mạnh nhất ở 2 tỉnh Lạng Sơn và Hà Giang
còn ở Hướng Cao Bằng Tiểu Đoàn 1 Trung Đoàn 246 ở Hà Quảng Cao Bằng có bị thiệt
hại nhưng nhẹ thôi. Rồi Đại Đội trưởng nhắc chúng tôi cảnh giác không được chủ
quan khinh địch và biên chế bổ sung cho khẩu đội cối của chúng thêm 2 lính nữa
và quản lý ứng cho tôi phụ cấp tháng 4-1984. Tôi đưa lính mới về đến bản Keng
Lòi liền rẽ vào mua 2 cái bật lửa, 3 cái đèn pin (TQ) Khi về đến trận địa tôi
liền hô thằng Khải bắt đầu từ chiều nay thổi 6 xuất cơm.
Tôi đưa 2 thằng lính mới - lính
3-1984 ( Mê Linh - Hà Nội ). Thằng Xá và Thược, hô thằng Khải lấy thêm gạo thổi
cơm, tôi liền chọn thêm 1 cái hốc đá nữa, rồi hô chúng nó hỗ trợ làm thêm một
cái lán nữa cho 2 thằng lính mới vì làm lán đơn giản chỉ 1 lúc là xong. Khi cái
lán đã hoàn chỉnh tôi hướng dẫn chúng nó trải chiếu mắc màn luôn và cũng nói
quy định sử dụng nước ở khẩu đội. Thế là giờ khẩu đội cối 60 của tôi có đủ 6
người nhưng vẫn chỉ có 20 lít nước 1 ngày và tôi cũng phân công quán triệt gác
đêm cho đur thời gian, tránh tình trạng như đêm hôm trước chúng nó gác không đủ
thời gian và tôi cũng hướng dẫn 2 thằng lính mới cách lắp liều phóng chính và
liều phóng phụ cùng ngòi nổ của cối 60. Rồi tôi giới thiệu từng người tên tuổi,
quê quán , năm nhập ngũ cho thằng Xá và thằng Thược biết lúc đó cơm canh thằng
Khải đã nấu xong tôi liền hô tất cả chúng nó đi ăn cơm sớm cho sáng sủa để còn
lấy ăng-gô và bát, tí pha trà uống nước.
- Ăn cơm xong đang ngồi uống nước
trà tôi mới nhớ ra ở bản Keng Lòi nhà anh Háo mà lúc chiều tôi vào mua đèn pin
và bật lửa, được biết nhà anh ấy có con chó hơn chục kg muốn bán. Tôi liền hỏi
thằng Xá và thằng Thược ( lính mới ) còn tiền không ? cho khẩu đội vay tôi sẽ đứng
lên có trách nhiệm hoàn trả lại chúng nó khi có phụ cấp. 2 thằng chúng nó bảo mỗi
thằng còn hơn 100 đồng. Tôi nghĩ thế là có hơn 200 đồng rồi, quá đủ vì tôi đoán
con chó chỉ hết 150 đồng là cùng còn rượu thì 10 đồng 1 lít, chè, thuốc lá, thuốc
lào thì chúng tôi đã có sẵn rồi ( Hội Thanh Trố mua để lại ) chỉ thiếu có mì
chính nữa thôi tôi liền cầm tiền và đèn pin mới mua vào bản. Trước khi đi tôi
còn nhắc nhở chúng nó để ý đến súng ống và đạn dược cẩn thận. Tôi vào bản Keng
Lòi hỏi anh Háo mua con chó thì anh ấy đòi 170 đồng, tôi liền chê đắt và còn
nói để đánh vào tình cảm, lính làm gì có tiền mà anh đòi nhiều thế mà tôi lại nắm
được tập quán dân tộc ở đây, không ăn thịt chó, thịt trâu và thịt bò. Mà thằng
cha này đang sợ TQ đánh sang phải chạy loạn nên mới bán mặc cả cò kè mãi sau
tôi vẫn phải mua với giá 150 đồng đúng như dự tính và đặt mua 5 lít rượu nữa (
rượu ở đây là rượu ngô chỉ 28 - 30 độ thôi ) mà tôi cũng còn hơn 10 đồng tiền ứng
phụ cấp, mua đèn pin và bật lửa còn thừa. Tôi đặt và trả hết tiền mua chó và rượu
luôn vẫn còn thừa tiền mua được 1 lạng mì chính nữa. Tôi liền mua thêm 1 bò đỗ
tương nhờ gia đình anh Háo rang hộ luôn và lấy 1 lít rượu về trước để liên hoan
đêm nay cái đã. Còn chó tôi bảo sáng mai tôi mới bắt chứ bắt về ngay bây giờ mà
trói ghì cánh khỉ sợ sáng mai nó chết mất. Tôi vui vẻ ra về vì đã đạt được và
thể hiện cái đèn pin mới mua luôn.
Khi tôi thỏa thuận mua bán vơi
anh Háo ở bản Keng Lòi xong tôi về đến trận địa cối thì mấy thăng chúng nó nhao
nhao hỏi tôi có mua được chó không anh tôi liền bảo xong xuôi hết rồi,sáng mai
vào bắt chó về thịt luôn,sẽ tìm tia đánh tiết canh tử tế,rồi tôi lấy nốt 2 cái
đèn pin ra lắp nốt pin vào giao cho mỗi lán 1 cái,tôi còn nhắc nhở chúng nó,có
đèn pin rồi mỗi lán 1 cái buổi tối có đi vệ sinh phải đi ở xa lán ra,vào tận
khe núi kia kìa chứ đừng đi ở gần lán ở mất vệ sinh lắm và tôi phân công thằng
Phượng ngày mai trực nhật và dặn nó đi lấy nước sớm để còn có nước thịt chó,và
tôi cũng bảo luôn thằng Hà và thằng Thược mai cùng đi vào bản mới tôi để bát
chó và lấy rượu về. Rồi tôi hô:" Còn bây giờ thì liên hoan trước cái đã mừng
cho khẩu đội ta có thêm 2 lính mới.
- Khi 6 thằng đã tẩn hết 1 lít rượu
cùng 1 bò đậu tương rang, trước khi đi ngủ tôi vẫn nhắc nhở chúng nó gác đêm cẩn
thận. Tôi vẫn gác cuối cùng đêm thứ 2 ở Chốt lại có thêm người nên chúng nó gác
và gọi đổi gác khá nghiêm chỉnh. Khi thằng Hà gọi tôi dậy đổi gác thì tôi cũng
chỉ gác hơn 1 tiếng thì trời sáng. Khi trời sáng hẳn tôi liền khua hết chúng nó
dậy hút thuốc lào, súc miệng xong tôi liền bảo ai vào việc ấy luôn theo nhiệm vụ
đã phân công từ tối hôm trước. Tôi Hà và Thược vào bản bắt chó, Phượng xuống Cổng
Trời lấy nước thằng Xá ở lại trông coi vũ khí và lán trại, thằng Khải đi đào giềng,
hái lá mơ và mùi tàu ( Mùi tàu tiếng miền nam gọi là ngò gai ). Các thứ đó cũng
ở gần lán thôi, mỗi người 1 việc, 3 chúng tôi vào đến bản Keng Lòi thì anh Háo
đã buộc con chó vào cột gầm sàn rồi. Tôi leo lên sàn nhà chào hỏi qua loa rồi
xin phép và bảo anh Háo xuống gầm sàn hỗ trợ cùng chúng tôi bắt chó. Qua vài động
tác cơ bản và thành thạo lại được sự giúp sức của chủ nhà, chúng tôi bắt và
trói con chó ( trói mõm, trói chân ) ngon lành rồi lấy khúc củi bằng cổ tay xỏ
vào khe của 2 chân sau của con chó khiêng về còn rượu thì anh Háo cho mượn 1
cái bi đông bằng nhựa to đóng vào. Thằng Thược và thằng Hà khiêng con chó và cầm
rượu về còn tôi đi liên hệ xin 1 bó cỏ ranh khô vác về để thui chó. Khi vác bó
cỏ ranh về đến trận địa thì thằng Hà và Thược đã về trước tôi 1 lúc rồi. Thằng
Khải đi đào riềng và hái rau cũng về rồi. Tôi ngồi xuống hút điếu thuốc lào lúc
đó mới nhớ ra còn thiếu lá chuối để kê lót làm chó cho nó sạch. Tôi lại sai thằng
Khải vào khe chặt mấy tàu lá chuối. Tôi thằng Hà và Thược treo ngược con chó
lên để tìm tia hồng. Khi tôi cầm chiếc đũa đã được vót nhọn bới bới, chọc chọc
để tìm tia thì lại nghe thấy tiếng:" Oành....Oành....Oành". (TQ lại bắn
pháo sang). Thằng Hà và thằng Thược đang giữ con chó để tôi tìm tia rời ngay
tay ra và bảo:" Nó lại bắn kìa anh ". Con chó đang bị giữ chặt được
thả ra, nó giẫy dụa lung tung. Tôi liền quát: "Chúng mày giữ lấy con chó,
giữ chặt vào, còn nó bắn thì kệ ch...a chúng nó". Cứ thịt chó ăn cái đã, mọi
việc tính sau.
Khi tôi tìm tia, cắt tiết xong
con chó thì xoong nước đun đã nóng già. Tôi liền nhúng nước con chó để vặt
lông. Ở sát đường biên chốt 800 Đông và Bản Đơ, TQ vẫn bắn pháo sang. Hôm nay
Trung Đội 1 cũng chẳng cần bảo liên lạc nhắc nhở khẩu đội cối của chúng tôi nữa
vì phương án tác chiến của khẩu đội Cối tôi đã có sẵn rồi. Còn phản pháo để bắn
trả kịp thời thì đã có C8, Cối 82 của D5 làm nhiệm vụ đó còn Cối 60 của tôi chỉ
khi nào quân TQ tiến vào đến Bản Trang ( Vị Quang ) thì mới được bắn, Bản Trang
là tiếng dân tộc dịch ra tiếng Kinh gọi là Bản Giữa, nó nằm ở điểm giữa giao
nhau của thung lũng Vị Quang cách trận địa Cối của chúng tôi trên đỉnh Cổng Trời
khoảng 500m mà TQ nó cứ bắn vu vơ như thế. Chúng tôi kệ cứ vẫn yên tâm bình
tĩnh làm thịt chó. Khi con chó đã được thui vàng tròn căng. Tôi rửa sạch rồi mổ
bỏ lòng ra cho thằng Khải và Thằng Hà làm, Thằng Xá và Thược phụ giúp tôi pha và
lọc thịt. Thằng Phượng tiếp tục đi lấy 1 chuyến nước nữa. Tôi còn dặn thằng Phượng
khi đi qua chốt B1 bảo anh Sử Trung Đội Trưởng đến trưa lên khẩu đội uống rượu
thịt chó. Khi việc sơ chế con chó đã xương ra xương, thịt ra thịt rồi. Tôi mới
chọn miếng nào để băm tiết canh miếng nào hấp, miếng nào làm rựa mận thì tôi thấy
mấy người lính xách cả súng hớt hải chạy qua chỗ chúng tôi dáng vẻ vội vã tôi
liền quát hỏi:" Này ! chạy đi đâu mà như ma đuổi thế ở đơn vị nào?"
Chúng nó bảo:" Ở 800 Đông ". Thì ra là lính K6 địa phương ( người bản
địa ). Thấy TQ bắn sang Chốt ác quá 2 ngày rồi, thì xách súng bỏ chạy. Tôi liền
bảo:" TQ nó đang bắn sang không ở lại mà giữ chốt lại bỏ chạy nhỡ nó cho
quân sang cướp chốt thì sao". Chúng nó bảo:" Em không biết, sợ lắm,
chạy về với gia đình thôi, nếu TQ nó đánh sang thì cùng với gia đình đi sơ
tán". ( Lính địa phương,người dân tộc nhà ở gần đơn vị thường là như thế đấy
các bạn ạ )
- Chính vì lính địa phương bỏ chạy
như thế, chúng tôi lại lên nhận bàn giao tất cả các Chốt ở sát đường biên còn
lính K6 địa phương chuyển đi đâu thì tôi không rõ. Về việc này tôi sẽ viết kĩ
thứ tự ở hồi kí của tôi sau. Tôi không muốn viết nhảy cóc kể cả về thời gian,
không gian và địa điểm các bạn ạ.
- TQ vẫn cứ bắn chúng tôi vẫn cứ
làm thịt chó để tổ chức liên hoan mừng có thêm lính mới và cũng ăn mừng hội
lính 80 ở đơn vị tôi và cả Tiểu Đoàn 4 chúng tôi không có thằng nào bị giữ lại
cả. Vì chúng nó chạy trốn thoát hết còn ở Tiểu Đoàn 5 và 6 tôi nghe hình như có
mấy thằng bị bắt giữ lại đơn vị, thu quyết định luôn. Có thằng còn bị vệ binh
sư đoàn giữ lại ở tận Nước Hai thu quyết định lại và đuổi về đơn vị cũ
- Hôm nay ngày 21-4 TQ bắn pháo
sang hướng của bọn tôi gần 2 tiếng. Nhưng điểm nổ còn cách Chốt của chúng tôi
hơn 1000m tính theo đường chim bay. Khúc dồi chó được cuộn tròn vào cây trúc nước
vàng óng, thơm phức. Những bát tiết canh đông đặc chúng tôi 6 thằng và mời thêm
anh Sử B Trưởng B1 nữa, chén 1 bữa trưa không hết. Chiều tối còn bao nhiêu 6 thằng
chúng tôi chiến tiếp, hết sạch. Ngày hôm đó từ trưa đến tối tôi lúc nào cũng
trong trạng thái lơ mơ và lơ mơ vì rượu.
Trong những ngày thuộc hạ tuần
tháng 4-1984 đó TQ liên tục bắn pháo
sang hướng của chúng tôi đóng quân nhưng chúng bắn có giờ giấc đàng hoàng lắm cứ
8 giờ sáng là chúng bắn, mỗi ngày chỉ hơn 1 tiếng hoặc gần 2 tiếng đồng hồ là
cùng. Đầu tiên còn thấy lo và sợ sau vài ngày nó quen đi thành nhàm, tôi chẳng
thèm quan tâm để ý đến nữa. Quân C8 Cối 82 của D5 chúng nó vẫn trực ở lũng Pươi
và được C vận tải Trung Đoàn vận chuyển đạn Cối 82 lên tiếp viện liên tục để sẵn
sàng bắn trả khi TQ bắn sang ta. Từ ngày 22-04-1984 thì kho thực phẩm dự trữ
chiến đấu của Trung Đoàn mới cấp lên cho chúng tôi sử dụng ( Thịt lợn sấy,
tương khô, mắm kem ). Đến sáng ngày 26-04 thì không thấy TQ bắn sang hướng của
chúng tôi nữa, đến trưa hôm đó tôi nhận được lệnh cử người xuống Đại Đội ở Lũng
Ngẳm lấy lương thực và thực phẩm, tôi nghĩ thịt lợn sấy cấp phát cho chúng tôi
ăn vẫn còn, bây giờ lại được cử người đi
lấy nữa thì thích quá. Tôi liền cử thằng Khải và thằng Phượng về Đại Đội lấy gạo,
thịt và còn dặn chúng nó rõ ràng:" 2 thằng mang 2 cái ba lô về lấy 10 ngày
gạo là 42kg. 2 thằng xan đôi ra 2 ba lô là vừa đầy, hơi nặng một tí nhưng thôi,
cố gắng". Khi 2 thằng chúng nó về Lũng Ngẳm rồi còn 3 thằng tôi giao việc
luôn, đi hái rau ở xung quanh lán. Còn tôi cầm dao vào khe núi chặt lấy 1 cây
mai vác về lán, chặt lấy mấy đoạn để đựng nước. Rồi tôi đẽo 1 cái đòn gánh đàng
hoàng và cầm 2 cái can xuống mỏ nước tắm giặt và lấy nước luôn. Tắm giặt mát mẻ
tôi gánh 2 can nước lên Cổng Trời, về đến trận địa Cối thì thằng Khải và thằng
Phượng cũng lấy gạo và thịt về đến nơi. Tôi giật mình vì nhìn thấy 2 thằng
chúng nó đã khoác mỗi thằng 1 ba lô gạo hơn 20 kg rồi lại còn khiêng cả 1 cái
đùi lợn ( 1/4 con ). Tôi liền hô thằng Hà và Thược ra đỡ cho chúng nó, tôi cũng
đang mệt vì vừa gánh nước leo Cổng Trời. Khải và Phượng cũng thở hổn hển, khi
nghỉ ngơi cũng đỡ mệt rồi tôi mới hỏi tình hình thế nào sao nhiều thịt thế.
Chúng nó bảo tiêu chuẩn mỗi người được 2,5 kg cả xương mà khẩu đội mình có 6
người được 15kg tất cả. Nhưng khổ cái thịt đã có mùi ôi ( thum thủm rồi ). Thì
ra là thịt lợn của đồng bào tỉnh Hà Nam Ninh gửi tặng các chiến sĩ Biên Giới.
Thịt lợn từ tỉnh rồi, cho vào xe đông lạnh chở thẳng lên Sư Đoàn 346. Rồi hôm
sau Sư Đoàn, rồi nhập kho để qua đêm, sáng hôm sau cho chở vào E 677 bằng xe tải
thì lợn đã hết lạnh rồi. Rồi từ E 677, ngày hôm sau C vận tải chuyển lên cho D4
chúng tôi hôm sau nữa D mới thông báo cho các C sang lấy đến chiều thì thịt lợn
mới về được đến Chốt cho bộ đội dùng. Tôi ước tính từ khi thịt lợn cho đến khi
lên đến Chốt mất khoảng 3 đến 4 ngày với số lượng nhiều như thế mà lại không bảo
quản được kĩ mà không ôi thiu ( có mùi ) mới là chuyện lạ. Nhưng dù sao vẫn còn
tốt chán các đồng chí và các bạn ạ. Vẫn còn có tí mỡ tí màng !
Khi thằng Khải và Phượng xuống Đại
Đội lấy gạo và thịt lợn về ( 15 kg; 1/4 con lợn ) đã có mùi nhưng còn tốt chán.
Tôi liền chỉ đạo chúng nó pha ít nước muối, rửa thật sạch rồi lọc hết mỡ ra để
rán, còn thịt nạc cũng thái ra để rán cháy cạnh. Tôi liền chặt 2 cái ống mai ra
để đựng mỡ, còn thịt đã rán cháy cạnh tôi cho ướp muối để ăn dần. Khi mỡ và thịt
dự trữ đã nhiều ăn mãi cũng chán. Tôi liền đầu têu dẫn chuyện bàn với chúng nó ở
khẩu đội, phải kiếm 1 bữa cá ăn, mà cá tươi hẳn hoi, khi chúng nó nghe thấy tôi
nói đến cá tươi, mắt thằng nào cũng trợn lên lắc đầu. Có thằng còn bảo ở trốn
thâm sơn cùng cốc thế này có cá mắm ăn là tốt lắm rồi, chứ lấy đâu ra cá tươi
mà ăn, tôi liền bảo mỡ hiện giờ chúng ta đang có sẵn rồi, tôi sẽ kiếm cho chúng
nó 1 bữa cá tươi rán ăn tử tế, nhưng bây giờ còn để tôi phải tính đã. Để hôm
nào đẹp trời và thuận tiện thì mới thực hiện được chúng nó không tin. Tôi không
nói trước cũng chẳng bàn nhiều làm gì mà tôi phải cho hội này tâm phục khẩu phục
mới được. Vì tôi đã tăm tia được 1 cái ruộng ở gần Bản Cốc Cằng ( Đa số là người
Hoa ). Có thả cá, toàn cá chép, chỉ to bằng 3; 4 ngón tay khoảng 2 đến 3 lạng 1
con mà nước ruộng ở đây rất nông chỉ khoảng 30cm là cùng mà nước chảy ra chảy
vào liên tục chỉ cần đắp bờ phía trên không cho nước chảy vào ruộng nữa mà nước
cứ chảy ra thì 1 tí là cạn chứ không phải tát đi đâu ( vì ruộng bậc thang tôi
đã tính toán và lên phương án rất kĩ rồi).
Vào 1 buổi chiều, khi ăn cơm xong
tôi liền bảo luôn đêm hôm nay trăng sẽ có muộn, phải tầm 1-2 giờ sáng thì trăng
mới lên nhưng trăng yếu chỉ sáng lờ mờ rất thuận tiện chứ không sáng như trăng
hôm rằm và sát rằm. Tôi liền bảo thằng Hà và Khải đêm nay sẽ đi cùng tôi còn
Phượng, Thược, Xá ở nhà trông coi súng đạn và còn dặn chúng nó cẩn thận nếu có
ai phát hiện ra chúng tôi không ở Chốt thì cứ bảo chúng tôi đi bản uống rượu từ
tối chưa về. Còn thằng Hà và Khải phải nhất nhất theo lệnh của tôi mà phải bình
tĩnh không sẽ hỏng hết việc. Tôi liền bảo chúng nó dồn gạo vào ba lô để lấy cái
bao tải dứa để chuẩn bị đêm mang đi đựng cá tôi còn dặn kĩ là cá ở trong ruộng
lúa đi bắt cẩn thận tránh dẫm nát lúa vì
lúa thời điểm này đã cao đến đầu gối rồi. Chúng nó nói tôi yên tâm đi, ở nhà
chúng nó làm ruộng vẫn đi làm cỏ lúa đi vào ruộng quen rồi.
Qua 12 giờ đêm yên tĩnh, ánh
trăng yếu ớt, vàng ệch lờ mờ những con đom đóm bay lượn lập lòe đêm vùng biên
yên tĩnh quá. Tôi khoác 1 khẩu AK đầy hộp tiếp đạn. Đạn đã lên nòng khóa chốt
an toàn lại hạ lệnh xuất phát xuống cổng trời vừa đi vừa dặn kĩ lại chúng nó lần
cuối khi đi xuống đến ruộng thằng Hà sẽ đắp bờ trên không cho nước chảy vào ruộng
nữa,thằng Khải sẽ tháo to bờ nước dưới để nước chảy ra nhanh. Khi bắt được cá
thì ném lên bờ, tôi sẽ nhặt cá cho vào bao tải và tôi cảnh giới luôn. Khi có động
(Bị lộ) tôi sẽ nổ súng để áp đảo và cản thì chúng nó sẽ chạy ngược Cổng Trời về
Chốt cấm không được gọi tên nhau.
Khi xuống đến ruộng như phương án
đã bàn chúng nó thoăn thoắt công việc rất gọn gàng, bình tĩnh, gần như không
phát ra tiếng động chỉ một loáng, những con cá chép bằng 3-4 ngón tay đã được
chúng nó ném lên bờ. Dưới ánh trăng lờ mờ những con cá dẫy nhẩy lên óng ánh
nhìn như những thỏi bạc, trông thích mắt đáo để. Tôi nhặt liên tục cho vào bao
tải, khi cảm thấy kha khá ( khoảng trên 30 con to nhỏ lớn bé ). Tôi liền bảo
chúng nó thôi dừng lại, đủ rồi. Thằng Hà lại lên tháo bờ trên cho nước chảy vào
ruộng. Khải đắp bờ ruộng dưới vợi vào quan sát xem có khóm lúa nào đổ thì vuốt
dựng lại khóm lúa đó để xóa dấu vết. Rút ! 2 thằng chúng nó khiêng cá đi trước,
tôi khoác súng đi sau để bảo vệ, qua mỏ nước Là Nìn tôi bảo chúng nó nhúng cả
bao tải cá xuống nước để rửa cá cho sạch rồi mới mang về Chốt.
Khi 3 thằng chúng tôi mang gần nửa
bao tải cá về đến Chốt an toàn, liền tổ chức làm cá rồi chọn một số con to vừa
luộc vừa rán ăn vã ngay chỉ chấm muối thôi. Mà sao giống cá chép tuy nhỏ nhưng
luộc ăn tươi sao mà ngọt thế, số cá còn lại tôi làm sạch, ướp muối để mai kho
ăn dần. Các bạn thử tính xem, ở Chốt gần như là độc lập bắn nhau thì chả đến lượt
mình ( Pháo tép mà ). Mà cán bộ thì ít kiểm tra lắm có khi nửa tháng hoặc hơn nữa
Đại Đội mới lên kiểm tra 1 lần, khi ăn hết lương thực và thực phẩm thì lại cử
người về Đại Đội lấy mà hàng ngày tôi cũng không phải về Đại Đội giao ban nữa.
Anh Sử B Trưởng B1 về giao ban, có tin tức gì mới thì anh ấy thông báo cho tôi
luôn. Chỉ ăn và chơi mãi cũng chán, các đồng chí ạ các cụ nhà mình có
câu:" Nhàn cư vi bất thiện " cấm có sai tôi luôn nghĩ cách quấy quả
nghịch ngợm, ngày thì đi bản tăm tia tối tối lại chỉ huy chúng nó đi hành sự.
Nhưng chỉ kiếm cái ăn được thôi. Vì tuổi trẻ thèm thuồng thiếu thốn mà, còn
ngày thì chúng tôi lên nương rẫy lấy quả bí ngô làm rau dự trữ, gần như lính ở
bộ phận nào cũng thế nên chúng nó làm bài thơ cho lính.
Tà tà chân bước vào nương
Tay ôm quả bí lòng thương đồng bào Grin Grin Grin
- Từ khi chúng tôi lên Chốt, lính
80 thằng Thanh Trố chạy trốn. TQ bắn sang được hơn 1 tháng thì tôi nhận được
thư của thằng Thanh Trố, nó kể lại là đêm hôm đó khi chúng tôi báo động di chuyển
chiến đấu, thì chúng nó cũng té luôn trong đêm, khá vất vả. Mà toàn đi bộ tắt rừng
chứ không dám đi đường chính. Đi suốt đêm, cũng may có mấy thằng đi cùng nhau
cũng đỡ sợ. Đến trưa hôm sau mới ra đến Nước Hai ( Hòa An ), đến tối thì ra đến
Thị Xã Cao Bằng. Hiện giờ nó đã xin được vào học lớp cơ điện trường Công Nhân
Kĩ Thuật Sĩ Nghiệp Liên Hợp Gang Thép Thái Nguyên. Khi đọc xong thư tôi cũng mừng
cho nó đã thoát nạn, về được đến nhà an toàn, tôi cũng cũng cho nó biết tình
hình Biên Giới, đơn vị và A Cối ra sao.
- Khi TQ không bắn sang nữa thì
thực phẩm dự trữ chiến đấu chúng tôi không được ăn, nhân dân các huyện tỉnh tuyến
sau cũng không chi viện, ủng hộ nữa. Cuộc sống người lính chúng tôi ở tuyến đầu
rất khổ, nhiều lúc cơm ăn chỉ có muối và ớt chỉ thiên vì nguồn rau cũng cạn kiệt
dần dần. Chỉ mong cho TQ bắn pháo sang hoặc đánh sang thì mới được ăn ngon, chứ
cứ sống kiểu vật vờ thế này quá khổ. Vì đã đến mùa mưa rào rồi, mà lán thì lúc
nào cũng ẩm ướt lụp xụp bọ chó rất nhiều. Rồi vào khoảng hạ tuần tháng 5-1984,
khi anh Sử đi giao ban ở Đại Đội về thông báo cho tôi biết 1 tin mừng nóng hổi,
các đồng chí và các bạn có đoán được tin vui gì không ?.
- Tất cả các Hạ Sỹ Quan và chiến
sĩ nhập ngũ năm 1981 làm và khai lý lịch, chuẩn bị ra quân. Khi biết được tin
đó tôi nhẩy cẫng lên vui mừng và hét lớn:" Mẹ ơiii... Con sắp được về với
mẹ rồi."
Khi tôi nhận được tin anh Sử B
Trưởng B1 báo, tất cả lính nhập ngũ 03-1981 làm và khai lý lịch quân nhân để
Trung Đoàn giải quyết chính sách ra quân. Chúng tôi lính 81 đã khai lý lịch đầy
đủ và Đại Đội đã phê lý lịch đàng hoàng và chuyển sang Tiểu Đoàn, chúng tôi hí
hửng vui mừng vì sắp được giã biệt chốn biên thùy này. Đợi mãi, đợi mãi đến cuối
tháng 06-1984 đơn vị tôi xảy ra một sự việc rất đáng tiếc và đau lòng. Ở hướng
B3, Cổng Trời Bản Ngẳm, một đồng chí lính mới đã vô tình sử dụng vũ khí bắn chết
ngay A Trưởng của mình là anh Thành lính 03-1983 người Bắc Thái còn người sử dụng
vũ khí sai quy định gây hậu quả chết người đó tôi không còn nhớ tên nữa ( hình
như là lính 03-1984 thì phải ). Vì thời điểm đó tôi đang ở Cổng Trời Cốc Lại,
được Đại Đội thông báo về họp ban cán bộ gấp, và rút kinh nghiệm bảo quản + sử
dụng vũ khí. Lúc tôi về đến Đại Đội thì quân Pháp đã lên đến đơn vị tôi đang
khám nghiệm hiện trường và tử thi. Còn người bắn lúc thì lăn xả vào người anh
Thành ( đã chết ) khóc rồi đi đi lại lại như người không có hồn. Anh em trong
Tiểu Đội cho biết ( Nhân chứng ) Tiểu Đội đó sống với nhau rất hòa thuận anh
Thành là lính 03-1983 nhưng là lính cơ quan đi, đã nhiều tuổi và anh đã có vợ
và 1 con trai nhỏ. Hôm đó khi ăn cơm xong thì anh Thành mang quần áo xuống mỏ
nước Bản Ngẳm tắm giặt, còn đồng chí lính mới nằm ở lán lấy khẩu súng AK ra nghịch,
ngắm bắn vu vơ. Khi anh Thành đi tắm về đến lán Tiểu Đội vẫn mặc quần đùi còn bộ
quần áo dài đã giặt thì lấy dây lưng buộc lại, khi anh Thành bước chân vào đến
lán thì đồng chí lính mới gọi to và dương súng lên:" Anh Thành ơi...anh
Thành ơi, em bắn nhé anh Thành vừa leo Cổng Trời lên đang mệt vẫn thở hổn hển.
Tưởng súng không có đạn chân vẫn cứ bước. Cũng trả lời lại:" Ừ bắn thì bắn
m...ẹ nó đi, đang mệt đây ". Thế là đồng chí lính mới liền mở khóa an
toàn, lên quy lát, nháy cò. Ba tiếng nổ chát chúa vang lên, anh Thành đổ vật xuống
như một cây chuối chết ngay tại chỗ vì điểm bắn quá gần cách khoảng 3m. Đồng
chí lính mới thấy thế sợ quá, vứt súng ở sạp chạy sang lán B Trưởng B3 lắp bắp
mãi mới nói được 1 câu:" Em bắn chết anh Thành rồi ", và khóc rồi cứ
tha thẩn như người mất hồn. Khi sự việc xảy ra như thế thì mọi người hỏi
nó:" Tại sao mày bắn anh Thành ?". Thì nó bảo :" Em đùa, tưởng
súng không có đạn". Lúc đó có người bảo bắt trói nó lại. Có người bảo
không cần, vì nó không trốn mà cũng không có hành động gì như bị kích động cả.
- Khi quân Pháp làm biên bản xong
có thông qua cho đơn vị chúng tôi đại diện ký vào biên bản. Tôi vẫn còn nhớ 1
câu ở biên bản là:" Sử dụng vũ khí trái phép gây hậu quả nghiêm trọng, dẫn
đến chết người". Rồi quân Pháp đưa đồng chí lính mới đó đi luôn. Còn chúng
tôi, các cán bộ quèn bị nhồi 1 bữa gần như là chính trị, coi đây là 1 bài học về
quản lý và sử dụng vũ khí.
Khi chuyện anh Thành A Trưởng ở
B3 hy sinh vì một đồng chí lính mới vô tình nghịch súng AK đó đã lắng xuống. Khẩu
đội Cối 60 vẫn phối thuộc cùng B1 ở Cổng Trời Cốc Lại, ăn ở tạm bợ rất khổ.
Cũng may chúng tôi ở độc lập lại có tài xoay sở chỉ đạo chúng nó đi kiếm thêm để
cải thiện, mấy thằng lính ở khẩu đội, chúng nó cũng khoái cái tính của tôi. Vì
tôi thường nói và làm ngay ( lính chốt mà ). Tiền thì không có phụ cấp hàng
tháng chả được bao nhiêu quân trang liên hạn lính về thì chúng được đưa vào bản
và ra chợ ngay. Mà cũng chỉ được vài hôm xúng xính 1 tí lại hết ngay. Thì lại
phải nghĩ cách đi kiếm mà cải thiện thôi các bạn ạ ( con cá, lá rau, con gà,
con vịt... ). Những thứ đó thì hơi bị sẵn nên cuộc sống của chúng tôi cũng đỡ
đi phần nào khổ sở.
- Rồi một ngày vào Trung tuần
tháng 7-1984, vào buổi trưa khi chúng tôi vừa ăn cơm xong thì liên lạc Đại Đội
và quân của B2 lên khẩu Cối của tôi và B1 báo:" Lệnh của Đại Đội tất cả
rút quân về Lũng Ngẳm, và tôi bàn giao toàn bộ đạn Cối cho quân B2 để B2 vận
chuyển về. Tôi mừng rỡ tưởng hạ cấp báo động rồi, khả năng tôi sắp được ra quân
vì lúc đó tôi đã được 3 năm 4 tháng tuổi quân rồi." Khi bàn giao toàn bộ số
đạn Cối cho quân B2 xong tôi liền hô chúng nó dỡ lán thu hết áo mưa lại và phân
công mang vác súng và lương thực để rút. Quân B1 cũng rút qua chỗ chúng tôi rồi.
Tôi đi kiểm tra lại 1 lượt lần cuối cùng xung quanh trận địa Cối của tôi xem
còn bỏ quên hoặc xót cái gì không. Quan sát kĩ lưỡng không còn sót gì cả, tôi
liền hạ lệnh khẩu đội rút. Tôi dương khẩu AK lên trời làm vài loạt để giã biệt
Cổng Trời Cốc Lại vì tôi nghĩ sẽ không còn thời gian để quay lại cái Cổng Trời
chết tiệt này nữa. Nó vừa cao lại vừa dốc, chúng tôi đi lại rất vất vả, ngày nắng
khô ráo thì không sao, còn ngày mưa ướt thì thôi rồi các bạn ạ. Đất thì quý người
dính và trơn khủng khiếp. Có thằng gánh được 2 can nước gần lên được đến đỉnh rồi
vì đường trơn quá mà ngã 2 can nước đó tuột ra khỏi đòn gánh rồi lại phải quay
lại điểm xuất phát ( Mỏ nước Là Nìn )
- Khi chúng tôi về đến Đại Đội ở
Lũng Ngẳm thì được anh Nghị C phó hậu cần hướng dẫn chúng tôi trả lại hết gạo
thừa và xoong nồi cho quản lý nhập kho còn đạn AK ( K 56 ) chỉ giữ lại cho mỗi
khẩu 120 viên còn trả lại hết cho quân khí kiêm văn thư Đại Đội còn về cơm cháo
thì tối bếp ăn Đại Đội sẽ nấu tập trung. Tôi nghĩ bụng thế là thoát nợ vì đã trả
được hết đạn rồi, đỡ phải bảo quản. Những thằng lính nhập ngũ năm 1981 bọn tôi
vui mừng ra mặt. Đinh ninh là sắp được ra quân, rồi bọn tôi được chỉ địa điểm
nghỉ tạm qua đêm còn đến chiều tối khi giao ban Đại Đội sẽ thông báo tình hình
và nhiệm vụ mới của đơn vị sau còn giờ quân trang và súng đạn lúc nào cũng phải
ở tư thế gọn gàng, sẵn sàng cơ động nhận nhiệm vụ mới. Tôi thấy làm lạ vừa gọi
chúng tôi ở chốt Cổng Trời Cốc Lại về xong lại bảo chúng tôi sẵn sàng cơ động.
Thật là chẳng biết ra sao nữa, tôi tặc lưỡi:" Đợi đến tối giao ban xem sao
".
Chiều ngày hôm đó khi ăn cơm xong
, bữa cơm sau khoảng 3 tháng chúng tôi tự nấu ăn thì hôm nay phải ăn tập trung,
nhưng nói là ăn tập trung nhưng không phải xếp hàng ngồi ăn tâp trung đâu các bạn
ạ mà nhà bếp chia cơm theo đầu người tưng khẩu đội và tiểu đội 1 rồi tự ăn với
nhau lên ăn hơi đói vì đơn vị C bb đông hơn 120 người lên gạo nấu cơm không được nở hết tối tôi vào
hang Đại Đội giao ban thì được biết tình hình biên giới mà trên thông báo vẫn
chưa hạ cấp báo động .Quân Trung Quốc vẫn áp sát quân ở biên giới theo hướng của
đơn vị ta chốt giữ và ở bên Hà Giang với Lạng Sơn chúng còn tổ chức đánh lớn ,
ta và địch giành giật nhau từng mỏm chốt một rất ác liệt chính vì những lí do
như thế để bảo vệ vững chắc biên giới và các cao điểm (chốt) 800 đông và tây mà
sư đoàn đã làm việc với tỉnh đội Cao Bằng rút toàn bộ lính K6 địa phương. Tiểu
Đoàn 4 chúng ta lên nhận bàn giao lại toàn bộ 2 cao điểm 800 đông và tây cùng 2
dông đồi 700 và 759 . Vì các vị chí chốt này tháng 6/1982 khi Tiểu Đoàn 4 chúng
tôi rút về tuyến sau . ( Rẻ gà , Lương Thông ) đã bàn giao cho K6 địa phương ,
lính địa phương mà toàn là người bản địa hơi tí anh em lại bỏ về nhà , mà nhất
là ngày 16/4/1983 vào ngày 20/4/1984 khi Trung Quốc bắn pháo sang chốt lính K6
địa phương có người còn sách cả súng chạy về với gia đình rồi lên không được
tin tưởng nữa , nhất là hiện giờ bên Hà Giang và Lạng sơn ta và địch đang giao
chiến 1 cách kịch liệt . Để rút kinh nghiệm cấp trên cho rút K6 địa phương và ấn
chủ lực bọn tôi lên là phải thôi
Khi đã lắm dõ được tình hình và nhiệm vụ mới
ngay sáng ngày mai khi ăn phụ xong chúng
tôi sẽ cơ động tạt qua sườn bản Phay Đén , qua Lũng Vài rồi ém quân ở bản Pá Rả
trước , còn lương thực và đạn dược trung đoàn sẽ cho C vận tải và tiểu đoàn 5 hỗ
trợ vận chuyển lên sau . còn khẩu Cối 60 mà tôi phụ trách vẫn phối thuộc với B1
cùng một khẩu Đại Liên sẽ nhận bàn giao trên đỉnh 800 đông còn một khẩu đội cối
nữa sẽ ở cùng B2 , hậu cần và C bộ ở dông đồi 700 còn b3 và một khẩu đại liên sẽ
chốt giữ ở chân chốt 800 đông phía trên bản Là Thìn sau tuyến hào trống tăng 1
( đầu đường tỉnh lộ 204 Cao Bằng là chỗ cột mốc biên giới Việt Trung số 119 cũ
) còn C3 sẽ lên 800 tây cùng C4 (cối 82 ).C2 cùng D bộ ở Lũng Khoang và Dỏng Có
dông đồi 759 . Giao ban xong Tôi liền về thông báo cho toàn bộ anh em trong A Cối
của tôi biết để chúng nó còn chuẩn bị tinh thần , còn tư tưởng của tôi lúc bấy
giờ thì thất vọng vô cùng cứ tưởng rút ở
chốt Cổng Trời Cốc Lại về là hạ cấp báo động rồi thỉ sẽ nhanh được ra quân ai
ngờ lại còn bị đẩy lên cao hơn nữa , tôi thất thểu đi như người không hồn ,
chân bước đi không định hướng và nghĩ thầm gọi mẹ , mẹ ơi ! ngày con được về với
mẹ còn xa lắm . Rồi trong đàu tôi lóa lên 1 y' nghĩ vào nhà quen ở Lũng Ngẳm uống
rượu để giải sầu cái đã tôi liền hô thằng hà và khải 2 thằng khoác súng theo
tao !
Sáng hôm sau khi trực ban báo thức
chúng tôi giậy lấy cơm phụ ăn . Rồi tất cả toàn đại đội báo động di chuyển như
đã theo phương án toàn đơn vị hành quân chỉ mang theo một ít cơ số đạn và gạo
ăn trong 10 ngày khi lên đến bản Pá Rả ở dông đồi 700 gọi là bản nhưng chỉ có 4
cái nhà sàn . Riêng C bộ và hậu cần ở một nhà còn 3 B bộ binh và 2 A hỏa lực
chia nhau ra ở làm 3 nhà . A cối chúng tôi ở 1 nhà cùng với B1 ( nhà anh Hò )
hơn 30 người cứ trải chiếu thẳng ra sàn mà ngủ cảm thấy thoải mái vô cùng . Thế
là chấm rứt những ngày nằm ở khe núi đá lấy lá cây làm ổ ẩm ướt , mưa nắng khổ
sở chúng tôi chỉ ăn và chờ lệnh lên nhận bàn giao chốt rồi A cối chúng tôi bị
rút quân số mất 3 người sang D bộ . Xong cái ngày mong chờ lên nhận bàn giao chốt
cũng đến tôi được phép lựa chọn lấy 4 người nữa trong A cối tất cả là 5 người
lên đỉnh 800 Đông cùng B1 tôi vẫn lấy 2 thằng lính mới Xá và Thược ( lính tháng
3/1984 ) thằng Hà và Trung (lính 3/1983 ) còn tôi để thằng Khải lại với khẩu đội
cối kia ở cùng C bộ còn thằng Phượng đã được chuyển sang D bộ một khẩu đội cối
của tôi cùng khẩu đội đại liên với B1 lên nhận bàn giao đỉnh 800 Đông nhanh
chóng . Khẩu đội cối của tôi ở cùng với A2 của B1 khu vực yên ngựa gần đỉnh 800
Đông . Tôi chọn vị trí làm trận địa cối 60 ở đó vì tầm nhìn rất thoáng , khi có
chiến sự xẩy ra tôi sẽ bắn và phát huy hiệu quả của Pháo tép tất cả các hướng
nhất là hướng mốc 117 bản Phia Bủng và bản Trang Vị Quang thứ 2 là hướng mốc
119 bản LÀ Thin và Đường tỉnh lộ Cao Bằng 204 ( đường mà tháng 2/1979 Quân Đoàn
41 của Trung Quốc cùng cả Tăng và thiết giáp tiến sang như chỗ không người ) . Mà
tôi còn có khả năng bán thẳng sang đất Trung Quốc khi cần thiết còn A1 của B1
cùng khẩu đại liên ở trên đỉnh 800 Đông A3 B1 ở cuối dông đội 700 chỗ tiếp giáp
với đường lên đỉnh 800 .
Tôi tả qua cái địa hình chốt 800
Đông đẻ các bạn hiểu nhé . Đỉnh 800 Đông nó như là 1 cái nón úp rất nhọn lại
cao ở chân đồi phía bên kia là đất của Trung Quốc là 1 cái lũng sâu hoẳm dậm dạp
còn ở phía đằng sau sườn bên này có 1 dẫy như kiểu sống trâu chạy thấp dần thấp
dần nối liền với dông đồi 700 có 1 tuyến hào cơ động , chiến đấu chạy từ đỉnh
800 xuống hết dông 700 phía ngoài tuyến hào đó là mấy loại hàng giào dây thép
gai , ngoài hàng giào dây thép gai là bãi mìn hỗn hợp ở trong rừng vầu dậm rịt
. Mà nhà của Lính ở đây làm theo kiểu âm nhiều hơn dương chình vì thế mà Trung
Quốc bắn pháo sang chưa bao giờ trúng được đỉnh 800 Đông , khi quá tầm thì đạn
vọt sang phía bản Đơ và Khuổi Rẹp . Khi đuối tầm thì chỉ vào bãi mìn của ta
thôi , mà đường lên đỉnh 800 Đông chỉ duy nhất một con đường mòn dậm rạp , treo
leo đi mà trượt chân ngã là năn xuống bãi mìn ngay và 1 tuyến hào cơ động chiến
đấu . Mà nước sinh hoạt ở đây thì thôi rồi
Khi nhận bàn giao lính K6 Địa
Phương để lại tất cả lán trại. Hòm đựng gạo, các vật dụng chứa nước. Nhưng chỉ
có lán của A1 và A3 thôi, còn A2 và Cối 60 của tôi thì tự làm lấy mà ở. Chúng
tôi mỗi người 1 chân 1 tay cùng nhau làm, mỗi người 1 việc rất nhanh. Còn làm cả
sạp để nằm tử tế. Xoong 20B của Liên Xô chúng tôi được cấp mới, cùng 1 số
Bi-đông bằng nhựa 5 lít cũng được cấp luôn. Khẩu Cối của tôi 5 người, A2 có 8
người, tổng là 13 người cùng ở 1 lán, hơi chật 1 tí nhưng vẫn ở được. Một ngày
2 người trực nhật ( lấy nước và nấu cơm ) 40 lít nước 1 ngày. Vào thời điểm này
thì chúng tôi đã quen hẳn không đánh răng rửa mặt. Chân thì 2 xoa 3 đập là xong
lên sạp ngủ ngon lành cũng chả thèm gác sách đêm hôm gì cả. Nước lã nhiều khi
không có mà uống, rau thì mùa này không có. Khi có mắm kem chúng tôi đào giềng
băm nhỏ ra trưng với mắm kem ăn. Hết mắm kem chúng tôi lấy gừng chấm muối ăn với
cơm. Nhưng cơm thì được ăn thoải mái, 1 ngày nấu đến 3 hoặc 4 bữa cùng được. Chả
ai lo toan và quản lý gạo cả nên chúng tôi ăn vô tội vạ, cứ gần hết gạo lại kêu
Đại Đội cho người chuyển gạo lên ( Mặc dù gạo ăn đã âm ). Đôi lúc chúng tôi
cũng tự xuống lấy, nhưng khoảng 7 người mang ba lô xuống lấy nhưng chỉ có 5 người
mang gạo lên chốt còn 2 người mang vào bản đổi chó hoặc bán lấy tiền sử dụng việc
khác như mua chè, thuốc kể cả thuốc phiện để hút vì mỗi lán của bọn tôi ở Chốt
đều có 1 bộ bàn đèn ( Tự làm ). Để hút thuốc phiện. Ở trong bãi mìn ngày nào
cũng có mìn nổ, chả biết lý do tại sao còn loa đài tâm lý chiến của Trung Quốc
phát ra rả suốt ngày. Toàn nhạc hải ngoại ( Chế Linh, Duy Khánh ) và những tiết
tấu của đàn bầu, dân tộc. Bài "se chỉ luồn kim" thỉnh thoảng ông
Hoàng Văn Hoan lại đọc tuyên ngôn dựng cờ khởi nghĩa, nghe chối tai quá. Tôi
đưa vài loạt AK sang nó lại câm tịt 1 lúc rồi lại ra rả... ra rả suốt ngày. Anh
Sử B Trưởng B1 thì chả nói được chúng tôi nữa còn cán bộ Đại Đội thì chả lên
thăm và kiểm tra lính bao giờ cả. Chúng tôi tha hồ tự tung tự tác cứ cử nhau đi
tăng gia về mà cải thiện như gà, vịt, lợn, bò, bê...... chơi tất. Lâu lâu không
tăng gia được thì cứ nằm ở trên Chốt quay súng bắn tỉa về bắn trâu, bò, lợn...(
Coi như là TQ bắn ). Khi đã bị trúng đạn là dân bản phải thịt thì mình xuống
mua và hỏi han tình hình thì dân bản bảo bị TQ bắn tỉa, bị thương rồi thì phải
thịt thôi. Cũng chả ai ngờ được là chúng tôi từ Chốt bắn về. Anh Sử B Trưởng
cũng biết đấy nhưng chúng tôi chả sợ vì anh ý cũng được ăn cùng chúng tôi cơ mà
và chỉ dặn chúng tôi muốn làm ăn gì thì phải cẩn thận và kín đáo. Anh Sử nói
nhiều như kiểu sợ bị liên luỵ và ảnh hưởng tôi liền phản ứng nói ai làm người ấy
chịu rồi rút chốt quả lựu đạn cần ném xuống bãi mìn cho nổ nghe chơi.
Vào thời điểm này những người
lính BVBG phía bắc chúng tôi thiếu thốn khổ sở vô cùng, nước uống cũng không đủ
rău xanh thì không có thực phẩm cũng không. Tiền ăn Đơn Vị cũng không có để cấp
cho lính, cơm chúng tôi chủ yếu ăn với gừng chấm mối để lấy vị cay cho trôi
cơm. Gạo thì chúng tôi vừa ăn vừa bán đã quá tiêu chuẩn bị âm quá nhiều. Đại Đội
và quản lí đang dọa sẽ không cấp gạo lên cho chúng tôi ở Chốt nữa, các bộ phận
đã phải bảo nhau đi đào củ mài, củ từ gai bên núi đá về nấu canh ăn kèm. Vì thế
chúng tôi càng bỏ Chốt đi, có đợt vài ngày để kiếm ăn ( Tăng gia cải thiện ).
Và cũng để cải thiện con mắt luôn, ( nhìn thấy gái Grin ). Cán bộ Trung Đội ở
cùng Chốt thì không bảo được bọn tôi nữa, cán bộ Đại Đội thì chả lên Chốt kiểm
tra bao giờ. Những thằng lính HN chúng tôi là lính cựu rồi, luôn đầu têu vì thế
hội lính 82 - 83 - 84 chúng nó cũng vào hùa theo, râu tóc của lính thì thôi rồi.
Tóc có thằng đã dài đến ngang vai ( đang mốt tóc dài mà ). TQ thì không bắn
sang hướng của chúng tôi nữa, đôi lúc tôi còn lấy Cối 60 bắn sang TQ để khiêu
khích cho TQ bắn lại ta nhưng chúng cũng chả bắn lại.
- Rồi ngày 2-9-1984 đã đến, chúng
tôi mới được 1 bữa ăn tươi nhưng chả được là bao nhiêu, vài ngày sau chúng tôi
bắt được 1 con trăn đất quá to và dài đến 8m do thằng Thịnh Voi ở A Đại Liên
phát hiện ra. Nó đang nằm cuộn tròn ở sát tuyến hào chiến đấu cạnh bãi mìn. Nó
liền hô chúng tôi mang súng AK ra, thằng Thịnh Voi nó chèo lên cái cây đứng ở 1
cái chạc cao khoảng 3m. Con trăn vẫn cứ nằm cuộn tròn ngủ, còn chúng tôi gần chục
thằng đứng hết xuống tuyến hào, Thịnh Voi nó bắn 3 loạt AK vào thẳng đầu con
trăn. Nó giẫy dụa 1 lúc lâu, cái đuôi nó vật lên vật xuống làm nát hết 1 đám cỏ
ranh, khi nó đã nằm im rồi. Thịnh Voi nó bồi thêm 1 loạt đạn nữa vào giữa lưng
con trăn. Nó vẫn nằm im, Thịnh Voi nó liền hô chết rồi. Chúng tôi liền đứng hết
dậy xuống chỗ con trăn, truyền tay nhau kéo nó lên tuyến hào như kiểu đàn kiến
tha mồi Grin. Tất cả đều ghé vai vào mỗi thằng 1 đoạn vác xuống nhà A3, B1 để
làm thịt. Nhà A3 có 3 gian, dài 7,5m chúng tôi treo con trăn lên xà nhà theo kiểu
thế nằm ngang nhưng hơi dốc đuôi xuống. Cũng may A3 đã có sẵn rượu, chúng thôi
đổ rượu ra Ăng - Gô và chặt đứt 1 đoạn đuôi con trăn cho tiết chảy vào luôn Ăng
- Gô rượu rồi uống luôn. Một con trăn đất dài 8m đường kính 20cm cả B1 cùng khẩu
cối và khẩu Đại Liên chia nhau hơn 30 người, ăn 1 ngày mới hết. Thịt trăn trắng
như thịt gà, ngọt lợ như mì chính còn xương chúng tôi xao vàng cất đi, sau này
ngâm rượu uống, còn về tình hình giải quyết chính sách ra quân của lính nhập
ngũ 3-1981 bọn tôi vẫn còn mịt mù lắm...
Đến tháng 10/1984, quân trang
niên hạn được phát chúng tôi lính 81 không thằng nào dám bán,vì thằng nào cũng
nghĩ sắp được ra quân rồi,thì phải để lại một bộ quần áo mới mặc cho tươm tất
trước khi về. Lúc đó chúng tôi đã quá 3 năm 6 tháng rồi, mà lý lịch đã làm để
chuyển đi từ hồi đầu năm rồi. Không biết cấp trên giải quyết ra quân vào ngày
nào nên cứ phải đợi, quần áo mới thì không dám mặc cũng chả dám bán. Còn hội
lính 82 và 83 chúng nó cũng hiểu và thông cảm cho chúng tôi, nên quân trang
liên hạn của chúng nó cũng lần lượt được đưa vào bản và ra chợ. Vào thời điểm
đó đã là cuối tháng 11-1984 khi quản lý đã thông báo chốt của bọn tôi ăn âm gạo
mỗi người vào gần 100kg rồi. Khi gần hết gạo chúng tôi báo xuống để quản lý và Đại
Đội chuyển gạo lên cho chúng tôi thì quản lý thông báo không chuyển lên nữa,
may quá khi chỉ còn khoảng 2 bữa gạo nữa là hết. Thì có 1 ông tướng lên thăm và
kiểm tra Chốt ( Thiếu Tướng ). Chúng tôi chả biết tên là gì, mà ở cấp Quân Đoàn
hay Quân Khu qua máy hữu tuyến chúng tôi được biết nên đã cất giấu và tẩu tán tất
cả bàn đèn thuốc phiện.
- Khi Đại Đội Trưởng cùng liên lạc,
cận vụ và ông Tướng lên đến nơi. Khi ông tướng nhìn thấy bọn tôi cứ như là thổ
phỉ 1 lượt, thằng nào tóc cũng dài, râu dậm bẩn thỉu, rách rưới. Ông ngán ngẩm
lắc đầu, rồi ông kiểm tra súng đạn hầm hào công sự, chiến đấu. Ông tỏ vẻ thất vọng,
ông kiểm tra luôn cả công tác hậu cần cùng quân số. Khi ông hỏi quân số đi đâu
mà vắng người thế ?. Tôi trả lời luôn người đi lấy củi, lấy nước, 1 số đi đào củ
mài, củ từ để về ăn cho đỡ đói. Khi mở hòm gạo ra thì ông tướng đã thấy hết,
còn ông hỏi về thực phẩm tôi cũng nói thẳng:" từ sau ngày 2-9 chúng tôi ở
Chốt không được cấp 1 tí gì gọi là rau xanh và thực phẩm cả ngoài muối trắng".
( Tôi đang ở dạng cùn và bất mãn, nên chả sợ gì cả có thế nào nói thẳng như thế
). Đúng lúc đó đài tâm lý chiến của TQ lại vang lên những bản nhạc Hải ngoại và
các điệu dân ca, ông tướng liền hỏi chúng tôi có những nguyện vọng gì? Có kiến
nghị và đề đạt gì không, tôi nói liền:" Thủ Trưởng lên thăm tận nơi và kiểm
tra Chốt thì quá rõ rồi, gạo hết, thực phẩm và rau xanh không có, mặc dù tiền
ăn thừa rất nhiều, nhưng không được cấp phát. Tôi cũng hỏi luôn tại sao lính 81
chúng tôi đã quá 3 năm 6 tháng rồi mà chưa được ra quân? Rồi ông tướng động
viên chúng tôi cố gắng trực chiến sẵn sàng chiến đấu cho tốt. Ông hứa sẽ giải
quyết kiến nghị và đề đạt của bọn tôi dần dần. Ông bắt tay chúng tôi và còn nói
khôi hài, cho vị tướng già này bắt tay với các chiến sĩ nơi nơi tiền tiêu của tổ
quốc và cười. Rồi ông đi xuống dốc, dáng đi vẫn nhanh nhẹn và khỏe khoắn lắm.
- Thật hú vía ! May mà chúng tôi
đã giấu được hết bàn đèn thuốc phiện đi rồi, không biết vị tướng già mà nhìn thấy
những thứ đó thì ông sẽ nghĩ sao???
Khi ông Tướng cùng cận vụ Đại Trưởng
và liên lạc xuống khỏi trốt 800 đông của bọn tôi mấy thằng lính mới chúng nó liền
bảo tôi:" Sao anh liều thế không sợ à Huh". Tôi bảo:" Mấy khi mà
được gặp vị tướng lên thăm và kiểm tra Chốt, nên có thế nào thì nói như thế, sợ
gì !". Mà mình đang ở đây xác định TQ đánh sang là chết, sợ gì mà không
dám nói. Ngay chiều hôm đó chúng tôi được quân B2 chuyển gạo lên đổ đầy 1 hòm,
thoải mái ăn, cùng một ít cá mắm ( cá chuồn ) nhưng chỉ đầu và vây là nhiều,
còn thân cá thì rất ít. Nhưng vẫn còn tốt chán, có còn hơn không. Rồi khoảng 1
tuần sau, chúng tôi được cung cấp thêm thịt lợn sấy, lạp xường. Lính 81 bọn tôi
cũng có 1 tờ thông báo, tôi không nhớ theo thông tư và nghị định bao nhiêu nữa
của Bộ Quốc Phòng và Bộ Tổng Tham Mưu đại loại là kéo dài thời gian phục vụ tại
ngũ của Hạ Sỹ Quan và chiến sĩ chúng tôi nhập ngũ tháng 3-1981 đến hết năm 1985
thế là hết mơ mộng. Chúng tôi lại chuẩn bị làm công trình sửa sang hào cơ động,
chiến đấu làm 1 số đoạn hào có nắp và hầm chữ A bằng bê tông. May quá chúng tôi
chỉ việc đào hầm thôi còn Bê tông đã có các đơn vị ở phía dưới lên hỗ trợ để
vác bê tông lên tận Chốt cho chúng tôi. Rồi 1 số thằng lính Hà Nội lại tìm cách
về nhà ăn tết ( Như xin đi tranh thủ, hoặc đi viện để về nhà ).
- Khi chiến dịch xây dựng công
trình, hầm, hào công sự đã xong thì ngày 22-12-1984 cũng sắp tới chắc do ông tướng
lên thăm Chốt đã biết rõ cuộc sống của lính Chốt chúng tôi, cuộc sống của chúng
tôi được cải thiện rõ rệt. Thực phẩm được cấp lên đều đều ngày 22-12 Chốt 800
Đông bọn tôi được hẳn 1 con lợn hơn 50 kg mang về chốt tự thịt và đánh tiết
canh tử tế mà Chốt có hơn 30 người ( Đúng là thịt ngập chân răng ). Chúng tôi
cũng chỉ ăn 1 ngày là hết thịt chỉ còn để dành được ít mỡ. Ăn tết quân đội xong
thì tết cổ truyền của dân tộc sắp tới ( Tết Nguyên Đán ). Các đồng chí và các bạn
có nhớ không, cái tết năm đó 1984 sang 1985 Việt Nam mình ăn tết trước TQ 1
tháng. Chúng tôi lại xúm vào chuẩn bị cho cái tết, thằng thì mang gạo xuống bản
nhờ nấu rượu, tôi và thằng Hà, Trung đảm nhiệm khoản gà. Đêm đêm 3 thằng bí mật
lặn lội xuống bản tìm gà kể cả ổ gà đang ấp chúng tôi cũng xin tất. Khi khoản
gà và rượu đã hòm hòm rồi. Chè, thuốc chúng nó cũng tập trung được kha khá ở Chốt,
thế là đầy đủ lắm rồi.
- Đến ngày 30 Tết Đại Đội thịt lợn
gọi chúng tôi cử người xuống lấy. Thịt lợn, bánh trưng, bánh kẹo, thuốc lá và lệnh
cấm chúng tôi giao thừa không được bắn súng. Bữa cơm cuối năm đó chúng tôi thoải
mái rượu chè, nhảy múa, hát ca. Đài tâm lí chiến của TQ cứ ra rả bài:"
xuân này con không về " với bài " Mời anh mời chị mùa xuân lên đây
thăm tôi nơi xa xôi khuất nẻo thưa người". Chúng tôi kệ, nghe lại thấy hay
hay, đúng giao thừa ông Hoàng Văn Hoan còn chúc tết nhân dân Việt Nam. Ở dưới Đại
Đội 3 phát súng K54 của Đại Trưởng bắn lên báo hiệu giao thừa, chúng tôi được
thể thế là...
các bạn có nhớ không, cái tết năm
đó 1984 sang 1985 Việt Nam mình ăn tết trước TQ 1 tháng. Chúng tôi lại xúm vào
chuẩn bị cho cái tết, thằng thì mang gạo xuống bản nhờ nấu rượu, tôi và thằng
Hà, Trung đảm nhiệm khoản gà. Đêm đêm 3 thằng bí mật lặn lội xuống bản tìm gà kể
cả ổ gà đang ấp chúng tôi cũng xin tất. Khi khoản gà và rượu đã hòm hòm rồi.
Chè, thuốc chúng nó cũng tập trung được kha khá ở Chốt, thế là đầy đủ lắm rồi.
- Đến ngày 30 Tết Đại Đội thịt lợn
gọi chúng tôi cử người xuống lấy. Thịt lợn, bánh trưng, bánh kẹo, thuốc lá và lệnh
cấm chúng tôi giao thừa không được bắn súng. Bữa cơm cuối năm đó chúng tôi thoải
mái rượu chè, nhảy múa, hát ca. Đài tâm lí chiến của TQ cứ ra rả bài:"
xuân này con không về " với bài " Mời anh mời chị mùa xuân lên đây
thăm tôi nơi xa xôi khuất nẻo thưa người". Chúng tôi kệ, nghe lại thấy hay
hay, đúng giao thừa ông Hoàng Văn Hoan còn chúc tết nhân dân Việt Nam. Ở dưới Đại
Đội 3 phát súng K54 của Đại Trưởng bắn lên báo hiệu giao thừa, chúng tôi được
thể thế là.........
Còn nữa.............
Than
phiền Logged
Biên cương có giặc ta quyết giữ
Hậu phương yên bình gắng dựng
xây.!
thinhe677f346
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 510
Thịnh e677/f346 cùng phu nhân.
Xem hồ sơ cá nhân Personal
Message (Offline)
Re: Hồi Ký Biên Cương ( lính Hà Nội
81-85)
« Trả lời #225 vào lúc: 10 Tháng
Tư, 2010, 07:26:49 PM »
Trích
dẫn và trả lờiTrích dẫn
- Đúng lúc đó thằng Thanh Trộm
lính tháng 2-1982 người Đại Từ - Bắc Thái nó ghé vào tai tôi bảo:" Em ra bờ
hào đái thấy cái gì cứ sột soạt động động ở dưới rừng vầu ( Bãi mìn ). Tôi liền
đứng dậy và miệng bảo:" Để tao ra xem sao " rồi tôi chạy vào lán lấy
khẩu AK và bảo thằng Thanh Trộm đưa tôi ra. Khi ra đến tuyến hào, tôi nhẹ nhàng
nhẩy xuống hào nghe ngóng, thằng Thanh định nhảy xuống theo tôi tôi liền lấy ta
ra hiệu cho nó ngồi xuống và im lặng. Tôi nghe thấy tiếng sột soạt ngày một gần.
Trong đầu tôi loé lên hay đó là thám báo TQ tập kích. Những cây vầu rung rất mạnh
lá cây xào xạc ở các chốt khác và cả ở dưới bản nữa. Tiếng súng đã nổ rền vang
vọng khắp núi rừng Biên Giới, tôi cũng thấy phấn khích vui vui vì lúc đó đã ngà
ngà rồi, tôi chả thèm quát nhẹ nhàng mở khoá an toàn cho một loạt dê ngang theo
hướng phát ra tiếng động rồi nhảy sang vị trí khác của tuyến hào miệng kêu
to:" Thám báo tập kích". Thế là thôi rồi đủ các loại súng bộ binh của
A2 xả xuống khu vực đó, cả lựu đạn ở trên đỉnh 800 A1 tôi còn nghe thấy cả tiếng
Đại Liên chát chúa giòn tan. Lại thấy khoái, tôi liền mượn gió bẻ măng hô thằng
Trung và Hà mang khẩu Cối 60 ra giá bắn thẳng sang đất TQ hơn chục quả rộ lên.
Tiếng loa ông Hoàng Văn Hoan đang chúc tết im bặt, khi tiếng súng đã dịu đi thì
anh Sử B Trưởng mới chạy xuống A2 và khẩu Cối hỏi cái gì mà bắn ghê thế, thằng
Thanh Trộm và tôi bảo phát hiện ra thám báo tập kích lên Chốt thì bắn và tất cả
anh em ai cũng bắn. Rồi tôi đưa anh Sử ra chỗ thằng Thanh Trộm phát hiện được,
trời tối đen lại chỉ xuống bãi mìn thì bố ai dám xuống mà xác minh Grin Grin
Grin. Đại Đội thì quát om sòm trong máy hữu tuyến cái gì mà B1 bắn ghê thế? Thì
anh Sử B Trưởng cũng chỉ biết trả lời là truy kích thám báo chứ còn biết làm
sao nữa mà cũng thú thật Tôi đã nhìn thấy cái gì đâu. Trời tối thấy thằng Thanh
Trộm nó chỉ mà cũng thấy động thật thì tôi bắn
- Rồi Đại Đội cũng nhắc nhở chúng
tôi gác cẩn thận vì cũng sợ mình ăn tết trước TQ 1 tháng thì TQ cho thám báo
sang tập kích và quấy phá còn Đại Đội hứa mai sẽ lên Chốt chúc tết B1 và kiểm
tra thực địa luôn. Nhắc nhở chúng tôi chuẩn bị số liệu của tất cả các loại đạn
tiêu hao để Đại Đội còn có kế hoạch báo cáo sang Tiểu Đoàn. Đến lúc đó chúng
tôi cũng đã mệt rồi nên bảo nhau đi ngủ. Sáng hôm sau 10 giờ Đại Trưởng cùng
liên lạc và văn thư mới lên đến chốt kiểm tra xem thực hư ra sao. Tôi liền đưa
ra chỗ đoạn hào chiến đấu đó chỉ những cây vầu bị đạn bắn gẫy cùng lựu đạn nổ
xơ xác. Có khi còn cả mìn nổ nữa, tôi liền nói để nắn gân Đại Trưởng:" Anh
cho người xuống bãi mìn xem bọn tôi có tiêu diệt được tên thám báo nào
không". Đại Trưởng lắc đầu ngao ngán nói:" Cái đó thì phải bảo công
binh Trung Đoàn lên kiểm tra mới được". Tôi cười thầm trong bụng mà cái
truyện đêm 30 Tết, thám báo, bãi mìn, còn vui đáo để các đồng chí và các bạn ạ.
Sau này cũng chính tôi cùng thằng Hùng Lùn thằng Trung và Hà suýt nữa phải nằm
lại trong bãi mìn đó đấy ! Tôi sẽ viết sau...
Tết năm 1985 rồi cũng qua đi, nó
là cái Tết thứ 4 trong đời quân ngũ của tôi. Tôi ăn Tết trọn ở đơn vị, những thằng
đồng hương ( Lính Hà Nội ) chúng nó như đi tranh thủ, đi viện, tự giải quyết
phép cho mình về nhà ăn Tết với gia đình dần dần kéo nhau lên đơn vị. Chúng nó
mang lên bao nhiêu là thuốc lào, chè, mì chính, thuốc lá thơm như A Lào, Thạp
Luông, cùng thuốc cảm sốt loại APC để hút thuốc phiện,cùng với điệu nhảy ĐÍTSCÔ
vui ra trò. Chúng tôi cứ ngày ngày nấu cơm ăn tới 3 - 4 bữa, ăn xong lại tập nhảy
cái điệu ĐÍTSCÔ, nó cũng dễ. Chúng tôi san hẳn một cái sân chừng 20 m2 để nhảy,
nhạc thì chỉ có mỗi cây đàn ghi-ta nhưng nó còn có 4 dây, sau còn 3 dây nhưng vẫn
còn có âm thanh từ cây đàn phát ra là được cùng với tiếng phụ trợ thìa, muôi,
bát sắt, mũ sắt, xoong, chậu tất cả các thứ đó phát ra thành một mớ âm thanh hỗn
độn theo nhịp điệu rất kỳ thú. Chúng tôi học nhảy suốt ngày và đêm trừ những
lúc ăn và ngủ.
- Lại nói về bãi mìn, Đại Đội
cũng chịu và hết cách, Trung Đoàn đã trả lời hiện giờ Trung Đoàn không có sơ đồ
bãi mìn của Chốt 800 Đông. Nguồn gốc bãi mìn hỗn hợp, sau tháng 2-1979 khi TQ
rút hết quân, thì E 677 di chuyển từ hướng Trà Lĩnh sang Thông Nông - Cao Bằng
thì Công Binh F 346 lên phối hợp với Công Binh E 677 gài mìn từ cột mốc biên giới
Việt Trung (117 -> 119 ) nhưng toàn lính 76 - 77 - 78 làm. Đến tháng 5-1982
toàn bộ D4 E677 rút về tuyến sau đóng quân ở xã Lương Thông làm quân cơ động
thì bàn giao chốt cho K6 địa phương thuộc quân của tỉnh đội Cao Bằng đã bàn
giao sơ đồ bãi mìn cho lính K6 địa phương rồi. Lính K6 địa phương lại gài thêm
bổ sung nữa, khi K6 địa phương bàn giao lại tất cả các chốt cho chúng tôi nhưng
chưa bàn giao lại bản đồ ( sơ đồ bãi mìn ). Mà lính công binh ở E 677 ngày trước
có tham gia gài mìn thì đã ra quân hết rồi. Nên việc tôi đề nghị Đại Đội cho
người xuống bãi mìn kiểm tra sự kiện đêm 30 Tết ( giao thừa năm 1985 ) mà nghi
là có thám báo TQ tập kích, chúng tôi đã nổ súng để xem thực hư ra sao và có
tiêu diệt được tên thám báo nào không thì Đại Đội chịu nên cũng chẳng dám đả động
gì đến việc chúng tôi làm láo loạn lúc giao thừa, cùng tiêu hao một số lượng đạn
các loại lớn, kể cả lựu đạn ( Mượn gió bẻ măng mà Grin Grin Grin ).
- Giờ đã vào mùa măng rồi, các đồng
chí và các bạn nên nhớ bãi mìn hỗn hợp của 800 Đông bọn tôi nằm ở dưới rừng Vầu
đắng đến mùa này đã có măng. Trời ơi ! Măng ở đó thì thuốc Têtaxilin và thuốc
ký linh phải gọi bằng cụ, nó đắng vô cùng, chúng tôi lấy về luộc lên rồi chấm với
mắm kem ăn ngay. Còn ai mà không ăn quen chỉ cần cắn 1 miếng là nhè ra ngay chứ
chưa nói đến nhai, nó đắng khủng khiếp. Mướp đắng (Khổ qua) chỉ đứng vào hạng
cháu chắt của nó thôi. Thế mà chúng tôi ăn tất, ăn mãi thành quen (Nghiện).
Cũng chỉ vì thiếu rau và đói. Muốn lấy được măng thì chúng tôi phải tự trinh phục,
khám phá bãi mìn hỗn hợp này...
Rừng vầu, bãi mìn chúng tôi tự
khám phá nhưng chủ yếu để lấy măng đắng ăn là chính và lấy vầu để sửa sang lán
trại. Tôi lần mò theo chỗ có tiếng động đêm giao thừa năm 1985 thì thấy có vết
chân ( giày ) cùng những vết máu đã thâm đen xì vương vãi lung tung ở những
thân cây vầu, chúng tôi hoảng quá. Chứng tỏ đêm 30 Tết năm đó có thám báo TQ
lên định tập kích Chốt của chúng tôi thật, khi chúng tôi phát hiện được và bắn
bừa nên chúng tháo chạy, dứt điểm phải có thằng bị chết hoặc bị thương mà chúng
đã lôi được hết về bên kia Biên Giới nên vết máu mới để lại nhiều đến thế. Và
chúng tôi cũng báo cáo việc này với Đại Đội báo cáo thành tích, thành tích đâu
chả được khen lại còn bị khiển trách vì tội tự động xuống bãi mìn. Sau việc đó,
Đại Đội còn ra lệnh cấm chúng tôi không được xuống bãi mìn nữa. Nhưng chúng tôi
kệ, Đại Đội cấm thì cứ cấm còn chúng tôi xuống bãi mìn lấy măng thì cứ xuống.
Mà từ hôm đó chúng tôi tự đề ra lệnh giới nghiêm cho Chốt của mình và thông báo
cho tất cả các anh em trong đơn vị kể cả hậu cần và C Bộ là trước khi đi ngủ
chúng tôi sẽ gài lựu đạn ở đường mòn và tuyến hào lên Chốt 800 cả con đường ở
dưới bãi mìn lên mà chúng tôi khám phá sau sự kiện đêm 30 Tết. Ngày thì chúng
tôi lại gỡ ra, vì thế chúng tôi lại gỡ ra, vì thế chúng tôi cũng chả thèm gác
sách gì nữa. Ngày thì chỉ ăn và tụ tập học nhảy điệu ĐÍTSCÔ rồi khoác súng từng
tốp từng tốp một chia nhau ra đi các hướng để tăng gia kiếm thực phẩm. Những
con nào ở gần bản quá thì bọn tôi cố tình ngã để đè chết. Còn ở xa bản chúng
tôi xả súng bắn thẳng chả nề hà gì cả.
- Rồi đến một buổi chiều, một con
bò của bản Khuổi Rẹp đang lang thang đi kiếm ăn gặp chúng tôi. Tôi liền hỏi
chúng nó có thích ăn thịt bò không, và ăn cả con cơ, nhưng phải mua chứ không
xin được đâu. Nhưng mà mua thì cực kì rẻ, con bò khoảng 1 tạ. Tôi liền bày trò
cho chúng nó, 4 thằng cả tôi là 5 mỗi thằng bẻ 1 cây xạ hương to bằng ngón chân
cái để làm roi, dài khoảng 1,5m ( Loại cây này chắc và dai, có vị thơm ) lùa
lùa con bò vào giáp bãi mìn tôi đi sau đít con bò và dặn chúng nó khi nào tôi vụt
mạnh vào mông con bò nó đau thì sẽ chạy lồng lên về phía trước, thì tao sẽ hô
:" nằm xuống thì chúng mày phải nằm xuống ngay". Y như phương án và kịch
bản tôi đã vạch ra Tôi đứng đằng sau đít con bò, 4 thằng đi 2 bên mỗi bên 2 thằng
cầm roi phất phất cho nó đi thẳng. Khi con bò bị tôi vụt 1 cái đau và bất ngờ
nó lồng thẳng vào bãi mìn khoảng 10m thì chân sau bên trái của nó dẫm ngay vào
1 quả mìn đè nổ (mìn hộp gỗ của Nga). Một tiếng nổ chát chúa vang lên, từ khuỷu
chân sau của nó bay mất, chúng tôi kệ cứ thế bỏ về Chốt chuẩn bị tiền và quần
áo để tối xuống bản mua và đổi. Con bò bị mất một chân còn 3 chân nó vẫn khập
khiễng mò ra khỏi bãi mìn được. Dân thì không phải ngày phiên chợ nên không dám
thịt mà có thịt thì cũng chỉ bán cho lính thôi còn dân ở đây không ăn thịt
trâu, bò, và thịt chó. Nhưng chúng tôi lại không có tiền, tôi liền họp cả B1 khẩu
Cối của tôi, cùng khẩu Đại Liên, cùng nhau nhất trí mua con bò đó, khi nào có
phụ cấp thì sẽ trừ tiền theo đầu người. Tất cả đều nhất trí.
Khi tất cả các anh em ở Chốt 800
nhất trí mua con bò đó, còn B Trưởng của B1 thì không dám đứng lên để lo vụ
này. Tôi liền đứng ra tổ chức, tiền thì không có tôi liền huy động được 5 bộ
quân trang niên hạn trong đó tôi có 1 bộ. Tôi cùng với thằng Lợi A Trưởng A2
lính tháng 3-1983 khoác súng rồi cho 5 bộ quần áo xuống bản Khuổi Rẹp để làm hợp
đồng mua bán. Lúc đó trời đã tối, trước khi đi tôi còn dặn kĩ chúng nó khi mua
xong tôi sẽ bắn 3 loạt súng AK lên trời làm ám hiệu, thì 10 thằng nữa cầm dao
và súng đi xuống bản. Nếu không nghe thấy 3 loạt đạn AK thì coi như việc mua
bán không thành thì khỏi phải xuống. Tôi với thằng Lợi xuống bản vào nhà chủ của
con bò đặt vấn đề mua con bò bị vướng mìn đó thì chủ nhà đòi 1.200 đồng chúng
tôi chê đắt và trả 1.000 đồng chủ nhà không nghe cò kè mãi chúng tôi phải mua với
giá 1.050 đồng. Khi ngã giá xong đến lúc bàn đến tiền, tiền mặt thì chúng tôi
không có nên chúng tôi viết giấy nhận nợ. Toàn bộ số tiền 1.050 đồng đó và đặt lại
5 bộ quần áo bộ đội vẫn mới tinh trị giá 1.250 đồng thì chủ nhà đồng ý ngay vì
vào thời điểm đó chúng tôi bán được 250 đồng/ 1 bộ mà. Và bảo khi nào có phụ cấp
chúng tôi sẽ mang tiền xuống trả và lấy quần áo về. Khi 2 bên đã nhất trí tôi
làm giấy nhận nợ xong thằng Lợi đưa cả ba lô quần áo cho chủ nhà. Con bò mà dân
không hay biết gì về việc đó là do chúng tôi đánh đuổi nó vào bãi mìn, cả hội
lính ở B1 cũng không biết mà chỉ 5 thằng chúng tôi biết với nhau thôi.
- Khi đã hoàn tất các thủ tục,
tôi liền xin chủ nhà nửa bát muối cùng mấy củ gừng. Rồi chĩa khẩu AK ra ngoài
điểm xạ 3 loạt, khi tiếng súng vừa dứt thì những ánh đèn pin đã loang loáng từ
trên Chốt xuống dần. Tôi đoán chúng nó đã nhận được ám hiệu và đang xuống. Tôi
cùng thằng Lợi cầm muối và gừng ra chỗ con bò, nó chỉ còn 3 chân vẫn đứng bên
ngoài bãi mìn. Chủ của nó đã buộc nó vào 1 cái gốc cây bằng cổ tay. Nó vẫn đang
chậm dãi nhai cỏ cùng lá cây rừng. Tôi đi quanh con bò 1 vòng rồi đứng lại trước
mặt nó, hình như nó nhìn thấy tôi chính là thủ phạm đẩy nó vào cơ sự này, nó liền
trợn tròn mắt ngước lên nhìn tôi không chớp. Tôi liền lấy tay vuốt vuốt vào
trán nó và bảo:" Từ từ tao sẽ chữa và hoá kiếp cho mày". 2 hàng nước
mắt lăn xuống khi mắt nó chớp chớp, chắc nó hiểu là nó sắp chết Grin. Khi hội
lính ở Chốt 800 Đông xuống đến nơi, tôi liền hô chúng nó đi nhặt củi gom lại đốt
một đống lửa lớn như lửa trại để lấy ánh sáng rồi thịt bò, lấy than để nướng thịt
ăn luôn. Tôi đưa súng AK cho thằng Thịnh Voi nó bắn 7 viên tất cả, các kiểu và
các thế vào đầu con bò mà nó vẫn đứng trơ ra, trợn mắt lên nhìn mà không chết.
Chả biết làm thế nào cả, chúng tôi lấy dao cứa đứt gân 3 cái chân còn lại của
nó. Nó liền khuỵ xuống lùn tịt, lại thành 4 chân, chúng tôi bảo nhau đẩn nó ngã
lăn kềnh ra đất rồi tất cả xông vào vừa đè vừa giữ để cắt tiết vì lúc đó chúng
tôi có gần 20 thằng cơ. Cắt tiết được thì nó mới chịu chết, chúng nó lột da bò
xong xuôi rồi pha ra từng đùi một. Tôi liền chặt cây vầu tươi lấy đoạn gốc dài
chừng 2m pha đôi ra vót nhọn đầu, xẻo 1 miếng thịt mông to bằng 2 bàn tay xát
muối vào nướng ăn luôn. Sao mà nó ngọt thế, thấy tôi làm như vậy chúng nó cũng
đua nhau làm theo. Khi tất cả đã thưởng thức thịt bò nướng rồi, tôi liền phân
công chúng nó chặt vầu làm đòn khiêng tất cả con bò về nhà A3 kể cả đầu và
xương, da chỉ vứt lại mỗi bộ lòng. Chia ngay trong đêm để anh em chiến đấu luôn
Grin. Thế mà đến chiều hôm sau thịt bò đã hết sạch, chỉ còn da và xương...
- Con bò khoảng 1 tạ hơn 30 người
ăn trong đêm đến hết bữa chiều ngày hôm sau hết sạch. Sang đến ngày hôm sau nữa
là phải ăn đến da và xương rồi.
Khi ăn hết con bò mà mua được rẻ ở
bản Khuổi Rẹp, khẩu đội Cối 60 của tôi lại được nhận thêm 1 lính mới, lính Hải
Hậu ( Hà Nam Ninh ) Tháng 3-1985. Đại Đội cho phép chúng tôi làm nhà ( lán ) ra
ở riêng chứ không phải ở chung với A2 của B1 nữa. Chúng tôi làm nhà ở sát trận
địa cối nhà 2 gian nửa chìm nửa nổi, còn cơm vẫn thổi ăn chung cùng A2 B1. Khi
đã làm gần hoàn thiện nhà rồi chỉ còn ken kín vách nhà là xong, sáng hôm đó
tôi, Hà, Trung 3 thằng xuống bãi mìn chặt cây vầu về pha nhỏ ra để ken vách.
Khi mỗi thằng đã chặt được một vác lên rồi ở nhà những thằng còn lại có nhiệm vụ
pha ra chúng tôi lại xuống bãi mìn chặt chuyến nữa. Chúng tôi 3 thằng chặt vầu ở
sát nhau để còn hỗ trợ cho nhau thì một tiếng mìn nổ chát chúa vang lên ở đỉnh
800 Đông A1 chỉ còn cách chỗ chúng tôi lấy vầu và măng chừng 20m nhưng trong rừng
vầu rậm rạp chúng tôi không nhìn thấy gì cả. Tôi nghĩ bụng chắc có thú rừng vướng
mìn rồi, khả năng lại có chất tươi. Đúng lúc đó có tiếng kêu ở hướng vừa phát
ra tiếng nổ:" Cứu em với các anh ơi...!" Tôi giật mình, chết bỏ m...ẹ
lính mình dính rồi, khi lần thứ 2 nó kêu lên tôi nhận ra tiếng thằng Thanh Trộm
ở A1. Tôi vẫy tay bảo thằng Trung và Hà ra khỏi bãi mìn nhanh chóng cùng tôi chạy
nhanh lên đỉnh 800 Đông chỗ A1, khi 3 thằng chúng tôi chạy lên đến nơi nhưng
không thấy gì cả chỉ có tiếng kêu cứu ở dưới bãi mìn của thằng Thanh Trộm. Thằng
Hùng Lùn cũng chạy lên đến nơi, chúng tôi gọi hỏi thằng Thanh Trộm đang ở chỗ
nào thì mới biết đường xuống cứu nó được. Nhưng nó không định hướng được chỗ
nào cả chúng tôi hô to bảo nó túm lấy cây vầu mà rung chúng tôi thấy động thì sẽ
phát hiện được chỗ nó đang nằm. Đúng lúc đó thì thằng Chắt từ trong bãi mìn đi
lên tuyến hào chiến đấu mặt tái mét không còn giọt máu. Chúng tôi mới hỏi nó
mày cũng đi với thằng Thanh Trộm à ( vì 2 thằng này hay đi cùng nhau, chúng nó
khá thân ). Nó bảo vâng, tôi hỏi dồn:" Thế mày có biết chỗ thằng Thanh Trộm
bị dính mìn không" Nó bảo em có vì nó cùng thằng Thanh cùng ở A1 xuống bãi
mìn lấy măng, không may dẫm phải mìn khi mìn nổ nó đứng ở cách chỗ thằng Thanh
đứng hơn 3m, nhưng nó không sao.
- Tôi, thằng Hà và Trung ở khẩu Cối
cùng thằng Hùng Lùn bắt thằng Chắt phải đưa xuống bãi mìn chỗ thằng Thanh Trộm
đang nằm kêu gào ở đó, miễn cưỡng nó phải đưa chúng tôi xuống bằng đường nó đã
đi lên, nhưng nó không dám đi trước mà đòi đi sau cùng. Tôi liền tặc lưỡi bảo:"
Thế cũng được nó đi sau nhưng vẫn chỉ được đường là được". Tôi với thằng
Hùng Lùn còn vót que vầu nhọn đầu để suốn dò mìn, chúng tôi vô hiệu hóa được 7
quả mìn vướng nổ, sau que vầu gẫy chúng tôi lấy thông nòng súng bắn tỉa làm suốn
để dò mìn. Khi vào đến nơi tôi thấy thằng Thanh bị mất chân trái từ đầu gối trở
xuống, nách trái nát bươm xơ xác, môi xưng vù, mắt nhắm tịt, miệng kêu gào thảm
thiết. Máu ở chân tuôn ra xối xả, Tôi liền xé vạt áo Ga-rô tạm cho nó rồi phân
công thằng Chắt phải cõng thằng Thanh. Thằng Trung và Hà đi trước để cho thằng
Chắt bám vào người, còn tôi với thằng Hùng Lùn đi sau để đỡ 2 chân thằng Thanh
lên, không để chân của nó lê sát đất, cứ theo đường lúc nãy đi vào mà ra cho chắc
ăn.
- Nhưng trên đường đi ra được hơn
3m thì một tiếng nổ lại vang lên, tai tôi ù đi mắt hoa lên không nhìn thấy gì
toàn đom đóm trước mặt, ngực tức khó thở. Trong thời gian đó tôi mụ mị, mê đi cảm
giác như đang bay trên không trung, người tôi bị bay về phía sau...
Một tiếng nổ nữa lại vang lên tôi
bị hất ngược về phía sau mê man, mụ mị, tai u đặc, mắt hoa lên, tối sầm lại.
Trong khoảnh khắc đó tôi thấy trên đỉnh 800 Đông có tiếng gọi í ới, hình như rất
nhiều người gọi làm xôn xao, láo loạn cả đỉnh Chốt 800. Rồi tôi thấy có người
lay lay tôi và gọi:" Anh thịnh... anh Thịnh" gấp gáp. Tôi từ từ hồi tỉnh
mở mắt ra thấy mờ mờ, thấy Hà đang gọi tôi, nó đỡ tôi ngồi, bên cạnh tôi thằng
Trung cũng đang lay và gọi đỡ thằng Hùng Lùn dậy. Tôi lờ đờ đảo mắt quan sát,
nhưng hình ảnh đập vào mắt tôi vẫn mờ mờ ảo ảo. Tôi cất tiếng yếu ớt hỏi thằng
Trung với thằng Hà:" Chúng mày có làm sao không?". Chúng nó
đáp:" Bọn em không sao cả ". Bên cạnh tôi thằng Hùng Lùn cũng từ từ tỉnh,
tôi lại quan sát khắp người tôi và thằng Hùng Lùn may quá cả 2 thằng không bị
làm sao cả chân tay vẫn còn nguyên, phúc đức quá. Trên đỉnh 800 Đông tôi thấy
tiếng gọi càng lúc càng to có cả tiếng của Đại Đội Trưởng và Y tá Đại Đội là có
ai bị sao không? bao nhiêu người ở dưới đó?. Tôi với Hùng Lùn chưa nói to được,
tôi bảo thằng Trung trả lời cho hội bên trên đỡ lo. Thằng Trung liền gọi to để
trả lời:" Thằng Chắt lại dính rồi, còn anh Thịnh và anh Hùng chỉ bị ngất
thôi nhưng không sao đang tỉnh rồi". Tôi thấy ngực đau vô cùng, những vẫn
cố bảo thằng Trung và Hà di chuyển ít thôi vì đây là bãi mìn, quan sát lại kĩ
xem thằng Hùng Lùn và chúng mày có bị sao không, rồi từ từ tôi cũng đứng được dậy,
mắt đỡ hoa. Tôi quan sát kĩ thằng Chắt cõng thằng Thanh, hai thằng đang nằm cạnh
nhau bắt đầu tỉnh rồi kêu gào thảm thiết. Hóa ra thằng Chắt dẫm phải mìn cũng
chân trái, từ đầu gối trở xuống cũng bay mất, nách trái nát bươm, hai mội sưng
vù lại, mặt đen sì nhìn có vẻ bị thương nặng hơn thằng Thanh vì khi quả mìn nổ
thằng Chắt đang ở tư thế khom người cõng thằng Thanh nên đổ vật luôn xuống tại
chỗ. Còn tôi và Hùng Lùn đi sau bị lực thổi trực diện vào bụng bị hất ngược về
phía sau hơn 3m và lại rơi vào đúng hố mìn cũ mà thằng Thanh Trộm dẫm phải. Tôi
nghĩ bụng:" Quái lạ vẫn cái đường đấy 5 thằng chúng tôi đi vào đã vô hiệu
hóa được 7 quả mìn vướng nổ rồi và vào đến nơi an toàn. Khi đi ra cũng con đường
ấy thằng Hà và Trung đi trước để đỡ tay thằng Thanh và cho thằng Chắt bám vào để
đi mà không dẫm phải mìn, mà thằng Chắt cõng thằng Thanh đi ở giữa lại bị dẫm
phải mìn mới lạ ! Tôi lại xé vạt áo Ga-rô chân cho thằng Chắt, 2 thằng chúng nó
đã tỉnh hẳn, dẫy dụa, kêu gào thảm thiết lắm. Trên đỉnh 800 Đông Đại Đội Trưởng
cứ hò hét quát tháo loạn cả lên. Y tá thì tất tả nhờ anh em B1 lấy dây, vỏ chăn
để buộc võng cáng, chuẩn bị đòn để khiêng. Tôi an ủi thằng Thanh và Chắt:"
Yên trí, không sao đâu, chúng mày chỉ bị thương nhẹ thôi". Rồi tôi ngồi phệt
xuống đỡ đầu chúng nó lên cho gối vào đùi và chân tôi. Chúng nó vẫn cứ kêu gào.
Thảm thiết lắm !
Ở trên đỉnh Chốt Đại Trưởng liên
tục quát, giục chúng tôi đưa chúng nó lên khỏi bãi mìn. Rừng vầu rậm rạp quá,
không nhìn thấy nhau nhưng nói với nhau chúng tôi vẫn nghe thấy. Tôi điên tiết
cãi ( quát ) lại cả Đại Trưởng:" Anh Cho người xuống đây đưa chúng tôi lên
đi bị thương hết rồi, 2 thằng đang nằm tại chỗ đây này". Từ lúc đó Đại Trưởng
mới không dám quát và giục nữa, tôi nghĩ bụng:" Cử ai? Bố bảo thằng nào
dám xuống ngoài chúng tôi ra". Nhưng chúng tôi đã ở hết dưới bãi mìn rồi,
còn đội Công Binh Trung Đoàn thì phải đến tối mới lên tới nơi. Thằng Trung và
Hà đang phụ cho thằng Hùng Lùn cần mẫn tỉ mỉ dò lại mìn để lấy đường ra còn tôi
vẫn yếu. Tôi dính nặng hơn thằng Hùng Lùn vì tôi cao hơn nó mà độ sát thương của
mìn và đạn pháo là hình phễu, chắc các đồng chí và các bạn đã rõ. Tôi vẫn để
chân cho thằng Thanh và Chắt gối đầu lên chúng nó kêu gào ghê quá, cái chân bị
mất của chúng nó còn 1 đoạn xương gióng chân lồi ra nhọn hoắt chắc đau lắm,
chúng nó cứ dơ lên rồi lại hạ xuống cái đầu xương nhọn hoắt ấy cắm phập 1 cái
xuống đất nhìn mà thương đồng đội quá. Ứa nước mắt còn mình chả biết làm gì mà
chỉ an ủi động viên chúng nó thôi :" Yên trí chúng mày chỉ bị thương nhẹ
thôi, không sao đâu".
- Rồi thằng Hùng Lùn cũng tuyên bố
dò mìn xong đường đã thông tôi liền gọi Đại Trưởng cho người xuống cõng người
lên, nhưng chả ai dám xuống cả. Đợi mãi, đợi mãi chúng tôi đành tự thân vận động
thôi lúc đó thằng Thanh và thằng Chắt cũng hết kêu gào chỉ còn những tiếng rên
rỉ khe khẽ. Tôi liền bảo thằng Trung và thằng Hà mỗi thằng cõng 1 thằng còn tôi
với Hùng Lùn mỗi thằng đi sau 1 thằng để đỡ chân thằng bị thương lên. Đường dốc
lá vầu rụng xuống nhiều ẩm ướt, trơn rất khó đi mà thằng Thanh và Chắt lúc đó
chúng nó đã vào hệ thả lỏng toàn thân rồi không còn ôm được cổ thằng cõng nữa.
2 tay thả thõng thuột mà không có thằng nào đi trước để dắt và đỡ thằng Trung
và Hà cả. Một tay chúng nó phải đỡ mông thằng bị thương còn 1 tay phải bám vào
những cây vầu lần đi từng bước 1 rất thận trọng, tôi mới Hùng Lùn đi sau chỉ đỡ
phần dưới của thằng bị thương, lom khom cúi nhiều đau hết cả lưng.
- Rồi chúng tôi cũng đưa được thằng
Thanh và Chắt lên khỏi bãi mìn, khi ra khỏi rừng vầu đến tuyến hào cơ động chiến
đấu tôi thấy trên đỉnh Chốt 800 Đông sao mà đông thế, đồng hương của thằng
Thanh và Chắt rất nhiều, chúng nó mới ùa vào đỡ thằng Thanh và Chắt. Lúc đó tôi
và Hùng Lùn, Trung và Hà do bị sức ép của mìn và trải qua 1 cuộc đấu trí ở dưới
bãi mìn và dò dẫm đưa được thằng Thanh và Chắt ra đã quá mệt (Mất hơn 3 tiếng).
Khi chúng nó đã đón, đỡ 2 thằng bị thương tôi mới thở phào nhẹ nhõm, bước đi lảo
đảo lên đỉnh Chốt, nước mắt trào ra vì sung sướng rồi chả ai bảo ai hình như là
đồng cảm thì phải, tự dưng 4 thằng chúng tôi ôm chầm lấy nhau hét to:" Chúng
ta thoát chết rồi ! Sống rồi !". Rồi chúng tôi thả nhau ra ngồi phệt xuống
thở gấp, Đại Trưởng lúc đó bắt chúng tôi đứng dậy cởi áo ra (Toàn vỏ áo bông và
quần đùi). Để kiểm tra xem có thằng nào bị sao nữa không còn thằng Thanh và Chắt
đã được đưa lên cáng. Y tá Đại Đội tiêm thuốc trợ tim cho chúng nó nhưng quá muộn.
Hai đồng chí đã ra đi (Hy sinh) ngay tại đỉnh Chốt 800 Đông.
Khi y tá Đại Đội tiêm thuốc trợ
tim cho đồng chí Thanh và Chắt xong rồi khẽ khàng nói:" Chúng nó
"đi" rồi". Tôi với thằng Hùng Lùn ngỡ ngàng nhìn nhau lặng người
đi một lát. Thì ra mặt thằng nào cũng đen sạm xám xịt do ám khói của mìn đè nổ.
Đồng chí Chắt nhập ngũ tháng 4-1981 quê Hà Bắc, trong thời gian tại ngũ gia
đình đã cưới vợ vắng mặt cho ( để được chia thêm ruộng ). Nhưng đồng chí đã tự
giải quyết phép cho mình về với vợ 1 lần, còn đồng chí Thanh nhập ngũ tháng
2-1982 quê ở Đại Từ - Bắc Thái ( chưa có vợ thì phải ). Đơn vị đã chôn cất 2 đồng
chí tại sườn núi đá ( sát bản Ái xã Cần Yên - Thông Nông - Cao Bằng ). Chúng
tôi mới tìm hiểu và được biết rất may cho chúng tôi thằng Chắt chỉ dẫm vào mìn
đè nổ, chỉ thằng nào dẫm vào thì chết vì loại mìn này của Liên Xô sản xuất vỏ bằng
gỗ nhưng bên trong có lẫn cả thủy ngân, sự công phá và sát thương tương đối cao
không có mảnh nhưng ai dẫm vào là chết vì thủy ngân ăn vào máu, chạy vào tim.
Chứ còn dính vào mìn vướng nổ to như quả dứa vỏ bằng gang mà đi với đội hình
như thế thì phải dính tất, thật là may mắn cho chúng tôi có phải không các đồng
chí và các bạn.
- Tôi bị hoảng loạn sợ sệt mất
khoảng 1 tuần vì tôi để cho 2 thằng chúng nó gối đầu lên đùi và chân tôi trước
khi chúng nó chết, mà tôi cũng hận hội đồng hương của chúng nó, mà chúng nó có
đi lấy măng đắng về ăn 1 mình đâu chẳng qua đói và không có rau thì phải đi lấy
thôi, khi chúng nó gặp nạn thì không thằng nào dám xuống cứu cả. Sau sự kiện
này anh Hòa C Trưởng bị chuyển đi, anh Lóc C Phó C3 về thay, anh Thành C viên
cũng bị chuyển đi, anh Đời về thay. Còn anh Nghị C phó hậu cần thì đã đi phép
năm, anh Sử B Trưởng B1 cũng bị chuyển đi nốt. Tôi không nhớ được ai về thay
anh Sử làm B Trưởng B1 nữa. Rồi tinh thần tôi cũng trấn tĩnh lại được, mọi suy
nghĩ và hành động của tôi phải cẩn thận hơn, chắc chắn hơn. Tôi luôn bị đau ngực,
khó thở và ho thằng Hùng Lùn cũng có trạng thái tương tự giống tôi. Y tá Đại Đội
liên tục giục tôi với thằng Hùng Lùn xuống trạm xá Trung Đoàn khám. Vì lúc đó
chúng tôi rất cùn ( Cùn không thể mài được Grin ). Chỉ đợi ra quân nói mãi, nói
nhiều quá mà Hùng Lùn nó không muốn đi trong khi đó tôi đã có thương tật trước
rồi. Tôi rủ và động viên mãi Hùng Lùn nó mới chịu đi khám và kiểm tra sức khỏe ở
trạm xá Trung Đoàn cùng tôi.
- Tưởng khám và kiểm tra sức khỏe
khi chúng tôi bị dính mìn mà 2 thằng chết thế nào, các ông ý chỉ bảo chúng tôi
cởi hết quần áo ra, nhìn nhìn săm soi lấy tay ấn ấn nghe tim phổi, đo huyết áp
rồi hỏi chúng tôi tư thế đi đứng trước khi quả mìn thứ 2 nổ ra sao. Tôi với
Hùng Lùn thuật lại y xì sự việc sảy ra khi chúng tôi vào cứu thằng Thanh. Trên
đường quay ra vẫn con đường đó thì bị dính. Các bố ý chỉ ghi ghi chép chép vào
sổ rồi cấp cho chúng tôi mỗi người 1 ít vitamin C và B1 (Tôi nghĩ bụng đói bỏ mẹ
lại còn cấp thêm loại thuốc này). Rồi bảo chúng tôi về đơn vị, tôi liền yêu cầu
ghi thêm vào sổ bệnh án (Thương tật) của tôi rồi 2 thằng cuốc bộ 1 mạch ra chợ
Thông Nông chơi để ngắm gái vì đã rất lâu chúng tôi sống ở trên chốt ít được
nhìn thấy con gái lên thèm. Ra chợ chúng tôi mỗi thằng ăn 1 bát phở thịt lợn,
lang thang ở chợ Thông Nông chán ngắm gái thỏa thích chúng tôi liền bảo
nhau:" Thôi, đủ rồi " Mình đi về chốt.
Khi tôi với Hùng lùn xuống quân y
trung đoàn kiểm tra sức khỏe , được ra chợ huyện Thông Nông ngắm gái 1 trận thỏa thê ( thích cả
mắt ) . Về đến chốt 800 đông trời đã tối mịt nhưng cũng chẳng no vì đèn pin
chúng tôi có đầy đủ . Về đến mỏ nước chúng tôi không quên mỗi thằng xách một bi
đông 5 lít nước lên chốt ( vì khi đi xuống chúng tôi mỗi thằng đã sách 1 cái bi
đông không rồi lém vào bụi cây giấu đi ) . Túc tắc leo mãi chúng tôi cũng lên tới
chốt lúc đó khoảng 9h tối , tôi để bi đông nước xuống ngồi thở và bảo thằng Hà
nấu cơm cho chúng tôi ăn . tình hình biên giới thời gian này khá yên tĩnh , đã
đến cuối tháng 4/1985 rồi , chúng tôi lại được cấp phát thêm quân trang liên hạng
một lần nữa thế là tôi chắc chắn đã có quần áo mới để mặc khi ra quân , còn phụ
cấp thì chúng tôi vẫn chưa được lĩnh lên vẫn chưa thanh toán tiền con bò mua của
dân được , bộ quần áo tôi cắm ở bản vẫn chưa lấy được về . Từ sau sự kiện thằng
Thanh và chắt chết mìn chúng tôi cũng không thằng nào giám xuống bãi mìn nữa ,
mà măng đắng tầm này đã lên cao cũng gần hết rồi .
- sống ở chốt cứ ngày lại qua
ngày chỉ ăn và ngủ chúng tôi chả phải làm cái gì cả phát chán , thỉnh thoảng
tôi lại đầu trò hô 4 đến 5 thằng hạ sơn ( xuống núi ) cùng tôi di kiếm đồ tăng
gia về cải thiện . Vào thời điểm này rau rừng cũng hết măng đắng không còn
chúng tôi lại lấy củ riềng băm nhỏ trưng
với mắm kem để ăn cơm , đến ngày 27/5/1985 lính tháng 3/1981 chúng tôi được ra
quân đợt đầu C1 chúng tôi được bình chọn 2 thằng thì dơi vào lính Hà Nội tất (
Hùng lùn và Quân ngơ ) đến ngày 28/5/1985 những thằng ra quân đợt đầu xuống
Trung Đoàn thanh toán và lấy quyết định ra quân . Chính vì tôi không được ra
quân đợt đầu lên tôi càng bất mãn ra mặt vì tôi cũng là thành phần tích cực chứ
.
- sang đến đầu tháng 6/1985 nhân
ngày hôm đó Trung Quốc lại bắn pháo sang chốt của chúng tôi nhưng không trúng
chốt mà chỉ vượt qua dơi xuống sườn chốt sát bản Khuổi Rẹp ( bản người Hoa ) .
Tôi nghĩ bụng thế là Trung Quốc lại đánh mình hết đường ra quân rồi , tối hôm đó
chúng tôi mượn gió bẻ măng rủ nhau chỉ có khẩu cối của tôi cùng quân A2 , B1
làm vụ này : xuống bản chả phải mua bán gì cả mà tăng gia cả một con bò cắt lấy
4 đùi còn vứt lại tất , mà còn phi tang tạo hiện trường giả sang bên Trung Quốc
để đổ cho thám báo Trung Quốc sang giết trộm bò của bản người Hoa ( khi TQ bán
pháo sang thì dân bản này đã chạy hết còn bò thì ngày đi ăn tối vẫn về gầm sàn
ngủ ) . Lâu lâu không có chất tươi tăng gia được 4 cái đùi bò chúng tôi phấn chấn
hẳn lên có hơn chục thằng chúng tôi ăn vô tội vạ hơn 2 ngày cũng hết . Đến ngày
20/6/1985 tôi được lệnh bàn giao toàn bộ trang thiết bị , súng ống đạn dược cho
thằng Trung và quân trang dùng chung trả cho quản lý Đại Đội ngày mai xuống bản
Cải ( Tiểu Đoàn ) tập trung , còn về gạo chia bình quân mỗi người chúng tôi ăn
bị âm mất hơn 1 tạ quản lý Đại Đội cứ gây khó dễ cho chúng tôi mãi , cứ bắt
chúng tôi phải bù sau hội lính mới và những thằng ở lại chúng nó nhận cho thì mới
êm cái vụ gạo đó sáng hôm sau tôi dậy sớm thổi cơm ăn bữa cơm cuối cùng chia
tay anh em ở khẩu đội cối cùng anh em trên đỉnh 800 đông mặc dù cơm chỉ có riềng
trưng với mắm kem bữa cơm đó tôi nhớ mãi anh em vừa ăn vừa nhìn nhau nhau rơi
nước mắt cảm động quá cơm xong tôi còn dặn chúng nó khi lấy bộ quần áo của tôi ở
bản về ai dùng thì dùng không thi bán di mà tiêu với nhau trong khẩu đội cối bắt
tay nhau lần cuối ồm ghì lấy nhau rồi lại thả nhau ra tôi gạt nước mắt xách ba
lô ( ba lô lộn ) xuống núi không giám ngoái cổ lại nhìn anh em nữa vì giữa người
về và người ở bùi ngùi bịn gịn xúc động quá tôi không cầm nổi được nước mắt các
bạn ạ đằng sau đã có thằng khóc bật lên thành tiếng lên tôi không giám ngoái đầu
lại nữa ..
Chia tay anh em ở đỉnh Chốt 800
Đông tôi xuống đến bản Cải. Trời ơi sao đông thế, toàn tiểu đoàn 4 tất cả lính
tháng 3-1981 và lính tháng 3-1982 tập trung rất đông. Thì ra đợt này ra quân
cùng nhau mặc dù chúng tôi đi lính trước lính 82 1 năm mà giờ ra quân cùng 1 lượt
tất. Chúng tôi được thông báo ở trọ tại bản Cải để còn làm công trình lưu niệm
lại và còn học chính trị bài " Củng cố nền quốc phòng toàn dân đến tối
ngày 27-06-1985 chúng tôi vẫn sinh hoạt bình thường. Hôm nay anh Giang chính trị
viên Tiểu đoàn chủ trì sinh hoạt nhắc nhở chúng tôi:" sau khi đã ra quân rồi
về địa phương phải luôn luôn gìn giữ lại tư cách, phẩm chất của anh Bộ Đội Cụ Hồ
và gửi lời hỏi thăm gia đình". Cuối cùng anh Giang tuyên bố sáng ngày mai,
tức ngày 28-06-1985 tất cả chúng tôi xuống Trung Đoàn thanh toán và lấy quyết định
ra quân.
- Đêm hôm đó, chúng tôi nằm thao
thức mãi hình như chúng tôi có tâm trạng giống nhau. Không thằng nào ngủ được,
mà từ Bản Cải xuống Trung Đoàn chúng tôi đi nhanh cũng phải mất 4 đến 5 tiếng.
3 giờ sáng chúng tôi hò nhau dậy chào dân Bản Cải rồi kéo nhau xuống Trung Đoàn
cứ như là đi hội. Ánh đèn pin loang loáng, những con chó mán mà chúng tôi nuôi
cũng được ra quân tất Grin. Tất cả 5 con chúng cũng vui mừng lúc chạy trước,
lúc chạy sau chúng tôi. Hơn 7 giờ chúng tôi xuống đến Trung Đoàn Bộ. Thủ tục lấy
quyết định và thanh toán tiền, tem, gạo rất nhanh chóng. Khi đã cầm quyết định
trong tay, rồi chúng tôi vào kho vận tải lĩnh quân trang như màn, áo mưa, những
thứ gì mà thuộc về quân trang niên hạn 5 năm là chúng tôi lính 81 được cấp lại
hết. Mà được 80 kg tem X + 10kg gạo cấp ngay tại kho. Còn lính 82 chỉ được 40
kg tem X và 5 kg gạo thôi. Đến trưa chúng tôi ra đến chợ Thông Nông bán tất cả
số gạo lẻ mà Trung Đoàn cấp, đập phá rượu chè 1 trận thỏa thuê ở chợ. Đến chiều
tối cũng chẳng có ô tô vào. Chúng tôi quyết định mua thức ăn vào bản nhờ nấu
cơm ăn rồi sẽ rút ngay trong đêm ( đi bộ ).
- Ăn cơm xong, lúc 9 giờ tối
chúng tôi rút quân vượt đèo Mã Quỷnh hành quân ngay trong đêm mát mẻ. Mà được về
với gia đình, được về với mẹ nên thằng nào cũng khí thế, không ai kêu mệt cả. Mấy
con chó chắc chúng biết sắp được về thủ đô cũng hớn hở ra trò. Xuống đến mỏ sắt
thì không có phà trong đêm, Tôi với thằng Minh mía cởi hết quần áo ra bơi sang
bên kia sông lấy cái mảng sang, rồi đưa chúng nó qua sông bằng cái mảng tre ấy.
Chúng tôi đi qua cầu Nậm Thoong thì trời đã tảng sáng. Có ánh đèn xe ô tô,
chúng tôi vẫy xe ô tô dừng lại. Hóa ra đó là xe của E 677 ( Trung Đoàn mình )
ra sư đoàn lấy hàng. Chúng tôi đi nhờ xe ra đến đường rẽ vào Sư Đoàn được vài
km nhưng vẫn tốt chán. Xuống xe ô tô chúng tôi đi qua trạm vệ binh Sư Đoàn ngon
lành. Hàng TQ ( Tâm lý chiến ) thì không có mấy, nhưng chúng tôi mang lựu đạn về
thì nhiều, hầu như ai cũng có, cứ cho vào cóc ba lô. Khi vệ binh khám cứ bỏ hết
quân trang ra rồi 2 tay túm vào cóc ba lô giữ lựu đạn lại rồi dốc ngược ba lô
xuống là xong. Ra đến thị trấn Nước Hai ( Hòa An ) chúng tôi ăn uống ở đó thì
đã là trưa rồi. Có 1 xe tải zin 130 biển Hà Nội chạy vào, chúng tôi hỏi đi nhờ
ra thị xã Cao Bằng. Nếu xe về Hà Nội thì cho chúng tôi về luôn. Chúng tôi lên
đông quá, lại có cả chó nữa nên lái xe chơi đểu, chở chúng tôi quay lại trạm vệ
binh Sư Đoàn giao cho vệ binh. Lằng nhằng một hồi lâu rồi cũng giải quyết xong
vì chúng tôi toàn là lính ra quân. Tất cả chỉ có những ai mang chỉ có những ai
mang chó về thì phải xuống xe, vì tay lái xe bảo kiêng không chở chó. Tôi đi nhờ
được xe ô tô từ Nước Hai ra thị xã Cao Bằng thì trời đã về chiều. Chúng tôi tản
mát mỗi người 1 nơi mạnh ai nấy đi. Hẹn nhau tối ngày 02-07-1985 sẽ gặp nhau ở
Cổng đền Ngọc Sơn ( Hồ Hoàn Kiếm ). Ngay trong đêm đó, chúng tôi đi nhờ được xe
tải về Thái Nguyên, trời gần sáng tôi vào bến xe Đồng Quang, may quá nhảy được
lên xe về Hà Nội chuyến đầu tiên. Khi xe về đến phố Ái Mô ( Gia Lâm ). Tôi thò
đầu ra khỏi xe quan sát thầm nghĩ:" Sắp về đến nhà rồi " Bỗng một
phát pháo hiệu bên Hà Nội bắn lên rồi bên Gia Lâm 1 phát nữa, tôi ngơ ngẩn chưa
hiểu việc gì thì mọi người bảo:" Hôm nay thông cầu, cắt băng khánh thành cầu
Chương Dương ". Khi xe ô tô đi vào cầu Long Biên thì tôi thấy cầu Chương
Dương đông nghịt người. Thì ra ngày tôi về đến nhà là ngày cuối cùng ô tô được
đi cầu Long Biên. Tôi về đến nhà vào khoảng 9 giờ sáng ngày 30-06-1985 chấm dứt
đời quân ngũ của tôi theo quyết định đúng 4 năm 3 tháng tuổi quân phục vụ nơi
Biên Giới phía Bắc của tổ quốc.
---------------------------*** Hết ***
-------------------------------
Khi tôi xách cái ba lô lộn trên
đường về nhà trong đầu luôn nghĩ sẽ không bao giờ trở lại cái nơi khỉ ho cò gáy
này nữa, cái nơi mà đã chôn vùi tuổi thanh xuân của tôi, cái tuổi đầy thơ mộng,
lắm hoài bão cùng bao ước mơ của 1 con người khi đã trưởng thành và biết nghĩ.
Về đến nhà lại rơi đúng vào thời
điểm đất nước ta đang có nhiều biến đổi lớn như: giảm biên chế ở tất cả các cơ
quan và xí nghiệp ( Giá - Tiền - Lương ). Quốc gia đang bị khủng hoảng về kinh
tế lớn, xóa bỏ bao cấp ( đổi tiền ) toàn những sự kiện lớn sảy ra. Tôi loay
hoay mãi đi nhờ vả gõ cửa rất nhiều cơ quan đều bị từ chối vì đang giảm biên chế.
Tôi không sao kiếm được việc làm vì không có trình độ và bằng cấp. Tôi tự an ủi
mình ( Con quan thì lại làm quan, con sãi ở chùa lại quét lá đa vậy ). Theo nghề
của bố vậy mà cái nghề này trước khi đi lính tôi cũng đã làm rồi nên cũng chả
ngại lắm. Các bạn cùng đơn vị nhiều đứa đã kiếm được việc làm ở các cơ quan tử
tế. Một số đứa đi xuất khẩu lao động ở các nước xã hội chủ nghĩa ( nhà chúng nó
có tiền lo lót, chạy trọt ). Còn tôi lật đật kiếm ăn bằng nghề xích lô và cửu vạn
để giúp đỡ gia đình ( phụng dưỡng cha mẹ già và nuôi các em nhỏ ) và chuẩn bị vật
liệu để làm nhà vì lúc đó nhà tôi là nhà tranh vách đất, mà ở Hà Nội tôi nói ra
điều này chắc nhiều đồng chí và các bạn không tin đâu nhỉ ? Nhưng sự thật đúng
là như vậy đấy các bạn ạ !
- Tôi làm xích lô - cửu vạn đến
cuối năm 1988 khi Biên Giới hai nước Việt -Trung hết căng thẳng ( đã đình chiến
) và đã cho nhân dân hai nước qua lại giao lưu, buôn bán, trao đổi hàng hóa (
Thông thương ). Tôi bỏ nghề xích lô, cửu vạn, lại xách chiếc ba lô lộn ngược
lên Biên Giới Phía Bắc buôn bán hàng Trung Quốc, tôi đi hướng Lạng Sơn. Thị trấn
Đồng Đăng ngày đó vẫn thưa thớt và hoang tàn lắm. Xe ô tô chỉ mới lên được đến
ngã ba điểm giao nhau ở quốc lộ 1A và đầu đường 1B đi Khánh Khê thôi. Tôi hay
đi đường đài 06 đoạn bản Cốc Nam đi lên và đường qua khe Quýt vào Hang Dơi, 2
con đường này đều vào được Lũng Vài của Trung Quốc. Ngày đó đường đi vẫn rậm rạp
lắm và còn rất nhiều mìn của ta và Trung Quốc. Tôi cũng tham gia tháo dỡ được 1
số mìn vướng nổ ở ven đường và tạo ra những con đường mòn mới để cho dân mình
đi lại dễ dàng hơn ( Hình như thời điểm đó quân đỏ mình đã rút hết - quân xanh
đã lên thì phải ).
- Tôi muốn hỏi nhỏ để tham khảo ý
kiến của các đồng chí cùng các bạn cùng ban quản trị và các thành viên Quân sử
VN. Hồi kí biên cương viết về đời lính của tôi đã viết hết rồi, tôi có nên viết
tiếp đoạn sau khi tôi đã về làm dân thường không nhỉ ? Mỗi thời điểm, mỗi cuộc
đời một số phận khác nhau nếu viết tiếp ở Topic này, trang này thì có sai với
thể lệ và quy định " Một thời máu và hoa " không. Smiley
Chờ ý kiến của các đồng chí và các bạn !
Chuyện tình nơi Biên Giới!
Tôi muốn viết lên đây một chuyện
tình của người lính nơi Biên Giới phía Bắc của Tổ Quốc,thật 100%.Tôi không biết
viết văn,ngày còn nhỏ đi học tôi học rất kém,chỉ được 3 hoặc 4 điểm thôi.Nhưng
giờ tôi vẫn cứ thích,viết có đoạn nào không thực tế,lủng củng quá mà các đồng
chí và các bạn đọc thì đừng cười,hãy thông cảm cho người CCB (người lính nơi
biên cương) như tôi nhé!
Anh sinh ra va lớn lên trong một
gia đình nông dâ ở vùng bán sơn địa (Kim Bôi Hòa Bình),được học hành đến nơi đến
chốn,ở một vùng bán sơn địa như thế vào thời điểm đó học hết lớp mười như anh
là rất hiếm.Anh có mặt ở E bộ binh 677 từ ngày mới thành lập,anh ở ban hậu cần
của E bộ,khi tình hình Biên Giới căng thẳng E 677 được điều động lên bảo vệ Huyện
Trà Lĩnh Cao Bằng cửa khẩu Phai Cạn.Nhưng chủ yếu là bảo vệ mỏ Măng Gan ở Trà
Lĩnh.Tháng 5/1978 ngày sinh nhật Bác Hồ chi đoàn E 677 có tổ chức buổi liên
hoan văn nghệ mừng ngày sinh nhật Bác,kết hợp với chi đoàn địa phương,muốn buổi
liên hoan văn nghệ đạt được kết quả tốt thì phải có thời gian luyện tập và phải
tìm ra được những người mạnh dạn hay hát (cây nhà lá vườn mà,lính thường có
câu,hát hay không bằng hay hát).Thế là đội văn nghệ Quân dân kết hợp được hình
thành,anh cũng có mặt trong đội văn nghệ đó,vì anh có một giọng hát rất cao,ấm
áp và truyền cảm.Ở chi đoàn địa phương có một nàng sơn nữ,với một khuôn mặt
tròn chĩnh,đôi mắt lúc nào cũng lúng liếng,đen nhánh,nước da trắng hồng mịn
màng,dáng người nhỏ nhắn trông rất dễ thương.Nàng có một giọng hát trong trẻo
cao vút,nàng đúng là một sơn nữ,một bông hoa giữa núi rừng Việt Bắc.Anh và nàng
được chọn làm một cặp song ca tập những bài hát như :Gửi em ở cuối sông Hồng,
Tiếng hát giữa rừng Pắc Pó.Những ngày tập văn nghệ đó,đêm hôm chàng đốt đuốc
soi đường cho nàng về bản,khi nàng nhẹ nhàng lên hết những bậc thang của nhà
sàn rồi thì chàng mới quay về đơn vị vừa đi vừa hát.Tình cảm của chàng và nàng
từ đó bắt đầu nảy sinh(yêu nhau).
Liên hoan văn nghệ năm đó đơn vị
có rất nhiều tiết mục hay và có ý nghĩa để chào mừng ngày sinh nhật Bác Hồ.Những
tiết mục của E 677 đến cuối năm khi hội diễn văn nghệ cấp sư đoàn được giải nhất.Chàng
và nàng đã có bao nhiêu hứa hẹn,dự định cho tương lai sau này,nhưng sự đời thật
trớ trêu vì anh đang là lính mà lại là lính Biên Giới,gia đình bố mẹ thì ở
xa,đơn vị cũng không đồng tình cho lắm vì anh là lính mà.Chàng và nàng yêu nhau
say đắm,đã đến độ chín mùi,loay hoay mãi chưa biết lo liệu tính toán thế nào
thì cái ngày 17/2/1979,một cái ngày tất cả toàn quân và dân ở khu vực Biên Giới
phía Bắc của Tổ Quốc không thể nào quên được đó nổ ra...!
Khi cái ngày 17-02-1979 nổ ra,
quân TQ ào ạt tấn công trên toàn tuyến Biên Giới Phía Bắc thì ở hướng Trà Lĩnh
- Cao Bằng ta có mỏ Măng Gan. Nên quân TQ bằng mọi giá phải chiếm cho bằng được
nhất là cao điểm 815. Ngay từ ngày đầu tiên quân TQ đã chiếm được cao điểm 815,
còn mỏ Măng Gan C1 D4 E677 lúc đó do anh Tấn là C Trưởng quyết chỉ huy đơn vị tử
thủ cùng 1 C tự vệ mỏ để bảo vệ mỏ. Chiều hôm đó E677 mất liên lạc với Sư Đoàn
E677 liền cử D6 phản công tái chiến lại cao điểm 815 đến chiều tối quân TQ bị
E677 đánh hất lại cả bên kia Biên Giới. Sang ngày hôm sau quân TQ lại chiếm được
cao điểm 815 còn mỏ Măng Gan chúng quyết chiến bằng được, bao nhiêu cuộc tiến
công của chúng đều bị D4 nhất là C1 bẻ gãy Smiley. Tới ngày thứ 3 và thứ 4 ta
và chúng dành giật nhau từng đoạn hào, góc mỏ một. Sang đến ngày thứ 5 thì E677
bị 1 cánh quân TQ đánh thọc từ phía sau lên, bị bất ngờ và cô lập, xung quanh tứ
phía đều là địch lại không liên lạc được với sư đoàn, quân ta hi sinh và bị
thương vong nhiều ( có cả một số đồng chí bỏ đơn vị ) quân số bị hao hụt đáng kể.
Để bảo toàn lực lượng đơn vị cho bộ đội rút lên núi ( lúc đó E677 cô lập hoàn
toàn) không kháng cự nữa.
- Khi quân TQ không vấp phải sự
kháng cự của ta nữa thì chúng cứ thẳng quân tiến về phía sau. Thì anh mới mò
vào bản tìm nàng vào một buổi sáng sớm. Thì Ôi thôi! Nàng thì chả thấy! Bản thì
tan hoang chả gặp một ai để mà hỏi thăm. Đâu đó mùi sú uế của người cùng súc vật
chết nồng nặc. Thì ra dân bản đó đã đi chạy loạn hết rồi làm gì còn ai nữa. Anh
liền loé lên một ý nghĩ nhắn tin cho nàng. Một cách nhắn tin tôi nói ra chả ai
tin nhưng nó lại là sự thật mà rất đơn giản ( anh nhặt một que củi đang cháy viết
lên cánh cửa nhà sàn của nàng một dòng chữ " Anh còn sống nếu em về...hãy
tìm anh ). Rồi chàng lại nhanh nhẹn rút lên núi cùng đơn vị sống ẩn dật qua
ngày vì lúc đó quân TQ đã tiến vào đất ta khá sâu rồi. Kể cả Thị Xã Cao Bằng
cũng rơi vào sự khống chế của quân TQ. Mà cả E677 và E246 cả E bộ 346 vẫn nằm ở
Nước Hai và Biên Giới.
- Sau sự kiện đó khi quân TQ rút
hết quân thì E677 mới củng cố lại và được điều động từ hướng Trà Lĩnh sang hướng
Thông Nông - Cao Bằng. Chốt giữa vị hướng này, ta đã sai lầm bỏ ngơ nên hai
Quân Đoàn của TQ ( quân đoàn 41 và 42 ) Tiến sang như chỗ không người. Không vấp
phải sự kháng cự của ta mấy nên chúng mới xuống được Thị Xã Cao Bằng nhanh đến
thế.! Sang đến Thông Nông E677 mới bắt tay vào làm doanh trại, vạch ra phương
án tác chiến sát với địa hình thực tế, xây dựng hầm hào công sự, bình xét công trạng
trong chiến đấu kỷ luật các đồng chí vô kỉ luật bỏ đơn vị trong chiến đấu, tổ
chức huấn luyện Tân Binh. Thì một ngày vào buổi chiều anh nhận được tin của vệ
binh...
Khi đồng chí vệ binh vào ban hậu
cần của E Bộ báo tin cho anh, có 1 người con gái rất đẹp muốn gặp ( lúc đó anh
là tài vụ Trung Đoàn ). Chắc cô bé ở Ngân Hàng huyện gặp anh để làm việc về
công tác tài chính nhưng sao lại muộn như thế này ? Rồi anh cũng thong thả đi
ra cổng E Bộ, nơi mà đơn vị đặt trạm vệ binh để kiểm soát những người ra vào E
Bộ. Khi đi hết đoạn cua thì nhìn thấy trạm vệ binh ngay. Nàng đang đứng tần ngần
dáng vẻ mệt mỏi hai tay mân mê tà áo chàm, bẽn lẽn ngượng ngùng vì bị cậu vệ
binh trêu chọc. Khi chàng và nàng nhìn thấy nhau, chả ai bảo ai cả hai người
cùng hét lên rất to và lao vào ôm chầm lấy nhau. Cậu vệ binh ban nãy còn chọc
ghẹo, giờ chả hiểu sao thấy chàng và nàng ôm nhau quấn quýt thì ngượng ngùng
quay mặt đi. Những giọt nước mắt của nàng rơi xuống làm ướt hết ngực áo chàng,
đôi vai nhỏ bé, tròn lẳn của nàng khe khẽ rung lên. Chàng chả biết nói gì cả chỉ
biết ôm chặt nàng vào lòng, để nàng khóc cho vơi đi niềm xúc động. Tối đó cả
ban hậu cần của E bộ tíu tít đón khách vì nàng là khách đặc biệt của E bộ.
- Khi ăn cơm tối xong xuôi nàng bắt
đầu kể: Khi trời còn chưa sáng hẳn TQ đã bắn pháo sang nhiều tiếng nổ rất to,
trong bản cũng bị đạn pháo rơi vào. Tất cả gia đình nàng và dân bản hoảng loạn
chạy vào hang núi đá để trú. Khi quân TQ kéo quân sang vừa đi vừa thổi kèn, tiếng
súng giao tranh loạn xạ. Gia đình nàng cùng dân bản cứ thế kéo nhau ngược núi
mà chạy về phía sau. Chạy mãi, chạy mãi tới lúc đói thì bứt lá rừng, đào củ mà
ăn, gặp các nhà dân ở các bản hẻo lánh thì thông báo cho họ biết là quân TQ
đang đánh xuống để cho họ chạy và xin ăn. Chạy liên tục cho tới khi không còn
nghe thấy tiếng súng nổ nữa thì mới nghỉ để kiếm cái ăn, ăn xong lại chạy tiếp
cứ thế lại ngày qua ngày. Rất may cả gia đình nàng không ai bị sao cả. Đến khi
được tin TQ đã rút hết quân thì phải mất tầm 1 tháng gia đình nàng cùng dân bản
mới bảo nhau về nhà. Ôi! Bản làng xơ xác, tài sản mất hết. Trâu, bò, lợn thì mất
hết, gà thì còn một số ít, nàng nghĩ đúng loạn lạc. Khi nàng nhẹ nhàng bước lên
hết bậc thang nhà mình mà chàng viết nhắn lại ( Anh còn sống nếu em về...hãy
tìm anh ). Nàng dọn dẹp qua loa nhà cửa mà tâm trí lúc nào cũng nghĩ đến chàng.
Từ lúc nàng nhìn thấy dòng chữ đó lòng cứ bồn chồn và nghĩ không biết những
dòng chữ đó chàng viết lâu chưa, hay mới viết hôm qua. Chiến tranh biên giới sảy
ra kéo dài hơn 1 tháng cơ mà. Không tìm được lời giải đáp nàng quyết định vào
đơn vị tìm chàng. Khi vào đến đơn vị hỏi thì nàng mới biết E677 của chàng đã
chuyển đi nơi khác, còn đơn vị này mới về thay. Nàng tự trách mình đã nghĩ sai
về chàng và lại lo cho chàng! Không biết chàng còn sống hay không? Dòng chữ đó
đã viết từ bao giờ? Lòng quyết tâm đi tìm chàng lại càng dâng cao trong nàng..
Hơn 1 tháng loạn lạc đã qua, quân
TQ đã rút hết. Gia đình nàng cùng bà con dân bản đã bảo nhau về nhà. Nhà cửa ruộng
vườn tan hoang, tài sản mất hết, trâu bò lợn mất sạch. Gia đình nàng cùng bà
con dân bản bắt tay vào làm vệ sinh dọn dẹp làng bản. Bộ đội hoá học phun thuốc
khử trùng, khi công việc đã tạm ổn thì nàng quyết định đi tìm chàng. Nhưng tìm
chàng ở đâu? Dòng chữ kia đã viết lâu chưa ? Liệu chàng có còn sống không ? Đơn
vị E677 của chàng đang đóng quân ở đâu ? Không ai có thể trả lời được những câu
hỏi đó cho nàng. Lo lắng cho chàng, rồi những ngày chạy loạn khiến nàng gầy và
xanh đi trông thấy. Rồi có người mách bảo nàng muốn đi tìm chàng thì hãy xuống
F346 hỏi xem E677 hiện giờ đang đóng quân ở đâu thì biết ngay. Nàng thầm
nghĩ:" Phải rồi! Thế mà mình không nghĩ ra " Nàng thốt lên vui sướng.
Nàng quyết tâm đi tìm chàng, Nàng xuống F346 lúc đó vẫn đóng quân ở Nước Hai (
Hoà An ). Nàng tìm vào đội văn công sư đoàn nhờ các anh ý hỏi hộ tin về E677 vì
nàng chỉ biết mỗi đội văn công sư đoàn thôi. Vì lần hội diễn văn nghệ đợt cuối
năm vừa rồi chàng và nàng có đi hội diễn, nên 1 số người ở đội văn nghệ sư đoàn
346 vẫn nhớ nàng. Nàng giãi bày tâm sự, vừa nói vừa rơi nước mắt, nghẹn ngào !
Thông cảm cho nàng một tình yêu đẹp. Các anh trong đội văn nghệ sư đoàn cũng
không nỡ bông đùa nàng và cho nàng biết ngay là E677 hiện giờ đang đóng quân ở
Thông Nông. Sáng hôm sau nàng tiếp tục cuộc hành trình đi tìm chàng! ( Các đồng
chí và các bạn nên nhớ ngày đó không có ôtô và xe máy đâu nhé. Hoàn toàn đi bộ
đấy! ). Đến chiều hôm đó nàng mới đến được tới E677 thì chàng và nàng mới gặp
nhau như tôi đã viết. Tối hôm đó anh em trong ban Hậu Cần Trung Đoàn vui vẻ đón
tiếp nàng, ông Thuận ( chủ nhiệm hậu cần ) còn nhường cho nàng phòng để nàng
nghỉ ngơi. Chuyện trò tâm sự thoải mái, nàng đã thấm mệt rồi chàng mắc màn cho
nàng đi ngủ, khi chàng vừa thổi tắt ngọn đèn dầu, nàng nhẹ nhàng ngồi dậy ôm
ghì chặt lấy cổ chàng những nụ hôn cháy bỏng nồng nàn. Chàng và nàng trao cho
nhau một hồi lâu mới rời ra được. Chàng đi ra nhẹ nhàng, khép cửa cho nàng ngủ.
Khi nàng đã chìm sâu vào giấc ngủ, ( Vì đi bộ mấy ngày tìm chàng quá mệt ) ban
Hậu Cần E677 mới bí mật sinh hoạt để bàn về chuyện của chàng. Chàng quyết tâm với
ý chí rất cao sẽ kết duyên với nàng sơn nữ đó. Mà gia đình chàng lại ở xa, bố mẹ
lại già yếu cả không đi được nên ban Hậu Cần E677 thống nhất đi đến quyết định,
đơn vị sẽ đứng lên lo tổ chức cưới vợ cho chàng. Anh Quang chủ nhiệm Quân Y (
anh Quang mà có lần Phong Quảng đã nói đến ý ) nhận trách nhiệm đại diện đơn vị
và họ nhà trai làm chủ hôn. Khi đã đi đến thống nhất sáng hôm sau. Ông Thuận E
phó phụ trách hậu cần báo cáo và đề xuất truyện của Chàng với ban chỉ huy E677
và các phương án đã bàn. Ban Chỉ Huy Trung Đoàn nhất trí ngay với các phương án
và cách tổ chức của ban Hậu Cần đã bàn ( lúc đó anh là tài vụ Trung Đoàn ).
Ban chỉ huy Trung Đoàn 677 đã nhất
trí lo cưới vợ cho chàng. Ngay ngày hôm sau Trung đoàn cấp 1 xe ôtô GÁT 66.
Quân nhu cấp thuốc lá, kẹo, chè, cùng 1 số người trong Ban hậu cần cùng chàng
và nàng sang Trà Lĩnh ( quê nàng ) để làm công tác hỏi vợ cho chàng. Xe ô tô xuất
phát khỏi đơn vị từ sáng sớm. Ôi! Những con đường vừa trải qua cuộc chiến tranh
tàn khốc với quân TQ vẫn còn nguyên dấu tích, chi chít những hố đạn pháo các cỡ
và hố mìn. chiếc ô tô GÁT 66 lầm lũi ì ạch bò rất khó nhọc mới vượt qua được những
đoạn đường như thế. Chàng và nàng được mọi người nhường cho ngồi trong Ca bin
xe. Những đoạn đường cua gấp và sóc nàng sợ rúm người lại, mắt nhắm tịt, miệng
khe khẽ thốt ra câu " a núi " Tỏ vẻ rất sợ hãi. Chàng nhẹ nhàng luồn
tay phải qua sau lưng nàng, ôm ghì nàng vào ngực chàng. Tay trái chàng đang lồng
vào với tay phải của nàng bóp nhẹ, nàng đỡ run hơn. Anh lái xe cứ tủm tỉm cười
tỏ vẻ thông cảm cho đôi trẻ. Xa xa trên sườn núi, lác đác vài cây đảo nở muộn
hoa đỏ thắm sườn đồi báo hiệu sự hồi sinh của núi rừng Việt Bắc. Những người đứng
ở trên thùng xe thích thú reo hò thoải mái. Xe lắc lư chạy mãi đến qua trưa thì
cũng đến được Bản nhà nàng. Bà con dân bản biết tin tíu tít chạy ngược chạy
xuôi chuẩn bị đón tiếp. Những nồi rượu được nấu khẩn trương, những cô gái bản
vui mừng đùa nghịch, nô đùa ríu rít. Những con gà, con vịt, con lợn mà còn sống
sót không bị quân TQ bắt mang về thì nay chúng bị chết nốt. Đêm liên hoan mừng
ngày hội ngộ và mừng cho chàng bộ đội và nàng sơn nữ diễn ra vui vẻ, những bài
hát của chàng và nàng song ca lại vang lên ấm áp, thướt tha. Trong một bản vùng
cao Biên Giới mãi đến tận đêm khuya mà bà con dân bản vẫn chả ai muốn ra về.
Nhưng rồi cuộc vui nào cũng tàn. Anh Quang đại diện Đơn Vị cám ơn bà con dân bản
và thưa chuyện với gia đình nàng cùng trưởng bản về thủ tục làm lễ kết hôn cho
chàng và nàng. Khi đã đi đến thống nhất giữa đơn vị và chính quyền địa phương,
cùng gia đình nàng ấn định ngày tổ chức, theo đúng phong tục và tập quán của địa
phương và tình hình với nhiệm vụ thực tế của nhà binh ( Bộ đội ).
- Ngày cưới của chàng và nàng
cũng tới. Ở Đơn vị những anh Bộ đội khoẻ khoắn trong bộ quân phục mới sao tiết
chỉnh tề. 1 xe GÁT 66
vẫn được trưng dụng từ Thông Nông
( nơi E677 đóng quân ) sang Trà Lĩnh ( nhà nàng ). Tối hôm đó mới thực sự là
ngày vui của chàng và nàng cùng bà con dân bản. Những cặp thanh niên nam nữ
nhân cơ hội tỏ tình những câu hát lượn cao vút vang lên. Nàng thướt tha trong bộ
áo dài bằng vải chàm, xinh đẹp, luôn nở nụ cười trên môi khi rót rượu mời khách
đôi lúc lại thẹn thùng e lệ. Ai ai cũng trầm trồ khen ngợi " đúng thật là
1 cặp trai tài gái sắc ". Sáng hôm sau đơn vị mới xin phép đón dâu về đơn
vị để làm liên hoan. ( E Bộ hôm đó cũng có bữa liên hoan nho nhỏ ) để mừng cho
chàng và nàng.
- Sau ngày cưới chàng và nàng được
ông Thuận E phó hậu cần nhường cho cái phòng của ông. Chàng được nghỉ phép mấy
ngày ( đi tranh thủ ) chàng đưa nàng về quê ( Kim Bôi - Hoà Bình ) ra mắt thăm
gia đình. Đến cuối năm 1980 chàng được chuyển về làm tài vụ F346 vài năm sau
anh chuyển ngành về Ngân Hàng tỉnh Cao Bằng. Chàng quyết định sống cùng nàng lập
nghiệp ở Cao Bằng không về quê nữa!
*** Câu chuyện này hoàn toàn có
thật, một mối tình nơi Biên Giới của 1 anh Bộ đội cùng nàng Sơn nữ quá đẹp. Hiện
giờ anh vẫn làm việc ở Ngân Hàng tỉnh Cao Bằng còn chị có 1 sạp hàng bán tạp
hoá ( quần áo ) ở chợ Thị Xã. Anh chị có 2 cháu đã lớn đang học đại học.
Hệ thống phòng ngự của cấp E bb.
Bảo vệ biên giới phía bắc.
- Tôi muốn viết bài này lên để
các đồng chí và các bạn xem và đánh giá kể cả thảo luộn luôn nhé. Biên giới
phía bắc nói chung khi vào những năm biên giới Việt Trung vẫn căng thẳng và
luôn xảy ra xung đột, thì cách bố phòng của quân đội ta bài bản thì na ná như
nhau thôi. Với góc nhìn của tôi chỉ dám nói đến hướng phòng ngự của đơn vị tôi
thôi, tức ê677 F346 ở Thông Nông - Cao Bằng. Còn các bạn ở hướng khác như Hà
Tuyên - Lạng sơn - Hoàng Liên Sơn xem để so sánh tôi viết có đúng không nhé rồi
cùng nau thảo luận vì tất cả chúng ta cùng chung 1 mặt trần mà. Biên giơi phía
bắc
- nói đến cấp E bb phòng ngự bảo
vệ biên giới phía Bắc thường là có 3D bb 8c trực thuộc, cùng 3b như hóa học + vệ
binh +xây dựng. giờ tôi nói đến 3D bb trước, Dựa theo địa hình bảo vệ của cấp E
bb bao giờ cũng phân ra làm 2 hướng (Chủ yếu và thứ yếu) Hướng chủ yéu bao giờ
cũng có 1Dbb được biên chế đủ quân tức trên 500 lính. Hướng thứ yếu 1Dbb. Còn
1Dbb nữa luôn nằm sắt E bộ để làm quân cơ động sẵn sàng ứng cứu chi viện cho cả
2 hướng (Chủ yếu và thứ yếu)
- Cấp Dbb tuyến đầu như D4 E 677
của chúng tôi có 3Cbb và 1C cối 82 (hỏa lục) Trực thuọc D bộ có 4b gồm 12.7 ly
+ DKZ 82 + Thông tin + Vận Tải. Nhiệm vụ của Ê 677 chúng tôi là bảo vệ huyện
Thông Nông Cao Bằng.Con đường tỉnh lộ 204 đi từ Trung quốc sang (tháng 2/1979
con đường này Quân đoàn 41 của Trung Quốc tiến sang nhu chỗ không người) Bắt đầu
từ 2 xã biên giới là Cần yên và Vị Quang. Có 2 cao điểm ở sát đường biên giới ở
bình độ 800 nằm ở 2 bên con đường tỉnh lộ 204 Cao Bằng gọi là 800 Đông và 800
Tây nằm sát đường biên giới. Còn ở phía sau nhiều cao điểm nữa như
843+700+759+466.
Phòng ngự trong chiến tranh BGPB
của cấp Dbb.
Ở D4 E 677 chúng tôi ở tuyến đâu đảm nhiệm bảo
vệ Biên Giới phía bắc từ mốc 117 đến mốc 121 (cũ) và đường tỉnh lộ 204 Cao Bằng
chạy thông sang đất TQ. Dbb4 chúng tối có 3Cbb và 1Ccối 82mm. Goi C1-2-3 là
Cbb. C4 cối. Cbb 1 chúng tôi chốt giữ cao điệm 800 đông và giông đồi 700 cùng
đường tỉnh lộ Cao Bằng 204, do đia bàn chốt giữ rộng, địa hình hiểm trở nên người
cùng C cũng ít được gặp nhau. Có đi sang
thăm nhau cũng phải mất nửa ngày đi bộ mới tới nơi. Còn C3 có nhiệm vụ chốt giữ
cao điểm 800 Tây và 962. Còn C2 là quân cơ động ở sát D bộ trên dông đồi 759.
Còn C4 khối 82 được chia đều cho cả hướng 800 đông và tây.
Đường tỉnh lộ 204 phần sát biên giới được đào
2 tuyến hào chống tăng gọi là tuyến hào 1 và tuyến hào 2, được bố chí 12,7li và
DKZ82. Phía trên tuyến hào 1 là các loại hàng rào dây thép gai như đơn, kép,
mái nhà, bùng nhùng, cũi lợn. Phía trong các loại hàng rào dây thép gai là bãi
mìn hỗn hợp như đè nổ, vương nổ, chống tăng, cùng 1 số mìn DH10, được đặt sẵn.
Khu vực đó chúng tôi gọi là vành đai trắng, cấm dân kô được xâm phạm vào.
Cbb 1 D4E677 chúng tôi có 3B bộ
binh cùng 2A hảo lực (cối 60 và đại liên). Tổng quân số lúc nào cũng có trên
120 người. Trên đỉnh chốt 800 đông được bố chí một Bbb cùng một khẩu cối 60 và
một khẩu đại liên, nằm trải dài từ chân chốt lên đến đỉnh chốt chia làm 3 nơi
có khoảng 38 người, có đầy đủ hào cơ động chiến đấu từ chân lên đến đỉnh chốt,
cứ 30m lại có một đoạn hào có lắp và hầm chữ A bằng bê tông cốt thép, cùng hầm
hỏa khí(đại liên) .
_Ở sát mốc 119 sau bãi mìn hỗn hợp
và tuyến hào chống tăng 1 của đường 204 tỉnh lộ Cao Bằng có 1 Bbb cùng một khẩu
đại liên chốt giữ quân số cũng chỉ có hơn 30 người đó là 2 hướng chính của C1
bb chúng tôi. Còn lại 1Bbb cùng 1 khẩu cối 60 hậu cần và C bộ ở gần nhau trên
dông đồi 700 làm quân cơ động sẵn sàng cơ động chi viện cho cả 2 hướng khi cần
thiết.
_Đấy là tôi nói đến cách bố phòng
của C1 bb bảo vệ BGPB đơn vị tôi ở chiều dài Biên Giới từ cột mốc 117 đến mốc
119 là 2km đường Biên Giới. Theo tôi nghĩ cái đỉnh 1509 bên Hà Giang cũng chỉ
như cái đỉnh 800 đông và 800 tây của bọn tôi bên Cao Bằng này thôi. Mỗi chốt chỉ
có 1Cbb được biên chế đủ là trên 120 quân. Không may có mất chốt thì mình cũng
chỉ mất đến 1 Bbb là cùng. Cớ sao cái ông nhà văn PVĐ nào đó lại nói khống lên
cái đỉnh 1509 của mình bị mất mà mình bị thiệt hại đến những 3700 quân cơ chứ.
Bộ Đội mình lên 1509 để dự Lễ Hội à ? Lên các Đồng Chí và các bạn đừng có tin
cái ông nhà văn đó, ông ấy chỉ nói được với những người không phải là lính bảo
vệ BGPB thôi. Còn đối với tôi vừa đọc bài của ông ấy tôi vừa cười ! Đúng là nói
phét không phải lối
Người lính BGPB khi trở về
- Ngày này 26 năm về trước,
19/06/1985 tôi vẫn đang trốt trên đỉnh 800 đông ( Nà Thin - Thông Nông - Cao Bằng
). Chúng tôi đang chuẩn bị cho bữa cơm tối, thì anh Nhất B Trưởng B1 đi hội ý ở
dưới Đại Đội về có thông báo:" Ngày mai 20/06 tất cả các đồng chí lính nhập
ngũ tháng 03/1981 và tháng 03/1982 bàn giao toàn bộ vũ khí súng đạn, quân trang
dùng chung cùng quân dụng lại cho đơn vị ( sẽ có người lên chứng kiến bàn giao
), kể cả lương thực và thực phẩm.
- Đêm hôm đó tôi cứ thao thức
không sao ngủ được, cứ đoán già đoán non ( chuyển đơn vị, hay ra quân? ). Tại
sao lại cả lính 81 và 82 phải bàn giao, mà lính 81 bọn tôi chúng nó vừa ra quân
một đợt hôm 28/05/1981 cả Đại Đội tôi được có 4-5 thằng thôi! Điều đó cứ lởn vởn
trong đầu tôi giữa đêm hè nơi Biên Giới, ở sạp bên, thằng Trung, Hà, Khải cùng
một cậu lính mới nữa đã chìm vào trong giấc ngủ từ lâu rồi. Tôi cố ngủ nhưng
không thể ngủ được, chiếc sạp lại kẽo kẹt kêu mỗi khi tôi trở mình. Sợ ảnh hướng
tới đồng đội tôi nhẹ nhàng ngồi dậy sách khẩu súng AK ra khỏi lán. Trời đêm nay
cao, xanh và rất nhiều sao, dưới ánh sáng của những ngôi sao tôi xách khẩu AK
ra trận địa CỐI 60, khẩu Cối lúc nào cũng được giá sẵn ở trận địa. Tôi từ từ
đưa tay quay tầm và hướng, vuốt ve nó một hồi lâu miệng lẩm bẩm:" Có lẽ
tao sẽ từ biệt mày và các anh em trong cùng khẩu đội". Trong lòng cảm thấy
buồn, nước mắt trào ra nghĩ đến cuộc chia ly khó có ngày gặp lại...!
Cứ miên man suy nghĩ như thế một
hồi lâu, rồi tôi nghĩ đến con chó ( nó tên là phốc nuôi từ tháng 10/81 ). Nó rất
khôn luôn làm nhiệm vụ gác đêm cho chúng tôi ngủ và cũng là một trợ thủ đắc lực
khi chúng tôi đi kiếm thực phẩm tươi sống. Tôi vuốt ve nó và thì thầm nếu tao
được về thì tao sẽ cho mày cùng về thủ đô nhé ! Nó mừng lắm cứ chạy vòng quanh
tôi đầu nó rúc rúc vào chân tôi đuôi thì vẫy tít, dưới ánh sáng sạo lờ mờ tôi cảm
nhận được điều đó là con chó nó cũng rất vui
-ở dưới A2 có tiếng điếu cầy rít
dé lên, tôi liền hỏi vọng xuống A2 ai thức đấy ? có 3 đến 4 tiếng đồng thanh đáp
lên: Thịnh chưa ngủ à ! xuống đây uống chè. Tôi liền sách cả khẩu AK xuống A2,
thì ra ở A2 có 2 thằng lính 81 (ở Hà Bắc) và 1 thằng lính 82( ở Bắc Thái) cũng
có tâm trạng giống tôi, ngày mai chúng nó cũng phải bàn giao, vũ khí đạn dược
cùng quân trang dùng chung quân dụng những thứ đó thì không phải lo. Tôi và
chúng nó lo nhất về khoản lương thực vì gạo chúng tôi bình quân mỗi người sử dụng
âm vào mất 6 tháng rồi. Tính ra cũng hơn 120 kg rồi lấy đâu ra mà bù, tiền thì
không có mà tiêu chuẩn lương thực khi về chỉ được có 90kg tem X thôi cũng chưa
đủ để mà bù. Mấy thằng ngày mai phải bàn giao cứ đoán già đoán non mãi rồi
tranh luận cũng chả đem lại kết quả gì. Vui mừng đâm ra chán nản tôi làm luôn 1
câu : thôi kệ ! mặc đời trôi ngày mai khắc rõ , rồi sách súng về lán đi ngủ.
Vừa chìm trong giấc ngủ chưa được
bao lâu thì thằng Hà gọi tôi dậy ăn cơm. Cơm nước xong xuôi tôi còn bảo mấy thằng
trong khẩu đội ra trận địa Cối chỉ bảo cho chúng nó mấy mục tiêu cùng phần tử bắn
theo tọa độ đã định sẵn khi có chiến sự xảy ra! Tâm trạng tôi lúc đó rất buồn
vì sắp phải chia tay chúng nó, rồi cũng chưa biết thực hư ra sao về ngày về của
mình, thằng Trung cứ động viên tôi:" Anh phải vui lên chứ, sắp được về rồi."
- Đến gần trưa thì văn thư Đại Đội
( kiêm Quân Khí ) mới lên đến khẩu đội tôi cùng anh Nhất B trưởng B1 và quản
lý. Công tác bàn giao bắt đầu, thằng Trung là người được nhận bàn giao.
Quân trang dùng chung gồm: ( Cá
nhân tôi mượn )
+ Chăn bông cả lõi và vỏ: 1 cái
+ Mũ bông: 1 cái
+ Áo bông cả lõi và vỏ: 1 cái
+ Găng tay sợi: 1 đôi
+ Túi cơm: 1 cái
Quân dụng gồm: ( Trang bị cho khẩu
đội )
+ Mũ sắt: 3 cái
+ Mặt nạ phòng hóa: 3 cái
+ Xoong 20B: 1 cái
+ Xoong đĩa 2 ngăn: 1 cái
+ Cùng toàn bộ cuốc chim và xẻng
+ Bi đông nhựa loại 4 lít: 4 cái
Vũ khí: Cối 60 1 khẩu bao gồm cả
máy ngắm quang học, bàn đế cùng cọc chuẩn, AK 2 khẩu cùng toàn bộ các hòm đạn
K56 và đạn Côi 60 cùng ngòi nổ và liều phóng chính và phụ cùng lựu đạn cần.
- Còn nói đến gạo thì ai mà cân
đo đong đếm được, rồi có lệnh của ban chỉ huy Đại Đội nói chỉ cần có một cậu
lính mới nhận hộ là được. Tôi thở phào nhẹ nhõm, may quá khẩu đội tôi mới được
bổ sung một cậu lính tháng 3/1985 ở Hải Hậu - Hà Nam Ninh ( không nhớ tên ) nhận
hộ. Trung - Hà - Khải chúng nó mừng cho tôi ra mặt. Cuộc bàn giao kết thúc, tôi
không còn là A trưởng A11 ( Cối 60 nữa ) rồi tôi nhận được chỉ thị sáng mai
ngày 21/06 sang Tiểu đoàn nhận nhiệm vụ mới.
Khi tôi không phụ trách khẩu đội
Cối nữa nhưng vẫn còn nửa ngày và 1 đêm ở đơn vị nữa. Chả biết làm gì cả tôi liền
bảo thằng Trung và Hà theo tôi xuống Suối để kiếm đồ về liên hoan chia tay, quả
thật chúng tôi không có tiền. Trung và Hà bảo tôi:" Anh cứ ở nhà, hai thằng
chúng em đi là được rồi, Mai anh ra quân rồi nhỡ không may có chuyện gì xảy ra
thì..!". Chúng nói vậy nên tôi đành ở nhà để đi các chốt như A1, A2, A3
cùng khẩu đội Đại Liên trên đỉnh 800 Đông thăm hỏi chia tay anh em lần cuối, rồi
tôi xuống Dông đồi 700 chỗ có khẩu đội Cối 60 của A tôi phối thuộc với B2 chào
anh em. Qua hỏi han tình hình toàn Đại Đội tôi có hơn 30 người vừa lính 81 và
82 đều được lệnh ngày mai sang Tiểu Đoàn nhận nhiệm vụ mới hết.
- Sẩm tối tôi mới mò được về đỉnh
800 ( Khẩu đội Cối ) Thằng Trung và Hà nhăn nhó bảo tôi:" Chả kiếm được gì
anh ạ. Chỉ hái được ít rau bí ở nương và vào Bản mua chịu được 1 lít rượu và 1
chẩy ( 1 bò ) đỗ tương rang". Tôi tặc lưỡi bảo:" Như thế là tốt rồi
!". Rượu chè xong xuôi, màn đêm đã buông xuống từ lâu chúng tôi ngồi nói
chuyện phiếm với nhau thì thằng Hà phát hiện ra ở dưới A2 có tiếng đàn Ghi-ta
phập phùng Cheesy. Chúng tôi liền kéo xuống góp vui, thì ra A2 cũng tổ chức
liên hoan chia tay cho 3 người lính 81 và 82.
- Những điệu nhảy DISCO lại được
thể hiện giữa ánh lửa bập bùng dưới màn đêm nơi núi rừng Biên Giới! Khi đã thấm
mệt thì đêm đã khuya, bụng lại đói nên chúng tôi lại nấu cơm ăn tiếp. Khi lên sạp
đi ngủ tôi luôn nghĩ:" Chắc đêm nay là đêm cuối cùng của tôi trên đỉnh 800
Đông, không biết khi tôi đi rồi hội thằng Trung - Hà - Khải sẽ sống ra sao khi
không có tôi dẫn dắt ở khẩu đội Cối 60 này nữa..." Rồi tôi ngủ thiếp đi lúc
nào không hay.
Sáng hôm 21/6 . Khi con gà rừng
đang gáy te te tôi đã dậy rồi và cho một bộ niên hạn vừa được lĩnh hồi tháng 4
vào cái balô đã được lộn ra rồi . Hội thằng Trung - Hà - Khải cũng đã dậy để
đưa tiễn và chia tay tôi , còn chăn chiên và màn tôi để lại cho chúng nó tất .
Chúng tôi bắt đầu xuống núi , tôi nghĩ bụng chắc chẳng bao giờ mình quay lại
nơi đây nữa bước đi bước nào mất bước đấy , đấy . Vừa đi vừa ngoái cổ lại nhìn
lại lần cuối cái đỉnh 800 đông và cái nán của khẩu đội cối 60 thân yêu của tôi
mà lòng tê tái rồi cắm đầu đi thẳng , 3 thằng chúng nó cứ lầm lũi đi theo tôi
chắc chúng nó cũng buồn lắm tôi nghĩ thế . khi xuống đến A3 tôi tạt vào chào
anh em thì ra quân số B1 được lện sang tiểu đoàn đã tập trung ở A3 hết rồi hơn
10 người cơ . tôi bảo thằng Trung - Hà - Khải thôi không phải đưa tiễn nữa quay
về đi ở đây có đông anh em cùng đi lắm rồi . Tôi lại ôm trầm lấy chúng nó giọng
nói nghẹn nghào dặn dò chúng nó lại lần cuối thằng nào cũng rơm rớm nước mắt vì
ai cũng biết cuộc chia ly này khó có ngày gặp lại .
- Khi tôi cùng với quân B1 xuống
núi chúng nó vẫn đứng nhìn theo tôi , tôi liền ngoái cổ lại dơ tay vẫy chào lần
cuối mà chân vẫn bước . Rồi thằng Trung nói to " Anh về đến nhà nhớ viết
thư lên cho bọn em nhé !" tôi liền gật đầu rồi vắt cái balô lộn lên vai
theo hướng tiểu đoàn thẳng tiến , mấy con chó lại vui mừng lăng săng lúc chạy
trước lúc chạy sau rồi sủa ầm lên vang vọng cả núi rừng biên giới .
Cắm đầu cắm cổ rời chốt , chúng
tôi mang theo mấy con chó về đến gần 9h sáng thì chúng tôi xuống đến bản Cải ,
là nơi mà tiểu đoàn hẹn chúng tôi tập trung . Quân số của C1 chúng tôi có mặt
tương đối đầy đủ ( khoảng 30 người ) còn quân số của C2 C3 C4 và tiểu đoàn bộ
cũng lác đác có mặt . Đến hơn 10 giờ thì đồng chí trợ lý tác chiến cùng chính
trị viên tiểu đoàn tập trung quân số toàn lính 81 và 82 của tiểu đoàn lại và
phân đều vào ở trọ các nhà dân trong Bản Cải theo đội hình mỗi C ở 3 nhà và cử
người phụ trách mỗi nhà khoảng 10 người , rồi thông báo cho chúng tôi biết địa
điểm lấy cơm và tiểu đoàn đã bố trí . Chúng tôi ngơ ngác nhìn nhau không hiểu
ra làm sao nữa , đã được ra quân đâu mà mừng .
- Khi đã ổn định nơi ăn trốn ở
trong bản Cải , buổi trưa chúng tôi lấy cơm về nhà trọ ăn , đến chiều chúng tôi
được lệnh tập trung trước cửa nhà kho ở Bản Cải ( cạnh bờ suối ) toàn những
lính cựu , ở thời điểm đó trong toàn tiểu đoàn . Sinh hoạt nghe phổ biến nhiệm
vụ mới của chúng tôi là vác bê tông , vận chuyển khung nhà lên 800 đông để làm
công trình lưu niệm , sẵn sàng cơ động nhanh chóng về đơn vị cũ của mình khi
chiến sự sẩy ra mà tiểu đoàn có lệnh , trước khi chúng tôi được xuất ngũ về địa
phương, thời gian làm nhiệm vụ bao lâu thì chưa rõ . Thằng nào thằng đấy cũng lắc
đầu ngao ngán, thở dài. Tôi tự nhủ ngày về với mẹ còn xa lắm , hóa ra mình bị
đi cải tạo tiểu đoàn.
Ngày đầu tiên lào động làm công
trình lưu liệm , chúng tôi phải vận chuyển một bộ khung nhà gỗ 3 gian mà bộ phận
mộc của tiểu đoàn đã đục đẽo sẵn rồi mang lên đỉnh 800 đông cho A2C1 . Cột cái
thì 4 người. cột "quân" thì 2 người 1 cột. còn câu đầu và kèo những
cái nhè nhẹ thì mỗi người 1 thứ
- Tưởng đã được thoát khỏi cái
nơi đã chôn vùi tuổi trẻ của tôi hơn 4 năm trời , mà cái nơi hôm qua trước khi
rút tôi đã âm thầm quỳ xuống để lậy chào vĩnh biệt và tự nhủ sẽ không bao giờ
mình quay lại đây nữa . Thế mà hôm nay tôi phải quay lại , khi bộ phận phân
công mang vác song thì việc ai người đấy
làm , tôi vác 1 mình 1 chiếc câu đầu dài hơn 1m đường kính 15cm nhẹ nhàng tiến
bước đỡ phải chung chạ vướng víu . Tôi men theo con đường quen thuộc đã in hằn
bao vết chân của tôi bao năm tháng . Tới nơi tôi là người vác cái câu đầu lên
A2 gần như là đầu tiên (trước cả bộ phận giao nhận ) . Khi bọn A2 nhìn thấy tôi
thì trố mắt ra nhìn tỏ vẻ ngạc nhiên , có thằng còn bảo với tôi rằng : "em
tưởng bọn anh lấy quyết định và gần về tới nhà rồi chứ ?" tôi vừa thở vừa
hổn hển nói "đã được về đâu , đây là bị đi cải tạo tiểu đoàn đấy chứ
" . Để cái câu đầu xuống gọn gàng tôi lại lên khẩu đội cối quen thuộc của
tôi và bảo hội Trung - Hà - Khải cho tôi báo xuất cơm . Tôi ở lại chơi với
chúng nó đến chiều tôi mới xuống bản Cải
- Trước khi đi lấy cơm tối về ăn
thì thằng Thịnh voi phụ trách C1 đi nhân kế hoạch về nhẹ nhàng thông báo là
công việc ngày mai chúng ta vác bê tông lên chốt .
Sáng hôm sau và hôm sau nữa, chúng
tôi vác bê tông lên đỉnh 800 Đông, đây là 1 giai đoạn thử thách ác liệt nhất,
vì từ hồi tháng 04/1984 khi Biên Giới nâng cấp báo động bọn tôi chả phải làm
gì, chỉ tự nấu cơm ăn và trực chiến thôi. Bây giờ lại phải lao động nặng nhọc
quá, không chịu nổi. Mà khi vác bê tông lên đến Chốt tôi chỉ vào khẩu đội Cối uống
nước rồi đi xuống ngay, không dám báo cơm chúng nó nữa vì tôi nghĩ gạo đã bị âm
quá nhiều.
- Sau 2 ngày vác bê tông lên Chốt,
chúng tôi liền bàn nhau chống đối. Khi người phụ trách các C đi nhận kế hoạch (
Hội ý ) về phân công tác ngày hôm sau thì ai cũng bảo “Mệt lắm rồi! Ngày mai
tôi ốm, xin nghỉ công tác”. Chỉ còn vài người lính Hà Bắc và Bắc Thái không nói
năng gì. Hội lính Hà Nội là đòi nghỉ tất. Sáng hôm sau chúng tôi nhất định
không đi làm, cán bộ tiểu đoàn biết chuyện còn hăm dọa chúng tôi là “ Cứ như thế
này thì còn lâu mới được ra quân.”
- Có rất nhiều người trong chúng
tôi trả lời thẳng với Tiểu Đoàn là “ Ối dời! Các ông muốn giữ chúng tôi đến bao
giờ thì giữ! Chúng tôi cũng bước sang năm thứ 5 rồi. Tốt nhất là cho chúng tôi
về đơn vị cũ ở đến bao giờ ra quân thì ra.”
Sáng ngày thứ 5 trong đợt cải tạo >:(biết chúng tôi không đi làm nữa lên Tiểu
Đoàn bầy đặt ra cách sinh hoạt ,thuyết phục và dụ dỗ chúng tôi đăng ký phục vụ
Quân Đội lâu dài ( đi học trường Quân Chính Quân Khu) không cần quan tâm đến
trình độ học vấn,cứ ai đăng ký là đi học tất. Dụ dỗ đi học sĩ quan không được
ai, thì lai dụ dỗ chúng tôi đi học sĩ quan dự bị cũng ở Quân Khu 3 tháng song
thì được ra quân ngay. Nhiều anh lính Hà Bắc và Bắc Thái, nghe dụ dỗ thế, chắc
cũng muốn thoát khỏi nơi Biên Giới này ngay lên vội vàng đăng ký. Còn lính Hà Nội
chúng tôi thì ai cũng lắc đầu và nói :"dại gì mà dính vào sĩ quan , cứ là
thằng lính trơn rồi về với mẹ thích hơn" . Đến chiều thì hội đăng ký đi học
sĩ quan dự bị chào chúng tôi để xuống Trung Đoàn lấy giấy chuyển công tác về
trường , còn chúng tôi ra bờ suối học
chính trị do chính trị viên tiểu đoàn lên lớp bài (củng cố nền quốc phòng toàn
dân) và đả thông tư tưởng chúng tôi cố gắng đi bác bê tông lên chốt cho đủ . Để
làm một chiếc hầm lưu niệm ở lại cho lớp lính sau nghi nhớ , nhưng chúng tôi nhất
quyết không đi làm mà cứ đòi về đơn vị cũ ( ở chốt sướng hơn Cheesy ) có thằng
còn lẩm bẩm nói nhỏ nhưng Tiểu Đoàn cũng nghe thấy :" ốm rồi không đi làm
đấy ! có bắn thì bắn mịa nó đi cứ nói nhiều Cheesy " chính trị viên Tiểu
Đoàn lại tủm tỉm cười rồi lắc đầu thất vọng, tôi nghĩ lúc đấy trong đầu chính
trị viên cũng nghĩ là cái quân này cùn quá rồi, khó bảo không dùng được nữa chắc
phải đuổi chúng nó về địa phương thôi.
Ra quân thì chưa được ra ! Làm
thì chúng tôi cũng chả đi làm,nằm ở nhà sàn của dân suốt ngày lại chán đến bữa
thì mang rổ,rá đi lấy cơm ăn,mà chúng tôi chúng tôi cũng chả thằng nào dám bàn
đến chuyện đi tăng gia cải thiện nữa vì đang ở trọ trong Bản cải mà cũng sắp được ra quân rồi chả ai dại........
_chúng tôi liền rủ nhau ra suối bắt
cá , chúng tôi lấy đá cuội xếp chặn dòng suối Bản Cải lại để cho dòng chẩy sang
hướng khác . Khi nước trong lòng suối đã ít thì lấy lá cây Thàn Mác ( Sưa Trắng
) loại lá cây này rất đắng và độc , đập và vò nát theo dòng nước cạn chẩy , thế
là các chú cá bống cá chầy suối to bằng ngón trỏ và ngón út ngạt thở hoặc say
bơi lảo đảo rồi ngửa hết bụng lên . Chúng tôi chỉ việc bắt mang về mà cả buổi
chiều vừa được tắm mát mà còn bắt được miệng bát sắt cá suối đấy các bạn ạ
Cheesy .
Thấy bọn tôi đi bắt cá cải thiện
có chất tươi lên chúng nó lại hào hứng bàn nhau chuyện liên hoan ra quân 1 trận
cho ra trò . Tất cả lính Hà Nội trong K4E677 đều nhất trí nhưng không được tổ
chức ở Bản Cải vì sợ ảnh hưởng tới dân do lính chúng tôi quá đông , xong chúng
tôi quyết định quay về C3 , vì C3 có 1B nằm ở gần Bản Bó Rằng cũng thấp mà cách
Bản Cải cũng không xa thế là 2 con chó tên là Ngốc và Săm của thằng Quang Bôm Bốp
ở 74 Cầu Gỗ và của thằng Phúc Rạm ở 12A lê Thánh Tông đều là lính Hà Nội bị hi
sinh cho buổi liên hoan đó.
Lúc đó chúng tôi thuộc dạng
"Quân vô tướng". Ban Chỉ Huy Tiểu Đoàn quản lý chúng tôi cũng bó tay
rồi vì chúng tôi cáo ốm tất, còn hội đi học dự bị sĩ quan thì đã đi rồi! Mà vẫn
còn cái lệnh sẵn sàng cơ động về đơn vị cũ khi chiến sự xảy ra ( khi có lệnh )
mà ngày về của chúng tôi chưa biết đích xác là ngày nào, cứ ăn đợi nằm chờ.
- Ngày 26/06/1985 hội lính Hà Nội
chúng tôi tổ chức liên hoan thịt 2 con chó của hội C3 khi lấy cơm trưa ở Bản Cải.
Ăn xong, chúng tôi kéo nhau hết lên C3, mỗi người một chân một tay. Người thì lấy
rơm để thui, người lên núi lấy giềng và lá mơ dại, người thì đi lấy lá mùi tàu
( ngò gai ). Từng con chó một được treo ngược lên, tôi tìm tia hồng cắt tử tế để
lấy tiết đánh tiết canh. Chả mấy chốc 2 con chó đã được thui căng tròn, vàng
ươm. Gia vị đã được chuẩn bị sẵn như gạo nếp, đỗ xanh. Tôi mổ và pha 2 con chó
nhanh thoăn thoắt như thợ chuyên nghiệp, giao việc cho từng người một, kẻ thì
mang lòng ra suối làm, người lọc sương, người thái thịt, nhưng cũng chỉ làm được
ba món đặc trưng của thịt chó như: Hấp, Rượu mận và chả nướng, tiết canh cùng dồi
chó nữa. Tất cả đánh vật với 2 con chó đến sâm sẩm tối chúng tôi mới lên mâm được.
- Các bạn biết rằng lính 81 Hà Nội
chúng tôi ở K4 có hơn 50 người. Hôm đó chúng tôi dùng hết 60 lít rượu, rồi đàn
hát, nhảy Disco. Thằng khóc thằng cười, vui đáo để, rồi hứa hẹn gặp nhau tại thủ
đô sau ngày về. Mãi đến tận đêm khuya chúng tôi mới đốt đuốc mò về Bản Cải ngủ.
Sau một đêm liên hoan chúng tôi hầu
như ai cũng say lên hôm sau 27/6/1985, chúng tôi ngủ dậy rất muộn đến trưa xuống
bếp dã chiến Tiểu Đoàn lấy cơm thì mấy vị cấp dưỡng cứ thắc mắc hỏi lính Hà Nội
tối qua đi đâu mà chả thấy ai lấy cơm cả. Bọn tôi chỉ trả lời gọn lỏn:"
Lên C3 liên hoan thịt chó". Rồi cánh nhà bếp có truyền đạt cho chúng tôi
là 2 giờ chiều theo lệnh của Tiểu Đoàn các anh ra bờ suối tập trung sinh hoạt
và học chính trị, ai nghe qua cũng thấy ngao ngán.
- Khi chúng tôi tập trung ở bờ suối
Bản Cải khá đông đủ, chính trị viên Tiểu Đoàn lại lên lớp mấy bài chính trị
quen thuộc như nói về kẻ thù, như kẻ thù trực tiếp của chúng ta là quân Trung
Quốc xâm lược. Kẻ thù gián tiếp của chúng ta là Đế Quốc Mỹ. Rồi những kêu gọi của
Đảng và nhà nước như:" Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên".
Tiếp đến là nhắc lại cái bài củng cố nền quốc phòng toàn dân, rồi căn dặn nhắc
nhở chúng tôi là:" Hiện giờ đất nước ta vẫn còn khó khăn nên chúng ta phải
cố gắng khắc phục.
- Hết giáo huấn, đến nhắc nhở rồi
chuyện phiếm vui buồn. Cuối cùng lão chính trị viên Tiểu Đoàn vẫn phải thông
báo tin cuối cùng là sau buổi sinh hoạt này các đồng chí còn vướng mắc với dân
bản, như nợ nần thì phải giải quyết cho xong. Đến 8 giờ sáng mai toàn bộ các đồng
chí có mặt ở Trung Đoàn bộ nhận nhiệm vụ mới. Nghe xong thông báo tôi thở phào
nhẹ nhõm, nhưng lại hoài nghi. Nhỡ xuống Trung Đoàn lại bị cải tạo lần nữa thì
nguy.
Sáng ngày 28/06/1985, từ 5 giờ
sáng chúng tôi đã bị khua dậy bằng hồi còi báo động tập trung di chuyển. Mà
quân tư trang của chúng tôi còn có cái gì khác ngoài bộ quần áo mặc trên người
đâu Cheesy. Cẩn thận như thôi thì còn một bộ trong cái ba lô lộn. Khi nghe
chính trị viên Tiểu Đoàn quán triệt nhắc nhở một hồi khoảng 20 phút rồi cho
chúng tôi tự do di chuyển xuống Trung Đoàn nhận nhiệm vụ mới! ( Thế là chúng
tôi mất đúng 7 ngày bị cải tạo Tiểu Đoàn )
- Chúng tôi hăm hở, xốc ba lô rút
ngay về Trung Đoàn nhanh chóng. Khi tôi ra khỏi Bản Cải tôi không quên ngước cổ
nhìn lại cái đỉnh 800 Đông lần cuối, vì nó đã gắn bó với tôi suốt cả đời quân
ngũ và ở đó vẫn còn đồng đội của tôi như thằng Trung - Hà - Khải, chúng nó đã gắn
bó với tôi suốt 2 năm trời ở khẩu đội Cối 60 đó, cùng cậu lính mới đã lên thay
cho tôi để tôi về mà còn nhận trách nhiệm với số gạo mà khẩu phần của tôi bị
thâm hụt ( âm mất 6 tháng ), lòng tê tái xúc động rơm rớm nước mắt. Những con
chó mà bọn tôi hứa mang theo về rất bám chủ, chúng luôn phởn phơ chạy trước
thành 1 đàn có tất cả là 5 con. Khi xuống đến đỉnh Đèo Pó Đin, nhìn vào sân Trung
Đoàn Bộ tôi thấy người đông như đi hội, người người lăng săng đi lại ra vẻ rất
gấp gáp. Tôi tái người, chột dạ không biết nhiệm vụ mới ở Trung Đoàn là gì đây?
Lúc đó vào khoảng 9 giờ.
Từ đỉnh đèo Pó Đin chúng tôi đi
vòng vèo xuống đến trạm gác vệ binh của Trung Đoàn mất khoảng 30 phút. Đứng
ngoài ba-li-e vệ binh hỏi chúng tôi ở đơn vị nào, đi đâu mà mang theo cả chó thế
này? Tôi trả lời gọn lỏn chốt K4 xuống nhận nhiệm vụ mới! Vệ Binh lại hỏi lính
năm nào chúng tôi trả lời 81 và 82, và tôi hỏi thêm nhiệm vụ gì mà trong Trung
Đoàn đông thế. Gã vệ binh cười và bảo nhiệm vụ gì đâu các ông xuống thanh toán
và lấy quyết định ra quân đấy! Tôi vẫn còn hoài nghi và hỏi thêm:" Thế
lính 81 - 82 toàn Trung Đoàn ra tất à, gã ấy nói luôn cả K4 K5 K6 ra tất. Chúng
tôi "à" lên 1 tiếng rồi thở phào nhẹ nhõm. Rồi gã vệ binh nhấc cái
ba-li-e lên cho chúng tôi vào Trung Đoàn Bộ.
- Rồi một gã vệ binh vào phòng
Quân Lực Trung Đoàn là K4 bọn tôi đã xuống tới nơi! Một người trong ban Quân Lực
bước ra trên tay cầm 1 tập giấy và hô tất cả các lính K4 chúng tôi tập trung ra
một chỗ vắng không cần hàng lối gì cả và bảo đọc đến tên ai thì người ấy hô to
là " Có ". Chúng tôi nín thở chờ đợi, ngoài kia ở các phòng ban lính
K5 K6 ở gần Trung Đoàn hơn chúng tôi nên đã đến trước, đang vội vã làm thủ tục
thanh toán. Rồi tờ quyết định của tôi cũng đến được với tôi. Khi cầm tờ quyết định
xuất ngũ trong tay tôi sung sướng gào lên rất to:" Mẹ ơi con được về với mẹ
rồi!" mà trào nước mắt. ( cả E677 được ra quân hôm đó là hơn 400 lính )
- Đến giờ thì tờ quyết định xuất
ngũ của tôi không còn giữ được nữa nhưng tôi sẽ cố gắng hỏi mượn của đồng đội
xem ai còn rồi post lên cho các bạn tham khảo nhé! Thế là cuộc đời Quân Ngũ của
tôi chấm dứt từ đây! Tôi chỉ cần bước qua cái ba-li-e của vệ binh kia. Khi tôi
đã cầm tờ quyết định xuất ngũ trong tay là tôi đã trở thành phó thường dân rồi!
Khi đi thanh toán, lính 81 bọn
tôi được phát thêm quân trang liên hạn như: áo mưa, mũ cứng, màn xô, cùng 10 kg
gạo lẻ và 80 kg Tem X. Còn hội lính 82 thì chỉ được có 45 kg lương thực thôi,
chúng nó có thằng thắc mắc là tại sao thì được giải thích là lính 81 đi từ khi
chưa có luật nghĩa vụ quân sự nên được hưởng tiêu chuẩn đãi ngộ là 6 tháng. Còn
lính 82 trở đi là có luật nghĩa vụ quân sự không quá 3 năm 6 tháng rồi nên chỉ
được tiêu chuẩn đãi ngộ có 3 tháng thôi.
- Tất cả quân trang liên hạn cùng
10kg gạo lẻ cũng đến trưa mới thanh toán xong đa phần là chúng tôi mang ra chợ
Thông Nông bán hết. Tổng cộng số tiền lúc đó khi thanh toán và bán các thứ tôi
có khoảng 1000 đồng ( Một nghìn đồng ). Chúng tôi vật vờ ở chợ huyên Thông Nông
ăn uống và chờ xe ô tô ra Cao Bằng nhưng đến tận chiều vẫn không có xe ô tô
vào. Chúng tôi liền quyết định mua rau, thịt, rượu, gạo vào bản nấu cơm nhờ, ăn
xong sẽ cùng nhau vượt đèo Mã Quỷnh ngay trong đêm chứ quyết không đợi đến ngày
mai vì chúng tôi có 5 con chó Mán rất khôn và trung thành nên không sợ nguy hiểm,
và nhỡ ngày mai cũng không có xe ô tô vào thì sao? hoặc Trung Đoàn đổi ý kiến
giữ lại thì nguy Cheesy. Khi mọi người đều nhất trí với phương án đó chúng tôi
liền tiến hành luôn, đi mua thức ăn vào bản cho sớm sủa ( Hình như Bản Cốc Ca
thì phải )
Có tới 8 - 9 người bọn tôi làm 1
tốp vào bản nhờ dân nấu cơm ăn bao gồm: tôi, Thịnh Voi, Minh Mía, Hùng Mông,
Bình Tông, Quang Mặt Sấu, Tùng 677, Hùng Mù thì phải ( Nếu còn thiếu ai thì
Tùng677 có thể bổ sung thêm ) cùng 5 con chó. Ăn uống vội vàng xong chúng tôi
chào dân bản lên đường ngay ( lúc đó khoảng 9 giờ tối ). Đèn pin TQ sáng quắc
chúng tôi mỗi người 1 cái, 5 con chó vui mừng lúc chạy trước lúc chạy sau theo
chúng tôi vượt đèo Mã Quỷnh. Màn đêm cuối tháng 6 ( dương lịch ) sương xuống
khí lạnh, chúng tôi bước đi âm thầm và lặng lẽ vì ai cũng thấm mệt. Những con
đom đóm cứ lập lòe bay phát ra ánh sáng một cách yếu ớt. Trên núi đá có tiếng Tắc
Kè kêu sao mà ai oán thế! Màn đêm Biên Giới yên ắng tĩnh mịch, chỉ có những bước
chân thình thịch lặng lẽ vượt Đèo Mã Quỷnh của chúng tôi để rời xa chốn Biên
Thùy càng nhanh càng tốt.
- Rồi Đèo Mã Quỷnh chúng tôi cũng
vượt được qua, xuống tới mỏ Sắt mùa này là mùa lũ, suối mỏ Sắt nước rất to và
chảy siết. Nước lại lạnh vô cùng, mà phà chạy bằng dòng dọc ( sức nước ). Giờ
này người vận hành phà không chạy, còn mảng tre thì ở phía bờ bên kia. Chúng
tôi loay hoay chưa nghĩ ra qua suối bằng cách nào giữa đêm hôm giá lạnh thế
này, chả lẽ lại ngồi chờ đến sáng. Tôi quyết định bảo Minh Mía cùng tôi bơi
sang bên kia lấy mảng tre về để cho anh em qua suối. Hai thằng liền cởi hết quần
áo ( để tiện Cheesy ) cho vào balô rồi cất trên bờ rồi lao xuống dòng suối lạnh
giá. Chả mấy chốc tôi và Minh Mía cũng lôi được mảng về bờ, đưa chúng nó qua suối
an toàn. Tôi và Minh Mía liền mặc quần áo vào cho đỡ lạnh, rồi tiếp tục cuộc
hành trình ( về với mẹ ). Qua chợ mỏ Sắt chả mấy chốc chúng tôi đến ngã ba Cầu
Nậm Thoong. Trời đã tảng sáng, những con gà rừng cùng gà bản đua nhau gáy lớn,
làm xóa đi không gian yên ắng của buổi ban mai nơi chốn Biên Thùy tĩnh mịch
này.
- Rồi chúng tôi nghe thấy tiếng ô
tô và nhìn thấy ánh đèn pha loang loáng từ hướng đường của đơn vị mình đi ra.
Chúng tôi chột dạ nghĩ có việc gì đây? Sao xe của Trung Đoàn lại ra sớm thế
này? Sao hôm qua xe Trung Đoàn không cho xe ô tô chở chúng tôi ra, mà để chúng
tôi phải đi bộ. Hùng Mù còn hô:" Trốn đi! Biên Giới đánh nhau rồi, Trung
Đoàn cho xe đuổi theo để bắt chúng mình rồi thu quyết định đuổi về Đơn Vị cũ
chiến đấu đấy. Chúng tôi nháo nhác định chạy trốn, 5 con chó chạy toán loạn sủa
ầm ĩ nhưng đã muộn, xe đã tiến tới chỗ chúng tôi và dừng lại.
Ánh đèn pha ôtô loang loáng lúc
đó mới tờ mờ sáng , lên các lái xe dễ nhìn thấy chúng tôi . Trong lúc đó thằng
Hùng Mù nó vừa hô , chúng tôi đang nháo nhác chưa hiểu ra làm sao cả thì chiếc
ôtô đã đến chỗ chúng tôi rồi dừng lại ( chiếc Gát 66 của Trung Đoàn ) . Anh
Bình người Hải Phòng lái xe thò đầu ra hỏi chúng tôi : đi bộ suốt đêm à ? chúng
tôi gật đầu rồi anh ta bảo : xe ra sư đoàn lấy gạo lên xe đi , xe chỉ ra đến Sư
Đoàn thôi nhé . Chúng tôi thở phào nhẹ nhõm rồi từ từ cho balô lên thùng xe và
bế mấy con chó lên xong chúng tôi chèo lên sau cùng . Tôi nghĩ bụng ra đến sư
đoàn cũng đỡ được mấy km đỡ phải đi bộ , xe ôtô chạy ra đến Nam Tuấn ( Hòa An)
thì xe dừng lại . Anh Bình bảo chúng tôi xuống đi xe phải rẽ vào Sư Đoàn rồi ,
anh còn chúc chúng tôi về đến địa phương vui vả và gửi lời hỏi thăm gia đình .
Chúng tôi gật đầu và vẫy chào khi xe chuyển bánh vào Sư Đoàn .
_ Ra đến thị trấn Nước Hai chúng
tôi vào ăn quà và đợi xe ôtô khách để ra thị xã Cao Bằng , nhưng đến tận trưa
mà bến xe vẫn vắng hoe chả có chiếc ôô nào cả . Những người dân sinh sống ở gần
bến xe cho chúng tôi biết : đến giờ này mà xe chưa vào thì hôm nay không có xe
rồi , chúng tôi thất vọng vô cùng . Ăn uống rượu chè thoải mái để cố lấn lá đợi
thêm chút nữa xem xe khách có vào không nhưng càng chờ càng vô vọng . Đến hơn 2
giờ chiều mà chẳng có ôtô khách vào , chỉ có 1 chiếc xe ôtô tải dân sự vào đã đồng
ý cho chúng tôi đi nhờ ra thị xã Cao Bằng nhưng với điều kiện xe không chở chó
, mà chúng tôi có tới 5 con chó . Chúng tôi ngần ngừ một hồi rồi quyết định cả
người và chó đi bộ ra thị xã Cao Bằng . Nhưng khi đi ra đến Nguyên Bình , thì
có một tình huống xấu sẩy ra , Đoạn đường này đã có nhiều ôtô chạy mà con chó
có tên là Phốc tôi nhận mang về quên không xích lên bị ôtô cán chết ( cũng khổ
cho nó tuổi đời gắn liền với cuộc đời binh nghiệp của chúng tôi ) chúng tôi liền
đem trôn nó ở ruộng . Bùi ngùi xúc động an táng cho nó xong chúng tôi lại lên
đường , khi ra tới thị xã Cao Bằng thì trời cũng vừa tối . Thế là kết thúc cuộc
hành quân xuất ngũ của chúng tôi từ đỉnh 800 đông xuống tới thị xã Cao Bằng tầm
80km quốc bộ hoàn toàn.
Ra tới thị xã Cao Bằng thì trời
đã tối, chúng tôi đi tìm quán để ăn uống. Nhưng ôi thôi những quán ăn ở thị xã,
bến xe và ở các phố đã sạch bách, chẳng còn cái gì ăn cả. Vì thị xã Cao Bằng
quá nhỏ bé so với khoảng 3000 lính được ra quân đợt này của quân đoàn 26. Thị
xã Cao Bằng hôm đó đông nghịt toàn lính là lính. Quán không có gì ăn, chúng tôi
lại đi mua gạo và vào dân nấu cơm nhờ. Người dân Cao Bằng rất tốt, thật thà và
hiếu khách, các pá nấu cơm hộ chúng tôi và vừa than thở, vừa hỏi han về tình
hình ở Biên Giới rồi nói rằng:" Các lán ( cháu ) được về nhiều thế này thì
lấy đâu ra người giữ Biên Giới". Chúng tôi cười và nó lính ở trên đó còn rất
đông pá à, rồi pá bảo cho chúng tôi biết ở phố vườn cam và phố cũ. Hôm nay có rất
nhiều ô tô tải ở xuôi lên đỗ ở đó, chúng tôi cơm nước xong xuôi liền ra đó xem,
thì quả thực xe tải của Đoàn 3 và Đoàn 10 rất nhiều ( xe vừa chở hàng lên cho tỉnh
Cao Bằng ) chúng tôi liền hỏi đi nhờ xe ô tô về, lái xe nói thu 150đ một người.
Cò kè thêm bớt mãi chúng tôi vin vào cớ là lính không có tiền, rồi lái xe hạ xuống
120đ nhưng chúng tôi cũng không nghe, cuối cùng chúng tôi chấp nhận đi với giá
100đ/ người nhưng chỉ về đến Thái Nguyên thôi, và tất cả các xe ô tô tải khác
cũng chỉ thu được như thế.
- Chúng tôi liền về nhà dân lấy
balô và chào các pá ra xe ô tô, may quá xe chạy về ngay trong đêm. Khi trèo lên
thùng xe gã lái xe thu luôn tiền ( trước khi lên phải trả tiền trước ). Khi
chúng tôi đưa tiền cho gã lái xe rồi chèo lên thùng xe ( tiền của ai người đó
trả ). Đó là một chiếc xe "Zin 130", thùng xe có bạt che kín mít, tối
om, khi mọi người đã lên xe thì thằng đứng, thằng ngồi, ngả nghiêng mệt nhọc.
Gã lái xe đóng nốt bưởng hậu xe và hai vỉ cửa của đít xe và dặn chúng tôi ngồi
cho chắc chắn để xe chuyển bánh. Chúng tôi ngủ gà ngủ vịt lơ mơ nghĩ về ga đình
và Hà Nội mà chúng tôi đã xa cách hơn 4 năm trời.
- Cũng tầm này 4 năm về trước,
chúng tôi được đoàn xe quân sự của Quân Đoàn 26 đón rước tử tế. Chúng tôi đi
lên biên giới với bao khí thế và háo hức của tuổi trẻ, ngày đi đêm ngủ. Mà bây
giờ chúng tôi trở về, tự túc, âm thầm, lặng lẽ trong bóng đêm mỏi mệt. Xe ì ạch
lắc lư, chạy mãi, chạy mãi. Chúng tôi ngồi chật một thùng xe ( có lẽ đến một
trung đội ), thùng xe phủ bạt kín mít trời tối đen như mực, cũng may chúng tôi
có đèn pin rất nhiều. Tôi đứng dậy men theo thùng xe lên gần cabin bên lái, vạch
bạt xe ra soi đèn pin ra ngoài. Ôi! Trời tối quá một màn đêm sâu thẳm và lạnh lẽo
vô cùng. Tôi hỏi to:" Về đến đâu rồi bác tài ơi!" gã lái xe trả lời:"
đèo gió". Tôi lần về chỗ ngồi của mình, xe chật quá gần 30 lính trên thùng
xe. Xe lại lắc lư lắc lư lầm lũi chạy vượt đèo đưa chúng tôi về với đất mẹ. Rồi
chúng tôi ngủ ở mọi tư thế, thùng xe chật cứng tối đen như trong chiếc quan
tài. Chúng tôi ngủ rất ngon vì ai cũng mệt, mà cũng phải thôi chúng tôi vừa trải
qua một chặng đường dài đi bộ vất vả như thế cơ mà.
Khi nhìn qua các khe bạt và các lỗ
thủng của bạt xe ô tô chúng tôi thấy trời đã sáng. Xe ô tô vẫn chạy một hồi lâu
nữa thì dừng lại. Thấy cửa đít xe được mở ra gã lái xe vừa hạ bưởng xe vừa
nói:" xuống hết đi, về đến nơi rồi đó ". Có thằng hỏi lại "đây
là đâu?" Gã lái xe thủng thẳng nói:" Bến xe Đồng Quang".Thái
Nguyên.
Bến xe Đồng Quang, chúng tôi uể oải
đứng dậy vươn vai ra vẻ ai cũng mệt mỏi. Liền xách balô nhảy xuống xe, mấy con
chó ngơ ngác nhìn quanh lúc nào cũng quấn lấy chủ. Đường phố bến xe nhộn nhịp
nhưng hỗn độn của thời bao cấp. Cảnh chen chúc mua vé xe, người người đông nghịt,
chúng tôi nhìn ngao ngắn lắc đầu rồi cùng nhau bàn bạc đi đến thống nhất "
Tùy nghi di tản ". Kẻ thì hỏi đường sang ga để đi tàu hỏa, người thì vào
nhà chờ bến xe để mua vé ô tô, còn tôi xách cái balô lộn ngơ ngác, thẫn thờ đứng
ở cửa bến xe Đồng Quang. Trong đầu chưa nghĩ ra là đi bằng phương tiện gì để về
Hà Nội nhanh nhất. Đúng lúc đó có 1 chiếc xe K đang từ từ ra khỏi cổng bến.
Trong xe cũng không đến nỗi chật chội cứng người, tôi liền tiến lại cửa xe bám
nhảy lên luôn. Khi vẫn còn chân trong chân ngoài ở cửa xe thì gã phụ xe liền nắm
lấy tay tôi kéo mạnh và kéo vào trong xe và hỏi:" Vé xe đâu, sao lại bám
nhảy xe khi xe đang chạy thế hả Bộ Đội". Tôi liền bảo không có vé, thế về
Hà Nội bao nhiêu tiền. Gã phụ xe nói luôn:" Đây là xe Phổ Yên chứ không phải
xe Hà Nội". Tôi nghĩ bụng về Phổ Yên cũng được rồi. Từ Phổ Yên về Hà Nội
còn dễ dàng hơn
- Khi vào được trong xe đứng, mọi
hành khác cứ đứng dãn xa tôi ra, tôi lại được đứng rộng thoải mái. Có người còn
nhìn tôi tò mò hỏi làm gì và ở đâu về. Tôi liền kể vắn tắt cho họ nghe toàn bộ
thời gian và quãng đường từ Biên Giới Cao Bằng về đến đây. Khi biết tôi là lính
thì mọi người mới thông cảm cho tôi và họ bảo người tôi hôi quá, quần áo bẩn thỉu,
tóc dài ngang vai, nhìn cứ như là bụi đời hay thổ phỉ hoặc trốn tù. Chuyện trò
rôm rả chả mấy chốc xe đã về đến bến xe Phổ Yên, tôi xuống xe vào nhà chờ mua
vé xe về Hà Nội. Nhưng lúc đó xe Hà Nội chưa lên, tôi cất chiếc vé xe vào túi
áo, liền tìm quán bước vào, 3 đồng 1 bát phở vào thời điểm đó là ấm bụng rồi.
Sang quán nước tôi gọi ấm trà, bao thuốc lá cuộn, phong kẹo lạc ngâm nga đợi xe
và nghĩ về đồng đội không biết chúng về bằng phương tiện gì, đã mua được vé xe
hoặc vé tàu hỏa chưa.
Đang ngâm nghê trà thuốc nghĩ về
đồng đội thì bà chủ quán chỉ tay bảo: “ Kìa, nhanh lên chú xe lên rồi kia kìa cố
lên trước mà lấy chỗ ngồi. Nếu không phải đứng từ đây về Hà Nội thì khổ”. Tôi
trả tiền trà thuốc xong thì hành khách trên xe cũng xuống hết rồi. Tôi liền đi
vòng về sườn xe bên lái vứt cái balô lộn qua cửa sổ lên một chiếc ghế giữ chổ
trước rồi chèo qua cửa chui vào xe ngồi chỗm trệ, còn ở phía cửa xe mọi người
đang chen nhau lên xe la ó có người kêu oai oái.
- Rồi mọi người cũng lên được hết
xe ô tô, xe không đến mức độ đông lắm.
Chỉ khi phụ xe soát vé xong ai chưa có vé thì hắn bán bổ sung luôn rồi xe chuyển
bánh. Tôi thở phào nhẹ nhõm vì sắp được về với mẹ rồi. Tôi ngồi sát cửa sổ xe,
đôi mắt lơ đãng nhìn những dòng người đang tấp nập, hối hả di chuyển ở dưới đường
rồi nghĩ về tương lai. Không biết từ ngày mai đây mình sẽ làm gì, sống ra sao nữa
nơi phồn hoa đô thị này mà nghề nghiệp không có, trình độ văn hóa lại thấp. Hết
suy nghĩ cho tương lai mình rồi lại nghĩ đến cuộc gặp mặt của những người lính
nơi Biên Cương trở về hồi sáng đã hẹn nhau là tối mai sẽ tập trung ở Đài Phun
Nước trước cửa Hồng Vân – Long Vân ( Bờ Hồ ) chắc sẽ vui đáo để. Chả mấy chốc
xe ô tô đã về đến Cầu Đuống, trong tôi lúc đó tâm trạng bồi hồi xao xuyến, rất
khó tả. Càng gần đến nhà tôi càng nhấp nhổm ngồi không yên, rồi xe qua cầu Chui
vào phố Ái Mộ. Sắp về đến nhà rồi, chỉ cần qua chiếc cầu Long Biên kia là đến
nhà, tôi thò cả đầu ra cửa sổ xe nhìn trời mây bỗng tôi thấy 2 phát pháo hiệu bắn
lên trời. Thời gian chỉ cách nhau chút ít, tôi lấy làm lạ nhưng chả dám hỏi ai.
Khi xe ô tô vào đến cầu Long Biên tôi phát hiện ngay phía hạ lưu cầu Long Biên
có thêm cây cầu bê tông nữa. Tôi liền hỏi phụ xe cầu kia là cầu gì, mà trên cầu
nhiều người đi bộ đến thế. Gã phụ xe liền cho biết đấy là cầu Chương Dương, hôm
nay cắt băng khánh thành đấy. Tôi mới: “ à” lên một tiếng, thì ra hai phát pháo
hiệu ở hai đầu cầu bắn lên báo hiệu thông cầu để cho mọi người đi bộ lên cầu
thăm quan và ngày hôm đó cũng là ngày cuối cùng mà xe ô tô được lưu thông trên
cầu Long Biên, còn ngày mai xe ô tô sẽ được đi qua trên cầu Chương Dương.
- Rồi xe ô tô cũng đến bến Nứa,
khi xe dừng hẳn tôi nhanh nhẹn chui người qua cửa sổ xe nhảy xuống hất ngược
cái ba lô lộn lên vai, thoăn thoắt cuốc bộ về nhà. Khi bước chân vào nhà tôi gọi
to: “ Mẹ!”. Mẹ tôi đang nhặt rau muống liền đứng lên, ôm trầm lấy tôi và khóc.
Còn bố tôi vẫn nằm ở trong buồng tối tăm bên bộ bàn đèn thủng thẳng nói: “ Thịnh
đã về đó con !”
Tối hôm đó bữa cơm liên hoan mừng
tôi đã hoàn thành nghĩa vụ Quân Sự trở về đoàn tụ với gia đình sau hơn 4năm tôi
xa nhà. Tôi nói xơ qua về gia đình tôi tí nhỉ ! Tôi có 7 anh em trai
"không có gái", tôi là thứ 4 "ở giữa" trên có 3 anh, dưới
có 3 em. Bố Mẹ già (Bố lại nghiện thuốc phiện). Anh cả tôi luôn lang bạt kỳ hồ
thỉnh thoảng mới về nhà, còn anh thứ 2 vả 3 đã có gia đình đã ra ở riêng lên
lúc đó tôi về chỉ có tôi là lớn. Sau bữa cơm đoàn tụ gia đình anh thứ 2 và 3 liền
gọi tôi ra một chỗ nói nhỏ,về tình cảnh gia đình và cuối cùng thẳng thắn bảo
tôi rằng! Bây giờ kiến giải nhất phận ai có thân người đó lo, chúng tao là lớn
nhưng đã có gia đình rồi,chúng tao còn phải lo cho vợ con chúng tao, bây giờ
mày đã về rồi,mày là lớn lại chưa vợ con gì mày phải lo cho gia đình. Tôi tủi
thân, uất ức, nuốt nước mắt vào trong chấp nhận, còn Bố Mẹ tôi không hề hay biết
gì.
Đó hơn 4năm lính Biên Giới về đến
nhà các anh tôi đối sử với tôi như thế đó ! Gia đình tôi nghèo Bố Mẹ có chắt
chiu được tý nào thì lo cho các ông anh lớn hết rồi. Còn tôi khi về đến gia
đình chỉ còn khoảng 600 đồng mà được các anh tôi giao nhiệm vụ như thế đó. Cơm
nước họp bàn song xuôi tôi liền lên đầu cầu Chương Dương phía đường Trần Nhật
Duật xem ca nhạc,tôi súng sính trong bộ Quân Phục mới tinh còn thơm mùi vải, gặp
bạn bè cũ ai ai cũng chúc mừng tôi khi biết tôi đã hoàn thành nghĩa vụ trở về,rồi
các bạn tôi rủ tôi ra Thủy Tạ ăn kem. Ôi ! những cái kem Hà Nội sau hơn 4năm
tôi mới được thưởng thức lại.
Chúng tôi vui vẻ chuyện trò mãi đến
tận khuya mới giải tán. Đấy ngày đầu tiên tôi về với Thủ Đô với gia đình như thế
đó các Đồng Chí và các Bạn ạ.
Đi xem ca nhạc (Khánh thành cầu
Chương Dương). Rồi đi ăn kem với bạn bè thời học sinh quá khuya tôi mới về nhà
đi ngủ, với cuộc "rút quân"
Grin của tôi về với gia đình quá vất vả lên đêm hôm đó tôi ngủ một giấc
rất sâu ngon lành. Nhưng đến sáng 5 giờ 30 phút tôi lại nghe hình như có tiếng
kẻng báo thức, mà đã từ lâu tôi không phải nghe tiếng kẻng này, mà hôm nay khi
về đến nhà rồi lại nghe thấy tiếng kẻng y như báo thức (trong Quân Đội). Tôi
đang mơ màng chăn trở và trở mình, thì Mẹ tôi hỏi Thịnh đã dậy rồi hả con, dậy
đánh răng rửa mặt rồi đi ăn sáng. Tôi liền hỏi mẹ tiếng kẻng ở đâu đấy Mẹ? Mẹ
tôi bảo sao lại là kẻng tiếng chuông của nhà bà đồng Hiếu đấy! Tôi cười thầm
nghĩ tiếng chuông y như tiếng kẻng báo thức. Còn chuyện đánh răng rửa mặt thì
khổ lỗi gần 2 năm từ khi chúng tôi lên đỉnh 800 đông có biết đánh răng rửa mặt
là cái gì đâu, nhiều lúc nước uống còn chả có mà lấy đâu ra kem đánh răng và
bàn chải cơ chứ ! Thấy tôi ngượng nghịu lóng ngóng khi đánh răng Mẹ tôi biết,
sau có hỏi tôi và bảo Mẹ cứ tưởng các con ở Bộ Đội thì buổi sáng phải xếp hàng ở
bể nước để đánh răng rửa mặt rồi xếp hàng đi ăn sáng. Tôi liền bảo những việc
đó chỉ phù hợp với Bộ Đội sống ở doanh trại dưới này thôi! Còn lính chốt (Biên
Giới) bọn con những thứ đó đã bị lãng quên từ nâu rồi Mẹ tôi nghe vỡ lẽ mới bảo
thảo nào từ hôm qua khi con về đến nhà Mẹ cứ thắc mắc mà không dám hỏi tại sao
Bộ Đội gì mà tóc tai để gớm quá tôi tặc lưỡi nói vui với Mẹ lính chốt mà Mẹ! Rồi
Mẹ tôi giục tôi phiên phiến lên rồi đi ăn sáng và còn cắt tóc đi cho nó đứng đắn
với anh Bộ Đội đã hoàn thành nghĩa vụ Quân Sự trở về.
Khi chuyện gia đình đã đã dàn sếp
song xuôi. Tôi nhận nhiệm vụ phụng dưỡng cha mẹ già cà nuôi các em nhỏ, còn các
anh tôi thì phủi tay không có trách nhiệm với một lí do "đã có gia đình
riêng". Công việc đầu tiên của người lính khi hoàn thành nghĩa vụ trở về
là mang hết hồ sơ lên Quận Đội ở số 2 Bảo Khánh để nộp và lấy giấy giới thiệu
sang Công An quận Hoàn Kiếm để nhập Hộ Khẩu (nhập tịch)và sang phòng Tài Chính
Giá Cả ở Hàng Cân lĩnh 6 tháng tem phiếu thực phẩm, nhưng khi cầm tem phiếu
trong tay thì tôi chả mua được cái gì về tem phiếu cung cấp cả vì bắt đầu từ
tháng 7/1985 đã có Khẩu Hiệu (Giá Lương Tiền - bù giá vào lương) không còn hàng
cung cấp nữa mà Mậu Dịch Quốc Doanh cũng giải thể. Các công nhân nhà nước thì nộp
tem phiếu lại cho Cơ Quan để được bù giá vào lương, còn tôi cầm 6 tháng tem phiếu
cung cấp chả biết nộp vào đâu cả để mà lấy tiền bù giá.
Còn về việc đi xin việc làm thì
đúng là chuyện cười ra nước mắt Grin.
Tôi đã làm Hồ Sơ gửi vào rất nhiều Cơ Quan và Sĩ Nghiệp nhưng đều bị từ chối vì
Cơ Quan đang giảm biên chế mà tôi trình độ lại thấp mà không có nghề chuyên môn
như Công Ty Xây Dựng. Công Ty Sửa Chữa Nhà Cửa Hà Nội... Tôi thất vọng vô cùng,
cũng may hơn 4 năm lính ở chốt tôi có tăng gia ở tại chốt được ít thuốc phiện"
một cục bằng bao diêm" mang về đưa cho Bố tôi dùng và cho các con nghiện
khác hút khoảng 1 tuần sau Bố tôi hỏi tôi có xin được việc làm nhà nước không
tôi buồn thiu lắc đầu,rồi Bố tôi hỏi tôi còn bao nhiêu tiền tôi bảo con còn hơn
500 đồng thôi Bố ạ! Bố tôi liền đưa cho tôi nghìn rưởi "một nghìn năm trăm
đồng" bảo là tiền chỗ thuốc tôi mang về Bố tôi cho khách hút được từng đó,
tôi ái ngại vô cùng vì chỗ thuốc đó tôi mang về làm quà cho Bố tôi ai ngờ ! Rồi
Bố tôi khuyên tôi cầm lấy và cộng cả với số tiền của tôi còn lại cũng đủ mua một
chiếc xích Lô tàm tạm mà làm theo nghề của Bố cũ vậy. Tôi đành phải chấp nhận
theo lời khuyên của Bố tôi cầm lấy tiền đi tìm mua xe xích lô vừa đi vừa tự nhủ
tự động viên mình "con quan thì lại
làm quan, con sãi ở chùa lại quét lá đa vậy" mà làm nghề đạp xích lô mình
bỏ mồ hôi ra để kiếm tiền có gì mà sấu đâu, lên tôi càng hạ quyết tâm cao đi
tìm mua xe xích lô càng nhanh càng tốt để ổn định công ăn việc làm.
Nói về thằng chả " hùm ăn
không hết thịt " đó làm gì hả longtrec ! Hắn là con nhà lòi đó,và là công
tử bột đó, cha hắn là một người có học hàm cao làm ở một cơ quan Khoa Học Nhà
Nước hẳn hoi , vào những năm đất nước mình còn khó khăn thì cha của hắn được đi
Tây như đi chợ Grin kể cả các nước Tư Bản
mỗi một lần đi như thế lại mang về một thùng hàng to kếch sù. Mà ở lính số hắn
cũng được sướng, khi chúng tôi chuyển quân lên tới Cao Bằng vào E677 thì hắn được
biên chế vào K5 đóng quân ở tuyến 2, còn tôi lên K4 ở chốt ngay, được vài tháng
khi lính 76 và 77 ra quân thì hắn bị đẩn lên K4 vào A cối 60 C1 cùng tôi. Ăn tết
81 sang 82 xong thì hắn được lôi về D bộ vào B thông tin lĩnh một chiếc máy vô
tuyến 2w, mà khi vào chiến dịch " nâng cấp báo động biên giới" hắn ý
có đi phối thuộc với các C thì lại lằm cùng với C bộ. Đến năm 84 thì hắn bị đẩn
về C2 cũng ở chốt nhưng chốt tuyến sau suốt ngày đi hái chè đến khi ra quân, về
đến nhà được vài tháng hắn tếch đi Liên Xô luôn, vài năm sau hắn về mang theo cả
"Trâu lẫn Nghé" hiện giờ hắn
đang làm bếp trưởng của một nhà hàng khách sạn ở phố Trần Quốc Toản. Nói chung
hắn sướng từ trong trứng rồi mình bì làm sao được.
Cũng chẳng phải lâu la gì ngay buổi
chiều hôm đó tôi đã tìm mua được một chiếc xe xích lô với giá 1 nghìn 8 trăm đồng
của một ông già ở phố Mã Mây do tuổi cao sức yếu không làm được nữa. Thế là Cần
Câu Cơm của tôi đã có, ngay ngày hôm sau tôi tiến hành bắt tay vào công việc mới
ngay công việc khá vất vả nhưng được cái may mình có sức khỏe lại chịu khó, tôi
chỉ chở hàng và bốc vác là chính, nhũng bao gạo bao đường tầm cữ 1 tạ hoặc hơn
tôi vác ngon ơ, mà xích lô tôi chở đến 5-7 tạ hàng là thường mà lúc đó tôi có
57kg. Cũng may những ngày còn tại ngũ Quân Đội đã cho tôi rèn luyện vác bê tông
lên chốt quen rồi, mà bây giờ về vác bao gạo hơn 1tạ tôi cảm thấy êm và dễ chịu
vô cùng lại còn được tiền ngay nữa chứ
Grin.
Tôi
đi làm được khoảng một tháng thì đổi tiền, lúc đó tôi đã dành dụm được hơn 3
nghìn rồi mà đổi tiền 10 ăn 1 thì tôi chỉ còn có hơn 300 đồng. Cứ như thế tôi
miệt mài lao động kiếm tiền không có thời gian trơi bời gì cả vừa chăm lo cho
gia đình vừa hạ quyết tâm phải xây dựng được nhà cửa càng nhanh càng tốt bằng
chính mồ hôi và sức lao động của mình " nhà tôi ngày đó là nhà tranh vách
đất ". Còn nói về các bạn cùng về với tôi có nhiều đứa đã vào được cơ quan
nhà nước làm tử tế, và cũng có lác đác vài đứa đi Xuất Khẩu Lao Động nhìn chúng
nó có tương lai sáng quá ! nghĩ đến mình tôi lại thấy tủi thân mà nghĩ đến
tương lai của mình tôi cảm thấy mịt mù quá, nhiều lúc thấy ân hận mình khi quyết
định ra quân " thà mình cứ ở phục vụ Quân Đội lâu dài thì đỡ khổ "! Rồi
có những lúc tôi lại nghĩ hay là mình cũng làm một xuất đi lao động nước ngoài
cho sướng bản thân, nhưng rồi lại nghĩ thế còn Bố Mẹ già và các em nhỏ thì ai
lo mà các anh tôi đã tuyên bố kiến giải nhất phận rồi. Chính vì thế tôi lại
càng quyết tâm cao không đi đâu hết phải ở nhà làm và kiến thiết được nhà cửa để
các anh tôi trắng mắt ra. Khi đã góp đủ tiền vôi để xây nhà tôi liền dào một
cái hố rất to trước cửa nhà mua một núc 3 tấn vôi củ tôi rồi nấp cát lên để
dành.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét