Năm 2005. Sau 27 năm, tôi mới có dịp cùng vợ và cùng một
số gia đình anh em đồng đội. Quay lại thăm Hà Tiên. Đến những vùng đất xưa. Đất
đã hồi sinh, những thế hệ mới đã trưởng thành. Nhịp sống sôi động, cửa khẩu Xà
Xía đông đúc người qua lại bán buôn. Đứng ngắm nhìn cảnh vật đất trời tôi như
vẫn thấy vang dền tiếng súng trận, tiếng hô xung phong và trận chiến hào hùng
nơi đây. Biển vẫn xanh, cảnh vẫn đẹp. Sóng vẫn xô bờ. Những ngôi mộ các anh đã
được xây đắp, khang trang sạch sẽ. Tôi đọc tên từng người trên bia mộ, mà thấy
lần lượt các anh hiện về. Vẫn trẻ trung hùng tráng như ngày nào. Các anh sống
mãi , trẻ mãi với thời gian, với non sông đất nước. Còn chúng tôi đã già, tóc
đã đều bạc hoa dâm. Màu của gió sương, phong trần. Dù cuộc sống có phong ba, có
chìm nổi thế nào. Chúng tôi vẫn sống như ngày xưa, cùng các anh đã từng sống.
Để góp phần dựng xây nước non vững bền ..
Tôi, Tranphu341. Người lính chiến cùng Sư đoàn với các
anh. Viết những dòng này, lời này, trong trang mạng “máu và hoa” này. Như thay
mặt các anh em đồng đội đang sống. Gửi tới các anh vòng hòa tươi, nén hương
trầm, lời tri ân. Để tưởng nhớ các anh, với lòng nhớ nhung và biết ơn vô bờ
bến.
Toàn bộ đội hình Sư đoàn ( thiếu E266) trở lại địa bàn
quen thuộc Tây Ninh. Sau hơn 4 tháng rong ruổi, đánh địch dọc biên giới. Xuống
tận Hà Tiên -Kiên Giang. Trở lại Tây Ninh, khi mà tình hình ở đây đang vô cùng
phức tạp. Các Sư đoàn 9- 7 cùng các lực lượng bộ đội địa phương đang gặp rất
nhiều khó khăn.
Bọn Pốt đã tung vào hướng này, các Sư đoàn dự bị “thiện
chiến”. Chúng vẫn hy vọng, ngông cuồng sử dụng chiến thuật bu bám, lấn dũi.
Chọc phá tấn công đối phương. Gây cho tình hình biên giới và cho ta những căng
thẳng. Với ý định lớn là sẽ chiếm 2 huyện Bến Cầu và Châu Thành- Tây Ninh làm
bàn đạp vượt sông Vàm Cỏ, tấn công chiếm thị xã Tây Ninh.
Lúc này, tình hình và dư luận quốc tế vẫn đang bất lợi
cho ta. Chúng được bọn quan thầy bành trướng đứng sau, làm hậu thuẫn và kích
động. Chúng vừa ăn cướp, vừa la làng, vu khống
ta lấn chiếm chúng. Một số nước, kể cả có nước trong phe “XHCN cũ ” cũng
đã tin lời “la làng” của Pốt. Góp ý với ta không nên bắt nạt “nước bé” như vậy.
Một số quan sát viên quốc tế được “gióng dựng” cũng đã tới các vùng miền biên
giới. Để kiểm chứng. Vì vậy, chúng ta cũng không thực hiện được ý định “đưa
chiến trang sang đất K” nữa. Được đà, nhất là lại thấy dọc tuyến Biên giới, các
lực lượng vũ trang của ta đã rút hết về đúng mốc biên giới chốt chặn. Chúng lại
càng tin là sức mạnh của chúng là vô địch. Chúng tăng cường áp sát biên giới
chọc phá, tập kích ta liên tục.
Chúng ta ở vị thế thụ động. Tuyến Biên giới thì dài, nên đúng là cũng gặp rất nhiều khó khăn. Thậm
chí chúng dùng những phân đội nhỏ. Đêm đêm, luồn lách giữa đội hình của 2 trung
đội chốt. Rồi bò vào phục kích, bắn loạn xạ. Gây thương vương vong cho ta. Rồi
lại nhanh chóng lủi về bên K. Làm cho việc chốt giữ của bộ đội ta rất căng
thẳng. Ở khu vực huyện Bến Cầu, chúng còn tràn sang chiếm cả khu vực Cây Me xã
Long Khánh. Xã Phước Chỉ vv...
Sư đoàn 341 lại trở về chốt giữ ở trục đường 1 và phía
Nam, Tây Nam của tỉnh Tây Ninh. Giáp với tỉnh Long An. Tiểu đoàn 1, chốt ở vị
trí của khẩu Mộc Bài. Đại đội 3 của tôi chốt tại Ấp Mồ Côi ngay tại ngã 4 đi ra
cửa khẩu, về huyện Bến Cầu và đối diện khu rừng thốt nốt hướng trái Mộc Bài. Từ
vị trí BCH đại đội tới băng qua cánh đồng khoảng 800m, tới bìa rừng thốt nốt là
đất K. Khu vực này chúng bố trí lực lượng rất đông. Hầm hào kiên cố, cũng là vị
trí thuận lợi, của chúng để xuất phát các nhóm trinh sát, hoặc các phân đội nhỏ
sang chọc phá ta.
Thời gian này, việc chốt giữ biên giới của ta, chủ yếu là
cảnh giới, quan sát, chủ động phát hiện và tiêu diệt địch. Chứ chưa sử dụng mìn
trong phòng thủ. Vì cánh đồng lúa này là của dân mình vẫn đang trồng cấy. Nên
bọn Pot lẻn sang đây, ko gặp trở ngại hay vật cản nhiều. Nên chúng lại càng xâm
nhập, tập kích ta với mật độ dầy hơn.
Trong những ngày này, các đơn vị của ta chốt giữ rất căng
thẳng, mệt mỏi. Quân số của đơn vị, qua các trận chiến hao hụt rất nhiều. Thậm
chí mỗi trung đội chỉ còn hơn chục tay súng. Mà vẫn phải đảm nhiệm chốt, giữ
địa bàn rộng. Nên ban đêm phát hiện ra Pốt bò vào tập kích là rất khó.
Đêm ngày 2/5/78, hướng các đại đội của Tiểu đoàn 1 cũng
bị Pốt mò vào tập kích. Đầu tiên, chúng cho một nhóm cách xa khoảng 200m. Bắn
vu vơ vào khu vực chốt đại đội 3. Anh em bắn trả. BCH Đại đội lệnh cho cối bắn
đuổi Pốt. Đ/c Nên liên lạc Đại đội xuống báo cho tiểu đội cối 60 bắn. Những mục
tiêu, phần tử bắn, đã được chuẩn bị trước. Nên thao tác bắn rất nhanh. Đ/c Nên
báo xong, không về đại đội ngay, mà ở luôn lại với đ/c Tiến. Để xem và xin bắn
mấy quả cối. (đ/c Nên và Tiến là 2 cậu cháu ruột, cùng nhập ngũ 7/77 quê ở Thụy
Ninh - Thái Thụy - Thái Bình).
Đ/c Nên vừa thả quả đạn vào nòng. Toong ! Đạn vừa bay
lên. Chớp lửa đầu nòng súng sáng lòa. Thì ùng oang – ùng oàng – ùng oàng. 3
phát đạn B40 - B41 của Pốt dập vào ngay vị trí khẩu đội. Hai cậu cháu cùng hy
sinh. Một đ/c nữa bị thương nặng . Như vậy là bọn Pốt đã mò sát vào gần khẩu
đội cối. Đợi ta phát hỏa, rõ hẳn M là chúng bắn. Anh em Trung đội một gần đó nổ
súng bắn trả. Bọn này sau khi bắn xong là cũng “ù té quyền” ngay.
Cùng đêm đó, khoảng 2h sáng. Cũng có 1 tốp, chúng mò tận
vào phục ở con đường lộ, từ ấp Mồ Côi lên huyện Bến Cầu. Thấy xe ôtô của ta,
chúng phóng mấy quả B40 - B41, bắn mấy loạt ak. Trúng luôn xe, làm lái xe và
một đồng chí công an đi áp tải bị hy sinh. 2 đ/c khác bị thương. Xe này là xe
chở tiền mới, của ngân hàng từ Tây Ninh xuống huyện Bến Cầu. Để đến sáng tổ
chức đổi tiền. (Toàn quốc đổi tiền ngày 3/5/78). Rất may là xe không cháy, chỉ
bị hỏng, tiền còn nguyên vẹn. Đại đội 2 cơ động ra đánh đuổi Pốt. Cứu chữa anh
em bị thương. Bảo vệ xe, đến sáng mới biết là xe chở tiền.
Việc canh gác đêm, lúc này thật là khó khăn. Vì bọn này
lẩn lũi như trạch. Ta khó có thể kiểm soát được. Các bộ phận anh nuôi, y tá,
quản lý, đêm đêm đều phải căng mắt ra canh gác, như một Trung đội chiến đấu
thực thụ. Ban ngày thì vẫn phải lo tổ chức 3 bữa cơm canh, nước uống cho bộ
đội. Nên bộ phận anh nuôi quản lý rất mệt nhọc.
Tiểu đoàn 1 vẫn chốt giữ ở cửa khẩu Mộc Bài. 2 bên đường
1. Đại đội 3 ở ấp Mồ Côi đối diện rừng Thốt Nốt. Việc để cho Pốt mò sát vào
trận địa cối 60 bắn vào khẩu đội làm hy sinh 2 đ/c. Và phục bắn xe oto chở
tiền, là một bài học vô cùng đắt giá.
Tiểu đoàn, Đại đội tổ chức họp, giao ban và các Trung
đội, Tiểu đội họp hành kiểm điểm liên tục. Các đơn vị phải canh gác nhiều vị
trí hơn, thời gian canh gác cũng dài hơn. Cứ 2 người 1 đêm. Ca 1 từ 6h tối đến
12h đêm. Ca 2 từ 12h đêm tới sáng. Các bộ phận phục vụ cũng vậy. Gác đêm lại
đúng như thời gian đầu.
Ca gác 6 tiếng thật dài. Ngồi thu lu một mình giữa trời
đêm, muỗi đốt. Khổ nhất là muỗi, đuổi mạnh thì không được, sợ lộ. Lấy khăn mặt
khua nhè nhè mãi rồi cũng mỏi tay. Mà nó cũng chẳng bay đi. Nó như vào hùa với
bọn Pot, bu bám gan lỳ để hút máu người gác. Anh em ngồi gác, thì phải căng
tai, căng mắt ra, nghe, nhìn. Cúi sát xuống đất, mà nhìn ngược lên. Để phát
hiện ra bóng người trên nền trời mờ mờ. Hoặc các tiếng động lạ. Và phải chống
chọi ngay chính cơn buồn ngủ của mình. Muốn căng mắt ra, mà nhiều lúc mắt cứ
nhắm lại, gật đầu xuống rồi lại choàng thức dậy. Gác đêm thường căn cứ thời
gian là vị trí di chuyển của thiên nhiên, vị trí của các chòm sao v.v... Nhưng
nhìn mãi, mà cũng không thấy nó di chuyển. Cứ như là trái đất này ngừng quay
vậy.
Rồi nghĩ đủ thứ, nhớ đủ thứ, thèm đủ thứ, từ gia đình,
quê hương, bố mẹ, anh em, người yêu. Cho đến con gà, con chó. Cứ như là những
thước phim toàn cảnh, của đời mình hiện ra quay chậm vậy. Nghĩ mãi, tưởng nhớ
mãi rồi lại bắt đầu than thân trách phận, đời mình sao hẩm hiu đen bạc. Rồi tự
hỏi sao lại là mình, là chính mình mà không phải là những ai khác. Biết bao vạn
người , triệu người đang sung sướng. Đang ngủ ngon say, mà mình thì lầm lũi khổ
mãi thế này. Thật bất công, vô lý v.v......
Công việc quản lý ở đại đội của tôi, cũng không có gì
đáng nói. Vì đêm cũng phải canh gác như anh em. Còn ngày thì vẫn phải lo “cơm
dẻo canh ngọt” cho bộ đội. Về khẩu phần ăn của bộ đội, thì từ khi tôi làm quản
lý BCH Đại đội cũng yên lòng. Đ/c Nông CVT cũng thường hay động viên, về cố
gắng của bộ phận của hậu cần. Đ/c Phô Đại trưởng thì là bạn học cơ khí với tôi
từ những năm 68. Rồi ra trường về làm việc ở các Công ty khác nhau. Nhưng rồi
lại cũng đi bộ đội 1 đợt. Cùng 1 Tiểu đoàn, khác Đại đội. Nhưng cũng cùng là
Tiểu đội phó tiểu đội cối 60. Tôi c3 đ/c Phô C1. đ/c Phô hơn tôi 2 tuổi. Tính tình
chất phát, tuổi Dần cầm tinh con Hổ, nên trong sinh hoạt , chỉ huy chiến đấu,
rất mạnh mẽ, dũng cảm và dũng mãnh. Cấp trên chọn thay đ/c Trụ làm Đại trưởng
đại đội 3 thật hợp lý.
Bạn bè xưa cũ, nay đ/c Phô làm chỉ huy Đại đội, tôi làm
quản lý. Nhưng trong sinh hoạt cũng không vì thế mà nể nang nhau. Hay làm cho
nhau khó xử về vấn đề gì. Đ/c Phô thường xuống, hoặc mời tôi lên BCH chuyện
trò, ôn lại những kỉ niệm ngày xưa, hay kỷ niệm quê hương v.v ...
Trong thời gian làm quản lý Đại đội , cùng chẳng có gì
đáng nói. Vì nói gì đi nữa, thì quản lý Đại đội, hay anh nuôi có những vất vả
riêng. Nhưng so với lính chiến thực thụ, thì cũng vẫn không vất vả bằng. Tôi
vẫn đôn đốc tiểu đội nuôi quân, làm tốt công việc phục vụ đơn vị.
Song, có một lần chính cái công việc tưởng chừng rất đơn
giản này. Đã gây nên một việc mất đoàn kết, giữa tôi và anh Thịnh ở Trung đội
1. Cho đến bây giờ tôi vẫn nhớ mãi, cái lần va chạm gây mất đoàn kết đó. Chuyện
là như thế này:
Anh Thịnh là Tiểu đội phó, của Tiểu đội 2, Trung đội 1. Là
lớp lính tháng 10/74 quê ở Nghệ Tĩnh. Anh Thịnh đã có vợ, có con. Ngang tuổi
với tôi. Trước khi đi bộ đội, là công nhân một
nông trường ở Nghệ Tĩnh. Anh Thịnh người thấp hơn tôi, nhưng to đậm hơn.
Thường hay để cái chòm râu dưới cằm, trông như chòm râu của con dê cụ, nhưng
ngắn hơn nhiều, trông ngộ ngộ rất quậy. Bình thường, anh em chuyện trò với nhau
rất vui, rất tôn trọng nhau. Vì trong Đại đội, ngoài anh Nông, anh Phô là cán
bộ Đại đội ra, thì chỉ còn tôi và anh Thịnh là cao tuổi nhất.
Sau ngày đổi tiền được 2 ngày. Lúc đó khoảng 8h sáng. Ai
cũng mệt nhọc, vì sau một đêm dài phải canh gác căng thẳng. Tôi bê cái hòm đạn
B40, đựng giấy tờ sổ sách ra, làm sổ trả phụ cấp cho anh em. Làm xong thủ tục
thanh toán cho Trung đội 1. Đang chuẩn bị thanh toán cho Trung đội 2, thì anh
Thịnh tay xách khẩu AK báng gỗ. Hộp tiếp đạn có 2 băng buột tráo đầu đuôi, cùng
mấy anh em nữa chạy lên chỗ tôi. Cách tôi khoảng hơn chục mét đã chửi mắng tôi
tới tấp: Nào là mày là thằng đểu, mày trừ tiền của tao, mày ăn tiền của tao
v.v...
Qúa bất ngờ. Mọi người đang đứng đợi để thanh toán cũng
không hiểu có chuyện gì. Tôi rất bực, nhưng kiềm chế nói: Có gì đấy anh Thịnh ?
Sao anh lại chửi tôi ? Tôi làm gì anh ? Trừ tiền của anh ? Lấy tiền của anh là
thế nào ? Anh bình tĩnh nói xem, chứ không được chửi tôi như vậy. Nhất là lại
động đến gia đình tôi.
Anh Thịnh nói: tại sao mày trừ của tao 8đ. Tôi nhớ lại
ngay việc trừ tiền và nói: 8đ này là trên Tiểu đoàn báo và bắn nợ về. Có phải
hôm ở Hà Tiên, Tiểu đoàn giết lợn, anh với 2 đồng hương ốm ở nhà, nhượng lòng
lợn của Tiểu đoàn ăn đúng không ? Anh Thịnh nói đúng rồi tao có ăn. Nhưng 3
thằng ăn sao mày lại trừ có một mình tao ? Tôi nói: anh là người đứng tên mua
lòng lợn đúng không ? Anh Thịnh nói đúng. Tôi nói: vậy thì quân nhu Tiểu đoàn chỉ
biết trừ vào tiền của anh, chứ làm sao trừ được 2 người kia mà 2 người kia là
ai ? Anh Thịnh nói nó ở c4 nhưng bỏ về rồi. Tôi nói vậy bạn đồng hương với anh.
Anh đứng tên mua, anh phải chịu chứ còn kêu nỗi gì ? Mà anh còn chửi tôi ? Anh
Thịnh vẫn không hiểu, mà vẫn còn tiếp tục: Mày trừ của tao là tao cứ chửi đấy,
mày làm gì được ?
Tôi nói : tôi không chấp với anh nữa. Nhưng anh không
được phép chửi tôi. Càng không được đụng đến gia đình tôi. Ở đây, chỉ có 2 anh
em là cao tuổi. Anh làm thế, mọi người cười cho. Anh Thịnh đuối lý, nhưng vẫn
làm già. Tao cứ chửi đấy mày giám trừ tiền tao à ? Lúc này tôi rất bực tức,
cũng không kiềm chế được nữa nói: ông vừa chửi ai đấy. Anh Thịnh nói: tao chửi
mày đấy, tao sợ gì mày. Và đưa súng cho một anh bên cạnh, rồi xấn xổ áp sát gần
tôi. Tôi lùi lại 2 bước và nói: ông đứng lại, ông mà chỉ tay nữa là tôi không
để yên đâu. Anh Thịnh chắc thấy xung quanh toàn đồng hương, nên lại càng làm
già. Mồm nói: tao cho mày một quả, cho biết mặt và vung tay tấn công về phía
tôi.
Bực tức đến uất ức. Tôi bèn né người tránh, đưa tay trái
lên đỡ. Bước chân phải lên sau Thịnh kéo ngược lại. Dùng tay phải đẩy mạnh vào
ngực Thịnh. Đúng là một miếng đánh hoàn hảo, mà mấy năm huấn luyện tập mãi.
Không ngờ hôm nay, lại áp dụng với đồng đội mình. Có điều là tôi đẩy ngã Thịnh,
chứ không đánh ngã. Nhưng Thịnh cũng bị lộn ngã uỵch xuống. Nếu là thù, là đối
kháng thực sự thì đòn đánh này làm đối phương gẫy tay, vỡ quai hàm rồi. Bất ngờ
trước đòn phản của tôi. Anh Thịnh lồm cồm dậy. Lại định lao vào tôi. Lúc này
tôi xuống tấn, gằn giọng nói: Đứng im. Mày mà lao vào lần này tao cho miếng
“quật bò”, 7 ngày nữa mày vỡ bao tử chết. Riêng miếng “quật bò” này, là tôi
nghe kể. Nhưng không hiểu sao lại ứng xử, bốc khoát võ mồn ngay được như vậy.
Chứ tôi có được học miếng đánh này bao giờ đâu. Nhưng không ngờ, câu dọa của
tôi có tác dụng. Anh Thịnh không nói, không rằng, bỏ đi luôn.
Chuyện là như vậy, nhưng nó cũng là kỷ niệm, không đẹp,
không vui, buồn buồn, thời làm quản lý trong quân ngũ của tôi ở miền BGTN này.
Ngày 22/5 Trung đoàn 273 bàn giao lại chốt ở khu vực rừng
Sở cho F9. Phương thức bàn giao chốt là bàn giao điạ bàn từng Đại đội . Rồi
chuyển quân về tiếp nhận những vị trí của Sư đoàn 9. Tại địa bàn mới, các đơn
vị nhanh chóng củng cố hầm hào. Phản kích địch, chiếm lại những vị trí có lợi
cho phòng ngự. Phá thế bu bám của Pốt.
Địa hình ở vùng này có những phức tạp, bất lợi cho ta. Vì
tất cả các vận chuyển tiếp tế súng đạn hậu cần v.v.. đều phải qua phà bến Sỏi
sông Vàm Cỏ. Sông không rộng lắm, nhưng vẫn không có cầu. Vượt qua sông khoảng
2km, là khu vực Búa Lớn. Dân cư ở đây thưa thớt. Phía bên phải đương là khu vực
rừng Hòa Hội, rừng cây bám sát trục đường 24 (?) của ta. Nối sang bên K là trục
đường 13 của Pot. Khu rừng Hòa Hội rộng
lớn, lấn cả sang đất K. Các đơn vị chốt giữ ở phía Nam ngã tư Nhà Thương. Giáp
gần Chóp Sư đoàn 7 chốt giữ tới rừng Hòa Hội.
Việc tiếp tế, chủ yếu bằng con đường độc đạo. Là đường
13. Lúc này đã nhão nhoét, anh em công binh phải chặt hàng ngàn, hàng vạn cây
gỗ tròn bằng bắp chân, bắp đùi. Để rải ngang, lót đường cho xe ôtô đi qua. Các
hậu cứ của Trung đoàn, Tiểu đoàn, các Đại đội đều dựng lều trại ở Búa Lớn. Hàng
ngày anh em tiếp phẩm phải về khu vực này, hoặc bên kia bến phà, khu vực chợ
Long Xuyên mua thực phẩm cho bộ đội. Việc đi lại về phía sau hay sang chốt.
Thường là đi nhờ các loại xe ô tô, chở vũ khí súng đạn sang. Mỗi lần đi xe là
một lần nhớ đời. Vì xe chạy nhích từng tý một, để vượt qua chỗ “batile” trơn
trượt, hay những ổ voi, ổ gà đầy nước, đầy bùn. Mọi người đều phải đứng, bám
vào thành xe, nhún nhẩy theo từng nhịp xóc của xe. Chứ không ai ngồi được trừ
lái xe. Nhìn anh em lái xe cũng thật vất vả. Xóc nhiều, làm anh em ngồi không
vững. Nghiêng sang phải , nghiêng sang trái, hoặc xóc nhẩy lên đầu đập cẩ lên
trần cabin. Hai tay vẫn phải cầm chắc vô
lăng, để điều khiển con “ngựa bất kham”. Đúng ra là: “con đường bất kham
này”.
Khi Tiểu đoàn, Đại đội đã tổ chức chốt giữ vững trãi. Bọn
Pốt không bu bám nhiều như trước nữa. Tôi vẫn làm quản lý của Đại đội. Vẫn tổ
chức cơm nước cho anh em trong đơn vị chu toàn.
Chốt giữ ở đây khoàng 10 ngày. Một buổi sáng, vừa tổ chức
mang cơm cho các chốt xong. Thì đ/c liên lạc xuống báo lên hội ý gấp. Tôi lên
gặp BCH đại đội. Anh Nông, anh Phô đã pha trà ngồi đợi tôi. Sau tuần nước, anh
Nông nói: bây giờ ông lên gặp BCH Tiểu đoàn để nhận nhiệm vụ. Hơi bất ngờ, vì
có việc gì mà đột xuất vậy ? Chẳng nhẽ tôi được ra quân ? Trong Quân đội, nhất
là các đơn vị chiến đấu. Thì việc gì cũng bí mật, việc ra quân, hay đi học,
thuyên chuyển đơn vị, hay được về phép cũng thế. Tôi đoán là Tiểu đoàn sẽ cử
tôi đi học gì đó, hoặc được ra quân vì việc ra quân giải ngũ của tôi, BCH Tiểu
đoàn gần như đã cam kết với tôi, là nếu có đợt ra quân sớm nhất là sẽ giải
quyết cho tôi.
Tôi lên BCH Tiểu đoàn. Anh Chính dv trưởng vui vẻ bắt tay
tôi nói. Mời ông ngồi đây, đợi ông Thảo C1 lên nữa, rồi ta trao đổi cụ thể. Tôi
hỏi thăm dò: Anh Thảo nào ? Anh Chỉnh nói Thảo cũng ở cối 60 như ông đấy. Anh
Thảo ở Đại đội 1, hơn tôi mấy tuổi, gốc người Huế. Gia đình có bà nội và bố đẻ
đều tham gia cách mạng chức vụ rất lớn. Bố đẻ anh Thảo hy sinh khi đất nước gần
ngày giải phóng. Anh Thảo vẫn thường chơi bóng bàn với tôi. Là học sinh miền
Nam, con em cán bộ ra học ở Quảng Ninh, (hiện nay đã nghỉ hưu sống tại Huế).
Vừa lúc đó thì anh Thảo cũng tới. Anh Chính rót nước mời
2 anh em rồi nói luôn. Tình hình chính trị hiện tại có nhiều vấn đề thay đổi.
Cuộc chiến tranh này còn kéo dài, chứ không đơn thuần là mẫu thuấn cục bộ Biên
giới nữa. Mà nó đã manh nha xuất hiện chủ nghĩa bành trướng bá quyền. Mà bọn
Pốt này chỉ là con tốt. Là tay sai của nó thôi. Lấy cớ đòi đất, để chọc phá
nước ta, chúng vẫn rêu rao là các tỉnh miền Nam là đất K v.v.. Anh Chính nói
một thôi một hồi rồi kết luận. Chính vì vậy nên hôm nay mời các ông lên đây để
nhận nhiệm vụ. Tiểu đoàn nói sơ bộ vậy thôi, anh em mình cùng lứa (ý nói cùng
ngày nhập ngũ) nên các ông còn hiểu hơn tôi. Các ông lẽ ra bây giờ, cũng phải
đảm nhiệm trọng trách như tôi. Nhưng do sự nhầm lẫn, không may nên hiện tại các
anh vẫn như vậy. Nhưng giai đoạn này, các anh đều biết là số lượng Đảng viên của các Chi bộ, Đảng bộ, đã
cạn kiệt. Lớp anh em 77 - 78 thì chưa có KN chiến đấu nhiều vv…Tôi chỉ gợi ý
như vậy, còn bây giờ 2 ông uống nước xong, rồi mời các ông lên BCT Trung đoàn, làm việc với phó Chính ủy
Tiến.
Từ đây về Trung đoàn cũng xa, địa hình mới, mỗi ông mang
thêm một khẩu AK, cho yên tâm. Rồi gọi liên lạc mang ra 2 khẩu AK, mỗi người
thêm 2 hộp tiếp đạn đã đầy đạn. Anh Thảo nói tôi có cái này rồi, và lôi ra khẩu
K54 mới coong nói: hôm trước tôi thu được chiến lợi phẩm nhưng không nộp. Anh
Chính nói : ông cũng cứ mang theo AK cho chắc. Hai anh em chào DVTr Chính rồi
về Trung đoàn bộ. Từ chốt Đại đội về Tiểu đoàn rồi từ Tiểu đoàn về Trung đoàn.
Khoảng 5km, phải đi qua những cánh đồng nước. Thấy nói nhiều nơi anh em Sư đoàn
9 còn cài mìn. Đi khoảng 2km ở đây thật vắng vẻ. Mới thấy là chốt của mình hiện
giờ cũng chỉ cứng “ở vỏ ngoài”. Còn nếu Pốt ủi qua được vào trong thì cũng rất
bất lợi. Các đơn vị hiện tại chỉ còn 1/3 số quân ngày đầu đi Biên giới. Đơn vị
đã được bổ xung mấy đợt quân mà cũng không thấm vào đâu. Các đ/v kỹ thuật cao
như phòng không, tên lửa, cũng đã phải tỉa quân điều động cho các đơn vị Bộ
binh.
Anh Thảo nói: dừng lại tập bắn súng K54 đã Phú à. Và
khoanh 1 điểm ở cây thốt nốt rồi lùi lại khoảng 20m cứ thế là tập bắn. Anh Thảo
là người rất thích súng đạn, ở đâu cũng hay đi đánh cá hoặc săn bắn cải thiện
cho Tiểu đội. Hồi ở huấn luyện, Tôi hay sang chơi với anh Phô (Đại trưởng đại
đội của tôi bây giờ). Lần nào cũng được chiêu đãi, bằng các loại thực phẩm,
tăng gia được do chính anh Thảo đạo diễn. Khi thịt mèo, khi thì ếch nhái vv…
BCT Trung đoàn, nơi làm việc dưới gầm của 1 căn nhà sàn
có hầm bán âm. Đ/c phó chính ủy Nguyễn Kim Tiến đang làm việc với các trợ lý,
thấy ae tôi đến dừng lại việc hội ý. Mời chúng tôi vào và nói luôn. Ông Phú,
ông Thảo ngồi xuống đây. Sau một hồi vòng vo hỏi chuyện về tình hình đ/v. Chúng
tôi b/c sơ qua về tình hình dưới đại đội. Đ/c Tiến nghe xong nói ngay, (như là
hỏi chúng tôi chỉ là cho có chuyện). Tình hình đất nước đang rất gay go, sau
chiến tranh lẽ ra chúng ta được về với gia đình vợ con vv…Nhưng rồi ….(.Một lô
các nhưng rồi). Đảng bây giờ yêu cầu các
đ/c phải phục vụ quân đội lâu dài. Không thể có chuyện Đảng viên bây giờ ra
quân hay chuyển ngành được. Trong những ngày qua, tôi biết các ông có những
thiệt thòi.Có thể là sai sót của tổ chức. Nhưng các ông, các đ/c đã rất xứng
đáng là người Đảng viên ưu tú của Đảng vv…
Phó chính ủy nói thao thao 1 lúc rồi kết luận: 2 ông về 2
Đại đội. Ông Phú về làm phó chính trị C1, ông Thảo c3. Các ông vui vẻ mà làm.
Đừng có lý do lý trấu gì nữa. Ông Tiến cũng chẳng hỏi chúng tôi có đồng ý ko
nữa. Mà gọi đ/c trợ lý cán bộ ra đưa luôn quyết định giao cho chúng tôi. Cũng
ko bất ngờ. Nhưng cũng rất miễn cưỡng, 2 ae phải nhận qđ và về lại Tiểu đoàn.
Sau cái bắt tay hờ hững rất riêng, của phó chính ủy Trung đoàn mà ae thường gọi
là “chị Tiến”.
Hai anh em trở lại Tiểu đoàn, đưa 2 quyết định cho đ/c
Chính. Đ/c Chỉnh CV trưởng sôi nổi nói: Các ông cứ giữ lấy. Đấy là qđ chức vụ
còn QĐ quân hàm mấy ngày nữa mới về. Các anh về đại đội, tổ chức liên hoan chia
tay. Rồi có gì phải bàn giao. Ngày mai về Tiểu đoàn họp, rồi trở về đơn vị mới luôn. Tôi rất vui và xin chúc mừng hai
anh.
Thoáng trong đầu tôi nghĩ: ông vui là đúng rồi, vì vận
động chúng tôi phát triển mãi không được. Bây giờ trước sức ép nhiều mặt, chúng
tôi miễn cưỡng phải nhận chức vụ này. Bước đường “tiến thoái, lưỡng lang” chứ
vui thú gì đâu mà chúc mừng ?
Tôi về Đại đội, mọi người đã biết việc tôi không làm quản
lý nữa, mà sang làm cvf c.trị C1. Anh Phô, anh Nông pha nước mời tôi và lại
cũng vui vẻ chúc mừng, rồi nói luôn về công việc. Bàn giao ngay sổ sách tài
chính cho anh Thanh đảm nhiệm. Mời tôi
tối lên ăn cơm liên hoan cùng BCH đại đội.
Ngày hôm sau, tôi cùng BCH Đại đội về Tiểu đoàn họp. Nghe
phổ biến tình hình tác chiến. Tình hình địch, ta, và đặc biệt có nói đến tình
hình Campuchia hiện tại. Chế độ Pốt Pốt IeengXaRi là con bài của Bắc Kinh. Là
chế độ diệt chủng của chủ nghĩa bá quyền. Nhưng rất vui là tại đất nước này, đã
có nhiều lực lượng nổi dậy, phản chiến đảo ngũ chạy sang ta, yêu cầu chúng ta
giúp đỡ họ.
Với tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình” . Theo yêu cầu
phối hợp, sự thỏa thuận của bạn, trên chiến
trường BGTN này chúng ta được lệnh: “Mở rộng địa bàn, mở rộng hành lang,
tạo điều kiện liên kết các lực lượng nổi dậy ở nhiều nơi. Việc nâng đỡ các lực
lượng này, liên kết để họ nhanh chóng lớn mạnh là vô cùng cấp bách. Giúp các
lực lượng CM chân chính phát triển”.
Qua học tập, nắm tình hình, mọi người ai cũng thấy thoải
mái, nhẹ nhõm. Vì chúng ta đã có hướng, có lối thoát khỏi sự lúng túng về cuộc
chiến tranh này. Vì từ đây, chúng ta có mục tiêu chiến đấu, bảo vệ đất nước và
còn có sứ mạng quan trọng là giúp đỡ CM chân chính Campuchia mới được phôi thai.
Còn trong trứng nước. Và ta thoát được thế bất lợi cho chúng ta, về dư luận
quốc tế đỡ bị mang tiếng là chúng ta là “lấn chiếm” k nữa.
Vì vậy, nhiệm vụ của toàn Sư đoàn là phải phát triển địa
bàn. Mục tiêu là tấn công, tiêu diệt địch. Với diện sâu khoảng 25- 30 km.
Kết thúc hội nghị, đ/c Chính giới thiệu và điều tôi về
c1, đ/c Thảo về c3 như trong quyết định. Như vậy từ ngày thành lập đến nay, trừ
Đại đội 4 hỏa lực. Tôi đã được điều động về khắp các đơn vị trong Tiểu đoàn.
Sau hội nghị. Tôi về luôn đại đội 1. Tiểu đoàn 1, Trung
đoàn 1, Sư đoàn 1 (Sư đoàn 341 cũng
thường gọi là Sư đoàn 1). Như vậy 1 đ/v có 4 số 1 Tứ quý đây. Không biết
may rủi thế nào đậy. Với cương vị mới, một cương vị mà lẽ ra năm 74 tôi đã ở vị
trí này, cương vị này. Thoáng nghĩ đi như vậy rồi lại nghĩ lại. Đời binh nghiệp
chưa biết thế nào là may, là rủi cả …có lẽ phải đợi hết chiến tranh mới biết
được may rủi thế nào ? Không có thời gian nghĩ ngẫm nhiều nữa. Mọi người lại
chuẩn bị cho một trận tấn công luồn sâu mới. Với biết bao sự bận rộn trước trận
đánh, mà những người lính người cán bộ phải nắm bắt, phải chuẩn bị.
Ban chỉ huy đại đội 1 như vậy cả tôi nữa là đủ 4 người.
Đại đội trưởng, là anh Nguyễn Minh Đạc Trung úy quê Đông Triều, Quảng Ninh cũng
lính 5/72 với tôi. (nay đại tá nghỉ hưu ở quê) Đại đội phó là anh Phạm Văn
Trọng, Thiếu úy, lớp lính 71 quê ở Hà Bắc. Anh em hay gọi là “Trọng điếc” vì
anh là thương binh, bị nặng tai lúc nghe rõ lúc không. (từ năm 80 đến nay tôi
không gặp lại được nữa). CV trưởng là anh Nguyễn Tiến Công Trung úy, hơn tôi
một tuổi, là lớp lính 71. Ở đại đội thông tin sau lên ban tổ chức chính trị E.
Cũng mới chuyển về được 2 tháng. (Anh Công hy sinh trận 18/7 tại khu vực SenKe
không lấy được thi hài. Trận đánh ác liệt này TP xin kể sau). Và tôi CVphó,
liên lạc đại đội có 2 đồng chí. đ/c Hiệp lính 78 quê Vĩnh Phúc, đ/c Mai lính 77
quê Thanh Hóa. Ytá đại đội có 2 đ/c.
Lúc này, đơn vị đã được bổ xung. Quân số của đại đội là
65 anh em. Việc nắm tư tưởng, động viên tinh thần chiến đấu, giáo dục ý thức,
kỷ luật v.v.. những việc này với tôi cũng không có gì mới lạ. Tôi nhanh chóng
hòa nhịp vào công việc của đơn vị. Thường xuyên xuống các chốt của các Trung
đội, chuyện trò, nắm tình hình và để gần gũi tình cảm ae tạo điều kiện thuận
lợi cho chỉ huy.
BCH đại đội 1 với tôi, anh em cũng đã biết nhau từ trước
nên cũng không có gì phải tìm hiểu nhiều. Bộ 4 chỉ huy như vậy là rất vui, rất hợp đều là "trai
tân" cả. Nên sự vấn vương quê nhà cũng giống nhau. Hay kể những chuyện về
cuộc sống, yêu đương, hay tìm hiểu về phái nữ vv…
Về đại đội 1 được mấy ngày, đơn vị chuẩn bị đi chiến đấu.
Theo phương án toàn Trung đoàn luồn sâu vào đất K, Lần luồn sâu này ko phải chỉ
có các đ/v chiến đấu mà gần như là tất cả Trung đoàn. Các cơ quan tham mưu,
chính trị, Hậu cần, quân y đều phải đi luồn sâu cùng Trung đoàn. Quãng đường
luồn sâu là khoảng 20km. Phải qua nhiều làng xóm, các vị trí chốt giữ của Pot.
Địa hình bằng phắng, ruộng nước là chính, nên việc luồn lách là rất phức tạp.
Rồi chốt giữ, đánh tiêu diệt địch trong phạm vi này. Xây dựng tuyến phong ngự
mới. Mở rộng địa bàn như đã nói ở trên. Theo thông báo của trinh sát. Khu vực
tác chiến luồn sâu có rất đông lực lượng của Pot. Có cả đơn vị thiết giáp của
Pot nữa. Các đ/v phải chuẩn bị chiến đấu thật kỹ càng. Vì càng vào sâu đất
địch, thì khó khăn phức tạp cho ta càng lớn. Tiểu đoàn 3 đi đầu đội hình, sẵn
sàng tiêu diệt TTG của Pot. Mọi chuẩn bị đã hoàn tất . Giờ xuất phát cho trận
đánh là 7h tối ngày 14/6/78. Phấn đấu tới M và giờ G là 5h sáng ngày 15/6/78.
Khoảng 2h chiều ngày 14/5. Thật bất ngờ, khi đ/c liên lạc
Tiểu đoàn, dẫn Má Mỹ đến. Cảm động, thật cảm động khi Má Mỹ ở Thường Thới Tiền,
Hồng Ngự, Đồng Tháp. Cùng 2 Má nữa, lặn lội gần 500km về Sài Gòn. Rồi lên Tây Ninh, rồi thuyết phục thế nào, mà
các đơn vị ở cửa khẩu đồng ý cho các má sang tận chốt bên đất K. Thăm các anh
em, khi trước đã ở nhà các má. Gặp má thật mừng, má ôm tôi khóc, nói là nhớ các
con đến độ không chịu được. Nên rủ nhau đi tìm đơn vị của tôi. Má vừa khóc vừa
kể là: lên xã xin cái giấy đi đường mà “chúng nó” không cho. (ý nói là cán bộ
xã). Không cho các má vẫn cứ đi.
Thật tuyệt vời cho má Mỹ và các bà Má miền Nam. Những
ngày tháng, mà chúng tôi chiến đấu bảo vệ Biên giới, bảo vệ nhân dân ở Hồng
Ngự. Sư đoàn và trực tiếp là chúng tôi. Những người lính chiến xa nhà. Được sự
chăm sóc rất tận tình, của bà con và nhân dân nơi đây. Coi chúng tôi như những
người thân yêu ruột thịt của mình. Sự dũng cảm chiến đấu, hy sinh của những
người lính, người con “xứ Bắc”. Đã để lại cho nhân dân, những tình cảm sâu đậm,
thiêng liêng hơn cả tình quân dân cả nước.
Tôi cũng không thể ngờ được rằng, mình lại được nhận
những tình cảm của Má của bà con Đồng Tháp, giành cho mình lại lớn lao sâu đậm
như vậy.
Má mang quà cho chúng tôi đủ thứ. Nào là thuốc rê, đôi
gà. Cả một đùi thịt chó nữa. Các Má kể mua ở Chợ Lớn Sài Gòn xách đi. Các Má
biết lính Bắc, ưa món thịt chó. Chỉ có điều là không có xị đế. Má nói là: tao
có mang cho chúng bay mấy xị đế rồi. Thằng Hai nó nấu, mà ở cửa khẩu chúng nó
giữ lại ráo chọi. Nói là ko được mang rượu cho bộ đội ở chốt. Tôi cười nói:
chúng con không được uống rượu đâu, Má đừng buồn.
Thực lòng , gà , thuốc rê thì quá quý rồi. Còn món thịt
chó thì ai cũng sợ. Vì lý do tối nay chuẩn bị đi luồn sâu, chiến đấu. Mà trước
khi đi chiến đấu, chén thịt chó là hay “đen lắm”.
Khi ở Hồng Ngự, cũng ở Đại đội 3. Biết lính ta thích ăn
thịt chó, một Má đi mua hẳn một con chó về cho lính ta ăn. Trong số cùng ăn có
cả đ/c San đại đội phó nữa. Ngay đêm đó, anh em cũng phải đi tác chiến, đánh
địch ở khu vực đồn Mỹ Cân. Thì Trung đội này, bị hy sinh, bị thương 6 anh em.
Đ/c San cũng hy sinh. Nên anh em rất sợ sài thịt chó trước khi ra trận. Việc xử
lý cái đùi chó này, là cả một vấn đề. Làm sao để Má không biết cái suy nghĩ
kiêng “đen” ấy. Mà ngay anh em cũng không phải nghĩ ngợi, áy náy gì trước khi
ra trận.
Tôi bèn nói đ/c Đấu, anh nuôi trưởng. Cứ mang chế biến,
đun nấu bình thường cho Má biết. Giết gà cho mọi người ăn. Khi ăn cơm cùng Má
thì chỉ có món gà rang. Còn thịt chó để mâm ngoài, rồi bí mật đổ đi. Như vậy
là vẹn cả đôi đường.
Hai má con truyện trò mãi. Má kể đủ thứ chuyện ở quê từ
khi đơn vị chúng tôi đi. Khi biết là đơn vị xuống chiến đấu ở Hà Tiên, bị hy
sinh nhiều. má cứ khóc nức nở. Nắm chặt tay tôi như là người Mẹ, nắm chặt tay
đứa con ruột của mình. không muốn rời xa.
Thật buồn, khi má vừa đến, thì đơn vị lại phải đi tác
chiến. 2 Má con gặp nhau có mấy tiếng. Tôi dẫn má lên chỗ cứ của Tiểu đoàn.
Chia tay các Má và quay về Đại đội, làm công tác đôn đốc cho trận luồn sâu
chiến đấu đêm nay.
Các má ở lại, còn đơn vị đến giờ xuất quân. Tiếp tục luồn
sâu, phát triển đánh địch. Thế rồi 17 năm sau tôi mới gặp lại má. Mới được nghe Má kể chuyện khi chúng tôi đi.
Các má ở lại, ngủ hầm với đơn vị 2 ngày. Để theo dõi trận đánh và xem tôi,
chúng tôi, sống chết thế nào. Rồi mới
trở lại quê nhà.
Đúng 7h tối, Trung đoàn xuất phát. Trinh sát của Trung
đoàn đi trước. Trực tiếp chủ nhiệm trinh sát Sư đoàn đ/c Tô Ngọc Roan cùng đi
với lực lượng này. Tiếp đến vẫn là Tiểu đoàn 3. Đại đội 9 dẫn đầu. Rồi đến Tiểu
đoàn 1. Tiếp đến các đơn vị trực thuộc, các cơ quan Tham mưu, Chính trị, Hậu
cần. BCH Trung đoàn rồi đến Tiểu đoạn 2 đi cuối khóa đuôi.
Chưa bao giờ đội hình luồn sâu, phát triển vào đất địch đông đủ đội hình
như lần này. Những lần trước, thì chỉ toàn lính chiến. Còn các đơn vị phục vụ
như quân y, hay các cơ quan của Trung đoàn ở phía sau. Khi thế trận đã ổn định,
thì các lực lượng sau mới phát triển sang. Còn lần này thì khác. Anh em luồn
sâu đánh địch với khí thế mới. Vì qua học tập, ai cũng nghĩ là lần này luồn sâu
đánh địch, là gặp ngay các lực lượng nổi dậy của bạn. Nên trong mỗi người lính,
có thêm cái cảm giác tưng bừng hơn, sôi
nổi và lạc quan hơn. (giống như BinhYen
nói lính ta cũng rất hay cả tin vào sự lên dây cót, tuyên truyền của cấp trên).
Đường hành quân lại điệp khúc lúc đi, lúc dừng. Dò dẫm
theo anh em trinh sát. Lúc qua các Phum lưa thưa vài ba nóc nhà sàn hoang vắng,
lúc đi thì theo bờ ruộng. Nhưng chủ yếu là lội nước lõm bõm là chính. Được cái
nước ở đây không sâu, ko bẩn, ko có mùi khó chịu. Không như lội sình lầy lần
luồn sâu hồi 6/12/77 ở Phước Chỉ. Tốc độ di chuyển của cả một đội hình lớn,
không thể nhanh. Mà lại phải đi vòng vèo, tránh lé các chốt của Pot, bẻ góc
phương vị để hướng tới các mục tiêu.
Thỉnh thoảng ỏ các rìa Phum, gặp các chốt lẻ của Pốt.
Chúng thấy động bắn vài loạt đạn vu vơ. Đạn đỏ bay vụt lên trời xé tan sự tĩnh
lặng của đêm đen. Có nhiều viên xoẹt ngang tầm người. Rồi lại im lặng 1 cách
đáng sợ. Nhưng những loạt đạn đó, cũng làm cho đội hình hành quân không ổn
định. Mọi người dạt sang phải, dạt sang trái, hay ẩn nấp vào các bờ bụi. Hoặc
theo phản xạ nằm nhanh xuống. Nhưng chạm nước thì lại bật lên. Lom khom chịu
trận.
Quãng đường tiền nhập cũng đã được dài. Mọi người cũng đã
thấm mệt. Cái háo hức đi bắt gặp lực lượng nổi dậy ko con nữa. Vì mọi người
cũng đã vỡ ra sự vô lý. Là ko thế có lực lượng nổi dậy nào ở ngay giữa đội hình
của Pot thế này được. Mà hiện tại cũng vãn chỉ là trận luồn sâu đánh địch, mở
rộng địa bàn tác chiến thôi.
Khoảng 2h sáng. Bất ngờ pằng - pằng - pằng. Pằng - pằng -
pằng. Các loại súng của Pốt nổ dồn dập. Rồi ùng - oàng tiếng nổ của B41 Nhóm
trinh sát đi đầu bị lộ bọn Pot canh gác đã bắn trúng đội hình đi đầu. Một đồng
chí hy sinh, 2 đ/c bị thương. Đ/c Roan
chủ nhiệm trinh sát Trung đoàn cũng bị thương nặng. Anh em nhanh chóng khênh ra
đúng hơn là vác 2 đ/c lùi lại sau. Ta vẫn ko được lệnh nổ súng. Đội hình hành
quân xáo trộn hỗn loạn. Các loại súng của Pốt vẫn nhả đạn. Bắt đầu nhiều tiếng
ùng- oàng của B40- B41 bắn vào đội hình của hành quân tiền nhập của Trung đoàn.
Có những tiếng bước chân chạy trong đêm. Có lẽ là lính Pốt đã phát hiện ra cuộc
hành quân lực lượng lớn của ta. Nên tháo chạy. Những đơn vị chốt của Pốt, mình
đã đi qua, bây giờ cũng bắt đầu chạy ngược trở lại. Gặp quân ta chúng bắn loạn
xạ , để mở đường chạy là chính.
Quân ta vẫn nằm im hoặc ẩn nấp chịu trận. Khoảng 30 phút
sau không gian lại trở lại yên tĩnh. Khi hành quân, Đại đội 1 của tôi bố trí
chỉ huy Đại đội như sau. Đ/c Trọng cùng đi
đầu với Trung đội 1, 2 đ/c cấp trưởng cùng đi với Trung đội 2. Tiếp đến
là tôi cùng 1 đ/c Mai liên lạc đi cùng Tiểu độ cối 60. Lúc bọn Pot bắn vào đội
hình thì như vậy, đội hình hành quân của các đ/v ko giữ được như lúc đầu nữa.
Mà các đ/v đã chồng chéo lẫn lộn nhau. Tôi cùng đ/c liên lạc và mấy ae nữa nấp
ở 1 bờ đất tránh đạn. Tiếng súng của Pot đã im. Lúc này trời đêm vẫn tối mờ,
nghiêng mặt nhìn lên. Xa xa, mờ mờ, vài chuc mét có bóng người tiến lại phía
tôi. Tôi thì thào nói ae có người. Bóng người tiến lại gần, cứ bước vài bước
thì lại ngồi xụp xuống quan sát. Đúng là ko biết chúng tôi đang nằm đây. Đ/c
liên lạc nói Pot rồi Chính trị viên ơi. Để em bắn. Tôi nói, cứ bình tĩnh ko
được bắn. Tôi thì thào nếu là Pot thì thằng này đi lạc, có 1 mình ta bắt sống.
Nói vậy nhưng tay tôi vẫn mở nẫy khóa súng và gióng vào bóng người di chuyển
đến. Vẫn chưa xác định được ta hay Pot. Tôi nói đ/c liên lạc tháo xẻng ra, đơi
nó đến thật gần nếu là Pot, sẵn sàng lao ra lấy xẻng đập, bắt sống chứ rất
khóat ko được bắn.
Bóng đen tiến lại gần hơn. Vẫn động tác bước nhẹ mấy
bước, rồi lại dừng. Rồi thấp người xuống, quan sát. Rồi lại bước tiếp. Bước
chân lội nước thật nhẹ, không phát ra một tiếng động nào. Quan sát kỹ, thấy
bóng đen không đội mũ. (không có súng khom người như đeo vật gì sau lưng). Quái
lạ, bộ đội mình thì phải có mũ (mũ sắt), hoặc phải có súng chứ, sao lại đi tay
không ? Mà ở hướng địch thế này.
Tôi thì thào: anh em cứ bình tĩnh, bình tĩnh. Nói vậy,
nhưng tôi cũng đã thấy hồi hộp. Nếu bắn thì đơn giản quá, còn bắt sống, thì quả
là cũng không phải dễ. Đã có “bài học” dịp trước rồi. Nhưng tên này, đi lẻ có
vẻ tóm được. Tôi thì thào: đợi thật gần. Tôi sẽ lao lên ôm chặt và đẩy ngã. Anh
em lấy xẻng đập hỗ trợ. Tôi thoáng qua phương án, thấy cũng hợp lý và đưa súng
cho đ/c Mai bên cạnh chuẩn bị tư thế lao lên.
Bóng đen vẫn đang tiến lại gần phía tôi. Vẫn không hay
biết là chúng tôi đang nấp ở đây. Còn khoảng 10m rồi 5m, Thật hồi hộp, thật
căng thẳng. Tôi như đếm từng bước đi của bóng đen. Quan sát kỹ, tôi nói bộ đội
mình rồi. Tôi cầm lại súng quát gằn giọng vùa để cho đối phương nghe. Ai ? Bóng
người như khựu xuống, tiếng lắp bắp run rẩy. Tôôi. Tôôi đây. Tôi là ai ? Tôi
gằn giọng hỏi tiếp: “Nhật đây”, bác sỹ Nhật đây.
Tôi bật lên bước tới. Trời bác sỹ Nhật. Đúng bác sỹ Nhật.
Nhìn rõ cái đầu hói bóng, không có mũ, không có súng ống gì cả. Đeo 1 cái ba lô
bẹp lép sau lưng. Tôi hỏi: sao bác sỹ đi có một mình ? Mà mũ bác sỹ đâu ? Bác
sỹ Nhật nói: nó bắn ác quá, đội hình hỗn loạn. Mạnh ai nấy tìm chỗ ẩn. Tôi núp
ở bờ bụi đằng kia. Mãi không thấy ai, nên dò dẫm đi tìm anh em. Bác sỹ Nhật đã
bình tĩnh hơn. Tôi nói: đây là đội hình Đại đội 1 rồi. Thôi bác sỹ cứ đi với
chúng em. Tôi tháo lấy cái mũ tôi đang đội, đưa cho bác sỹ nói: bác sỹ đội tạm.
Không có mũ nguy hiểm lắm. Bác sỹ Nhật nói: vậy cậu lấy gì đội. Tôi nói em
không quan trọng lắm. Sao lúc đó tôi lại pha được câu đùa là: “Tóc em dày lắm”
ý nói là bác sỹ hói không có tóc. Và đội mũ lên đầu bác sỹ Nhật. Tất cả lại
tiếp tục luồn sâu. Trong đội hình của tôi, bây giờ có thêm cả 1 bác sỹ nữa.
Bác sỹ Nhật năm 1981 được điều lên làm chủ nhiệm quân y
Sư đoàn, quê bác sỹ Nhật ở Hải Hưng. Có điều từ khi ra quân đến giờ, có nhiều
lần gặp mặt cựu chiến binh Sư đoàn 341 các tỉnh. Tôi tham dự cũng nhiều. Hỏi
thăm mãi, mà không anh em nào biết rõ, bác sỹ Nhật bây giờ ở đâu? Và cuộc sống
thế nào ?
Bắt sống xe bọc thép M113 :
Đội hình hành quân tiếp tục tiến. Vừa đi , các đ/c cán bộ
của từng Đại đội, Tiểu đoàn lại bắt đầu tìm, điều chỉnh, xốc lại đội hình của đơn vị mình.
Gần 4h sáng. Có tiếng động cơ của TTG. Tiểu đoàn 3 được
lệnh tăng tốc hành quân, vòng tránh hướng có tiếng động cơ của TTG. Với ý định
vòng, bọc bọn TTG. Các đơn vị không còn có ý thức bí mật nữa, mà vận động
nhanh. Tiếng động cơ của TTG ngày càng rõ. Chúng di chuyển về phía Bắc ngã ba
Săng Ke. Tiểu đoàn 3 đã vu hồi kịp. Nhưng cũng đã bị lộ. Gần chục xe bọc thép
M113 tiến về hướng đại đội 9. Chúng đã phát hiện có bộ đội ta phục ở đó. Chúng
bắn mấy loạt đạn, rồi bắt ngờ quặt sang trái tăng tốc chạy. Súng đại liên và
12,8 ly trên các xe, xối đạn về phía anh em đại đội 9. Một vài anh em đã phụt
B40- B41 nhưng không trúng mục tiêu. Một số anh em trúng đạn. Đại đội 9 vận
động nhanh theo xe. Trận chiến giữa đồng nước, trong đêm mờ sáng, sớm hơn dự
kiến. Đội hình xe bọc thép cũng đã rối loạn. Mạnh thằng nào thằng ấy chạy.
Chúng quay ngược súng bắn về phía ta. Nhưng chỉ là bắn uy hiếp để rút chạy đạn
đỏ tuôn xối xả nhưng vọt hết lên trời đêm.
Trung đội phó Nguyễn Thanh Bình, phát hiện 1 xe bọc thép
chỉ thấy dừng bắn, chứ không di chuyển. À thằng này liều ! Thoáng nghĩ như vậy.
Nhưng đ/c Bình thấy tiếng máy của xe gầm rất lớn. Súng 12,8ly trên xe vẫn
thùng- thùng- thùng về phía ta. Nhưng chính họng súng đang đỏ rực, phun đạn lửa
kia, lại là báo hiệu sự cố của xe. Trung đội phó Bình dẫn một tiểu đội vòng
chếch sang phải, tránh luồng đạn xối xả của khẩu 12,8ly. Ùng- oàng. Tiếng nổ long trời, òa sáng của khẩu
ĐKZ trên xe bắn về đội hình Đại đội. Hướng bên phải Trung đội phó Bình cùng mấy
ae vẫn tiền nhập gần xe. Thằng này như vậy là bị sa lầy xuống mương nước, không
lên được. Phải bắt sống. Bình ra hiệu anh em không được bắn B40. Anh nhằm thằng
12,8ly lia mấy loạt AK. Bóng thằng Pốt vật ra khẩu 12,8ly im bặt. Thằng bắn Đk
cũng đã nhẩy vào trong xe. 2- 3 cái đầu thò lên xe bắn ak tới tấp, điên cuồng
về phía anh em. Bọn này cùng đường rồi. Cả Trung đội tấn công, bắn áp đảo về
phía mục tiêu. Bọn Pốt thụt hết đầu xuống, ở trong xe tung lựu đạn ra. Lựu đạn
nổ rầm rầm quanh xe. Mảnh bay vèo vèo. Cái bọn ngoan cố này. Tiền nhập gần tơi
nơi, Trung đội phó Nguyễn Thanh Bình rút lựu đạn tung về phía xe. Lựu đạn vượt
nổ bên kia xe. Bình tung quả thứ 2 trúng xe, lựu đạn rơi được vào trong xe. Ầm
… lửa chớp lòa, khói trùm lên. Tiếng súng cũng im bặt. Tiếng động cơ của xe
cũng tắt ngấm. Anh em nhào cả tới, xác một thằng Pốt to vật vã nằm gục xuống
khẩu 12,8 ly. Khói của thuốc súng vẫn còn vẩn trong xe như những ám khí của
thần chết. Anh em bật lửa soi trong xe, một cảnh tượng hãi hùng. Gần chục xác
Pốt vắt vẻo chết trong mọi tư thế. Máu bắn đỏ lòm trong xe.
Tin Tiểu đoàn 3 tiêu diệt và bắt sống được một xe bọc thép
nhanh chóng được truyền đi. Làm khí thế cuộc cuộc chiến sôi động hơn. Các đơn
vị nhanh chóng phát triển theo kế hoạch. Nhưng như vậy là giờ G đã sớm hơn dự
kiến, kế hoạch bí mật luồn sâu đợi giờ G nổ súng đã ko thực hiện được. Các đơn
vị chuyển phương án, chủ động tấn công, đánh vỗ mặt. Chiếm các vị trí được phân
công. Tiếng súng tấn công vang dội, như đánh thức bình minh. Không gian trời
đất vỡ òa, bởi của tiếng hô xung trận và tiếng nổ của các loại đạn súng. Lúc
này đã là 4h30 sáng, ngày 15/6/78. Phía đằng đông trời đã hửng sáng.
Đại đội 1 đang tiến công về phiá Xvây Chéc. Thì được lệnh
quay lại về chốt chặn, bảo vệ xe bọc thép M113. Sẵn sàng đánh những lực lượng
lẻ của Pốt còn sót lại.
Vòng trở lại khoảng 2 km, tới vị trí xe bọc thép. Chiếc
xe kẹt giữa một mương nước, kích đầu, kích đuôi. Gần đó, những vết xích xe
khác, vượt qua mương nhưng chúng đều đi chéo. Còn thằng này chắc vội, hoảng
quá, nên vượt mương theo chiều vuông góc. Mương nước trở thành hào, vừa chiều
dài xe. Nên xe không thể lùi, mà cũng không thể tiến được. Cái kém, cái số
không may của nó, đã trở thành cái may của anh em mình. Nó là cái dấu chấm hết cho số phận chiếc xe.
Cùng những tên lính đi cùng xe. Chiến công thu được xe bọc thép này, mang một ý
nghĩa rất lớn. Vì TTG của Pốt không nhiều. Chúng cũng đã xuất kích, chiến với
ta vài trận. Nhưng đa số là ở tầm xa, rồ máy uy hiếp, hay bắn hỗ trợ cho bb.
Dọc tuyến biên giới, chúng ta chưa tiêu diệt, hay bắt sống được chiếc xe nào.
Nơi đây, giữa đồng trống mênh mông nước. Gần xe có một
vài khóm tre gai. Anh Đạc ctr, nhanh chóng bố trí các Trung đội phòng ngự theo
thế chân kiềng. Sẵn sàng đánh địch ở các hướng. Vì ở đây sâu đất K. Đội hình
lớn của Trung đoàn đã phát triển vượt lên khu vực SăngKe và XvayChec. Còn lại Đại đội 1 ở đây, cũng có thể chỉ chốt
“ngồi chơi xơi nước” giữa đồng. Nhưng cũng đã có nhiều bài học, của Đại đội 6,
Đại đội 3 rồi. Những lực lượng lớn của Pốt, bây giờ mới chạy đến. Sẽ diễn ra
những trận chiến ác liệt của bọn cùng đường tháo chạy. Nên không ai dám chủ
quan, trong việc chuẩn bị hầm hào, ụ súng chiến đấu.
Trời đã sáng hẳn. Hầm hào, ụ súng chiến đấu cũng đã xong.
BCH Đại đội ở vị trí mấy khóm tre. Tiếng súng của các đơn vị vẫn thấy nổ dồn
dập phía xa. Sau khi điểm tâm sáng. Anh em BCH Đại đội đến chỗ xe bọc thép xem xét
kỹ càng hơn. Xác thằng bắn 12,8 ly còn đó. Anh Trọng đạp xuống dưới mương. Trên
xe, khẩu DKZ thật lớn. Mới bắn được một quả. Loại DK106,7 này mình chưa gặp bao
giờ. Thảo nào, tiếng nổ đầu lòng mạnh và ầm vang thế. Ngó vào trong xe, đúng là
ngổn ngang toàn xác Pốt. Không đếm được, vì thằng nọ đè lên thằng kia, ở nhiều
tư thế khác nhau. Chắc là cả bộ binh đi kèm nên mới nhiều thế. Mùi máu xộc lên,
tanh ngòm, lợm giọng. Anh Trọng và anh Đạc đi về phía các Trung đội. Còn tôi và
anh Công vẫn trên nóc xe. Anh Công tỷ mỷ nghiên cứu khẩu DKZ, quay về các hướng
rồi nói: lắp bắn thử một quả Phú à. Tôi nói: mình không quen súng nguy hiểm
lắm. Vì nghĩ ngay đến dịp trước có một đồng chí bắn DKZ75. Bắn nhiều, có quả
không nổ, bèn tháo lắp, chỉnh lý lại. Cạo lớp thuốc khói ở khu vực Kim Hỏa
xong, tiện tay bóp cò ngay. Ầm. Quả đạn phụt đi, nhưng lỗ trích khí đằng sau,
cũng thổi bay cả cái đùi của đồng chí này. Mọi người cấp cứu ngay nhưng.đồng
chí xạ thủ này cũng ko sống được.
Anh Công cũng đã mò mẫm tháo vỏ đạn trong súng ra. Rồi mở
một ống đựng quả đạn khác. Nhìn quả đạn mới vàng ươm. Đẹp, nhưng rùng mình bởi
uy lực của đạn. Mới thấy nền công nghiệp chế tạo vũ khí quân sự của Mỹ hiện đại
thế nào ?
Tôi cũng ngại cho việc nghịch ngợm súng của anh Công nên
tránh hẳn ra. Theo dõi từng thao tác. Tôi nói: bộ đội mình cách đây khoảng 2 km
đấy. Anh để chếch súng lên hãy bắn để đạn bay thật xa. Anh Công làm theo, ghé
người vào bóp cò. Ầm... Quả đạn phụt bay nên lửa đỏ phụt ra đằng sau đúng là 1
quả tên lửa. Khói lửa của liều phóng òa ra chung quanh. Thật kinh khủng của
loại đại bác không giật này. Ngớt khói, nhìn anh Công ngơ ngơ. Tiếng nổ lớn làm
anh Công không nghe được gì nữa. Khoảng 30 phút sau mới gần trở lại bình
thường.
Gần trưa, có một nhóm Pốt khoảng hơn chục tên. Chúng chạy
băng qua đồng nước ngang qua Trung đội 1. Anh em chủ động bắn trước. Bọn này
cũng bắn vài loạt AK về phía chốt, rồi lại chạy mất tăm. Không được phép truy
đuổi. Vì bọn này cũng giống như cá đã ở trong lưới quây. Mấy khi thoát được.
Giữa trời nắng chang chang, chỗ BCH còn lợi dụng được bụi tre gai đỡ nắng. Còn
toàn Đại đội, được phơi giữa trời nắng vô
cùng vất vả.
Đến 3h chiều, lệnh của Sư đoàn là: Đại đội 1 bàn
giao, hỗ trợ cho lữ đoàn 22 kéo xe bọc
thép của Pot về phía sau. Khoảng 4h chiều, 1 tổ 3 xe bọc thép của lữ 22 đến
tiếp thu xe. Mọi người phấn khởi, vì
chuẩn bị thoát được chỗ nắng nôi này. Anh em lữ 22 xem xét và yêu cầu Đại đội 1
đào bờ mương làm đường cho xe lên. Và lấy hết xác Pốt trong xe ra. Anh Trọng,
điều động Trung đội 2 gần đó đào đất phía trước và phía sau xe. Anh em lữ 22
chui vào mở cửa phía sau của xe ra. Thật kinh khủng, gần chục thằng chết trong
xe đủ mọi tư thế. Chúng đã đen, khói thuốc khói đạn càng làm cho chúng đen hơn
. Ai cũng lợm giọng, vì máu của bằng đấy thằng, chảy ngập sàn xe đã đông đặc.
Được phơi nắng cả ngày, bốc mùi tanh lợm không ai chịu được. Đại đội trưởng,
Đại đội phó và Trung đội trưởng cũng lỉnh đi hết, không ai dám vào xe để nhìn
ngó nữa. Chứ đừng nói đến lôi được chúng ra. Thằng nào thằng ấy to vật vã, quấn
xoắn vào nhau, có thằng còn lòi cả xương tay xương chân ra. Chúng móc, bám vào
các vật dụng trong xe. Trong một không gian bé nhỏ của xe, thì việc này quả
thực khó khăn cho việc ai vào lôi đám xác này ra.
Các đ/c cán bộ quân sự thì nói: việc này của mấy ông
chính trị. Dừa nhau mãi ko ai chịu vào xe. Cuối cùng đ/c Công cvtr nói để tôi
vậy. Tôi nói là ae lấy sợi dây dù võng buộc thòng lọng. Để anh Công vào tròng
vào cổ từng thằng rồi để ae bên ngoài kéo ra. Anh Công vào xe cũng làm theo như
thế, nhưng ae kéo mãi mà thằng Pot cũng ko chịu ra. Vì chúng đã cứng lại xoắn
vào nhau như đã nói. Anh Công phải lấy xẻng, cậy những chỗ vướng vứu mới lôi ra
được 1 thằng. Thế rồi quá lợm giọng vì mùi hôi tanh. Anh Công chạy ra ngoài,
gục mặt xuống nôn thốc, nôn tháo. Mặt tái mét và nói: tôi ko vào được nữa.
Cũng không thể nói ai vào xe được nữa. Tôi bèn nói ; để
Phú vào xe. Tôi lấy khăn mặt buộc ngang mồm mũi, còn chừa 2 mắt. Chui vào xe,
một tay cầm xẻng, một tay cầm sợi dây võng. Cảnh tượng trong xe thật hỗn loạn,
hãi hùng. Nào là đầu, nào là tay chân, mình mẩy của những thây Pốt. Không ai
hiểu, ai tả được, lúc cái búa của thần chết giáng xuống, thì tâm trạng chúng sợ
hãi, hay phản ứng bản năng như thế nào ? Ôm chặt lấy nhau, hay vớ víu vào cái
gì đó. Rồi có thằng chết ngay, thằng ngấp ngoái, đón cái chết đến chậm trong
nỗi kinh hoàng tột độ mà các cụ ngày xưa gọi là sợ “mất hồn”. Thật tình, thì
chúng nó cũng là con người, là đồng loại của mình. Cũng có bố, có mẹ, hoặc vợ
con, có anh chị em, bạn bè và bà con họ hàng v.v... Không biết là chúng mày bao
nhiêu tuổi ? Được giáo dục, được học hành thế nào ? Mà chúng mày tàn bạo, thất
nhân, thất đức thế vậy ?
Chúng mày tàn bạo ngay cả với bà con, dân tộc mày, một
đứa nhỏ, nhiều đứa nhỏ, bị chúng mày lấy búa đập vào đầu. Chỉ vì họ là những
người thành phố Huh.
Dịp còn ở Mộc Bài. Cứ mỗi lần mình phản pháo chúng. Là
hôm sau lại thấy có 1- 2 đống lửa thật to nghi ngút khói. Tôi mới hỏi kỹ bà con
thì được biết, đó là những đống lửa thiêu xác bọn chết. Bên đó “phong tục là
người chết đem thiêu chứ ko mai táng (địa táng như ta. Nhưng bọn này thiêu
người rất thủ công. Chỉ xếp người vào đống củi, rồi đốt ngoài trời. Thậm chí
muốn để thiêu nhanh. Chúng còn xả người nhỏ ra, cắt từng khúc, hay cắt rời tay
chân ra, cho vào đống lửa. Trước sự chứng kiến của vợ, chồng, con cái, hay bố
mẹ làng xóm vv…Chính vì thế nên bọn này bị thói quen từ nhỏ việc xả người, chém
chặt người ko ghê tay. Chuyện này ko biết đúng, sai, thực hư thế nào ? Có thể
các bạn ko tin. Những tôi cũng đã hỏi nhiều người, thì cũng được nói như vậy.
Thoáng nhanh các suy nghĩ đó. Tôi ngậm chặt mồm, nhìn
lướt qua toàn xe. Vẫn chưa xác định được còn mấy thằng. Có một thằng đầu quay
ra phía tôi, ngửa mặt, nhe răng “cười”. Tôi túm tóc định nâng đầu lên, để đưa
dây thòng lọng vào cổ. Vừa nhấc đầu nên thì, rùng mình vì cả mảng mảng tóc tay
tôi nắm tuột hết, kéo theo cả da, trơ sọ. Rùng mình nhưng cố nén, để không bị
quá căng thẳng. Tôi lấy xẻng bộ binh, lách xuống dưới gáy tên Pốt, nâng đầu hắn
lên rồi tròng dây vào cổ. Hô anh em bên ngoài kéo. Sợi dây căng, nhưng thằng
này bị kẹt, bởi những thằng khác, thân thể chúng đã bị cứng. Nên càng vướng vào
nhau. Không còn cách gì khác, là phải vần, phải cậy những cái xác khác ra, cho
anh em kéo Pốt.
Được một thằng, rồi 2 thằng, 3 thằng. Đến thằng ngồi ghế
lái trên cùng, cũng thật khó khăn. Nó chết trong tư thế vẫn điều khiển xe. Cố
vượt hào batile nước nên tay chân của hắn, níu chặt vào các cần điều khiển xe.
Bậy mãi, kéo mãi, mới lôi được thằng đang ngồi này ra. Bọn này to thật. Chắc
mỗi thằng phải nặng tới 70kg chứ không ít. Làm cho cái sức vóc nhỏ bé của tôi
phải gồng mãi, cố mãi, mới vần được chúng theo ý mình để anh em lôi ra.
Như vậy là 6 thằng. Anh Công vào lôi được 1 thằng là 7.
Một thằng bắn 12,8ly chết bên ngoài là 8. 8 cái xác được kéo ra, nằm kề nhau
thành một đống hỗn độn, trông thật ghê sợ. Từ ngày đi Biên giới, tôi chưa gặp
trường hợp nào, thấy hàng chục cái xác Pốt một chỗ thế này. Tôi ra ngoài vứt
cái khăn mặt rồi nhổ bọt ngồi thở.
Cho đến hôm nay, khi viết lại, cái cảm giác đó vẫn ấn
tượng như là mới xẩy ra. Vì hình ảnh này, nó là nỗi ám thị, ám ảnh, ghê sợ còn
theo suốt cuộc đời tôi.
Tôi ngả người, nằm xuống bờ mương thoai thoải dốc. Nhìn
trời, qua mấy tán lá tre thưa đung đưa trước gió, trong buổi chiều hoàng hôn
dần tím. Như không để ý đến ai, khômg muốn và cố muốn xua đi, những hình ảnh
hãi hùng , tởm lợm mà mình phải bê, phải vần, phải giáp mặt chúng. Một vài con
cò bay ngang trời. Xa xa, là làng mạc, là những bóng thốt nốt. Đặc trưng của
đất trời Campuchia.
Ầm ... tiếng nổ của chiếc xe bọc thép gầm vang. Khói
xanh, xả ra dầy đặc bao trùm xe. Anh em lữ 22 đã vào sửa chữa, đấu nối thế nào,
mà xe nổ máy được ngay. Trong tiếng hò reo của anh em bb. Một sợi dây cáp được
nối vào xe bọc thép lữ 22. Cả 2 cái cùng nổ máy, cùng bò lên khỏi chỗ lầy.
Trong niềm vui của tất cả mọi người. Anh
em dừng lại, xuống bắt tay khắp lượt mọi người. Rồi lên đường về phía sau.
Chiếc xe bọc thép M113- 060 ngoan ngoãn bò đi cùng tổ xe của lữ 22. Giống như
những con quái vật đã bị phép thần thông của Tề Thiên Đại Thánh thu phục. Trong những tập phim Tây Du Ký. Mà
hồi nhỏ hay xem. Bóng đoàn xe xa dần, xa
dần.
Đây là chiếc xe bọc thép đầu tiên trên mặt trận BGTN này.
Ta tiêu diệt và thu được của Pốt (một thời gian nó được là vật chứng trong bảo
tàng Quân đội tại TP. HCM về chiến thắng của quân và dân ta. Trong cuộc chiến
tranh bảo vệ BGTN của Tổ quốc).
Chúng tôi được lện hành quân về hướng Tây Bắc ngã ba SăngKe. Nơi đội hình Trung đoàn vừa
chiến đấu. Và bây giờ, vòng đai bảo vệ biên giới của Trung đoàn, Sư đoàn 341,
lập phòng tuyến tại đây. Phía Đông Bắc Chóp giáp Sư đoàn 7. Kéo vòng cung xuống
phía Bắc rừng Hòa Hội của ta.
Tại địa danh này, chúng tôi chốt giữ và chiến đấu liên
tục nhiều tháng. Tổ chức nhiều trận luồn sâu phạm vị nhỏ. Tiêu diệt đánh địch
bu bám, lấn dũi, phòng tuyến của ta. Nhiều trận đánh ác liệt, đã diễn ra tại
khu vực này. Có trận ta luồn sang phía Pot lại gặp Pot luồn sang tập kích ta.
Những trận đánh bằng xẻng, bằng lưỡi lê và dao găm đã xẩy ra. Chiến thắng,
chiến công cũng nhiều. Song thương vong tổn thất cũng rất lớn.
Đại đội 1 của tôi, có trận sau chiến đấu còn lại có 3
người. Tôi + quản lý + anh nuôi. Anh Nguyễn Tiến Công cùng rất nhiều anh em hy
sinh mà không lấy được thi hài. Trong những trận 14/7 và 18/7/78.
Tôi sẽ xin phép kể lần lượt từng trận đánh. Để cùng các
bạn, ôn lại những năm tháng cam go và hào hùng đó.
Tản mạn về cây thốt nốt :
Bạn Quyenkh hỏi: TP nhìn những bức hình cây thốt nốt,
cánh đồng chó ngáp, cánh đồng chết, hay cây thốt nốt mùa mưa của sudoan5 -
Bìnhyen có cảm tưởng thế nào ? TP thấy
ảnh đẹp. Đẹp thật sự. Rất có “hồn” nghệ thuật. Song trong cái “ hồn “ đó . Với
anh em , lính tình nguyện chúng mình. Ai mà không có những ấn tượng mạnh, về
loài cây quý hiếm này.
Những ngày đầu tiên, khi còn ở khẩu đội cối 60ly của đại
đội 3 d1. Tiểu đội TP bị Pót tập kích. Một quả đạn dkz, bắn đúng vào thân cây
thốt nốt. Cách mặt đất khoảng 3-4 m. Đạn nổ găm mảnh xuống làm tiểu đội mình hy
sinh 1, thương 2. TP cũng ở khẩu đội ấy, nhưng lúc đó đang nhắc nhở ae đào hầm
cách đó mấy m. Nên may mắn ko bị sao. Và hình ảnh, nỗi ám ảnh về cây thốt nốt
đã có từ ngày đó tháng 11/77.
Theo TP, cùng một số anh em thời kỳ ở bên đó. Thì cây
thốt nốt quý thật. So với cây dừa, cọ, thì thốt nốt phục vụ con người nhiều
hơn. Gần như từ thân cây, lá cây, hoa cây, trái xanh, trái chín. Đều phục vụ
cho dân sinh. Này nhé:
- Thân cây: nếu
già, họ bổ ra lớp gỗ thân bên ngoài dầy khoảng 5cm. Thì cứng, chắc gần như gỗ
lim. Không bị mối mọt, có thể sử dụng làm nhà, làm giường, bàn ghế v.v...
- Thân cây phía dưới, đào cả một phần gốc. Họ bổ đôi dài
khoảng 4m, đẽo khoét bên trong thành một cái thuyền xuồng độc mộc .
- Tầu lá khô làm
củi đun. Lá thốt nốt cùng để lợp nhà, lá bánh tẻ, dùng để đan giỏ, đan túi
xách, hay thảm chiếu nằm trải giường v.v....
- Hoa cây thốt nốt. Có điều là từ khi nẩy mầm, tới khi
cho ra hoa trái, phải 15-20 năm. Thời gian rất dài. Người dân nếu lấy nước, thì
họ chọn những nhánh hoa cái. Dùng 2 cái kẹp tre, day đi, day lại nhiều lần.
Trong mấy ngày. (giống như các cụ nhà ta dạy: phụ nữ muốn có nhiều sữa cho con
bú, thì phải để người đàn ông (người chồng), vần vò nhiều, đôi cái nhũ hoa thì
mới có nhiều sữa cho trẻ. Grin Grin Grin. Khoản này thì chắc mấy bác ccb của ta
rất giành phải ko BH ?
Sau khoảng 3 ngày, vần vò bằng kẹp tre. (Chứ không phải
bằng tay như cái kia). Thì họ lấy con
dạo, vạt đi một chút ở đầu nhánh hoa. (vòi hoa) và buộc, treo vào đấy một cái ống bương hoặc ống tôn
kẽm. Đương nhiên là phải đeo ống vào tầu lá cây mới giữ được ống. Qua 1 đêm, từ
tối đến sáng mỗi ống được khoảng vài lít nước. Mỗi cây đã trưởng thành, có thể
treo tới 20 ống như vậy. Mang về đun, cô lại thành đường, thủ tục nấu đường
thốt nốt, như là nấu đường mía. Họ hay đổ ra các bát (chén) ăn cơm. Đường thốt
nốt ăn rất ngọt, ngọt thanh mát, như đường phèn, đường phổi, ở vùng Quãng Ngãi.
Có điều đặc biệt là: đường này giống như đường bánh của
mình. Để ngoài không khí, hay bị chảy nước. Mà phải lấy cái lá cây thốt nốt gói
lại. Gói rất sơ sài, hở hang, nhưng đường lại không bao giờ chảy nước.
Cho nên, lúc quân TNVN sang đó. Bọn phản đông chúng có
tuyên truyền, tẩy chay mình nói là: đường thốt nốt, thì phải gói bằng lá thốt
nốt. Ý nói là việc của dân CPC thì chỉ để dân CPC tự giải quyết.
Nước cây thôt nốt nếu uống ngay thì rất ngọt. Nhưng dân
Campuchia thì lại dùng 1 số ống làm nước thốt nốt chua. Thì họ phải bỏ vào
trong ống 1 loại vỏ cây (CÂY ME) thì sáng hôm sau, nước trong ống chuyển thành
mầu trắng đục. Có ga. Uống giống như nứơc rượu nếp cái của mình. Uống nhiều
cũng bị say. Có nhiều bạn đựng nước trong bình tông nhuôm của Trung Quốc. Để tứ
sáng đến trưa thì cái bình tong bị tròn như quả bóng. Vì nước có ga rất mạnh.
Đội hình Đại đội 1, về đến khu vực chốt của mình thì vừa
tối. Tiểu đoàn trưởng cùng tác chiến, và mấy trinh sát. Cùng các đ/c thông tin
hữu tuyến rải dây, xuống tận Đại đội . Hướng dẫn và giới thiệu địa hình . Giao
nhiệm vụ, chốt giữ cho đơn vị. Đại đội 1 đảm nhiệm phía tay trái của Tiểu đoàn.
C3 thì ở giữa nhưng cao lên. Bên phải Đại đội 3, là Đại đội 2. Lùi vào trong là
Đại đội 4. Hai khẩu 12,7ly đã được bổ sung tăng cường cho c2 và c3. Chỉ còn lại
2 khẩu ĐK82 + 2 khẩu cối 82. Tiếp đến là Tiểu đoàn bộ, sau Tiểu đoàn bộ, là
Tiểu đội trinh sát, Trung đội thông tin
+ vận tải. Tiểu đoàn bố trí thể như kiểu cái cung và Đại đội 3 là đầu mũi tên. Đại đội 1 + 2 là 2 đầu của cánh
cung.
Hướng bên phải Tiểu đoàn một, là Tiểu đoàn 3. Bên trái
Tiểu đoàn 1, là Tiểu đoàn 2. Giáp gần với Chóp của Sư đoàn 7. Rải rác các Đại
đội trực thuộc, như 18 thông tin, 15 Dkz , 14 cối 120 ly, 16 súng 12,7 ly được
cử đi phối thuộc. Số còn lại bố trí cảnh giới bảo vệ Trung đoàn. Được bố trí
vào các khe kẽ của địa bàn, giáp giữa
các Tiểu đoàn. Trung đoàn bộ, đóng ngay tại khu vực ngã ba Săng Ke. Cùng các cơ
quan Trung đoàn và Đại đội vận tải, Đại đội 24 quân y. Đại đội trinh sát 20, có
nhiệm vụ bảo vệ trực tiếp cho Trung đoàn bộ. Giáp với đội hình của Trung đoàn
1, là Trung đoàn 2 (270), Trung đoàn 3 (266) gần giáp về Biên giới khu vực rừng
Hòa Hội sang. Như vậy về diện thì mỗi Trung đoàn có chiều rộng khoản 10 km.
Toàn Sư đoàn rộng khoảng trên 30 km. Nói, tả như vậy thì cỏ vẻ rất kín. Nhưng
thực tế thi vẫn còn có những khoảng trống giữa các đơn vị vối nhau. Ban ngày
thì trong tầm mắt cảnh giới thì ko có vấn đề gì. Còn ban đêm thì địa bàn như
rộng ra, vì tầm quan sát bị đêm đen hạn chế. Nên Pót cũng vẫn có thể luồn lánh
vào được.
Sau khi nắm rõ tình hình địa bàn. Anh Đạc Ctr bố trí các
vị trí chốt cho Đại đội cũng vẫn thế chân kiềng, hay cánh cung đã lắp tên như
của Tiểu đoàn. Các Trung đội sẵn sàng chi viện được cho nhau, lúc cần thiết.
Còn đêm, nếu Pốt tập kích vào Trung đội nào, thì Trung đội đó tự giải quyết.
Cối 60 sẽ chi viện cho các hướng chốt. Trừ trường hợp Pót tấn công lớn, sẽ có
sự chi viện bằng pháo cối của Tiểu đoàn, Trung đoàn. Việc xuất kích đêm là rất
hãn hữu.
Ban chỉ huy Đại đội 1 ở dưới một gầm nhà sàn. Chung quanh
có ruộng, vườn và những khóm tre gai dọc các bờ. Rất tiện cho việc phòng thủ.
Nhưng lại cũng là những M tiêu, mà ta hay Pốt với con mắt quân sự, nếu tấn công
hay tập kích. Thì đầu tiên cũng phải táng vào đấy một vài quả đạn.
Chúng tôi nhanh chóng đào hầm hố, công sự chiến đấu dưới
gầm sàn. Và ngoài các bụi tre. Mỗi Trung đội điều lên 2 đ/c làm hầm cho BCH đại
đội. Hầm của liên lạc, hầm thông tin. Đến 8h
tối mọi việc tạm ổn. Xác định chốt giữ lâu dài, nên hầm hố sẽ phải chắc
chắn. Nhưng bây giờ đã tối và quá mệt. Sau một ngày một đêm vất vả. Anh nuôi
cũng đã mang được cơm đến. Bữa cơm đầu
tiên ở vị trí mới thật ngon.
Đêm thứ nhất ở khu vực chốt trôi qua thật yên bình.
Trời đã ngớt mưa. Ùng - ầm - ùng - ầm – ùng - ầm. Tằng -
tằng - tằng -tằng, chíu-chíu-chíu. Pốt
tập kích vào Đại đội. Không phải chỉ vào đại đội 1, mà hướng c2, c3 cũng
rộ lên tiếng súng của Pốt. Chúng tôi choàng bật dậy. Đạn thẳng chíu chíu trên
đầu. Găm vào nhà, nhưng tầm cao. Thỉnh thoảng có quả B40-B41, nổ rầm gần vị trí
ban chỉ huy. Tiếng hô trô trô của bọn Pốt. Tằng - tằng - tằng... rồi ầm- ầm
súng của anh em đã bắn trả. Mới đầu còn thưa. Nhưng sau cũng đã rồn rập. Anh em
phân tích tình hình. Chỉ thấy có 2 hướng của 2 Trung đội bị địch tập kích. Hai
bên vẫn bắn qua lại. Tiếng các loại hỏa lực của anh em mình nghe rất chắc. Như
vậy bọn này tập kích từ xa. Chúng lợi dụng mưa bò vào. Nhưng ngày đầu chắc
chúng chưa rõ các vị trí chốt của ta. Nên không dám mò vào thật gần. Mà từ
ngoài xa bắn vào.
Tôi bàn với các anh là: cho bắn mấy quả cối. Để cho anh em thử súng ở vị trí
mới. Cũng cho bọn Pốt biết mình cũng đủ loại hỏa lực. Tôi nói: để tôi cùng Hiệp
LL xuống tiểu đội 10. Tuy rằng vị trí của Tiểu đội cối không xa BCH. Nhưng
xuống Tiểu đội bây giờ cũng đúng là rất nguy hiểm. Vì đêm tối, ngay anh em cũng
có thể bắn nhầm. Nhưng cũng vì con nhà “cối” nòi, nên tôi và liên lạc Hiệp vẫn
xuống Tiểu đội cối. Tôi cầm súng và đèn Pin, đã được bọc vải xanh để giảm ánh
sáng. Xuống cách chỗ cối 15m. Tôi dơ đèn pin quay, quay ba vòng. (mật hiệu quy
định từ trước). Nghe tiếng đ/c Ka Tiểu đội phó hỏi ai ? Tôi đáp Phú đây rồi
quay đèn Pin về phía mặt mình, cho anh em biết rồi tiến tiếp về phía khẩu đội.
Tiếng súng của bọn Pốt cũng đã thưa. Đoán là bọn này thử
phản ứng của ta. Nhưng cũng có thể chúng rút ra xa tạm nghỉ. Tôi cùng đ/c Minh
A.trưởng thống nhất bắn ở cự ly 200- 300m về hướng tiền tiêu của Trung đội 1.
Tong- tong 2 tiếng nổ đầu nòng đạn bay vút vào trời đêm tôi đếm 1-2-1, 1-2-2 -
1-2-3 - đến 1-2-9 thì ầm - ầm đạn cối nổ lửa chớp lòe. Có vẻ đúng mục tiêu cần
bắn. Tôi nói mỗi khẩu làm 2 quả nữa. Tong – tong – tong - tong. Cũng khoảng 9
giây sau thì ầm - ầm - ầm - ầm. Như vậy là cối bắn tốt. Tiếng súng của Pốt đã
im hẳn, súng bộ binh của ta cũng ngừng. Trận tập kích thứ nhất của Pốt, vào đại
đội đã chấm dứt. Không gian trở lại tĩnh lặng như ko có gì vừa xẩy ra.
Tôi ở lại với anh em một lúc. Dặn kỹ
lại nếu Pót tập kích nữa thì ae chủ động bắn chế áp. Nhưng phải cầm chừng vì
đạn ko có nhiều. Ở lại với anh em 1 lúc nữa tôi trở lạị BCH Đại đội.
Theo trinh sát báo cáo : trước mặt
Tiểu đoàn 1, hiện có 2 Tiểu đoàn 121 và 122 của Pốt . Hàng ngày chúng tổ chức
tập kích, lấn dũi các vị trí chốt giữ của ta. Chúng tập trung tập kích cao độ ở
chốt của Đại đội 3. Tần số tập kích ngày càng dầy hơn , mạnh hơn . Các chốt của
C1 + C2 chúng có tập kích. Nhưng có vẻ chỉ là ghìm chân ta thôi. Hiểu rõ ý đồ
của Pot. Trung đoàn trưởng Trần Măng, Chính ủy Trung đoàn Diệp Xuân Ánh thống
nhất phương án của tác chiến là:
- Tiểu đoàn 1: Để Đại đội 3, vẫn chốt
giữ tại vị trí . Đại đội 1 + 2 luồn sâu khoảng 3 km đón lõng tại phía trái khu
vực XvayChek.
- Tiểu đoàn 3: Đại đội 10 + 11 cũng bí
mật luồn sâu khoảng 3km về hướng cánh phải XvayChek.
2 lực lượng này, tạo thành gọng kìm.
Đón lõng đường rút và đánh từ phía sau của Pốt ngược trở lại.
- Tiểu đoàn 2, gồm 2 Đại đội cùng Đại
đội 9 của Tiểu đoàn 3 cùng 6 xe bọc thép của lữ 22. Tấn công vỗ mặt 2 tiểu đoàn
Pốt. Các đại đội 12,7ly, DKZ 75 cũng được điều động tăng cường cho lực lượng
tấn công. Trận này chỉ dùng cối 82 ly
chi viện. Không dùng pháo binh của Sư đoàn.
Sáng ngày 19/6. Đ/c Đạc và Công, về
Tiểu đoàn rồi lên Trung đoàn nhận nhiệm vụ chiến đấu. Ý nghĩa của trận đánh này
rất lớn. Vì qua mấy ngày, chúng chủ động tập kích này mà không thấy ta xuất
kích. Bọn Pốt đã chủ quan, chưa cho rằng chúng ta ko giám tổ chức tấn công
chúng. Nên ta quyết tâm đập cho bọn này 1 đòn thật đau.
Đến 10h, anh Đạc và anh Công đã về tới
Đại đội. Cử LL mời ngay các BT, A.Trưởng hỏa lực về họp. Phổ biến nhiệm vụ luồn sâu đêm nay, để
tấn công địch vào sáng ngày mai 20/6. Sau khi nhận nhiệm vụ. Các Trung đội trở
về làm công tác chuẩn bị. BCH Đại đội phân công mỗi người một việc. Tôi và đồng
chí Công , chia nhau xuống từng Trung đội họp, nắm tư tưởng, làm công tác động viên
anh em chiến đấu. Hội ý với Đoàn thanh niên để ý theo dõi, tạo nguồn phát triển
Đảng viên cho Cho Chi bộ.
Phát động ý chí chiến đấu, tinh thần
dũng cảm của người Đảng viên, Đoàn viên. Trực tiếp phổ biến tình hình
địch, nhiệm vụ chiến đấu của từng Trung
đội. Đ/C Trọng, lo tổ chức hậu cần. Chuẩn bị cơm nắm, kiểm tra lại vũ khí,
trang thiết bị. Súng đạn cho đủ theo yêu cầu trận này là 2 cơ số.
Mọi người tích cực đôn đốc, kiểm tra,
việc chuẩn bị chiến đấu đến 4h chiều. Mọi việc tương đối hoàn tất. Tôi nói mọi
người, nên nghỉ ngơi một lúc để lấy sức cho trận chiến đêm nay, ngày mai. Tôi và anh Công nằm xuống sàn ván,
nhìn lên nóc sàn. Mỗi người một suy nghĩ. Muốn ngủ, nghỉ một lúc, mà sao không
ngủ được. Trời vẫn mưa. Những giọt cuối, của trận mưa rào lúc trưa. Bỗng anh
Công bật dậy nói: thôi ngủ làm gì. Còn Trà không Hiệp ? Làm ấm trà và ván cờ
cho hết thời gian ông Phú. Trinh sát xuống bây giờ.
Tôi thoáng nghĩ, cái ông này không
nghỉ, hoặc không lo việc gì khác. Đầu óc đâu mà chơi cờ bây giờ. Nhìn đôi mắt
to sáng của anh Công, giọng nói ấm áp truyền cảm. Rất có sức lôi cuốn, tôi cũng
bật dậy nói: ừ, chơi thì chơi. Nhưng chơi cờ với anh chán bỏ xừ. Tôi chấp cả 3
ông một phe, nhưng chỉ chơi đúng 2 ván thôi nhé.
BCH Đại đội 1, là một ê kíp thật gắn bó, thật
hoàn hảo. Mọi người rất có trách nhiệm với công việc. Rất tôn trọng nhau. Tôi
cũng đã từng thấy nhiều Đại đội, cấp trưởng, cấp phó hoặc cán bộ Quân sự -
Chính trị. Cứ thường hay mâu thuẫn nhau. Còn chúng tôi thì cũng mới cùng tác
chiến, nhưng như là đã gắn bó lâu lắm rồi. Như một gia đình, anh em thật ấm
cúng. Tôi với anh Đạt bằng tuổi nhau. Kém anh
Trọng và anh Công một tuổi. Nhưng không hiểu sao, có việc gì. Mọi người
vẫn cứ hay hỏi tôi, hoặc tham khảo ý kiến tôi trước. Trong các công việc của
đơn vị, hay cả những chuyện riêng tư, yêu đương, thư từ cách xử sự v.v.... Hay có những lúc đàm đạo tìm hiểu về khác
giới. Tôi cũng hay góp chuyện, có trích dẫn sách vở đàng hoàng. Làm như là tôi
giỏi về các khoản này lắm.
Cũng có thể hồi ở Sài Gòn, tôi hay đọc
các sách bói toán, tướng số, chỉ tay, dáng đi, nốt ruồi. Của chiêm tinh gia
Huỳnh Liên. Nhiều lúc rảnh rỗi, hay đùa, bói cho anh em. Không biết đúng sai
thế nào, mà mọi người rất nể.
Chưa xong ván cờ thứ 2, thì đ/c LL đi
lấy cơm về. Tôi nói thôi mình hòa. Mọi người đi ăn cơm tối, rồi chuẩn bị các tư
trang cần thiết. Việc đi luồn sâu, đánh địch cũng đã quen thuộc. không còn cái
phân vân, lo âu như những lần đầu. Đương nhiên ai cũng biết, mỗi trận luồn sâu,
mỗi trận đánh, thì đều có những diễn biến khác nhau. Trong cùng một trận đánh,
có đơn vị thì vô cùng vất vả, ác liệt. Nhưng có mũi, có hướng thì nhàn nhã. Vừa
nổ súng là địch đã chạy rồi.
Anh em trong BCH và các Trung đội
trưởng Tiểu đội 11 hỏa lực đại liên, anh nuôi, quản lý còn là lớp lính 72 - 74.
Nên bản lĩnh, kinh nghiệm trận mạc dày dạn. Các chiến sỹ lớp 75 - 76 cũng đã
vững vàng. Lớp 77 cũng đã được tham chiến nhiều. Anh em 78 thì mới được bổ
sung, đa phần là anh em TP Hải Phòng - TP Hà Nội. Lính mới có phần ngang bướng,
nhưng qua thử thách của trận luồn sâu thì cũng rất có bản lĩnh trách nhiệm.
Giờ xuất phát luồn sâu được lùi lại.
Vì theo quy luật cứ khoảng sau 8h tối, là bọn Pot đã tập kích các chốt của ta.
Trung đoàn yêu cầu các đ/v ở tại vị trí. Nếu khoảng 8 h mà Pót tập kích thì các
đại đội vẫn cứ nổ súng đánh trả như bình thường. Đến 9h tối Đại độ 1 + 2 bí mật
bỏ chốt, luồn sâu theo kế hoạch. Gần 7h cả 2 đ/c cấp phó Tiểu đoàn. Đ/C Nguyễn
Đăng Ngân và Trịnh Doãn Ngọ, trinh sát Tiểu đoàn tập kết về Đại đội 1. Mọi
người vào hầm của BCH Đại đội, uống trà bàn bạc công việc. Hồi hộp đợi giờ tập
kích của Pot.
Rất đúng giờ. Pót lại ùng oàng tắc bọp
vào các chốt của Tiểu đoàn. Hướng Đại đội 3 súng nổ vẫn gắt hơn. Theo bài bản
các Trung đội vẫn nổ súng đánh trả Pot. Cối 60 cũng làm mấy quả. Khoảng 15 phút
thì toàn tuyến lại chìm trong im lặng. Anh em chuẩn bị hành quân. Khoảng 9h15’
đ/c tham mưu, cùng trinh sát Tiểu đoàn dẫn đại đội 2 đến khu vực chốt của Đại
đội 1. Lệnh xuất quân.
Theo kế hoạch, từ vị trí chốt của Đại
đội 1. Đến mục tiêu khoảng 3km. Nhưng trinh sát dẫn đi vòng cũng khoảng 10km.
Cái điệp khúc luồn sâu, lần mò trong đêm lại được tái diễn. Đầu mùa mưa, nên
cũng có ruộng có nước, có ruộng cao còn khô. Anh em trận này luồn sâu diễn ra
rất thuận lợi. Hướng chốt của Tiểu đoàn bọn Pot vẫn vào tập kích. Đại đội 3 bắn
trả thật mạnh, hơn mức bình thường. Cũng có thể bây giờ chúng tôi đã ở vị trí
đối diện súng bắn của mình, nên nghe tiếng nổ mạnh hơn, uy lực hơn chăng. Anh
Công ghé tai tôi nói nhỏ: Bố thằng Pot chắc nó ko thể biết được là mình đã bỏ
chốt. Nên cứ bắn loạn lên như vậy. Khoảng hơn 12h, toàn đội hình đã vào vị trí
tập kết. Mà không gặp một chốt nào của Pốt. Anh Đạc thông báo về Tiểu đoàn là
Đại đội đã vào vị trí. Rồi triển khai vị trí cụ thể cho từng Trung đội. Trước
mặt chúng tôi là một Phum rộng theo B/C thì đây là khu vực chỉ huy 2 Tiểu đoàn
của Pốt. Có một con đường đất chạy giữa làng. Đại đội 2 sẽ tấn công theo hướng
đó. Còn Đại đội 1 vòng xa khoảng hơn 1km đánh tạt sườn vào. Theo hợp đồng hướng
Đông là Tiểu đoàn 3 thiếu đánh ngược lại. Tiểu đoàn 2 cùng Đại đội 9 và thiết
giáp sẽ tấn công vỗ mặt lên.
Mùa mưa, chỗ nào cũng ẩm ướt. Anh em
BCH Đại đội lợi dụng một bờ đất. Cách vị trí các Trung đội khoảng 30- 40m. Trời
đêm thật mát, thoáng cảm giác lạnh,
những vì sao mờ mờ nhấp nháy, như đang theo dõi, đùa vui với những chiến
sỹ đang củng cố hố chiến đấu.
Một vài tiếng gà gáy sang canh vọng
ra. Rồi im bặt, bới những tiếng súng tập kích của Pot. Vào các vị trí chốt Tiểu
đoàn. Mọi người tranh thủ ăn cơm, chờ đợi giờ nổ súng. Gần 5h sáng tiếng gà gáy
dồn dập thật nhiều. Trời đất như vỡ ra, rạng sáng. Anh Trọng cùng 1 đ/c LL lên
vị trí tập kết của Trung đội 1, nhắc ae chuẩn bị tới giờ tấn công. Và cùng với
ae tấn công. Tôi xuống cùng Trung đội 2.
Trước giờ nổ súng không gian im ắng lạ
thường. Bọn Pot đi tập kích về, chắc cũng lăn ra ngủ. Chúng ko thể biết rằng,
bão tố, lửa khỏi và lòng căm hận, đang chuẩn bị ập xuống đầu.
Trung đội trưởng Trần Vinh là lớp lính
10/74. Quê ở Hà Tĩnh. Dáng người thấp, to đậm. Vinh có đôi lông mày lưỡi mác,
đen xì dữ tợn. Trong chiến đấu, luôn tỏ ra là người có bản lĩnh xông xáo. Dũng
cảm, rất được lòng anh em trong Trung đội. Và uy tín với cán bộ cấp trên. Thấy
tôi xuống, Vinh gần như bất ngờ và vui. Ghé tai tôi thì thào nói: “Chuẩn bị
xung phong rồi, sao anh không ở chỗ BCH Đại đội mà xuống đây làm gì ?” Tôi nói:
anh Trọng đi cùng B1, tôi xuống đây xung phong cùng các ông. Trên BCH có anh
Đạc, anh Công rồi. Vinh lại nói tiếp: “từ xưa đên giờ, cấp phó chính trị Đại
đội, thường ở phía sau. Chứ có ai xuống, cùng chiến đấu với cấp Trung đội như
anh đâu ?” Tôi nói: “Mới đi chiến với anh em trận này là 2. Có đi thì mới hiểu
thêm kinh nghiệm chỉ huy. Vả lại tôi cũng là lính AK, súng dài từ trước mà”.
Tôi nói tiếp: “Sắp đến giờ rồi đấy, ông đi xốc lại anh em đi”.
(Cho đến bây giờ tôi vẫn ray dứt, lẫn
ân hận. Trong quãng thời gian làm cvpho của mình là: Việc Vinh và 1 đ/c nữa hy
sinh trong lúc đi tăng cường cho chốt C3. TP sẽ kể chuyện này sau) .
Tôi và Vinh cùng đến các vị trí Tiểu
đội. Thấy tôi đi cùng với Trung đội trưởng, anh em rất hồ hởi. Vừa đến vị trí
Tiểu đội 6. Thì từ hướng chốt của Tiểu đoàn, lóe lên tiếng chớp đầu nòng. Tôi lại đếm 1- 2- 1, 1- 2- 2 đến 1- 2- 9 đến 1- 1-1 thì nghe
tiếng nổ đầu nòng. Kèm theo là tiếng chớp nổ trong khu vực giữa Phum. Tôi nói
với anh em: Từ đây về chỗ cối Tiểu đoàn hơn 4km. Vinh nói sao anh biết ?
Tôi nói mình con nhà “cối” mà lúc nào
mình giải thích.
Chớp đầu nòng nhằng nhằng, rồi tiếng
nổ đầu nòng của cối 120 nghe rền như tiếng sấm. Các loại cối nổ dồn dập trong
Phum. Tiếng DKZ ở trận địa của Trung đoàn cũng ầm vang. Nhìn những quả đạn vạch
lửa theo hình vòng cung, trong trời mờ sáng trông thật đẹp mắt. Những con chim
cút hay rẽ giun, nghe tiếng nổ, sợ hãi bay vọt lên trời kêu thất thanh chóe
chóe.
Các loại cối DKZ thi nhau cấp tập. Cối
60 của Đại đội cũng Tong– Tong- vào Phum. Tôi nói với Vinh: cối bắn chế áp
khoảng 15 phút thôi. Khi nghe tiếng súng tấn công của Tiểu đoàn 2 thì mình cũng
xung phong. Vây các hướng thế này, bọn Pot chạy đằng trời cũng không thoát.
Vừa lúc đó, tiếng súng 12,7ly ở hướng
tấn công chính đã rộ lên. Thùng– Thùng– Thùng- Thùng. Nhiều viên đỏ lừ bay vọt
qua Phum lên trời. Tiếng DKZ, tiếng B40 - B41 cũng ùng - ùng oàng - oàng dồn
dập. Tiếng AK nghe từ xa tạch- tạch- tạch. Vẫn chưa có tiếng bắn trả của bọn
Pốt. Hướng C2 cũng đã rộ lên tiếng súng tấn công. Không gian như vỡ òa. Khói
lửa, súng trận đã ầm vang các hướng. Tiếng anh Đạc, Anh Công hô xung phong-
xung phong thật dũng mãnh. Tôi cũng nói xung phong ... rồi cùng ae lao lên phía
trước.
Hai khẩu đại liên của tiểu đội 11 vẫn
Thình- thình- thình, Thình- thình - thình. Những điểm xa dài vào Phum. Sau đó
chếch nòng lên cao bắn thị uy. Lấy khí thế xung phong cho bb. Ùng oàng- ùng
oàng. B40- B41 đã bắt đầu phóng tối tấp. Khói thuốc súng đã trùm lên đội hình
tấn công. Tôi vận động song song cùng Vinh và cũng pằng- pằng làm mấy loạt AK.
Liếc sang hai bên, thấy các mũi xuất kích rất đều. Anh em chạy gằn qua ruộng,
nước bắn tung tóe. Bên trái lùi lại phía sau là anh Công, anh Đạt cũng đang
hành tiến. Thỉnh thoảng anh Đạc lại dừng lại "cóc " quả M79 vào Phum.
Máy bộ đàm đã được mở liên lạc từ lúc nổ súng. Hai đ/c thông tin, đeo máy bộ
đàm, có cần ăng ten cao vút như cái cần câu. Ngả nghiêng đung đưa theo nhịp
chạy. Anh em đang cố vận động theo BCH. Vừa chạy, vừa cầm tổ hợp dí sát mồm,
vừa đọc những chữ số đúc, bắt liên lạc với trung tâm. Hướng d3 súng bb cũng đã
nổ dồn dập. Hướng Đại đội 2 súng nổ rất dữ dội. Đã nghe tiếng súng bắn trả của
bọn Pốt. Một vài tiếng xoẹt- xoẹt, viu- viu sắc ngọt vượt qua đầu tôi và Vinh.
Nghe tiếng đạn nhọn xoẹt qua, thoáng rùng mình lạnh gáy.
Tôi nói: như vậy rìa làng cũng có chốt
của Pốt. Ông nói anh em Phụt mấy quả B41 vào mấy cái bụi cây và cái nhà sàn
kia. Vinh chậm lại, nói đ/c B41 đi tăng cường. Rất nhanh, đ/c xạ thủ Tiểu đội
11 quỳ xuống bắn ngay. Ùng, Qủa B41 như quả tên lửa xe gió lao đi lửa phụt ra
đằng sau, lao vào mục tiêu nổ ầm. Lửa khói trùm lên. Rồi lại thao tác rất
nhanh, bắn vào tiếp 2 mục tiêu khác. Đã tới rìa Phum. Anh em không vận động
được nữa, mà bắt đầu tiền nhập chậm hơn. Loáng thoáng, thấy bóng bọn áo đen
chạy rất nhanh. Thằng có súng, thằng ko có súng. Anh em nhằm bắn và tiếp tục
hành tiến.
Hướng Đại đội 2, đánh theo trục đường
đất, phát triển có vẻ rất thuận lợi. Tôi nói Vinh anh em tiếp tục tiến. Tôi đợi
và nhập vào chỗ BCH Đại đội. Phía sau anh em tiểu đội 11, đang khênh 2 khẩu đại
liên theo đơn vị. Hai khẩu đội cối còn ngoài cánh đồng cũng đang vận động theo.
Tôi nói anh Đạc bắt liên lạc với C2,
chứ bên đó đang vận động tới rồi, không cẩn thận lại “táng” vào nhau. Anh Đạc
bảo thông tin báo về Tiểu đoàn là C1 đang tiến vào Phum rồi. Nói là Phum nhưng
địa bàn ở khu vực này rất rộng. Gần như là một thị Trấn, thị Tứ. Chắc đây là
cấp Xã hay cấp Huyện của Pốt, nên nhà sàn có vẻ rất khang trang, đẹp đẽ còn in
lại dấu tích của một thời huy hoàng, hưng vượng đã qua.
Tiếp tục tiến lên vài trăm m nữa, tới
trục đường, thì gặp Đại đội 2 vượt qua. xác mấy thằng Pốt nằm vắt trên đường.
Mọi tiếp tục truy kích về hướng trái. Anh em phát hiện có vết máu từ đường
hướng vào bụi cây. Đoán ngay là có thằng bị thương lết vào đó. Tôi nói anh em
chú ý tìm kiếm, rất nhanh đã phát hiện một thằng Pốt nấp trong bụi cây. Một đ/c
Đại đội 2 hô “Lớt day lơn”. Một cánh tay rồi 2 cánh tay giơ lên. Anh em lao vào
xem xét. Thằng này bị đạn bắn xuyên qua gần khu vực cổ chân, nên không thể chạy
được. Hai đ/c Đại đội 2 lôi tên Pốt từ trong bụi ra. Lấy thắt lưng của nó, trói
quặt tay ra phía sau. Tên Pốt to con, mặt tái mét trắng bệch, chưa hoàn hồn.
Tôi nói: “căm phơ lương” chỉ vào súng ý hỏi là súng đâu. Hắn lắc lăc đầu. Tìm
quanh cũng không thấy. Vừa lúc đó một đ/c chiến sỹ c2 trông còn rất trẻ, bị
thương vào cánh tay, đã được băng nhưng vẫn đeo khẩu RPD băng tròn đến chạy tới
.
Tôi nói: mấy anh em ở đây trông coi thằng Pot.
Tôi hỏi Nhẫn (sau này mới biết tên đ/c bị
thương này là Trần Trung Nhẫn lính 7/77 quê Thái Bình). Vết thương có nặng
không. Nhẫn nói em bị nhẹ thôi. Tôi nói: Anh em cứ ở đây phải cảnh giới nhé.
Nhẫn nói em còn bắn được mà. Sau đó tôi cùng các anh em khác, tiếp tục truy
kích về hướng Đông. Tiếng súng ở đó vẫ đang rộ đều.
Sau này khai thác, mới biết thằng tù
binh này là Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 121. Việc thành tích bắt được tù binh và
việc chiến sỹ Nhẫn, cùng nhóm anh em quản lý dẫn tên tù binh về. Đã trở thành
một đề tài sôi nổi và nhiều tranh cãi. Khi đ/c chiến sỹ Trần Trung Nhẫn này
được “lăng xê” thành tích. Tôi sẽ kể tiếp sau.
Để lại nhóm anh em và tên Pốt tại đó.
Tôi cùng mọi người tiếp tục hành tiến truy kích theo đội hình. Hướng Tiểu đoàn
2 đã ngớt tiếng súng. Hướng Tiểu đoàn 3, tiếng súng vẫn nổ dồn dập. Vẫn có
những loạt đạn thẳng, của bọn Pốt về hướng tấn công của chúng tôi. Bọn Pốt vừa
chạy vừa quay súng lại bắt hú họa.
Nhưng cũng đã có một vài anh em trúng
đạn. Các đ/c y tá đang khom người băng bó vết thương cho ae. Đại đội 2, Đại đội
1, đã lẫn vào nhau. Cùng tấn công về phía Đông. Hướng bọn Pốt rút chạy. Gặp
Tiểu đoàn 3, nên chiến sự hướng đó vẫn
còn tiếp tục diễn ra. Giữa một bên đón lõng bủa lưới vây. Một bên cùng đường
tháo chạy, đang bị ép phía sau. Hướng phải thì có cả TTG rồi. Nên bọn Pốt ko
chạy về hướng đó. Chúng vừa chống trả Tiểu đoàn 3, vừa tháo chạy sang hướng
trái Đông Bắc. Chúng vừa chạy vừa điên cuồng chống trả, bằng những loạt đạn AK
bắn thẳng. Để cản bước tiến của đối phương.
Đúng là chúng ta đã vây cả 4 mặt.
Nhưng khi Đại đội 1 đã tấn công vào Phum. Đã giáp quân với Đại đội 2, thì như
vậy, tạo kẽ hở là giữa Đại đội 1 và Tiểu
đoàn 3 ở hướng Đông Bắc. Vì Tiểu đoàn 3 cũng đã tấn công vào Phum.
Thật sự thì cũng không thể nào vây bọc
thật kín được. Vì địa hình rất rộng. Phát hiện Pốt vọt ra cánh đồng, anh em
truy đuổi ra tới ngoài rìa Phum khoảng 200- 300m. Bọn Pốt chạy như vịt ở đồng
nước. Về khoảng chạy, miếng võ “ù té quyền” này thì lính Pot rất giỏi. Phải nói
là vô cùng giỏi. Giỏi hơn anh em túi lương khô, túi đạn dự phòng. Một cái thắt
lưng nặng hàng chục kg. Lại còn mũ cối sắt, đi giầy dép v v… Trang bị nặng nề
hơn Pót nhiều. Lại phải thức cả đêm luồn sâu. Sức đã cạn. Nên không thể đuổi
theo theo kịp chúng.
Anh em các đơn vị ngừng truy kích. Mà
chỉ giá súng 12,7 ly, đại liên, cối 60 ly bắn đuổi là phát huy hỏa lực hữu dụng
nhất. Nhìn những thằng Pốt đang chạy bỗng giơ tay lên trời đổ ập xuống, do
trúng đạn. Hay cả toán đạn chạy, đột nhiên đồng loạt nằm xuống. Rồi oàng- oàng
đạn cối nổ tung nước, nơi Pốt nằm. Một vài thằng đứng lên chạy tiếp. Trông thật
là vui, đúng là như trong phim. Nếu có phóng viên chiến trường quay được cảnh
này thì quý giá biết bao.
Tôi nói với anh Công, trận này mà
thằng nào còn sống, thì cũng phải sợ tới già. Các loại súng, cối bắn đuổi một
lúc nữa. Bóng những cái áo đen đã mất hút vào Phum xa. Lúc này mới chưa tới 8h
sáng. Một trận thắng lợi ngoài cả dự tính. Anh em các đ/v đi thu nhặt được mấy
chục khẩu súng các loại. Đếm được hơn trăm xác Pót. Bắt được 1 thằng tù binh là
Tiểu đoàn phó, Tiểu đoàn 121 của Pot.
Về phía ta thương vong rất ít. Các đ/v
chốt lại khu vực vừa tác chiến. Đến quá trưa thì rút về vành đai chốt giữ của
mình.
Như vậy là: Sau khi lật cánh từ đường
1 về hướng đường 13. Hoán đổi vị trí cho Sư đoàn 9. Những ngày sau, ae được
thông báo là: Sư đoàn 9 lại đang gặp rất nhiều khó khăn ở khu vực trên Rừng Sở,
tới cầu Prasot. Có trận anh em “rút” khỏi trận địa không có tổ chức. Bỏ lại cả
2 xe tăng của lữ 22, vì ruộng lầy, bb rút trước nên lính tăng cũng chỉ còn cách
“dời xe”. Xe oto zep của Sư trưởng Tạ quang Tỷ cũng phải vất lại v.v....
Trong khi đó Sư đoàn 341 , thì lại lập
được những trận thắng lớn mang tính lịch sử. Như mở rộng được địa bàn, có chiều
sâu trung bình 15km sang đất K. Trận ngày 15/6/78. tiêu diệt và thu được một xe
bọc thép M113. Trận này 20/6/78 thì thắng lớn diệt hơn trăm tên, thu mấy chục
súng các lọai, bắt sống được cả một Tiểu đoàn phó của Pốt. Anh em lại thương
vong rất ít.
Khoảng giữa năm 78. Thì thông tin về
cuộc chiến tranh BGTN đã được phổ biến, thông báo và tuyên truyền sâu rộng
trong cả nước. Chứ không bị che đậy thông tin như trước nữa. Cái điều “ấm ức”,
của những người lính, phải tham chiến từ đầu được giải tỏa. Cũng từ tình hình
như vậy. Nên Tổng cục chính trị, và các cơ quan báo chí truyền thông. Đã cử rất
nhiều phóng viên báo xuống các các đơn vị.
Sư đoàn 341, ngoài những phóng viên,
cộng tác viên báo của Sư đoàn, Quân đoàn. Cũng còn có các đồng chí phóng viên
và đội công tác của Tổng cục chính trị. Xuống đi theo dõi viết bài, ca ngợi
tinh thần chiến đấu và thành tích chiến đấu của các tập thể, cá nhân trong
nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ BGTN. Để làm gương điển hình trong việc động viên
thanh niên tham gia nghĩa vụ quân sự. Bảo vệ biên giới.
Sư đoàn 341, là đơn vị có chiều dầy
thành tích trong chiến đấu. Như có những trận đánh đạt hiệu quả cao. Bắt được
nhiều tù binh, thu được nhiều vũ khí, đánh thắng các trận lớn dọc vùng Biên
giới như Phú Cường, Khánh An, Khánh Bình, Hồng Ngự, Đồng Tháp, Hà Tiên- Kiên
Giang v.v...... Trong trận ngày 20/6 này, lại đạt hiệu quả và thành tích chiến
đấu rất cao.
Mục tiêu của các nhà báo, của đoàn
công tác. Muốn xây dựng một điển hình, về cá nhân trong thời kỳ bảo vệ Biên
giới Tây Nam. Giống như hồi đánh Pháp, có các điển hình các anh hùng như Bế Văn
Đàn, Phan Đình giót. Gương dũng cảm hy sinh tự tẩm săng vào người đốt kho săng
định là “em bé đuốc sống” Thời hoạt động bí mật thì có tấm gương anh Kim Đồng .
Thời kỳ đánh Mỹ thì có tấm gương chiến đấu, dũng cảm của Lê Mã Lương. Với câu
nói bất hủ là: cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù v.v........và vv …
Đại đội 2 Sông Lam, trong những năm
huấn luyện và bảo vệ khu vực vĩ tuyến 17. Cũng đã là 1 điển hình về ý thức kỷ
luật. Có nhiều thành tích trong huấn luyện, tác phong nề nếp chính quy hiện đại
vv… Được là tấm gương cho toàn quân học tập những năm 73-74. Trong chiến đấu
giải phóng miền Nam. Đặc biệt là chiến dịch Hồ Chí Minh. Đại đội 2 Sông Lam
cũng có nhiều thành tích đặc biệt xuất sắc. Được Đảng, Quốc Hội Nhà nước phong
tặng là AHLLVT. Trong chiến tranh BGTN Đại đội 2 cũng là đại đội có nhiều thành
tích chiến đấu. Có nhiều cá nhân rất
dũng cảm trong chiến đấu. Đang được đ/v đề nghị phong danh hiệu cao quý AHLLVT
như Nguyễn song Thao, Ngô khắc Quyền. (cả
2 đ/c này đều bị hy sinh trận ngày 18/7/78) . Đều được truy tặng danh hiệu
AHLLVT).
Thật ngẫu nhiên, Đ/c Trần Trung Nhẫn
lại cũng là chiến sỹ của Đại đội 2 Sông Lam. Lại là lính thế hệ 7/77. Rất hợp
với tiêu trí của 1 điển hình. Trong việc xây dựng 1 điển hình cho 1 lớp chiến
sỹ sau 75 (sau đánh Mỹ). Cái tên Trần Trung Nhẫn cũng có cái gì gần gũi và đặc
biệt. Trận vừa qua, đ/v thắng lớn. Nhẫn lại bị thương, cùng ae dẫn giải tù binh
về. Rất tự nhiên, Nhẫn đã được lọt vào mục tiêu tìm kiếm, xây dựng điển hình
của các nhà báo và đoàn công tác.
Về chuyện
chiến sỹ Trần Trung Nhẫn TP cũng đã viết tiếp bài. Kể về sự thật việc “lăng xê”
c/sỹ Nhẫn một cách quá mức. Làm cho CB chiến sỹ trong đơn vị có nhiều bức xúc.
Có lúc như dathao nói đúng là có tác dụng “ngược”. Nhưng lúc đó chỉ có cấp C-
D- E, biết thôi. Bức xúc nhất là cấp Đại đội. Nhưng qua nhiều lần, các cấp chỉ
huy lãnh đạo xuống. Đả thông tư tưởng nói về cái ý nghĩa to lớn, cái lợi to
lớn, thì chúng ta phải nén cái bức xúc xuống. Mà vui vẻ mỗi người góp cho Nhẫn
một ít thành tích. Vì mục tiêu chính trị là: Xây dựng 1 điển hình trong chiến
tranh BVBG. Nhằm động viên tinh thần chiến đấu, của cán bộ chiến sỹ trong và
ngoài quân đội.
Vì vậy anh em
ta hiểu vấn đề tế nhị này. TP thôi không post tiếp bài đã viết về sự việc Trần
Trung Nhẫn nữa.
Xin cảm ơn anh
em!
Sau trận thắng
ngày 20/6/78. Tình hình toàn tuyến chốt của Trung đoàn 273, được bình yên mấy
ngày. Toàn hướng chốt của Trung đoàn im tiếng súng. Tối đêm cũng không có tiếng
ùng oàng. Cắc bụp, tiến súng tập kích của Pốt. Anh em được dịp “xả hơi”. Ngày
thì tích cực cải thiện, chủ yếu là săn bắt cá, mà các loại cá nhỏ ở đây thì
nhiều vô kể. Hết cá kho, cá nấu, cá rán, cá nướng, cá sấy. Thì cũng chẳng còn
biết làm gì hơn. Các khóm tre cũng đã được khai thác cạn kiệt những cây măng
phục vụ cho bữa ăn của lính.
Mưa. Chính
thức mùa mưa 78 đến. Có ngày mưa ào ào, mưa dầm dề, mưa suốt cả ngày, cả đêm.
Đúng là mưa nhiều, vô tình đã trở thành kể đồng lõa của Pốt. Gây cho các đơn vị
chốt giữ, bao nhiêu phiền toái khổ cực.
Trước hết là
hầm hào, công sự, ngập nước. Nên ngồi gác, không thể ngâm người mãi trong nước
được. Như vậy mình đã là mục tiêu lộ trên cao. Mà về đêm, nếu quan sát tốt nhất
là phải càng ở vị trí thấp, càng tốt. Ngoài tiếng động phát hiện bằng tai. Còn
nhìn được bóng người mờ mờ trong nền trời đêm.
Tiếp đến là
quần áo, anh em lúc nào cũng ẩm ướt. Vì thông thường, mỗi người cũng chỉ có 2
bộ. Mà trong điều kiện mưa triền miên, thì quần áo anh em, làm sao khô được.
Nên nhiều anh em, lại phải mặc độc cái quần đùi (quần xà lỏn). Mưa ẩm ướt, làm
quần áo nhanh bị mục rách. Thế là thêm cái khổ của người lính chốt là thiếu
quần áo mặc.
Tiếp đến do ẩm
ướt ngâm nước lâu những bệnh dịch nước ăn chân, ăn tay, lang ben, hắc lào, cả
ghẻ ngứa v.v.... bắt đầu đồng lõa với Pốt làm khổ lính mình.
Anh Nuôi, lo
chuyện hậu cần cũng thật vất vả. Vì củi đun không có. Phải tận dụng những tre,
gỗ, sàn nhà hỏng của dân làm củi đun. Rồi cái nguồn củi này cũng hiếm cũng cạn
kiệt dần theo thời gian. Việc tiếp phẩm từ VN sang, 15km hàng ngày của từng đơn
vị cũng gian nan không kém. Con đường đi từ Bến Sỏi, Búa Lớn sang. Giờ đây đã
nhão nhoét. Công binh phải vào rừng Hòa Hội, chặt hàng vạn cây gỗ to bằng bắp
chân, bắp đùi, mang ra lót ngang đường cho xe đi.
Nếu có việc
gì, mà về VN. Được đi nhờ những xe Hồng Hà kéo pháo, vận chuyển. Thì là một lần
đi là 1 lần nhớ đời. Vì mọi người đều phải đứng trong thùng xe, bám chặt vào
thành xe. Nhún lên, nhún xuống xe theo từng nhịp xóc ổ voi, ổ gà, vượt qua
những cây gỗ tròn trơn truội. Duy nhất là chỉ còn đ/c lái xe là phải ngồi ghế
lái. Người cứ nhẩy lên nhẩy xuống, nghiêng bên nọ, ngả bên kia. Đầu đập liên
tục vào nóc ca bin. Trông thật tội nghiệp.
Lúc này, hậu
cần đã có thêm sáng kiến. Là
mang bánh mỳ sang chốt. Như vậy lúc đó đơn vị TP vẫn ngày 3 bữa cơm. Nhưng 2
bữa cơm, một bữa bánh mỳ. Sáng kiến này , cũng giải quyết được phần nào vất vả.
Trong việc đun nấu của anh Nuôi. Chăm sóc bữa ăn cho bộ đội trên chốt.
Yên bình
được mấy ngày. Bắt đầu từ ngày 25/6, bọn Pốt lại tập trung tập kích vào dọc
tuyến chốt của Trung đoàn và Tiểu đoàn 1. Lần này chúng tập kích với mật độ dầy
hơn, điên cuồng hơn. Cứ khoảng 8h tối, là đã bắt đầu đợt tập kích chúng. Chủ
yếu là dùng các loại B40- B41 và DKZ bắn tập trung vào các điểm chốt của các
đơn vị. Có đêm chúng tập kích tới hơn chục lần. Làm cho các đơn vị chốt sinh
hoạt rất căng thẳng.
Đại đội
3, vẫn là mục tiêu chính của Pốt. Vì đây là điểm đầu, trong thế phòng ngự của
Tiểu đoàn. Ngoài các trận tập kích đêm. Ban ngày chúng cũng dùng cả pháo cối,
12,7 ly bắn găm vào đội hình chốt. Những khó khăn về trời mưa, nước lụt ngập,
đúng là đã đồng lõa với Pốt. Hành hạ bộ đội mình. Anh em phải chống đỡ chúng
rất vất vả. Vì chúng cơ động ngoài ruộng rộng. Mục tiêu di chuyển. Còn chúng ta
là chốt cố định, lại bị thụ động. Pháo, cối, hỏa lực của mình cũng đã chi viện
tối đa. Mà bọn này như ngày càng say máu. Chúng điên cuồng thể hiện rõ ý đồ lẫn
dũi, nhổ chốt của Đại đội 3.
Đại đội 3
thương vong tăng dần. Quân số bắt đầu
thiếu hụt. Tiểu đoàn và Đại đội vẫn kiên cường giữ chốt. Các Đại đội 1-
2 được tăng cường chốt cho Đại đội 3 để giữ vững địa bàn.
Khoảng
đầu tháng 7/78. Tiểu đoàn yêu cầu Đại đội 1, điều 1 Trung đội thiếu sang tăng
cường khu vực chốt tiền tiêu của Đại đội 3. Lúc đó khoảng 5h chiều. Anh Công,
Anh Đạc căn cứ vào tình hình chốt của Đại đội. Điều động Trung đội 1, đ/c Trần
Vinh để lại một Tiểu đội chốt. Còn trực tiếp đ/c Vinh BT chỉ huy 2 Tiểu đội.
Được tăng cường thêm một B41. Sang vị trí chốt của Đại đội 3. Sau khi được nghe
phổ biến nhiệm vụ. Đ/c Trần Vinh nói: tôi mệt không thể đi sang chốt ở Đại đội
3 được. Anh Công, Anh Đạc thuyết phục mãi mà Trần Vinh cũng không nhận nhiệm
vụ, rồi bỏ vê vị trí Trung đội. Việc xử lý thật khó khăn. Ai cũng biết, sang đó
thay chốt là vô cùng vất vả và nguy hiểm. Nhưng không thể điều Trung đội khác
thay thế.
Trong lúc
anh Đạc, báo cáo lên Tiểu đoàn. Về tình hình khó khăn trong việc điều động .
Tôi xuống Trung đội 1. Chuyện trò và làm công tác tư tưởng với Vinh và anh em
Trung đội 1. Không phải chỉ có Vinh, mà
còn một đồng chí Tiểu đội trưởng nữa, cũng không chịu đi tăng cường cho Đại đội
3.
Thuyết
phục một lúc, tôi kết luận. Nếu Vinh và Thắng(?) không đi, thì hai anh em lui
hẳn về cứ phía sau. Đừng ở đây nữa. Làm khó cho Đại đội và ảnh hưởng tư tưởng
anh em khác.
Suy nghĩ
một lúc, rồi Vinh nói: thôi em nghe anh. Chứ người khác thuyết phục, thì em
cũng rất khoát không chấp hành. Nhưng anh phải tăng cường đạn và bánh mỳ cho
anh em đi chốt. Tôi nói: Đạn thì yên tâm là thoải mái cho anh em bắn. Còn bánh
mỳ thì anh sẽ điều trên Đại đội xuống. Vinh cho anh em làm công tác chuẩn bị
đi.
Tôi trở
về BCH Đại đội, trao đổi lại với BCH về tình hình Trung đội 1. Nói đ/c Vinh và
Thắng(?) đã chấp hành lệnh rồi. 2 đ/c
trinh sát Tiểu đoàn đang đợi ở BCH . Tôi nói liên lạc lấy toàn bộ số bánh mỳ (5
cái) của BCH xuống cho anh em.
Trời đã
nhập nhoạng tối. Tôi bắt tay từng
anh em. Nhất là Vinh bắt tay tôi thật chặt. Tôi nhìn sâu vào mắt Vinh, đôi mắt
to đen kiên nghị. Với đôi lông mày lưỡi mác, thật ấn tượng. Trong lòng tôi trào lên cảm giác xót xa thật khó
diễn tả. Chiều biên giới nơi chiến tuyến, mưa vẫn rả rích rơi. Ngày mưa trời
nhanh tối.
Tôi về đến hầm
chỉ huy Đại đội. Anh Đạc, Anh Công hỏi về tình hình anh em đi tăng cường chốt
C3. Tôi kể cho các anh em về anh em Trung đội 1, về Trần Vinh, về Thắng rồi
nói: anh em mình tốt thật, tuyệt vời thật. Nhưng không hiểu sao tôi cảm thấy áy
náy thế nào ấy !
Đ/c Hiệp liên
lạc, mang mấy phong lương khô dự phòng ra cho mọi người cùng ăn. Vừa ăn vừa nói chuyện thêm về các
công việc của Đại đội. Nhất là khu vực chốt giữ của Trung đội 1, còn có một
Tiểu đội. Tôi nói với anh Đạc: anh xem điều ở Trung đội nào, một Tiểu đội tăng
cường vào chốt Trung đội 1. Mình cứ cẩn thận thì hơn.
Truyện trò
trao đổi tiếp mấy câu , tôi thấy uể oải vào hầm nằm nghỉ . Trong lòng vẫn thấy
bồn chồn áy náy, thật khó tả. Đôi mắt Vinh to tròn, đôi lông mày lưỡi mát, rất
kiên nghị và câu nói : “Em nghe anh, chứ người khác thuyết phục, thì rất khoát
em không chấp hành” cứ hiển hiện trước mặt, cứ văng vẳng bên tai. Trong chiến
đấu, gian khổ, ác liệt hy sinh là lẽ thường tình. Hàng ngày, hàng giờ, trong
Tiểu đoàn, trong Trung đoàn. Đều có tin đ/c này hy sinh, đ/c kia hy sinh. Có
anh em quen biết, hay đồng hương, đồng khói, đồng niên, đồng lứa. Nhưng có
nhiều anh em, mình chưa từng gặp mặt. Hoặc vừa bổ xung về đơn vị, được một vài ngày. Thậm chí một vài giờ, chưa kịp làm
quen, chưa kịp nhớ tên nhau. Đã lại bị trúng đạn, hy sinh.
Hôm trước, nói
chuyện với đ/c Lập trên quân lực. (Sau trận Hà Tiên, đ/c Lập được điều về Tiểu
ban quân lực Trung Đoàn). Anh Lập nói nhỏ: từ khi đi Biên giới, trung bình một
ngày, Trung đoàn có 3 đ/c hy sinh. Số bị thương thường là gấp gần 3 lần. Trời !
đấy mới là trung bình của một Trung đoàn. Còn toàn Sư đoàn, toàn Quân đoàn,
toàn tuyến Biên giới thì không biết con số thật thế nào ?
Nỗi đau của
các đ/c chỉ huy, khi thấy chiến sỹ hy sinh, thương vong nhiều thì vô cùng
thương xót. Lúc nào cũng phải vắt óc ra, tìm cách giảm thiểu số thương vong
trong đơn vị. Luôn phải làm tốt chính sách thương binh, liệt sỹ, với các đồng
chí đã anh dũng hy sinh, vì dân, vì nước, vì Tổ quốc Mẹ hiền kính yêu. Nhưng các
chỉ huy, ngay cả các chiến sỹ cũng đã quen, đã chai sạn, khi chứng kiến sự hy
sinh quá lớn. Có những khi ngẩn người một lúc, khi nghe tin “thằng bạn”, thằng
“đồng hương” vừa hy sinh. Bần thần một lúc, rồi lại bừng tỉnh khi nhận nhiệm
vụ. Công việc thực tại của trận địa đơn vị, của chiến trường. Như nhắc nhở, như
động viên mình không được ủy mỵ. Không được yếu đuối. Lại tiếp tục chắc tay súng, cộng thêm cái nghĩ: “Người có số”. Để rồi lại cười
đùa, lại lạc quan với cuộc sống để hoàn thành nhiệm vụ. Những suy nghĩ so đo,
tính toán, hèn nhát chợt đến, nó cũng lại nhanh chóng ra đi. Đầu hàng trước sự
lựa chọn của người lính. Sự lựa chọn vinh dự, trách nhiệm Tổ quốc được đặt lên
hàng đầu.
Miên man
với các suy nghĩ, tôi giật mình vì tiếng nói quen thuộc của đ/c Mai liên lạc:
“CT Viên ơi ! Còn rượu đây”. Trong những ngày chốt, anh em trong BCH thường hay
bí mật, gửi tiếp phẩm mua cho rượu. Không phải lúc nào cũng uống, mà thi thoảng
mới dùng. Riêng tôi thì bị cái thói quen, cứ tối đi ngủ là “làm một hớp”. Hình
như rượu, nó làm cho người ta tỉnh táo hơn, mạnh mẽ hơn, hay giúp người ta quên
đi những lăn tăn, so đo tính toán. Với tôi khi làm hớp rượu tối, thì đi ngủ vào
giấc dễ hơn. Tôi cầm bình tông rượu từ tay Mai, làm một hớp thật to. Rồi lại
một hớp nữa. Đ/c liên lạc nói: sao hôm nay CT Viên uống nhiều thế ? Rồi cầm lấy
bình tông rượu cất đi.
Cùng lúc
đó thì súng nổ. Bốn phương, tám hướng súng của Pốt nổ rầm rầm, dồn dập ùng
oang, pằng pằng, cắc bụp, vào khu vực chốt của Đại đội và cả tuyến Tiểu đoàn.
Tôi thổi tắt phụt ngọn đèn dầu. Vơ nhanh khẩu súng ra vị trí chiến đấu.
Hướng C3 súng vẫn nổ nhiều nhất. Đã có
tiếng súng bắn trả của quân mình. Cối 82, cối 60 phía sau cũng đã hỗ chiến rất
nhanh. Ở vị trí Đại đội 1, nhưng đầu óc tôi vẫn nghĩ về Đại đội 3, Trung đội 1
của Trần Vinh đang được tăng cường ở đó.
Trung đội
trưởng Trần Vinh, Tiểu đội trưởng Thắng,
cùng 1 đ/c nữa đã hy sinh lúc 2h
sáng. 4 đ/c khác bị thương. Linh cảm, áy náy của tôi linh nghiệm. Tôi bàng
hoàng như đất dưới chân xụp xuống, khi nghe hung tin này.
Lúc 8h
sáng, Trung đội Trần Vinh được thay chốt,
trở về đội hình Đại đội. Anh em kể lại: khi ra tới chốt tiền tiêu. Khu
vực này có vết tích vài cái nhà sàn. Đại đội 3 dựa vào những vị trí này để tổ
chức chốt giữ. Các hầm chiến đấu, hào chiến đấu, ở ngoài mép vườn, tiếp giáp
với cánh đồng đã ngập nước. Hầm hào đã rất nhiều bùn nước. Đất đào lên, đúng ra
là múc lên làm bệ chiến đấu cũng nhão nhoét. Trần Vinh lệnh cho anh em củng cố
lại các hầm, hào chiến đấu. Anh em lấy mũ sắt, múc hết nước ở dưới hố chiến đấu
và vét bùn lên. Nhưng việc làm này không
có hiệu quả lâu, vì nước lại thấm, lại rỉ ra. Nên không làm sao cho công sự khô
được. Anh em phải đứng trong bùn nước đến lưng bắp chân. Nên việc vận động di
chuyển trong hào là rất khó khăn. Khoảng 30’ sau, thì Pốt tập kích trận đầu
tiên vào chốt. Chúng bò gần vào các chốt, cách khoảng 100m. Đồng loạt bắn các
lọai B40- B41 vào chốt. DKZ 82 từ xa, chúng cứ nhằm bắn bừa vào các vị trí chốt
của ta. Chủ yếu là hỏa lực, còn đạn thẳng là rất ít. Anh em đáp trả bằng những
loạt đạn ak và cả B40 - B41 nữa. Các loại cối của ta đã chi viện kịp thời. Bẻ
gẫy trận tập kích thứ nhất của Pốt. Ngớt tiến súng. Trần Vinh đi vòng các vị
trí, đôn đốc động viên, nhắc nhở anh em vẫn phải tích cực múc nước, củng cố
trận địa. Phải thật cảnh giác đề phòng Pốt mò sát vào chốt tập kích.
Tiếp đến
trận tập kích thứ 2- thứ 3- thứ 4 cũng kịch bản tương tự. Một đ/c bị thương vào
vai. Anh em băng bó và dìu về phía sau. Sau trận tập kết thứ 4. Trận địa lại
chìm trong yên tĩnh. Toàn chốt, mọi người đều thức, không một ai nói đến chuyện
ngủ. Anh em thay nhau canh giác, cảnh giới. Căng mắt ra nhìn, tìm nghe những
tiếng động lạ trong đêm.
Khoảng 2h
sáng, các loại hỏa lực của Pốt lại thi nhau bắn vào các chốt của Trung đội.
Tiếng hô trô - trô ầm ĩ. Hòng áp đảo tinh thần chiến sỹ ta. Anh em chủ động
đánh trả. Hướng chính diện, Trung đội Trần Vinh cùng Tiểu đội trưởng Thắng nhổm
hẳn người lên, để bắn vào những nơi phát ra tiếng Trô– Trô. Phát hiện thấy một
nhóm Pốt vẫn tiến vào chốt. Vinh và Thắng cùng tung ra mấy loạt lựu đạn. Ầm -
ầm - ầm. Nhỏm dậy quan sát, không còn thấy bóng mấy thằng Pốt nữa. Thì rầm....
một quả đạn DK hay B41 của Pốt phóng tới. Lửa khói trùm lên, đúng vị trí của
Thắng và Vinh. Đ/c B41 gần đó cũng bị thương. Trận chiến toàn chốt vẫn tiếp
diễn. Các anh em khác vẫn kiên cường chiến đấu đánh trả Pot. Không còn tiếng
Trô- Trô của Pốt nữa. Trận địa lại chìm trong tĩnh lặng.
Tại BCH
Đại đội 3. Đ/c Phô và CVT Nông thấy hướng chốt Trung đội 1 tăng cường súng nổ
nhiều. Biết là hướng này gặp khó khăn. Ngớt tiếng súng, trực tiếp Đại trưởng
Phô dẫn một Tiểu đội xuống tăng cường chốt B1. Tổ chức đưa Vinh, Thắng cùng mấy
anh em bị thương về phía sau. Từ lúc đó cho đến sáng. anh em lại mấy lần chống
trả các đợt tập kích lẫn dũi của Pốt. Thêm 1 đ/c nữa hy sinh. Nhưng trận địa
chốt tiền tiêu của Đại đội 3 và cũng là của Tiểu đoàn vẫn được giữ vững. Đến
8h, Đại đội 2 tăng cường một Trung đội đến thay chốt cho B1. Anh em trở về vị
trí của Đại đội.
Trong đội
hình chiến thắng trở về, thiếu vắng 7 đ/c. Người đi đầu đội hình không phải là
Vinh. Trần Vinh, Thắng và một đ/c nữa đã hy sinh, 4 đ/c bị thương. Tôi và ae
BCH bắt tay, ôm anh em thật chặt. Nhìn ae quần áo lấm lem, mặt hốc hác thâm
quầng. Thật xót thương cùng bao cảm mến. Tôi không nói được lời nào. Mắt nhòe,
lệ rơi, nỗi xót thương, buồn đau vô tận. Vinh ơi ! Thắng ơi ! Các em ơi! Phải
chăng anh có lỗi với các em ? ? ?
Tôi ngửa
mặt nhìn về hướng mặt trời. Hôm nay trời không mưa, mặt trời đã cao qua ngọn
thốt nốt. Một vài cánh chim bay vút qua. Tôi vẫn thấy trong trung thiên, vũ
trụ. Đôi mắt to, đôi lông mày lưỡi mác kiên nghị và câu nói: "em nghe anh ..." . Cứ
hiển hiện, cứ văng vẳng quanh đây. Đã 33 năm rồi mà như mới hôm qua. Mãi mãi
hình ảnh đó, câu nói đó đã và sẽ luôn theo tôi đến tận cuối đời.
Trong
những ngày tiếp theo, chiến sự vẫn diễn ra như vậy. Chúng vẫn tổ chức tập kích
bằng hỏa lực vào cả tuyến. Nhưng cường độ, mật độ tập trung vào Đại đội 3 vẫn
cao nhất. Đại đội 3, Tiểu đoàn 1, phải chống đỡ rất vất vả. Tiểu đoàn đã xin
Trung đoàn chi viện hàng trăm bao cát. (Bao xác rắn của Mỹ cũ), tổ chức cho vận
tải Tiểu đoàn, đóng đầy đất khô ở phía sau. Tháo dỡ các nhà sàn, hỏng và tận
dụng tre, đan phên. Tận dụng những ván nhà sàn, không người ở. Mang làm hầm có
nắp. Chắn đỡ để hầm hào công sự ko bị sụt lở. Be đắp, các ụ chiến đấu. Chống
được sát thương do đạn cối, đạn nổ ĐKZ
và cả B40– B41 nữa. Toàn tiểu
đoàn tập trung củng cố hệ thống hầm hào, phòng thủ cho Đại đội 3. Nên khu vực
chốt ở Đại đội 3, số thương vong do các loại hỏa lực và cối 82, 60 giảm hẳn đi.
Đời sống của anh em chốt được cải thiện hơn. Mặc dù mỗi ngày, mỗi đêm, vẫn phải
chịu hơn chục trận tập kích của Pốt.
Những
ngày tiếp, bọn Pốt lại tập trung rất đông quân ở khu vực ngã ba Sàm Rông. Khu
vực ngã 4 PRay Âng Ke. Chúng tấn công mạnh vào khu vực chốt của Trung đoàn 266,
giáp với Trung đoàn 273. Chúng đã bị Trung đoàn 266 tổ chức cùng tăng thiết
giáp, xuất kích. Đánh tan các lực lượng của Pốt bu bám trước chốt Trung đoàn
266.
Bọn Pốt
lại chuyển lực lượng về trước khu vực Bắc Chóp. Tiếp giáp tuyến phòng ngự của
Sư đoàn 7 và Sư đoàn 341. Theo trinh sát báo cáo. Thì trước mặt Sư đoàn 341,
tiếp giáp Sư đoàn 7 có 3 Sư đoàn của Pốt. Nhưng mỗi Sư Đoàn chúng chỉ sử dụng
từng Trung đoàn, thay nhau liên tục tấn công, tập kích vào các tuyến chốt.
Các loại
pháo cối của ta và trực tiếp là anh em bb ở các chốt. Đã tiêu diệt và tiêu hao
rất nhiều sinh lực Pot. Nhưng bọn này như càng cay cú điên cuồng hơn. Chúng có
ý định tấn công toàn tuyến. Chia cắt giữa Sư đoàn 7 và Sư đoàn 341. Hòng chiếm
lại khu vực ngã ba Săng Ke. Sư đoàn và Trung đoàn lên phương án chủ động tấn
công tiêu diệt bọn này.
Trong những
ngày ở chốt. Thi thoảng tôi vẫn phải có việc về cứ để làm công tác chính sách
cho ae. Khu vực cứ của Trung đoàn và các đơn vị, từng Đại đội làm các lán tạm.
Tập trung ở khu vực Búa Lớn. Địa danh này, nằm ngay cạnh trục đường 13 (?) sang
CPC. Ở khoảng giữa phà Bến Sỏi tới biên giới, ngay sát rừng Hòa Hội. Chính vì
thế mà nơi này bộ đội ta rất đông. Đồng nghĩa với hàng loạt quán, cà phê, giải
khát, quán nhậu. Của dân địa phương ở đây và dân bên thị xã. Sang mở quán rất
đông. Phục vụ cho bộ đội. Khu vực này nhanh chóng, trở thành 1 địa danh sầm
uất, đông đúc. Anh em trước khi sang đất K thường dừng lại đây mua tạp hóa,
trà, rượu, thuốc, mang sang làm quà cho ae bên chốt. Hoặc là vào quán nhậu,
chia tay đơn vị, hay gặp gỡ đồng hương đồng khói vv…
Với tôi tại
nơi này, cũng tại 1 quán giải khát có 1 kỷ niệm đáng nhớ. Trong 1 lần về cứ khi
đợi xe sang chốt. Tôi xin kể lại cùng các bạn.
Mỗi lần về
phía sau , được nghỉ một đêm thật là vui và thoải mái. Tuy rằng ae vẫn ở lán
trại tạm. mái lán căng bằng tấm vải bạt. Anh em cũng kiếm được gỗ, hoặc tre làm
giát giường kê sát đất. Nhưng cái chính là được sống trong những giây phút yên
bình. Tối ngủ, không phải vừa ngủ, vừa ngóng tiếng bùng bình - cắc bọp của Pốt
tập kích. Lúc nào thần kinh cũng phải căng ra. Chúng tập kích nhiều thì cũng lo
lắng, sốt ruột. Lo cho bộ đội mình thương vong. Hoặc lơ là trong canh gác.
Những lúc mà không thấy chúng bùng bình- tắc bọp theo quy luật, thì lại cũng
bồn chồn, vì sợ Pốt có âm mưu gì mới. Tóm lại ở chốt không bao giờ được giấc
ngủ ngon.
Còn về cứ, nới
đây cũng chưa phải là thật sự an toàn. Vì địa bàn này, vẫn trong tầm pháo của
Pốt. Thứ 2 nữa là bọn “đặc công, trinh sát” của Pốt. Cũng rất hay luồn lách,
vào sâu trong ta. Chủ động tập kích vào cứ, mà ở cứ thì việc canh gác rất đơn
giản, anh em rất chủ quan.
Mọi công việc
đã xong, anh Thú, anh Khi, 2 anh em coi cứ Đại đội đều quê Thái Bình. Lính lớp
72, đều bị thương chưa đủ xếp hạng thương tật. Nên được ở phía sau. Ngoài ra
còn có 2 đ/c nữa bị thương mới đi viện về. Chiều tối hôm đó, anh em mua đồ ăn
về, chiêu đãi tôi. Nói là chiêu đãi cho nó oai, chứ thực ra, anh em cũng chỉ
mua được nửa kg thịt bò về xào nấu. Rồi thêm chai rượu nữa. Ăn xong, chuyện trò
một lúc rồi rủ nhau ra một quán giải khát ngay gần đó uống nước. Tên biển hiệu
của quán là: Thu Cúc. Nhưng anh em lại gọi là quán 3 cô. Mỗi anh em làm một cốc
chè đỗ, tôi uống một cốc nước chanh. Hồi đó giá mỗi cốc nước chanh hay chè đỗ
là 6 hào. Gọi là quán 3 cô, nhưng tôi lại chỉ thấy có 2 người con gái (xin lỗi
quên tên) phục vụ. Nhìn nhanh, thì 2 cô cũng không có gì ấn tượng. Anh em chắc
cũng hay ra uống nước, nên chào hỏi nhau có vẻ thân thuộc. Anh em giới thiệu
tôi với mọi người. Ngồi nhâm nhi một lúc, uống hết cốc nước và hút mấy điếu
thuốc lá. Anh em tôi trở về lán, chuyện trò một lúc rồi đi ngủ. Tôi nói anh em,
sáng mai ăn cơm sớm. Làm sao khoảng 8h là tôi cùng 2 đ/c mới đi viện về, ra đón
xe đi nhờ sang chốt.
Sáng hôm sau,
khi cơm nước xong. Tôi cùng mấy anh em ra quán uống nước và cũng là để đợi xe.
Mỗi người lại gọi một cốc nước. Buổi sáng nên tôi gọi ăn cốc chè đỗ. Lúc này
quán đã có đủ “3 cô”. Thoảng qua cô thứ 3 , trông trẻ hơn 2 cô kia, chỉ khoảng
19- 20. Nước da trắng hồng, đôi mắt to đẹp, nhưng rất lanh lợi. Cũng trang điểm
nhưng ko quá cầu kỳ. Trông dáng rất thành phố. Nhỏ tuổi hơn 2 cô kia nhưng qua
giao tiếp có vẻ “ ià dặn” hơn so với tuổi và so với 2 cô kia. Tôi đoán, cô này
có vẻ là chủ và là linh hồn của quán Thu
Cúc này. Qua trao đổi biết tên cô là Cúc. Quán Thu Cúc mang tên của cô.
3 cô cùng là chị em họ hàng với nhau. Nhưng vì Cúc nhà bên thị xã Tây Ninh, nên
cứ chiều đã phải về bên đó và sáng thì sang. Nên tối qua tôi không gặp.
Tôi cầm cốc
chè lên định uống. Vừa nâng lên, thì …ooạt . Tất cả chè đá trong cốc đổ tràn
xuống bàn, bắn cả vào quần áo tôi. Tôi vẫn ngồi yên, tay vẫn cầm cái cốc thủy
tinh (loại cốc lớn ăn chè, hoặc uống nước chanh) nhưng toàn bộ phần đáy bị rơi
ra. Bao nhiêu chè đã tụt, lênh láng ra hết bàn, mọi người giật mình đều hướng
về phía tôi. Nhìn cái cốc còn độ khoảng 2/3 không đáy, không còn gì bên trong
tôi cười nói: Không phải tại tôi nhé. Tôi đang cầm nguyên cốc đấy. Tất cả 3 cô
chủ cùng mọi người khách đều nhìn, rất bất ngờ vì cái việc hiếm gặp, hy hữu đó.
Cô Cúc rất
nhanh nhẹn, chạy lại lau bàn và nói: Em xin lỗi, em sẽ trực tiếp làm đền anh
cốc khác.
Phải nói là về
nước giải khát, thì các tỉnh phía Nam chế biến ngon hơn và đa dạng
hơn các tỉnh phía Bắc. Nhất là trong những ngày tháng cam go ác liệt đó. Đói
khát, thiếu thốn, nên khi về phía sau, được uống cốc nước mía, cốc chè, cà phê
hay nước chanh, thì cảm thấy lý thú vô cùng. Cái cảm giác mát lạnh và ngọt nó
thấm vào mồm, vào lưỡi, nhanh chóng lan toả khắp cơ thể làm cho ta sảng khoái ngay,
khoẻ khoắn ngay. Chứ ko có cái cảm giác khó chịu như ở miền Bắc hoặc ở những
nơi họ chỉ đập đá ra. Khi ăn chè vẫn bị lổn nhổn đá.
Có những lúc
khát nước ở bên Chốt, hoặc hành quân đánh địch giữa trưa nắng như thiêu như
đốt, tôi hay nói với anh em là: khi nào về phía sau. Về Sài Gòn, tớ sẽ mua cả 1
xô (một thùng) nước mía, gục đầu vào vừa uống vừa gội đầu cho nó đã.
Ở vùng Tây
Ninh, các quán giải khát rất nhiều. Đá lạnh, không đập đá như ở Miền Bắc hay ở
nơi khác. Mà họ có một cái máy bào đá. Đúc bằng gang, sơn vàng hay sơn đỏ. Họ
cho một tảng nước đá vuông to vào, rồi vặn mấy vòng cho cái ty ở giữa giữ tảng
đá không bị rơi ra. Rồi một tay giữ, cái núm tỳ đá. Một tay quay. Tảng đã quay
tròn, bên dưới bàn đỡ có một lưỡi dao thò lên như lưỡi bào gỗ. Như vậy là đá
được bào ra rất nhỏ, bốc chỗ đá bào đó giống như là bốc nắm tuyết. Cho vào và
đắp đầy cả lên cốc nước chanh, hay cốc chè, trông thật hấp dẫn. Người ăn chỉ
lấy cái cù dìa (cái muỗng dài) chọc chọc cho đá xuống hết cốc. Đá nhanh chóng
tan ra, hoà quyện cùng nước chanh hay chè đỗ, làm cốc nước, cốc chè nhanh chóng
mát lạnh. Nghĩ lại mà thấy thật thèm, thật tuyệt.
Sau lúc sự cố
cái cốc của tôi xảy ra. Cô Cúc nhanh chóng làm cho tôi cốc chè khác. Cô lấy
tảng đá cũng cho lên cái máy bào đá, 1 tay giữ một tay quay cho tảng đá quay
tròn thật nhanh. Tảng đá xoay tít, rất
thành thục và điệu nghệ. Tôi quan sát mọi động tác của Cúc. Thầm khen sự khéo
léo rất chuyên nghiệp của người con gái trẻ, có phần xinh đẹp này.
Vèo.... tảng
đá đang xoay tít trên máy, bỗng văng ra lao thẳng về chỗ tôi ngồi nổ oành… vỡ
vụn và bắn ra tung toé. Theo phản xạ tôi co chân, nhẩy ra khỏi ghế. Lùi về sau,
thì cái ghế gỗ tôi ngồi, đổ kềnh. Kỳ lạ là nó không đổ nằm,. Mà lại lộn hẳn, dơ
4 chân gỗ lên trời trước mặt tôi.
Tất cả mọi
người trong quán đều ồ lên nhìn về phía tôi. Tôi giật mình, người nóng ran
giống như có cảm giác đang ở chiến trận. Mà có quả đạn cắm bên cạnh ko nổ. Đúng
là hiện tượng lạ. Thoáng nhìn thấy cô Cúc mặt đỏ lựng. Đứng ngây ra không nói
được lời nào.
Vừa lúc đó có 1
xe Hồng Hà đến dừng trước quán. Để cho ae bộ đội đi nhờ sang chốt. Xe chở đạn
pháo. Trên xe cũng đã có 1 số ae. Đ/c lái xe tắt máy nhấy xuống vào quán mua
mấy thứ. Tôi vẫn chưa hết bàng hoàng về sự cố liên tiếp vừa rồi. Mọi người
quanh đấy nhanh chóng lên xe. Tự nhiên như phản xạ. Tôi nói anh em: ở lại mai
hãy sang.
Chiếc xe Hồng
Hà 3 cầu nổ máy, nặng nề đi về hướng Biên giới. Khoảng hơn chục anh em đứng lố
nhố trên thùng, một tay vịn thành xe, một tay dơ vẫy vẫy tạm biệt. Có anh còn
lãng mạn, điệu nghệ ép tay vào mồm , rồi thả ra . Gửi cái hôn vào gió cho anh
em ở lại. Hay là cho mấy cô gái bán quán không biết nữa.
Thoáng nghĩ,
anh em mình thật vô tư. Ra
Biên giới, sang đất K, là sang chốt. Không ở chốt tiền tiêu phía trước, thì
cũng ở phía sau. Đều trong tầm súng, tầm đạn, tầm pháo của Pốt. Người lính ở
chốt tiền tiêu đương nhiên là vất vả hơn. Nhưng nhìn chung đã sang chốt, sang
đất K, là phải sống trong khó khăn, thiếu thốn, gian khổ. Là cận kề giữa sự
sống, cái chết. Mà anh em vẫn vô tư, hồn nhiên, lãng mạn thật lạ kỳ.
Nhìn
chiếc xe chở đạn, chở lính mất hút về phía xa. Tôi trở vào trong quán ngồi, mọi
người có vẻ bình thường trở lại. Không ai nói gì về những việc vừa xảy ra nữa.
Tôi cũng đã có một cốc chè đỗ, vừa ăn chè, đầu óc cứ nghĩ về chiếc xe. Không
biết mình ở lại đúng hay sai. Anh em được ở lại thì rất mừng. Vì ai cũng thấy,
được ở phía sau ngày nào là đỡ vất vả ngày ấy. Được nghỉ ngơi thảnh thơi, không
phải lo đến súng, đến đạn. Suốt ngày ta ta, địch địch. Nhưng tôi đã hẹn hôm nay
sang chốt. Nên việc ở lại làm tôi rất áy náy.
Ba chị em
Cúc chụm đầu vào nhau, thì thầm nói chuyện gì đó. Thỉnh thoảng lại thấy Cúc
nhìn về phía tôi. Tôi cũng không có tâm trí nào để hỏi thăm trò chuyện, hay là
“tán” chuyện nữa. Ăn xong cốc chè, tôi chủ động thanh toán tiền. Tôi chào mọi
người về lán trước. Nằm ở cái giường tạm, giát giường là các cây gỗ nhỏ ghép
lại, khấp khểnh. Nhưng cũng cảm thấy thật êm ái thư giãn. Nhìn lên trần lán,
tôi vẫn cứ thấy nặng lòng trong việc quyết định ở lại. Vẩn vơ nghĩ về những
việc xẩy ra sáng nay. Không biết liệu có gì không tốt đến với tôi, mà như là có
điềm báo vậy.
Lúc sau,
mấy anh em cũng về lán. Mọi người rủ tôi chơi cờ. Tôi đồng ý ngay. Chơi cờ,
nhưng đầu óc không tập trung. Tôi thua liền 2 ván. Đang bầy ván thứ 3, thì nghe
tiếng ầm......... âm vang như tiếng sấm xa hướng biên giới. Tiến nổ ko lớn nên
cũng không ai để ý nhiều. Vì ở vùng này, thì suốt ngày nghe súng nổ, pháo ta
bắn Pốt hoặc ngược lại. Có điều nếu là pháo của Pốt bắn, thì nghe tiếng đạn
bay, tiếng vo vo là đạn qua đầu. Còn nghe có tiếng rít xoẹt là đạn rơi gần
mình. Nên tiếng nổ vừa rồi cũng là việc
thường tình.
Khoảng 30
phút sau, toàn khu vực nhốn nháo cả lên. Tôi nói anh em ra xem có gì mà nhộn
nhạo thế. Moi người ra khỏi lán. Tiếng ồn áo càng lớn, loáng thoáng những bóng
người chạy đổ ra đường. Tôi cùng anh em cũng chạy ra, anh Thú còn xách luôn
khẩu AK nữa. Trời ! Đã thấy gần chục cái cáng võng đang chạy ngang qua về phía
trạm phẫu. Có những cái võng máu đã thấm ra ngoài loang lổ. Ai cũng chạy theo
vạch võng ra xem người bị nạn. Tôi hỏi đ/c khênh cáng: anh em bị sao vậy ? Đ/c khênh cáng vừa thở
hổn hển vừa nói: xe bị mìn cách biên
giới khoảng 5km.
Ôi đúng
cái xe sáng nay rồi. Từ sáng đến giờ mới có một xe sang. Thật may, thật hú vía.
Nếu sáng nay tôi không quyết định ở lại, liệu tôi và 2 đ/c nữa có ai phải nằm
trong cái võng kia? Không biết thế nào rồi! Mấy cái võng cáng đã đi xa, tôi bần
thần rồi thế nào lại bước vào trong quán (cũng vì quán gần ngay lán cứ của Đại
đội) .
Tôi bừng
tỉnh lại, khi mấy chị em Cúc và một số anh em cứ xúm lại chúc mừng cái “may”
của tôi, của anh em tôi. Vừa tránh được một tai hoạ có thể đến với mình. Cô Cúc
mang cho tôi một cốc nước chanh nói: em chiêu đãi cốc này, anh hên nhé. Đôi mắt
Cúc lúng liếng, nhìn tôi như gửi gắm, như muốn nói điều gì?
Tôi hỏi
một vài anh em cùng đi trên xe, nhưng may mắn không việc gì. Thì được anh em kể
như sau. Xe chạy sang như bình thường. Đường xấu quá, những cây gỗ xếp ngang
đường đã bị gãy, bị dập nát, xếp lên nhau mấy lớp. Nên xe ôtô qua được là rất khó
khăn. Xe chở đạn nặng cứ gầm lên lấy đà, chồm lên, để vượt qua những chỗ lầy lội.
Đúng là
chỉ có xe 3 cầu thì mới có thể vượt qua được. Nghe nói loại xe này là của Trung
Quốc, ngày xưa chế tạo giúp ta, để chuyên chở vũ khí đạn dược dọc Trường Sơn.
Đèo dốc nhiều , nên chỉ có loại xe này mới vượt qua những ngầm sâu, những dốc
cao. Để kéo các khẩu pháo nặng mấy tấn. Vận chuyển hàng vạn, hàng triệu tấn vũ
khí, lương thực, trang thiết bị vào chiến trường. Nó cũng đã góp một phần không
nhỏ, làm lên chiến thắng của chúng ta. Trong thời kỳ chống Mỹ , cứu nước, giải
phóng Miền Nam.
Đi được
khoảng 4- 5 km, thì có một xe đi ngược bị chết máy. Mấy anh em tập trung sửa chữa. Chiếc xe phải đi ra mé
ngoài mép đường, để vượt qua chỗ xe hỏng. Vừa qua xe hỏng khoảng chục m.
Lái xe đang lấy lại hướng vào tim đường. Thì ầm … Tiếng nổ long trời của mìn
chống tăng đã hất tung cả xe lên. (quả mìn chắc sót lại từ lâu). Anh em trên xe
cũng bị hất bay lên và rơi xuống cùng với những quả đạn. Sức nổ mạnh, làm anh
em phía góc bánh sau bị sức ép nặng bất tỉnh và một số bị gẫy chân, gẫy gay hay
chấn thương v.v.......... May mà đạn pháo trên xe không phát nổ.
Ngẫm lại, cái
linh tính người ta hay gọi là giác quan thứ 6 này thật kỳ lạ. Không biết sự
việc này, nó là vô tình, ngẫu nhiên, hay nó có sự liên kết xâu chuỗi nào đó. Mà
mình chưa biết, chưa khai thác được. Không biết hình hài thật của nó là thế nào ?
Nhớ lại
trong một lần, cũng luồn sâu tấn công Pốt. Ở hướng đường 24, lúc đó địch và ta
rất hỗn loạn. Ta và địch không phân định rõ ranh giới. Vì mình luồn sâu vào đất
địch. Khi nổ súng, thì như vậy là phía trước là địch rất đông. phía sau thì
lính Pốt chạy về, mở đường máu tìm đường thoát. Nên như vậy chung quanh 4 hướng
đều có địch. Hướng trước mặt địch phản công mạnh. Tôi cho anh em cối lùi về
sau, để phát huy tốt tác dụng của cối. Thì lại gặp Pốt đang tấn công đến. Bên
phải , bên trái đều có địch. Không thể biết dừng ở đâu cho hợp lý. Chợt thấy
một bãi phân người còn mới tinh. Ngay gần đấy, không biết là của anh em mình
hay Pốt thải ra nữa. Tôi nói ngay với anh em gía súng ngay tại đây. Anh em nghe
theo ngay tức khắc. Từ vị trí này, 2 khẩu cối 60 bắn chi viện được cho cả mấy
hướng rất hiệu quả. Tại vị trí đó được giữ vững cho đến chiều. Anh em mới phải
thu cối, khi có lệnh di chuyển theo đội hình. Những năm tháng qua và bây giờ
nghĩ lại. Vẫn thấy thật là buồn cười với cái quyết định hôm đó.
Qua trưa
, rồi đầu giờ chiều. Tôi ra quán ngồi uống nước một lần nữa . Lúc này quán
vắng, tôi mới chính thức truyện trò với mấy chị em cô Cúc. Cả 3 chị em cùng tập
trung trò chuyện rất vui, hỏi thăm đủ các chuyện. Tôi được biết nhà Cúc ở phía
ngoài thị xã, nếu từ đây về thì nhà sát ngay con lộ vào thị xã Tây Ninh. Nhà
Cúc thuộc diện gia đình có kinh tế khá. Ba Cúc, mới lập một xưởng xay sát, chà
gạo gì đó. Hiện Cúc đang ở với Ba cùng người Dì. Còn mẹ đã mất lâu rồi, Cúc là
con út trong gia đình, trong cuộc sống sinh hoạt phải tự lo liệu sớm. Nên Cúc
rất có bản lĩnh mạnh mẽ, tự tin trong
sinh hoạt. Cuối buổi nói chuyện , Cúc có mời tôi nếu có dịp thì ghé thăm nhà.
Tôi ậm ừ nhận lời, vì cũng chẳng biết đến khi nào mới có thể đến được. Ngày mai
lại sang chốt. Biết bao giờ trở về VN, làm gì có thời gian mà nói tới chuyện
đó.
Tôi bắt
tay chào mọi người về lán. Cảm nhận như là Cúc cố tình để tay lâu trong tay
tôi, như có biểu cảm gì đó. Mắt nhìn tôi cảm mến, như là 2 người đã quen nhau
lâu rồi. Tôi thoáng bối rối, nhận ra tình cảm ấy của Cúc. Tôi buông tay Cúc ra,
rồi nói to chào mấy chị em. Tôi bước nhanh về lán, như là chạy trốn điều gì sắp
đến. Sáng hôm sau tôi cùng 2 ae trong
Đại đội đón xe sang chốt sớm.
Anh em
tôi đón xe từ sớm sang chốt. Qua khu vực chỗ xe bị mìn hôm qua, mới thấy sợ.
Chiếc xe còn đó, nằm rìa ngoài đường. Sức nổ mạnh của quả mìn chống tăng, làm
bay đi cả một góc xe. Thật hú hồn, hú vía, nếu như hôm qua mình cũng có mặt
trên chiếc xe này.
Xuống xe
ở đường 13. Anh em tôi đi bộ mấy km nữa mới tới vị trí chốt của Đại đội. Mấy
khấu 12,7 của Pot vẫn đang thùng- thùng- thùng
bắn về hướng chúng tôi. Đạn cuối tầm rơi cắm phập phập chung quanh hay
xuống nước bắn tung tóe. Đạn cuối tầm nhưng cũng vẫn nguy hiểm. Chúng vẫn có
thể gây thương vong chết người nếu vào chỗ hiểm. Tôi nói ae chạy vận động
ngang, tránh hướng bắn của Pot. Tới chốt, anh em trong BCH Đại đội vô cùng
mừng. Vì ở đây, cũng đã nghe kể về xe bị mìn hôm qua. Nên anh em rất lo, liệu
tôi có đi chuyến xe đó không ? Trà thuốc, kẹo được bày ra. Chuyện trò trao đổi
về tình hình đơn vị, tình hình địch.
Qua trao
đổi, anh Đạc, anh Công kể trong 2 ngày vừa rồi, chiến sự vẫn tiếp diễn như cũ.
Nhưng qua trinh sát báo, bọn Pốt đã tập trung rất đông quân ở phía trước, đối
diện với đội hình của Trung đoàn. Chúng rất cay cú cho trận 20/6 vừa qua. Cho
đến bây giờ mà chúng chưa đẩy hay chiếm được chốt nào của ta. Chúng vẫn âm mưu
đẩy lùi ta về biên giới, chiếm lại vùng này. Có tin của Cục 2 là chúng đang hối
thúc 3 Sư đoàn phía trước. Tăng cường hơn, chủ động hơn, trong việc tập kích ta
cả ban ngày, tích cực lấn dũi ban đêm. Hòng tiêu hao sinh lực ta, rồi tấn công
chiếm chốt đẩy lùi ta về biên giới.
Xong cuộc
trao đổi, tôi nói đ/c liên lạc đi một vòng thăm vị trí các Trung đội và 2 Tiểu
đội hỏa lực. Cho ae ít trà, thuốc lá mua ở Búa Lớn. Anh em rất vui. Nhìn chung,
hầm hào của các Trung đội, đã củng cố tốt hơn. Nhưng đa phần là vẫn không có
nắp tránh đạn rơi. Tôi về bàn với BCH mời các Trung đội lên hội ý. Yêu cầu anh
em phải tận dụng các vật liệu sẵn có trong khu vực. Cố gắng làm được nhiều hầm
bán âm, bán dương nhưng phải có nắp đất. Để tránh đỡ các loại đạn rơi, đạn cối nhỏ và các loại B40, B41 của Pốt.
Ban ngày
ở chốt thời gian như thật dài, nhưng tối ập xuống rất nhanh. Cơm chiều xong
truyện trò với anh em một lúc. Không biết làm gì, tôi đi nằm sớm. Nghĩ lại sự
việc xẩy ra hôm qua bên cứ. Cái cảm giác mềm ấm của bàn tay Cúc, đôi mắt đẹp,
lanh lợi rất ấn tương. Nhưng sao thấy có nét buồn trong đó cứ hiển hiện lên.
Cái điềm báo thật kỳ lạ. Phải chăng giữa Cúc và tôi có nhân duyên gì chăng ?
Qua sự việc xẩy ra đó, qua mấy câu chuyện xã giao. Dường như Cúc và tôi cũng có
những đồng cảm. Ôi ! Nhưng đời lính, chiến đấu gian khổ thế này, ai là người
giám nghĩ đến chuyện yêu đương, hay vợ con cơ chứ. Nhưng đôi mắt đẹp và buồn
ấy, hơi ấm của bàn tay con gái mềm mại ấy, cứ làm cho tôi vẩn vơ suy nghĩ .
Đang miên
man nghĩ ngợi, thì ùng- ùng, oàng- oàng. Đợt tấn công thứ nhất của Pot vào chốt
bắt đầu. Tiếng súng tiếng cối của ta cũng đã đáp trả. Nhưng hôm nay bọn Pốt
đánh vào dọc tuyến chốt các Đại đội, lâu hơn thường lệ. Đạn các loại nổ rồn rập
trong khu vực chốt của Đại đội. Khoảng 30 phút sau mới im tiếng súng. Rất may
toàn Đại đội không ai bị thương. Liên tục đến sáng cứ cách 30- 40 phút là Pốt
lại tập kích hỏa lực 1 lần. Anh Công nói: quái lạ hôm nay chúng tập kích ta quá
nhiều. Bọn này có âm mưu gì mới đây. Cho tới gần sáng, đợt kích cuối, một quả
đạn DK làm cho 3 đ/c trong Trung đội 2 bị thương. Anh Đạc báo về Tiểu đoàn, 30
phút sau thì vận tải Tiểu đoàn lên. Chuyển anh em về phía sau.
Khoảng 7
giờ, Tiểu đoàn báo 2 đ/c cấp trưởng lên Tiểu đoàn, để về Trung đoàn họp quân
chính triển khai nhiệm vụ chiến đấu.
Hội nghị
quân chính của Trung đoàn . Trực tiếp Sư đoàn phó Mười Thứ, (ông mới đi học tại
Liên Xô về, làm Sư đoàn phó 341), nói chuyện, phổ biến tình hình Quốc tế. Tình
hình ta và các nước láng giềng. Giữa ta và Trung Quốc. Hiện có những mâu thuẫn,
bất hòa về quan điểm. Nhất là từ năm 1972 khi mà Trung Quốc đã bắt tay quan hệ
ngoại giao với Mỹ. Cái luận điểm lúc nào cũng coi Mỹ là “con hổ giấy, tên Sen
đầu quốc tế ” v.v... Đã không còn nữa. Đỉnh cao nhất cho sự thay đổi quan điểm,
là chuyến đi thăm Trung Quốc của Tổng thống Mỹ NixSon. Những thỏa thuận gì giữa
họ có trời mà biết Huh.
Nhưng
tình hình, quan hệ giữa ta và Trung Quốc ngày càng xấu đi. Nhất là sau khi
chúng ta giành được thắng lợi năm 75. Thống nhất đất nước, thì chúng hậm hực ra
mặt. Chúng tăng cường các thế lực bành trướng, ủng hộ và viện trợ cho bọn Pốt-
IengXaRi. Kích động thù hận lâu đời, giữa ta và CamPuChia. Nên đã gây ra cuộc
chiến tranh biên giới Tây Nam này.
Chúng ta
đánh Pốt, để bảo vệ chủ quyền đất nước. Bảo vệ nhân dân. Cũng đánh cầm chừng để
hy vọng Pốt thức tỉnh. Trái ngược với
thiện trí hòa bình, đoàn kết của ta. Chúng càng điên cuồng, dùng tổng lực tấn
công dọc tuyến biên giới giữa ta và
chúng. Chúng tổ chức luồn sang chiếm đất , giết hại dân lành, vô cùng dã man
tàn bạo. Gây hoang mang, chia rẽ, đào sâu hận thù lâu đời của 2 dân tộc.
Chúng ta
đã phải dùng chiến lược: đưa chiến tranh sang đất K. Làm chúng lại vô cùng cay
cú, say máu hơn điên cuồng hơn. Trong nước, chúng đã giết chết và thủ tiêu hàng triệu người dân vô tội, từ người già đến
trẻ em. Chúng đang thực hiện xây dựng, một chế độ xã hội chủ nghĩa hão huyền,
hoang tưởng. Theo chế độ công xã, tập thể như của Trung Quốc. Mà lại còn cực
đoan hơn cả Trung Quốc. Một xã hội không chợ, không tiền, không trường học,
không trí thức. Ai không nghe là chúng đập chết bằng búa, bằng cuốc, bằng xẻng
v.v...
Lực lượng
chống đối Pot đã nổi dậy 1 vài nơi. Một số chạy sang ta, yêu cầu ta giúp đỡ họ.
Nhưng lực lượng này còn non trẻ, mới phôi thai. Nên chúng ta từng giúp “bạn” ,
nhưng đến bây giờ “bạn » đã phản bội ta. Chúng ta lại phải giúp “bạn“. Người “bạn” chân chính còn trong trứng
nước. Nên vì thế n/v của chúng ta đang còn rất nặng nề.
Hiện tại, hướng QĐ4, trực tiếp là hướng Sư
đoàn 341 đảm nhiệm. Các đ/v đã làm tốt n/v chốt chặn, đánh địch, giữ vững trận
địa. Tiêu diệt được rất nhiều sinh lực địch. Đặc biệt như trận luồn sâu đánh
địch của Trung đoàn ngày 15/6 và 20/6. Nhưng giờ đây chúng ta đang gặp rất
nhiều khó khăn. Đây là khó khăn chung của Quân đoàn, và quân đội ta, đất nước
ta. Từ quân số, đến lương thực, súng đạn vv …
Bọn Pốt
đang tập trung tới 3 đầu Sư đoàn trước đội hình chốt của Sư đoàn 341. Chúng
điên cuồng, tăng cường tập kích vào các chốt, có ngày tới hơn 20 lần. Làm anh
em bộ đội mình thương vong, hao hụt quân số nhiều. Hiện nay, theo Trinh sát và
Cục 2 phát hiện, chúng đang chuẩn bị tấn công. Trên quy mô lớn, vào hướng chốt
của Sư đoàn.
Vì vậy
nếu chúng ta chỉ chốt giữ, phòng thủ thì rất khó khăn. Chúng ta phải tổ chức
xuất kích, chủ động tiến công địch như trận 20/6. Để phá tan chiến thuật bu
bám, lấn dũi của chúng, phá tan âm mưu
tấn công ta.
Trung đoàn
273, trong mấy ngày tới. Phải tổ chức xuất kích, đánh địch. Với kịch bản giống
như trận ngày 20/6. Hôm nay họp hội nghị, là ngày 10/7. Các đơn vị về làm công
tác chuẩn bị tốt. Để đêm 12, sáng ngày 13/7 ta xuất kích tiến công địch.
Sau khi họp
quân chính ở Trung Đoàn về. Anh Công, anh Đạt lại về họp bàn phương án tác
chiến của Tiểu đoàn 1. Trận này, Trung đoàn yêu cầu Tiểu đoàn1, chỉ cử Đại đội 1 tăng cường luồn
sâu với Tiểu đoàn 3. Đại đội 2 và một số anh em Đại đội 4 và các đồng chí Vận
tải, Trinh sát (trừ 2 đồng chí Trinh sát
dẫn đường cho Đại đội 1 luồn sâu) lên thay vị trí chốt của Đại đội 1. Hướng
Đông XvayChek, có 2 Đại đội của Trung đoàn 266 vòng ép hướng đó.
- Tiểu đoàn 3
và Đại đội 1 vòng ép hướng bên trái (Bắc
chóp). Tách 1 Đại đội cùng Đại đội 1 chia thành 2 mũi đánh vòng vào Phum
như lần trước.
- Tiểu đoàn 2
vẫn cùng xe bọc thép đánh ép lên. Mọi việc chuẩn bị phải hoàn tất vào trưa ngày
12/7. Đúng 22h phải tổ chức luồn sâu và giờ G ấn định là 5h30 sáng ngày
13/7/78.
Tóm lại, trận
này ta tổ chức kịch bản vẫn giống như trận ngày 20/6. Chỉ có điều là sử dụng
lực lượng có khác trước. Là có sự phối hợp tác chiến tấn công của 2 Đại đội của
Trung đoàn 266, thay cho 2 Đại đội của Tiểu đoàn 3 đảm nhiệm hướng cánh phái.
Anh em cán bộ
được phổ biến, là lực lượng của Pốt tập trung đông hơn lần trước. Lần này tác
chiến cùng một địa hình nên bọn Pốt đã đề cao cảnh giác hơn. Phải nhắc anh em
các đơn vị , không được chủ quan coi thường địch. Có phương án đề phòng Pốt
phản kích ngay, bu bám ngay. Gây khó khăn cho ta khi đã làm chủ trận địa, quay
trở về vị trí chốt .
Anh Công và
Anh Đạc tổ chức họp các bộ, để phổ biến tình hình, nhiệm vụ của Đại đội. Hiện
tại hơn 20 ngày giữ chốt và tăng cường cho chốt Đại đội 3. Quân số của Đại đội
cả bổ sung mới nữa được gần 40 tay súng. Lần này đi luồn sâu phối thuộc được
tăng cường một khẩu 12,7 ly của Đại đội 4, cùng thông tin trinh sát. Lực lượng
của Đại đội 1 được gần 60 người.
Mọi công tác
chuẩn bị cho trận chiến cũng đã xong . Anh em Đại đội 2 và các lực lượng đến
thay chốt cũng đã nhận vị trí từ chiều . Để làm quen địa hình . Anh em Đại đội 1 được nghỉ ngơi
đợi đến giờ xuất phát.
Sau khi làm
công tác chuẩn bị xong. Mấy anh em tôi trong BCH Đại đội ngồi nói chuyện. Mọi
người đều không vui, vì phải đi chiến đấu tăng cường. Nếu cả Tiểu đoàn cùng đi
tác chiến thì không nói làm gì. Còn thường đi tăng cường chiến đấu, đôi khi nó
gần giống như là “con nuôi” và “con đẻ” vậy. Sự quan tâm của chỉ huy đơn vị
phối thược thường coi nhẹ, các đơn vị “con nuôi“ hơn. Thậm chí, có đ/v khi rút
quân quên luôn cả không báo cho đ/v phối thuộc. Nên tâm lý các đ/c chỉ huy, bao
giờ cũng có tư tưởng ngại đi chiến đấu theo kiểu tăng cường.
Nghĩ là vậy,
nhưng nhiệm vụ đã được giao. Thì ai cũng phải chấp hành, tuy rằng trong lòng
không vui không thoải mái. Cũng không
được để lộ cái suy nghĩ ấy, cho anh em cán bộ chiến sỹ cấp dưới biết.
Ảnh hưởng đến tư tưởng, đến sức chiến đấu của đơn vị.
Trời chiều lất
phất mưa. Những cánh đồng trước mặt đã là một
màu trắng mênh mông nước. Xa xa, thỉnh thoảng mới thấy một vài bờ cỏ, xa
nữa có một bờ mương thẳng tắp. Nhiệm vụ của Đại đội 1 và Tiểu đoàn 3, đêm nay
phải vượt qua đồng nước mênh mông đó. Vượt qua bờ mương cao kia, luồn sâu vào
đất địch. Tránh né các chốt của địch, ém tại đó để đến sáng mai giờ G xung
phong tấn công tiêu diệt địch.
Đến 4h chiều,
các trung đội đã tổ chức cho bộ đội ăn cơm, nhận thêm một phần cơm nắm không
độn bo bo. Rồi nghỉ ngơi, đợi lên đường. Hoàng hôn đã tắt, bóng tối ập xuống
nhanh. Cũng giống như những ngày qua. Nhưng hôm nay anh em Đại đội 1 không phải
vào vị trí gác, mà mọi người đang âm thầm làm công việc chuẩn bị, cho trận
chiến đêm nay. Sẽ lại có một đêm ngâm trong nước. Có một đêm thức trắng, có một
ngày chiến đấu vô cùng vất vả. Ai cũng nghĩ vậy, cũng thấy trước được những
cảnh đó sắp diễn ra. Mọi người chính là
người trong cuộc. Đợi chờ giờ xuất phát bao giờ cũng cảm thấy thật dài. Nhưng
cũng không ai có thể vô tư mà ngủ được. Anh em rì rầm chuyện trò, những chuyện
của lính thì bao giờ cũng là đề tài bất tận.
Khoảng 7h tối
lại bản hợp xướng bằng các loại súng của Pot vào đội hình Đại đội. Các đ/c thay
chốt cũng bắn trả. Trong chiến đầu nhất là ở chốt cứ đông quân là cảm thấy được
“ấm lưng” hơn. Gía như quân số của Đại đội dược đông như thế này.
8h tối - 9h tối, rồi 9h 30, Pót tập
kích vào chốt 2 lần nữa. Không có ai thương vong. Trinh sát Tiếu đoàn báo Tiểu
đoàn 3 đang đến. Anh Đạc nói LL xuống báo các đơn vị ra vị trí chuẩn bị xuất
phát. Anh em chúng tôi cũng ra vị trí tập trung. Tôi cùng 1 đ/c liên lạc xuống
đi cùng với Tiếu đội cối 60. Toàn đội hình lặng lẽ lên đường.
Ra khỏi rìa
Phum là anh em bắt đầu phải lội nước. Bước chân đầu tiên lội xuống nước, xuống
sình mới ngại làm sao. Bên K không có mùa đông, nhưng trời mùa mưa thường mát
hơn mùa hè nhiều. Buổi tối nhiệt độ lại như giảm hơn cả cái mát. Gió trời lồng
lộng, mưa lớt phớt. Cũng không có ai khoác áo mưa. Đi trận khoác áo mưa thì
thật là không hợp lý. Nên nước mưa, nước ruộng, làm cho anh em thấy lạnh ghê
gớm. Nhưng đấy là cảm giác đầu, khi bước chân xuống nước. Còn khi đã bì bõm
được 1 lúc rồi, đầu óc luôn phải tỉnh táo, phải căng tai, căng mắt ra. Mà đi
trong đêm, thì không ai còn thấy lạnh nữa. Cái rét, cái lạnh không thắng nổi
sức nóng trong cơ thể của những người lính chiến.
Bì bõm, bì
bõm. Vẫn 2 đ/c trinh sát Tiểu đoàn lần trước dẫn đường, đi theo đường tiền nhập
cũ. Đi được một quãng, tôi cảm thấy cứ
ngứa ở dưới ống chân. Không biết có gì vướng vào, bèn thò tay xuống gãi. Thấy có
gì nhơn nhớt, bám vào da thịt tôi. Cầm vứt ra, nhưng nó có vẻ cứ trơn trơn,
dính nhằng nhằng. Thôi chết, đỉa rồi. Cái thứ mà tôi sợ nhất, đang bám vào tôi
hút máu tôi. Tôi rùng mình, nghĩ lại ngày xưa về quê, mà ra ruộng chơi. Những
ruộng nước trong veo, có những loại hoa trắng nhỏ, lá như lá sen nhỏ, cũng xòe lan ở mặt nước. Tội lội xuống đưa
tay với, định hái những bông hoa ấy. Thì eo ơi, những con đỉa núc nhúc bơi đến.
Lội nhanh lên bờ mà đã có mấy con bám đeo vào chân. Dứt mãi mới ra. Theo kinh
nghiệm, mọi người nói: nên nhổ ít nước bọt vào tay, cầm kéo đỉa ra dễ hơn. Tôi
cũng làm theo như vậy và kéo được con đỉa ra vất đi. Rồi đưa tay sờ vuốt kiểm
tra cả 2 chân. Trời ! Nhiều đỉa quá, tới hàng chục con đã bâu bám hút máu tôi.
Loại đỉa này nó có cái chất gì đó mà khi hút máu, cái chỗ vết thương đó rất khó
cầm máu. Ở quê, thường mọi người hay cấu tý lá nón dán vào để ngăn máu chảy.
Còn ở đây hàng chục vết cắn thế này lấy gì mà dịt, mà ngăn máu chẩy. Sao hồi
này ở đây nhiều đỉa thế không biết. Chắc do nước ngập lâu nên lũ này sản sinh
nhanh chóng. Vậy chắc tất cả anh em đều bị. Nhưng làm sao bây giờ. Không ngờ
loại nhuyễn thể này, lại trở thành kẻ thù của mình. Trực tiếp hút máu mình, hút
máu anh em đồng đội mình. Thật độc ác. Nó độc ác có thể nói như thằng Pốt. Thật
căm thù. Tôi nói đồng chí liên lạc nói anh em là đỉa rất nhiều. Anh em cũng đã
phát hiện điều này và cũng đang rất là bức xúc khó xử với lũ hút máu này.
Đi , lại lúc
đi lúc dừng. Đợi trinh sát chọn đường, cắt phương vị, tránh né các chốt râu tôm
của Pốt. Trời mưa, nên bọn Pốt có lẽ cũng chủ quan trong việc canh gác hướng
này. Còn hướng chốt của Tiểu đoàn vẫn thấy tiếng súng tập kích của Pót cùng
tiếng súng bắn trả của ae chốt. Đúng là lính nào thì cũng khổ như nhau, bọn Pốt
cũng đâu có sung sướng gì. Có khi chúng còn khổ, chịu khổ hơn cả lính mình nữa
chứ. Vậy nổi khổ này ? Đau thương này ? Là do ai gây lên ? Thoáng nghĩ như vậy,
rồi tôi lại tìm ngay ra câu trả lời: Là do bọn phản động bá quyền, bọn hiếu
chiến khát máu, tập đoàn Pôn Pốt- IengXaRi phát động. Sự giật dây kích động, là
tập đoàn bành trướng Bắc Kinh.
Cũng cứ tưởng,
năm 75, CM CamPuChia thành công. CM Việt Nam thành công, thì những người
lính, người dân ở 2 nước, được sống
trong hòa bình. Có ai ngờ, sự ngông cuồng, sự ngu ngốc, sự hiếu chiến của chúng
nó đã làm 2 đất nước, 2 dân tộc chưa kịp hàn gắn vết thương sau cuộc chiến dài.
Lại lao vào đánh nhau, gây nên những thù hận mới, vết thương mới. Thật căm thù.
Tao căm thù chúng mày, khi ghét chúng mày, hơn cả những con đỉa đang hút máu chúng
tao đây.
Vòng vèo mãi,
gần 3h sáng. Đội hình cũng đã đến vị trí tập kết 1. Trinh sát quay lại đón Đại
đội 9 của Tiểu đoàn 3 lên đánh cùng hướng với
Đại đội 1. Hai Đại đội tiếp tục luồn sâu hơn 1km nữa tới vị trí tập kết
2. Từ vị trí này đợi đến 5h30 tấn công vào Phum như lần trước.
Vào đến vị trí
tập kết, anh Đạc nhanh chóng bố trí đội hình tấn công của Đại đội. Rồi cùng
liên lạc và Trinh sát sang Đại đội 11, bàn việc phối hợp tác chiến với Đại đội
trưởng Ngọc. Anh em chuẩn bị hố chiến đấu rồi lại bắt đầu bài ca cơm nắm bột
canh. Mệt và đói, nên nắm cơm như là thật nhỏ. Vèo một cái đã hết. Nhưng cái
nắm cơm này cũng làm cho anh em tăng được bao nhiêu "kg" sức khỏe.
Anh Đạc cùng 2
trinh sát đã về. Anh Ngọ và anh Ngân trinh sát sang chỗ tôi thì thầm nói chuyện.
Mấy năm trước, khi làm trợ lý Tiểu đoàn bộ. Tôi thường hay sang Tiểu đội trinh
sát chơi cờ. Nguyễn Đăng Ngân lính 5/72 quê TB. Còn Nguyễn Trịnh Ngọ là lính
12/74 quê ở Hương Sơn- Hà Tĩnh. Tôi với 2 anh em có rất nhiều kỷ niệm. Với Ngân
thì năm 76, Cùng trong tổ 4 người, do tôi phụ trách. Biệt phái xuống phường 7,
Q11 làm công tác kê khai, cải tạo tiểu thủ công nghiệp. Thời gian ở đó khoảng 6
tháng. Chính thời gian này tôi gặp Thanh. Cô bé cạnh nhà của đội công tác, năm
đó mới có 16 tuổi. Đôi mắt to tròn đen láy, da trắng, tóc dài. Ở Sài Gòn người
như vậy, để tóc như vậy là hiếm. Không hiểu sao, qua một vài lần gặp. Thanh đã
nhanh chóng quý mến tôi. Rồi cả cái xóm chung cư Lý Thường Kiệt lô C ấy đều
trêu, đều ghép chúng tôi với nhau.
Nguyễn Trinh
Ngọ là dân Hà Tĩnh, mới học xong lớp 12 rồi nhập ngũ ngay. Ngọ đẹp trai, nhanh
nhẹn, rất có bản lĩnh trong chiến đấu. Sống tình cảm, rất hay tẩm quất cho tôi.
Ngọ có một bài tẩm quất gia truyền rất tuyệt vời. Hôm nào thấy người mệt mỏi,
tôi hay nhờ Ngọ đánh cho một bài. Ngọ đấm đấm, bóp bóp, vỗ nổ đôm đốp, rất điệu
nghệ. Rồi điểm một số huyệt đạo, xong lấy tay beo các thớ thịt. Kỳ lạ, tay Ngọ
bẹo vao chỗ nào cũng kêu rắc rắc, rất thích và sảng khoái. Tôi đã nói Ngọ dạy
cho bài tẩm quất này. Ngọ đã hứa là truyền nghề, nhưng đến bây giờ 2 năm rồi mà
vẫn chưa thực hiện được. Hồi đầu giải phóng, làm quân quản ở phường Bình Thới
Q11 tôi là đội trưởng. Trong đội có cả Ngọ, ngày đầu giải phóng những công việc
quân quản rất bận rộn. Nào là kê khai dân số, lứa tuổi, trình độ, nghề nghiệp.
Tìm và thanh lọc ra những phần tử phản động, phần tử trong chế độ cũ, có nợ máu
lẩn trốn trong dân. Không chịu khai báo để đi học tập cải tạo vv….
Trong thời
gian ấy, Ngọ có yêu cô Thủy trong đội công tác cùng Phường. Đơn vị biết ngăn cấm,
nhưng Ngọ vẫn yêu đến bây giờ. Tôi mới hỏi chuyện, Ngọ nói 2 đứa vẫn yêu nhau.
Đang đợi dịp được về nghỉ làm đám cưới. Tôi thầm cảm động, cảm phục tình yêu
của Ngọ và Thủy. Chợt nghĩ đến mình. Tại sao tôi lại nói lời chia tay, ngay khi biết có lệnh đi chiến đấu ở Biên giới.
Giờ này Thanh đang làm gì ? Chắc còn đang ngủ, liệu trong giấc ngủ, có bao giờ
Thanh mơ thấy tôi không ? Có quyển sách nào đó tôi đã đọc có câu: “ khi em ngủ,
thần thoại về đậu trên mắt em. Cuộc đời màu xanh, tình yêu màu hồng“...Còn
chúng tôi, Ngọ, Ngân, cùng bao anh em ở đây ai cũng đã từng có tình yêu, có vợ,
có con. Có những dự định cho cuộc đời, đôi lứa. Nhưng giờ đây, suốt ngày ùng-
ùng, òang- oàng, sinh lầy nước đọng, đỉa
bâu thế này, liệu có bao giờ có nổi những giấc mơ thần tiên ấy.
Giật mình vì
tiếng vỗ cánh của đàn chim kiếm ăn sớm. Tôi cũng giật mình, vì sao hôm nay,
mình miên man ủy mị thế. Tôi nói Ngọc và Ngân 1 câu hơi thừa: khi xung phong 2
ông bám cùng BCH Đại đội nhé. Rồi tôi xuống Trung đội 1. Trung đội trưởng Vinh
đã hy sinh. Đ/C Minh đi viện về lên thay vị trí của Vinh. Tôi trao đổi với Minh
mấy câu, thì đã thấy tiếng đề pa của cối bắn vào Phum. Tiếng nổ đầu nòng và
tiếng nổ của Đạn cũng đã hòa gần là 1. Đầu tiên thưa dần, rồi rền vang cấp tấp.
Tôi về chỗ cối 60, xem ae bắn. 2 Đại đội là 4 khẩu cối 60 cũng Tong- Tong- Tong-
Tong vào Phum. Không gian vỡ òa, mùi khói thuốc phóng đã khét lẹt. Các loại cối
pháo bắn 15 phút thì có 3 phát pháo hiệu đỏ vụt lên. Chuấn bị xung phong. Đầu
tiên là 2 khẩu 12,7 ly, 4 khẩu đại liên của 2 Đại đội, thùng- thùng- thùng điểm
xạ bắn găm vào Phum. Các loại B40, B41 ùng- oàng cấp tập vào rìa làng. Tiếng
anh Công, anh Đạt hô xung phong, toàn Đại đội lao lên, vừa hô xung phong vừa
bắn. Đại đội 11 của anh Ngọc, tiếng hô vang thật to. Tất cả lao lên như vũ bão.
Tôi cùng Ngân, Ngọ cũng làm mấy loạt AK, rồi lao tiến cùng anh em.
Đã có tiếng
súng của Pốt bắn trả. Cả tiếng ùng oàng của B40, B41 nữa. Anh em nhanh chóng
phản vào các mục tiêu vừa bắn của Pốt. Tôi cùng đ/c liên lạc đã lên được bờ đất
cao. Đang tiến, chợt thấy lóe lửa ngay phía trước, oàng, đất tung lên cùng
tiếng nổ thật đanh. Tôi và Hiệp đều đổ ập người xuống. Đ/c An y tá chạy đến,
xem và kiểm tra vết thương rồi băng cho tôi. Tôi thấy choáng một lúc rồi tỉnh
táo ngay. Như vậy là tôi bị hơi ép và mảnh găm nhẹ ở trán. Chân có một vài vết
thương nhỏ. Mọi người đã tấn công vào Phum. Hiệp cũng bị thương nhẹ. Tôi cùng
Hiệp và đ/c ytá bám đuổi theo đội hình. Thật hú hồn. Nếu tôi tiến nhanh mấy
bước, thì ko biết thế nào ? Tiếng súng vẫn nổ dồn ở mọi hướng. Lần này bọn Pốt
có vẻ chống cự dai hơn lần trước. Nhưng chúng cũng chỉ chống cự được 1 lúc.
Không chịu được sức công phá như vũ bão của ta.
Tất cả bật
chốt chạy. Anh em truy kích. Hướng Tiểu đoàn 3 cũng đã ào tới. Đ/c Thao Tiểu
đoàn trưởng gặp ae tôi nói: Mấy anh em cụm lại đây, rồi để vận tải nhanh chóng
đưa các thương binh liệt về sau trước. Tiểu đoàn 3 cũng đã có 2 đ/c hy sinh. 5-
6 đồng chí bị thương. Đ/c Lưa chính trị viên Tiểu đoàn 3, nhanh chóng tổ chức
cho vận tải khênh cáng anh em hy sinh và bị thương nặng về phía chốt. Anh Công
cũng nói tôi và Hiệp cùng về luôn.
Chúng tôi quay
về chốt theo đường thẳng. Phía sau, tiếng súng truy đuổi Pốt vẫn nổ dồn. Tôi
cùng nhóm vận tải khênh cáng thương binh nặng, cùng 2 đ/c Tử sỹ về phẫu Trung
đoàn. Đằng sau tôi, các loại súng vẫn nổ.
Về tới phẫu,
các YBác sỹ, anh Thu, anh Quyết, Anh Chính, Bác sỹ Nhật nhanh chóng xem vết
thương cho mọi người. Có đồng chí bị thương vào nát gối, phải cắt bỏ ngay. Tôi
thấy Bác sỹ Nhật nói nhỏ với các đồng nghiệp như vậy. Anh Chính xem vết thương
cho tôi. Tôi nói chắc em bị mảnh nhỏ thôi. Anh Chính nói: rất may là nếu mảnh
sâu một tí nữa thì cũng ảnh hưởng cả 2 mắt. Còn sang phải, sang trái một tý thì
cũng vào mắt. Vết thương ở mắt cá chân thì không có vấn đề gì quan trọng. Rồi
mọi người làm các thủ tục kỹ thuật lấy miếng mảnh nhỏ găm ở giữa 2 đầu lông mày
của tôi ra. Chỗ mắt cá chân cũng vậy, bây giờ tôi mới thấy đau khó đi.
Từ đó đến
chiều, vẫn thấy anh em thương binh được chuyển về. Có cả 1 đ/c chiến sỹ Đại đội
1. Nhưng chưa kịp hỏi gì thì đ/c này vết thương nặng chuyển lên tuyến trên ngay.
Ở đây 2 ngày, tôi cứ thắc mắc về chi tiết của trận đánh còn lại. Mà không được
ai giải thích kỹ. Chỉ biết là Pót tổ chức phản kích rất mạnh, tới chiều tối anh
em mình mới rút về chốt.
Ngày thứ 3 tôi
nói với mọi người cho về cứ. Chỗ anh em, vì
cứ và phẫu cũng gần nhau. Vết thương nhỏ nên cũng chỉ dán gạc và băng
dính. Thật vui khi về cứ với với anh em. Gặp lại nhóm Ba cô, lại được đón nhận
từ tay Cúc một ly nước chanh mát lạnh. Ôi ly nước mới tuyệt vời làm sao. Không
hiểu là do ly nước chanh ngọt, lạnh làm cho tôi tỉnh táo ngay. Hay là do cái nụ
cười, ánh mắt nhìn của mấy chị em, đặc biệt là của Cúc. Với cách nhìn, cách nói
ân cần, tình cảm, pha chút bị rịn. Mà tôi tỉnh khỏe hẳn lên. Mấy vết thương nhỏ
này cũng làm cho tôi tăng “chân kính” bản lĩnh lên. Vì thường khi gặp tôi, mọi
người hay nói tôi là dáng dấp thư sinh, chứ không phải dáng dấp của lính trận.
.Ngày hôm sau.
Anh Công về cứ để làm chính sách và cũng là để thăm tôi, thăm Hiệp. Nhưng Hiệp
thì chuyển về phía sau. Hai anh em gặp nhau thật mừng. Tôi hỏi ngay tình hình
trận chiến tiếp của hôm đó. Nhìn ánh mắt và giọng nói buồn buồn của anh Công.
Tôi xuống giọng nói tình hình sao anh ? Tôi chăm chú nhìn anh Công, 2 hàng nước
mắt của người đồng đội, người anh, người lính trận chẩy xuống, tôi cầm tay anh
Công nói: có gì anh kể xem nào.
Anh Công nói:
sau lúc Phú trở về. Anh em truy kích, bọn Pốt dùng pháo cối bắn vào đội hình
mình dữ quá. Một số anh em bị thương và hy sinh. Chúng bắt đầu vòng bọc phản
kích lại ta. Chúng dùng cả xe bọc thép đứng ngoài xa bắn vào hỗ trợ cho bb phản
kích. Anh em phải chống cự tới chiều. Chúng bám rất dai, như là cố ý cầm chân
mình đến tối. Tiểu đoàn 3 và mình phải xuất kích mấy lần. Đến gần chiều tối lại
xuất kích. Rồi rút nhanh, để lại mình một Trung đội của mình và d3 một Trung
đội chốt cản đường. Chúng lại bâu đến. Trong trận chiến cản đường đó. Khi anh
em rút về, thì 7 đ/c không về được. Đại đội mình 4 đ/c bên d3 có 3 đ/c. Trời ơi
! Vậy là có 7 anh em hy sinh không lấy được thi hài. Không ngờ trận đánh lại
diễn biến phức tạp như vậy.
Không biết nói
gì hơn, nước mắt cay xè. Tôi nói cả anh Thú, anh Khi, 4 anh em ra quán gọi xị rượu và đĩa bò
xào, nhâm nhi cho phần nào xoa dịu nỗi đau đang ở đỉnh cao này. Ly đầu tiên, cả
4 anh em dơ lên cụng, rồi cùng đổ xuống đất, như là hành động biểu cảm sự
thương nhớ các ae liệt sỹ. Cầu khấn cho các anh em được yên lòng siêu thoát.
Hết một xị,
rồi lại một xị nữa. Nỗi đau vẫn không thể nguôi ngoai. Anh Công nói: lúc nữa có
xe tôi sang chốt làm công tác chuẩn bị. Trung đoàn đã có kế hoạch tấn công
tiếp. Bọn Pốt đang tập trung ở đó rất đông. Hôm qua đã lại tập kích mình rất
mạnh. Mình phải đánh lên, để phá vỡ âm mưu tấn công của chúng. Cũng là tìm anh
em, đưa anh em về.
Khoảng 2h
chiều, có xe sang chốt. Anh em chia tay. Anh Công đứng dậy ôm tôi nói: Phú cứ
yên tâm ở đây, mấy ngày cho khỏe. Tôi cũng ôm anh thật chặt, không thể nói được
gì hơn. Nhìn chiếc tăng ga, nặng nề đi hút về Biên giới.
Tôi cùng hai
anh trở về lán nằm nghỉ. Đúng là nghỉ mà không ngơi. Hình ảnh trận vừa rồi, đến
lúc tôi bị thương quay về. Đoạn tiếp theo qua lời kể tóm tắt của anh Công ghép
lại thành một trận chiến, thật hào hùng và bi tráng. Với cấp trên đó là chiến
thắng. Chiến thắng nào cũng phải có mồ hôi, xương máu, vất vả và hy sinh. Với
cấp chỉ huy cao, các vị Tá, các vị Tướng lĩnh, có thể họ chỉ nghĩ đến thắng hay
bại trong 1 trận đánh. Cái bại nhỏ, đôi khi nằm trong cái thắng lớn. Nên việc
mười, hay hơn mười người hy sinh, cũng không có gì quan trọng lắm. Miễn là trận
đó thắng trong ý đồ chiến thuật, ý đồ chiến lược.
Song, với
chúng tôi, những sỹ quan chỉ huy cấp thấp. Thường ngày sống, chiến đấu cùng anh
em, cùng chia ngọt, sẻ bùi. Cùng vui chơi với nhau, từng ván cờ, ván bài, từng
chia cho nhau từng điếu thuốc, nắm cơm, ổ bánh mỳ v.v...Thì sự mất mát hy sinh
của một người, cũng đã là nỗi đau lắm. Nhìn những vết thương của anh em tóe
máu, mình như đấy cũng là nỗi đau, cũng là vết thương của da thịt mình. Đại đội
tôi, trong trận vừa rồi, như vậy là hy sinh 2, mất tích 4. (Thường hy sinh, mà không lấy được xác thì hay gọi là mất tích).
Mất đi 6 người, bị thương mấy người nữa. Hy sinh như vậy là nhiều, cái giá phải
trả, phải đổi là quá đắt.
Nhưng trong
trận chiến, toàn súng với đạn, các loại vũ khí hiện đại cả. B40- B41- ĐKZ các
nhà chế tạo vũ khi sản xuất ra dùng để chống tăng. Chống xe bọc thép, hay dùng
để phá hủy các loại boong ke, lô cốt. Thì giờ đây, trong cuộc chiến này. Lại
toàn dùng để tiêu diệt lính bộ binh. Việc tránh được sát thương, hy sinh, chỉ
là may rủi.
Miên man với
các suy nghĩ, tiếng pháo của Trung đoàn 55 vẫn nổ. Tiếng đề pa ùng- ùng- ùng-
ùng của 4 khẩu bắn một lúc. Rồi tiếng nổ ầm ầm nơi xa, như vậy là phía trước
Pốt vẫn rất đông quân. Nên pháo binh mới phải bắn chi viện nhiều như vậy. Không
biết trận chiến sắp tới, mà anh Công vừa nói. Sư đoàn, Trung đoàn, sử dụng quân
chiến đấu thế nào. Trước một lực lượng Pốt, đông hơn ta gấp nhiều lần. Địa hình
lại rất bất lợi cho ta. Trong lúc các đ/v thiếu quân trầm trọng. Các đơn vị của
mình chỉ đôn quân từ anh Nuôi, tăng gia, hậu cứ, những anh em bị thương nhẹ.
Cũng đã được động viên quay lại cầm súng. Đại đội 1, đ/c Đẩu Tiểu đội trưởng
Anh nuôi, đ/c Viên anh nuôi lính 74. Cũng đã xung phong về các Trung đội chiến
đấu. Cộng thêm mấy đ/c ở vận tải Tiểu đoàn bổ xung nữa. Quân số Đại đội 1 như
vậy là được 35 đ/c. Đúng là 1 Đại đội bây giờ, quân số không bằng được một
Trung đội. Thời đầu đi chiến đấu, hay thời huấn luyện. Với quân số ấy, phải đảm
nhiệm vị trí chốt rộng. Phải
đảm nhiệm mũi xung phong tấn công. Thì làm gì không gặp khó khăn, làm sao tạo
được sức mạnh ?
Gần
chiều, tôi rủ anh Thú ra quán ngồi uống nước. Nói chuyện cùng các cô gái. Cúc
không có ở đó, còn 2 chị em. Chúng tôi ăn chè đậu. Trong câu chuyện, 2 cô có ý
nói cho tôi biết là: Cúc rất có cảm mến tôi, có phần ngưỡng mộ tôi. Có ý trách
sao tôi có vẻ thờ ơ, lạnh nhạt, lãnh đạm với tình cảm của Cúc. Thực ra những
điều này, tình cảm của Cúc đối với tôi, không phải là tôi không biết. Tôi nói:
các anh đời lính, nay ùng, mai oàng. Sống chết biết thế nào được, mà nói chuyện
yêu đương. Mặc dù anh cũng rất quý mến Cúc. Chiến tranh cho các anh gặp các em,
nhưng có lẽ cũng tại chiến tranh, nên nó lại cũng không thật phù hợp cho việc
gặp gỡ yêu đương ấy. Nhưng anh hứa, khi nào có điều kiện. Thì anh sẽ đến chơi
thăm nhà Cúc.
Ngày
hôm sau, 17/7 Trung đoàn lại tổ chức họp quân chính. Trung đoàn trưởng Trần
Măng , Chính ủy Diệp Xuân Ánh vẫn duy
trì hội nghị. Vẫn sự có mặt điều hành trực tiếp của Sư đoàn phó Mười Thứ. Các
cấp trưởng chính trị, quân sự từ cấp Đại đội, Tiểu đoàn đều tham dự. Đại đội 1
đ/c Nguyễn Văn Đạc đại trưởng bị sốt rét đi viện, nên anh Phạm Văn Trọng Đại đội phó đi họp cùng với
anh Công.
Sư
đoàn phó tóm tắt về diễn biến chiến lệ, trận chiến tấn công Pốt ngày 13/7. Đánh
giá chung là chúng ta đã chiến thắng, đã đập tan được âm mưu bu bám tấn công
chiếm chốt của Pốt. Nhưng chúng cũng đã có rút kinh nghiệm, trận ngày 20/6.
Cộng số đầu đơn vị của Pốt ở khu vực này tới 3 Sư đoàn, rất đông quân. Nên sau
khi bị bật chốt, chúng đã bu bám, phản kích ta ngay. Nhưng như vậy chúng ta,
Tiểu đoàn 3 + Đại đội 1 tăng cường. Cùng
các đ/v, đã tấn công mạnh mẽ, đã tổ chức lui quân hợp lý. Đương nhiên chúng ta
có những thương vong. 2 Trung đội đã ở lại cản địch chiến đấu rất dũng cảm,
tiêu diệt được nhiều địch. Hoàn thành nhiệm vụ. Trong số này còn có đ/c đang
nằm lại ở đó. Sư đoàn, Trung đoàn biểu dương ý chí chiến đấu của các đ/c, các
đ/v tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu trận vừa qua. Nhưng chúng ta cũng
đang còn một việc rất quan trọng là: 7 đ/c đang nằm lại đó, chúng ta phải tổ
chức đánh tiếp để phá vỡ, đập tan âm mưu của Pốt. Tìm anh em, đưa anh em về.
Đ/c
Trung đoàn trưởng Trần Măng, giới thiệu đồng chí Nguyễn Sông Thao, Tiểu đoàn
trưởng Tiểu đoàn 3. Được điều lên làm Tham mưu phó Trung đoàn. Nhưng đ/c Sông
Thao xin ở lại, trực tiếp chỉ huy Tiểu đoàn 3 đánh trận này. Rồi sau đó sẽ nhận
nhiệm vụ ở cương vị mới. Đảng ủy và BCH Trung đoàn, chấp nhận đề nghị của đ/c
Thao.
Tham
mưu trưởng Chu Đức Hùng, (trước làm tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1 của TP). Lên
phổ biến kế hoạch tác chiến của Trung đoàn. Trận này, Trung đoàn sẽ tổ chức sử
dụng các lực lượng tác chiến như sau:
- Lực lượng luồn sâu vu hồi hướng Tây bắc vẫn
là Tiểu đoàn 3 + đại đội 1+ Tiểu đoàn 2 thiếu 1 Đại đội, cùng các lực lượng
12,7 ly của Đại đội 16, ĐKZ của Đại đội 15.
- Đại đội 1 được tăng cường 1 khẩu 12,7 ly, 1
khẩu ĐK 82 của Đại đội 4.
- Đại đội 1 đi đầu luồn sâu qua bờ mương, thì
chốt lại ở khu vực đó đề phòng Pốt vòng bọc hướng này. Tiểu đoàn 3 luồn sâu
tiếp khoảng 1 km nữa, sẽ đánh từ Hướng Bắc vào Phum. khi đánh qua những vị trí
chốt chặn lần trước cử bộ phận tìm đưa số anh em tử sỹ lần trước về.
- Tiểu đoàn 2 thiếu, cùng luồn sâu hướng này.
Nhưng dừng lại, dàn đội hình tấn công theo hướng Tây Bắc. Cách Tiểu đoàn 3 khoảng
500m. Tiểu đoàn 2 cũng được tăng cường 2 khẩu 12,7 ly của Đại đội 16. 2 Khẩu
Đk82 của Đại đội 15.
- Hướng Đông Nam, Sư đoàn vẫn sử dụng 2 Đại
đội của Trung đoàn 266 đánh ép vào.
- Hướng vỗ mặt, sử dụng 6 xe bọc thép cùng Đại
đội 2 đánh lên .
Quan
trọng nhất vẫn là việc luồn sâu và tấn công của Tiều đoàn 3 + Đại đội 1 + Tiểu
đoàn 2. Sau khi chiếm xong các mục tiêu, tổ chức đưa các anh em Thương binh, Tử
sỹ cũ và mới về ngay. Nhanh chóng rời khỏi trận địa, càng sớm càng tốt.
Các
loại pháo, cối của Sư đoàn, của Trung đoàn. Bắn hỗ trợ thật mạnh, khi phát hiện
Pốt tổ chức lực lượng phản kích.
- Sở chỉ huy tiền phương của Trung đoàn sẽ
dâng lên gần khu vực Tiểu đoàn 1. Công binh phải nhanh chóng tổ chức hầm chỉ
huy cho Trung đoàn.
- Tiểu đoàn 1, Đại đội 3 và các bộ phận ở lại,
phải tổ chức chốt giữ thật chắc.
- Các đại đội Trinh sát, Vận tải và số còn lại
của Đại đội 15 ĐK, Đại đội 16 -12,7, Đại đội 14 cối, cũng cử thêm lực lượng lên
thay chốt cho Đại đội 1. Dâng đội hình lên theo Trung đoàn.
- Thời gian 7h 30 tối nay, ngày 17/7 sở chỉ
huy tiền phương Trung đoàn, về vị trí mới. Các đơn vị trực thuộc cũng bí mật
nâng lên thay chốt cho Đại đội 1. Chốt theo vị trí phân công. Đúng 10h đêm, các
đơn vị bắt đầu tiền nhập.
Giờ
G vẫn sẽ là 5h 30 ngày 18/7. Sau khi nghe xong phương án, kế hoạch tác chiến
của Tham mưu trưởng. Các đ/c cán bộ đều nhất trí. Nhưng hầu như mọi người đều
phân vân, về kế hoạch tác chiến. Cùng một địa bàn, mà ta đã tổ chức luồn sâu
đánh địch 2 lần. Nếu lần này nữa thì cả 3 trận, bài bản tác chiến giống nhau.
Liệu Pốt đã quen và có biện pháp chống đối ta ?
Đồng
chí Nguyễn Văn Ngọc, Đại đội trưởng đại đội 11. Là Đại đội đi đầu của Tiểu
đoàn, phát biểu phản biện gay gắt nhất. Đ/C Sư đoàn phó Mười thứ hỏi: vậy đ/c
Ngọc và các đồng chí có cách đánh gì khác không ? Tất cả hội nghị, đều không
thể đưa ra được phương án tác chiến khác hơn. Rồi tất cả chấp nhận phương án
tác chiến quen thuộc, nhưng vô cùng nguy hiểm này.
- Đồng chí Trần Măng nói: Bây giờ thời gian
là vàng ngọc. Các đ/c nhanh chóng về triển khai nhiệm vụ chiến đấu đêm nay và
ngày mai cho đ/v mình. Hội nghị kết thúc, mọi người ra về, với trọng trách lớn,
với tâm trạng thật nặng nề.
Với
những tâm trạng nặng nề như vậy, nhưng nhiệm vụ vẫn là nhiệm vụ. Danh dự, trách
nhiệm của những người lính, những sỹ quan, những người chỉ huy cấp thấp. Trực
tiếp phải chiến đấu chiến đấu như những người lính xông pha trước mũi tên, hòn
đạn của kẻ thù. Họ đã từng trải qua cuộc chiến dài, trong trận chiến Biên giới
Tây Nam này, cũng đã được gần một năm. Cả năm trời tham chiến hàng trăm trận
lớn nhỏ. Chiến thắng nhiều, song không phải không có những trận, không đạt được
mục tiêu đề ra. Như trận Hà Tiên- Kiên Giang. Nhưng có lẽ, chưa có lần nào,
trước khi vào trận, mọi người lại có tâm trạng nặng nề như trận này.
Nhưng
ở đây, lúc này đang là đỉnh cao sự đấu trí, đấu dũng, giữa ta và Pốt. Mọi người
đều phải nghĩ đến 2 chữ “quyết tử”. Như cha ông ta đã “quyết tử” trong lịch sử
chống ngoại xâm. Các thế hệ đàn anh đã “quyết tử”, để làm nên những kỳ tích, trong cuộc chiến
chống Pháp, chống Mỹ. Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Bao nhiêu lớp
người đã “quyết tử”. Đã anh dũng hy sinh để làm nên chiến thắng đó.
Trong
trận này, cán bộ chỉ huy các cấp, cũng phải làm cho tất cả những người lính
thấy được vinh dự, trách nhiệm và trọng trách lớn lao này. Tất cả các đơn vị
nhanh chóng làm mọi công tác chuẩn bị.
Đại
đội 1, như vậy là Đại đội trưởng Nguyễn Văn Đạc đã về tuyến sau vì sốt rét tái
phát. Chỉ huy trận này là đ/c Công cv trưởng và đ/c Phạm Văn Trọng Đại đội phó.
Tôi thì vẫn còn ở cứ Búa Lớn.
Chiều
qua nhanh, rồi bóng tối ập xuống như bao ngày. Trời mát nhưng không mưa. Đúng
7h tối, ban chỉ huy Trung đoàn di chuyển lên vị trí mới, gần Tiểu đoàn 1. Công
binh đã khẩn trương làm xong hầm chỉ huy. Dưới gầm 1 một nhà sàn cũ của dân.
7h30 , các đ/c chỉ huy Trung đoàn đã tới vị trí. Các lực lượng vệ binh, công
binh, trinh sát, cùng các đ/v trực thuộc khác cũng đã dâng lên. Thông tin nhanh
chóng triển khai mạng hữu tuyến xuống các đơn vị. Công việc đang khẩn trương
trôi chẩy theo kế hoạch.
Ùng-
ùng- ùng. Vừa nghe tiến nổ đầu nòng thì oàng- oàng- oàng. Đất trời như vỡ òa,
bởi các loại tiếng nổ của pháo và ĐKZ 75 của Pốt. Chúng bắn vào khu vực hầm chỉ
huy mới của Trung đoàn. Không phải một vài loạt, mà chúng bắn liên tiếp hàng
trăm quả. Không gian như được hun nóng bởi khói đạn của Pốt. Một quả ĐK rít…
xoẹt… rồi nổ ầm đúng hầm chỉ huy Trung đoàn, góc các đ/c thông tin đang thao
tác. khỏi lửa trùm lên hầm chỉ huy. Đ/C Thái trưởng mạng thông tin hy sinh, 2
đ/c khác bị thương. Lác đác, các đơn vị báo lên là có anh em bị thương, hy sinh
do trận tập kích hỏa lực của Pốt.
Ác
liệt đây. Chính ủy Ánh thoáng nghĩ, không hiểu bọn này có âm mưu gì ? Mà tập
kích hỏa lực nhiều như vậy ? Hay là vị trí sở chỉ huy đã bị lộ ? Nghĩ vậy thôi
chứ nhiệm vụ đã triển khai, không được trì hoãn. Đ/c Ánh quay máy liên lạc với
các Tiểu đoàn, nắm tình hình chuẩn bị chiến đấu của các đơn vị. Các đơn vị báo
lên, công tác chuẩn bị tốt. Anh em rất quyết tâm, riêng Đại đội 11 có sự cố.
Tổng số lính nhập ngũ 72 còn trong Đại đội là 8 đ/c. Trong đó có cả đ/c Ngọc
đang giữ chức vụ Đại đội trưởng, 1 đ/c lính 72 làm liên lạc. Còn lại 6 đ/c lính
72 ở các Trung đội bằng nhiều lý do khác nhau ae về cứ, không tham chiến trận
này. Đây cũng là 1 bất ngờ. Nhưng nhìn chung các đ/v đều triển khai tốt việc
chuẩn bị chiến đấu tấn công Pot đêm nay.
Bọn
Pốt tập kích thêm mấy lần bằng hỏa lực nữa vào các khu vực chốt giữ phòng thủ
của ta. 9h rồi 10h, cũng không thấy Pốt tập kích bằng bộ binh như mọi ngày.
Lệnh lên đường. Đại đội 1 vẫn do 2 trinh sát của Tiểu đoàn + 2 trinh sát của
Tiểu đoàn 3 dẫn đầu. Xuất phát sau 30 phút thì đến Tiểu đoàn 3. Rồi Tiểu đoàn
2, nhóm trinh sát dẫn đường cứ mò mẫm trong đêm chếch về hướng Tây. Cứ đi được
trăm mét thì lại chốt lại 2 người, còn 2 người quay về dẫn đội hình lên. Mọi
việc cũng như mọi lần, anh em hành quân luồn sâu thuận lợi. Tuy nhiên là đều
phải lội ruộng, cánh đồng ngập nước có chỗ sâu tới đầu gối.
Khi
lấy góc phương vị, bẻ tay phải để vượt qua con đê, thì đụng chốt của Pốt. Trinh
sát dẫn đội hình vượt hẳn lên, xa cũng vẫn gặp các chốt của Pot. Không thể vượt
qua được. Lại vòng quay trở lại tìm đường mới. Cũng vẫn không thể qua được. Mật
độ Pốt chốt giữ quá đông. Anh em lợi dụng một số bờ đất để ngồi đợi trinh sát
tìm đường. Hoặc đứng chôn chân giữa ruộng nước. Dùng dằng, quay đi quay lại.
Thành ra đội hình hành quân tiền nhập, đã gần như song song đối mặt, với con đê
của mương dẫn nước. Một tình huống khó khăn, chưa bao giờ gặp trong hành quân
tiền nhập luồn sâu.
Khoảng
1h sáng có bóng người, có những bước chân lội nước, đi ngược với hướng hành
quân của ta. Anh em trinh sát lùi lại báo truyền cho đội hình. Pốt cũng hành
quân, có thể chúng cũng có âm mưu tổ chức tập kích ta với quy mô lớn. Lệnh được
truyền đi. Tất cả tuyệt đối giữ bí mật không được nổ súng. Nếu Pốt đụng hướng
nào thì hướng đó đánh. Nhưng vẫn không được nổ súng. Mà mọi người chuẩn bị dao
găm, cuốc xẻng, lưỡi lê sẵn sàng cho trận “giáp lá cà” tiêu diệt ngay bọn đi
đầu.
Thật
là hồi hộp, cho tình huống luồn sâu đánh địch của ta. Lúc này đã hơn 1h sáng.
Pốt cũng đi làm 3 hướng. Hướng thứ nhất chúng đụng Đại đội 1. Hướng 2 chúng
đụng Đại đội 11 và hướng d2 đụng Đại đội 5. Một trận chiến nhỏ xẩy ra bằng dao
găm và xẻng. Ta tiêu diệt được gần chục tên, bằng các loại trang bị, vũ khí thô
sơ đó. Số còn lại kêu duôn duôn rồi chạy ngược trở lại. 20’ sau, bọn Pót trên
bờ mương bắt đầu bắn xối xả vào đội hình của các đ/v. Đã có nhiều ae trúng đạn.
Như
vậy là việc luồn sâu đã bị lộ. Không thể vượt qua bờ mương ém quân như kế
hoạch. Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Sông Thao hội ý với Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2
Phạm Anh Xướng, cùng các đ/v phối thuộc. Thay đổi cách đánh, sẽ tấn công vỗ mặt
, chiếm bờ mương ngay. Vì ta đang ở thế bất lợi giữa đồng nước. Các đ/v chuẩn
bị tấn công nếu cấp trên đồng ý.
Lúc
này là 2h30 Tiều đoàn trưởng Thao điện về xin ý kiến Trung đoàn , cho các đơn
vị đánh chiếm bờ mương ngay. Sư đoàn phó Mười Thứ đồng ý cho thay đổi cách
đánh. Song không đồng ý tấn công ngay.
Yêu cầu các đơn vị chuẩn bị dàn trận, đúng 5h30 đồng loạt xung phong đánh chiếm
bờ mương. Đ/c Thao vẫn yêu cầu xin được tấn công ngay. Sư đoàn phó vẫn ko đồng
ý.
Tình thế thật bất lợi cho quân ta. Nhưng trong
chiến đấu, mệnh lênh cấp trên vẫn phải chấp hành. Các đ/v được lệnh tiền nhập
gần bờ mương hơn. Lợi dụng các bờ đất, gò đất làm công sự, triển khai đội hình
chiến đấu. Song việc triển khai ở địa hình này thật khó khăn. Hiếm lắm mới có
bờ đất xâm xấp nước. Còn toàn ruộng nước, sâu nhất là tới gối, nhung nhúc đỉa.
Anh em phải ngâm mình trong nước đợi giờ nổ súng. Đại đội 11 không thể giá súng
12,7 tầm thấp được. Mà phải giá súng tầm cao như bắn máy bay. 2 khẩu cối 60 thì
giá súng ngay chỗ ban chỉ huy Đại đội, chỗ này có gò đất xấp nước. Bọn Pót đã
ngừng bắn. Nhưng chúng ta đang ở tình huống khó, đang ở địa hình rất bất lợi
cho việc tấn công. Vì bờ ruộng chiều dọc rất ít lại nhỏ. Tất cả ko thể lao lên
bằng những bờ như vậy. Sẽ bị đạn Pót “xuyên táo” vài người ngay. Nên hầu như,
tất cả phải xung phong ở đồng nước. Rất khó khăn cho việc vận động tấn công.
Trời
đã tảng sáng, mọi người kiên trì chờ đội giờ nổ súng, trong cái rét vì bị ngâm
lâu trong nước. Lại phải rất khó chịu vì cái lũ đỉa đói cứ nhung nhúc bu bám
hút máu ae. Cứ cấu vất được con này thì những con khác bu đến. Ai cũng cảm thấy
thời gian như ngừng trôi. Cố lẽ ko ở đâu, không mấy ai bị chịu đựng cái khổ như
thế này. Tất cả mọi người chỉ biết cắn răng mà chịu trận, chờ giờ nổ súng.
Đằng
đông trời như vỡ ra, rạng sáng. Tiếng kêu của đàn vạc đi ăn đêm vội bay về tổ,
gọi nhau vạc, vạc não lùng. Cái giờ G mong đợi đã đến. Pháo, côí của Sư đoàn,
Trung đoàn, bắn cấp tập vào Phum, phía trước đội hình. Không gian vỡ òa, bởi
các tiếng đề pa, tiếng đạn bay rít qua đầu, nổ ầm ầm rền vang như sấm xa.
Các
đ/c cán bộ Đại đội, Trung đội, xông xáo đi nhắc anh em chuẩn bị tấn công. Tiếng
súng, tiếng đạn nổ, giờ G đến. Làm cho cái rét, cái lạnh tan biến đi đâu mất.
Tất cả chuẩn bị lại vũ khí xung trận. Mục tiêu 1 là đánh chiếm bờ đê, làm bàn
đạp tấn công vào Phum.
Pháo
chuyển làn, các loại súng đại liên, súng 12,7, cối 60, của các Đại đội. Cối 82
của Tiểu đoàn Tong- Tong dồn dập, xung phong. Đ/c Thao Tiểu đoàn trưởng, nổ mấy
phát K59, rồi hô xung phong- xung phong. B40- B41- ĐKZ82 phát hỏa ùng- ùng, lao
vào bờ mương nổ tung đất. Có nhiểu quả vượt tầm vào bên trong.
Các
loại súng đại liên 12,7 ly đã nâng tầm bắn làm nền, lấy khí thế cho bộ binh
xung phong. Cả tuyến, đội hình các đơn vị từ đầu là C1, tiếp Tiểu đoàn 3, rồi
Tiểu đoàn 2. Như vậy chiều rộng tấn công khoảng ngàn mét. Mũi nhọn là Đại đội 1
+ Đại đội 11 Tiểu đoàn 3 + Đại đội 5 Tiểu đoàn 2. Toàn đội hình lao lên. Các
loại súng AK nổ ran. Anh em vận động nước bắn tung tóe. Rất ít anh em tận dụng
được bờ mương dọc. 20M, 30 M rồi 50M. Bọn Pốt như bừng tỉnh, hay nó có ý đợi
anh em vào gần. Các loại súng dọc bờ mương đồng loạt phát hỏa. Xối đạn vào cản
đội hình tấn công. Trời chưa sáng hẳn nhìn rõ những họng súng đang khạc đạn lóe
lửa đầu nòng. B40 - B41- DKZ của chúng cũng ùng, oàng trùm khói lên bờ mương.
Đạn nổ oàng, oàng vào đội hình. Ngay loạt đạn đầu tiên của Pot, đã rất nhiều
anh em trúng đạn đổ xuống. Mọi người vẫn vận động, nhưng như vậy là anh em đang
lao thẳng vào hướng các họng súng của Pốt. Đội hình khựng lại.
Tiểu
đoàn trưởng Sông Thao, cùng Tiểu đoàn phó Phan sỹ Thống vẫn đứng quan sát. Trời
! Chúng chốt giữ dầy quá, hỏa lực nhiều và mạnh quá. Không phải chỉ có một vài
ổ 12,7 hay đại liên. Mà rất nhiều ổ súng
vẫn hung hãn nhả đạn. Chúng rê sang phải, sang trái theo hình dẻ quạt. Đạn
thẳng cắm phầm phập vào quanh đội hình, tung
nước chung quanh mọi người. Nhiều anh em nữa trúng đạn.
Anh
Thao hội ý với Tiểu đoàn phó Thống, tình huống này phức tạp đây ? Vẫn phải tập
trung dập hỏa lực rồi xung phong đánh chiếm thôi. Đại đội 1 và 11 đã gần bờ
mương nhất. Ông ở đây, tôi lên chỗ anh Ngọc. Rồi cùng mấy đồng chí trinh sát, truyền đạt tiến được mấy bước, thì đạn của
Pốt cắm phầm phập vào chỗ mọi người. Đ/c Thao cùng mấy anh em khác đổ xập
xuống. Khẩu K59 của Tiểu đoàn trưởng tuột khỏi tay. Anh Thao trúng đạn rồi, mấy
đ/c trinh sát kéo lùi Tiểu đoàn Trưởng về chỗ đ/c Thống. Tiểu đoàn trưởng Thao
máu loang đầy ngực trên bộ quần áo ướt sũng nước. Đ/c Thống báo về Trung đoàn:
đ/c Thao bị thương nặng. Đ/c Trung đoàn trưởng Măng lệnh chuyển ngay đ/c Thao,
cùng các anh em bị thương về phía sau. tiếp tục dùng hỏa lực chế áp rồi tổ chức
tấn công tiếp. Sư đoàn phó Thứ gào lên xen vào tổ hợp: Bằng mọi giá phải chiếm
lấy bờ mương.
Mũi
tấn công của Đại đội 1, sau khi tiền nhập cách bờ mương khoảng 100m, thì ae
dừng lại, cũng củng cố hầm hào đợi giờ nổ súng. Khi có hiệu lệnh xung phong,
anh em ào lên tấn công. Nhưng cũng giống như hướng Đại đội 11. Nhiều anh em ngã
xuống ngay loạt đạn đầu của Pốt. Trong số này có cả đ/c Cv trưởng Nguyễn Tiến
Công.
Mũi
tiến công khựng lại, phía sau khẩu 12,7 và 2 khẩu đại liên vẫn bắn đối súng với
bọn Pốt. Khẩu 12,7 của Đại đội 4 tăng cường cũng phải giá súng cao. Bắn chế áp
được một lúc thì bị dập bởi quả ĐK. Hai khẩu đại liên vẫn nhả đạn, hỗ trợ cho
bộ binh. Lúc này anh em bộ binh không tiến được nữa. Anh em bb nằm tại chỗ, hay
bò lùi tìm chỗ ẩn nấp. Bắn được mấy loạt nữa, thì một khẩu đại liên cũng bị
dập. 3 đ/c khẩu đội đều bị thương và hy sinh. Còn lại một khẩu đại liên của
Tiểu đội trưởng Phạm Thanh Hải, vẫn phát huy. Bắn xăm vào bờ mương và các ổ
súng của Pốt. (đ/c Hải là lớp lính 75 quê
Thái Bình, thuộc lực lượng tên lửa mới được điều về đơn vị hồi tháng 3/78).
Một viên đạn của Pốt bắn bay đầu ruồi khẩu đại liên. Kệ, Đ/c Hải vẫn bắn. Như
vậy là một khẩu đại liên của Hải, đang đối với mấy khẩu 12,7 và đại liên của
Pót trên bờ đê. Hải cũng đã dập được 2 mục tiêu, thì một viên đạn xuyên cánh
tay trái. Cùng lúc, một quả M79 của Pốt trúng mũ sắt làm anh choáng vật ra. Đại
đội phó phạm Văn Trọng trườn vào thay Hải. Tiếp tục đối súng với Pốt, được vài
loạt thì súng hóc. Anh Trọng cùng một đ/c nữa đang loay hoay xử lý. Thì một
viên đạn thẳng cũng làm Đại đội phó Trọng bị thương gục xuống. Cối 60 của Đại
đội , cũng chỉ phát huy được lúc bắn
chuẩn bị xung phong. Còn bây giờ trời đã sáng, mục tiêu đã lộ. Tiểu đội
lúc này đã 2 đ/c hy sinh. Mấy đ/c bị thương. Như vậy là mũi tiến công của Đại
đội 1 bị Pốt bẻ gẫy. Một số anh em bò lùi lại, nhưng cũng nhiều anh em trong số
đó lại dính tiếp đạn thẳng của Pốt.
Pháo,
cối, Đkz75 của Trung đoàn, Sư đoàn ùng- ùng bắn phá vào bờ đê và các khu vực
sau. Đài quan sát pháo binh báo, phía sau bờ đê, sâu vào trong. Lực lượng Pốt
rất đông. Chúng điều cả xe bọc thép lên, nấp ở bờ mương bắn cản quân ta. Các
loại cối pháo của ta chi viện tối đa. Trúng các đội hình Pốt, anh em trên đài
quan sát rất rõ những xác Pốt tung lên. Song để bắn trúng được từng ổ đề kháng
ở bờ đê, thì quả là khó. Nhưng pháo cối của ta cũng đã làm cho chúng chúi xuống
hầm.
Lệnh
xung phong. Đ/C Thống Tiểu đoàn phó chỉ huy phát lệnh xung phong. Anh em Tiểu
đoàn 3, Tiểu đoàn 2 lại bật lên xung phong. Nhưng kịch bản lại cũng giống như
lần xung phong thứ nhất. Anh em khựng cả lại, tìm nơi ẩn nấp. Nhưng cũng thật
là khó. Không biết nấp biết tránh vào đâu. Nhiều chỗ anh em chụm vào nhau, hoặc
di chuyển đều là những mục tiêu để Pốt bắn vào.
Khẩu
12,7 của Đại đội 16, tăng cường cho Đại đội 11. Vẫn thùng- thùng- thùng nhả đạn
vào các ổ đề kháng Pốt. Một đ/c xạ thủ chính trúng đạn ngã ngay xuống chân
súng. Tiếp đến đ/c xạ thủ vừa thay cũng bị trúng đạn. Đại đội trưởng Lầu của
Đại đội 16, đi tăng cường lao lại thay. Đứng giữa 2 chiến sỹ của mình vừa hy
sinh. Anh khom người kéo các điểm xạ, bắn về phía Pốt. Thật là dũng cảm và
quyết tử. Bắn được 1 lúc rồi anh cũng trúng đạn. Hai tay vẫn ghì chặt khẩu
12,7. Đại đội trưởng Pham văn Lầu, hy sinh thật anh dũng. Đây là lần thứ 2, anh
em chứng kiến hành động, chiến đấu và dũng cảm hy sinh. Của các lớp chỉ huy Đại
đội trưởng hỏa lực Đại đội 16 súng 12,7.
Hồi
tháng 3/75, khi Trung đoàn tấn công căn cứ Chơn Thành, tỉnh Bình Long. Súng
12,7 ly của Đại đội 16 cũng đấu súng với 12,8 trên xe tăng của quân đội VNCH.
Khi tấn công vào cửa mở, địch chôn xe tăng xuống, thò tháp pháo và khẩu 12,8
lên. Điên cuồng khạc đạn vào đội hình xung phong đánh cửa mở của Tiểu đoàn 2.
Anh em bắn rụng 2 thằng, ta cũng 2 anh em bị trúng đạn. Đại đội trưởng Đại đội
16 hồi đó là đ/c Cao Xuân Khá quê Quảng Bình. Lúc đó cũng nhẩy vào thay và nói:
Để anh đấu 12,7 với lũ 12,8 này. Thùng- Thùng- Thùng, sau điểm xạ tên đang bắn
12,8 trên xe tăng trúng đạn vật ra. Lại tiếp thằng nữa, vẫn Thùng- Thùng-
Thùng. Tiếp thằng nữa trúng đạn. Lúc đó khẩu pháo trên xe của chúng đã chính
tầm. Qủa đạn pháo bắn thẳng cực mạnh của tăng, làm tung khẩu 12,7. Đ/c Khá đại đội trưởng đã anh dũng hy sinh.
Đồng
chí Nguyễn Song Thao hy sinh. Sau lúc bị thương, anh em trinh sát bò, kéo đ/c
Thao lùi về. Vết thương nặng, nhưng không thể nào có thể chuyển nhanh về sau
được. Anh em phải kéo lùi từng tý, từng tý một. Qủa là rất khó, phải có anh em
nâng cao đầu, còn toàn thân và vết thương phải bị chìm trong nước. 3- 4 đ/c tập
trung di chuyển Tiểu đoàn trưởng. Sự tập trung di chuyển này, lại là mục tiêu
lộ, để Pốt nhằm bắn. Đạn thù xối xả vào chỗ anh em. Đ/c Thao trúng thêm mấy
viên đạn nữa. Trong nhóm đó, 1 đ/c Trinh sát hy sinh, 2 đ/c nữa bị thương.
Đại
đội 11 cũng đã hết sức chiến đấu. CV trưởng Duyên, bò, trườn đi tới chỗ các
chiến sỹ. Vừa di chuyển được mấy mét, thì những loạt đạn thẳng của Pốt găm
trúng cỗ hiểm. Làm anh gục ngay xuống hy sinh. Đại đội trưởng Nguyễn Văn Ngọc
rất bức xúc với tình hình trận đánh. Thấy CV trưởng Duyên trúng đạn. Anh cùng
đ/c liên lạc bò ra kéo CV trưởng. Lại tiếp những loạt đạn của Pốt phầm phập
chung quanh. Một viên trúng đ/c liên lạc
cũng hy sinh. Đ/c Ngọc bị một viên xiết vào gáy dưới vành tai.
Khu
vực 2 khẩu cối 60, đạn cối đã được bắn hết. Vì trong trận này không mang nhiều.
Nhưng quanh chỗ đó, 4 đ/c xạ thủ cối hy sinh, mấy anh em khác bị thương nấp sau
bờ đất. Duy nhất Đại đội 11 lúc này còn đ/c Thoảng CV phó, anh hô đ/c Hùng lính
78 người Hà Nội là pháo thủ gánh đạn, kéo khẩu cối, cùng một đ/c Thông tin 2w
của Tiểu đoàn bò lùi. Được hơn chục mét, máy thông tin ngâm trong nước, không
còn tác dụng nữa. Nhưng Pốt cũng xối đạn vào đó. Làm Đ/c Thông tin Tiểu đoàn
cũng trúng đạn nằm bất động. Chiếc máy thông tin 2w vẫn đeo ở lưng chồi trên
mặt nước. Đ/c Hùng một tay vừa bò,1 tay keó khẩu cối 60. Khẩu cối cứ cắm xuống
bùn nước không thể kéo được, được khoảng chục mét, Hùng kiệt sức, đành bỏ khẩu
cối 60 lại đó.
Hướng
Tiểu đoàn 2, cũng tình trạng như vậy. Không kém sự ác liệt. Đ/c Mai Đại đội
trưởng Đại đội 5, bị thương ngay từ lúc đầu, đ/c Dũng thông tin của Tiểu
đoàn bị thương vỡ gót chân. Đ/c Tiểu
đoàn trưởng Phạm Anh Xướng cùng mấy ae trong BCH vẫn bò, trườn đến chỗ các đơn
vị. Động viên khích lệ Đại đội 5 và Tiểu đoàn xung phong lần 2. Đ/C Tiêm Tiểu
đoàn phó, đ/c Hai dv phó Tiểu đoàn cũng xuống các đơn vị. Song lần thứ 2 xung
phong cũng giống như Tiểu đoàn 3, đều bị Pốt chặn đứng. Liên tiếp đ/c Hai chính
trị viên phó Tiểu đoàn trúng đạn hy sinh. Đ/c Tiêm Tiểu đoàn phó trúng đạn hy
sinh. Đ/c Xướng Tiểu đoàn trưởng bị đạn thẳng xuyên qua vai bị thương. Đ/c
Thành chính trị viên trưởng Đại đội 5,
bị viên đạn nhọn cầy từ trán lên tới đỉnh đầu. Rải rác khắp nơi anh em
mình hy sinh và bị thương nằm khắp đồng nước.
Các
đ/c bị thương cố bò, di động, thì lại cũng là mục tiêu xạ kích của Pốt . Các ổ
hỏa lực của Pốt dọc bờ đê, vẫn điên cuồng nhả đạn như mưa vào đội hình các đơn
vị.
Lệnh
của Trung đoàn cho các đơn vị lùi về sau 300 mét để củng cố lực lương . Pháo
binh cấp tập về phía Pốt. Nhưng đạn nổ vào phía sau bờ đê là chính, cũng nhiều
trái làm tung các ổ hỏa lực của Pót ở bờ đê. Nhưng cũng không thể dập được hết
các ổ hỏa lực của Pot. Cộng thêm sự tăng viện của Pot cũng rất kịp thời Nên
chúng vẫn chiếm được ưu thế của hỏa lực bắn thẳng. Các máy thông tin bị ngâm
nước không sử dụng được. Việc truyền tin bây giờ là rất khó, việc anh em lùi ra
cũng không phải là dễ. Chỉ cần lùi được 300m là vào được khu vực an toàn có vật
che khuất, che đỡ. Nhưng quãng ruộng ngập nước 300m đó, lúc này là cả một quãng
dài vô tận, với rất nhiều anh em. Vì cứ ai di chuyển là bị đạn tập trung vào.
Rất nhiều anh em hy sinh, bị thương dọc quãng đồng nước ấy. Có nhiều anh em bị
thương nằm đó, nhưng lúc này cũng khó có thể tiếp cận anh em được. Như vậy số
anh em này lại bị kẻ thù thứ 2 hành hạ. Đó là lũ đỉa đói. Hàng trăm con đỉa bâu
vào, hút cạn máu của anh em mình.
Hướng
Trung đoàn 266, theo hợp đồng, có 2 Đại đội cùng 6 xe bọc thép lội nước M113
đánh ép vào. Trong ý đồ chiến thuật, mũi tấn công này chỉ là đánh ép, be bờ,
đánh vỗ mặt dọa là chính. Chứ không phải là nhiệm vụ thọc sâu. Lực lượng này
đánh ép vào, cũng gặp hỏa lực của chúng rất mạnh. Các loại B40- B41- DKZ phóng
đạn, vây lấy xe bọc thép của ta, làm 2 xe trúng đạn. Nên lực lượng bộ binh,
cũng chỉ tiến thêm gần giáp Phum rồi bắn hỏa lực và , đe dọa bọn Pốt hướng này.
Khoảng
7h30. Sư đoàn sử dụng thêm một mũi đánh từ gồn 5 xe bọc thép, cùng 2 Trung đội
của Đại đội 2. Đánh chéo lên hướng Bắc- Tây Bắc. Nhưng cũng gặp phải sự kháng
cự mạnh của Pốt. Một xe bọc thép bị đứt xích. Mấy đồng chí hy sinh. Trong đó có
đ/c Trung đội trưởng Ngô Khắc Quyền. Là lớp lính 3/75 quê Thanh Hóa. là đ/c vô
cùng gan dạ, dũng cảm, có rất nhiều thành tích. Đang được đ/v đề nghị phong
tặng danh hiệu anh hùng LLVT.
Khoảng
8h. Hướng Tiểu đoàn 3, Tiểu đoàn 2, chỉ còn tiếng súng của Pốt. Chúng nhằm bắn
anh em ta trên đồng nước. Nhưng đơn vị ở phía sau đó 300m không thiệt hại
nhiều. Một số ít bị thương, hoặc không bị thương, lùi về được phía sau, hầu như
cũng kiệt sức. Nhưng ở khu vực này, các LL vận tải cứu thương, nhanh chóng chuyển
anh em về phẫu.
Theo
đài quan sát báo, Pốt dồn quân lên rất đông. Một tình huống đặt ra: chúng có
thể tấn công dấn lên không ? Sư đoàn phó Mười Thứ chỉ im lặng. Hình như ông đã
thấy được cái đề nghị: xin tấn công ngay lúc đêm, của Tiểu đoàn trưởng Nguyễn
Sông Thao là đúng. Song giờ đây, chưa thể nói gì được nhiều. Bằng mọi giá, phải
ngăn chặn âm mưu tấn công, phản công của Pốt. Trước hết là phải tổ chức chốt
giữ. Tất cả các anh em, không phân biệt đơn vị. Phải vào các vị trí chốt, phòng
thủ. Động viên các anh em bị thương nhẹ cũng ở lại, chiến đấu chặn Pốt. Các đ/c
trợ lý của Trung đoàn, tăng cường ngay xuống các đơn vị. Chỉ huy và đôn đốc
việc phòng thủ cùng các đơn vị.
- Các
loại pháo, cối, xin bắn tối đa để tiêu diệt sinh lực địch.
- Điều
2 khẩu pháo 105 lên cao gần Tiểu đoàn 1. Dùng loại đạn phòng thủ của pháo. Loại
đạn mà trong lịch sử pháo binh của ta chưa sử dụng lần nào. Đó là loại đạn pháo
đinh của Mỹ. Song việc sử dụng loại đạn này thật là khó. Ta chưa có kinh
nghiệm. (lúc đó theo TP biết không thật
chính xác) là điều 1 vài Sỹ quan pháo của quân lực VNCH, đang học tập cải
tạo lên gấp. Để sử dụng bắn loại đạn này (?) Vì loại đạn đinh này, không thể
bắn xa được. Cự ly xa nhất là khoảng trên 1000m. Nhưng đạn rơi cách mặt đất
100m thì phát nổ. Gây sát thương mật độ dầy đặc mấy trăm m2.
Việc
đưa pháo lên gần Tiểu đoàn 1 là rất khó. Vì sức nặng của pháo, đường đất nhỏ,
ngập nước, lầy lún. Phải dùng xe bọc thép kéo, cộng thêm cả sức người nữa đun
đẩy nữa. Hai khẩu pháo mới vào được vị trí xạ kích. Đến gần trưa, thì bắn được
quả đầu tiên. Qua máy bộ đàm kỹ thuật, bọn Pốt kêu ầm ĩ. Vì bị sát thương
nhiều. Khẩu thứ 2 bắn tiếp, thì đạn nổ ngay vào đội hình Đại đội 4, Tiểu đoàn
1. Làm 10 đ/c bị thương. Đ/c Tú Đại đội phó, bị 9 cái đinh cắm vào người.
Từ
đó đến chiều, pháo đạn đinh, kết hợp với các loại đạn pháo cối khác. Đã tiêu
diệt được rất nhiều sinh lực địch. Đập tan ý đồ phản công của Pót. Trận địa
chốt của Trung đoàn được giữ vững. Chiều tối, Trung đoàn tiếp tục cử lực lượng
tìm kiếm anh em. Thêm được một số Tử sỹ và thương binh nữa được tìm thấy. Qua
các vết thương, thì thấy anh em bị mất máu do đỉa rất nhiều. Số anh em của Đại
đội 1, đại đội 11, Đại đội 5. Vào sâu trong bờ mương, không thể vào đưa anh em
ra được. Trong đó có đ/c Nguyễn Tiến Công, Chính trị viên trưởng Đại đội 1 cùng
nhiều anh em Đại đội 1 của tôi.
Sáng
hôm sau 19/7 tôi sang chốt sớm . Quang cảnh khu vực Săngke này buổi sớm yên ả
làm sao . Vẫn cánh đồng ngập nước , trời không mưa , quang đãng mát mẻ , mặt
trời đã lên cao . Nhưng ánh nắng buổi sớm êm dịu . Gió nhè nhẹ thổi , những cây
thốt nốt nhìn qua cũng không có gì khác . Những tán lá vẫn lung lay đùa với gió
. Những đàn cá vẫn chạy rẽ nước , khi thấy bóng người đi . Những đàn cò trắng
với cái chân nhỏ xíu , cao kều . Nhẹ nhàng từng bước , tìm mồi ở những chỗ nước
nông . Không có tiếng súng . Thoảng trong không trung tiếng con chim cu đang
gáy gù gọi bạn . Cảnh vật thật thanh bình . Không ai có thể nghĩ được là vừa
mới hôm qua . Một trận đấu súng , đấu pháo , đấu trí quyết tử ở khu vực này ?
Vừa mới hôm qua , bao nhiêu đồng đội của tôi , đã hy sinh , đã đổ máu . Vĩnh
viễn nằm lại đây , chấm dứt cuộc đời , chấm dứt sự nghiệp , chấm dứt đời binh
nghiệp , khi tuổi đời còn quá trẻ …
Tôi
qua Trung đoàn bộ, rồi vào Ban chính trị Trung đoàn. Các thủ trưởng, các trợ lý
phòng, ban hồ hởi khi gặp tôi. Thoáng qua trên nét mặt mọi người, lộ rõ vẻ mệt
mỏi căng thẳng. Mọi người đang tập trung, giải quyết những hậu trận chiến hôm
qua. Có quá nhiều việc phải làm. Đ/c Chủ nhiệm chính trị Trung đoàn nói: ông về
Tiểu đoàn ngay đi, nơi đấy đang cần ông. Ngày hôm qua, Đại đội 1, Tiểu đoàn 2-
3 cùng các ae trực thuộc. Đã rất dũng cảm, chiến đấu. Chúng ta đã thắng lợi,
mặc dù hy sinh nhiều, thương vong nhiều. Đại đội ông còn lại mấy người. Ông
Công chính trị viên trưởng, cùng nhiều anh em đang nằm lại đó. Nhưng trước mắt,
cứ phải để anh em ở đấy đã. Ông phải làm tốt công tác tư tưởng với anh em còn
lại. Quân lực, Cán bộ, sẽ có kế hoạch bổ sung quân cho Đại đội ông. Ông về ngay
đi.
Chủ
nhiệm và mấy đ/c trợ lý đều lau vội dòng nước mắt, đang chảy dài. Mất mát, hy
sinh của Trung đoàn trận hôm qua quả là quá lớn. Rất nhiều cán bộ Tiểu đoàn,
cán bộ Đại đội, cán bộ Trung đội, cán bộ Tiểu đội. Cùng nhiều chiến sỹ hy sinh.
Không phải chỉ có đ/c Công và anh em Đại đội 1 nằm lại đó. Đại đội 11, Đại đội
5 và một số anh em phối thuộc, vẫn nằm
lại đó. Như vậy là cả hai Tiểu đoàn và Đại đội 1, đều bị mất sức chiến đấu. Đ/c
Nguyễn Sông Thao, đ/c Ngô Khắc Quyền, những người cán bộ, người con ưu tú của
Trung đoàn, Sư đoàn. Đang được đề nghị Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu
AHLLVT. Thì đều bị hy sinh trận hôm qua. Tất cả cán bộ, chiến sỹ trong Trung
đoàn đều đau xót, đều bàng hoàng bởi sự mất mát to lớn đến với Trung đoàn .
Song,
chúng ta đã chiến thắng. Chúng ta đã đập tan âm mưu phản công, tấn công của bọn
Pốt, vào khu vực Trung đoàn chốt giữ. Chúng ta đã tiêu diệt được rất nhiều sinh
lực địch. Hiện tại toàn tuyến chốt của Trung đoàn, Sư đoàn đang được giữ chắc.
Cả đêm qua chúng lo đốt xác, không tập kích ta lần nào.
Tôi
về tới vị trí của Tiểu đoàn. Vị trí chốt của Đại đội 1, đã được các đ/v trực
thuộc thay. Anh Chính, anh Vinh , cán bộ Tiểu đoàn gặp tôi động viên , chia sẻ
với những mất mát của Đại đội. (Đ/c Ngô
Quảng Vinh mấy năm trước, bị tai nạn máy bay trực thăng rơi tại Lào. Lúc đó anh
là Thượng tá tại bộ Tổng tham mưu). Anh Chính nói: Đại đội 1 hiện còn đ/c
Thư quản lý, đ/c Tùng anh nuôi, ông sang nữa là 3 người. Tiểu đoàn, Trung đoàn,
sẽ tổ chức điều động quân số sau. Chỗ của Đại đội 1, ae trên trực thuộc thay.
Nhưng trước mắt, nhóm của các ông ở luôn
tại vị trí Tiểu đoàn bộ.
Mấy
ngày tiếp theo, dọc tuyến chốt của Trung đoàn, Sư đoàn tương đối yên bình. Nếu
không có những loạt 12L7, hay đại liên, thi thoảng có 1 vài quả ĐK của chúng
bắn vu vơ vào khu vực Trung đoàn. Thì có thể nói nơi đây thật sự thanh bình.
Pốt không tập kích hàng đêm như trước nữa. Chúng vẫn chốt dọc bờ mương, nhưng
cũng không đông quân như trước. Mà thỉnh thoảng chỉ vu vơ loạt đạn như vậy. Cấp
trên nói, bọn Pốt thấy hướng này “khó nhằn”. Nên đã chuyển hướng tấn công sang
hướng Sư đoàn 7, Sư đoàn 9 rồi.
Trung
đoàn tổ chức hội nghị quân chính. Để rút kinh nghiệm trận đánh ngày 18/7. Phổ
biến tình hình nhiệm vụ trong giai đoạn tiếp theo. Đồng chí Sư đoàn phó Mười
Thứ và chỉ huy Trung đoàn, chỉ huy Sư đoàn. Đều đánh giá cao về ý trí chiến đấu
và thắng lợi của Trung đoàn. Chúng ta đã thắng, đã phá vỡ, đã đập tan được âm
mưu bu bám, tấn công đẩy ta về biên giới. Của 3 Sư đoàn tinh nhuệ của Pốt. Tiêu
diệt, tiêu hao được rất nhiều sinh lực địch.
Cán
bộ, chiến sỹ, anh em d2- d3- c1- d1 cùng các đ/v phối thuộc. Đã rất dũng cảm
chiến đấu, chúng ta hy sinh nhiều , thương vong nhiều. Những người con ưu tú
như: đ/c Nguyễn Sông Thao, Ngô Khắc Quyền và nhiều đ/c nữa đã anh dũng hy sinh.
Còn nhiều đ/c đang nằm lại đó, đấy đang còn là “món nợ” lớn của chúng ta với
anh em. Hiện tại nhiệm vụ của chúng ta, vẫn phải chốt giữ thật vững khu vực
này. Nhanh chóng ổn định tư tưởng. Củng cố bổ sung trang thiết bị, quân số …
v.v Sẵn sàng nhận những nhiệm vụ tiếp theo.
Đ/c
Mười Thứ, Sư đoàn phó, cũng nói về việc đề nghị của đ/c Thao. Đề nghị cho tổ
chức đánh chiếm bờ đập trong đêm. Đây là 1 vấn đề đặt ra để tham khảo, nhưng
không thể có giải đáp. Vì sự việc đã qua rồi, không thể có thử nghiệm lại.
Nhưng ai có thể khẳng định là: khi đánh lên trong đêm liệu có thắng lợi ? Khi
bất lợi của chúng ta cũng đang có, là từ đồng nước vận động khó, quan sát khó v
v … Trong khi hoả lực bắn thẳng của Pốt đang rất mạnh. Trong khi hoả lực của ta
rất khó chi viện chính xác trong đêm …
Nói
chung, đ/c Mười Thứ và BCH Trung đoàn đã có quyết định đúng. Khi không chấp
nhận việc tấn công bờ đập trong đêm. Có nhiều tiếng xì xào, của anh em trong
hội nghị. Nhưng cũng không có ai, có phát biểu nào. Để phân tích, để bảo vệ
việc tiến công địch trong đêm là đúng. Thực ra trong hội nghị này, các đồng chí
chỉ huy trực tiếp tham gia trận đánh, hầu hết đã bị hy sinh. Bị thương đi viện,
số cán bộ đang dự họp rất đau thương, rất bàng hoàng xót xa, rất bức xúc. Nhưng
mọi người cũng xuôi theo, những phân tích của Trung đoàn và trực tiếp là của Sư
đoàn phó Mười Thứ.
Hội
nghị kết thúc, mọi người lại trở về đ/v. Bận mải với trăm công ngàn việc của
người chỉ huy. Không ai phản đối kết luận của Sư đoàn phó. Nhưng trong Trung
đoàn, cán bộ, chiến sỹ dường như nhìn Sư đoàn phó, nghĩ về Sư đoàn phó, không
được gần gũi, không được tình cảm chan hoà, nồng ấm, như các đ/c chỉ huy khác.
Anh em các đ/v đã không gọi ông bằng cái tên Mười Thứ nữa. Mà khi có vấn đề gì
nhắc đến ông, thì gọi ông với 2 tên khác là: “Ông Mười Thí, Ông Mười Thua”.
Theo TP và 1 số ae nữa, cái tên: “Ông Mười Thí” thì có thể đúng. Vì ông chỉ huy
thí quân nhiều. Nhưng cái tên: “Ông Mười Thua” thì có thể oan cho ông . Sau
này, nhất là khi đ/v đã tiến vào PhnômPênh. Làm nhiệm vụ Quốc tế tại đất bạn.
Từ tính cách trong sinh hoạt của ông. Anh em trong Sư đoàn còn đặt thêm cho ông
1 cái tên nữa là: “ông Trăm Thứ ”.
Xe
dừng cách cổng tòa thánh khoảng 100m. Từ xa đã choáng ngợp bởi cái cổng lớn, có
dòng chữ lớn:” Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ”. Đúng là ở nơi đây, đã lâu rồi, tôi được
nghe mọi người hay nhắc tới Tòa Thánh Tây Ninh. Tôi cứ nghĩ tầm cỡ cũng giống
như Tòa Thánh Tin Lành trước cửa nhà tôi. Hồi nhỏ, tôi thường vào đó chơi.
Những sáng Chủ nhật, có 1 người Cha đạo mặc bộ đồ thờ màu đen, đeo tròng kính
trắng, nhẹ nhàng giảng đạo. Thấy bọn trẻ chúng tôi vào, Ông thường cho chúng
tôi mỗi đứa 2 cái kẹo. Kẹo rất ngon như là loại kẹo bây giờ. Chứ không giống
như những cái kẹo chanh, kẹo bột của chúng ta những năm chiến tranh. Nhưng
chúng tôi thường không giám ăn. Vì có mấy người lớn dọa là trong kẹo có thuốc.
Ăn vào là bị theo đạo.
Mấy
đứa chúng tôi đứng trước cổng, tôi đọc từng dòng viết trên cổng. Tòa thánh xây
dựng từ những 1930(?), mà mãi tới năm 1962 (?) mới xây xong cái cổng. Như vậy
là công trình kéo dài hơn 30 năm. Khuôn viên Tòa Thánh thật rộng, chắc có đến
hàng chục ha. To rộng như Thảo cầm viên Sài Gòn. Chúng tôi vào khu đền thờ
chính. Ngôi đền chính của Tòa thánh cao, to, uy nghi. Kiến trúc gần giống như các nhà thờ của đạo Thiên chúa. Bên
trong mọi người đang hành lễ. Những Tu sỹ trong bộ áo dài màu trắng đục đi lại
làm những bài lễ cầu khấn gì đó, mà tôi không rõ lời. Chính giữa điện trên cùng
là 1 quả cầu lớn, tượng trưng cho Trái đất, trong vũ trụ bao la. Có vẽ hình 1
con mắt rất lớn, có những tia hào quang tỏa ra xung quanh. Các giáo dân đang
quỳ lễ rất nghiêm trang. Miệng lầm rầm
đọc theo những câu kinh, hưởng ứng theo động tác nghi lễ của chủ lễ. Không khí
trang nghiêm có phần "lạnh". Lối kiến trúc của nhà thờ và Tòa thánh
gần giống nhau. Vòm trần cao rộng mênh mông, các giáo dân ngước nhìn lên cao.
Làm cho mọi người cái cảm giác rộng lớn, xa xăm của vũ trụ bao la. Mà con người
thì thật nhỏ bé.
Kiến
trúc đền chùa bên Phật giáo thì lại khác hẳn. Mái chùa thấp, bước vào chùa,
thường là phải bước rất cao mới qua được ngưỡng cửa. Đầu phải cúi, chứ nếu
không thì có cảm giác đầu sẽ đụng vào mái chùa. Tạo cho mọi người cảm giác cẩn
trong, lễ phép. Nhiêm trang, mà gần gũi. Trong chùa thường bầy xếp các tượng
Phật rất chật trội. Màu sắc sơn son, thiếp vàng, quyện với hương khói làm cho
mọi người cảm giác nồng ấm. Chứ không dùng gam màu lạnh như Nhà thờ hoặc Tòa
thánh (đó là cảm nhận của riêng của tôi).
Tam
Kỳ Phổ Độ, hiểu đơn giản tức là vũ trụ bao la có các đấng Thần linh tối cao trị
vì như Phật, là kỳ thứ nhất. Chúa Giesu, Đức Chúa trời là Kỳ thứ hai. Còn Đạo
Cao Đài đây, là thờ Thiên Nhãn tức là "Mắt Trời" gọi là Kỳ thứ ba.
Thủ đô của Đạo Cao Đài là ở đây. Tòa
Thánh Tây Ninh này, giống như đạo Hòa Hảo thì Thánh địa ở Châu Đốc, tỉnh An
Giang. Nhưng đạo Hòa Hảo, tôi không thấy có nhà thờ lớn. Mà chỉ thấy dân chúng
theo rất đông, nhưng hành lễ cầu khấn tại gia đình.
Tôi
kéo tay Cúc ra ngoài, như trốn chạy nghi lễ thiêng liêng có phần
"lạnh" đó. Trong lúc anh em tôi đang vui, với niềm vui của tuổi trẻ.
Khuôn viên rộng, cây cối nhiều, nhưng du khách cũng không đông lắm. 1 số thợ
ảnh lăng xăng mời kéo chụp ảnh. Chúng tôi cùng chụp chung, rồi chụp riêng mấy
bức hình. Hồi đó ở đây, những thợ ảnh chuyên nghiệp này, có 1 cách chụp ảnh rất
lôi kéo được khách. Là cùng 1 phim, người ta bịt đi nửa ống kính. Chụp làm 2
lần, ở hai vị trí khác nhau. Làm cho tấm hình được lồng ghép cảnh trí 2 nơi như
là cái bóng, các cảnh trí, hay cả Tòa điện thờ chính rất hấp dẫn đều trong 1
tấm hình.
Tôi
cầm tay Cúc, chậm chậm đi khắp mọi nơi. Hùng và cô bạn Cúc, như là cố ý tách
chúng tôi ra. Để cho 2 đứa được chuyện trò tự nhiên hơn thì phải. Tôi rất vui,
vui thật là vui. Cúc cũng vậy, đôi mắt Cúc long lanh ngời hạnh phúc. Nhưng với
tôi, thỉnh thoảng lại thấy như là mình nhỏ bé quá, bất lực quá thế nào ấy. Mỗi
khi chợt nghĩ đến nhiệm vụ, và cuộc sống hiện tại của tôi, của người lính
chiến, nay đây mai đó đang còn rất nặng nề.
Đã
trưa, chúng tôi ra 1 quán nhỏ ăn cơm. Gọi mỗi người 1 đĩa cơm, Cúc và bạn ăn
cơm gà. Còn tôi và Hùng ăn cơm sườn. Mỗi anh em làm 1 chai bia. Chị em Cúc thì
uống nước ngọt, mọi người cụng ly, chúc tụng nhau thật vui. Có lẽ cơm dĩa sườn
heo, không đâu ngon bằng ở đây. Miếng sườn thái to, được nướng vàng cháy xém
cạnh thơm phức, vài lát dưa leo, vài miếng cà chua, 1-2 cọng hành, mấy lá xà
lách, chút nước tương. Nhưng có lẽ chưa bao giờ tôi được ăn đĩa cơm sườn ngon
đến như vậy. Cái buổi trưa ấy, bữa cơm ấy, buổi đi chơi ấy, cho đến hôm nay. Nó
vẫn đang hằn sâu, đang hiện diện thường trực trong tôi như mới hôm qua. Chẳng
bao giờ phai nhạt.
Dự
xong lớp tập huấn tại Cao Xá . Tôi trở về đ/v cứ Búa Lớn, rồi hôm sau sang
chốt. Có mấy ngày đi vắng, mà cảm tưởng như là tôi đã xa Đại đội lâu lắm. Đại
đội đã được điều động anh em từ khắp các đ/v về. Anh Đạc Đại đội trưởng, anh
Tiến Chính trị viên trưởng, anh Quang Đại đội phó. Toàn những cán bộ có bản
lĩnh, có năng lực và nhiều kinh nghiệm
chỉ huy trong chiến đấu. Cán bộ Trung đội, Tiểu đội cũng đã được điều
động về đủ. Quân số của Đại đội đã được gần 50 tay súng.
Tiểu
đoàn còn tăng cường cả đ/c Dũng tác chiến xuống Đại đội. Cùng BCH tổ chức học
tập, các nghiệp vụ, kỹ thuật, chiến thuật. Lấy thực tế chiến trường, trận địa
chốt là thao trường thực binh cho anh em. Nhất là số ae tân binh 78, số ae 77
mới được điều từ phía sau lên. Về chính trị thì có các cán bộ trợ lý của BCT
Trung đoàn, Cán bộ Tiểu đoàn, xuống từng Trung đội, tổ chức học tập. Nâng cao
bản lĩnh, ý chí chiến đấu, tình hình Quốc tế, tình hình Cách mạng VN trong giai
đoạn mới. N/vụ chiến đấu và truyền thống của Đại đội, Tiểu đoàn, Trung đoàn, Sư
đoàn vv. Tích cực củng cố hầm hào, ụ chiến đấu và hầm có nắp đất. Để phòng
chống Pốt tập kích được tốt hơn.
Dư
âm của trận đánh ngày 18/7 vẫn còn nặng nề. Nhất là trong tâm trí của các bộ
các cấp. Mối thù với Pốt, món nợ với anh em còn đó. Anh Công và nhiều ae đang
còn nằm đó. Song hiện tại Trung đoàn, Tiểu đoàn chưa có phương án tấn công. Mà
theo chỉ đạo toàn Trung đoàn. Trong hiện tại, phải tổ chức phòng ngự tốt, chủ
động đánh địch tập kích. Nâng cao trình độ của cán bộ, chiến sỹ về mọi mặt.
Bọn
Pốt những ngày này, cũng không có dấu hiệu tấn công lớn, vào tuyến phòng ngự
của ta. Mà chỉ từ xa bắn hỏa lực. Từ trên bờ mương bắn 12,7, Đại liên vào chốt
của các đ/v.
Ở
chốt được 2 ngày, tôi lại được điều về tập huấn ở Quân đoàn 45 ngày. Tôi về cứ
của Đại đội Búa Lớn lấy quân tư trang. Rồi ra quán gặp và chia tay với 3 chị em
Cúc. Mọi người rất vui, vì tôi được về
phía sau học tập. Nhưng với Cúc, khi biết tôi về Sài Gòn, Thủ Đức học tập thì
rất buồn. Cúc bịn rịn gần như là cố nén để không khóc thành lời. Nhưng tôi cũng
cố kìm nén tình cảm của mình. Cầm 2 bàn tay Cúc, trào dâng bao nỗi xúc cảm.
Nghẹn ngào không nói được lên lời. Bối rối một lúc , rồi chợt bừng tỉnh. Như có
lời nói nào đó, nhắc: đây cũng dịp để chia tay, chia xa tình cảm với Cúc. Chấm
dứt sự trăn trở, giữa tình yêu mới đến, và nhiệm vụ nặng nề còn dài. Tôi bỗng
nói thật to như đánh thức, như khỏa lấp những ủy mị tình cảm của tôi, của Cúc,
của mọi người. Tôi nói: anh đi, cầu chúc em cùng mọi người vui khỏe và gặp
nhiều may mắn. Chúc em thật sự hạnh phúc, còn anh sẽ nhớ em, nhớ mãi. Nhưng anh
không thể mang lại hạnh phúc cho em. Tôi choàng tay, ôm Cúc rồi hôn vào má Cúc,
cái ôm, cái hôn thật nhanh. Rồi tôi cũng như người trốn chạy, chạy thật nhanh
về hướng xe ôtô cùng đồng đội đang chờ.
Trên
xe đã đông đủ, dường như còn đợi mỗi mình tôi. Anh em kéo tôi lên xe. Mọi người
nói đủ rồi. Tôi chưa kịp yên vị, xe đã nổ máy lên đường. Xe chạy chậm chậm qua
Búa Lớn. Qua quán của 3 chị em, tôi thấy
Cúc cùng 2 chị em ra đứng trước quán vẫy tay. Thoáng nhìn Cúc nét mặt không
được rạng ngời như mọi ngày. Mà buồn buồn, gượng cười, 1 tay vịn vào cô bạn, 1
tay giơ cao biểu cảm sự tiễn biệt chia xa ….
Xe tăng tốc, bụi đỏ cuộn lên, khoả lấp các
nhà cửa, hàng quán và mọi người phía sau. Tới Bến Sỏi, rồi qua thị xã Tây
Ninh. Những cánh rừng cao su bạt ngàn.
Rồi bắt vào đường 1, huyện Gò Dầu hướng về Sài Gòn. Mọi người đã hết ồn ã náo
nức. Hình như mỗi người đang có nỗi tâm sự riêng, suy nghĩ riêng. Tròn 1 năm ra
trận. Cái đêm đầu tiên ra biên giới, đoàn xe dừng ở đây, nghỉ tại đây, để xốc
lại đội hình. Thế mà đã tròn 1 năm. Một năm mà sao thấy quá dài với người lính
chiến. Bước chân người lính Sư đoàn, đã dong duổi khắp mọi nơi. Tây Ninh, Long
An, Châu Đốc, An Giang, Đồng Tháp, Hà Tiên, Kiên Giang. Chiến đấu liên tục,
không 1 ngày nghỉ ngơi. Sư đoàn đã chiến đấu hàng trăm trận lớn nhỏ. Chiến
thắng nhiều, những chiến công, đã làm rạng danh thêm truyền thống vẻ vang của
Sư đoàn. Làm cho quân thù, làm cho bọn Pốt phải khiếp sợ, đã gây được tình cảm
và niềm tin yêu của nhân dân dọc miền biên ải. Gây được uy tín, với các đ/v
bạn. Sư đoàn, từng đ/v, từng cá nhân 1 năm qua đã trưởng thành rất nhiều,
trưởng thành vượt bậc. Thật xứng đáng với truyền thống của Sư đoàn Anh hùng.
Truyền thống của của quân đội Việt Nam anh hùng.
Song
cũng 1 năm qua. Chiến đấu nhiều, đồng nghĩa với việc anh em cán bộ chiến sỹ
trong Sư đoàn cũng hy sinh nhiều, thương vong nhiều. Rất nhiều anh em đã hy
sinh, mãi mãi yên nghỉ dọc miền biên cương Tổ Quốc. Trong các nghĩa trang Liệt
sỹ, hoặc bên đất K. Do ác liệt của trận chiến, mà chưa thể tìm, chưa thể đưa
được anh em về với đất mẹ kính yêu.
Trên
xe hơn 20 anh em, đa số là lớp lính 72-74 đều trong hoàn cảnh, tình thế phát
triển cán bộ giống như tôi. Phát triển làm cán bộ Đại đội. Quân sự hay Chính
trị đều là do sự thúc ép của cuộc chiến. Như vậy là chúng tôi phải theo đuổi
đời binh nghiệp lâu dài. Tâm tư của mọi người đều muốn được trở về quê nhà.
Được sống cuộc đời bình dị như bao người. Được yêu, được làm chồng, làm cha,
cuộc sống lứa đôi hạnh phúc. Có hoa, có cảnh, có thơ, có nhạc. Đúng như người
nhạc sỹ nào đã sáng tác có câu hát, có giai điệu rất hay: “Cuộc đời chúng ta
thích hoa hồng, kẻ thù giục ta ôm cây súng”…Trong chiến đấu, lớp lính chúng tôi
là những hạt giống đỏ. Rất nhiều kinh nghiệm trận mạc, bản lĩnh chiến đấu rất
cao. Nhưng hầu như chưa ai được học qua các trường lớp bài bản, trong các
trường đào tạo Sỹ quan quân đội. Đây là dịp được trở về trường để tập huấn. Để
bổ túc những kiến thức còn thiếu của người chỉ huy cần có.
Xe
vẫn chạy, hàng quán bên đường vẫn đông đúc, qua trạm kiểm soát Suối Sâu, Trảng
Bàng. Nghe nói ở đây có trạm kiểm tra liên ngành rất nghiêm. Để ngăn những anh
em trở về phía sau, không có giấy tờ. Hoặc hàng hoá của dân mang về Sài Gòn.
Mục tiêu của trạm là rất đúng. Nhưng số cán bộ của trạm, nhất là cán bộ dân sự
đã hành động kiểm tra, kiểm soát thái quá, quan liêu, cửa quyền quá, gây nhiều
bức xúc cho dân, cho những người qua lại. Đã có nhiều vụ xô sát, mất đoàn kết
xẩy ra ở đây, giữa dân với trạm và cả giữa các đồng chí bộ đội với các lực
lượng. Gây lên những bất bình, những phản cảm không tốt trong dư luận.
Xe tiếp tục lên đường, Trảng Bàng, Biên Hoà
rồi giẽ vào xa lộ Đại Hàn, gần trưa thì tới căn cứ 301, Sóng Thần- Thủ Đức. Căn
cứ 301, là căn cứ của Sư đoàn 3, quân lực VNCH. Đây là một căn cứ rất rộng lớn.
Nay BTL Quân đoàn 4, đóng bản doanh tại đây. Các lớp tập huấn Quân sự, Chính
trị, các lớp từ Trung đội, Đại đội, Tiểu đoàn một tháng, tháng rưỡi, ba tháng,
sáu tháng đều tổ chức tại đây.
Vào
tới căn cứ 301 cũng khoảng 11h trưa. Mọi người nhanh chóng nhận phòng ở. Rồi
xuống nhà bếp ăn cơm. Bữa cơm đầu tiên của trường Quân Chính có thịt kho, đậu
phụ, rau muống luộc và cơm thì được độn bằng hạt "bo bo". Những năm
tháng này, không phải chỉ có bộ đội, phải ăn độn hạt này. Mà cả ngoài dân sự,
những người ăn gạo phiếu cấp hàng tháng. Hay cán bộ công nhân viên chức Nhà
Nước, cũng phải độn tới 30%.
Loại
hạt có tính lương thực này, nghe nói là của Ấn Độ. Bên đó họ để cho ngựa, cừu,
hay các loại gia súc ăn hạt ăn. Ta xin về, hoặc mua về, chắc vì nó rất rẻ so
với gạo. Hay là một loại viện trợ vay dài hạn gì đó. Cũng nói là để chăn nuôi
gia súc. Nhưng thực tế, là chúng ta phải sử dụng cho người. Nên mọi người ăn
loại hạt này không hợp. Mặc dù anh nuôi đã hầm, nấu và người ăn nhai cũng đã
kỹ. Nhưng làm sao mà hạt vẫn không tiêu,
khi ta đi cầu nó vẫn như còn nguyên hạt. Giống như con chồn ăn trái cà phê. Nó
tiêu hóa phần cùi, phần vỏ của trái caphê chín. Còn lại thải ra những hạt
caphê. Mọi người đi lượm những đống phân đó. Nhặt, đãi lấy những hạt cà phê về
rang xay chế biến, gọi là "Cà phê chồn" thơm, ngon, thật tuyệt. Giá
như những hạt bo bo, khi được thải ra qua người. Mà làm được cái gì đó như
caphe chồn thì hay biết mấy.
Được
nghỉ ngơi tại trường 1 ngày. Anh em bắt đầu vào chương trình học tập ngay. Lớp
tôi toàn những Sỹ quan chính trị, cấp phó Đại đội, gần 60 người. Đủ các đ/v
trong Quân đoàn. Đang ở đơn vị chiến đấu, tuy là vất vả, khổ cực. Nhưng nếp
sống, nếp sinh hoạt tương đối tự do. Giờ giấc thì thích nghi với hoàn cảnh của chiến
trường.
Còn
về đây học tập, Nhà trường quy định giờ giấc thật nghiêm. Từ 5h sáng dậy tập
thể dục. Vệ sinh cá nhân, rồi lên lớp học 4 tiết và về nghỉ. Giữa các tiết học
có giải lao 10’ như học sinh phổ thông. 11h15 có kẻng thì đi ăn cơm. Đi ăn cơm
cũng phải xếp hàng, đi từ khu vực nhà ở tới bếp. Rồi xếp hàng ngang 6 người để
vào nhà ăn. Khi ăn không được nói chuyện, ăn đũa hai đầu …v.v. Xuất ăn của
trường thì quá khiêm tốn, eo hẹp, chắc chỉ để cho đảm bảo được sự sống. Vì hiện
tại lại đang là chiến tranh. Mà chiến tranh thì có cái để mà so sánh cuộc sống
giữa phía sau và anh em chiến sỹ phía trước. Đại loại, nếu có ai kêu ca thắc
mắc gì, thì cũng được giải đáp ngay bằng một câu "anh em ngoài biên giới
còn khổ hơn mình rất nhiều".
Mọi
người vội vội ăn xong rồi về nghỉ trưa 1h30 chiều lại lên lớp học. Hoặc thảo
luận ở tổ ở nhóm tới 4h30 thì nghỉ. 5h chiều lại xếp hàng đi ăn cơm. Xong về
nghỉ ngơi đọc báo, nghe đài. 7h thì lại sinh hoạt học tập tới 9h tối. Đúng 10h
tối, mọi người đều phải tắt đèn đi ngủ. Không ngủ được, thì cũng nằm đó mà ngẫm
nghĩ sự đời. Được cái đây là phía sau, là hậu phương, là trong trường. Nên mọi
người không phải canh gác đêm. Mà chỉ có vệ binh của nhà trường canh gác. Canh
gác vì an ninh và cũng là để canh gác học viên. Không để học viên lẻn ra ngoài
la cà, rượu bia nhậu nhẹt. Hay những việc linh tinh khác. Đúng là đời học viên
Quân Chính như là một cái máy. Vô cùng gò bó, căng thẳng. Nên ai nhắc đến
trường Quân Chính, thì mọi người hay gọi theo cái tên khác là: “Trường Quân
Chán”. Hoăc: “Trường Quân Chối”.
Trong
thời gian học tập tại Thủ Đức. Ngày Chủ nhật, các học viên cũng được nghỉ. Đến
ngày nghỉ mọi người háo hức đi chơi. Hầu như đều về thành phố, nơi mọi người có
rất nhiều kỷ niệm. Rất nhiều người thân, nhiều nỗi nhớ trong thời gian 2 năm
làm quân quản.
Sáng
Chủ nhật đầu tiên. Tôi bắt xe Lam, đi vào khu vực sân bay TSN, thăm Lộc người
em trai của tôi. Là bộ đội Ra đa Trinh sát điện tử, đang đóng quân tại đó. Anh
em gặp nhau rất vui. Lộc cùng ae đồng hương trong đ/v vô cùng mừng, khi tôi đến
thăm. Vì trong những ngày qua, anh em không có tin tức gì của nhau. Lộc cùng
anh em bạn cùng đ/v rất lo cho tôi. Hàng ngày cứ thấy máy bay trực thăng, chở
các thương binh nặng về. Lộc cùng bạn ra xem. Rồi vào tận quân y viện 75 để tìm
tôi, hỏi thăm về đ/v tôi.
Chiến
sự dọc tuyến biên giới Tây Nam, ngày càng khốc liệt. Số lượng thương binh nặng,
được chuyển về viện 175 ngày càng nhiều. Một số thương binh, sau khi đã cấp
cứu, tạm ổn định, đã phải chuyển ra điều trị tại các bệnh viện khác. Kể cả phải
chuyển ra các bệnh viện quân đội ở các tỉnh Bắc.
Không
hỏi thăm được tôi, chỉ được các anh em thương binh nói rằng: Sư đoàn 341 tham
gia chiến đấu nhiều nơi . Tham chiến những trận rất ác liệt, nên ae thương
vong, hy sinh cũng nhiều lắm. Lộc càng lo cho tôi, nhất là thông tin về cuộc
chíên Biên giới Tây Nam, lúc này hầu như cả nước đã biết. Biết về cuộc chiến
tranh đang xẩy ra, tưởng chừng đơn giản. Nhưng ngày càng khốc liệt, lại rất
“hao người” này. Những tin tức của ae bị hy sinh thường được báo về người thân
rất nhanh. Không như thời đánh Mỹ, có nhiều trường hợp ae hy sinh mấy năm rồi
mà gia đình, cùng người thân không biết. Bố mẹ, anh chị em tôi ở quê rất lo.
Gửi thư vào cho Lộc, hối thúc Lộc tìm và hỏi thăm tin tức của tôi.
Ở
chơi với Lộc một lúc, tôi hẹn buổi trưa sẽ về ăn cơm. Rồi mượn xe đạp của anh
em trong đ/v Lộc, vào thành phố. Đường phố Sài Gòn vẫn đông đúc người đi. Những
nam thanh, nữ tú, quần áo đủ các màu sắc lung linh sặc sỡ. Vẫn thướt tha khêu
gợi. Những dòng người, xe đạp, xe máy, otô các loại cứ vội vã như đạng chạy,
đôn đáo với cuộc sống mưu sinh, thường nhật bận rộn. Cứ nhìn thành phố, và mọi
người thế này, thì chẳng có biểu hiện gì của đất nước đang có chiến tranh, đang
có những nguy cơ xẩy ra những diễn biến phức tạp trong đời sống xã hội. Những
con đường, dãy phố cùng nhà cửa, với tôi vẫn quen thuộc làm sao, thật gần gũi,
như tôi chưa từng rời xa bao giờ. Không thật định hình về hướng đi, điểm đến.
Mà sao tay lái cứ băng băng thẳng hướng ngã tư Bẩy Hiền theo đường Lý Thường
Kiệt, qua trường đua Phú Thọ, rồi tới khu vực chung cư Lý Thường Kiệt phường 7
quận 11.
Tới
đây tôi mới sực tỉnh ra. Dừng lại định tâm suy nghĩ, nhà Thanh ở kia. Chung cư
Lý Thường Kiệt lô A, tầng 3 phòng 308 nơi tôi đã ở đây cùng đội công tác 6
tháng. Tiếp đến cách 3 căn hộ là tới nhà chị Danh, tổ trưởng, rồi nhà Thanh ở
bên cạnh. Đây mới là người con gái đã gieo vào lòng tôi bao nhớ nhung, gieo vào
hồn tôi bao kỷ niệm đẹp của thời trai trẻ sau giải phóng, làm Quân quản tại
thành phố này.
Khoảng
tháng 4/1976 khi đ/v tôi làm Quân quản tại Quận 11. Tiểu đoàn tôi đóng quân tại
đồn Cây Mai, đường Lục Tỉnh. Quận và đ/v cử tôi làm đội trưởng 1 đội công tác 4
người. Gồm anh Thành, anh Thi, anh Ngân và tôi. Biệt phái về phường 7. Cùng các
đội công tác dân sự, làm công tác kê khai, nắm tình hình Tiểu thủ công nghiệp.
Với tên gọi của đợt công tác có mật danh là X4. Đợt công tác này nằm trong
chính sách cải tạo Tiểu thủ công nghiệp của Thành phố và toàn Miền Nam. 4 anh
em chúng tôi về phường 7, được phường sắp xếp ở tại căn hộ 308 lô A của chung
cư Lý Thường Kiệt.
Khu
chung cư này, nghe kể là của Hàn Quốc xây dựng ủng hộ chế độ VNCH, giành cho
dân nghèo. Bị mất nhà cửa, sau sự cố Tết Mậu Thân năm 1968. Khu chung cư gần
chục lô, nằm giữa các trục đường. Đường Trần Quốc Toản, nay là đường 3/2. Đường
Nguyễn Văn Thoại, nay là đường Lý Thường Kiệt, giáp với Quận 10. Và 2 bên đường
Vĩnh Viễn, chạy xuống tới đường Lê Đại Hành có UBND phường 7, khu vực chợ
Thiết.
Sau
khi về ở đây được mấy ngày. Qua nắm tình hình chị Danh tổ trưởng. Chị Danh là
một người phụ nữ gầy, nhanh mồm miệng, có chồng làm công nhân hãng nước ngọt
Chương Dương, được 2 cậu con trai khoẻ mạnh, tuấn tú. Đứa lớn khoảng hơn chục
tuổi, mập trắng. Trái ngược với ngoại hình của chị Danh. Người mẹ gầy yếu, lại
có bệnh đau bao tử. Đang phải bươn chải cuộc sống vất vả, sau ngày giải phóng.
Mưu sinh bằng nghề buôn bán quần áo chợ trời. Chuyện trò với chị Danh 1- 2 lần.
Chị Danh đã rất nhanh chóng quý tôi. Chị nói: ở tổ có cô Thanh tổ phó, năm nay
mới 16 tuổi xinh đẹp. Rất nhiệt tình với phong trào của tổ, đang tham gia với
đoàn văn công của Quận. Thường đi biểu diễn khắp nơi, để tôi giới thiệu cho chú
làm quen.
Tối
hôm sau, chị Danh hẹn tôi sang nhà. Rồi
gọi Thanh sang, nói lý do là có mấy chú bộ đội về công tác, hỏi thăm tình hình
của tổ dân phố. Chị Danh nói trước với tôi; Thanh còn trẻ, đang còn đi học. Rất
nhiệt tình với công tác của tổ, là thành viên tích cực trong đội văn công của
Quận. Từ sau giải phóng đã có nhiều chú bộ đội, công an, về làm công tác quân
quản, kê khai nhân khẩu v.v.. nhiều chú cũng đã có lời nhắn nhe để ý. Có lẽ vì
Thanh còn quá trẻ, nhưng phần quan trọng là có vẻ không ưa các chú bộ đội,
không ưa các chú công an cho lắm. Thanh nói:
"Trông họ cứ quê quê thế nào ấy!”.
Thanh
vào nhà, hơi bất ngờ vì có tôi ở đó. Qua một vài câu xã giao, giới thiệu của
chị Danh. Thực ra tổ công tác của tôi đã về ở đây được mấy ngày rồi, Thanh cũng
đã biết. Hàng ngày đi học, đi chợ hoặc đi đâu đó. Cũng phải qua căn hộ 308, thì
mới tới căn hộ của nhà Thanh. Nhưng thực tình tôi cũng chưa gặp Thanh. Vì ban
ngày chúng tôi phải bận bịu với công việc ở phường, tối về muộn. Đứng hóng gió
một chút, rồi đi nghỉ. Nên với tôi hôm nay gặp Thanh cũng thật bất ngờ. Bất ngờ
vì Thanh còn quá trẻ, mà đã đảm trách công việc tổ phó tổ dân phố. Bất ngờ nữa
là giữa Sài Gòn, gặp một người con gái có da trắng, để tóc rất dài như phụ nữ
ngoài Bắc. Thanh có đôi mắt đen láy, làn môi đỏ hồng tự nhiên. Nhìn Thanh, thật
lạ, tôi cảm thấy gần gũi làm sao, như đã quen biết từ lâu. Hơi bất ngờ khi
Thanh gọi tôi bằng "chú". Tôi liền nói: "Thanh bằng tuổi em gái
anh ở quê, nên Thanh đừng kêu anh là chú, ngại lắm". Thanh nhìn tôi, như
là để kiểm tra xem tôi có nói xạo hay không rồi nói: "ủa vậy hả chú, à
quên nếu thế thì cháu gọi Chú Phú là anh được rồi". Sau này tôi mới biết,
tôi bằng tuổi anh hai của Thanh.
Chị
Danh pha xong mấy ly nước chanh mang ra, nói trêu thêm vào: "Chú thấy
không, gặp chú là cô ấy lúng túng, lúc thì gọi chú, lúc thì gọi anh vui
không?" Mọi người cười vui. Thanh
thẹn thùng, 2 má đỏ hồng rồi hỏi chị Danh: "Chị có hỏi gì nữa không
để Thanh còn về học bài". Và chủ động nói khi nào rảnh rỗi, mời tôi sang
nhà chơi. Rồi Thanh vội vội đi gần như chạy về bên nhà.
Mấy
ngày sau tôi sang nhà Thanh chơi. Gia đình Thanh cũng đông người. Quê gốc ở Hải
Phòng, di cư vào Nam năm 1954. Hiện ông bố đang làm thợ may. Mẹ bán hàng rau
quả ở chợ. Thanh có người anh trai cả cũng bằng tuổi tôi. Là lính của QLVNCH
được sang học lái máy bay ở Mỹ. Nhưng khi khóa học gần kết thúc, tình hình Miền
Nam gần đến giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh. Anh trai Thanh, đã cùng mấy
người bạn cùng khóa đào ngũ. Không trở về Việt Nam, mà trốn sang định cư sinh
sống ở Canada.
Tiếp
đến là 1 anh trai nữa, kém tôi 2 tuổi. Anh là người có tri thức cao, rộng. Đang
làm kế toán của 1 hãng nào đó. Một chị gái, cùng một người em trai út. Người
anh thứ 2, thường hay nói chuyện với tôi. Hai anh em rất nhanh hợp gu, khi nói
về các tác phẩm văn học, hay âm nhạc. Về văn học, thì đều nói về các tác phẩm
văn học nước ngoài như: Bá Tước Mongtơgờrixito, Cánh buồm đỏ thắm, 3 người lính
Ngự Lâm. Trà hoa lữ, Hội chợ phù dung. Hoàng hậu Mác gô của văn học Pháp. Hay
Người tình tuyệt vời văn học Mỹ. Điệp
viên 007, truyện viễn tưởng thì có tác phẩm 20.000 dặm dưới đáy biển. Về âm
nhạc, thì hay nói đến giai điệu của những bản nhạc như: Vũ khúc Tây Ban Nha,
Panoma, Xifpole, Trở về Xô ri an tô …v.v
Hai
anh em chúng tôi, cũng hay đàm đạo về một số lĩnh vực cuộc sống khác. Thực ra những hiểu biết này cũng đơn
giản. Là vì tôi từ bé đã sống ở Thị xã, trước khi đi bộ đội đã làm việc ở xưởng
đóng tàu Hải Phòng. Tôi lại cũng ham đọc sách nhất là văn học nước ngoài. Học
chơi đàn Ghita. Nên đó chỉ là những hiểu biết thông thường, của thanh niên
Thành phố, Thị xã lúc đó.
Nhưng
cũng chính qua các cuộc nói chuyện và đàm đạo đấy. Với những hiểu biết đó, mà
anh trai Thanh, ba má Thanh rồi cả nhà Thanh. Cùng các hộ dân cư ở đó, rất quý
tôi. Coi tôi là người có "trình độ" khác với các chú bộ đội khác. Chỉ
biết có súng, có đạn và những bài nói rất giống nhau về Chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa Cộng sản hay Tư bản là bóc lột …v.v. Anh em bộ đội mình, thì đa phần là
sống ở nông thôn, rừng núi. Trong điều kiện đất nước có chiến tranh triền miên,
nghèo nàn và lạc hậu. Bà con và thanh niên, sinh viên học sinh Sài Gòn, thì hay
hỏi nhiều thứ linh tinh. Để kiểm tra trình độ của bộ đội. Để so sánh giữa 2
miền Bắc - Nam.
Cũng
rất buồn cười là, ở miền Bắc hồi đó làm gì đã có tivi, tủ lạnh. Nghe đâu chỉ
mỗi Bộ và trên Trung ương, mới có 1 cái ti vi gọi là: "vô tuyến truyền
hình". Cho nên khi bà con hỏi bộ đội ngoài Bắc có tivi không? Một số anh
em không biết tivi là gì, mà lại cứ nghĩ là miền Bắc cái gì cũng có. Bao giờ
cũng phải nhiều và hơn hẳn miền Nam. Vì thế một số anh em đã trả lời đại đi là:
"Có chứ, tivi nhiều lắm, chạy đầy đường". Đây cũng là một câu chuyện
khôi hài, mà có thật, trong những ngày đầu giải phóng. Nó tựa tựa như mấy câu
thơ, của nhà thơ Trần Việt Phương như: "Ngày xưa tôi cứ tưởng, đồng hồ
Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sỹ/ mường tượng rằng, trăng Trung Quốc tròn hơn
trăng nước Mỹ…"
Tôi
nhanh chóng được lòng mọi người, và như vậy Thanh cũng có những biểu cảm quý
mến tôi. Những buổi chiều đi công tác về, hoặc sau buổi ăn cơm chiều, tôi sang
bên đó chơi. Tôi và Thanh thường hay đứng trước ban công. Nhìn qua các nóc nhà
thấp, những hàng cây. Ngắm đường phố chuẩn bị lên đèn, nhộn nhịp, tấp nấp người
qua lại. Thanh nói là vẫn đi tập vũ Bale “múa”, ở trung tâm văn hóa. Rồi làm
cho tôi xem những động tác cuộn tròn các ngón tay, rất điêu luyện. Đến giờ tôi
vẫn còn nhớ đôi bàn tay thon dài, trắng ngần đó.
Đợi
cô bạn Thanh đi khuất, tôi dắt xe xuống đường. Thanh ngồi sau xe, tôi chậm chậm
đạp xuôi theo đường Lý Thường Kiệt, rồi quẹo trái theo đường Trần Hoàng Quân(
nay là đường Nguyễn Chí Thanh). Hòa theo dòng người về hướng Sài Gòn. Trong
lòng tôi trào lên bao cảm giác lâng lâng khó tả.
Đường
Sài Gòn đã rất đông, dòng người xe đạp, xe máy, đi như nước chẩy. Thời đó xe
máy không nhiều như bây giờ. Mọi người đi xe đạp là chính. Những đôi trai gái
cùng ngồi trên xe, người con gái ngồi sau ôm cứng chàng trai phía trước. Ở
ngoài Bắc mọi người ngồi sau xe đạp không như ở đây. Chỉ có em nhỏ mới ngồi sau
để 2 chân sang 2 bên. Người lớn thì ngồi sau để 2 chân về 1 phía. Thường là khi
xe đạp di chuyển mới chạy chạy nhẩy lên xe. Chỗ ngồi sau cũng thường không có
cả chỗ để chân. Xe đạp ngoài Bắc thì không có loại xe mini, cỡ vành nhỏ như ở
đây. Nhiều người phụ nữ thấp, phải nhẩy nhẩy mấy lần mới lên được xe. Cách
nhẩy, cách ngồi trên xe rất vất vả. Còn ở đây mọi người thường ngồi lên xe
trước khi xe chạy. Nên người ngồi sau cũng nhàn nhã, chắc chắn hơn nhiều so với
cách ngồi sau xe ở ngoài Bắc.
Thanh
ngồi cách xa tôi, hai tay Thanh vịn vào sau xe như cố ý giữ khoảng cách, để
không động chạm vào tôi. Với khoảng cách như vậy, nhưng trong gió thoảng, tôi
vẫn cảm nhận được mùi thơm của da thịt con gái, khiến bao cảm xúc dâng tràn
trong lồng ngực. Tôi chưa biết bắt chuyện như thế nào, mà vẫn im lặng đạp xe,
nhìn đường phố, nghĩ ngợi mông lung và hít hà cái hương thơm trong gió ấy.
Thanh lại là người chủ động nói trước. "Anh Phú ơi, lần sau khi mời Thanh,
anh đừng có nói là mời đi chơi nha, nghe nó kỳ lắm". Tôi nói: "Vậy
anh nói thế nào khi mời em?". "Ở đây, khi nói hai từ "đi
chơi" thì người ta thường nghĩ đến những chuyện chơi bời, trác táng không
đàng hoàng. Anh phải nói là mời Thanh đi dạo phố, đi vòng vòng hay đi ăn kem
v.v...". "Ở ngoài Bắc, nói đi chơi là bình thường, chứ không có nghĩa
xấu gì trong đó cả. Nhưng anh sẽ rút kinh nghiệm không nói đi chơi nữa"
Tôi
chở Thanh vào hướng Sài Gòn, hòa cùng dòng người. Qua các đường phố, qua khu
chợ Bến Thành, vòng dọc bến Bạch Đằng. Sài Gòn về đêm thật đẹp. Đúng là: “ Hòn
ngọc Viễn Đông”. Chỗ nào cũng lộng lẫy ánh đèn mầu, nê-ông sáng rực. Các nam
thanh nữ tú, tài tử giai nhân với những bộ đồ tuơi tắn, trang điểm thật đẹp.
Trong ánh điện lung linh, như làm cho vẻ đẹp của mọi người càng thêm ngời sáng.
Buổi tối Sài Gòn thật mát mẻ. Tất cả cái nóng bức, oi nồng của ban ngày đã được
gió biển, gió sông xua tan, một làn không khí mát rượi dịu nhẹ. Thêm nữa, có
những sợi tóc của Thanh bị gió đùa nghịch làm tung bay quyện vào lưng gây cho
tôi cảm giác là lạ thật dễ chịu. Hàng quán san sát, người ra kẻ vào tấp nập,
tiếng í ới gọi nhau cùng những tiếng chạm ly côm cốp, rôm rả ồn ào, tạo nên một
khung cảnh đặc biệt về đêm của thành phố Sài Gòn ... Thấp thoáng trong bóng
tối, nơi gốc cây, có những cô gái trang điểm sặc sỡ, đang ngó nghiêng bồn chồn
đợi khách.
Hết
một vòng Sài Gòn, tôi chở Thanh ngược về qua đường Phạm Ngũ Lão. Đường này có
rạp chiếu phim tên “Quốc Tế”. Tôi mời Thanh vào xem phim. Thanh ngập ngừng một
lúc rồi gật đầu nhè nhẹ đồng ý và ngước lên nhìn tôi nói nhỏ: "Vô xem
phim, anh Phú phải giữ cho em đó! Không thôi em sợ lắm!" Tôi ngây thơ đến
độ không hiểu được ý sâu của Thanh rồi nói: "Có anh em còn sợ gì? Sợ mất
gì à? Có gì thì đưa anh giữ cho?". Thanh cúi đầu mỉm cười, đoán chừng tôi
không hiểu ý ... Trong ánh đèn mầu rực rỡ trước rạp. Nhìn Thanh, biết rằng
Thanh đang rất thẹn, rất ngại, như suy nghĩ điều gì. Nhưng chính sự e thẹn đó,
lại làm dậy lên cái vẻ đẹp con gái, vẻ đẹp của thiếu nữ, của thiên thần. Đẹp,
đẹp mê hồn. Trống ngực tôi đập thình thịch, bừng lên những cảm xúc ngọt ngào,
ngất ngây hạnh phúc.
Cho
đến bây giờ, tôi vẫn không thể quên những hình ảnh đó. Hương thơm của da, của
tóc con gái, làn môi, nụ hôn đầu đời ngọt ngào vụng dại. Với người con gái Sài
Gòn xinh đẹp. Trong buổi tối thiên đường ấy.
Tiếng
kèn hơi của chiếc xe tải lớn chạy ngang qua, cắt đứt dòng hồi tưởng của tôi.
Đưa tôi trở lại thực tế. Có nên gặp Thanh không? Con tim cứ thôi thúc mong muốn
được gặp. Còn lý trí thì lại nói rằng: "Đừng gặp!"
Vì
mình đã chia tay với Thanh rồi, khi đơn vị được lệnh đi chiến đấu ở biên giới.
Dịp tết, mình hẹn Thanh đi chợ hoa, nhưng bất ngờ có chuyến về thăm nhà ngoài
Bắc. Nên không thực hiện được. Vậy những ngày qua, Thanh nghĩ gì về tôi? Chắc
Thanh trách tôi, giận tôi nhiều lắm! Hay Thanh chờ đợi tôi? Không! Thanh giận
tôi thì có, còn chờ đợi thì chắc là không? Vì những lời chia tay tôi đã nói ra
rồi và tôi bặt tin từ đó đến giờ! Thời gian trôi qua đã làm cho Thanh đẹp thêm
lên. Giờ đây,Thanh đang ở tuổi 18, đỉnh cao của sắc đẹp con gái. Sẽ có biết bao
chàng trai theo đuổi. Họ sống ở thành phố, bao nhiêu thuận lợi, bao hứa hẹn
mang lại cho Thanh cuộc sống lứa đôi và gia đình hạnh phúc.
Còn
tôi, tôi vẫn chỉ là người lính chiến với ak súng dài nơi sa trường. Suốt ngày
phải đối diện với gian lao, khổ cực, biền biệt xa xăm. Sự sống và cái chết mỏng
tanh như tờ giấy, nhỏ bé như sợi tơ hồng. Vậy làm sao tôi có thể mang lại hạnh
phúc cho Thanh? Hay chỉ mang lại những chuỗi ngày chờ đợi gian khổ, héo mòn
trong nhung nhớ...?
Tôi
dắt xe xuống đường, lên xe chậm chậm xuôi theo dòng người. Mới lúc trước từ đơn
vị Lộc ra, tôi đạp xe chạy băng băng. Sao giờ đây cũng chiếc xe này, mà sao nó
ì ạch, nặng nề, như là đang có ai níu giữ phía sau. Mồ hôi tôi vã ra. Tôi uể
oải rẽ vào hàng nước mía giải khát bên đường. Gọi một ly uống, nín một hơi hết
ly nước mía. Tôi gọi tiếp ly thứ hai. Bắt đầu mới nhâm nhi từng miếng nhỏ. Mới
tận hưởng được cái ngọt của nước mía, cái mát của đá lạnh, cái vị thơm của dứa,
của tắc, của dâu tây ép cùng. Ly nước mía thứ nhất làm cho tôi giải nhiệt. Ly
thứ hai này, làm cho tôi lấy lại tỉnh táo, bình tĩnh và bản lĩnh thường nhật.
Nước
mía Sài Gòn thật ngon. Có lẽ không ở đâu uống nước mía ngon, bổ, rẻ, như là
uống ở Sài Gòn. Thứ nước giải khát này, mà trong những ngày chiến đấu nơi biên
ải. Giữa nắng trưa thiêu đốt, giữa cánh đồng mênh mông, khét lẹt mùi thuốc
súng, đặc khói của cỏ cháy, lúa cháy. Giữa những lúc thèm khát được uống nước,
khát khô, khát bỏng. Tôi thường mơ: "Khi nào về Sài Gòn sẽ mua cả một xô,
một chậu lớn mước mía. Để rồi gục đầu xuống, vừa gội đầu, vừa uống nước mía cho
thỏa thích. Bù lại cho những lúc khát thèm nước nơi chiến trường".
Nhâm
nhi hết ly nước mía thứ 2, đã thấy đỡ căng thẳng. Tôi trả tiền nước, cũng không
lấy lại tiền thối. Rồi quyết định đến thăm một vài gia đình quen biết, gần khu
vực đồn Cây Mai. Hồi đơn vị đóng quân ở đấy tôi thường đến chơi.
Gia
đình tôi tới chơi, mọi người rất vui khi gặp lại tôi. Mời tôi uống cà phê, rồi
hỏi thăm về anh em trong đơn vị. Tôi kể về từng người mà bà con hỏi thăm. Ai hy
sinh, ai bị thương, ai được trở về quê hay đi học. Mọi người tỏ ra rất thương
xót cho anh em. Rồi bà con kể về cuộc sống hiện tại, từ khi chúng tôi không làm
Quân Quản nữa. Thôi thì đủ thứ chuyện: nào là chính quyền mới, nhất là một số
cán bộ 30/4 rất sách nhiễu bà con. (Cán
bộ 30/4 là lớp cán bộ tham gia từ ngày giải phóng). Cuộc sống bây giờ vô
cùng khó khăn thiếu thốn, thiếu gạo, thiếu củi, thiếu dầu, thiếu thuốc, thiếu
xăng. Thiếu thốn tất cả các thứ đồ dùng sinh hoạt, nhu yếu phẩm thiết yếu của
cuộc sống. Rồi má chỉ vào một chậu đựng gạo. Bên cạnh là một cái chén đã có một
ít thóc, một ít hạt sạn. Má nói: “Đấy con xem, gạo rất khó mua. Mà gạo như vầy,
lẫn cả sạn cát, cả thóc vào, người ăn sao nổi? Hư răng, hư bao tử hết thôi. Thứ
này ngày xưa thì chỉ để nấu cám cho heo ăn.
Bây
giờ tôi mới quan sát kỹ lại căn nhà và nhìn quanh phòng. Hình như phòng rộng
hơn trước nhiều. Cái tủ lạnh để ở góc kia mà không thấy đâu. Tôi hỏi: "Uả
tủ lạnh Má hư mang sửa hay sao mà không thấy?". Má cười trên nét mặt lộ
những nỗi buồn, má nói: "Bán hết rồi con ơi! Không phải một nhà Má mà rất
nhiều nhà phải bán, từ tủ lạnh, ti vi, quần áo, tủ bàn ghế, đến xe honda, máy
may. Những gì ngày xưa sắm được, thì bây giờ lại bán đi ráo trọi rồi. Bán để
lấy tiền mua gạo. Tôi lại hỏi một câu rất ngớ ngẩn: "Uả ai mua mà nhiều
thế hả má?" Má nói: "thiếu gì người mua, nhất là số cán bộ ở ngoài
Bắc vào, mua để có tiện nghi trong gia đình, và họ mua để chuyển ra Bắc nhiều
lắm. Ô tô, tàu biển, chuyến nào cũng chở đầy hết. Những thứ như xe đạp cũ, thời
trước còn tốt hay những đồng hồ oDo hư đã lâu. Hay những loại xe môbilet cũ
rích cũng được sửa lại, bán được tiền không đó".
Tôi
lặng người đi, rồi nỗi buồn ập đến. Đúng là hiện tại, cuộc sống của dân ở Miền
Nam. Nhất là cuộc sống của bà con ngay tại Thành phố. Đang vô cùng khó khăn
thiếu thốn đủ đường. Chính quyền các cấp, đang áp dụng một số chính sách quản
lý như vào Tổ hợp, vào HTX, vào Công ty
hợp doanh v.v... rồi ngăn sông cấm chợ, không cho hoặc rất hạn chế mang lương
thực, thực phẩm vào Thành phố. Chính quyền lại áp dụng chính sách mua lương
thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm bằng tem phiếu như ngoài Bắc. Tưởng chừng rất
khoa học, nhưng lại không phù hợp với thực tế. Không phù hợp với một vùng miền
mới giải phóng, có tiếng là giàu có về gạo và lương thực, thực phẩm này.
Nên
tình hình xã hội có nhiều bất ổn, nhất là sau giải phóng đã được mấy năm. Sự
kiện “tắm máu” không xẩy ra. Một số phần tử phản động đã trỗi dậy, nhen nhóm
các tổ chức. Hòng phá hoại, hay ý đồ lật đổ chính quyền. Một số bà con người
Hoa thì bị xúi giục, bị xuyên tạc về tình cảm gắn bó hữu nghị của 2 dân tộc.
Nên đã có một vài cuộc biểu tình, chống phá hoặc truyền đơn phản đối chính
quyền ở khu vực Chợ Lớn v.v.. Quan hệ giữa ta và Trung Quốc, có nhiều diễn biến
phức tạp. Đã có nhiều gia đình, bồng bế nhau, bỏ nhà cửa, bí mật xuống tàu vượt
biên sang định cư ở nước khác.
Ôi!
Thật phức tạp. Khi được nghỉ về chơi ở Thành phố. Tôi tưởng sẽ vui, việc quyết
định gặp Thanh hay không, đã làm cho tôi khó xử. Giờ đây, được biết thêm về
tình hình cuộc sống thực tế của bà con Sài Gòn. Làm cho tôi lại càng ngán ngẩm
hơn. Tôi nói với má: "Đúng là đất nước đang gặp rất nhiều khó khăn. Không
ai nghĩ rằng cuộc chiến tranh Biên giới với Campuchia lại xẩy ra. Đã có rất
nhiều bộ đội, đã qua cuộc chiến tranh giải phóng nay lại phải hy sinh nơi Biên
giới để bảo vệ Tổ quốc. Trong lúc này, nhà nước lại phải đang trả một số nợ,
vay của các nước, trong thời kỳ chiến tranh. Mỹ thì lại cấm vận mình, không cho
mình mở mang bang giao với các Quốc gia khác. Càng làm cho chúng ta khó khăn
hơn!".
Chuyện
trò với Má một lúc, rồi tôi trở về chỗ đ/v Lộc trong sân bay Tân Sơn Nhất.
Đường phố Sài Gòn vẫn thế. Nhưng trong lòng tôi, thì thật nặng nề với bao nỗi
niềm khó tả.
Tôi
về chỗ Lộc với tâm trạng không vui. Nhưng rồi khi anh em bê mâm cơm ra có đủ
rượu, bia, rau thơm, ớt cay và hành thái. Các bạn bè đồng ngũ với Lộc vô tư, ồn
ào sôi nổi. Làm cho tôi quên đi những tâm sự nặng nề. Tôi nhanh chóng hòa nhập
vào tiệc rượu cùng anh em. Chú Lộc tuyên bố: "Hôm nay anh Phú về, chiêu
đãi anh món thịt thỏ nấu sốt vang". Do chính tay Thắng bạn Lộc biểu diễn.
Đúng
là bộ đội. Các sắc lính khác sao mà vui, sao mà sướng thế. Họ là đơn vị rada
điện tử, nên từ ngày nhập ngũ đến tham gia các chiến dịch. Hiện tại đang đóng
quân tại sân bay. Nhưng chưa một ngày nào hành quân phải đi bộ. Tiêu chuẩn nhu
yếu phẩm cao hơn chúng tôi nhiều. Chẳng bù cho thằng lính bộ binh súng dài
chúng tôi. Hành quân cơ động, hay tập luyện đều bằng sức người, bằng đôi chân,
mang vác bằng 2 vai là chính. Thiếu đói, khổ cực trăm đường. Tôi nhìn anh em
nhậu thật sôi nổi. Mọi người tranh nhau chúc rượu tôi. Tiệc rượu thật vui,
nhưng sau cứ một lần cụng ly, là tôi lại nhớ tới anh em, nhớ tới đơn vị. Nhớ
tới từng khuôn mặt những anh em cùng tôi đã chiến đấu, cùng tôi chịu bao đói
khổ, rồi hy sinh, rồi bị thương nơi chiến trận. Uống rượu mà tôi không sao lấy
được cảm giác vui, mà lại thấy tủi tủi, cay cay. Nước mắt tôi ứa ra chảy dài
xuống má.
Ở chơi
chỗ Lộc đến 3h chiều, tôi chia tay anh em . Lộc lấy xe đạp chở tôi ra khu vực
Lăng Cha Cả đón xe. Tôi trở về trường Quân chính sau một ngày đi chơi, với bao
buồn vui lẫn lộn. Cũng chính từ buổi đi chơi này. Tôi được biết thêm hoàn cảnh
khó khăn, cuộc sống thực tại của người dân Sài Gòn.
Những
ngày Chủ nhật sau, anh em chúng tôi thường ngại không ra ngoài trường, hoặc về
chơi ở Thành phố. Tôi đến chỗ Lộc 1- 2
lần nữa, còn lại những ngày nghỉ tiếp. Anh em học viên chúng tôi thường góp
tiền, cử người ra ngoài mua gà, mua vịt, mua rượu về tự nấu nướng. Tổ chức nhậu
với nhau, rồi chơi cờ, chơi bài cho hết ngày.
Học
ở trường mãi, nhàn rỗi quá lại thấy chán. Anh em học viên, ai cũng thấy nhớ
nhà, nhớ anh em. Muốn khóa học mau chóng kết thúc để có thể được nghỉ phép về
thăm gia đình. Hay trở về đơn vị.
Kết
thúc khóa học, nhà trường tổ chức một buổi nói chuyện, về tình hình thời sự
trong nước và Quốc tế. Qua buổi nói chuyện, mới thấy được chúng ta đang gặp vô
vàn khó khăn. Về quan hệ Quốc tế thì đang có nhiều bất lợi cho ta. Mỹ vẫn tăng
cường cấm vận. Trong phe XHCN, đã có dấu hiệu tan vỡ, hay thay đổi chính sách.
Một số nước anh em thân thiện, hoặc các nước trung lập. Trong chiến tranh chống
Mỹ, thì họ rất ủng hộ ta. Giờ đây họ lại lên tiếng phản đối ta. Cho rằng chúng
ta là nước lớn mạnh, bắt nạt, ăn hiếp nước bé v.v...
Tập
đoàn phản động Bắc Kinh, thì đã ra mặt gây khó khăn cho ta. Gần như công khai,
ủng hộ chế độ diệt chủng Khơ Me Đỏ. Chúng đang có nhiều chuyên gia, Cố vấn giúp
cho Khơ Me Đỏ xây dựng sân bay Quân sự, Quốc phòng, tăng cường cung cấp rất
nhiều vũ khí vv…Chiến sự dọc tuyến Biên giới Tây Nam, vẫn đang hết sức khốc
liệt. Bọn Pốt đã lại xua quân lấn chiếm một số vùng dọc tuyến Biên giới Tây Nam
của ta. Như An Giang, Bẩy Núi, chúng chuẩn bị lực lượng để ý đồ tổng tiến công
mùa khô 78-79. Với tham vọng ngông cuồng là Tết 78-79 sẽ chiếm huyện Châu
Thành, Gò Dầu, và thị xã Tây Ninh. Làm bàn đạp tấn công các tỉnh phía Nam và
Sài Gòn.
Hướng
Tây Ninh, nhất là hướng rừng Hòa Hội. Là địa hình có lợi cho chúng, vì khu rừng
rộng lớn phía Tây sông Vàm Cỏ. Chúng đã điều động các Sư đoàn mạnh về hướng
này, với ý đồ đánh chiếm rừng Hòa Hội làm bàn đạp cho âm mưu lớn. Lực lượng
cách mạng chân chính của Bạn mới phôi thai, còn trong trứng nước.
Nói
chung, đất nước chúng ta đang gặp rất nhiều khó khăn. Tình hình chiến sự, của
cuộc chiến tranh Biên giới Tây Nam vẫn còn vô cùng phức tạp. Ta cũng đã có kế
hoạch đối phó với Bọn Pốt. Mùa khô tới, nhưng cụ thể thế nào còn trong bí mật.
Chính vì những khó khăn trên, nên các đồng chí đừng có nói đến chuyện đi phép
về thăm gia đình. Mà Biên giới đang mong đợi chúng ta. Đơn vị đang mong chờ
chúng ta. Các đồng chí phải về đơn vị gấp. Chiều nay trường sẽ tổ chức liên
hoan chia tay với lớp học. Sáng mai có xe của Quân đoàn đưa các đ/c trở về đơn
vị.
Anh
em chúng tôi tiu ngỉu, thoáng buồn vì không được đi phép. Thế là tôi cũng không
đến chỗ Lộc chơi, chia tay với Lộc được nữa. Hôm sau, sau khi ăn sáng 7h đã có
xe đến. Anh em tôi lại lên xe. Hướng
Biên giới thẳng tiến. Sau gần 50 ngày, chúng tôi lại trở về đơn vị. Con phà Bến
Sỏi lại đưa chúng tôi qua sông. Rừng Hòa Hội, Búa Lớn những cây thốt nốt lại
hiện ra quen thuộc. Xe dừng lại khu vực cứ của Trung Đoàn. Đ/c chủ nhiệm Chính
trị gặp gỡ chúng tôi. Lại một bài giáo huấn về tình hình thời sự, tình hình
Trung đoàn cùng các đơn vị, từ ngày chúng tôi đi tập huấn. Đ/c hoan nghênh chúng tôi đã đi học, trở về 100% quân số.
Trước mắt đ/c nào, ở đơn vị nào, thì cứ về đơn vị đó. Nếu có thay đổi nhiệm vụ,
thì Trung đoàn sẽ có quyết định điều động sau. Các đ/c về cứ của đơn vị mình
nghỉ ngơi. Nắm tình hình, rồi ngày mai tất cả trở vể chốt của Đại đội mình.
Tôi
về cứ. Ngang qua quán của Cúc, tôi ghé vào chơi. chỉ có 2 chị em của Cúc. Họ
vui, hồ hởi khi gặp tôi. Hỏi thăm tôi đủ thứ từ ngày tôi đi học. Hỏi về tình
hình Sài Gòn. Tôi chưa kịp trả lời thì họ đã hỏi sang câu khác. Không thấy Cúc,
tôi hỏi: "Cúc đâu hả em?". Đang vui bỗng thấy hai chị em chùng
hẳn xuống, một cô nói: "Cúc hôm nay
không sang. Từ hôm anh Phú về Sài Gòn Cúc buồn lắm. Làm sao anh để cho chị Cúc
buồn thế?" "Anh có làm gì đâu?" Cô em nói tiếp: "Hồi này
chị Cúc ít sang đây lắm. Cũng có mấy người bộ đội hay đến chơi. Ngỏ lời yêu
đương với Cúc, nhưng chị Cúc chưa nhận lời ai. Chị vẫn nói: "Không ai được
như anh Phú cả. Nhưng mà anh ấy cao xa, lý tưởng quá."
Tôi
cũng lặng người đi khi nghĩ đến Cúc. Mình có lỗi gì không? Cúc không hiểu thôi.
Mình đâu phải là người cao xa hay lý tưởng. Mà chỉ là người lính có ý thức, có
kỷ luật chấp hành nghiêm túc các quy định, nhiệm vụ của quân đội. Thôi! Cũng
may, khi tôi không gặp lại Cúc. Cũng không có ý định sang nhà Cúc. Ngày mai tôi
lại sang chốt, như vậy có khi lại nhẹ lòng hơn.
Tôi
uống nốt cốc nước chanh, chào 2 chị em của Cúc. Rồi trở về khu vực lán của Đại
đội. Khu vực lán vẫn vậy. Anh Thú, anh Khi vẫn coi cứ. Các anh kể: Đại đội đã
được bổ sung lính 77 quê ở Thái Bình, lớp lính 78 thì quê ở Hải Phòng, Hà Nội,
Thanh Hóa rất nhiều. Lính mới nhiều, lính già (lớp 72- 74) bây giờ còn có mấy
người coi cứ, làm Quản trị trưởng. Hay lính chuyên nghiệp chuyên môn khác. Anh
Đạc vẫn Đại đội trưởng, anh Tiến Chính trị viên trưởng, anh Quang Trinh sát làm
Đại đội phó vẫn ê kíp trước ngày tôi đi.
Tôi
nằm xuống, vẫn cái giát giường gồ gề làm bằng các cây gỗi nhỏ, khấp khểnh, cộm
cộm dưới lưng. Không được phẳng như những tấm giường phản ở trường. Mái lán vẫn
là những tấm nilông. Anh em bẻ thân cành cây gác lên cho đỡ nóng. Một vài tia
nắng chiều rọi chiếu qua những lỗ thủng. Góc trong lán có những cái ba lô bẹp
lép. Chiều biên giới trong bài ca nào hay thế. Còn chiều biên giới của tôi là
đây là thế này. Nhạc sỹ họ lãng mạn thật. Cũng khung cảnh này, mà sao họ sáng
tác, tạo nên lời ca, nốt nhạc tuyệt vời. Gieo vào lòng người cảm giác bồi hồi,
xao xuyến, sống động…
Lại tiếp tục, những ngày
dài nơi chiến tuyến. Mùa khô gần tới. Ngày mai tôi sang chốt. Không biết cuộc
chiến này, cuộc sống này kéo dài đến bao giờ??
Không biết cấp trên có ý định xử lý cuộc chiến này như thế nào? Miên man
với những suy nghĩ tôi ngủ thiếp đi. Rồi choàng tỉnh khi ae gọi dậy ăn cơm tối.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét