Thứ Sáu, 21 tháng 2, 2014

Bản hùng ca trên tháp pháo

Bản hùng ca trên tháp pháo (kỳ 1)
Cập nhật lúc :9:58 AM, 03/10/2011
“Đã ra quân là đánh thắng” - câu nói đã ngấm vào máu, khắc vào xương, là niềm tự hào đồng thời cũng là trách nhiệm cao cả của những người lính xe tăng đã viết lên những bản hùng ca 52 năm qua.
Kỳ 1: Đòn phủ đầu ngỡ ngàng
Năm 1968, lần đầu tiên xe tăng Việt Nam xuất kích, địch đã hoàn toàn bị bất ngờ, hoảng loạn chỉ còn biết tháo chạy. Chiến thắng vang dội ở Tà Mây - Làng Vây, góp phần vào chiến thắng chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh, đi vào lịch sử Binh chủng Tăng - Thiết giáp như một mốc son chói lọi, mở đầu cho truyền thống “Đã ra quân là đánh thắng”.
Ngày 5/8/1967, sau gần 8 năm thành lập, Bộ Tư lệnh thiết giáp được lệnh sử dụng 2 đại đội xe tăng vào Nam chiến đấu. Hai đại đội PT-76 (đại đội 3 và đại đội 9) của Trung đoàn xe tăng H03 được lựa chọn và tổ chức thành tiểu đoàn mang phiên hiệu 198. Ngày 1/10/1967, tiểu đoàn 198 bắt đầu Nam tiến.
Sáng tạo táo bạo
Hơn 2 tháng hành quân bằng bánh xích, vượt trên 1.000 km đường Trường Sơn, toàn tiểu đoàn đến vị trí tập kết với 100% trang bị chiến đấu. Suốt  chặng đường hành quân phải đảm bảo tuyệt đối bí mật ấy, những người lính xe tăng đã có nhiều sáng tạo đến táo bạo. Theo thiếu tướng Lê Xuân Tấu, nguyên trưởng xe tăng 555, đơn vị di chuyển chủ yếu vào ban đêm bằng đèn gầm có lắp thêm thiết bị hạn chế ánh sáng.
Những đêm mù sương, các trưởng xe phải đi bộ trước mũi xe, khoác dù trắng dẫn đường. Các kíp xe phải dùng cành cây tươi phủ lên ống xả, vừa ngăn được tiếng ồn, vừa tránh bụi lửa phóng ra từ ống xả. Một bộ bánh xích chỉ cho phép chạy được từ 400 đến 500km trong điều kiện đường tốt. Lần này, do xe tăng của ta phải vượt đoạn đường với địa hình phức tạp, nhiều đá to, ngầm, sông… đặc biệt là phải đi dưới làn bom, đạn pháo địch, nên hơn 90% bánh đỡ nặng và gần 50% mắt xích bị hỏng.
Mắt xích và bánh chịu nặng của xe PT-76 đã vượt hơn 1.000km đường Trường Sơn vào tham gia trận đánh Làng Vây năm 1968. Ảnh: Hà Dương.
Các kíp xe đã đảo xích bên phải sang bên trái và ngược lại, đồng thời, lắp xen kẽ mắt xích lành với mắt xích hỏng để đảm bảo hành quân - cái sáng tạo chỉ có ở người lính xe tăng Việt Nam. Tới điểm tập kết, đơn vị đã nhanh chóng ổn định trú quân an toàn, khắc phục các sự cố của xe, sẵn sàng chiến đấu.
Hằng ngày, máy bay trinh sát địch luôn vè vè trên đầu, máy bay B-52 chốc chốc lại giội bom bừa bãi xuống những nơi nghi vấn, nhưng chúng không thể phát hiện ra hàng chục xe tăng nằm chình ình hơn 10 ngày ngay sát cứ điểm, trên đồi không có lấy một bóng cây chỉ bạt ngàn cỏ tranh. Vì xe đã được phủ bằt các sọt cỏ tranh được trồng và tưới nước hằng ngày.
Nguyên Đại đội trưởng Đại đội tăng 9 Ngô Xuân Nghiêm, cho biết, trong từng trận chiến đấu, tính sáng tạo của lính tăng cũng được thể hiện hết sức sinh động. Câu chuyện kíp xe 569 là ví dụ. Lái xe Phạm Văn Hương bị thương ở chân. Vì không có lái xe thay thế, kíp xe đã sáng kiến Hương lái, còn pháo thủ dùng chân đạp cần lái. Nhờ đó, xe tăng 569 vẫn cùng đồng đội lao về phía trước tiêu diệt địch. Hay chuyện chiếc kính ngắm của xe 565 bị hỏng, pháo thủ đã trực tiếp ngắm qua nòng pháo để tiêu diệt mục tiêu… Những sáng tạo đó đã góp phần làm nên chiến thắng.
Tập kích bất ngờ
Thắng lợi Tà Mây - Làng Vây có vai trò rất lớn của việc bảo đảm bí mật, bất ngờ trong hành quân, trú quân và tập kết chiến đấu. Địch không hề biết về sự có mặt của tiểu đoàn xe tăng đầu tiên của ta trên chiến trường và cũng không biết bằng cách nào ta có thể đưa được những chiếc xe tăng vượt qua núi rừng Trường Sơn điệp trùng hiểm trở.
Yếu tố bí mật đó thật sự tạo nên bất ngờ rất lớn trong trận Huội San (Tà Mây). Ngày 24/1/1968, đại đội xe tăng 3 đã tấn công cứ điểm này. Hai xe tăng 555 và 558 đã lao thẳng vào căn cứ của địch, bắn sập các lô cốt, hỏa điểm của địch. Bất ngờ trước sự xuất hiện của xe tăng ta, quân địch hoảng hốt tháo chạy tán loạn, quân ta làm chủ trận địa trong một thời gian ngắn.
Đoàn tiền trạm của Tiểu đoàn 198 chuẩn bị cho trận đánh Tà Mây – Làng Vây. Ảnh do Bảo tàng Tăng – Thiết giáp cung cấp.
Đến khi đánh cứ điểm Làng Vây, yếu tố bất ngờ về sự xuất hiện của xe tăng không còn nữa, ta lại tạo ra sự bất ngờ mới về hướng tiến công. Để chuẩn bị tiến công, từ ngày 19/1/1968, đại đội tăng 9 đã nhiều lần cùng bộ đội công binh dùng mảng nứa, bí mật thăm dò lòng sông Sêpôn, xác định đường, bến, phương án lái trên sông và đề ra các biện pháp khắc phục cụ thể.
Đại đội xe tăng 9 bơi xuôi theo dòng sông Sêpôn từ vị trí tập kết chiến đấu ở đồi Pê Sai vào tuyến điều chỉnh cuối cùng ở Làng Troài, cách địch gần 2km. Sông Sêpôn nhỏ hẹp, quanh co, lòng sông đầy đá hộc, bờ sông dốc dựng đứng, địch hoàn toàn không ngờ xe tăng ta có thể vận động theo dòng sông để tập kích vào hướng này.
Các chiến sỹ công binh đã bơi lặn trong dòng nước lạnh buốt đo mực nước, đánh dấu các khu vực có đá ngầm và phá những tảng đá to trên quãng sông nước cạn, để mở đường cho xe tăng đi bằng xích. Những đoạn có nhiều đá ngầm, các chiến sĩ công binh quấn dù trắng trên mình, đứng dọc hai bên để làm lộ tiêu sống dẫn đường cho xe tăng bơi. Đại đội tăng 3 xuất kích theo đường 9, đến 23g cả 8 xe đều đến được vị trí cuối cùng ở khu vực cầu Bi Hiên cách cứ điểm địch khoảng 2km. Lúc này pháo binh địch từ Tà Cơn và hỏa lực địch trong căn cứ Làng Vây bắn mạnh ra trên cả hai hướng, máy bay địch cũng bắt đầu thả pháo sáng, bắn phá ngăn chặn ta tiến công.
Đúng 23g25, ngày 6/2/1968, Sở chỉ huy hạ lệnh và phát tín hiệu xung phong. Xe tăng của ta đồng loạt vượt cửa mở, dẫn bộ binh xung phong vào trong cứ điểm của địch. Sau 4 giờ chiến đấu, ta đã tiêu diệt gọn 1 tiểu đoàn ngụy phòng ngự trong công sự vững chắc trên điểm cao. Xe tăng cùng bộ binh đã tiêu diệt và bắt sống gần 1.000 tên địch.
Kỳ 2: Nắm cơm bất tử

Đầu năm 1972,  chấp hành chủ trương của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, Bộ chỉ huy mặt trận Tây Nguyên mở chiến dịch xuân - hè nhằm tiêu diệt căn cứ Đăk Tô - Tân Cảnh bằng trận chiến hiệp đồng binh chủng có xe tăng tham gia, góp phần tạo thế phát triển thuận lợi cho chiến dịch.
Như mũi tên thép
Đăk Tô - Tân Cảnh vốn là căn cứ quân sự mạnh nhất của ngụy quân ở bắc Tây Nguyên, mà Mỹ - ngụy cho là vành đai thép án ngữ hành lang Trường Sơn, ngăn chặn sự chi viện từ miền Bắc vào miền Nam. Đầu năm 1972, ở đây có 28 tiểu đoàn bộ binh, 6 tiểu doàn pháo binh và 4 tiểu đoàn thiết giáp. Phần lớn lực lượng địch được bố trí ở dãy cao điểm phía tây sông Pôkô, hình thành tuyến phòng ngự lâm thời từ xa bảo vệ thị xã Kon Tum.
Chiến thắng Đăk Tô - Tân Cảnh là giải phóng 1/3 mạn bắc tỉnh Kon Tum, làm sụp đổ tuyến phòng thủ bắc Tây Nguyên của quân đội Sài Gòn. Sau khi vừa tham chiến ở Đường 9 - Nam Lào trở về, tiểu đoàn 297 tăng thiết giáp lại được lệnh tiến vào chiến trường Tây Nguyên với khẩu hiệu "Tiến sâu - Ở lâu - Đánh thắng!". Sau 2,5 tháng hành quân, đến đầu năm 1972 thì tới ngã ba biên giới Đông Dương.
Đêm 23/4/1972, từ ngầm sông Pô Kô Hạ, đại đội 7 gồm 9 chiếc xe tăng cùng trung đoàn 66 bộ binh bắt đầu xuất kích. 1g ngày 24/4/1972, xe 377 dẫn đầu tấn công vào hướng đông căn cứ e42 - Tân Cảnh, mở màn trận đánh tiêu diệt cụm cứ điểm này. Sau hơn nửa giờ chiến đấu ác liệt, căn cứ của địch chìm trong khói lửa.
Xe 377 cùng đồng đội xuất kích trong trận Đắk Tô - Tân Cảnh 1972 (Ảnh do Bảo tàng Tăng – Thiết giáp cung cấp).

Đến 4h30, xe 377 dẫn đầu cho bộ binh và xe 357 xốc tới, dũng mãnh tấn công, như một mũi thép lướt qua công sự, chiến hào, vật cản của địch... tiến thẳng vào sở chỉ huy e42, khiến đại tá cố vấn Mỹ, đại tá Lê Đức Đạt chết tại chỗ, đại tá Vi Văn Bình bị bắt sống. Đến 8h cùng ngày, ta cơ bản làm chủ khu vực Đăk Tô - Tân Cảnh.
Quân ta bắn rơi 8 máy bay, thu 9 xe tăng, 20 pháo 105 ly, gần 100 xe quân sự, hàng vạn quả pháo và toàn bộ phương tiện chiến tranh của địch, bắt 429 tù binh ngụy. Bộ Tư lệnh mặt trận quyết định điều một trung đội xe tăng, gồm xe 377, 354, 369 vận động theo đường 18 lên hiệp đồng với Trung đoàn 1, Đoàn 2, tiêu diệt địch ở căn cứ Đăk Tô 2.
Một đấu mười
Mặc dù không có thời gian chuẩn bị nhưng, Thiếu uý Nguyễn Nhân Triển, Trung đội trưởng Trung đội tăng 3 (ngồi trên xe 377) đã chấp hành nghiêm mệnh lệnh, vừa cơ động, quan sát nắm địch, đồng thời dẫn trung đội vận động với tốc độ cao, dũng cảm vượt qua các trận địa, sự bắn phá ác liệt của máy bay địch để đến căn cứ Đăk Tô 2 trước thời gian.
Xe 377 lại tiếp tục dẫn đầu hai xe 354 và 369 lao thẳng vào cứ điểm. Vì gặp chướng ngại vật nên hai xe kia bị tụt lại phía sau. Địch thấy chỉ có mỗi một xe 377 đơn độc bèn cho xuất kích 10 chiếc tăng M41 chia làm 2 mũi bao vây. Xe 377 lọt vào giữa vòng vây của địch. Cuộc đấu 1 chọi 10 diễn ra ác liệt.
Xe 377, huyền thoại của Binh chủng Tăng Thiết giáp trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (Ảnh do Bảo tàng Tăng – Thiết giáp cung cấp).
Trong tình thế nguy nan, Nguyễn Nhân Triển đã bình tĩnh chỉ huy đơn vị chiến đấu, bắn cháy 7 xe M41, làm rối loạn đội hình địch. Xe tăng 354, 369 trên đường cơ động, biết xe 377 gặp khó khăn chờ chi viện đã chạy với tốc độ cao nhất lao lên trận địa, bắn cháy 3 xe tăng địch. Lúc đó, một xe tăng địch ở phía Nam sân bay dã chiến Phượng Hoàng bắn trúng xe 377.

Dù xe bốc cháy, nhưng kíp xe vẫn kiên cường truy kích địch. Nhưng cuối cùng 4 chiến sĩ trong xe là Trung đội trưởng Nguyễn Nhân Triển, Hạ sĩ pháo thủ Hoàng Văn Ái, Nguyễn Đắc Lương và Hạ sĩ lái xe Cao Trần Vịnh đã anh dũng hy sinh. Lúc này xe tăng, bộ binh ta mãnh liệt tiến lên tràn vào tiêu diệt địch, làm chủ căn cứ Đăk Tô 2.
11h30 hôm ấy lá cờ của Tỉnh ủy Kon Tum trao cho trung đoàn 66 tung bay trên cứ điểm Đăk Tô. Quân địch đóng ở các căn cứ Ngok Bờ lêng, Ngok Rinh Rua, Tri Lễ, quận ĐăkTô, rút chạy toán loạn. Một vùng đất từ Diên Bình, qua Tân Cảnh đến ĐăkTô, về Đăk Mot và hàng chục ngàn đồng bào các dân tộc Kontum được giải phóng.
Xác những chiếc xe tăng Mỹ do kíp xe 377 bắn cháy tại trận Đắk Tô 2 (Ảnh do Bảo tàng Tăng – Thiết giáp cung cấp).

Trận đánh kết thúc, đồng đội tìm thấy xe 377 đang bốc cháy giữa ngổn ngang xác xe tăng địch. Bên cạnh thi thể không còn nguyên vẹn của các anh, là những nắm cơm mà các anh chưa kịp ăn giữa hai trận đánh đã bị cháy thành than. Tập thể kíp xe 377 đã lập kỷ lục về hiệu suất chiến đấu cao: 1 xe tăng tiêu diệt 7 xe tăng địch trong một trận đánh.
Với chiến công trên, tập thể xe 377 đã nêu tấm gương sáng về bản lĩnh kiên cường. Chiến công của xe 377 được coi là chuyện huyền thoại của Binh chủng tăng thiết giáp trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Xe tăng 377 đã trở thành kỷ vật vô cùng thiêng liêng, tự hào của Đơn vị H73 và gia đình các liệt sĩ.

Ghi nhớ chiến công của các anh, chiếc xe tăng 377 đã trở thành tượng đài đặt ở giữa trung tâm thị trấn Đăk Tô, nơi các anh đã anh dũng chiến đấu và hy sinh. Phần hài cốt của các anh đã được quy tập về Nghĩa trang Liệt sỹ huyện Đăk Tô, mảnh đất nơi các anh đã hiến dâng trọn tuổi thanh xuân của mình cho đất nước; còn nắm cơm đã cháy thành than, cùng các di vật của kíp xe 377 hiện vẫn đang được lưu giữ tại Bảo tàng lực lượng tăng thiết giáp. Ngày 1/9/2009 nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã ký Quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho kíp xe tăng 377.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét