Thứ Sáu, 21 tháng 2, 2014

Hồi ký Biên cương phía Bắc (của lính Hà Nội 81-85)- Tập 1

Hồi Ký Biên Cương (lính Hà Nội 81-85)
Hồi ký của anh Thịnh

Tôi là chiến sĩ đã tưng tham gia công tác và đã chiến đấu ở đơn vị A11 C1 D4 E677 F346 vào những năm chiến đấu gian khổ nhất tư 1981 đến 1985 . Chắc các đồng chí chưa quên vào thời điểm đó Hậu phương thì yên bình còn biên cương thì rất căng thẳng mà chúng ta là nhưng người không nghĩ đến cái sống và cái chết cùng nhau xiết chăt cây súng để gìn giữ biên cương Tổ Quốc. Cũng là giữ lấy sự bình yên  choa gia đình mình, cho người thân của mình. Trong nhiêm vụ lớn lao đó, chúng ta không tránh khỏi những thiếu thốn khó khăn, nhớ nhung của một người con trai đất Hà Thành vừa bước vào tuổi 18 - 20 các đồng chí còn nhó buổi đầu nhập ngũ. Khi bữa cơm đầu tiên của người lính  chúng ta xếp hàng tai sân kho (Ngọc Nhị) . khi chia cơm xong thì trời mua sối xả, chúng ta phải ngồi ăn cơm dưới trời mua, có những đồng chí mắt lệ nhòa không dõ nước mưa hay nước mắt . Khi ăn xong thì chậu cơm cung lưng đầy nước. Đây là nói đến buổi đầu nhập ngũ, rồi những đêm báo động , trời tối đen nhu mực , chúng ta khoác súng chạy va vào nhau mà không biết ai vao với ai rồi những ngày tập trên thao trường, trời nắng chói chang, những con đỉa ở đất Ngọc Nhị thật la khủng khiếp.
rồi thời gian cũng thấm thoát trôi nhanh . Thời gian huấn luyện đã hết chúng ta lại hành quân lên chi viện cho biên giới . Khi đi qua cầu Long Biên , chúng ta hầu như không cầm được nước mắt vì nhà ta dây quá gần mà không về được . Có số ít đồng chí gặp được người nhà , người thân thậm chí cả người yêu nữa , nhưng đa phần các đồng chí trong chúng ta chẳng gặp được ai cả cứ dõi mắt trông theo và hai hàng my ướt nhòa . Khi xe chuyển bánh qua hết cầu Long Biên thì hầu như tất cả chúng ta đều nghĩ không biết chúng ta  đi đâu rồi cuộc đời sẽ ra sao vì chúng ta còn quá trẻ .
cuối cùng chúng ta cũng lên tới Thông Nông Cao Bằng , lên tới đơn vị E677 F346 . Khi bàn giao xong thì cũng trời tối . KHi xe Huấn luyện của chúng ta quay trở về , chúng ta hầu như ai cũng ngoái cổ nhìn theo và ước gì ta được quay trở về cùng họ , Đêm đầu tiên ở trên biên giới chúng ta quên cả cái lạnh giá và sợ sệt các đồng chí vệ binh đua ta tới ngủ ở Bản Giàng . Đến sáng hôm sau lại bị chia tay nhau mỗi người mỗi ngả , người di D4 kẻ ở D5 . Ôi! cuộc sống người lính chính quy mới thật vất vả làm sao . Những nạn phân biệt giữa lính cũ và lính mới rồi lính Thái Nguyên với lính Hà Bắc . nhó đến những buổi đi lấy củi , những buổi làm công trình đào hầm , hào làm công sự rào gai thép cào rách áo quần . Những thanh bê tông công 1 mấu , cong 2 mấu , thanh 1,8m rồi thanh 1,4m và nhưng cuộc hành quân báo động cấp 1 săn sàng chiến đấu khi quân địch bấn pháo sang đất ta .
Đâu rồi những chốt 800 đông , 800 tây , chốt 466 ,rồi những đỉnh 962 cùng đỉnh 843 rồi rông đồi 759 , cùng Bản Ngảm , bản Cải , Bản Phia Bủng , Bản Keng Lòi , Bản Rế , Bản lịch , bản Ruồm cùng Rẻ Gà , Cốc lại chắc chúng ta không ai quên được chợ Cần Yên , chợ Lương thông , cùng chợ Thông Nông
các đồng chí nào đã từng trải qua chắc không thể nào quên đươc những năm tháng ấy những năm tháng đẹp đẽ của người lính Hà Nội đi bảo vệ Biên Cương tổ Quốc.
Hành Trình Của Người Lính Biên Giới Phía Bắc :
Chào các đồng chí và các bạn.Nghĩ lại mà giật mình chúng tôi sắp sửa kỷ niệm 30 năm ngày nhập ngũ đấy. Vì ngày nhập ngũ của bọn tôi là 28/3/1981 quận Hoàn Kiếm-Hà Nội. Ngày đó ở C huấn luyện bọn tôi chỉ có 4 phường thôi. Gồm:Phường Hàng Bạc+Hàng Bồ+Phúc Tân+Phan Chu Trinh. Tập trung giao quân ở sân kho hợp tác xã Tây Tựu-Huyện Từ Liêm-Hà Nội. Xong lên huấn luyện ở C8 thôn Ngọc Nhị xã Cẩm Lĩnh-Ba Vì-Hà Nội. Rồi tới ngày 8 tháng 4 có thêm 1 số lính cơ quan và lính Sơn Tây nữa,cả C huấn luyện có 147 chiến sỹ. Tháng đầu tiên tôi được lĩnh lương (phụ cấp) được 6 đồng. Rồi chuyến ra chi phú ở đợi ngày chuyển quân. Rồi đến chiều ngày 30/6 nhận được lệnh hành quân chiến đấu cả tiểu đoàn 8 tập trung lên xe ô tô (cái loại xe khách Ba Đình)mỗi C có 4 xe,mỗi B 1 xe. Các bạn thử tưởng tượng xem 16 xe chở quân , chưa kể xe chỉ huy giao quân mà ngày đấy xe chỉ đi cầu Long Biên thôi. Nên bài trước tôi viết cảnh chuyển quân qua đầu cầu Long Biên thế nào,chắc các đồng chí đã đọc. Đoàn xe đã bị tắc gần 1 tiếng vì dân ra đưa tiễn vì chúng tôi ở quận Hoàn Kiếm mà Cầu Long Biên lại rất gần. Tiếng gọi nhau ý ới !Tìm nhau rồi đoàn xe cũng chạy được nhờ sự giúp đỡ của Công An và Kiểm Soát Quân Sự. Rồi chúng tôi được đưa vào tận sân ga (hình như là sân ga Yên Viên hoặc Đông Anh) Đêm hôm đó trời mưa nho nhỏ ,chúng tôi ngồi ôm nhau ngủ gà ngủ gật chờ trời sáng. Bên ngoài thì Kiểm Soát Quân Sự đứng gác rất cẩn thận. Trời sáng hẳn chúng tôi lên tàu hỏa, đến 11h trưa thì chúng tôi lên đến ga Quán Triều-Thái Nguyên. Cả 1 tiểu đoàn 8-E828 (lúc đó vẫn mang phiên hiệu đơn vị huấn luyện). Hơn 500 quân đứng xếp hàng lọt thỏm ở trong 1 cái nhà kho của ga Quán Triều.Khi tập trung quán triệt xong thì 1 đoàn xe ô tô toàn Zin130 và GAT53 từ từ lùi vào. Chúng tôi lại lên các xe tải đó (Xe Quân Đội) mỗi B 1 xe.( cả đoàn xe khoảng 20 chiếc). Chúng tôi đầu tiên để ba lô xuống kê để ngồi thì xe rất chật nhưng khi xe chạy do đường xấu, sóc và lắc chúng tôi phải đứng hết dậy để bám vào nhau thì xe lại rộng.Đến tối chúng tôi dừng chân nghỉ ở 1 cái trường học ven dường(Hình như là phổ thông Bắc Cạn) thì phải. Đến đó chúng tôi cũng ko ngủ được vì lệnh giới nghiêm(Vệ Binh rất đông và ko cho ai ra khỏi! trường học cả).
Tôi viết như thế các đồng chí đã hình dung ra chưa? Thế là 2 đêm rồi chúng tôi không được ngủ. Chúng tôi cũng chả biết mình đang đi đâu, hiện giờ đang ở chỗ nào ( vì không được tiếp xúc với dân địa phương ) chỉ được biết sơ sơ là khi cán bộ đọc mệnh lệnh hành quân chiến đấu. Hướng hành quân ( Hướng Bắc ) phương tiện hành quân ( Ô tô, tàu hỏa, Ô tô và hành quân bộ ). Cứ thao thức nghĩ ngợi lung tung lúc thì nghĩ về gia đình, thương bố mẹ già quá mà các em tôi còn nhỏ. Mình lại không biết được mình đang đi đâu. Không làm sao mà cầm nổi nước mắt! ( vì lúc đó tôi còn quá trẻ ). Rồi trời cũng sáng dần tôi cũng không nhớ chúng tôi có được ăn sáng không ( bạn nào nhớ thì nhắc cho tôi với  Smiley ). Thì thằng Bôm Bốp ở B tôi nó kêu bị mất hết tiền ( Đó là 1 người bạn của tôi, sở dĩ nó có tên như vậy vì lúc đó tôi vừa xem xong bộ phim " Trên từng cây số ". Bôm bốp và Đê a lốp mà ). Không biết thằng nào lấy của nó. Vì tối hôm trước khi đoàn xe chuyển quân qua đầu cầu Long Biên nó gặp được mẹ và chị gái nó có rúi cho nó vài trăm đồng thì nó mới có tiền mà bị mất. Còn hầu như lính chúng tôi thằng nào mà gặp không được người nhà thì chả ai có tiền cả. Vì sau 3 tháng huấn luyện có tiền đã đập phá hết rồi ( sau này tôi mới biết mẹ tôi cũng ra đầu cầu Long Biên hôm đó nhưng không tìm được tôi vì rất nhiều xe không biết tôi ở xe nào). Tôi nói miên man quá phải không các đồng chí  Smiley
Rồi chúng tôi lại lên xe mỗi B vẫn 1 xe. Đoàn xe chuyển bánh từ từ vượt đèo ( sau này tôi mới biết là đéo Giàng ) một đoàn xe gần 20 hiếc nối đuôi nhau chạy lắc lư để lại đằng sau một vệt bụi dài tít tắp. Toàn đèo là đèo, rừng mây âm u, xe chạy lắc lư, chúng tôi phởn phơ hò reo vẫy chào những người dân đang đeo gùi ( dân tộc ) đi bộ ở dưới đường. Rồi đoàn xe nghỉ lại ở một thị trấn nhỏ có một cái chợ ở ven đường. Chúng tôi xuống xe, thằng thì mua " Chuối " thằng thì mua " Trứng luộc" để ăn. Rồi gặp 1 cái "Bưu Điện" Nói là bưu điện cho nó oai chứ thực chất nó chỉ là cái nhà cấp 4 mái ngói còn tường thì be bằng gỗ, không có cái biển hiệu gì cả. Hỏi nhân viên thì biết đó là bưu điện Ngân Sơn. Tôi vào đánh về cho mẹ tôi một bức điện tín với nội dung " Con đang chuyển quân lên Biên Giới". Hỏi thì hỏi mà điện thì điện chứ lúc đấy chúng tôi có biết mình đi biên giới nào đâu, mà có biết Ngân Sơn là ở đâu đâu mặc dù mình đang ở đấy.
Rồi đoàn xe lại chuyển bánh, lại đèo và đèo toàn rừng núi thôi, càng chạy lên cao đường càng sâu và sóc vô cùng. Chúng tôi hò reo mỗi khi xe chui vào một đám mây mù, Vì chúng tôi nghĩ mình được đi trên mây Grin
Ối! cha ơi mẹ ơi toàn đèo là đèo thôi một đoàn xe chở quân gần 20 chiếc chạy đường đèo thì kinh khủng quá, ngửa cổ lên thì thấy một xe trên đầu, nhìn xuống dưới thì thấy một xe dưới chân. Đoàn xe chuyển quân vẫn tiếp tục đi mãi, đi mãi ........!
Đi...đi mãi toàn đèo và rừng núi. Qua đèo gió, rồi đèo Cao Bắc ( đây là các địa danh sau này tôi mới biết tên ). mà các bạn đã nghe tên, Vòng Cung chắn gió Ngân Sơn chưa ?. Nó là một cái đèo rất cao dốc ngoằn nghèo và hiểm trở !. Ai đã từng lên Cao Bằng thì mới biết được, rồi xe đổ dốc  lư, chúng tôi đứng trên thùng xe bị dồn đi dồn lại cứ bám chặt lấy nhau, la hét, hoảng loạn vì sợ, mặt thằng nào thằng đấy đều tái mét. Rồi đoàn xe cũng đến cây số 8 Cao Bằng ( đường quốc lộ 3 từ Cao Bằng về Bắc Thái ). Có một trạm KSQS. Thì đoàn xe chuyển quân chúng tôi bắt đầu tách dần ra từ cây số 8 thì xe bọn tôi rẽ tay trái đi đường Nguyên Bình hay Cao Bình gì ấy còn khoảng gần 10 xe còn các xe kia đi hướng nào thì chúng tôi cũng không biết nữa. Rồi đoàn xe lại nghỉ ở một cái thị trấn nho nhỏ, vì lúc ấy đã quá trưa rồi ( không nhớ được là có được ăn cái gì không ). Thì chúng tôi hỏi dân ở đó thì được biết nó là thị trấn Nước Hai ( Nấc Hai ) của huyện Hòa An. Còn cách biên giới khoảng 40 km nữa. Tôi có dò hỏi anh lính lái xe là về đến đơn vị mới còn xa không, Thì anh ấy trả lời là còn xa. Phải gần tối mới đến nơi, còn phải đi qua Phà và một cái đèo nữa. Bỗng lúc đấy tôi thấy ồn ào ở một cái nhà tranh sát đường ( Hiệu cắt tóc ). Tôi mới đi vào thì thấy thằng Bôm Bốp nó nói to, rất to kiểu cáu gắt : " Có trả tao không thì bảo". Có thằng ngoài nói vọng vào: " đánh bỏ mẹ nó đi ". Lúc đó thằng Hồ Hởi ( tôi đã viết 1 cái tên khác ) bị dồn vào một góc nhà, mặt tái mét. Thì ra tối hôm trước đơn vị nghỉ chân ở phổ thông ( Bắc Kạn ).
ThằngHồ Hởi tắt mắt của thằng Bôm Bốp cái ví. Thằng Bôm Bốp nhận được khi thằng Hồ Hởi bỏ tiền ra mua quà. Lúc đó giữa cán bộ khung huấn luyện và cán bộ nhận quân chưa bàn giao nhau. Thì chỉ biết can ngăn không cho ai đánh thằng Hồ Hởi. Chúng tôi ăn quà bánh qua loa xong tất cả lại lên xe.
Đoàn xe tiếp tục hành quân, càng đi, càng thấy hun hút. Tôi đứng trên cùng sát nóc Ca Bin hai tay bám chặt vào thành xe, thả đôi mắt vô hồn vào xa xăm nhòa lệ. Suy nghĩ mông lung thương bố mẹ và các em nhỏ. Khi xe vào cua, lắc một cái rất mạnh một thằng đứng đằng sau ôm chặt hai tay vào người tôi, kéo mạnh một cái thì tôi mới tỉnh lại để quan sát. Chỉ còn lại 4 xe ô tô ( C8 bọn tôi ). Rồi xe cua ngoặt xuống một bờ sông dừng lại chỉ huy, bảo chúng tôi xuống hết xe để qua "phà". C8 chúng tôi tập trung theo đội hình Trung Đội ngay ngắn.
Tôi thấy một chiếc phà nhỏ chỉ có một người điều khiển mà lại không có máy gì hết. Phía trên dòng nước chỉ có một sợi dây cáp căng qua sông ( Hóa ra Phà chạy bằng dòng dọc và sức nước ). Sau chúng tôi mới biết là Phà mỏ Sắt.
Chuẩn bị xuống Phà rồi xin phép các đồng chí và các bạn tôi được dừng phần này tại đây.
Chúng tôi tập trung theo đội hình trung đội ngay ngắn và nghe lệnh, mỗi chuyến phà chỉ chở được một xe ô tô cùng một Trung đội lính thôi. Xe của Trung đội nào xuống phà thì trung đội ấy xuống. Rồi lần lượt đại đội tôi cũng qua hết sông, tất cả lại lên xe. Đoàn xe còn 4 chiếc tiếp tục chuyển bánh ( Trước khi xe chạy, anh lái xe thông báo: " Đèo cao, dốc rất khó đi và đường rất trơn tất cả phải cẩn thận và bám chắc vào nhau ). Chúng tôi cứ tưởng anh lái xe dọa  Sad Nhưng hóa ra là thật. Đèo Mã Quỷnh ( sau này tôi mới biết ) đường đất, quanh co rất nhiều dốc và cua gấp. Chúng tôi đứng trên thùng xe bị xô từ bên nọ sang bên kia. Dưới đường, từng đoàn người đầu trọc lốc mặc váy và áo đỏ, lưng đeo gùi đi chân đất, bước đi lầm lũi. Ngửa mặt nhìn lên thì toàn núi đá cao ngất ( Thâm sơn cùng cốc quá ). Lác đác trên đỉnh núi có những làn khói trắng bay lững lờ. Thì ra dân người ta đi làm rẫy đốt nương. Thỉnh thoảng ở dưới đường lại thấy một người phụ nữ tay dắt theo một con ngựa. Trên lưng ngựa là một người đàn ông mặc quần áo Chàm nửa ngồi nửa nằm vắt vẻo trên lưng ngựa ( Sau mới biết là vợ chồng thằng Mán đi chợ về, chồng bị say rượu). Rồi đoàn xe leo dốc rất khó khăn, ì ạch, lắc lư. Rồi đến khi xe xuống dốc tốc độ rất nhanh, chao đảo và lắc lư rất mạnh. Chúng tôi la hét hoảng loạn nhiều hơn là thích thú. Vì trời đã về chiều muộn, anh lái xe bảo phải chạy nhanh. Khi xuống hết dốc đoàn xe đỗ lại ở thị trấn Thông Nông nghỉ. Tôi quan sát xung quanh thầm nghĩ :" Thị trấn quái gì chỉ có lèo tèo vài cái nhà lụp xụp ". Tôi lăn kềnh ra cái bãi cỏ ở ven đường lia mắt nhìn xung quanh thì chỉ thấy có mỗi một cái biển hiệu là : " Bưu điện Thông Nông ". Có một vài thằng vào hình như là đánh điện tín hoặc mua tem thư. Tôi đang nằm mơ màng nghỉ ngơi thì có lệnh lên xe, rất nhanh chóng chúng tôi đã lên xe và điểm danh quân số.
Rồi xe lại tiếp tục chuyển bánh, Anh lái xe bảo :" Bây giờ đường bằng và sắp tới nơi rồi, vì trời sắp tối nên xe chạy cũng nhanh qua mấy cái cua tay áo ". Tôi thấy một cái thung lũng khá rộng lớn, có đồng ruộng và bản làng xa xa, nhưng hoàn toàn là nhà sàn thôi. Bỗng cả 4 xe rẽ vào cái đường đá lởm chởm rất khó đi, Bên ngoài  có Ba-Li-e và vệ binh đứng gác, rồi sâu bên trong có mấy gian nhà tranh, tôi đoán là đã đến đơn vị mới rồi. Đúng thật, khi đoàn xe đỗ lại chúng tôi được lệnh xuống xe và tập trung. Tôi quay đi quay lại đảo mắt nhìn xung quanh thì thấy anh Đại Đội Phó bảo 2 anh Tiểu Đội Trưởng khiêng một cái bao tải xuống mở và mở ra, kế bên là một cái bàn của đơn vị mới đã được kê sẵn. Hóa ra đó là lý lịch quân nhân của tụi tôi. Khi làm thủ tục bàn giao quân số xong ( đơn vị tôi không thiếu đi một người nào ). Tôi vẫn tranh thủ lén ra bắt tay và chia tay A trưởng cùng B trưởng huấn luyện của tôi. Rồi anh em thấy thế cũng ra bắt tay với A trưởng B trưởng của mình. Bộ khung huấn luyện lần lượt lên xe ô tô quay trở về. Tôi cứ dõi mắt nhìn theo và nghĩ :" Ước gì tôi cũng được quay trở về cùng họ". Thế là cuộc Hành quân chiến đấu di chuyển của bọn tôi từ xã Chi Phú - Ba Vì - Hà Nội lên đến đơn vị mới ở Thông Nông - Cao Bằng hết 3 ngày 2 đêm đã kết thúc.
Nhưng chưa hết đâu nhé các đồng chí và các bạn ạ. Vì đây mới là sân của E bộ 677, cả một đại đội Huấn luyện vẫn đứng ở sân E bộ đấy.
Trời sắp tối rồi. Khi cán bộ khung của đơn vị Huấn Luyện cũ của chúng tôi lên xe ô tô để quay về. Thì chúng tôi được lệnh tập hợp, đồng chí cán bộ Quân Lực đơn vị mới ( thì phải). Đọc danh sách trích ngang điểm danh lại lần cuối, và chia đôi đơn vị tôi ra làm 2 phần. Một nửa được đưa đi trước ( về D5 vì D5 là D cơ động ở sát E bộ ). Sau này tôi mới biết còn một nửa chúng tôi được các đồng chí vệ binh đưa đi vào một cái bản ( Bản Giàng ) Ở gần E Bộ để nghỉ thì trời đã tối hẳn. Chúng tôi được phân chia nhau ra vài người một nhà, mà toàn là nhà sàn thôi. Lúc đó chúng tôi vừa đói lại vừa mệt, lạ nữa và sợ. Vì các đồng chí vệ binh đưa chúng tôi vào nhà dân, giao dịch với dân toàn bằng tiếng dân tộc. chúng tôi chẳng hiểu gì cả ở bên ngoài tôi thấy lác đác vài đồng chí vệ binh khác vác súng trên vai gác rất nghiêm túc ( Hình như sợ chúng tôi đảo ngũ ). Tôi lân la hỏi ông chủ nhà rất may ông ý cũng biết tập tọe vài câu tiếng Kinh. Tôi nói ông ấy cũng hiểu chút ít, câu đầu tiên tôi hỏi ông ấy là :" Biên giới còn cách đây bao xa hả bác ? " Ông ấy trả lời :" Cách đây khoảng 20km nữa chú ạ ". Tôi hoang mang vô cùng ! Bụng đang đói, suy nghĩ mông lung loay hoay tìm chỗ dải chiếu để ngả lưng ( vì quân tư trang của tôi còn đầy đủ ). Thì một đồng chí vệ binh bước vào điểm danh, lại vào phát cho chúng tôi mỗi người một cái bánh mì. Bánh mì xịn ở dưới xuôi - đồng chí vệ binh nói ( vì ở trên này toàn mì luộc thôi ). Ối! Cha ơi mẹ ơi, hóa ra là bánh mì cũ của đơn vị huấn luyện chúng tôi bàn giao, nó đã chua và bở bùng bục ra rồi. Vì đã được hậu cần của đơn vị cũ chuẩn bị từ trước khi hành quân chiến đấu, mà trên đường hành quân đã mất mấy ngày rồi. Vì nhà dân cũng chẳng có gì ăn được mà tiền của chúng tôi thì hầu như không có nữa. Nên cứ nhắm mắt mà ăn thôi, rồi cái bánh mì chua loét cũng hết, chúng tôi mỗi thằng 1 chiếu trải thẳng ra sàn ngả lưng. Ngoài cửa trời tối đen như mực đâu đó một vài con đom đóm bay lượn lờ, lập lòe phát ra những vầng sáng yếu ớt. Tiếng Giun, Giế, Cóc, Nhái hỗn độn hòa vào nhau râm ran thành một bản nhạc vô hồn nơi chiến địa. Tiếng Tắc Kè ở núi đá vọng về sao mà não nùng thế, ở dưới gần sàn các đồng chí vệ binh vẫn bển bỉ tuần tra canh gác. Bên cạnh tôi một vài thằng đã thiếp đi vì quá mệt, vài thằng ngủ ngáy khò khò bên tai, có thằng ngủ ú ớ nói mê :" Thả tôi ra...thả tôi ra...Cho tôi về với mẹ." Rồi tôi ngủ lúc nào cũng không hay.
Sáng sớm ngày hôm sau chúng tôi được các đồng chí vệ binh báo thức dậy rất sớm. Khi thu dọn quân tư trang xong, chúng tôi chào chủ nhà. Ra cửa nhà tập trung điểm danh, rồi đi theo đồng chí vệ binh ra một cái sân rộng. Bên ngoài có một cái mương nước nhỏ chúng tôi lấy nước ở đó đánh răng rửa mặt, rồi tập trung thành hàng ngay ngắn ( Lúc đó còn khoảng hơn 50 người ). Các đồng chí vệ binh đưa chúng tôi trở lại sân E Bộ, trên đường từ Bản Giàng về sân E bộ vệ binh rất đông ( E677 có 1 B vệ binh ). Tôi thiết nghĩ, tối hôm qua mỗi nhà trọ chúng tôi ở lúc nào cũng có 1 đến 2 đồng chí vệ binh đứng canh gác. Vào đến sân E Bộ, chúng tôi xếp thành 10 hàng dọc, đồng chí vệ binh điểm danh và bàn dao quân số cho Quân Lực Trung Đoàn, lúc đó một đồng chí cán bộ Trung Đoàn đeo lon Thiếu Tá ra quán triệt nhắc nhở giao nhiệm vụ và nói chuyện rất thân mật, rồi chúng tôi được phát mỗi người một nắm mì luộc ( là bữa ăn phụ ). Cái đó đối với chúng tôi thì quá quen rồi vì suốt thời gian huấn luyện hơn 3 tháng chỉ toàn ăn bột mì luộc thôi. Chỉ được mỗi bữa cơm của sáng ngày 29/03/1981 Ngày đầu tiên của đơn vị huấn luyện mà tôi đã viết. Bữa cơm ngập tràn trong mưa và nước mắt.
Khi ăn phụ xong ở E Bộ chúng tôi được 2 đồng chí ( không rõ chức vụ gì ) nhắc nhở, dặn dò và bảo chúng tôi cài lá ngụy trang, buộc lại ba lô cho gọn gàng để chuẩn bị hành quân. Lúc đó khoảng 9 giờ sáng ( có khoảng hơn 50 người, mỗi người được phát thêm 2 nắm mì luộc nữa - đó là khẩu phần ăn bữa trưa của lính ). Chúng tôi bắt đầu hành quân theo đội hình hàng một người cách người 3m. Hai đồng chí lính cũ dẫn đường có súng AK, 1 người đi đầu và 1 người đi cuối đội hình. Luôn mồm đốc thúc chúng tôi bám sát đội hình và đi sát vào mép núi. Qua cái dốc đầu tiên đường đất ( đường mòn đi tắt ), khá cao, dốc và trơn. Anh lính cũ giới thiệu đây là đèo Bó Đin, chúng tôi đầu tiên ai cũng hăm hở hành quân đi rất nhanh. Anh lính cũ phải bảo đi bình tĩnh thôi, từ từ vì đường còn dài. Đi được khoảng 2 tiếng thì chúng tôi bắt đầu thấm mệt và uể oải thằng nào thằng ấy mồm mũi tranh nhau thở, miệng khô roong, khát nước ( vì khi chuyển quân chúng tôi không được trang bị Bi Đông, chai lọ đựng nước cũng không có ). May quá! đúng lúc đấy anh lính cũ chỉ tay về phía trước bảo :" Đến mỏ nước kia chúng ta nghỉ uống nước " ( Mỏ nước bản Ruồm ). Chúng tôi mắt thằng nào cũng sáng lên như vớ được của, khi đến mỏ nước thì ra nó chỉ là cái lạch nhỏ nước chảy từ khe núi ra chúng tôi ngồi ịch xuống 1 cái ngả người ra, tháo quai ba lô ra khỏi vai chẳng cần bát, tranh nhau lấy 2 tay chụm vào nhau đưa lên miệng uống lấy uống để. Anh lính cũ nhắc nhở :" Từ từ thôi không nó đục lên bây giờ ". Nghỉ ngơi một lúc đỡ mệt rồi, anh lính cũ chỉ tay về phía trước bảo chúng tôi cố gắng đi lên đỉnh đèo Keo Hái kia thì chúng ta nghỉ ăn trưa. Tôi đưa mắt nhìn theo hướng anh lính cũ chỉ mà lòng ái ngại. Rồi chúng tôi giúp đỡ nhau đeo Ba lô cẩn thận lại lên đường, chặng đường thứ hai này thì chúng tôi mạnh ai nấy đi, không có hàng lối gì cả. Thằng khỏe thì đi trước, thằng yếu thì đi sau. Có hai thằng yếu quá tụt tạt lại mãi sau cùng. Hai anh lính cũ phải khoác ba lô hộ chúng nó. Tôi nghĩ vì chúng nó là con nhà giàu ( Công tử bột ). Còn tôi chỉ thấy mệt thôi, mà lúc đó tôi mới 42kg Cao 1m62, nhưng là con nhà lao động. Chúng tôi đi qua bản Ruồm những người dân bản mặc quần áo Chàm có cả con gái nữa, đứng ở trên sàn nhà chỉ chỏ và xì xồ nói với nhau cái gì bằng tiếng dân tộc. Chúng tôi chẳng hiểu gì cả. Anh lính cũ bảo người ta nói chuyện với nhau là có lính mới lên đấy mà là lính Hà Nội cơ.
Ra khỏi bản Ruồm, chúng tôi từ từ leo dốc ai cũng đã mệt rồi càng đi càng thấy xa vời, suy nghĩ lung tung :" Bộ đội hành quân là thế này đây!". Chắc chẳng còn ngày về nữa rồi. Vì đã chuyển quân sang ngày thứ 4 mà vẫn chưa về đến đơn vị mới. Nhìn đoàn lính chúng tôi đi như một đoàn quân Ô Hợp ( Thằng thì quần áo xanh, thằng trắng, thằng vàng, thằng có mũ, thằng không mũ, thằng giầy, thằng dép ) bước đi uể oải. Rồi chúng tôi cũng đi được đến đỉnh đèo Keo Hái, chúng tôi ngồi phịch xuống một cái bỏ ba lô cho đỡ mệt và chén hết 2 cái bánh Bẻng ( nắm bột mì luộc )
Xa xa dưới chân đèo, một dòng suối uốn lượn vòng vèo, nhìn như một con Trăn Khổng Lồ đang trườn mình về phía trước, chảy cắt ngang qua chân đèo ào ào......ào ào.......
Khi nghỉ ngơi và chén hết 2 nắm mì luộc xong, chúng tôi ngồi tào lao tán gẫu một lúc thì đồng chí lính cũ chỉ tay lên đỉnh núi trước mặt mà bảo :" Đây là chốt 466 của C5, D5 đấy ". Chúng tôi ngửa mặt nhìn lên thì chẳng thấy gì cả, nó chỉ là cái rừng Vầu và vài cây lúp súp ( Sim + Mua ). Nhìn kĩ mới thấy mấy cái nóc nhà tranh thấp lè tè. Tôi lân la lại gần 2 anh lính cũ hỏi chuyện thì được biết 1 anh ở ban Quân Lực, 1 anh ở B Vận Tải. Tiểu đoàn 4 xuống Trung đoàn đón chúng tôi từ tối hôm trước. Nhưng sáng nay trung đoàn mới bàn giao quân, để các anh ấy đưa về. Ngồi ăn và nghỉ đã lâu chúng tôi đã đỡ mệt, lại nhìn thấy dòng suối dưới chân đèo, chúng tôi giục các anh lính cũ đi tiếp để xuống suối rửa chân tay cho mát. Hôm đấy là ngày 1/7 mà, trời rất nắng, khi xuống đến suối chúng tôi hạ ba lô rồi ào xuống suối. Nước chỉ đến lưng gióng chân và đầu gối thôi, những hòn đã cuội to bằng cái mũ cối tròn mà trơn kinh khủng. Tôi bị tuột mất quai dép ( tôi đi dép cao su  Cheesy ). Còn những thằng đi giầy thì cứ để cả giầy mà lội xuống nước đùa nghịch và té nước lên người nhau một cách thích thú ( rất hồn nhiên, ngây thơ ). Khi ướt hết quần áo thì chúng tôi cởi hết quần áo dài ra để tắm và giặt luôn, vì đã 4 ngày không được tắm rồi. Các đồng chí và các bạn thử tưởng tượng xem; Cuối tháng 6 đầu tháng 7 với cái nắng và nóng như thế, hành quân tàu xe như vậy mà 3 đến 4 ngày không được tắm thì như thế nào, thật là khủng khiếp  Undecided
Tắm gội xong chúng tôi để quần áo ướt trên đỉnh ba lô và trên đầu, vừa phơi và vừa che cho đỡ nắng. Hành quân đến đâu các anh lính cũ giới thiệu đến đó, nào là bản Lịch, bản Rẻ Gà. Rồi chúng tôi đến một cái chợ đã tan, chỉ còn lại lác đác vài thằng Mán say rượu nằm ngủ ở ven đường mà vợ nó ngồi cạnh lấy lá cây quạt phe phẩy cho nó. Bên cạnh là cái gùi và con ngựa đang nhởn nhơ gậm cỏ. Anh lính cũ giới thiệu đây là chợ Lương Thông cũ. Chúng tôi cứ đi... cứ đi..., có thằng còn ngoái cổ lại xem cái khung cảnh lạ lùng ấy, đi tiếp theo là bản Rế và xa xa trong vách núi là bản Đông Chia. Dưới suối những chiếc Cọn nước vẫn cứ đều đều quay kiên nhẫn và bền bỉ. Những chiếc cối giã gạo nước vẫn giã đều ào...bụp...ào...bụp vừa đi vừa chuyện trò cho đỡ mệt. Tôi nghĩ như thế còn những thằng công tử bột thì thất thểu lết lê từng bước một, còn tôi là con nhà lao động mà ở nhà tôi từng đạp xích lô, bao cám, bao gạo 70kg tôi vác và quắp ngon ơ. Mặc dù lúc ấy tôi nặng có 42kg. Đang đi thì anh lính cũ chỉ tay về phía trước bảo :" Kia kìa C3 của tiểu đoàn mình đấy ". Tôi nhìn thấy mấy cái nhà mờ mờ và thấp tè, tôi nghĩ bụng còn xa, vừa đi tôi vừa nghĩ nếu mà tôi được vào cái đơn vị ấy thì tốt biết bao, vì tôi đã biết được qua lúc nói chuyện với 2 anh lính cũ là C3 ở ngay sát bờ suối, không phải lên Chốt, còn các C kia ở chốt hết. Vừa đi vừa nghĩ lung tung, cái khoảng cách mà anh lính cũ bảo C3 cứ ngắn lại dần dần, phía trước mặt lại thấy có một cái làng thưa thớt có vài nóc nhà sàn và mấy bụi tre tôi hỏi anh lính cũ là làng gì anh ấy đáp đó là Bản Ái, ở đây không có làng nào cả, chỉ có Bản và Nũng thôi.
Khi đi qua Bản Ái thì tôi thấy C3 rất gần, lính tráng mặc quần đùi đi lông nhông, đứng tắm ở dưới suối, giơ tay chỉ chỏ về hướng chúng tôi. Đang mải nhìn lính cũ tắm suối và ước ao thì chúng tôi được lệnh dừng lại và rẽ lên cái nhà ở trên cao bên tay phải, nhìn là tôi biết ngay nhà lính. Tôi thở phảo nhẹ nhõm chắc mẩm đã đến nơi rồi. Vì ở đấy cũng có vài người lính cũ rồi. Lúc ấy khoảng hơn 4 giờ chiều, chúng tôi được nghỉ một lúc và uống nước thoải mái, thuốc lá Du lịch loại có cán hút phì phèo và tranh nhau mời các anh lính cũ ). Màn chào hỏi và giao lưu với lính cũ và lính mới đã điểm danh quân số xong ( không ngót đi người nào ). Một đồng chí cán bộ cầm danh sách trích ngang đọc thứ tự, tôi và 9 đồng chí nữa. Tổng cộng là 10 người tất cả. Người đầu tiên đứng riêng ra một hàng ( Tôi nghĩ tiểu đoàn chia lính về từng C đây ). Khi 10 đứa chúng tôi xếp hàng riêng ra một chỗ, thì anh lính cũ giục một người đưa chúng tôi đi ngay kẻo tối, chúng tôi vẫn kịp bắt tay và chia tay nhau. Chúng tôi lại khoác ba lô lên đường, tiếp tục cuộc hành trình. Tốp của tôi có 10 người trong khi đó đã có 7 thằng cùng Phường rồi còn 3 thằng nữa ở khác phường nhưng lại cùng B huấn luyện. Thế là quen biết nhau hết, Chúng tôi cứ đi mà cũng may, anh lính cũ nhận chúng tôi ở Trung đoàn về vẫn đi cùng nhóm 10 người chúng tôi. Đi qua bản nào anh ấy vẫn giới thiệu tên bản đó. Nào là bản Ngẳm, nào là bản Phác. Ai ai cũng cố gằng đi nhanh, vì nhóm của chúng tôi toàn những thằng khỏe, ở nhà đã tự đi lao động kiếm tiền rồi mà. Anh lính cũ nói :" Nếu không đi nhanh thì trời sẽ tối mất, mà còn phải leo Cổng Trời nữa đấy ". Chúng tôi nghe nói đến Cổng Trời mà phát hoảng, vì từ bé đến giờ có biết Cổng Trời là thế nào đâu. Nên chả thằng nào nói với thằng nào cả. Rồi đường lên Cổng Trời cũng ở trước mắt, Trước khi leo Cổng Trời anh lính cũ dặn :" Buộc chắc lại quai Ba lô, bước bước nào chắc bước ấy, người ngả về phía trước. Hai tay bám vào các tảng đá cao hơn trước mặt, nếu bám được. Tôi làm như lời anh lính cũ dặn, đi được một lúc thì ... Ối Cha mẹ ơi! Mệt đến đứt hơi. Tim đập thình thịch như muốn nhảy ra ngoài lồng ngực. Mồm miệng há hốc thở dồn, leo đã rất lâu rồi mà đã được khá cao. Đến một khúc cua cũng rộng, gió thổi vi vu mát rượi, anh lính cũ bảo nghỉ đã. Chúng tôi thở phào một cái và định tháo ba lô rồi ngồi xuống. Anh lính cũ nói to :" Không được tháo ba lô ra, không được ngồi, mà chỉ tay bảo chúng tôi tìm các mỏm đá cao đứng, ghé ba lô vào đúng tầm, đứng mà nghỉ. Xong anh ấy giải thích: " Đang khoác ba lô nặng, leo cao, rất mệt mà tháo ba lô ra ngồi nghỉ, mà các cậu chưa quen thì sẽ không muốn đi nữa ". Gió thổi mát lộng, Tôi thả mắt nhìn xuống dưới chân Cổng Trời lè lưỡi ra ngao ngán. Những bờ ruộng và con đường chúng tôi vừa đi qua chằng chịt như Ô bàn Cờ, Còn người thì chỉ nhỏ như ngón tay út. Chắc các bạn cũng tưởng tượng ra được là tôi đang đứng với độ cao như thế nào rồi chứ. Còn ngẩng cổ nhìn lên trời thì thấy còn mù mịt lắm...
Khi đã hết thở gấp, nhịp tim đã đập bình thường trở lại. Anh lính cũ giục đi ngay kẻo ngại. Chúng tôi lại túc tắc leo Cổng Trời. Cái mệt cũng dần dần quen, và Cổng Trời cũng leo lên được đến đỉnh, chúng tôi đòi nghỉ nữa, thì anh lính cũ bảo không nghỉ ở đây, Cố đến bãi đất rộng ở Nũng kia nghỉ rồi lấy mía mà ăn. Nghe thấy nói đến Mía, mắt chúng tôi sáng lên, phấn khởi, sốc lại ba lô dấn bước vì đang khát nước khô hết cả cổ.
Khi đã đến bãi đất rộng, chúng tôi hạ hết Ba lô, ngồi nghỉ và hỏi anh lính cũ :" Mía đâu anh ". Anh cười mà chẳng nói năng gì, từ từ tiến vào bãi ngô, bẻ một cây và cầm ra bảo :" Mía đây ". Rồi đưa lên miệng, rước ăn ngon lành. Chúng tôi trợn hết cả mắt lên, anh ấy cười và bảo :" Lấy mà ăn đi cho đỡ khát, ngọt lắm đấy ". Tôi không tin, anh ấy bẻ cho tôi một đoạn, tôi cầm lấy ăn thử. Tôi đưa lên miệng rước và ăn thì thấy ngọt thật, tôi thốt lên :" Ngọt thật chúng mày ạ ". Thế là chúng nó ào vào bãi Ngô. Anh lính cũ nói to :" Bẻ những cây không có bắp thì nó mới ngọt. đừng bẻ cây có bắp của người ta, ăn nhạt lắm ". Xả láng một trận " Mía " ( Lính chúng tôi gọi là Mía rừng ). Hết mệt và khát, khỏe khoắn hẳn lên, anh lính cũ lại giục :" Thôi chúng ta đi tiếp, sắp đến C1 rồi ". Chúng tôi lại khoác ba lô lên đường, bước đi hồ hởi, loáng một cái tôi đã nhìn thấy mấy mái nhà lợp tranh, dài dài trong khe núi đá. Tôi đoán là nhà của lính, đúng lúc đó anh lính cũ chỉ tay bảo :" C1 đấy, cố gắng lên, sắp về đến đơn vị rồi ". Chúng tôi phấn trấn hẳn lên, sốc lại ba lô 1 lần nữa, nhanh chân bước. Vào đến đơn vị trời cũng nhá nhem tối, chúng tôi được đưa thẳng đến nhà C bộ. Lúc đó tôi thấy một anh dáng người thấp, chắc, khỏe, nhanh nhẹn, mắt hơi lác, vui mừng ra bắt tay chúng tôi và hỏi :" Đi đường có mệt không các đồng chí ". Chúng tôi đáp :" Mệt thủ trưởng ạ ".
Chúng tôi được hướng dẫn xếp gọn ba lô vào buồng của Đại đội Phó ( đang đi công trình, không có nhà ) Rồi lấy khăn mặt xuống bếp đại đội, rửa chân tay, mặt mũi. Ai ai cũng thấy sảng khoái và mát mẻ. Xong xuôi chúng tôi lại lên nhà C bộ thì trời đã tối hẳn. Trên bàn của nhà C bộ đã có sẵn 1 chậu cơm, 1 chậu canh bí đỏ và một đĩa cá mắm nướng ( cá chuồn ). Sau màn giới thiệu, anh thấp lác ( bắt tay chúng tôi ) là Anh Giang ( Đại trưởng C1 ) quê ở Chiêm Hóa - Hà Giang. Còn 2 đại phó 1 đang đi kiểm tra B1 ở "Chốt". 1 đang chỉ huy đơn vị đi làm công trình, chúng tôi lấy bát đũa ra ăn cơm. Ôi! bữa cơm đầu tiên ở đơn vị mới chính quy, mới ngon làm sao vì chúng tôi vừa trải qua một cuộc hành quân lịch sử của người con trai đất Hà Thành ( lúc đó tôi mới 18 tuổi ). Mà cũng là bữa cơm thứ 2 của đời người lính trong tôi ( Hình như ngày ấy toàn quân đều ăn bột mì ). Mà cuộc đời binh nghiệp của tôi mới được 3 tháng 4 ngày.
Cơm nước xong xuôi, có nước chè uống tử tế. Rồi anh Giang ( C Trưởng ) bảo liên lạc đưa tôi, đồng chí Thắng và đồng chí Thái vào nhà A CỐI ngủ tạm ( lúc đó khoảng 9h tối ).ngày mai. Chúng tôi được nghỉ công tác, chỉ trực chiến và tắm giặt. Vì ngày mai đơn vị ở công trình về rồi mới biên chế chúng tôi về B và A. Tôi mang ba lô đi theo anh liên lạc về A CỐI. Dưới ánh đèn dầu leo lét tôi hạ ba lô xuống cái sạp không có chiếu. Chỉ có 1 anh lính cũ ở nhà, Tôi ngơ ngẩn quan sát nhà A CỐI, đó là nhà tranh 3 gian, thoáng đãng và có 10 cái sạp. Tôi đứng ngẩn người ra định thắc mắc thì anh lính cũ nói luôn :" A có mấy người đi làm công trình hết, chỉ còn mỗi mình tôi ở nhà, ngày mai anh em mới về ". Tôi đáp :" Thảo nào tôi thấy đơn vị im ắng thế ". Rồi anh lính cũ giục chúng tôi mắc màn và ổn định chỗ ngủ tạm để còn tắt đèn ( vì phải tiết kiệm dầu ). Rồi anh em nằm nói chuyện sau. Dưới ngọn đèn dầu yếu ớt, lờ mờ cũng đủ ánh sáng để chúng tôi lấy chăn màn ra. Tôi trải chiếu, mắc màn ở ngay cạnh cái sạp mà anh lính cũ A CỐI đã mắc màn sẵn. Tôi chuẩn bị một loáng là xong. Còn 2 đồng chí kia nằm ở 2 cái sạp sát góc nhà bên kia. Tôi chui vào màn, ngả lưng xuống sạp cảm thấy thoải mái vô cùng. Rồi bắt đầu hỏi chuyện anh lính cũ, anh giới thiệu tên là " Lam, quê ở Thanh Hóa ". Nhưng làm công nhân ở nhà máy Gang Thép - Thái Nguyên ( đi lính ở cơ quan ). Năm nay 26 tuổi, đã có vợ và 1 con. Nhập ngũ tháng 12/1980, mới bổ xung vào đơn vị hồi tháng 3/1981. Anh Lam cho tôi biết, C1 mình có 3 B và 2 A trực thuộc đơn vị Bảo Vệ Biên Giới từ mốc 117 đến 119. Thuộc 2 xã Vị Quang và Cần Yên huyện Thông Nông - Cao Bằng. Và tái chiếm lại đỉnh 800 Đông ( Khi bị thất thủ ). Miên man chuyện trò ngoài sân trực ban đại đội đơn vị đã nhắc nhở những người gác ca đầu ra làm nhiệm vụ. Tôi dậy đi vệ sinh, quan sát cảm thấy đêm vùng biên giới yên tĩnh quá, Bầu trời đầy sao. Hai dãy núi đá, sừng sững, nhấp nhô chạy dài xa tít tắp trong bóng đêm. Tôi rùng mình, vào nhà và lên sạp đi ngủ. Phía góc nhà bên kia 2 đồng chí lính mới cùng tôi đã thả những tiếng ngáy đều đều. Tôi cũng chìm dần vào giấc ngủ êm ái giữa đêm yên tĩnh nơi núi rừng biên giới.....
Khi đã hết thở gấp, nhịp tim đã đập bình thường trở lại. Anh lính cũ giục đi ngay kẻo ngại. Chúng tôi lại túc tắc leo Cổng Trời. Cái mệt cũng dần dần quen, và Cổng Trời cũng leo lên được đến đỉnh, chúng tôi đòi nghỉ nữa, thì anh lính cũ bảo không nghỉ ở đây, Cố đến bãi đất rộng ở Nũng kia nghỉ rồi lấy mía mà ăn. Nghe thấy nói đến Mía, mắt chúng tôi sáng lên, phấn khởi, sốc lại ba lô dấn bước vì đang khát nước khô hết cả cổ.
Khi đã đến bãi đất rộng, chúng tôi hạ hết Ba lô, ngồi nghỉ và hỏi anh lính cũ :" Mía đâu anh ". Anh cười mà chẳng nói năng gì, từ từ tiến vào bãi ngô, bẻ một cây và cầm ra bảo :" Mía đây ". Rồi đưa lên miệng, rước ăn ngon lành. Chúng tôi trợn hết cả mắt lên, anh ấy cười và bảo :" Lấy mà ăn đi cho đỡ khát, ngọt lắm đấy ". Tôi không tin, anh ấy bẻ cho tôi một đoạn, tôi cầm lấy ăn thử. Tôi đưa lên miệng rước và ăn thì thấy ngọt thật, tôi thốt lên :" Ngọt thật chúng mày ạ ". Thế là chúng nó ào vào bãi Ngô. Anh lính cũ nói to :" Bẻ những cây không có bắp thì nó mới ngọt. đừng bẻ cây có bắp của người ta, ăn nhạt lắm ". Xả láng một trận " Mía " ( Lính chúng tôi gọi là Mía rừng ). Hết mệt và khát, khỏe khoắn hẳn lên, anh lính cũ lại giục :" Thôi chúng ta đi tiếp, sắp đến C1 rồi ". Chúng tôi lại khoác ba lô lên đường, bước đi hồ hởi, loáng một cái tôi đã nhìn thấy mấy mái nhà lợp tranh, dài dài trong khe núi đá. Tôi đoán là nhà của lính, đúng lúc đó anh lính cũ chỉ tay bảo :" C1 đấy, cố gắng lên, sắp về đến đơn vị rồi ". Chúng tôi phấn trấn hẳn lên, sốc lại ba lô 1 lần nữa, nhanh chân bước. Vào đến đơn vị trời cũng nhá nhem tối, chúng tôi được đưa thẳng đến nhà C bộ. Lúc đó tôi thấy một anh dáng người thấp, chắc, khỏe, nhanh nhẹn, mắt hơi lác, vui mừng ra bắt tay chúng tôi và hỏi :" Đi đường có mệt không các đồng chí ". Chúng tôi đáp :" Mệt thủ trưởng ạ ".
Chúng tôi được hướng dẫn xếp gọn ba lô vào buồng của Đại đội Phó ( đang đi công trình, không có nhà ) Rồi lấy khăn mặt xuống bếp đại đội, rửa chân tay, mặt mũi. Ai ai cũng thấy sảng khoái và mát mẻ. Xong xuôi chúng tôi lại lên nhà C bộ thì trời đã tối hẳn. Trên bàn của nhà C bộ đã có sẵn 1 chậu cơm, 1 chậu canh bí đỏ và một đĩa cá mắm nướng ( cá chuồn ). Sau màn giới thiệu, anh thấp lác ( bắt tay chúng tôi ) là Anh Giang ( Đại trưởng C1 ) quê ở Chiêm Hóa - Hà Giang. Còn 2 đại phó 1 đang đi kiểm tra B1 ở "Chốt". 1 đang chỉ huy đơn vị đi làm công trình, chúng tôi lấy bát đũa ra ăn cơm. Ôi! bữa cơm đầu tiên ở đơn vị mới chính quy, mới ngon làm sao vì chúng tôi vừa trải qua một cuộc hành quân lịch sử của người con trai đất Hà Thành ( lúc đó tôi mới 18 tuổi ). Mà cũng là bữa cơm thứ 2 của đời người lính trong tôi ( Hình như ngày ấy toàn quân đều ăn bột mì ). Mà cuộc đời binh nghiệp của tôi mới được 3 tháng 4 ngày.
Cơm nước xong xuôi, có nước chè uống tử tế. Rồi anh Giang ( C Trưởng ) bảo liên lạc đưa tôi, đồng chí Thắng và đồng chí Thái vào nhà A CỐI ngủ tạm ( lúc đó khoảng 9h tối ).ngày mai. Chúng tôi được nghỉ công tác, chỉ trực chiến và tắm giặt. Vì ngày mai đơn vị ở công trình về rồi mới biên chế chúng tôi về B và A. Tôi mang ba lô đi theo anh liên lạc về A CỐI. Dưới ánh đèn dầu leo lét tôi hạ ba lô xuống cái sạp không có chiếu. Chỉ có 1 anh lính cũ ở nhà, Tôi ngơ ngẩn quan sát nhà A CỐI, đó là nhà tranh 3 gian, thoáng đãng và có 10 cái sạp. Tôi đứng ngẩn người ra định thắc mắc thì anh lính cũ nói luôn :" A có mấy người đi làm công trình hết, chỉ còn mỗi mình tôi ở nhà, ngày mai anh em mới về ". Tôi đáp :" Thảo nào tôi thấy đơn vị im ắng thế ". Rồi anh lính cũ giục chúng tôi mắc màn và ổn định chỗ ngủ tạm để còn tắt đèn ( vì phải tiết kiệm dầu ). Rồi anh em nằm nói chuyện sau. Dưới ngọn đèn dầu yếu ớt, lờ mờ cũng đủ ánh sáng để chúng tôi lấy chăn màn ra. Tôi trải chiếu, mắc màn ở ngay cạnh cái sạp mà anh lính cũ A CỐI đã mắc màn sẵn. Tôi chuẩn bị một loáng là xong. Còn 2 đồng chí kia nằm ở 2 cái sạp sát góc nhà bên kia. Tôi chui vào màn, ngả lưng xuống sạp cảm thấy thoải mái vô cùng. Rồi bắt đầu hỏi chuyện anh lính cũ, anh giới thiệu tên là " Lam, quê ở Thanh Hóa ". Nhưng làm công nhân ở nhà máy Gang Thép - Thái Nguyên ( đi lính ở cơ quan ). Năm nay 26 tuổi, đã có vợ và 1 con. Nhập ngũ tháng 12/1980, mới bổ xung vào đơn vị hồi tháng 3/1981. Anh Lam cho tôi biết, C1 mình có 3 B và 2 A trực thuộc đơn vị Bảo Vệ Biên Giới từ mốc 117 đến 119. Thuộc 2 xã Vị Quang và Cần Yên huyện Thông Nông - Cao Bằng. Và tái chiếm lại đỉnh 800 Đông ( Khi bị thất thủ ). Miên man chuyện trò ngoài sân trực ban đại đội đơn vị đã nhắc nhở những người gác ca đầu ra làm nhiệm vụ. Tôi dậy đi vệ sinh, quan sát cảm thấy đêm vùng biên giới yên tĩnh quá, Bầu trời đầy sao. Hai dãy núi đá, sừng sững, nhấp nhô chạy dài xa tít tắp trong bóng đêm. Tôi rùng mình, vào nhà và lên sạp đi ngủ. Phía góc nhà bên kia 2 đồng chí lính mới cùng tôi đã thả những tiếng ngáy đều đều. Tôi cũng chìm dần vào giấc ngủ êm ái giữa đêm yên tĩnh nơi núi rừng biên giới.....

Sáng hôm sau, lúc 5 giờ trực ban đại đội thổi mấy hồi còi dài báo thức. Tôi và anh lính cũ bật dậy rất nhanh, chạy ra cửa. Trực ban hô:" Toàn đơn vị tập trung để tập thể dục buổi sáng ( tất cả lúc đó đơn vị khoảng hơn 30 người ). Tiếng hô 1...2...3...4...1...2...3...4 vang đi---vọng về--- vang vọng ở núi rừng biên giới, mới khỏe khoắn làm sao, oai hùng biết bao. Như thể hiện cho quân TQ biết là lực lượng của chúng ta luôn túc trực sẵn sàng phản chiến. Lực lượng quân và dân của Việt Nam rất hùng mạnh. Nếu 1 lần nữa quân TQ dám liều lĩnh sang xâm chiếm nước ta một lần nữa. Tập thể dục xong chúng tôi vệ sinh cá nhân rồi ( mỗi người 1 nắm mì luộc ) chén hết khẩu phần phụ buổi sáng. Tôi bắt đầu lang thang tìm hiểu địa hình đơn vị nơi tôi đóng quân. Thấy rất rõ, đơn vị của tôi đóng quân trong 1 cái thung lũng, gọi là lũng "Ngẳm". Lưng dựa vào núi đá cao, 3 hướng ( Đông - Tây - Bắc) đều là núi đá tai bèo cao sừng sững, duy nhất hướng Nam là có con đường đá và đất, lởm chởm gập ghềnh. Sau nhà bếp của đơn vị là một cái mỏ nước ở trong hang núi đá, sâu khoảng 30m, muốn vào trong đó lấy nước thì phải đốt 1 bó đuốc dài hơn 1m. Thì mới đủ thấy đường vào và ra, những anh cấp dưỡng đã bắt đầu nhào bột mì để làm bánh cho bữa trưa. Tôi mon men vào sát sườn núi phát hiện thấy một loại cây lá màu tím, rất giống cây rau tía tô ở dưới mình. Tôi cúi xuống định ngắt thì anh Lam ( lính cũ ) nhìn thấy nói to :" Cây lá Han đấy đừng sờ vào ngứa lắm đấy ". Tôi rụt ngay tay lại rồi quay ngay về bếp của A CỐI ngồi cùng với anh Lam. Hỏi anh ấy về tình hình của đơn vị C1 mình hiện giờ. Anh Lam từ tốn kể cho tôi biết tình hình biên chế và nhiệm vụ. Hiện giờ B1 là B chấn giữ ở hướng chủ yếu của đại đội. Đóng quân ở gần bản Keng Lòi, có nhiệm vụ trấn giữ ở đỉnh Cổng Trời ( Cốc Lại ) và con đường mòn ở sườn núi ( Sam Kha ) đỉnh 1111 có đường đi tắt từ Sóc Giang của huyện Hà Quảng - Cao Bằng sang là 2 tiểu đội. Còn 1 tiểu đội đang nằm ở bản Phia Bủng sát đường biên giới thuộc mốc 117. Giáp Gianh với xã Sóc Giang huyện Hà Quảng- Cao Bằng. Có một tổ bắn tỉa, luôn túc trực, quan sát theo dõi những di biến động sát đường biên ở bên kia biên giới, sẵn sàng bắn tỉa các chú lính TQ nào mà ngáo ngơ ra sát đường biên khi tầm bắn có hiệu quả
B2 là B chốt giữ hướng thứ yến của đại đội chốt giữ ở Cổng Trời Bản Ngẳm khi có chiến sự xảy ra
B3 là B cơ động của Đại đội luôn luôn túc trực, cơ động chi viện cả 2 hướng chủ yếu và thứ yếu khi cần thiết trong chiến sự xảy ra
Hỏa lực: A10 - A11 ( Đại liên và cối 60mm ) trực thuộc Đại đội mỗi A có 2 khẩu sẵn sàng đánh phối thuộc cho cả 2 hướng ( chủ yếu và thứ yếu ) Khi có chiến sự xảy ra. Còn những ngày bình thường thì đơn vị đang khẩn trương xây dựng kiến thiết và củng cố hầm, hào, công sự ở trận địa ( Chốt ) Và huấn luyện nâng cao kĩ chiến thuật và kĩ năng cơ động chiến đấu cho đơn vị trong chiến tranh phòng ngự và phản công ( đặc biệt là lính mới )
Anh Lam kể chuyện rất cuốn hút, tôi cứ ngồi há mồm ra nghe. Bỗng trực ban thổi một hồi còi dài và hô các A xuống bếp lấy cơm. Anh Lam đưa cho tôi 1 cái giá, 1 cái Ăng-Gô bảo tôi xuống bếp lấy cơm, tôi vào bếp anh Cấp Dưỡng hỏi :"mấy người" tôi bảo :"4 người 3 mới 1 cũ" . Anh Cấp Dưỡng đếm 8 cái bánh bổ vào rá cho tôi rôi múc cho tôi 1 gô canh (hạt đậu Tương ninh ) ăn cơm trưa xong tôi ngả người ra sạp đánh một giấc ngon lành . Đên khoảng 3 giờ chiều thì tôi thấy đơn vị ồn ào náo nhiệt , tôi tỉnh dậy thì ra đơn vị làm công trình ở trên chốt đã rút về , tôi được liên lạc báo mang ba lô lên C Bộ để biên chế chúng tôi xếp hàng ngang ở trước của nhà C Bộ đếm đi đếm lại chỉ có mỗi 9 người chứng tỏ ngay từ sáng hôm đầu tiên ở đơn vị mới 1 anh vì nhớ mẹ quá đã để ba lô lại rồi quay về thăm mẹ luôn.
Tôi được biên chế chính thức quân số vào A11 (cối 60 C1 D4 E 677 F346) và đồng chí Thắng cùng đợt và cùng phường với tôi , vào chiều ngày 2-7-1981 tôi đã sinh hoạt gắn bó chiến đấu trải qua bao nhiêu thăng trầm của người lính nơi Biên Cương của Tổ Quốc. Đến tận ngày 28-6-1985 tôi xuống Trung Đoàn bộ 677 nhận quết định xuất ngũ về địa phương. Ngày đó tuổi Quân của tôi vừa tròn  4 năm 3 tháng cấp bậc H1 chức vụ A trưởng (cối 60).
khi tôi đã được biên chế chính thức vào A11 (cối 60) C1 . Sang ngày hôm sau toàn đơn vị được nghỉ công tác (vì vừa đi làm công trình về) , chỉ trực chiến sẵn sàng chiến đấu thôi . Tôi bắt đầu tìm hiểu các thành viên trong tiểu đội , và đại đội . C1 chúng tôi lúc đó các hạ sĩ quan và chiến sĩ vẫn còn lính 75,76,77,78,79,80 và 81 bọn tôi , còn đại đội trưởng là anh giang (quê ở Hà Giang) và 2 đại đội phó là anh Nghị (quê ở chợ đồn - Bắc Cạn),anh hoàn (quê ở NA RÌ - Bắc Cạn). Tổng A cối chúng tôi gồm 9 người trong đó có 3 anh lính 78 , anh Huỳnh và anh tính quê ở Định Hóa - Bắc thái ,anh Bá Sơn ở Đồng Bẩm lính 79 có 2 anh , anh Điển ở Phú Lương Bắc Thái anh Hào ở Lương thông - Thông Nông Cao Bằng . Lính 80 có 2 anh , anh Thành ở Lương sơn Bắc Thái và anh Lam mà tôi đã giới thiệu , còn tôi và đồng chí thắng là lính 81 (mới) .
Đồng thời tôi được báo lên kho đại đội gạp người quản lý và nhận quân trang dùng chung và quân dụng . Tôi được đơn vị mới cấp phát thêm : 1 mũ sắt ,1 túi cơm , 1 mặt lạ phòng hóa , 1 ăng gô , 1 xẻng , 1 áo bông , 1 chăn bông , 1 mũ bông và 1 đôi găng tay
Trang bị vũ khí tôi được phát thêm: (1 khẩu AK 47 và 120 viên đạn) 12 quả đạn cối cùng ngòi nổ và liều phóng chính và phụ khi cơ động chiến đấu và 1 chiếc bàn đế cối 60. Thế là đời lính của tôi bắt đầu đi vào hoàn thiện và bước vào những trang mới của người lính bảo vệ BGPB.
Dần dần tôi đã quen với môi trường sống của đơn vị chính quy, làm quen dần với anh em trong đơn vị. Tôi bắt đầu tập hút thuốc lào. Khi đã được trang bị thêm chăn bông. Phiên chợ Lương Thông là đầu tiên của đời lính Biên Giới của tôi, vì không có tiền tôi đã mang luôn cái chăn len Ba Lan được phát trong quân tư trang ra chợ bán. Được 300đ và mua thuốc lá, thuốc lào, chè, rượu và thịt về tiều đội, để thết đãi anh em.
Vì ở trên này dân họp chợ theo Phiên, với những ngày không phải phiên chợ kể cả có tiền cũng không mua bán được gì cả. Tôi luôn đi theo lính cũ vào Bản giao lưu tìm hiểu phong tục tập quán của dân tộc ( chủ yếu ở chỗ đơn vị tôi đóng quân là dân tộc Tày và Nùng ). Nhất là các cô gái trẻ, các cô gái lúc nào cũng thướt tha trong chiếc áo dài bằng vải Chàm. Lúc nào cũng buộc cái dây đai ngang eo để dắt con dao " Coắm " ( khi ra khỏi nhà ). Và tôi bắt đầu học tiếng dân tộc vì ở đây chỉ có những người còn trẻ thì mới biết nói tiếng Kinh, còn đa số người già thì không biết. Đặc biệt dân ở đây khi có bộ đội vào chơi thì chỉ lấy rượu ra mời chứ không có nước và nhân dân ở đây thì rất quý bộ đội vì có bộ đội ở đây thì dân không sợ Trung Quốc nữa. Chứ cứ như năm 1979 không có bộ đội ở đây TQ đánh sang nhân dân sợ và khổ lắm ( Theo lời Pá bản nói ).
Trận chiến không tiếng súng, tôi bị thương...
Khi cuộc sống và sinh hoạt của tôi đã hòa mình với đơn vị quân đội chính quy. Nơi biên cương Tổ Quốc. Một ngày vào buổi trưa, khoảng trung tuần Tháng 8/1981 ( Tôi không nhớ rõ ngày ). Tôi đang nghỉ trưa thì Liên lạc đại đội vào A CỐI chúng tôi báo ( báo động bí mật ). A Trưởng lên đại đội nhận nhiệm vụ gấp, khi về A Trưởng truyền lại lệnh :" Toàn A kiểm tra lại toàn bộ Trang bị vũ khí, cơ số đạn, lựu đạn, chuẩn bị cơ động tái chiếm lại đỉnh 800 Đông. Hiện giờ 800 Đông đã bị thất thủ.
Tôi cho 12 quả đạn cối 60 vào ba-lô + Ngòi nổ và liều phóng chính phụ, đeo bao xe hộp tiếp đạn, gài 4 quả lựu đạn. Khoác súng A K và bàn đế Cối ra cửa C bộ tập trung B3 và A Đại liên đã có mặt. Anh Giang ( đại đội trưởng ) trực tiếp chỉ huy, quán triệt và giao nhiệm vụ. Tiểu đoàn tăng cường bổ sung 1 máy liên lạc vô tuyến 2W và đồng chí trợ lí tác chiến tiểu đoàn đi cùng để tham mưu và trợ giúp. Chúng tôi bí mật cơ động từ Lũng Ngẳm ( nơi đơn vị đóng quân ) tạt qua sườn núi bản Phay Đén qua Lũng Vài. Địa hình đường mòn toàn núi đá tai bèo rất hiểm trở, chúng tôi cơ động rất nhanh mặc dù ai cũng mang vác vũ khí và đạn dược rất nặng. Tôi rất háo hức và bồn chồn lo lắng về trận đánh này ( vì tôi là lính mới ). Chúng tôi vẫn bí mật cơ động theo đúng đội hình để tiếp cận và chiếm lĩnh trận địa.
Đại đội trưởng cùng trợ lí tác chiến tiểu đoàn luôn xem bản đồ tác chiến và bảo đồng chí thông tin máy 2W Báo cáo tọa độ cho tiểu đoàn về địa điểm đơn vị đang di chuyển. chúng tôi đã cơ động lên đến Dông Đồi 700 mà vẫn thấy đỉnh 800 Đông rất yên ắng như không có chuyện gì sảy ra. Vẫn bí mật cơ động, chúng tôi áp sát chân cao điểm 800 Đông. Khẩu Cối của tôi đã vào vị trí chiến đấu, B3 đã triển khai đội hình chiến thuật. Khẩu Đại Liên ( A10 ) đã tìm được vị trí thích hợp. Cối 60 đã đo đạc và lấy phần tử bắn theo mục tiêu đại đội trưởng chỉ định. Sao 800 Đông vẫn yên ắng vô cùng, tôi thấy làm lạ. Rồi Đại Đội Trưởng báo cáo qua máy vô tuyến 2W với tiểu đoàn. Đơn vị đã áp sát mục tiêu và triển khai đội hình chiến thuật xong, xin chỉ thị phản công.......
Chúng tôi đã chiếm lĩnh trận địa , bố trí đội hình chiếm thuật đã xong . Đại đội trưởng đã xin chỉ thị của tiểu đoàn phản công để lấy lại cao điểm 800 đông . Đúng lúc đó ( qua máy thông tin 2W ) tiểu đoàn chỉ thị lệnh cho đại đội tôi thu quân rồi rút . Đã hoàn thành nhiệm vụ ( thì ra chỉ là 1 trận diễn tập mà tiểu đoàn thử sức cơ động về thời gian cơ động và phương án tác chiến của đại đội tôi khi tái chiếm lại cao điểm 800 đông
khi có lệnh rút quân, chúng tôi rút bằng đường khác tụt dốc từ 800 đông xuống bản Nà Thin. Tôi vẫn khoác ba lô bên trong có 12 quả đạn cối 60 , khẩu AK đủ cơ số đạn 120 viên và 4 quả lựu đạn , bàn đế cối 60 đang theo đội hình xuống dốc rất nhanh và bí mật (vì chỗ đó chỉ cách đường biên giới khoảng 300 đến 400m, tầm bắn tỉa của Trung Quốc vẫn tới).
Bỗng tôi ngồi thụp xuống, đưa tay trái lên ôm đầu, thấy hai má và trán man mát, tôi hạ tay xuống thì thấy trong tay toàn tóc và máu,mắt hoa lên thấy toàn đom đóm ở trước mặt, tôi không biết gì nữa...
Thấy tôi ngồi gục xuống và ngất đi, máu chảy ra rất nhiều, cả đại đội nhốn nháo cả lên. Anh Thuần (Y tá đại đội ) kịp thời có mặt, băng vết thương cho tôi, tiêm thuốc trợ tim. Còn các đồng chí khác thì chuẩn bị võng làm cáng. Anh Giang C trưởng cử A CỐI của tôi 3 người (anh Huỳnh, Tính, Bá Sơn). B3 2 người (Đình Thắng, Vũ Sơn). Cùng anh Thuần Y Tá là 6 người khiêng tôi xuống trạm xá trung đoàn cấp cứu. Đến nửa đêm thì xuống tới nơi, các anh ấy bàn giao tôi cho trạm xá rồi lại quay về đơn vị ngay.
- Những lời trên đây tôi viết là theo lời kể lại của những anh đã cáng tôi đi cấp cứu !
Đến gần sáng tôi mới tình lại, thấy đầu đau và nhức nhối vô cùng, tôi đưa tay lên sờ vào đầu mình và giật mình khi thấy bị băng kín (Băng theo kiểu mũ phi công). Khát nước và đói.
Thấy tôi cử động anh ý ta trực thốt lên khe khe :" Tỉnh rồi ".
Tôi hỏi anh y tá giọng yếu ơt: " Đây là đâu hả anh, tôi bị làm sao thế này ". Hình như tôi nói nhỏ và yếu quá anh không nghe thấy nên chạy vù ra cửa đi báo với bác sĩ là tôi đã tỉnh.
Hòn đá đó do anh Hùng (ghẻ) lính 78 quê Bắc Thái xuống dốc sau tôi lên còn ở độ cao hơn tôi tần cơ 10m ,đã hất hòn đá bẹt bằng hai bàn tay, bằng mũi giầy xuống tả ly không may rơi đúng đầu tôi. ( sau khi ra viện về đơn vị tôi mới biết) !
Cái tết ở Biên Giới đầu tiên của tôi 1981-1982..................
Cả đơn vị nhộn nhịp hẳn lên để chuẩn bị Tết. Tiêu chuẩn chúng tôi mỗi người được 2 kg gạo nếp, đỗ và thịt để gói bánh Chưng. Và cái quan trọng nhất là chúng tôi được thông báo có gạo thổi cơm trong 3 ngày tết ( Những ngày thường chúng tôi vẫn ăn bột mì ). A CÔI chúng tôi liên hệ được với dân bản nấu hộ được 10 lít rượu ngô. Người thì lo làm bàn thờ Tổ Quốc, người thì lo làm cành hoa dân chủ. Người gói bánh Chưng ( Đơn vị  chia gạo nếp cho từng tiểu đội tự gói ). Bánh, kẹo, thuốc lá chúng tôi được cấp phát khá đầy đủ. Lính Hà Nội cũng có vài đồng chí tự giải quyết phép cho mình về nhà ăn tết.
Rất may là tôi biết gói bánh Chưng, nên tôi đảm nhiệm công việc đó, còn thằng Tùng Rũi cũng là lính Hà Nội, nó đạo diễn món thịt kho tàu. Nói chung A CỐI chúng tôi tổ chức đón tết khá sung túc. Đêm 30 tết chúng tôi sinh hoạt tập thể hái hoa dân chủ, tổ chức văn nghệ khá vui vẻ và ấm cúng nên tôi cũng đỡ đi được phần nào tư tưởng nhớ nhà. Sau giao thừa chúng tôi ào vào các tiểu đội chúc tết nhau, chúc nhau những bát rượu Ngô nồng ấm, rồi ai say thì đi ngủ. Người nào đến ca gác thì gác. Sáng mùng 1 chúng tôi bắt đầu giao lưu vào các bản đi chúc tết, vào nhà nào cũng phải uống 1 bát rượu. Khi đã ngà ngà say chúng tôi lại khất khểu về đơn vị ngủ đến chiều tối và ngày hôm sau. Cả 3 ngày tết cứ lặp đi lặp lại như thế. Rồi những ngày xuân cũng qua đi nhanh chóng. Chúng tôi lại quay lại những ngày xây dựng và củng cố trận địa...!
Ngày này mồng 1 tết gần 30 năm về trước 1981 - 1982
Đêm giao thừa chúng tôi tổ chức văn nghệ vui chơi ở Đại đội khá vui vẻ. Khi sang canh ở biên giới không có tiếng pháo. Nhưng tiếng súng nổ đón xuân đì đùng của cả dân và lính. Nghe cũng vui tai ra phết. Đạn lửa ( vạch đường ) đan chéo chi chít lao lên không trung rất hoành tráng. Giao thừa xong chúng tôi liên hoan chúc tụng nhau những lời tốt đẹp ( chủ yếu toàn bằng rượu ). Tôi không uống được rượu mấy nên khoảng 1h30 tôi lên giường đi ngủ. Khi mở mắt ra khoảng 8h sáng mùng 1 tết. Tôi đi vào bản chúc tết các Pá ở bản lân cận gần đơn vị đóng quân. Rồi đi xem hội xuân vùng cao. Tiếng Kèn, tiếng hát lượn của các chàng trai, giọng hát cô gái vút cao nơi núi rừng biên giới. Ném còn, đánh cù và nhiều các trò chơi dân gian khác...
Các đồng chí nhớ rằng ở vùng cao, Cao Bằng dân bản tiếp khách chỉ toàn bằng rượu.....?
Ngày nằy mồng 4 Tết năm 1982. Đã hết Tết rồi. Những người Dân Bản đã bắt đầu đi làm việc cho ngằy đầu tiên của Năm Mới. Trên nương(rẫy) những Cô Gái phấp phới những tà áo chàm,cần mẫn tra ngô(đăm tắy).Rưới ruộng (bậc thang) những con trâu con bò và các Bác (nam giới đã cứng tuổi) đang cầy,bừa ruộng.Các chàng Thanh Niên í ới gọi nhau,vác búa (rìu) lên núi chặt củi.Những con chim chào mào,con sẻ đá con sáo,hót níu lo. Trên vách núi đá dựng đứng phía său bản Lũng Ngẳm,từng bầy khỉ nô đùa chuyền từ cành cây nọ sang dây kia kêu choác choác...! Trên sườn núi hoa Mận nở trắng cả một vùng. Đơn vị phát động Tết trồng cây sung quanh đ/v (mỗi đ/c trồng 2 cây tùy thích). Tôi chả biết trồng cây gì cả. Nghĩ mãi,nghĩ mãi? cũng ra! Tôi liền cầm cái xẻng vào khe núi đánh một cây Chuối to bằng bắp chân cao khoảng 1,5m ,vác về trước cửa nhà A Cối , mệt bở hơi tai. Nhưng phải trồng 2 cây cơ mà,nếu trồng một cây thì chưa đủ, chả nhễ lại đi lấy tiếp cây nữa ? Cuối cùng tôi nẩy ra cái mẹo,đào 2 cái hốc để trồng chuối. Tôi liền lấy con dao phạt cây chuối ra làm đôi,Trồng xuống làm thành 2 cây. Rồi gọi anh Bá Sơn A Trưởng ra bàn giao và báo cáo.Tôi đã hoàn thành nhiệm vụ ! Rồi tôi lại lang thang vào Bản (đánh dậm) uống riệu tiếp........
Hôm nay mồng 5 tết(Canh Dần).Ngày 18/2/2010. Hôm qua 17/2.Mấy thằng Lính E 677 chúng tôi,gọi là gặp mặt đầu Xuân.Cũng là nhớ lại ngày này 31 Năm về trước khi chiến tranh BGPB nổ ra (lúc đó tôi mới 16 tuổi.Đã hừng hực khí huyết muốn cầm súng đánh giặc.Nhất là khi Chủ Tịch Nước ban bố lệnh Tổng Động Viên Toàn Quốc ).Chúng tôi uống riệu ôn lại kể cho nhau nghe về những kỷ niệm của Đời Lính bảo vệ BGPB. Rất hào hứng và sôi nổi.!
_ Bây giờ xin phép các đ/c và các bạn cho tôi giới thiệu sơ qua về nguồn gốc và lịch sử của E (bb) 677 và F (bb) 346 của tôi tí nhé. E 677 được thành lập ngày 30/6/1977.(tiền thân là một Tiểu Đoàn tự vệ Gang Thép Thái Nguyên). Khi E 677 ra đời thì trực thuộc Tỉnh Đội Bắc Thái. Công việc chủ yếu là làm đường Tỉnh Lộ từ Na Rì-Chợ Rã đi Pắc Nận ( ở Bắc Cạn hiện giờ ).
_F (bb)346 được thành lập năm 1978 (tiền thân là đoàn xây dựng kinh tế Quốc Phòng 346). Khi F (bb) 346 hình thành có thu nhập E (bb). 246 E (bb) 677.E (bb) 851 và E (pb) 188. Địa bàn đóng Quân thuộc 2 tỉnh Hà Giang và Cao Bằng ( thuộc quân khu 1 ). Sau cuối năm 1978 ( thì phải ). Quân khu 2 thành lập thì F ( BB ). 346 rút hết về hướng Cao Bằng...
_Năm 1979 Chiến tranh BGPB E ( BB ) 677 chốt giữ ở Hướng Trà Lĩnh ( Cao Bằng ) Cửa khẩu Phai Can
_C1 bảo vệ mỏ măng gan ( Trà Lĩnh ) Anh Tấn ( Tấn Quắt ) là đại đội trưởng và kiêm chỉ huy luôn cả một tiểu đoàn tự vệ mỏ nữa ...!
Ngày đó ! Tháng 2/1979. Ở hướng Thông Nông CB ( đường tỉnh lộ 204 CB hiện giờ ) Chưa có Quân Chủ Lực. Mà chỉ có 1 Đồn Biên Phòng ( 181 ) và 1b hoặc 1c Dân Quân địa phương tập trung thôi. Khi sáng sớm ngày 17/2/1979. TQ bán pháo sang thì Dân Quân địa phương đó đã sách súng về cùng với gia đình di tản lên núi hết.Còn Đồn Biên Phòng (181) có hơn 30 Chiến Sỹ. Khi Quân Đoàn (41) của TQ có cả xe tăng yểm trợ tràn sang rất đông,lên các Chiến Sỹ Đồn Biên Phòng (181) Chỉ cầm cự được một khoảng thời gian rất ngắn. Khi một vài đồng chí bị thương và hi sinh thì đồn biên phòng 181 rút lên núi hết. Thế là quân TQ cứ tiến sâu theo đường tỉnh lộ 204 Cao Bằng như đi vào chỗ không người ( Vì không còn lực lượng nào chống trả nữa ). Đến khoảng 11 giờ thì quân TQ xuống đến huyện Lỵ Thông Nông, thì quân đoàn 41 TQ chia ra làm 2 cánh quân, một nửa đi theo đường Lương Can tiến đánh xuống Hòa An ( Nước Hai ). Còn một nửa vượt qua đèo Mã Quỷnh xuống mỏ sắt, rồi xuống Hòa An. Và quân đoàn 42 quân TQ đánh theo hướng Sóc Giang, Sóc Hà - Hà Quảng - Cao Bằng.
-Sau khi quân TQ rút, hướng Thông Nông chưa có Quân lên E ( BB ) 677 của chúng tôi được điều động từ hướng Trà Lĩnh sang hướng Thông Nông - Cao Bằng từ đó !
-Đây là tôi viết theo sự tìm hiểu, sưu tầm, lính cũ kể và dân bản kể lại. Có những chỗ nào chưa đúng hoặc còn thiếu thì đồng chí nào biết thì sửa hoặc bổ sung hộ tôi với nhé!
-rồi những ngày đầu xuân của năm 1982 cũng đi qua nhanh chóng, chúng tôi lại về cuộc sống đời thường của người lính BG. Ngày lại qua ngày, chúng tôi vãn trực chiến ( sẵn sàng chiến đấu ). Kiến thiết lán trại ( Lên rừng lấy cây que, cắt ranh ). Củng cố đào hầm hào, vác bê tông ( Thanh kẹo lạc ), rào thép gai, lấy củi cho bếp ăn đại đội. Công việc rất vất vả, mà tiêu chuẩn ăn thì 7 lạng mốt ( 0,71 Kg ) bột mì / ngày, mấy anh cấp dưỡng chỉ biết nhào bột rồi nắm lại và luộc chín đi thôi.
-Đến khoảng tháng 5/1982. Thì đơn vị tôi giải quyết chính sách xuất ngũ cho các anh lính nhập ngũ năm 1978. Đã trải qua chiến tranh tháng 2/1979, có thành tích xuất sắc thì được ra quân trước. Anh Bá Sơn A Trưởng CỐI 60 của tôi cũng được xét ra quân đợt đầu. Anh để lại cho tôi tất cả các quần áo cũ và chăn màn. Chúng tôi thịt một con chó khoảng 15kg để liên hoan chia tay. Hôm đó cả tiểu đội tôi hầu như ai cũng say rượu hết, mọi người đều bò lê bò càng rồi ôm nhau khóc. Giữa tình cảm của người về và người ở lại ( Chứ không phải khóc vì nhớ mẹ nữa ). Rồi anh Giang ( Giang Lác ) đại đội trưởng, cũng được chuyển vùng về quân khu 2 ở bên Hà Giang. ( Lệnh điều động do thiếu tướng Đặng Vũ Hiệp Ký ). Sau biến cố lính 78 ra quân. Đại đội trưởng chuyển vùng, đơn vị tôi được bổ sung anh Hòa là trợ lý tác chiến Tiểu Đoàn về thay anh Giang. Thì A CỐI chúng tôi được củng cố lại. Thằng Tùng rũi ( tung677 ) được chuyển sang B thông tin tiểu đoàn vì trình độ của nó cao Grin. Tôi được cử đi học lớp bồi dưỡng cách sử dụng, đo đạc, cự ly, phần tử bắn, tầm hướng của súng cối 60 ( Pháo tép ) 15 ngày học tập miệt mài, chúng tôi bắn kiểm tra đạt loại giỏi. Từ đó A CỐI chúng tôi toàn thành viên mới chỉ lính 80 và 81
-Đến tháng 7/1982. Toàn tiểu đoàn 4 chúng tôi được lệnh rút quân. Không phải ở Chốt nữa mà lùi về phía sau khoảng 3 - 4 km ( Xã Lương Thông - Thông Nông - Cao Bằng ). Bàn giao toàn bộ 2 cao điểm 800 Đông và 800 Tây cho tiểu đoàn 6 địa phương ( K6 địa phương ). chỉ để lại kho đạn cho 2 đồng chí ở lại trông giữ. Đại đội 3 ( C3 ) vẫn đóng quân ở chỗ cũ sát bản Ái thuộc xã Cần Yên. Đại đội 2 ( C2 ) rút về đóng quân ở bản Rế. Đại đội 4 và tiểu đoàn Bộ ( C4 và D Bộ ) đóng quân ở bản Rẻ Gà. Đại đội 1 chúng tôi ( C1 ) đóng quân ở Bản Lịch. Bản mà gần bờ suối cắt ngang qua chân đèo Keo Hái có đỉnh chốt 466 của D5. Trên đường Hành Quân lên đơn vị mới ý...Khi đã không phải ở Chốt nữa, rút xuống phía sau, ở trọ nhà dân bản còn nhiều điều thú vị lắm các đồng chí và các bạn ạ... Bây giờ tôi mới viết đến tháng 7/1982 đấy nhé...
-Vào khoảng tháng 7/1982   là mốc thời gian cũng đáng nhớ của đời lính BG chúng tôi các đồng chí có nhớ nó là cái mốc gì không? - Là chúng tôi bắt đầu được ăn cơm ( gạo ) Hình như anh Liên Xô cắt viện trợ không cho mình bột mì nữa, nên lính ta mới được ăn gạo. Nhưng thời gian đầu tiên cũng khổ vì gạo. Gạo Tấm ( trắng ) thổi thơm phưng phức ( Nhưng đấy chỉ là thổi lẻ thôi ). Hồi ở nhà vác sổ đi đong gạo, dân Hà Nội cũng được ăn Gạo Tấm rồi. Nhưng đơn vị hơn 100 người mấy anh nhà bếp thổi cơm bằng cái Vạc thế nào ý ( rất giỏi ) Trên sống, dưới khê, tứ bề nhão nhoét. Liên tục gần 1 tuần cả đơn vị tôi bị đi ngoài gần hết. Đến nỗi quân y sư đoàn phải đánh cả xe cứu thương ( Hồng Thập Tự ) lên tận chỗ đơn vị tôi đóng quân để kiểm tra ( Vì lúc đó sợ đơn vị tôi bị thám báo TQ hạ độc bằng nguồn nước ăn ). Và kết luận vấn đề chúng tôi bị đi ngoài như thế là do bị ăn Cơm "sống". Rồi gạo tấm hết đi, chúng tôi được ăn gạo ngon hẳn hoi. Chúng tôi ở trọ nhà dân Bản Lịch, A CỐI chúng tôi ở 2 nhà liền nhau, Ở 2 nhà sàn đó có lối đi thông nhau. Trong đó có 1 ông chủ nhà nghiện thuốc phiện, A CỐI tôi có mấy thằng nghình nghịch cả tôi nữa, bắt đầu hút thuốc phiện. Thế là bao nhiêu ( Liên Hạn) quân tư trang cấp phát mới là chuyển ra thuốc phiện hết, cả phụ cấp nữa. Nhưng chúng tôi chỉ hút chơi thôi, không có thằng nào nghiện đâu, kể cả sau này đến tháng 4/1984 bọn tôi lại nhận Chốt của K6 địa phương. Bọn tôi còn tự trồng thuốc phiện và làm bàn đèn. Mỗi lán 1 bộ bàn đèn rồi tự làm để hút cơ. Nhưng cái đó để tôi viết kĩ sau các đồng chí nhé. Để tôi nghĩ lại từ từ và viết tiếp theo trình tự những tháng năm của người lính chúng tôi nhé. Bây giời mới khoảng tháng 8/1982 thôi, đang trọ ở Bản Lịch.
-Lính tháng 2/1982 ở Đại Từ Bắc Thái đã huấn luyện xong và lên bổ sung cho đơn vị tôi. Thế là chúng tôi trở thành lính cũ rồi các đồng chí và các bạn nhỉ Cheesy.
- Bài sau tôi sẽ viết về tai nạn của tôi :" Búa bổ củi văng vào chân phải, tôi " què " chống gậy đi khập khiễng gần 2 tháng ".
-Khi chúng tôi trọ ở Bản Lịch được gần 1 tháng, tôi đã quen với một số dân bản và học tiếng dân tộc Tày được khá nhiều. Bản Lịch lại nằm sát bờ suối, chúng tôi được tắm giặt thoải mái. A CỐI chúng tôi làm công tác dân vận rất tốt, nên đến mỗi bữa ăn gia đình chủ nhà lại nấu cho chúng tôi một ít canh. Chứ còn ở bếp đại đội chỉ có mỗi cơm thôi. Mà chúng tôi phải làm công trình ( Vác bê tông lên chốt 466 ). Mà tiền ăn thì đơn vị không có, cuộc sống của chúng tôi rất khổ và vất vả. Nhưng được bù lại về tinh thần là những cô gái Bản Lịch rất nhiều mà lại trắng và xinh nữ, cứ tối tối chúng tôi lại hẹn hò, giao lưu với gái bản. Những cô gái ấy dậy chúng tôi hát lượn, có lúc tôi hứng lên còn đi giúp dân đi làm nương, rẫy. Rồi 1 hôm, đơn vị giao cho A CỐI chúng tôi đi lấy củi cho bếp ăn đại đội ở bờ suối Bản Lịch. Ở đó có một cây gỗ rất to, nằm dọc theo bờ suối. Tôi với thằng Thanh ( Trố ) Tường ( Vô ) và Thường ( Cối ), 4 thằng rủ nhau mượn búa của chủ nhà ( Búa của dân vừa để chặt cây vừa có thể bổ củi được vì nó rất sắc ). Ra cây gỗ ở bờ suối bổ lấy củi đem về luôn, đỡ phải lên rừng. Thằng Tường và thằng Thường nó bổ củi rất tốt, vài nhát lại được miếng củi rất to. Thằng Thanh Trố thì tàm tạm vì 3 chúng nó đều là lính tháng 7/1980 và là người Bắc Thái. Còn tôi là lính Hà Nội. Thấy chúng nó lấy củi ngon ăn quá. Tôi cũng tranh đòi bổ thử. Chúng nó không cho bổ mà bắt tôi đi tìm dây để bó củi lại. Khi tôi đã bó được 2 vác rồi và còn thiếu 2 vác nữa, 3 thằng đó đã mệt và ngồi nghỉ. Nhân đà đó tôi cầm lấy búa đứng lên đầu cây gỗ, dơ cao búa lên và bổ mạnh xuống giữa thân cây gỗ. Lần đầu tiên cái búa cắm phập vào giữa cây gỗ không nhúc nhích, tôi phải lay lay mấy cái cái búa mới rời ra khỏi cây gỗ. Và cứ thế tôi bổ mấy phát liền mà chả được miếng củi nào cả. Thằng Thường Cối nó bảo phải bổ ở rìa cây gỗ ăn từ từ vào giữa thì mới được. Tôi liền chuyển thế làm theo, chân phải đứng hơi cao hơn chân trái tay dơ cao, búa bổ vào sát mép ngoài của cây gỗ, nhát bổ đó búa lại đi sượt cây gỗ văng ra. Theo phản xạ tự nhiên tôi xoay người 180 độ và ngồi thụp xuống, tay ôm lấy bàn chân phải. Máu chảy tung tóe. 3 thằng kia sợ quá hò nhau bảo đi gọi y tá đại đội thằng Thường Cối cõng tôi về nhà trọ. Anh Tùng y tá đến rửa và băng vết thương cho tôi, nhưng chẳng có viên thuốc nào cho tôi cả ( lúc đó đơn vị không có thuốc).
-Thế là tôi lĩnh trọn 1 nhát búa bổ củi vào gan bàn chân phải (Từ ngón út đến ngón trỏ). Sâu đến tận xương ngón chân dài 6cm.
- Thế là tôi lĩnh trọn một nhát búa bổ củi vào gan bàn chân phải. Mấy ngày đầu tôi không đi lại được, mọi sinh hoạt cá nhân đều phải có đồng đội hỗ trợ. Nhất là thằng Thường Cối và Thanh Trố phải rửa vết thương và thay băng cho tôi. Nó còn khêu và lấy ra tất cả các hòn sỏi nhỏ li ti và cát ở bên trong vết thương. Còn y tá đại đội chỉ cấp phát băng cho tôi thôi chứ chẳng có thuốc men gì cả. Tôi nằm ở nhà khoảng 1 tuần, thấy chán quá tôi bảo anh em tiểu đội đóng cho tôi 1 cái lạng. Tôi bắt đầu tập đi lại, đầu tiên tôi co chân phải lên đi bằng chân trái ( như nhảy lò cò ). Nhưng chân phải co lên mãi thì mỏi, sau tôi hạ chân phải xuống và đi bằng gót chân, còn phần ngón chân không cho tiếp đất. Nhưng do cử động khi đi lại vết thương lại rỉ máu. Nhưng tôi vẫn kệ và đi lại cho khuây khỏa. Khổ nhất là lúc đi tắm, thằng Thanh Trố và Thường Cối đưa tôi ra suối ( Bản Lịch ). Tìm chỗ nước nông thôi. Chúng nó kê một hòn đá cuội để gối đầu và một hòn gác cái chân đau lên cho đỡ ướt. Tôi nằm ngửa xuống suối nước vừa ngập người, tha hồ tắm mát.
- Tới ngày 2-9-1982, đúng trùng với ngày rằm tháng 7, người dân tộc Tày và Nùng ăn rằm tháng 7 rất to. Gói cả bánh Nếp và bánh Ngô, thịt gà và thịt vịt rất nhiều còn rượu thì vô tư đi.  Grin Vì người dân tộc ở đây dùng rượu thay nước. Đơn vị tôi thịt một con Lợn và một con Bò. Thực phẩm được chia thẳng cho từng tiểu đội tự chế biến như thế nào thì tùy. Còn bếp đại đội chỉ thổi mỗi cơm thôi ( Đúng là thịt ấm chân răng )
-Vừa thịt lợn và Bò, mỗi đầu người được hơn 1kg mà tiểu đội tôi 2 khẩu Cối 60 có 9 người, được hơn 10kg thịt tất cả. Thế mà chúng tôi chén 1 ngày hết sạch còn rượu thì chủ nhà đãi. Ngày hôm sau lại cơm muối trộn với ớt chỉ thiên. Vết thương của tôi đến khoảng tháng 10-1982 thì đỡ. Tôi đi lại không phải dùng lạng nữa, chỉ khập khiễng thôi. Thì đơn vị tôi lại nhận thêm một đợt quân nữa đó là lính tháng 9-1982. Đến cuối tháng 10-1982 chúng tôi được lệnh rút quân ra khỏi Bản Lịch, lên sườn núi đá sát bản Rẻ Gà ( gần chợ Lương Thông ). Làm doanh trại, ở tập trung theo đội hình Tiểu Đoàn. Gồm có C1 C2 C4 và D Bộ, còn C3 vẫn đóng quân ở gần Bản Ái. Giai đoạn này chúng tôi tương đối vất vả vừa huấn luyện, phải lấy cây, que làm doanh trại, đào hào cơ động và chiến đấu. Luôn luôn sẵn sàng cơ động lên tuyến, trên chiến đấu ( Khi nâng cấp báo động ! ).
Khi chúng tôi Rút ra khỏi Bản Lịch. Lên Sườn núi đá Sát Bản Rẻ Gà(Gần chợ Lương Thông). Đầu tiên A 10(Đại Liên) A 11(Cối 60) của tôi được ở nhờ cái Lán cũ của C17(Trinh sát. Trung đoàn). Rất chật trội. Nhưng may. Thời tiết lúc đó đã mát vì đang giao mùa. Lên ở chật một tí vẫn chịu được. Rồi A cối chúng tôi được ban chỉ Huy Đại Đội chỉ cho một khoảng đất để làm nhà. Và Khoán cho chúng tôi 15 ngày. Vừa sạn nền nhà, vừa lấy cây que. Phải hoàn thiện nhà của tiểu đội Cối. Mà A Cối chúng tôi núc đó có 9 người. Rất may là A Cối chúng tôi làm công tác Dân Vận tốt. Tiếng Dân Tộc chúng tôi chịu khó học lên biết nhiều. Chúng tôi bàn với nhau. Nếu lên núi lấy cây (gỗ) rất nâu và vất vả. Cách tốt nhất là chia nhau ra vào các Bản mỗi người xin Dân 2 cây Mai hoặc Tre với một vác vầu khoảng 20 cây là đủ.Khi toàn A Cối đã nhất trí.Chúng tôi bắt tay vào việc ngay. Mỗi người 2 cây Mai, 1 vác Vầu.Chúng tôi 9 người trong 2 ngày đi xin Dân Bản mang về tập kết đầy đủ. Thế là phần cây que chúng tôi đã chuẩn bị song. Ngằy thứ 3 A Cối chúng tôi 6 người san nền nhà. 3 người cưa cắt cột và đục lỗ. Vì cột nhà tre nên chúng tôi làm rất nhanh. Sang ngày thứ 4 và 5 chúng tôi dựng nhà và đi lấy Rơm về lợp nhà.
Vì lúc đó dân vừa gặt lúa song lên rơm ở ruộng rất nhiều chúng tôi đi lấy về vừa gần lại nhanh. Chúng tôi đi làm cật lực và khẩn chương. Mà vào thời điểm đó bếp ăn Đại Đội chả có gì ăn cả chúng tôi ăn cơm muối 100%. Rất may vào lúc đó buổi chiều tôi mới thằng Thanh Trố đi lấy rơm về mỗi thằng 1 gánh nặng về, thì thấy ở trên đồi Trẩu có 1 con lợn (rừng  Smiley) lạc vào khu vực đơn vị đóng quân tôi liền nháy mắt với thằng Thanh Trố, hiểu ý nhau 2 thằng đặt 2 gánh rơm xuống tôi chạy về tiểu đội lấy súng. Thằng Thịnh voi ở A (Đại Liên ) cũng chạy ra theo thế là 3 thằng chúng tôi dồn con lợn rơi xuống hào chiến đấu thằng Thịnh voi với thằng Thanh Trố mỗi thằng 1 đâu dồn con lợn vào góc cua của đoạn hào thằng Thịnh voi vồ được cổ con lợn 2 tay bóp chặt rồi nhấc bổng con lợn lên tôi liền nhảy xuồng hào thúc cho nó mấy cái báng súng vào đầu nó quay cu đơ ra ngay không còn giẫy dụa gì nữa (con lợn khoảng 10kg ) thằng Thịnh voi cởi ngay cái lõi áo bông ra bọc lấy con lợn mang về. Chúng tôi trả làm lông gì cả, mổ bụng vứt (chôn) hết nội tạng rồi xuống nhà bếp mượn cái nồi 20b (bảo về đun nước tắm). Chúng tôi xả con lợn ra từng miếng nhỏ một cả lông lá thế cho vào luộc luôn. Khi ăn chỉ cắn phần nạc và mỡ thôi còn bì thì vứt đi (vì bì nó vẵn còn lông). Thế là A cối và A đại liên tự tăng ra một bữa ăn tươi ngon lành (khi ăn phải dấu).
- Chưa đến 10 ngày, A CỐI chúng tôi đã làm xong nhà tiểu đội ngon lành ( vì chúng tôi làm nhà tre ). Trong khi đó ở các B vẫn chưa lấy đủ cây que ( Họ lên rừng lấy gỗ ). Khi A CỐI chúng tôi xuống nhà mình tự làm ở riêng biệt rồi. Nó rất kín đáo, tôi, thằng Thanh Trố và Thường Cối hay rủ nhau đi xin thức ăn tươi của dân Bản lắm ( Gà, Vịt .... ) nhưng toàn xin vắng mặt thôi  Grin Grin
Tất cả chỉ vì cuộc sống thiếu thốn và khổ quá.
- Rồi có một tối liên lạc C tôi xuống từng B và A trực thuộc bảo điểm quân số bí mật, xem có thiếu ai không nếu vắng ai thì A và B trưởng phải báo cáo cụ thể. C1 chúng tôi thì chả thiếu ai cả  Cheesy
- Hôm sau tôi mới biết vụ điểm quân số là do tin báo ở mỏ nước Bản Ruồm có một bộ đội bị chết ( Tại mỏ nước ). Nó là cái mỏ nước tôi đã nói đến khi chúng tôi hành quân lên đơn vị mới ấy. Vệ binh trung đoàn đã lên bảo vệ hiện trường và trung đoàn lệnh về cho từng đơn vị điểm danh quân số để tìm người. Hóa ra người chết đó là quân của tiểu đoàn Bộ ( D4 ) chúng tôi là đồng chí: "Lý Bá Việt, nhập ngũ tháng 8-1978, quê ở thôn La Đành xã Hóa Trung - Đồng Hỷ - Bắc Thái" là lính thông tin tiểu đoàn 4. Buổi sáng đồng chí Việt nhận nhiệm vụ xuống Trung Đoàn Bộ và C18 Thông tin để lấy thư báo và công văn ( Mật ). Khi đồng chí Việt đi có mang theo Ba lô và súng AK. Chắc khi về đến mỏ nước thì bị biệt kích ( Thám báo ) giết chết lấy đi toàn bộ thư báo, công văn và súng AK nữa. Nếu đồng chí nào hoặc thành viên quân sư ở gần địa chỉ anh Lý Bá Việt thì cho tôi gửi một nén nhang thắp cho anh ấy nhé =.=
- Tôi xin phép nói kĩ về trường hợp của anh Việt một chút. Thế nào cũng có đồng chí thắc mắc và hỏi lại tôi "tại sao anh Việt chỉ là lính thông tin tiểu đoàn thôi mà nhập ngũ tháng 8-1978 mà còn đến cuối năm 1982". Lính 78 được giải quyết ra quân đợt cuối cùng là hết lính 78. Nhưng vào thời điểm đó anh Việt đi viện nên không được ra quân. Khi ra viện về đơn vị thì lính 78 ra quân hết rồi. Nên anh Việt là lính 78 còn xót lại. Rồi sự việc xảy ra như thế đó. Thật là đau xót cho đồng chí Việt và gia đình đồng chí.
- Quay trở lại A CỐI chúng tôi Grin Khi nhà đã làm xong thì cái rét của mùa đông năm 1982 ập về. Ôi ! Rét kinh khủng. Chúng tôi dồn vào nằm chung, 2 thằng 1 sạp. Cũng may là chăn bông, chăn chiên, và màn chúng tôi đều được trang bị đầy đủ. Cả mũ bông và áo bông nữa. Nên chúng tôi cũng chống chọi được với cái rét nơi biên thùy. Lá rụng, cây cối chết khô, khẳng khưu. Nhất là cây chuối táp khô hết lá. Sáng ngủ dậy, những hạt tuyết li ti óng ánh bám trên những cành cây và ngọn cỏ. Một lớp băng mỏng ở trên mặt bất cứ vật dụng gì đựng nước qua đêm. Lại kèm thêm cả mưa đá và động đất nữa (Động đất trên 6 độ richter). Rét quá đâm ra bẩn, bọ chó rất nhiều, ghẻ khủng khiếp. Nhưng chúng tôi có bài thuốc chữa ghẻ rất tuyệt vời ^^. Tắm lá Cơi chưa là cái gì cả, phải ngắt Hoa hoặc quả cây thuốc phiện chấm vào chỗ con ghẻ đang đào bảo đảm 30 năm sau con ghẻ không dám bén bảng đến chỗ đó nữa. Smiley) Mà vào thời điểm đó Biệt kích (Thám báo TQ) hoạt động rất mạnh, tiểu đoàn 4 chúng tôi có 2 đồng chí nữa bị bắn và đâm chết.
- Chưa đến 10 ngày, A CỐI chúng tôi đã làm xong nhà tiểu đội ngon lành ( vì chúng tôi làm nhà tre ). Trong khi đó ở các B vẫn chưa lấy đủ cây que ( Họ lên rừng lấy gỗ ). Khi A CỐI chúng tôi xuống nhà mình tự làm ở riêng biệt rồi. Nó rất kín đáo, tôi, thằng Thanh Trố và Thường Cối hay rủ nhau đi xin thức ăn tươi của dân Bản lắm ( Gà, Vịt .... ) nhưng toàn xin vắng mặt thôi  Grin Grin
Tất cả chỉ vì cuộc sống thiếu thốn và khổ quá.
- Rồi có một tối liên lạc C tôi xuống từng B và A trực thuộc bảo điểm quân số bí mật, xem có thiếu ai không nếu vắng ai thì A và B trưởng phải báo cáo cụ thể. C1 chúng tôi thì chả thiếu ai cả  Cheesy
- Hôm sau tôi mới biết vụ điểm quân số là do tin báo ở mỏ nước Bản Ruồm có một bộ đội bị chết ( Tại mỏ nước ). Nó là cái mỏ nước tôi đã nói đến khi chúng tôi hành quân lên đơn vị mới ấy. Vệ binh trung đoàn đã lên bảo vệ hiện trường và trung đoàn lệnh về cho từng đơn vị điểm danh quân số để tìm người. Hóa ra người chết đó là quân của tiểu đoàn Bộ ( D4 ) chúng tôi là đồng chí: "Lý Bá Việt, nhập ngũ tháng 8-1978, quê ở thôn La Đành xã Hóa Trung - Đồng Hỷ - Bắc Thái" là lính thông tin tiểu đoàn 4. Buổi sáng đồng chí Việt nhận nhiệm vụ xuống Trung Đoàn Bộ và C18 Thông tin để lấy thư báo và công văn ( Mật ). Khi đồng chí Việt đi có mang theo Ba lô và súng AK. Chắc khi về đến mỏ nước thì bị biệt kích ( Thám báo ) giết chết lấy đi toàn bộ thư báo, công văn và súng AK nữa. Nếu đồng chí nào hoặc thành viên quân sư ở gần địa chỉ anh Lý Bá Việt thì cho tôi gửi một nén nhang thắp cho anh ấy nhé =.=
- Tôi xin phép nói kĩ về trường hợp của anh Việt một chút. Thế nào cũng có đồng chí thắc mắc và hỏi lại tôi "tại sao anh Việt chỉ là lính thông tin tiểu đoàn thôi mà nhập ngũ tháng 8-1978 mà còn đến cuối năm 1982". Lính 78 được giải quyết ra quân đợt cuối cùng là hết lính 78. Nhưng vào thời điểm đó anh Việt đi viện nên không được ra quân. Khi ra viện về đơn vị thì lính 78 ra quân hết rồi. Nên anh Việt là lính 78 còn xót lại. Rồi sự việc xảy ra như thế đó. Thật là đau xót cho đồng chí Việt và gia đình đồng chí.
- Quay trở lại A CỐI chúng tôi Grin Khi nhà đã làm xong thì cái rét của mùa đông năm 1982 ập về. Ôi ! Rét kinh khủng. Chúng tôi dồn vào nằm chung, 2 thằng 1 sạp. Cũng may là chăn bông, chăn chiên, và màn chúng tôi đều được trang bị đầy đủ. Cả mũ bông và áo bông nữa. Nên chúng tôi cũng chống chọi được với cái rét nơi biên thùy. Lá rụng, cây cối chết khô, khẳng khưu. Nhất là cây chuối táp khô hết lá. Sáng ngủ dậy, những hạt tuyết li ti óng ánh bám trên những cành cây và ngọn cỏ. Một lớp băng mỏng ở trên mặt bất cứ vật dụng gì đựng nước qua đêm. Lại kèm thêm cả mưa đá và động đất nữa ( Động đất trên 6 độ richter ). Rét quá đâm ra bẩn, bọ chó rất nhiều, ghẻ khủng khiếp. Nhưng chúng tôi có bài thuốc chữa ghẻ rất tuyệt vời ^^. Tắm lá Cơi chưa là cái gì cả, phải ngắt Hoa hoặc quả cây thuốc phiện chấm vào chỗ con ghẻ đang đào bảo đảm 30 năm sau con ghẻ không dám bén bảng đến chỗ đó nữa. Smiley) Mà vào thời điểm đó Biệt kích ( Thám báo TQ ) hoạt động rất mạnh, tiểu đoàn 4 chúng tôi có 2 đồng chí nữa bị bắn và đâm chết.
Cái Rét mùa Đông năm 1982.Ở Núi Rừng Biên Giới. Thật kinh khủng cho những Người Lính chúng tôi. Rồi ngày 22 tháng 12 sắp tới ( ngày thành lập Q Đ N D VN ). A Cối chúng tôi được giao nhiệm vụ cử 2 người xuống Trung Đoàn bộ để bắt lợn ( thực phẩm Tết Q Đ ). Tôi với thằng Thường cối được cử đi bắt lợn. Tôi dậy từ sáng sớm, xuống Quản Lý cắt Gạo. Rồi 2 thằng mang Ba Lô lộn và khoác súng AK về Trung Đoàn bộ. Khoảng 10 giờ, chúng tôi về đến Trung Đoàn bộ, nhận được con lợn khoảng hơn 60 kg. Thằng Thường Cối lấy dây thừng buộc vào một cái chân sau của nó. Rồi 2 thằng dong con lợn vào Bản Giàng nhờ nhà Dân thổi cơm ăn. Khi đang ăn cơm tôi bàn với thằng Thường cối phải tìm cách thịt con lợn đánh chén một bữa rồi mang thịt về đơn vị giả báo là lợn chết. Ăn cơm xong thì trời đã quá trưa, tôi với thằng Thường túc tắc dong con lợn về đơn vị. Lúc đầu con lợn cứ cun cút mà giống lợn ỉn cái ở dưới xuôi mang lên lúc nó đi cái mông lúc lắc, còn cái đuôi thì ngoe nguẩy, nó đi như vẻ hăng say lắm thỉnh thoảng tôi lại đá "bốp" 1 cái vào mông nó. Qua được đèo Bó Đin thì cu cậu đã thấm mệt và chây ì không đi nữa. Tôi liền bẻ một cành cây để cả lá phất phất vào mông nó thì nó lại lũn cũn đi. Được 1 lúc nữa thì nó dừng hẳn, không đi nữa, nó nằm ịch ra, thở hồng hộc. Tôi bắt đầu cáu, đá liên tục vào mông và vào bụng nó và mồm chửi thề :" Mày có đi không thì bảo, đúng là đồ con lợn Grin ". Tôi liền thúc cho nó mấy cái báng súng nó cũng chả thèm dậy. Lúc đó, may có mấy cô gái bản đi qua, tôi liền mượn 1 con dao quắm liền chặt 1 cái cây to bằng cổ tay để làm đòn và tìm dây. 2 thằng loay hoay buộc con lợn vào rồi xỏ đòn khiêng - thật là khổ sở vì con lợn !.
Rồi 2 thằng chúng tôi khiêng vào con lợn vào đến Bản Ruồm nhờ nhà dân thịt quách đi cho xong và mình còn được 1 bữa ăn tươi ngay tại trận và mình mang thịt về đơn vị cũng được. Đầu tiên thằng Thường Cối nghe tôi nói vậy nó sợ không dám. Tôi liền đả thông tư tưởng và nắm gân nó, tôi nói :" Mày không phải lo, tội vạ đâu tao chịu tất ". Vì lúc đó quân C2 C3 C4 và D Bộ nó dong lợn đi trước hết cả rồi, chúng nó cũng biết con lợn của C1 chúng tôi nó không chịu đi ( Lý do là mình đánh nó nhiều ). Tôi nói vậy, Thường Cối thấy có lý nên nó đã đồng ý cùng tôi thịt con lợn luôn.
- Hai thằng khiêng con lợn đến Bản Ruồm và vào nhà dân thịt con lợn, làm 1 lúc thì xong. 2 thằng chúng tôi cùng chủ nhà đánh chén lòng lợn tiết canh và một cái diềm bụng của con lợn. Ăn no, rượu say tôi liền cắt một khoanh cổ và dẻo thịt bụng nữa cho vào ba lô. Rồi xẻ con lợn ra làm 2, mỗi thằng một gánh. Gánh về đơn vị, Khi về gần đến đơn vị, tôi liền dấu cái ba lô vào bụi cây. Lúc về đến đơn vị thì đơn vị đang sinh hoạt đại đội. Anh Nghị C phó ( Hậu cần ) nhìn thấy chúng tôi gánh thịt lợn vào thì trợn tròn mắt lên. Tôi lên phân bua và trình bày rất bài bản và hợp lí nên đại đội chẳng làm được gì tôi cả. Liền gọi quản lý cất thịt vào kho. Rồi tôi về, bảo thằng Thanh Trố ra cái bụi cây tôi dấu ba lô lấy mang về. Đêm hôm đó, cả A CỐI chúng tôi được ăn tươi luôn (rang ăn vã). Còn toàn đơn vị thì ngày mai có bữa ăn tươi, coi như là ăn 22-12 sớm (anh em trong đơn vị bàn tán như vậy).
- Khi cái ngày 22-12-1982 cận kề, thì đơn vị tôi được lấy tiền ăn. Một khoản tiền ăn không nhỏ, vì cả năm 1982 tài vụ tiểu đoàn phát tiền ăn cho đơn vị rất ít ( vì tài vụ D đi lĩnh tiền cũng không có ). Nên đến cuối năm ấy mới cấp được tiền ăn cho các C. Khi có tiền đơn vị tôi liền mua một con lợn, một con bò để ăn 22-12-82 và 2 chú lợn con để tăng gia. Nên ngày 22-12 năm đó chúng tôi lại được 1 bữa ăn tươi khá rủng rỉnh.
- Rồi cái tết năm 1983 lại sắp tới, lính Hà Nội ở đơn vị tôi với một số khá đông tìm mọi cách để được về nhà ăn tết. Người thì đi viện, người thì xin đi tranh thủ ( cán bộ đại đội tự cho về, không có giấy phép ), người thì tự giải quyết phép cho mình. Còn tôi chẳng nghĩ gì về việc đó cả, vì gia đình tôi ở Hà Nội nhưng rất nghèo, sống bằng nghề lao động ở khu vực ven sông Hồng ở quận Hoàn Kiếm. Nếu tôi về chỉ thêm gánh nặng cho gia đình thôi, vào thời điểm đó là cái tết thứ 2 trong Quân Đội của tôi và cũng gần được 2 năm tuổi quân rồi còn gì nữa. Lính Hà Nội ở lại ăn Tết cùng đơn vị chỉ còn vài thằng, chúng tôi tụ nhau lại. Ngày vẫn tham gia công tác ở đơn vị đều, nào là trồng sắn, đào hào, lấy củi. Đêm đêm khi hết ca gác, gọi người thay ca xong, tôi gọi thêm 1 thằng nữa dậy lần mò vào bản, xin dân bản những con gà, con vịt để chuẩn bị cho cái Tết sắp tới ( Nhưng đi xin kiểu tự tiện và vắng mặt như thế dân bản không ưa đâu ).
- Rồi cái tết năm 1983 cũng qua đi nhanh chóng. Những thằng lính Hà Nội tìm cách về ăn Tết cũng dần dần mò lên đơn vị rồi. Chúng nó mang lên đầy đủ những thứ mà thằng lính cần. Nhất là mì chính và thuốc lào. Thuốc lá ngày đó lịch sự thì chỉ có Du Lịch và Tam Đảo thôi. Cũng có thằng ở nhà luôn, chẳng thèm lên đơn vị nữa. Khi không còn dư âm của ngày Tết nữa thì lính tháng 2/1979 ở đơn vị tôi, được xuất ngũ 1 đợt hết luôn. Ngày 3-3-1983 E677 lại tổ chức nhận một đợt quân nữa đó là lính Bắc Thái, mà đợt này Trung Đoàn tự đi nhận quân rồi về đơn vị huấn luyện luôn. Đợt lính 3-1983 này được Trung Đoàn huấn luyện ở huyện Thông Nông được hơn 1 tháng đến ngày 15-04-1983 thì giải tán và biên chế về cho các đơn vị. Tối ngày 15-04-1983 A CỐI chúng tôi được nhận thêm 5 chiến sĩ lính mới vậy tất cả A CỐI chúng tôi có 13 người, biên chế đủ cho 2 khẩu Cối 60. Khi đó ở đơn vị chỉ còn lính 80 là cựu còn lính Hà Nội chúng tôi là lính 81. Lính tháng 3-83 được biên chế về các đơn vị ngày hôm trước thì hôm sau ngày 16-04-1983, quân TQ lại dàn quân ở bên kia Biên Giới, bắn pháo sang chốt 800 Đông và 800 Tây, cùng các bản ven đường Biên Giới. Dân chạy sơ tán láo loạn. Chúng tôi có lệnh nâng cấp báo động, Cơ động lên ém quân sát Chốt và phá liêm cất ( Lúc đó K6 địa phương đang ở Chốt ).
- Khi đã nắm rõ được tình hình và nhiệm vụ lúc đó, công tác chuẩn bị để cơ động của chúng tôi rất nhanh, theo phương án toàn Tiểu Đoàn, Đại Đội nào vào vị trí chiến đấu của Đại Đội đó. C1 chúng tôi lại cơ động lên Lũng Ngẳm. Khẩu đội đội Cối của chúng tôi vẫn phối thuộc cho B1 ( Hướng chủ yếu của Đại Đội ). Chúng tôi vượt qua Thâm Kéo ở eo núi đá sát Lũng Hà ( Cà ) theo dịch ra tiếng Kinh là Lũng Ranh. Những mỏm đá tai bèo nhấp nhô chẳng ra hàng lối gì cả. Khẩu đội cối chúng tôi gồm có 6 người. Thằng Thanh Trố là khẩu đội trưởng còn tôi là pháo thủ số 1, loay hoay mãi chúng tôi cũng tìm được 1 khoảng đất rộng chừng 6m2 có địa thế quan sát rộng làm trận địa cho khẩu Cối. Xung quanh là các mỏm đá đan sát vào nhau tạo thành một cái trận địa Cối 60 hơi bị đẹp và vững chắc, và chúng tôi tìm được 3 cái hốc đá khá gần nhau và trận địa Cối, chúng tôi bẻ cành lá cây dải lót xuống đất, rồi dải chiếu đè lên lá cây để làm chỗ ngủ, chặt cành cây gác chéo qua các mỏm đá để che nắng và sương. Rất may đợt lính mới bổ sung vào bọn chúng còn áo mưa đầy đủ
- Chiều 16-04-1983. B Trưởng của B1 về Đại Đội giao ban. Báo cáo toàn bộ B1 và khẩu Cối cùng khẩu Đại Liên phối thuộc đã chuẩn bị trận địa và làm lán tạm xong. Đại Đội liền thông báo, theo cấp trên cho biết toàn tuyến Biên Giới phía Bắc hôm nay ( tức ngày 16-04-1983 ). Quân TQ lại khiêu khích vũ trang rất mạnh, nhất là ở Hà Giang và Lạng Sơn, chúng bắn pháo lớn vào sâu trong đất ta, có chỗ tới 20km và cho quân sang đánh các cao điểm ở Vị Xuyên - Hà Giang. Còn ở Cao Bằng bọn tôi thì chúng đánh mạnh vào Hà Quảng và Trà Lĩnh, còn hướng Thông Nông thì chúng chỉ bắn khoảng hơn 20 quả đạn ( chắc cối ) vào 2 cao điểm 800 Đông và 800 Tây và mấy bản sát biên thôi. Nên chúng tôi phải luôn luôn nêu cao tinh thần cảnh giác! Sẵn sàng đánh trả quân TQ khi chúng mò sang
- Ngày hôm sau 17-04-1983. TQ lại bắn pháo sang hướng chúng tôi vài trận nữa ở đỉnh 800 Đông 1 cái lán của lính K6 địa phương bị trúng đạn bốc cháy ( lán lợp bằng cỏ ranh ). Dân tình toán loạn dắt nhau chạy lên núi. Chúng tôi cứ ngồi uống rượu mà cười (vì tối hôm trước 16-04 thằng Hà lính mới đưa tiền cho tôi vào bản mua rượu và đỗ tương rang). Vì nhìn điểm nổ của đạn TQ bắn theo đường chim bay tới chỗ bọn tôi thì còn xa. Lúc đó bọn tôi được lệnh phá Liêm Cất rồi, thì ở kho hậu cần Trung Đoàn mới phá đồ (thực phẩm). Dự trữ chiến đấu cho bọn tôi ăn (tương khô, thịt lợn sấn, đồ hộp, mắm kem, cá mắm). Chúng tôi chỉ việc kiếm rau trên rừng làm canh thôi, nhất là đang vào mua rau ngót rừng. ( Lính Trường Sơn gọi là rau Sắng). Rau bồ khai, rau tầu bay, nhiều vô kể. Chúng tôi thiết nghĩ TQ đánh nâng cấp báo động thế này thì chúng tôi mới có thực phẩm mà ăn. Rồi lại đồng bào mình ở tuyến sau chi viện ủng hộ thực phẩm nữa chứ, hóa lại hay.
- Rồi cứ ngày lại ngày, chúng tôi 2 lần mang Rá xuống Lũng Ngẳm ( Bếp dã chiến đại đội ) lấy cơm và thực phẩm vừa đi vừa về mất một tiếng đồng hồ ( Nâng cấp báo động ăn lại tươm Grin ). Còn canh thì chúng tôi đi hái rau rừng tự nấu. Thời gian còn lại chúng tôi củng cố lại lán, thay lá cây dải ổ. ( Vì chỉ vài ngày là lá cây ở dưới chiếu nóng và lên men ). Ngày thì nắng nóng, tối thì sương muối, có những đêm mưa lạnh, chúng tôi ngồi co do ( vì áo mưa chỉ đủ che ba lô và súng đạn, chăn chiếu ướt. Ngày hôm sau nắng chúng tôi lại vắt lên các mỏm đá để phơi, nhìn như là dân tị nạn ý. Cứ như thế hơn 1 tháng, tình hình không có gì xảy ra. Bà con dân bản thấy yên yên lại kéo nhau về nhà mình, để đi làm nương rẫy cho kịp thời vụ. Hướng Thông Nông, Cao Bằng của chúng tôi được hạ cấp báo động. Toàn Tiểu Đoàn 4 lại rút về doanh trại ở gần bản Rẻ Gà ( Lương Thông ).
- Khi về đến doanh trại vẫn tập trung ở thành đội hình tiểu đoàn ( Các C vây quanh D bộ ) Sinh hoạt Tiểu Đoàn, báo động Tiểu Đoàn. Chúng tôi làm vệ sinh doanh trại, giặt giũ chăn, chiếu, màn, cá nhân ( vì hơn 1 tháng ở Chốt dã chiến, hôi hám, bẩn thỉu lắm ). Rồi tiểu đoàn phát động tăng gia ( Trồng mía ). Chả biết trên mua giống mía ở đâu mà ô tô chở giống đến tận đơn vị. Chúng tôi lại được ăn mía một đợt thoải mái. Vì ngọn mía thì dài, mỗi ngọn chúng tôi chặt được 2 tới 3 đốt để ăn ( Ngọt thỉu ). Nhìn thằng nào cũng lên cân, béo ra trông thấy. ( hơn 1 tháng ở Chốt được ăn đầy đủ các chất giờ lại được ăn mía hàm lượng đường rất nhiều ). Mà thời điểm đó tôi khoái nhất là đến phiên chợ Lương Thông, tôi đi uống rượu không mất tiền, mà thú thật là có tiền đâu mà mất Grin. Đến phiên chợ tôi cứ cầm cái can 10 lít ra chợ ( Can phát từ thời gian ở Chốt khi nâng cấp báo động ) và mượn của quản lý Đại Đội tờ tiền 100 Đồng đi ra chợ trả vờ mua rượu về đơn vị liên hoan. Hàng rượu nào tôi cũng nếm thử 1 ít xong rồi chê không mua, cứ thế, cứ thế khắp chợ. Đến khi đã ngà ngà say tôi khất khểu sách cái can không về trả cho quản lý tiền, rồi về Tiểu Đội ngủ 1 giấc. Vì vào thời điểm đó tôi cũng hơi cùn cùn...rồi.
- Cứ như thế, một tháng 6 phiên chợ Lương Thông, tôi ra chợ uống rượu không mất tiền, và ở các C khác cũng có thằng như thế. Dân liền kiến nghị với tiểu đoàn. Sau đó, Tiểu Đoàn có lệnh cấm tất cả các chiến sĩ đến phiên chợ, ai không có nhiệm vụ thì không được ra chợ. Tiểu Đoàn thành lập một tổ quân của trợ lý tác chiến Tiểu Đoàn làm như vệ binh, ghi tên tất cả các chiến sĩ đến phiên chợ rồi về báo cáo. Những đồng chí nào được đơn vị cử ra chợ thì thôi còn ai không được đơn vị cử ra mà bị ghi tên thì bị Tiểu Đoàn gọi lên bắt đi cải tạo. Nên chúng tôi ra chợ luôn phải trốn tránh để không bị ghi tên.
- Đến phiên chợ gần ngày 02-09-1983, tôi với thằng Thanh Trố ở A CỐI cùng thằng Thịnh Voi ở Đại Liên ( Tất cả ở C1 ) bị ghi tên, đến chiều cả 3 thằng bị gọi sang bắt kỷ luật ( cải tạo ) 1 tuần. Mỗi ngày, 1 người phải đào 7m hào chiến đấu, là 7m3 đất chìm đấy các đồng chí và các bạn ạ. Vì kích thước của hào cơ động chiến đấu là sâu 1,2 m. Đáy rộng 0,8 m miệng hào rộng 1m. Mà lúc đó đơn vị khoán cho những người bình thường 1 ngày chỉ 2m hào thôi. Chỉ 2m thôi mà đào đã mệt bở hơi tai ra rồi, đằng này khi bị cải tạo phải đào 7m hào/ ngày. Nhưng chúng tôi chẳng sợ Grin
- Sáng hôm sau 3 thằng chúng tôi vác xẻng sang D Bộ gặp đồng chí Hoàn giao công việc. Anh Hoàn cầm cái gậy cắm xuống đất và bảo :" Các anh đào từ đây chạy dài vào trong vách núi kia 3 người đào đủ 21m/ 1 ngày, Lúc nào xong thì nghỉ lúc đấy. Nhớ khi nào xong thì gọi tôi ra đó nhiệm thu, ngày mai tôi lại giao tiếp ". 3 thằng chúng tôi trợn tròn mắt lên, và nghĩ bụng lẩm bẩm phản đối, tôi nghĩ :" Việc thì nhiều như thế, 3 thằng chúng tôi làm sao làm hết được, thôi kệ, để đấy xem sao ". Vì thằng Thanh Trố lính 7-1980 còn tôi với Thịnh Voi là lính 3-1981, đều là lính cựu hết rồi. Hôm đầu tiên 3 thằng đào hào đúng vào đoạn có đá gan trâu. Bình thường cuốc chim bổ xuống còn tóe lửa ra nhưng đến cuốc chim chúng tôi lại không có. Mỗi thằng một cái xẻng công binh chỉ to hơn bàn tay một tí, lắp cán dài vào nó cứ ẽo à ẽo ợt ý. Trời tháng 8 lại nắng to, chúng tôi uống nước liên tục may là ở bếp D Bộ có cái bể nước được bắc máng, nước chảy vào liên tục ở sát bếp ăn D Bộ. Đến trưa, 3 thằng chúng tôi về đơn vị ( C1 ) ăn cơm. Xong lại sang Tiểu Đoàn ngay ra vẻ rất tích cực. Đào đào bới bới cán xẻng gãy liên tục, chúng tôi lại tra lại cán. Đến tối đồng chí Lộc tiểu đoàn trưởng và đồng chí Hoàn trợ lý tác chiến ra kiểm tra để nhiệm thu thì thất vọng Grin
Toàn đá gan trâu, 3 thằng chúng tôi đào được 1 đoạn toen hoen như con chó dẫy chết ý Grin Grin Grin. Chúng tôi chả nói năng gì cả. Anh Lộc D trưởng nhìn thấy đất cứng quá nói :" Hôm nay cho nghỉ ở đây, về đơn vị ăn cơm. Mai sang đây cải tạo tiếp ".
- Chỉ vì cái tội đi chợ Lương Thông uống rượu tự do 3 thằng C1 ( Tôi, Thanh Trố, Thịnh Voi ) bị Tiểu đoàn kỷ luật ( cải tạo ) bắt đào hào. Ngày hôm sau, khi ăn phụ ở đơn vị xong 3 thằng chúng tôi lại vác xẻng sang Tiểu Đoàn. Anh Hoàn trợ lý tác chiến chỉ cho chúng tôi chỗ đất khác khá ngon, chứ không đào tiếp ở chỗ hôm qua nữa. Ba thằng chúng tôi đào cật lực, mà hôm nay chúng tôi chuẩn bị xẻng pháo hẳn hoi. Đào đến trưa chúng tôi nghỉ về đơn vị ăn cơm xong lại sang đào ngay. Đến tối, đào hết sức 3 thằng chúng tôi cũng chỉ đào được khoảng 10m hào thôi. Tính ra mỗi thằng chỉ đào được khoảng hơn 3m. Anh Lộc Tiểu Đoàn trưởng ra khen ngợi, nhưng chưa hoàn thành nhiệm vụ cho nghỉ về đơn vị tắm giặt rồi ăn cơm. Mai sang đây cải tạo tiếp; Ngày thứ 3 và thứ 4 cũng chỉ đào được như thế thôi. Mỗi thằng chỉ đào được khoảng hơn 3m/ngày là hết sức rồi. Đến ngày thứ 5 và thứ 6, cứ đến buổi chiều mát là anh em cùng đơn vị nó sang đào hộ nên chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ. Rồi đến ngày thứ 7 hết một tuần cải tạo thì ở đơn vị tôi gần 20 thằng nó sang đào hỗ trợ chúng tôi nên nhiệm vụ được xong sớm. Tôi liền gọi anh Lộc Tiểu Đoàn trưởng ra bàn giao rồi xin lỗi Thủ Trưởng và hứa không vô kỉ luật, đi chợ tự do nữa. Rồi Anh Lộc Tiểu Đoàn trưởng hỏi chúng tôi :" Thế có mệt không ". Ba thằng đồng thanh đáp :" Mệt Thủ Trưởng ạ ". Anh Lộc cười rồi bảo :" Đoạn hào này gần 100 m đào trong 7 ngày là cả C1 đào chứ có phải 3 đứa chúng mày đào đâu, tôi biết chứ nhưng thôi thế là được rồi.(Ba thằng thở phào nhẹ nhõm ) Thôi, cho về đơn vị nghỉ ngơi ăn 2-9 cho ngon ( Vì hôm đó là ngày 31-8 rồi ). Bị một trận cải tạo của Tiểu Đoàn tôi chán nản, không dám đi chợ uống rượu nữa mà tìm mọi cách về nhà. Tôi liền gặp anh Tùng y tá Đại Đội, tìm mọi cách cho tôi đi giám định thương tật vì tôi bảo vết thương ở đầu của tôi tái phát liên tục ( hay bị đau đầu ) cùng với sự kiện một nhát búa vào chân nữa ( đứt phần cơ ở ngòn út và ngón áp út của bàn chân phải không cử động được ). Anh Tùng y tá bảo đi giám định thương tật phải về viện Quân Y 91 của quân khu 1 cơ.Nếu đi giám định không thì Trung Đoàn không cho đi đâu. Phải kiếm thêm cái bệnh nữa kết hợp đi thì mới được. Tôi bảo " Cho chó cắn có được không ?". Anh Tùng bảo " Tốt quá, chó cắn thì cũng phải về Viện Quân Y 91 thì mới tiêm phòng dại được. Thế là ngày 2-9 năm ấy tôi bảo A CỐI ai có tiền gom hết lại được khoảng 200 đồng. Tôi vào bản mua 1 con chó gần 15kg hết 130 đồng, còn lại là mua rượu, thuốc lào, chè, mì chính thế là hết tiền. Khi thịt chó tôi để nguyên cái đầu chó làm sạch chứ không bổ ra như mọi lần. Tôi cho vào nồi xương ninh nhừ. Khi ăn tôi gỡ rất cẩn thận cái đầu chó cho hết thịt. Rồi đánh sạch 2 cái hàm của con chó, đưa 2 cái hàm của con chó có 4 cái răng vẫn sắc nhọn hai tay vỗ mạnh bập một cái 4 răng của con chó cắm sâu vào bắp chân rớm máu. Hôm sau 4 vết răng chó đã thâm lại, tôi gọi anh Tùng Y tá lên A CỐI và làm biên bản là hôm qua Tiểu Đội tôi mua chó về thịt ăn 2-9 tôi bị con chó ý cắn. Mấy thằng A CỐI làm chứng ký vào. Thế là thủ tục tôi bị chó cắn đã hoàn tất.
- Khi anh Tùng Y tá lên A CỐI làm biên bản xong mấy thằng A Cối ký vào. Tôi cầm biên bản xuống Đại Đội bảo anh Hòa C Trưởng ký vào thì anh Hòa bảo:" Con chó nó cắn phải theo dõi nó 10 ngày xem nó có ốm không "- Tôi bảo Tiểu Đội thịt ăn mất rồi. Anh Hòa C Trưởng cười và bảo cho xem vết cắn, tôi vén quần lên 4 vết răng chó cắn đã đông máu thâm lại y như thật. Anh Hòa liền ký vào biên bản cho tôi. Mấy ngày sau mới đến ngày khám bệnh ở Tiểu Đoàn, anh Tùng Y tá liền viết vào giấy giới thiệu tôi sang Tiểu Đoàn khám. Tôi cầm biên bản chó cắn và giấy giới thiệu của C1 sang gặp anh Ngọa Y Sỹ Tiểu Đoàn khám thì xong luôn và tôi cũng nói với anh Ngọa cho tôi giấy giới thiệu để xuống Trung Đoàn để trích lục bệnh án thương tật cũ của tôi luôn. Thế mà loằng ngoằng hết tháng 9-1983. Tôi mới làm xong thủ tục cuối cùng ở trạm xá Trung Đoàn
- Sáng ngày 01-10-1983, tôi xuống quản lý Đại Đội cắt 1 tháng gạo và tiền ăn cùng phụ cấp của tháng 10-1983. Tôi mang gạo vào Rẻ Gà bán luôn và anh em trong đơn vị dồn vào cho tôi được hơn 200 đồng nữa và đưa cho tôi thư từ gửi về gia đình. Chia tay anh em ở đơn vị, tôi khoác ba lô xuống trạm xá Trung Đoàn thì đã chiều rồi, tôi lấy giấy giới thiệu và đổi giấy cung cấp tài chính ở Trung Đoàn xong thì tối. Tối hôm đó, tôi ngủ ở thị trấn huyện Thông Nông. Mong ngày hôm sau có xe ô tô vào thì tôi đỡ phải đi bộ. Nhưng hôm sau là 2-10 không có xe vào, tôi khoác ba lô đi vượt qua đèo Mã Quỷnh, mỏ sắt. Đến Nước Hai thì tối, tôi đang ngơ ngác nghĩ không biết tối sẽ ngủ ở đâu để mai vào Trạm xá Sư Đoàn khám thì gặp ngay 1 anh lính của E 246 đóng quân bên Hà Quảng, cũng đi viện vì chó cắn, thế là tôi có bạn đường rồi, đỡ lo Grin. Mà tôi lại thêm một việc giám định thương tật nữa. Anh lính E 246 đó tôi không nhớ tên nữa chỉ nhớ nhà ở Yên Thế hay Nhã Lam - Hà Bắc thôi. Tôi và anh lính 246 vào bản mua gạo và nhờ thổi cơm ăn tối rồi ngủ nhờ đêm hôm đó luôn. Vì qua nói chuyện thì gia đình người dân ấy cũng biết là chúng tôi ở trên Chốt xuống và đi bộ mất 2 ngày nữa, xin ngủ nhờ để mai vào Trạm Xá Sư Đoàn khám bệnh nữa. Nên nhà dân ấy cũng chẳng lấy tiền cơm gạo của chúng tôi làm gì. khi ăn cơm xong 2 thằng được chủ nhà chỉ cho một cái giường, chúng tôi bỏ màn và đi ngủ ngay vì đi bộ cả ngày mệt lắm rồi. Sáng hôm sau chúng tôi dậy sớm chào chủ nhà rồi khoác ba lô ra phòng khám của Trạm xá Sư Đoàn khám và đổi giấy giới thiệu ra trạm xá Quân Đoàn 26 ở Nguyên Bình hay Cao Bình gì đó, tôi cũng không nhớ nữa. Tôi với anh lính E 246 lại khoác ba lô ra thị trấn Nước Hai thuộc huyện Hòa An ăn sáng và mua bánh Trưng cho vào cóc Ba lô lại lên đường. Vừa đi vừa hỏi đường xuống trạm xá Quân Đoàn.
- Khi tôi và anh lính E 246 xuống đến phòng khám của trạm xá Quân Đoàn 26 thì trời đã nhá nhem tối. Tôi bảo với anh lính vào dân xin nghỉ nhờ, tìm nhà gần trạm xá. Khi người dân nghe thấy chúng tôi nói là lính 246 và 677 thì họ biết ngay là chúng tôi ở Thông Nông và Hà Quảng xuống, dân thổi cơm cho ăn và nghỉ ngơi mà chẳng lấy của chúng tôi một đồng nào cả. Sáng hôm sau chúng tôi lại chào chủ nhà rồi ra phòng khám của trạm xá Quân Đoàn 26 ngồi đợi. Tôi thiết nghĩ :" Không hiểu có ma lực nào mà giúp thằng lính đi bộ 3 ngày khoảng 100km, kinh khủng quá !".
- Đến giờ làm việc Bác sĩ phòng khám đến, tôi và anh lính 246 trình giấy tờ ra. Khi xem giấy tờ, bác sĩ hỏi chúng tôi đến bằng phương tiện gì mà theo giấy cung cấp tài chính của tôi cắc ở đơn vị từ ngày 01-10-1983 mà hôm nay 04-10-1983 chúng tôi mới tới trạm xá Quân Đoàn. Tôi trả lời gọn lỏn với bác sĩ là em đi bộ. Anh bác sĩ Quân Đoàn nhìn chúng tôi với con mắt ái ngại và khâm phục. Rồi anh bác sĩ Quân Đoàn cũng làm thủ tục đổi giấy giới thiệu chuyển chúng tôi về Viện Quân Y 91 Quân Khu 1 ( Ở Phổ Yên - Bắc Thái ). Riêng tôi còn có thêm một giấy kèm thêm bệnh án Trưng Cầu Viện Quân Y 91 giám định thương tật của Trung Đoàn cấp. Xong xuôi, anh Bác sĩ chỉ cho chúng tôi đường tắt từ trạm xá Quân Đoàn đi ra cây số 8 đường Cao Bằng đi Hà Nội luôn chứ không phải vào thị xã Cao Bằng nữa. Tôi và anh lính 246 cảm ơn Bác sĩ Quân Đoàn rồi khoác ba lô lên đường ngay. Khi ra đến cây số 8 có một trạm vệ binh, chúng tôi vào trạm trình giấy tờ và liên hệ luôn nhờ các anh vệ binh bắt ô tô hộ. Khi kiểm tra giấy tờ giới thiệu chuyển viện của chúng tôi hợp lệ, rồi một anh ra hạ Ba Li E xuống một lúc thì có một chiếc xe đi từ Cao Bằng về Bắc Thái. Anh vệ binh ra nói với lái xe cái gì đó chúng tôi không biết. Anh vệ binh ra bảo chúng tôi lên thùng xe đi về đến Bắc Thái thì mỗi người trả cho lái xe 100 đồng. Thế là chúng tôi bắt tay chào các anh vệ binh rồi tôi nhảy lên xe trước, anh lính 246 đưa ba lô của tôi lên trước rồi đưa cái ba lô của anh ấy cho tôi và anh cũng nhảy lên xe nốt.
- Xe ô tô từ từ chuyển bánh chúng tôi dơ tay vẫy mấy anh vệ binh, các anh vệ binh cũng vẫy lại và có anh còn bảo :" Cho gửi lời hỏi thăm gia đình nhé". Thế là gần 3 năm lính BG tôi mới được về thăm gia đình lần đầu tiên (Hợp pháp).
- Tôi và anh lính 246 trèo nhanh lên thùng xe ô tô, thì Trời ơi! Đó là xe chở than lên thị xã Cao Bằng và đi xe không về, thùng xe đen nhẻm. Hai đứa chúng tôi phải đứng 2 tay bám chặt lên ắc sô ở nóc ca bin xe. Xe chạy rất sóc, lắc ngả nghiêng, thôi kệ miễn sao nhanh được về đến nhà. Rồi xe ô tô về đến thị trấn Ngân Sơn, ở trên Ca bin xe có 2 cô bé đi nhờ xuống thì chúng tôi được xuống ca bin ngồi thoải mái. Khi xe về đến Bắc Cạn thì lái xe bảo nghỉ ăn cơm vì lúc đó đã muộn khoảng 2 giờ chiều rồi. Khi ăn cơm xong chúng tôi đưa trả cho lái xe mỗi người 100 đồng y như lời anh vệ binh nói. Tôi vào chợ Bắc Cạn ( Lúc đó ở ngay ven đường ) Mua 1 kg chè để về nhà làm quà, rồi xe ô tô lại tiếp tục di chuyển đưa chúng tôi về đến Thái Nguyên thì trời đã tối. Khi xuống xe ô tô anh lái xe còn chỉ đường cho chúng tôi vào ga xe lửa Thái Nguyên ( Ga Đồng Quang ). Tôi với anh lính 246 vào 1 quán ăn ở Ga ăn cơm và định chia tay nhau. Nhưng khi hỏi kỹ thì tôi mới biết anh lính 246 nhà ở cầu Gồ Yên Thế. Nếu mà đợi Tầu Mỏ Trặng thì đến chiều mai mới có thì đến đêm mai anh lính 246 mới về được đến nhà cơ. Tôi liền vạch phương án và bảo anh lính 246 đi tầu Thái Nguyên - Hà Nội luôn đêm nay. Khi về đến nhà tôi thì chỉ khoảng 3 giờ sáng. Nghỉ ngơi đến đến sáng tôi sẽ đưa anh ý ra Bến Nứa để anh đi Bắc Giang. Rồi từ Bắc Giang đi Yên Thế thì cùng lắm là đến Trưa mai anh có mặt ở nhà thôi.
- Nghe thấy tôi nói có lý và vài người ở trong quán ăn động viên anh lính, vì qua câu chuyện chúng tôi trao đổi với nhau, thì mọi người đều biết chúng tôi là lính Chốt Cao Bằng về rồi. Thì anh lính 246 đồng ý về nhà tôi ở Hà Nội ngay đêm nay. Chúng tôi thanh toán tiền ăn xong rồi khoác ba lô vào ga Đồng Quang mua vé, lên tầu về Hà Nội. Đến gần 3 giờ sáng hôm sau chúng tôi về đến Ga Hàng Cỏ. Tôi và anh lính khoác ba lô ra khỏi ga. Thì bao nhiêu là xích lô mời chào hỏi về đâu, chúng tôi lắc đầu không đi, vì chúng tôi đi bộ quá quen rồi. Đi bộ từ Ga Hàng Cỏ về nhà tôi ở gần cầu Long Biên chỉ một loáng là về đến nhà thôi. Tôi gọi cửa, bố mẹ tôi tỉnh ngủ, mở cửa nhìn thấy tôi mừng rỡ, mẹ tôi òa khóc. Tôi giới thiệu có anh bạn cùng đơn vị cùng về với tôi nhưng quê ở Hà Bắc, đến sáng đưa anh ấy ra bến Ô tô để anh về sớm. Tôi và anh lính 246 ra đằng sau nhà tôi tắm táp xong thì mẹ tôi cũng nấu cho chúng tôi 1 xoong mì sợi. Hai anh em ăn hết xoong mì thì trời cũng tảng sáng, tôi khoác ba lô hộ anh lính 246 và cùng mẹ tôi đưa anh lính 246 lên bến Nứa lấy vé xe ô tô cho anh ấy đi Hà Bắc và hẹn anh ấy ngày kia lúc 10 giờ gặp nhau ở cổng chính Viện Quân Y 91 ( Ở Phổ Yên - Bắc Thái).
Khi tôi chia tay Anh Lính 246 ở cửa viện Quân Y 91 (hẹn 10 ngày sau gặp lại). Tôi về nhà chiều tối hôm đó. Tôi đi làm nốt một nhiệm vụ mà thằng Quang (mặt sấu) ở cùng C1 với tôi nhà nó ở giữa phố Câu Gỗ. Nó có đưa tôi một lá thư tình và một tấm ảnh một cô gái nhìn cũng kháu khỉnh ra phết, và dặn rằng nhà nó có hai chị em rất giống nhau nhà ở đầu phố Nguyễn Siêu (cách nhà tôi ở phường Phúc Tân khoảng 500m) Tên là Phú. Phải nhận đúng người y như trong ảnh thì mới được đưa thư, tránh đưa nhầm cho em của cô gái tên Phú thì rách việc. Chiều tối hôm tôi đút tấm ảnh cô gái đó vào túi cùng bức thư đi bộ lên đầu phố Nguyễn Siêu tìm đúng số nhà thì trước cửa là một quán nước chè chén. Có một người phụ nữ trung tuổi ngồi bán hàng, tôi ngồi xuống và gọi:" Cô cho cháu chén nước". Người đàn bà trung tuổi đó rót cho tôi một chén nước, tôi đảo mắt vào trong nhà thấy 2 cô bé đang dọn dẹp ở trong nhà, nhìn thoáng qua thấy y xì bức ảnh mà thằng Quang ( mặt sấu ) đưa cho tôi, khó phân biệt thật. Tôi vừa uống nước, hút thuốc lào và quan sát kĩ, nghĩ xem làm cách nào để gặp và đưa thư đây. Tôi liền nảy ra 1 cách, nhờ chính người phụ nữ trung tuổi này gọi Phú ra. Tôi liền hỏi chuyện:" Cô là mẹ của Phú ạ ". Người phụ nữ trung tuổi đó nhìn tôi một lượt ( Vì lúc đó tôi vẫn mặc nguyên đồ lính, có cả Sao, Tiết đàng hoàng ) Rồi trả lời:" Vâng có việc gì đó hả anh ". Tôi bảo:" Cháu có việc muốn gặp Phú một lát cô gọi Phú giúp cháu với". Người phụ nữ trung tuổi đó liền quay mặt vào nhà và gọi to:" Phú ơi....". Trong nhà có tiếng đáp:" Dạ..."- Ra có người gặp này. Tôi thấy một cô bé từ trong nhà đi ra, dáng người nhỏ nhắn, mặc bộ đồ ở nhà hoa nhỏ màu xanh, nước da hơi bánh mật. Tôi nhận ra đúng là người trong ảnh rồi. Mà thằng Quang ( mặt sấu ) nó cũng dặn tôi là cái Phú nó đen hơn em nó. Tôi liền chào cô bé đó và giới thiệu tôi là Thịnh ở Phường Phúc Tân ở cùng đơn vị với thằng Quang ở Cầu Gỗ. Được về tranh thủ thăm nhà, Quang có nhờ anh chuyển cho em 1 bức thư và dặn đưa tận tay em. Không được đưa nhầm cho em của em thì phiền toái lắm. Cô bé tên Phú nhận lấy bức thư và cảm ơn tôi. Tôi chào rồi lững thững đi về, trong đầu nghĩ:" Thế là hoàn thành nhiệm vụ với tất cả anh em lính Hà Nội ở trên đó..."
Khi tôi đã làm xong cái việc mà thằng Quang( mặt sấu ) nhờ. Tôi bắt đầu đi làm, cứ có xe Ô Tô hàng Miền Nam ra là các Anh ấy gọi tôi lên làm bốc vác và vận chuyển hàng hóa bằng xe Xích Lô vào chợ Đồng Xuân và Bắc Qua. Không kể Ngày hay Đêm ( để giải phóng nhanh cho xe ô tô ). Cũng được kha khá, bình quân mỗi ngày cũng được vài chục đến 100 đồng cơ. Rồi đến ngày thứ 10. Tôi lại khoác Ba Lô lên viện Quân Y 91. Anh Lính 246 lên cũng rất đúng ngày, chúng tôi lại gặp nhau cung vào khám Phòng Dại. Tôi liền nói chuyện thẳng với anh Bác Sỹ phòng khám rằng con Chó (chết) nó cắn em chứ không phải chó sống đâu và thuật lại tỷ mỷ cho anh Bác Sỹ nghe. Nghe xong Anh ý cười và bảo tôi, các cậu Ma ranh thật. Thế thì không phải Tiêm đâu, cứ về nhà đi đến ngày 28 tháng 10 thì lên đây tôi ký Giấy Ra Viện cho. Còn giám định Thương Tật thì cũng đến ngày đó cuối tháng thì Hội Đồng Giám Định Y Khoa mới thành lập thì mới Giám Định được.
_Tôi lại chia tay Anh Lính 246 và hẹn anh ấy ngày 28/10 gặp lại và hứa về nhà anh ý chơi ở Yên Thế. Hà Bắc. Rồi tôi lại về nhà tiếp tục làm Xích Lô Bốc Vác kiếm Tiền giúp đỡ Gia Đình. Ngày lại qua ngày, cứ thế tôi cùng với Anh Em ở Ô Quan Chưởng làm Xích Lô và Xếp Dỡ Hàng Hóa của xe Ô Tô Miền Nam ra. Rồi ngày 28/10/1983 đến tôi phải lên viện Quân Y 91. Tôi đi Giám Đinh Thương Tật. Kết Luận của Hội Đồng Giám Định Y Khoa của Viện Quân Y Quân Đội 91 tôi tổn hại do hai vết thương là 17%.Tôi thất vọng cầm lại hết giấy tờ và giữ cẩn thận để còn mang lên đơn vị nộp lại (các Bác Sỹ viện Quân Y 91 dặn thế). Rồi Anh Lính 246 cũng tiêm xong mũi Phòng Dại cuối cùng. Tôi và Anh Lính 246 đến phòng Bác Sỹ trưởng Khoa Phòng Dại. Lấy Giấy Tờ Ra Viện và giấy Cung Cấp Tài Chính, tôi xin Bác Sỹ ở nhà thêm một tháng nữa Bác Sỹ cũng đồng ý và ký giấy Ra Viện và giấy cung cấp tài chính cho tôi ngày 28/11/1983. Như tôi đã hứa với Anh Lính 246 là xong việc thì tôi sẽ về nhà anh ấy ở Hà Bắc chơi. Tôi và Anh Lính 246 đi từ viện Quân Y 91 lên Ga Lưu Xá(Thái Nguyên). Đợi đến 5 giờ chiều thì mới có Tầu Hỏa từ Lưu Xá đi Mỏ Trặng. Khi lên trên Tầu Hỏa lại gặp một đồng chí lái xe kéo Pháo của E 188 cùng Quê với Anh Lính 246.Rồi Anh Lính 246 giới thiệu tôi với Anh Lính 188 là tôi là lính 677 Quê Hà Nội. Thế là chúng tôi có 3 người. Vì tầu chạy đêm tôi không rõ xuống Ga nào. Chúng tôi về nhà Anh Lính 188 trước vì nhà anh ấy ở gần Ga hơn, mà đêm nay anh ý mới được về nhà còn chúng tôi đã đi đi về về nhà cả tháng rồi. Nhà Anh Lính 188 thịt gà làm cơm luôn trong đêm để mừng con được về tranh thủ và thết đãi chúng tôi.Khi cơm riệu xong thì trời sáng tôi lại bị đầy bụng rất khó chịu ( không biết ăn phải cái gì lúc ở Ga Lưu xá ) nên người rất khó chịu. Tôi bảo anh lính 246 chào anh lính 188 và gia đình để đi về nhà anh lính 246. Tôi chơi ở nhà ah lính 246 1 ngày, đến sáng hôm sau anh lính 246 đưa tôi ra Cầu Gồ Yên Thế để tôi đi ô tô ra Bắc Giang rồi về Hà Nội. Rồi từ đó tôi và anh lính 246 không gặp nhau nữa, tôi cũng chẳng nhớ tên nữa hình như anh ấy là lính 7-80 thì phải. Giờ tôi cũng chỉ nhớ, có anh lính E246 nhà ở gần khu vực Cầu Gồ hay Nhã Lam ở huyện Yên Thế. Cùng đi viện với tôi về căn bệnh chó cắn.ở Viện Quân Y 91  Có ai đọc được bài viết này của tôi, hay cảm thấy trùng hợp thì hãy lên tiếng nhé và ở xung quanh các thành viên QS có nghe thấy người CCB nào có chuyện tương tự thì giúp đỡ tôi với nhé.
Tôi vẫn kiếm sống bằng nghề Xích Lô. Bốc Vác ở Ô Quan Chưởng. Thì một ngày đầu tháng 11/1983, thì thằng Quang (mặt sấu) nó ra tìm tôi và bảo nó cũng vừa mới về, và cho tôi biết ở trên đơn vị đang xây dựng Trạm Thủy Điện 20 KW ở gần chợ Lương Thông. Anh Em vác đá nặng nhọc lắm nó không chịu được lên cũng tìm cách đi Viện đế về nhà, và nó hỏi tôi cái việc mà nó nhờ có làm đúng như nó dặn không? Tôi trả lời nó.Tao làm đúng y sì lời mày dặn và trả nó bức ảnh của Cô Bé đó. Và tôi bảo với nó là cuối tháng 11 tôi lên Đơn Vị, nó bảo nó còn phải ở nhà để giải quyết song cái việc với Cô Bé Phú ấy đã. Rồi qua Tết nó mới lên Đơn Vị.
_Rồi đến ngày 25/11/1983. Tôi  đi một vòng hết các nhà đồng đội ở quận Hoàn Kiếm cùng ở C1 thông báo viết thư và chuẩn bị quà đến ngày 27 tôi sẽ đến lấy . Để mang lên đơn vị , tôi nhớ mãi tối ngày 27/11 tôi đến nhà thằng Hùng lùn để lấy quà , ngay cạnh nhà Hùng lùn có thằng Lượng vật cũng đi lính cùng đợt chúng tôi nhưng khi lên biên giới nó ở C3 cơ gia đình nó biết tôi đến nhận quà của nhà Hùng lùn thì nhà thằng Lượng vật chạy náo loạn cả lên người đi mua thuốc lào người đi mua mì chính người ngồi viết thư để gủi tôi mang đi ( vì thằng Lượng vật khác C lên khi tôi về nó cũng không biết lên không có thư viết về cho thế lúc tôi đi không báo cho gia đình nó biết để chuẩn bị quà lên mới bị gấp gáp như vậy )
_ Chỉ mì chính thuốc lào và thư thôi và quân tư trang của tôi nữa mà một balô đầy nặng đấy các đồng chí ạ . Còn tôi mua quà bánh của tôi rồi tôi mang lên đơn vị khoảng 500 đồng , còn vé ôtô đi Cao Bằng tôi đã gửi mua trước rồi ( vì có người nhà làm ở bến xe )   tôi dồn hết tiền của gia đình đồng đội gửi lại và của tôi nữa lên phố Hàng Mã mua hết giấy quận thuốc lá . ^.^ Làm buôn 1 chuyến lên đơn vị bán vừa có lãi vưa đỡ phải cầm tiền mặt đi nhiều đề phòng mất cắp móc túi tối khuya ngày 27/11 tôi đã chuẩn bị buộc balô gọn gàng đàng hoàng sáng hôm sau 5h30 tôi gạt nước mắt ghẹn ngào chào bố mẹ tôi . tôi khoác balô lên đường về đơn vị để làm nốt phần nghĩa vụ còn lại của mình . Mẹ tôi đưa tôi lên đến xe , bạn của mẹ tôi mà tôi vẫn gọi bằng gì đưa cho tôi vé xe đi Cao bằng và dắt tôi ra xe vé của tôi ngay hàng ghế đầu sau lái xe đúng 6h trời mới tờ mờ sáng xe đã chuyển bánh mẹ tôi giơ tay vẫy và khóc tôi cũng không cầm được nước mắt phải quay mặt đi khi xe ôtô chạy ra khỏi cửa Bến Lứa để lên cầu Long Biên mẹ tôi còn chạy theo xe vừa khóc vừa vẫy vừa gọi tôi con ơi ! tôi thò đầu ra khỏi cửa sổ xe và bảo thôi mẹ về đi con đi đây rồi tôi quay mặt vào trong lại khóc . Khi xe ôtô đã vào cầu Long Biên rồi tôi nghĩ thương bố mẹ già của tôi quá ! mà cũng vi thương bố mẹ tôi lên tôi phải về đơn vị để làm nốt phần nhiệm vụ còn lại của mình . khi xe ôtô lên tới bến xe Cao Bằng thì trời đã tối hẳn ...
- Đến tối mịt ngày 28/11/1983 xe khách Hà Nội - Cao Bằng mới lên tới bến . Tôi một mình cũng chẳng biết đi đâu và trọ ở đâu cả tôi liền trải cái áo mưa ra ngay lền nhà chờ bến xe bỏ xôi và muối vừng mà mẹ tôi đã chuẩn bị cho tôi từ ở nhà , ăn hết lắm xôi đó cũng đã ấm bụng rồi một vài người nữa cũng vào nhà chờ cũa bến xe trải áo mưa ra và nghỉ như tôi , có cả vài anh lính tôi bỏ bao thuốc lá du lịch mời mấy anh ý rồi hỏi chuyện làm quen . Trong số các anh lính đó cũng có một anh lính 677 như tôi còn các anh kia ở hướng khác tôi cũng không nhớ kỹ lắm . Tôi chỉ xoáy sâu vào anh lính 677 cùng trung đoàn với tôi thôi . Qua chuyện trò thì tôi biết anh ý C13 thuộc pháo phòng không 23 ly ( giờ thi không nhớ được tên nữa ) tôi liền bắt chuyện ở 23 ly tôi cũng có thằng bạn ( đồng hương ) ở gần nhà mà nó cũng có quà của gia đình gửi lên hiên đang ở trong balô của tôi . anh lính kia à lên 1 tiếng và nói đó là thằng Luân nó làm văn thư cũa C13 kiêm thợ sửa chữa pháo nữa thì tôi liên bảo khi lên biên giới nó cũng ở C1 cùng tôi sau nó đi học lớp quân khí ( vì trước khi đi bộ đội nó đã học hết lớp 10 và đã có giấy gọi vào đại học rồi thì bị đi lính ) , hai anh em chuyện trò miên man và bảo mai cùng nhau về đơn vị cho vui . thế là tôi đã có bạn đường về đơn vị , chập chờn thao thức ngủ gà ngủ gật , tôi hút thuốc lá liên tục ( khi tỉnh ) chỉ no cho cái balô của tôi bao nhiêu là quà của đồng đội không may mất một cái thì nguy mà chẳng biết ăn nói với chúng nó làm sao cơ chú tôi cứ suy nghĩ miên man như thế rồi trời cũng sáng . tôi với anh lính C13 677 kia đi ăn sáng tại bến xe , khi ăn xong thì bến xe cũng thông báo chuyến đi lên Thông Nông không có xe lý do mưa đường trơn xe không chạy được . tôi với anh lính C13 kia bàn nhau đi xe ôtô vào Nước Hai rồi đi bộ về đơn vị cungc được . Hai anh em nhất trí với phương án như thế liền mua vé ôtô vào thị trấn Nước Hai tầm 7h sáng khi xuống xe chúng tôi sốc balô lên đường ngay và hạ quyết tâm tối nay phải về đến C13 bằng mọi giá. Chúng tôi mua bánh trưng ở Nước Hai buộc vào balô để ăn trưa , lại ngược đường quan Mỏ Sắt vượt đèo Mã Quỷnh khi xuống hết đèo Mã Quỷnh thì trời đã tối tôi liền vào ngõ cửa bưu điện huyện Thông Nông (vì nhân viên ngủ ngay tại bưu điện) tôi liền đánh 1 bức điện tín về cho gia đình nội dung : (bố, mẹ con đã lên tới đơn vị an toàn) rồi cùng với anh lính C13 kia về đơn vị khi về đến C13 thì anh lính kia gọi to Luân ơi có đồng hương Hà Nội lên vào chơi này lúc đó khoảng 8h tối thằng Luân từ nhà C bộ lao ra và mồm bảo đâu đâu qua ánh đèn pin nó nhận ra tôi rồi ôm trầm lấy tôi (vì cũng hơn 2 năm tôi với nó không gặp nhau rồi).
Khi tôi và thằng Luân ở C13 ôm chầm lấy nhau, rồi nó đưa tôi vào nhà C Bộ. Giới thiệu tôi với BCH C 13, tôi liền bỏ chè thuốc lá ra mời các Anh ở trong C bộ, rồi các Anh ý hỏi tôi đã ăn gì trưa, tôi trả lời luôn Em chưa ăn gì cả ( chả khách sáo làm gì ) thì Anh " hình như là C viên " đi ra ngoài một lát rồi quay vào bảo với thằng Luân, xuống Quản Lý lấy gạo và thực phẩm thổi cơm cho tôi ăn, còn rau thằng Luân nó tăng ra được mấy luống tốt lắm. Tối đó khi tôi ăn cơm xong, tôi với thằng Luân ngủ với nhau trung một giường, tôi kể tỷ mỷ cho nó biết hết tất cả các thứ chuyện mà khi tôi ở nhà mà tôi lắm bắt được. Rồi tôi đưa thư vả quà mà Gia Đình nhà nó gửi tôi mang lên cho nó. Rồi tôi ngủ lúc nào không hay.
- Sáng hôm sau ngày 30/11/1983 khi tôi thức dậy thì thằng Luân đã lấy cơm phụ về rồi . Tôi đánh răng rửa mặt xong ăn sáng luôn , ăn uống xong tôi chào ban chỉ huy C13 để lên đơn vị . Thằng Luân nó xin đơn vị tiễn tôi 1 đoạn mà nó cũng phải giúp tôi , đưa tôi vào bản để bán hết số giấy cuốn thuốc lá . Để lấy tiền về đơn vị để giả anh em chứ , khi đã bán hết số giấy quận thuốc lá và đưa bớt quà cho thằng Luân thì balô tôi cũng nhẹ đi chút ít . Tôi mới thằng Luân chia tay nhau , nó về đơn vị nó còn tôi tiếp tục hành quân lên đơn vị tôi . Đến khoảng hơn 10h sáng tôi đến C19 quân y trung đoàn ( tức trạm xá trung đoàn ) . Tôi vào nộp lại toàn bộ những thứ giấy tờ liên quan đến giám định thương tật của tôi trên quân y 91 . Để quân y trung đoàn còn vào sổ lưu lại ( bác sỹ viên quân y 91 dặn thế ) khi nộp giấy tờ ở quân y trung đoàn xong tôi lại khoác balô về đơn vị
- Tôi về đến C1 (lúc đấy là 4h chiều ngày 30/11/1983) tôi khoác balô vào A cối thì anh em mừng rỡ khi tôi bỏ quà của gia đình họ gưi tôi đưa cho họ . Bỗng dưng thằng Thường cối mặt nó buồn và bảo quân số của tôi đã bị cắt xuống B1 rồi không còn ở A cối nữa (khi tôi đi viện thì đơn vị nhận thêm 1 đợt quân nữa lính tháng 9 năm 1983 đã biên chế đủ cho A cối rồi). Tôi liền cầm giấy ra viện của tôi (bệnh chó cắn) xuống đại đội nộp và giấy cung cấp tài chính cho quản lý , rồi tôi hỏi đại đội quân số của tôi hiện giờ đang ở đâu , đại đội trả lời là tôi đã bị chuyển xuống B1 rồi tôi thầm nghĩ (càng tốt B1 đồng hương nhiều càng vui) tôi để lại ít quà của tôi cho A cối rồi khoác balô xuống B1 nhận nhiệm vụ (báo cáo quân số tôi đã có mặt) và trả quà hết cho anh em hoàn thành nhiệm vụ ...... Thế là cuộc đi viên về nhà hợp pháp của tôi vừa tròn 2 tháng từ ngày 1/10/1983 về đến đơn vị ngày 30/11/1983.
- Khi tôi đi viện về đơn vị, quân số của tôi đã bị chuyển xuống B1 Bộ Binh. Tôi cũng hơi bị phật lòng và khó chịu ( Vì tôi đã sống ở A Hỏa Lực Cối 60 hơn 2 năm rồi ). Nhưng thôi, kệ ! xuống B1 càng nhiểu anh em đồng hương. Khi xuống B1 tôi cũng không nhớ rõ là tôi được biên chế vào Tiểu Đội nào và được trang bị súng gì. Tôi chỉ nhớ lúc đó thằng Hùng ( Lùn ) đang phụ trách Trung Đội. Tôi nhập vào ngay với anh em đồng hương Hà Nội bao gồm: Hùng ( Lùn ), Hùng ( Mù ), Hùng ( Chuối ), Dũng ( Sún ), Bình ( Tông ), và tôi nữa. Sáu anh em vừa đủ một mâm, sau có thêm thằng Liên ( Kim Khâu Nâu ) lính tháng 3-1983 nữa là 7 người. Khi tôi đã đưa trả quà và tiền cho chúng nó xong, chỉ còn duy nhất một gói quà của thằng Lượng Vật nhưng nó ở C3 cơ. Đang phàn nàn ngày mai phải lên C3 để đưa quà cho thằng Lượng Vật, thì anh em bảo nó đang làm công trình trọ ở nhà cái Bóng ở Bản Lịch. Tôi liền cầm quà xuống Bản Lịch và đưa cho thằng Lượng Vật. Thế là xong phần quà cáp của anh em.
- Vài ngày sau đó tôi vẫn được nghỉ công tác, vì thằng Hùng Lùn phụ trách Trung Đội, tôi lại mới đi viện về, mà công trình thủy điện đã chuẩn bị xong bây giờ chỉ phải chôn cột điện ( cột gỗ ). Thì dân bản làm, còn kéo dây điện thì đã có một đại đội xây dựng ( Hội thằng Bằng ở Cầu Gỗ ) là quân của Sư Đoàn vào xây dựng và đảm nhiệm rồi. Tôi chả phải dính líu gì đến cái trạm Thủy Điện đó, rõ may. Rồi vào một ngày giữa tháng 12-1983, mấy thằng lính Hà Nội ở B1 nhưng hôm đó không có tôi và thằng Hùng Lùn, đi lấy củi hôm đó bị mắc trời mưa chúng nó không lên núi lấy củi được mà rủ nhau ra cái nhà mẫu giáo ở Bản Rế dỡ hàng rào để lấy củi khô. Đang rỡ thì bị dân phát hiện rồi vào Tiểu Đoàn kiến nghị, thế là 5 thằng chúng nó bị cải tạo Tiểu Đoàn. Hào chiến đấu quanh Tiểu Đoàn thì tôi, Thanh Trố, Thịnh Voi cải tạo xong rồi. Thủy điện thì hội Tùng Rũi ở D Bộ cải tạo cũng đã làm xong. Còn đợt này hội lính Hà Nội này được làm nhà Tham mưu Tiểu Đoàn, lấy cây, cắt ranh, buộc dứng, trát vách. Rất vất vả nhưng may còn có tôi và thằng Hùng Lùn ở nhà chăm lo thực phẩm, rau xanh, để cải thiện cho chúng nó qua được cái đợt cải tạo Tiểu Đoàn 1 tuần này. Rồi sát tới ngày 22-12-1983. Hội lính Hà Nội ở B1 bị cải tạo Tiểu Đoàn mới được tha, chúng nó bảo hú vía. Cũng may tôi có tài xoay sở thực phẩm tươi sống ở ngoài xuối và các đường ven bản. Mà đời sống anh em cũng đỡ đi phần nào. Rồi đúng đến ngày 22-12-1983 đơn vị chúng tôi và các bản lân cận có điện. Mỗi trung đội được lắp 2 bóng điện tròn 60W. Và mỗi nhà dân được 1 bóng. Cuộc đời người lính BGPB, chúng tôi được sáng sủa lên chút ít.
- Ngày 22-12-1983 Trạm Thủy Điện Lương Thông đi vào vận hành, chúng tôi có điện, năm đó đơn vị tôi tổ chức đón Tết Quân Đội khá đầy đủ. Và mùa xuân năm 1984 sắp tới, chúng tôi lại bao lo toan chuẩn bị cho cái Tết, 1 số thằng lính Hà Nội có dự định về nhà ăn Tết thì chúng nó đã tìm đủ cách để về rồi. Có những thằng ở lại ăn Tết ở đơn vị thì xác định đây là cái Tết cuối cùng của đời thằng lính chúng tôi. Vì lúc đó chúng tôi đã được gần 3 năm tuổi quân rồi nên phải tổ chức thật hoành tráng và giao lưu với tất cả anh em lính Hà Nội trong toàn Tiểu Đoàn. Thằng Bình Tông và thằng Hùng Mù có nhiệm vụ làm chuồng gà, tôi với thằng Liên ( Kim Khâu Nâu ) có nhiệm vụ đi kiếm gà về để nhốt và nuôi. Thằng Hùng Chuối và Dũng Sún có nhiệm vụ chuẩn bị chè, thuốc lá, thuốc lào, mì chính. Thằng Hùng Lùn đang phụ trách Trung Đội thì nó sẽ lên kho Đại Đội kiếm trác tất cả những cái gì mà kho Đại Đội có khi chia về cho từng Trung Đội. Rồi tình hình an ninh ở đây không được tốt cho lắm, biệt kích TQ vẫn hoạt động, vào một tối quân của Tiểu Đoàn Bộ cử biệt phái lính của B vận tải vào rừng khai thác và xẻ gỗ. Nhân lúc chỉ có mỗi thằng Hinh ở lán, Biệt kích ( Thám báo ) TQ đã xông vào lán xẻ bắn chết thằng Hinh ( Quân vận tải tiểu đoàn ). Rồi lại C1, thằng Hiếu bị đâm chết ở góc chợ Lương Thông, cứ náo loạn cả lên. Một hôm cũng tại chợ Lương Thông, Tết cũng gần đến rồi, nói chung là lính đi chợ rất đông để mua sắm đồ chuẩn bị Tết, thì ở giữa chợ có một thanh niên tay cầm dao trọc tiết lợn, xuống tấn định đâm bộ đội miệng hét lớn: "Tửu hà ma...Khẩu mà....Khẩu mà " và liên tục chuyển thế .Tôi thấy có tiếng hô Biệt Kích TQ đấy, cẩn thận. Thằng Hùng (Mông Đít  ở Đinh Liệt nó rút được cái đòn gánh, vụt thẳng vào lưng tên Biệt Kích kia. Đau quá nó đứng dậy thì ăn ngay một cú đá trời giáng vào giữa ngực của thằng Bình Tông, loạng choạng ngã ngửa và tung dao ra. Có một người lính giữ luôn lấy con dao. Thế là có bao nhiêu bộ đội ở chợ hôm đó ai cũng có phần đánh để trả thù cho những người bị Biệt Kích TQ sát hại.( Trong trận ấy Chương Khọm tích cực nhất, tên biệt kích ấy hình như chết ). Rồi chúng tôi bỏ đi kệ cho dân bắt và đưa vào Tiểu Đoàn.
- Tưởng lính được tuyên dương, ai ngờ Tiểu Đoàn báo động Tập Trung Tiểu Đoàn để kiểm điểm. Khiển trách về tội bộ đội ta xuống nặng tay với tên biệt kích kia quá. Tiểu Đoàn kỉ luật khi dân nhận ra đồng chí Chương Khọm cũng đánh tên biệt kích đó còn ngoài ra dân chả nhận mặt được ai cả, rồi Trung Đoàn kỉ luật cải tạo Trung Đoàn 6 tháng. Mà hôm đó cũng vào giai đoạn Bố thằng Hùng (Mông đít) ở Đinh Liệt - Hà Nội lên chơi và mang quà Tết lên cho chúng tôi. Ông già cứ sợ mãi, Rồi Tết đến chúng tôi đón xuân rất vui vẻ, đầy đủ. Nhất là khoản Gà mà tôi đảm nhiệm thì khỏi phải nói quá đầy đủ và dư thừa nữa là đằng khác. (Tôi toàn đi xin gà vắng mặt của dân thôi).
- Rồi cái Tết năm 83-84 qua đi nhanh chóng, chúng tôi lại bắt tay vào nhiệm vụ mới. Lệnh của Trung Đoàn 677 giao về các đơn vị ( Kiên cố hóa doanh trại ) các Đại Đội và cả Tiểu Đoàn Bộ nữa, cắt quân số trực chiến ở đơn vị, cử lên rừng khai thác gỗ xẻ ván, xẻ cột nhà ngay tại rừng rồi cho lính vận chuyển về đơn vị. Đồng thời ở đơn vị tăng cường cho lính lấy củi, lấy đá đốt vôi. Ở B1 chúng tôi được giao nhiệm vụ đốt vôi (Nhưng chỉ đốt bằng củi chứ không có than). Thằng Hùng Lùn được giao nhiệm vụ phụ trách về nhân sự, còn tôi được giao nhiệm vụ phụ trách về kĩ thuật ( Thú thật tôi có biết gì về đốt lò vôi mà không có than đâu ). Tôi cứ nhận bừa nhiệm vụ về kĩ thuật cho đỡ khổ đã ( Nước sông công lính mà ). Rồi tôi sang C2 và D Bộ tìm hiểu kĩ thuật và cách đào lò vôi. Tôi về Đại Đội báo cáo, tôi sẽ đào lò vôi và đốt khoảng 2 khối đá. Phải cần 12 khối củi, củi phải to bằng bắp chân đến bắp đùi. Đối trong vòng 5 ngày 5 đêm liên tục, Đại Đội liền nhất chí với phương án của tôi. Tôi liền chọn 6 người ở B1 cả tôi và Hùng Lùn là 8 người. Tôi thiết kế 1 cái lò đất, đào ở sát mép tả li đất gần nhà bếp của Đại Đội và cũng sát núi đá để anh em vận chuyển đá và củi về lò vôi cũng được gần, đỡ vất vả. Tôi đào cái lò vôi đó sâu 2m theo hình chum, đáy và miệng lò 0,8m đoạn giữa thân lò phình ra đường kính rộng 1,2m, phần đáy lò tôi khoét một lỗ rộng để cho củi vào. Đặt Ghi là bằng đá to, tôi xếp thứ tự đá vào lò hết 2 khối đá như đã dự trù. Khi việc vào lò đã hoàn tất, buổi chiều hôm đó anh Nghị C Phó ( Hậu Cần ), cho chúng tôi một cái chân giò ( lợn ) và 2 kg gạo nếp để thổi xôi thắp hương rồi đốt lò. Qua đêm, ngày thứ 1; 2; 3 tôi nhìn vào cửa lò những hòn đá đỏ rực ( Hồng lừ ). Tôi khều ra mấy hòn to bằng nắm đấm ( Đã thành vôi ), đưa cho anh Nghị C Phó ( Hậu Cần ). Anh Nghị mang về cửa nhà C Bộ lấy 2 cái mũ sắt, cho vôi vào, ( tôi vôi lở trắng toát ) các cán bộ đơn vị khác sang thăm quan trầm trồ khen C của anh được đấy. Anh Nghị C Phó hãnh diện lắm, rồi tôi đốt nốt 2 ngày đêm nữa cho đủ 5 ngày đêm. Tôi lấp và ủ lò rồi bàn giao trả Đại Đội lò vôi đó, khi đốt xong lò vôi đó tôi cảm thấy đau đầu và mệt mỏi ( Chắc suy nghĩ nhiều ). Tôi liền bảo với anh Tùng Y tá làm giấy tờ cho tôi xuống trạm xá Trung Đoàn nghỉ ngơi và điều dưỡng. Tôi lại khoác ba lô xuống trạm xá Trung Đoàn, tôi nằm điều dưỡng được khoảng hơn chục ngày thì Trung Đoàn nhận thêm một đợt lính mới tháng 3-1984 ( Lính Mê Linh - Hà Nội ) và có người ở đơn vị xuống báo tin cho tôi biết, cái lò vôi của tôi khi ra lò đạt 100% loại đá ( vì những cục nào thành vôi thì đã bị tở ra thành bột hết rồi ) và các đơn vị khác cũng bị như thế 100% Vôi sống loại đá.
- Tôi nằm ở trạm xá Trung Đoàn vài ngày nữa, thì thằng Hùng Lùn và thằng Liên ( Kim Khâu Nâu ) khoác ba lô xuống Trung Đoàn gặp tôi. Tôi mới hỏi kĩ lại cái lò vôi tình hình ra sao, thì nó bảo sống hết. Tôi hỏi lại chúng nó mang ba lô xuống đây làm gì, nằm trạm xá Trung Đoàn à ( tôi chắc mẩm mình lại có bạn ở đây rồi ). Thằng Hùng Lùn trả lời:" Chúng tao xuống hang Trung Đoàn cải tạo ". Tôi giật mình hỏi :" Tội gì ?" thì nó mới từ từ kể lại cho tôi nghe đầu đuôi sự việc rất tỉ mỉ. Hôm kia, hội thằng Quang ( Bôm Bốp ) ở C3 xuống chơi chả có cái gì ăn cả chúng nó mới rủ thêm mấy thằng B1 lính Hà Nội chúng mình mang súng định ra suối bắn cá. Thì ở đó không có cá mà nếu có thì rất ít, chúng nó thấy đàn vịt đang bơi ở suối quây lại bắt được 3 con vịt ở suối Bản Rế mang về B1 chúng mình thịt, khi đang vặt lông thì dân Bản Rế lên Tiểu Đoàn kiện. Tiểu Đoàn Trưởng đưa người dân đó lên từng Đại Đội 1 để tìm, khi đến B1, C1 chúng mình thì bắt quả tang 3 chú vịt mà mình đang vặt lông dở thì dân nhận ra Vịt của họ ngay. Bị bắt quả tang không thể chối cãi được nữa. Mà bây giờ cái quan trọng là thằng nào nhận đây. 6 thằng bắt 3 con vịt mà cả quân C1 với C3 trong khi đó hội thằng Quang ( Bôm Bốp ) lí lịch đen tối lắm rồi ( vi phạm kỉ luật nhiều lần rồi ). Mà thằng Dũng Sún và Hùng Chuối cũng vậy ( cải tạo Tiểu Đoàn vài lần rồi ), Trung Đoàn đang dọa vụ bắt vịt của dân này thằng nào thuộc diện tái phạm thì sẽ tước quân tịch. Chúng nó rất hoang mang và lo sợ ( vì đã được 3 năm tuổi quân rồi ) còn thằng Hùng Lùn nó đang phụ trách Trung Đội mà tổng kết năm 1983 ở đơn vị đó đạt danh hiệu " Chiến sĩ thi đua ". Lý lịch tuyệt đối trong sạch, chưa vi phạm kỉ luật lần nào, và thằng Liên ( Kim Khâu Nâu ) là lính mới nhập ngũ 3-1983 cũng chưa vi phạm kỉ luật lần nào. Thằng Hùng Lùn quyết định nhận vụ này, nhưng 1 thằng bắt 3 con vịt thì vô lý quá. Lúc đó thằng Liên ( Kim Khâu Nâu ) nó xung phong nhận nữa thế là xong.Tôi nói:" Hay lắm, chứ cả 6 thằng nhận hết thì có mà dở hơi à". Tôi nói thế rồi thằng Hùng Lùn kể tiếp, tối hôm đó nó mới thằng Liên làm bản tự kiểm điểm và bản tường trình, rồi sáng hôm sau mang lên Đại Đội nộp. Rồi Đại Đội nộp Tiểu Đoàn, Tiểu Đoàn báo cáo với Trung Đoàn thì hôm nay thằng Hùng Lùn và thằng Liên xuống chịu án kỉ luật phạt giam cấp Trung Đoàn ( cải tạo và nằm hang Trung Đoàn 6 tháng ). Tôi liền an ủi nó :" Mày nhận thế cũng được, thôi cứ chịu khó cải tạo, anh em không quên ơn đâu, rồi trong ba lô của tôi còn tí mì chính, thuốc lào nào tôi đưa tất cả cho nó ". Còn đồng nào tôi cũng đưa nốt cho nó. Rồi tôi bảo vài ngày nữa tao cũng xin về đơn vị thôi, đầu tiên tưởng mày xuống đây nằm viện để có bạn, ai dè. Rồi 2 thằng chúng nó khoác ba lô đi vào Trung Đoàn Bộ chịu án kỉ luật, dáng đi lầm lũi. Tôi nghĩ mà thấy thương cho nó, thằng Hùng Lùn và thằng Liên, 2 thằng dũng cảm chỉ vì nghĩ đến đồng đội...
- Khi thằng Hùng Lùn nó đang phụ trách Trung Đội mà nó phải nhận cái án kỷ luật cấp Trung Đoàn và thằng Liên ( Kim Khâu Nâu ) vì nó là lính tháng 3-1983 vẫn chưa vi phạm kỷ luật lần nào. Tất cả chỉ vì đồng đội !. Tôi nghỉ ngơi ở trạm xá Trung Đoàn thêm vài ngày nữa, rồi tôi xin về đơn vị. Khi tôi khoác ba lô về đến đơn vị, thì tôi thấy lính C2, C4 và một số B trực thuộc của Tiểu Đoàn Bộ đã vào Bản Rẻ Gà trọ, nhường doanh trại cho lính huấn luyện ( Lính tháng 3-1984 Mê Linh - Hà Nội ). Thằng Dũng Sún ở B1 C1 bọn tôi được sang đơn vị huấn luyện thổi cơm ( Hậu cần ). Còn ở nhóm sinh hoạt của chúng tôi ở B1 ( Lính Hà Nội ) chỉ còn Hùng Chuối, Hùng Mù, Bình Tông và tôi, cả thảy là 4 thằng. Thỉnh thoảng thằng Dũng Sún ở bếp ăn Đơn vị huấn luyện, nó mang về cho bọn tôi ít thực phẩm mà nó bớt xén được. Khi có tiền bọn tôi vẫn mua thuốc lào và mì chính, gửi cho thằng Hùng Lùn và thằng Liên đang bị cải tạo ở Trung Đoàn ( Lúc đó Trung Đoàn đang bắt lính cải tạo đóng gạch và đốt gạch để kiên cố hóa doanh trại ). Còn ở đại đội chúng tôi đang tập trung quân số sẵn sàng chiến đấu và làm cỏ mía.
- Đến trưa ngày 16-04-1984. Tôi được gọi lên Đại Đội gặp anh Hòa C Trưởng nhận nhiệm vụ. Tưởng gì, anh Hòa C Trưởng thông báo, chiều nay tôi về B1 bàn giao trả lại B1 hết súng đạn. Rồi ngày mai lên A Cối nhận bàn giao toàn bộ trang thiết bị cùng súng đạn của A Cối. Lính 80 ra quân, ngày 17-4. Tôi về A Cối nhận bàn giao lại tất cả trang thiết bị của A Cối mà thằng Thanh Trố bàn giao cho tôi. A Cối có 4 thằng lính 80 thì được ra quân 3 thằng còn Thường Cối lúc đó đang đi viện ( nên không được ra quân ). Bốc hết một lượt lính 80 ở đơn vị kể cả lính tháng 7-80 và tháng 12-80 ra quân hết. Tôi nghĩ giờ chỉ còn lính 81 bọn tôi là cựu rồi. Sáng ngày 18-04-1984, toàn bộ lính 80 ở đơn vị tôi được lệnh trả lại đơn vị tất cả quân trang dùng chung và quân dụng, rồi xuống Trung Đoàn Bộ lấy quyết định ( Ra quân ). Vì tình hình được thông báo gấp quá chúng tôi chưa liên hoan được liền hẹn nhau hôm sau. Khi chúng nó xuống Trung Đoàn lấy quyết định và thanh toán thì mới có tiền để liên hoan. Rồi quay về Tiểu Đội Cối liên hoan vẫn chưa muộn. Khi lấy quyết định ở Trung Đoàn và thanh toán xong, lính 80 ( Thanh Trố, Tường Vô, Thành Cối ). Ba thằng như đã hứa, nó quay lên A Cối chúng tôi ngay. Chúng tôi bàn nhau ngày mai mua con chó để thịt, còn thuốc lào, thuốc lá, mì chính chúng nó đã mua đầy đủ cho chúng tôi hết rồi. Đêm ngày 18-04-1984, chúng tôi được triệu tập cán bộ, hội ý bí mật gấp. ( Vì lúc đó tôi đã là A trưởng Cối 60 ). Đồng chí Hòa C trưởng đọc công văn khẩn của Trung Đoàn ( Nâng cấp báo động, toàn đơn vị sẵn sàng cơ động chiến đấu, chuẩn bị quân tư trang và súng đạn gọn gàng đợi lệnh hành quân di chuyển chiến đấu kể cả bộ phận hậu cần ) và bắt giữ lại tất cả các đồng chí lính 80 đã lấy quyết định ra quân rồi. Nếu bắt giữ lại được sẽ thu hồi ngay quyết định. Chúng tôi ngồi hội ý, khi nghe lệnh như thế tôi thoáng nghĩ, chắc các bố muốn đuổi lính 80 về cho nhanh. Không muốn cho các bộ phận làm liên hoan vì lính 80 rất đông gồm cả 2 đợt lính 7-1980 và 12-1980 cơ vì sợ ảnh hưởng đến đơn vị mà... Nhưng không phải như tôi nghĩ đâu, đó là nâng cấp báo động toàn tuyến BGPB cơ các đồng chí ạ.
- Khi hội ý bí mật và đột xuất ở Đại Đội về tôi cũng nói qua cho bọn lính 80 ở A Cối chúng tôi biết, thằng Thanh Trố, Tường Vô, Thành Cối. Chúng nó cũng hơi bị ngỡ ngàng. Rồi tôi bàn với chúng nó vào nhà thằng Hào lính 79 ở Bản Đông Chia nghỉ tạm ( vì thằng Hào là người dân tộc lính 02-79 cũ ở A Cối, nhà nó ở bản Đông Chia, cách đơn vị một đoạn và đã ra quân rồi ). Nếu mà đêm nay chúng tao báo động di chuyển thì bọn mày phải té ngay. Nếu không có gì xảy ra thì sáng mai cứ tiếp tục làm liên hoan chia tay. Rồi 3 thằng chúng nó khoác ba lô vào bản Đông Chia ( nhà thằng Hào), chúng tôi gấp gọn quân tư trang vào ba lô. Nhà bếp cũng chuẩn bị đòn khiêng, buộc chắc chắn tất cả nồi quân dụng, chảo nấu cơm ( vạc ) Ru-Mi-Lê. Trợ lý tham mưu Tiểu Đoàn, Tiểu Đoàn phó, cùng với các Đại Đội Trưởng của các đơn vị, đi kiểm tra từng nhà của từng Trung Đội và Tiểu Đội một, nói là đi kiểm tra sự chuẩn bị của bộ đội. Tôi biết thừa là cán bộ đi bắt và thu quyết định của lính 80 đây và nghĩ bụng chắc tình hình Biên Giới căng đây. Cũng may tôi thông báo cho bọn lính 80 ở A Cối chúng tôi biết và bảo chúng nó té vào Bản hết rồi.
- 3 giờ sáng ngày 19-04-1984, chúng tôi được lệnh báo động di chuyển bí mật. Đã được thông báo và chuẩn bị trước nên chúng tôi tập trung theo đội hình của Đại Đội rất nhanh. Toàn bộ quân số 100% ở đơn vị cơ động di chuyển hết. Còn doanh trại đã có Hội Khung huấn luyện và lính mới trông nom. C1 chúng tôi vẫn cơ động lên Lũng Ngẳm, hướng thứ yếu của Tiểu  Đoàn. Chúng tôi bí mật cơ động lên chiếm lĩnh trận địa xong thì trời bắt đầu tảng sáng. A Cối của tôi có 2 khẩu vẫn chia đôi, khẩu của tôi vẫn phối thuộc với B1 chốt hướng chủ yếu của Đại Đội. Chốt giữ Cổng Trời, Cốc Lại chứ không chốt ở Lũng Hà như tháng 4-1983 nữa. khi đã chọn được trận địa cho khẩu cối 60 của tôi xong, thì liên lạc Đại Đội lên báo tôi về Đại Đội hội ý và nhận nhiệm vụ, rồi cho 1 người nữa về cùng lấy gạo, nồi xoong để tự nấu cơm ăn. Tôi liền bảo thằng Khải lính tháng 3-1983 ở phường Tân Long - Thái Nguyên mang ba lô về cùng để lấy gạo. Khi về đến Đại Đội ở Lũng Ngẳm nhận nhiệm vụ thì có gì đâu vẫn cái luận điệu của cán bộ bảo lính sẵn sàng chiến đấu cao độ, củng cố  trận địa làm lán ở ( có khả năng lâu dài ). Đêm ngủ gác sách nghiêm ngặt. Đề phòng biệt kích ( thám báo )
- Khi hội ý nhận nhiệm vụ xong tôi sang kho của Đại Đội (Nó là cái hang đá rất sâu, Kho đạn, gạo của đơn vị tôi mà từ năm 1982 khi rút về Rẻ Gà - Lương Thông vẫn để lại lệnh mà và cử người trông giữ đó là đồ dự trữ chiến đấu). Lúc đó khẩu đội Cối 60 của tôi có 4 người được cắt 10 ngày gạo là 28 kg, thực phẩm là 2 bát muối trắng, tính là 0,5kg. Một cái xoong (nhưng không có vung) một ăng-gô có lắp tử tế. Tôi liền xin thêm 1 cái bao tải dứa, xan chỗ gạo ra làm đôi tôi với thằng Khải mang lên Cổng Trời Cốc Lại (Chỗ khẩu Cối 60 của tôi phụ trách).
Khi tôi với thằng Khải mang gạo , muối về tới cổng trời Cốc Lại , chỗ trận địa khẩu cối 60 của tôi thằng Hà ( lính 3/83 ) và thằng Phượng ( lính 9/83 ) đã phát quang trận địa song xuôi đâu ra đấy rồi . Tôi bảo thằng hà mang 2 cái can mỗi cái 10L ( can được phát đợt lên chốt trước 16/4/1983 mà tôi đã dùng để uống rượu ở chợ Lương Thông )xuống mỏ nước ( Là Nìn ) lấy nước còn tôi Khải và Phượng bắt tay vào lấy cây que để dựng lán , lấy lá cây móc để lợp lán tạm che nắng và buộc ly lông ở dưới để có khả năng che mưa . Khi đã hình thành 2 cái lán , chúng tôi vẫn bẻ lá cây rừng lót xuống đất rồi chải chiếu lên khi chỉ còn một số việc lặt vặt , tôi để cho Khải và Phượng làm nốt , tôi đi lấy củi và tìm rau . nói là đi lấy củi chứ có phải đi xa đâu loanh quanh ở lán cành củi khô rất nhiều tôi gom về 1 bó , rau tầu bay và thời điểm rất sẵn     ( hết xuân sang hè mà ) . Tôi chỉ hái 1 tí là được 1 lắm to . Tôi nhặt mấy hòn đá kê sát vào nhau để làm bếp . Để chuẩn bị thổi cơm . Thằng Phượng nó thắc mắc và hỏi tôi là cái xoong 2 ngăn này mỏng dính mà không có nắp thì thổi cơm thế nào được . Tôi bảo cứ để đấy bữa đầu tao làm cho chúng mày nhìn mà học còn bữa sau thay nhau cứ thế mà làm . Thằng Hà xuống cổng trời lấy 20 lít nước đi và về nếu lính cựu chúng tôi thì mất gần 3 tiếng nhưng thằng này tôi phải xác định chúng nó đi phải mất trên 3 tiếng . Đến gần trưa ( mặt trời đã lên gần đỉnh đầu ) có biết giờ giấc gì đâu ở đây không ai có đồng hồ cả . Thằng Hà cũng mang được 2 can nước là 20 lít lên đến trận địa . Tôi liền quán triệt luôn 4 thằng 20 lít nước dùng trong 1 ngày chỉ để thổi cơm canh và uống . Thằng Khải và thằng Phượng nhao nhao hỏi lại , còn thằng Hà mang được 2 can nước về thì mệt thở  không ra hơi còn nói làm sao được.Thế còn đánh răng rửa mặt thì sao Tôi chả lời gọn lỏn và cương quyết . Ai muốn rửa mặt mũi chân tay đánh răng thì xuống mỏ nước Là Nìn . Và tôi phân công Luôn 4 người mỗi ngày đi lấy nước 1 lần bằng 20 lít và thổi cơm kể cả tôi nữa . Nước ở chốt chỉ để thổi cơm nấu canh thôi chứ không có nước rửa chân tay đánh răng rửa mặt cũng không được phép lấy vào nước của tiêu chuẩn 20 lít / 1 ngày đó .
- Rồi tôi bắt đầu thổi cơm , gạo thì khỏi phải vo rồi , rau thì rửa qua thôi . Tôi hướng dẫn chúng nó tỉ mỉ từng tí một gạo đổ vào xoong cho nước vừa đủ , chuẩn bị một tầu lá chuối hơ lửa cho mềm . Đun to lửa ( vì xoong không có vung ) khi nước sôi rồi cạn . Ấp lá chuối đè lên trên bỏ hết lửa ra chỉ để than lại trong bếp vần liên tục , khi cảm thấy phần cơm ở dưới đáy xoong đã chín , nhưng phần cơm ở trên mặt xoong vẫn sống hớt tất cả lớp cơm sống trên mặt ấp xuống dưới đáy xoong (lật cơm) rồi đậy lá chuối và vần tiếp tục một tí là cơm chín . Thế là tôi đã bảo cho chúng nó bài thổi cơm ở xoong không có vung ...
Bữa cơm trưa ngày 19-04-1984 do tự tay tôi thổi chín ngon lành, canh rau tàu bay với muối ( Nấu bằng Ăng-Gô ). 4 thằng khẩu đội Cối 60 của tôi ăn ngon lành, tôi liền nhắc nhở chúng nó luôn từ sau đến phiên thằng nào thổi cơm, sáng dậy xuống mỏ nước Là Nìn ở dưới chân cổng trời rồi lên thổi cơm ngày 2 bữa, Còn rau thì những thằng ở Lán tự đi hái vì ở xung quanh Chốt của tôi mùa này rất nhiều cây ( gọi là rau ăn được) như rau tàu bay, rau bí, ( dân trồng ở nương xen với ngô), măng trúc, cây Bồ Công Anh ( Tên cây thuốc y tá gọi ) kể cả cây thuốc phiện non, rau bồ khai, rau ngót rừng. Ăn cơm xong mỗi thằng một bát nước lã uống để súc miệng rồi bát cũng coi là đã rửa. Grin. Cơm xong, tôi mới đi loanh quanh khu vực lán và trận địa Cối 60 của tôi. Tôi quan sát nguồn rau ăn được rất nhiều. và tôi tìm địa thế xem chỗ nào có thể là hầm trú ẩn được, rồi tôi phát hiện được một cái hốc đá nếu mình ra cố thêm 1 tí vào thì sẽ an toàn - Tôi nghĩ bụng thế. Xa xa ở sát vách núi vài cây đào to hoa muộn vẫn còn lác đác nở. Tôi nghĩ nếu có phải làm hầm thì mấy cây đào kia giúp tôi có gỗ để làm hầm. Đi loanh quanh ngó nghiêng mãi, tôi trở về lán nằm nghỉ lưng và tôi bảo 3 thằng chúng nó đi nhặt đá ném gần vào chỗ cái hốc mà tôi đã chọn làm hầm. 3 thằng chúng nó nghe lệnh của tôi răm rắp và đi làm việc ngay.
- Tôi đang thiu thiu ngủ, thì thấy tiếng chân người đi rất nhiều rầm rập, rầm rập. ( vì chúng tôi lót lá cây và trải chiếu đè lên nằm, coi như nằm đất). Ngày một gần rồi có tiếng gọi to:" Thịnh A Cối đâu " Tôi nằm trong lán liền trả lời dõng dạc:" Có !".- " Ra nhận đạn " ( một tiếng to gọn lỏn như thế ). Tôi liền ra khỏi lán, quân B2 chuyển đạn Cối 60 lên cho chúng tôi, tất cả 20 thùng đạn và đủ cơ số ngòi nổ và liều phóng, 1 thùng gỗ bên trong có 2 hòm sắt đạn AK ( Đạn K56), 2 hòm gỗ lựu đạn ( loại lựu đạn cần do ta sản xuất ). Tôi liền thốt lên chúng tôi có 4 thằng mà đưa lên từng này đạn dược và lựu đạn thì quản lý và bảo quản làm sao được, mất thì sao. Anh phụ trách B2 mà vận chuyển đạn lên cho chúng tôi bảo:" không biết, đây là lệnh của Đại Đội, chúng tôi chỉ biết vận chuyển lên. Đề nghị kiểm tra đủ số lượng thì ký vào đây". Khi kiểm đủ tôi liền bảo các anh vận chuyển vào cái hốc đá mà tôi phát hiện được, vừa kín đáo, vừa gần trận địa Cối của chúng tôi rồi tôi mới ký nhận. Tôi liền hô chúng nó vào sát núi đá chặt hết mấy cây đào, lấy những cành to bằng bắp chân trở lên, chặt ngắn từng đoạn 1m rồi dựng chéo vào cái hốc đá đó thành một vế của hầm chữ A rồi xếp chặn đá ở ngoài gỗ. Thế là thành một cái hầm an toàn, kín đáo, ngon lành, gần lán, gần trận địa !
- Khi chúng tôi làm hoàn thành cái hầm vừa chứa đạn vừa có khả năng 4 đến 6 thằng ngồi vào tránh pháo được, đứa nào cũng cảm thấy mệt rồi, tôi liền hô tất cả hái rau bí và nhặt để tôi thổi cơm. ( Khổ cây bí ngô lúc đó nó mới bò được khoảng 1m thôi, mỗi cây có khoảng 2; 3 ngọn ) Chúng nó ngần ngại, tôi bảo hái hết tội vạ đâu tôi chịu. 4 thằng tản ra một tý, hái ào ào mỗi thằng đã được ngay một chét tay. Tôi liền bảo đủ rồi, hôm nay ăn thế thôi mang rau bí về nhặt ( gọi là nhặt chứ tước qua loa rau vẫn còn đầy sơ và lông Grin ) Nhưng nấu chín vẫn ăn được tất. Khi tôi đang nấu cơm thì liên lạc Đại Đội đến khẩu đội Cối của tôi cho tôi xem một bức công lệnh khẩn của Trung Đoàn, chỉ thị cho tất cả các cán bộ từ A Trưởng trực thuộc Đại Đội trở lên với nội dung tôi sơ lược và tóm tắt như sau:" Theo tin tức tình báo của ta, và tin của trinh sát Sư Đoàn báo về từ trưa ngày 18-04-1984. Trung Quốc liên tục cho xe ô tô chở quân ra, áp sát Biên Giới nước ta. Theo phán đoán phải là cấp Sư Đoàn có khả năng đến cấp Quân Đoàn, có cả xe tăng và pháo lớn, không riêng gì hướng của Trung Đoàn ta, mà cả tuyến Biên Giới phía Bắc nhất là bên Hà Tuyên và Lạng Sơn. Trung Quốc cũng đang áp sát quân ra Biên Giới với số lượng quân rất đông. Theo nhận định của cấp trên có khả năng quân Trung Quốc tiến công với quy mô lớn như tháng 2-1979. Lệnh của Trung Đoàn yêu cầu các Tiểu Đoàn và các đại đội trực thuộc ( phá liêm cất ) , cảnh giác sẵn chiến đấu cao không chủ quan khinh địch. Các đơn vị ở sát Biên Giới thường xuyên báo cáo về Trung Đoàn những di biến động của quân Trung Quốc ở bên kia Biên Giới." ( Giấy có đóng dấu đỏ mà mang kí hiệu, phiên hiệu của ( đơn vị 13054 ) và có mũi tên chéo màu đỏ, có chữ ( hỏa tốc ). Tôi xem xong tờ công lệnh đó, liền ký một chữ vào mặt sau của tờ công lệnh đó. Rồi anh liên lạc lại mang tờ công lệnh sang các bộ phận khác. Tôi nghĩ tình hình căng rồi đây, thảo nào các bố ý ấn lên cho mình nhiều đạn Cối và lựu đạn thế. Còn thằng Khải và thằng Hà lính 3-1983 thì nó cũng được 1 năm tuổi quân, cũng được nếm mùi lên Chốt rồi. Chúng nó lên đợt 16-04-1983 hơn một tháng rồi, thì chúng nó còn đỡ sợ. Còn thằng Phượng lính tháng 09-1983 thì mới được có mấy tháng tuổi quân nên nó sợ, mặt tái mét. Không dám nói câu gì cả, tôi liền an ủi chúng nó (Không sao, gì phải lo, sống chết có số tất. Mà đã là lính Biên Giới thì phải được đánh nhau ít nhất vài trận thì nó mới oai chứ), tôi động viên chúng nó như thế.
Rồi tôi hô chúng nó tập trung thổi cơm ăn cái đã và tôi còn nói đùa (Tếu). Có chết thì cũng được chết no.
Khi chúng tôi ăn cơm xong thì trời cũng bắt đầu tối, tôi cũng hoang mang cực độ (Không phải sợ chết đâu ) hoang mang lo rằng nếu Trung Quốc sang thật thì tôi sẽ chỉ huy khẩu đội Cối của tôi thế nào đây, vì từ trước đến giờ tôi đã được chiến đấu lần nào đâu mà bây giờ lại là chỉ huy khẩu đội Cối, mà trong khi đó Cối 60 lại là loại pháo nhỏ bắn cầu vồng. Với lại 3 thằng kia chưa biết sử dụng kể cả từ những động tác đơn giản nhất, chứ chưa nói đến lấy phần tử ( tầm và hướng ) cân bằng bọt nước (ngang và dọc) còn tính góc kẹp, đo cự li, tính phần tử bắn. Chúng nó đều chưa biết gì cả nên tôi thấy lo lo mà không dám nói, sợ chúng nó hoang mang.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét