đi tiếp.
Khuya, đã quá khuya. Mọi người đã
thấm mệt, cứ tạm dừng là lại thấy ngửa cổ dốc Bi đông uống nước. Rồi lại phải
làm động tác dồn nước vào nhau cho đầy bi đông. Không để cho nước trong Bi đông
vơi phát ra tiếng động óc óc. Trời qua đêm, sương xuống nhiều. Gió trời, sương
lạnh thật khoan khoái .Mùi lúa chín thơm phức, nhưng suốt mấy tiếng giữa cánh
đồng lúa nên cũng chẳng ai thấy được hương lúa nữa. Ai nấy người ướt đẫm mồ
hôi.Đã lâu lắm rồi ko bị hàng quân và thức đêm thế này.
Đi, cứ tiếp tục đi, rồi lại đi
,đi lại nghỉ. Bẻ đi bẻ lại lấy phương vị mấy lần nữa, Trời đã tảng sáng thì đội
hình cũng đã áp được vào rìa làng, cách mấy chốt râu tôm khoảng 50m. Ở đó lại
có mấy gò đất như mấy ngôi mộ. Trinh sát dừng lại ở đó mời cán bộ đại đội, các
BTrưởng và tôi a trực thuộc, lên chỉ phương hướng và các đ/c trinh sát dừng lại
ở đó. Anh Trụ nhanh chóng chỉ hướng cho từng B. Khẩu đội cối của tôi gióng súng
tại vị trí đó. Mọi người tuyệt đối im lặng. Các b bộ binh tiếp tục tiền nhập về
hướng của mình theo đội hình gọng kìm , tiện cho viêc xung phong bắt địch.Tôi
nhắc ae gióng súng thao tác thật nhẹ.Rồi nói mọi người tranh thủ ăn cơm nắm chứ
ai cũng đói rồi.
Trời đã tang tảng sáng. Vừa nhai
được mấy miếng cơm nắm, thì thấy đ/c Nam liên lạc c trườn xuống (Phạm
Văn Nam quê ở Nghệ An ít ngày sau bị thương, hiện giờ đang làm việc tại Sài
Gòn) nói: anh Phú chuẩn bị xung phong nhé. Tôi cất vội nắm cơm cắn dở vào túi,
nhắc anh em chuẩn bị xung phong chứ không bắn cối.
Xung phong ... đầu tiên nghe rõ
tiếng hô ồm ồm của anh Trụ C trưởng. Cùng lúc là tiếng hô xung phong đanh gọn
của anh Tiễn cvt. Thấy mọi người đồng loạt đứng dậy lao lên, rồi tiếng hô của
anh em các trung đội.Mọi người vừa hô vừa chạy tiến vào chốt địch rìa làng. Thoáng
nhìn thấy 4 - 5 thằng Pốt đứng lên ngó nghiêng, thằng thì 2 tay còn đang khoác
cái chăn mỏng. Chúng đang rất bất ngờ, đứng chôn chân, mồm há hốc. không thằng
nào kịp cầm súng. Anh em đồng loạt hô “lớc đay lơng” (giơ tay lên) bọn chúng
giơ tay hết lên trời. Thằng khoác chăn , trông rõ nó buông tay cầm, chăn rơi
xuống. Anh em không bắn mà lao lên để bắt sống. Còn cách chúng khoảng 15m nữa
.Đã nhìn rõ sự sợ hãi của chúng , rồi đột nhiên chúng như bừng tỉnh lại và hiểu
chuyện gì đang xẩy ra. Tất cả quay đầu ù té chạy. Anh em vẫn không bắn mà đuổi
theo, quyết bắt sống .Nhưng bọn này chạy chân đất quá nhanh, chạy bán sống bán
chết. Anh em mình qua 1 đêm luồn sâu, không ngủ đã rất mệt, nên đuổi không kịp
chúng. Hướng bên B1 cũng xẩy ra tình trạng tương tự như vậy. Chúng chạy băng
qua đường 1, rồi băng xuống đồng lúa xa dần giữa ta và Pốt. Lúc đó anh em mới
nổ súng. Không biết có thằng nào chết không còn lại chúng chạy biến mất...Hướng
đó phía đông Nam
đường, mình lại không có B nào chặn ở đó. Bao nhiêu vất vả thật là công toi.
Thu được tât cả súng của chúng vất lại.có 1 khẩu b40 mấy quả đạn, còn lại toàn
súng ak.Thật bực mình.Rồi việc tiếp diễn xẩy ra còn tồi tệ nữa, nhất là với a
của tôi.
Sau khi đuổi theo mấy thằng Pốt
ra cánh đồng, cách trục đường 1 vài trăm mét. Cũng không bắt được thằng nào.
Mọi người trở lại BaVét. BCH C báo cáo về d xin chỉ thị. Chỉ huy d lệnh không
được rút về Biên giới mà phải chốt lại BaVét 2 đợi lệnh.
Anh Trụ lại phân các B chốt giữ
các hướng chạy quanh rìa phum. BaVét 2 là một Phum nhỏ không lớn như BaVét 1
cũng có nhà xây, nhà sàn nhưng lưa thưa hơn nhiều. Phía Đông Nam đường B1+ B2, phía Tây Bắc
đường là B3 đầu Phum. A11 hỏa lực cũng được tăng cường cho các B . BCH c cùng
thông tin và số ae trinh sát ở dưới gầm 1 nhà sàn giữa phum. Riêng a 10 của tôi
thì bố trí ở rìa làng, hướng Tây Bắc, tiếp giáp B3 nhưng ở chỗ góc tù hình thoi
(Phum có hình thoi). Tôi không đồng ý với cách bố trí của anh Trụ. Tôi nói: “
Sao anh lại bố trí cối 60 ở rìa làng? Tôi thấy không hợp lý ? Anh phải bố trí
trận địa cối ở giữa phum chứ, cối mới
phát huy được hỏa lực chi viện cho các hướng. Bố trí ở đây như là tiểu đội bộ
binh tôi thấy không được. Vì chúng tôi chí có 2 khẩu ak và mấy quả lựu đan. Anh
Trụ nghĩ ngợi một tý rồi vẫn nói: “anh cứ ở đấy đi”. Tôi phản đối mạnh hơn
nhưng anh Trụ vẫn không đồng ý. ( anh Trụ lính 5/71 quê ở Lộc Hồng, Mỹ Văn, Hải
Hưng hy sinh ngày 8/4/78 tại Hà Tiên- Kiên Giang khi giữ chức vụ d phó d1).
Anh Trụ c trưởng kém tôi một tuổi,
nhưng đi bộ đội hơn tôi một năm. Tướng mạo cao to, râu quai nón trông rất dữ
dằn, thuộc người ăn to nói lớn. Nhưng thực chất lại rất hiền lành. Anh em ở với
nhau đã lâu. Mọi lần góp ý gì anh cũng hay nghe theo. Nhưng lần này nói thế nào
anh Trụ cũng không đồng ý. A 10 là A hỏa lực cối 60ly, loại pháo nhỏ nhất trong
các loại pháo. Nhưng khi sử dụng, ngoài số anh em gánh đạn còn số 1, số 2 đều
phải là những người có văn hóa khá hơn, có ý thức nhưng cũng phải biết tính
toán phần tử như các loại pháo lớn khác. Nhiều anh em thông minh, nhưng cũng
rất bướng nên thấy tôi nói với c trưởng và c trưởng vẫn không đồng ý thì mọi
người rất phản ứng.
Thấy thái độ của anh em như vậy,
c trưởng thì cứ quyết như thế. Tôi đành khuyên anh em phải chấp hành mệnh lệnh. Về vị trí chốt mặc
dù trong lòng cũng chẳng thoải mái chút nào. Trong bụng còn nghĩ sao ông này
hôm nay “ Hâm” thế?
Về vị trí rìa làng. Tôi chọn
hướng cảnh giới cao vẫn là hướng Tây và
bố trí 2 khẩu cối hình chữ I cách nhau 15m. Tôi là a trưởng trực tiếp chỉ huy
khẩu đội 1 gồm có đ/c Biểu (quê Nghệ An ,
lính 74 tuổi ngang tôi trước là công nhân nông trường gì đó ở quê) là xạ
thủ số 1. đ/c Tấn như đã nói chuyện, là xạ thủ số 2 và đ/c Hoa xạ thủ số 3 tiếp
đạn. Khẩu đội 1 được bố trí sát rìa cánh
đồng. Tận dụng cộng sự chốt của bọn Pốt, anh em chỉ sửa qua là đã có hầm đặt
cối và các ụ chiến đấu cá nhân . Ngay sát trận địa là một khóm thốt nốt 3 cây
cách vị trí súng 3m, hơi lùi về sau.
Khẩu đội 2 đ/c Dự a phó (lính 75 Thanh Hóa hy sinh ngày mồng 2 tết
âm lich năm 79 ở Công Pông Sư Pư khi
thay tôi làm atr a 10) trực tiếp làm
khẩu đội trưởng kiêm pháo thủ số
1, đ/c Hoài (quê Hương Sơn Hà Tĩnh sau
khi ta vào PomPenh ngay buổi chiếu ngày
7/1/79 lấy một cái xe máy chạy lung tung rồi mất tích luôn.Ae nói là Hoài chạy
vào chỗ còn Pot nên bị bắn chết) lính 74 làm pháo thủ số 2. Hoài là thuộc
thành phần nghịch ngợm. Hay tự do thiếu ý thức kỷ luật.Hoài rất hay hát những
bài ca của nhạc sỹ Trịnh công Sơn như “thành phố buồn,nhớ ko em vv...”Nhưng khi
tôi về làm a tr thì Hoài rất vui hay cùng tôi đi hái rau cải thiện ,rất hay
kiếm được chất “cay ..cay”rủ tôi nhâm nhi. Ngoài ra còn đ/c Tiến lính 77 (quê Thụy Ninh, TT, TB. Hy sinh ngày 3/5/78
cùng người cậu ruột) và còn 1 đ/c
gánh đạn cối nữa tôi quên mất tên.Ae khẩu đội này cứ nằm nghỉ ko chịu đào hầm
pháo và hố chiến đấu. Tôi nhắc mấy lần mà ae cũng ko nghe.
Nhắc nhở anh em xong , tôi cùng
đồng chí Dự đi quan sát địa hình chung quanh. Đây là rìa làng giáp cánh đồng
lúa.Từ đây vào chỗ BCH đại đội xa khoảng 100m muốn vào BCH thì phải vòng qua 1
cái ao khoảng 2-3 sào hình chữ nhật, có bờ dốc đứng .Nhìn nước đục có tăm cá.
Anh em đoán có rất nhiều cá và đang có ý định tìm cách để bắt. Chung quanh vị
trí của A đất gò hơi cao những cây trinh nữ (cây xấu hổ) rất nhiều, chúng không
cao lắm mà bò lan ở mặt đất. Muốn đi thì phải dẫm đạp nên chúng. Hai anh em đi
một vòng quanh chỗ chốt , đến cả chỗ B3 do anh Dũng (quê Móng Cái- Quảng Ninh)
mới được đề bạt làm B trưởng. Tôi có trao đổi với anh Dũng là A trụ bố trí như
vậy và nếu có Pốt vào hướng tôi thì anh đánh tạt sườn hộ. Thực sự là đội hình
bố trí quanh Phum hình quả trám này , hỗ trợ nhau tương đối thuận. Hợp đồng
xong anh em tôi về vị trí tiểu đội. Đã gần 10h sáng, đ/c Từ C phó và Nam
liên lạc c xuống kiểm tra tình hình bố phòng của A và nói là: trên báo có khả
năng Pốt đang triển khai tập kích vào đơn vị, nhắc anh em đề phòng. Tôi nói là
anh yên tâm, và đề nghị tăng cường mấy trinh sát xuống chốt cùng A10. A Từ nói
sẽ về báo cáo lại BCH C, rồi cùng liên lạc vòng sang B3.
Tôi thông báo với anh em tình
hình địch và trách khẩu đội 2 sao không đào hầm. Đồng chí Hoài vẫn vừa nằm vừa
nghêu ngao cái bài ca muôn thủa: “thành phố buồn.nhớ ko em ...” thấy tôi giục
nhỏm dậy nói ở: đây gần mình nó không giám tập kích đâu, anh đừng lo.
Rất bực tức, đang đứng ở khẩu đội
1, tôi đi lại chỗ Hoài và nói: “ Chúng mày lười thì đưa tao đào cho” và cùng
đồng chí Dự đào hầm để súng. Đào được hơn chục nhát xẻng thì đ/c Tấn gọi: “Anh
Phú ở về ăn cơm đi, kệ m...chúng nó” nhìn lên thấy Tấn ngồi dựa vào gốc cây thốt
nốt gần cộng sự đang nhai cơm. Tôi nói: “để giúp chúng nó 1 tý , Tấn ăn trước
đi” Đào thêm mấy nhát nữa, thì nghe Pốt hô Trô- Trô. Rồi tiếng súng AK nổ ran.
Tiếng đạn DKZ xoẹt ... ầm. Ngẩng lên tôi thấy mấy chục thằng Pốt đang tiến vào
hướng chúng tôi. Chúng vừa chạy khom vừa bắn. Rồi 1 thằng nép dưới ruộng lúa
đứng vụt lên, vai vác khẩu DKZ82 tôi thấy phụt lửa và xoẹt. Chớp lửa lóe lên
rồi ... oành. Ngay chỗ khẩu đội 1, khói thuốc súng trùm lên khét lẹt. Thoáng
nghĩ nguy hiểm rồi. Tôi và Dự vồ lấy súng bắn luôn mất loạt AK về phía Pốt.
Tiếng anh Biển kêu rất to “Ôi tôi bị thương rồi... Phú ơi”. Bắn thêm mấy loạt.
Thấy bọn Pốt đã gần. Tôi hô lựu đạn. Tôi và Dự mỗi người đều lấy lựu đạn, rút
chốt và cùng ném về phía địch, oàng ...oàng...Rồi lại 2 quả nữa.Lựu đạn chắc
không tới được chỗ chúng, nhưng tất cả chúng nằm hết xuống.Rồi tiếng súng của
B3 anh Dũng quạt chéo sang, đánh bật bọn Pốt ra ngoài bẻ gẫy đợt tập kích của
Pốt.
Trong lúc B3 vẫn đang nổ sung
đánh đuổi địch. Bọn chúng thằng thì chạy ra, thằng lại mất hút vào ruộng lúa.
Tiếng anh Biểu vẫn gào lên rất to. Tôi nói với Dự là 2 anh em bò lên. Dự nói :
anh cảnh giới để em lên. Tôi nói: anh em mình cùng lên. Phải nói là Dự là lính
75 chưa vào trận thì đã giải phóng miền Nam rồi. Chưa tham gia trận chiến
nào, như vậy là Dự rất dũng cảm, bĩnh tĩnh. Tôi ngoái lại thì Hoài và anh em
khác đã chạy lùi về sau.
Tôi và Dự bò lên theo kiểu bò 1
tay, còn tay phải vẫn cầm súng. Thẳng lên chỗ khẩu đội 1. Thấy đ/c Hoa đang nép
vào bờ đất mặt tái mét, máu đã loang cả vai, một tay cầm quả lựu đạn, nhưng giữ
sang chỗ vai bị thương. Tôi nói Hoa lùi về. Tiếp đến là thấy Tấn vẫn trong tư
thế dựa người vào cây thốt nốt. Đầu đã nghẹo xuống bất động, đã hy sinh. Tay vẫn còn cầm miếng cơm. Vết thương chính đỉnh đầu rất
to máu đẫm từ đầu xuống. Còn Biểu thì 2 tay giữ đầu gối chân phải, khu vực đầu
gối máu ướt đẫm, quần rách nham nhở. Mồm thì vẫn: “ối giời ơi, Phú ơi”. Tôi nói
Dự kéo anh Biểu về để anh cảnh giới. Rồi lùi dần về đến bờ ao. Như thấy Dự đang
lựa chọn đường đi. Tôi cũng thầm tính đi vòng bờ thì xa, và quyết định ngay
nói: lội qua ao cho nhanh. Quay lại sau không thấy bóng thằng Pốt nào nữa , hai
anh em kéo Biểu xuống ao. Nghĩ là ao nông, ai ngờ nước sâu ngụp tới cổ. Biểu
vẫn kêu rên ,tôi nói im ngay đi Pốt nó nghe thấy đấy. Lúc đó cũng không nghĩ
đến việc vết thương của Biểu sẽ bị nhiễm trùng.
Hai anh em dìu Biểu sang bờ bên
kia. Tôi nhoai mấy cái mới lên được bờ. Cầm tay kéo còn Dự ở dưới ao đẩy Biểu
lên. Cả 3 lên được bờ. Tôi ngồi xuống nói Dự để anh Biểu quay lưng áp vào lưng
tôi , định cõng chạy. Để súng đấy cho
Dự, 2 tay tôi cầm chặt 2 tay Biểu vùng đứng dậy nhưng sao cố mãi, cố mãi mà
không đứng lên được, người cứ ì ra bủn rủn hết sức. Dự nói anh để em và đưa lại
2 khẩu súng cho tôi, vụt đứng dậy cõng Biểu chạy về phía BCH đại đội. Tôi chạy
theo vừa chạy vừa thỉnh thoảng quay lại quan sát địch. Gần tới BCH đã thấy 8-9
anh em tiểu đội B2 đang dò dẫm ra phía chúng tôi. Vào tới gầm nhà sàn BCH đại
đội, tôi thấy mắt mờ như có khói, đầu óc quay cuồng tôi nói: có chất độc, rồi
gục xuống không biết gì nữa.
Mình ngất đi.ko phải bị thương, ko
phải chất độc hóa học, ko phải tại con đẻn như 812 bói.Mà là mệt quá, kiệt sức
nên ngất đi.Sau khi đươc y tá đại đội tiêm hồi sức cấp cứu tôi tỉnh lại, ngơ
ngác ko biết những gì vừa xẩy ra. Rồi tiếng người nói,tiếng súng rộ lên. Sau đó
được biết d cử c1 lên trợ chiến, đánh đuổi Pot và hỗ trợ c3 thu dọn chiến
trường. Đưa thương binh liệt sỹ về biên giới. Tôi cũng được vận tải d cáng về.
Khi đã b/t trở lại.ae kể cho tôi
tiếp diễn sau khi tôi ngất đi trong khoảng 20p, bọn Pót tập kích mấy lần nữa
nhưng đều bị các chốt đánh bật ra.Tổng kết lại, ta hy sinh 1 (đ/c Tấn a10) bị
thương 5 đ/c trong đó a 10 có đ/c Biểu và đ/c Hoa.
Những lần gặp Hoa ở cuộc họp ccb
F . Tôi có hỏi thăm về Biểu. Khi về nước được chuyển lên phẫu của e .Rồi chuyển
điều trị ở viện 175 Sài Gòn. Ko phải cưa chân tháo khớp, mà cái chân phải đó bị
vỡ bánh chè. Khi khỏi cứng khớp ko co ra duỗi vào được. Về quê được 10 năm thì
ốm mất ở quê.
Cách đây 2 năm tôi có tìm được
nhà anh Tiễn cvt hồi đó. Anh đang sống tại gia đình xã Cẩm Long,Cẩm Thủy, Thanh
Hóa. Gần suối cá Thần Thanh Hóa. Hiện tại anh cũng đang là đại đội trưởng chỉ
huy 100 lính ....DÊ cụ...hi hi. Ngồi nhâm ly chén rượu Mường, và thịt lính DÊ
ae ôn lại chuyện cũ và trận đánh đáng nhớ này. Buồn vui lẫn lộn.
-----------------
Binhyen1960
Cái cảm giác lội ruộng nước bùn
đất xục lên đến ngang thắt lưng đục ngầu , trên vai vác thương binh khoác thêm
khẩu AK của đồng đội tay cầm khẩu súng của mình, ngực đeo bao xe đạn bước xiêu
bước vẹo bám bờ mương, bờ thửa mà rút về tuyến sau, địch thì đổ từng tràng đạn
cắm phầm phập trên bờ mương đất quanh mình, vậy mà cả mình lẫn thương binh
chẳng dính viên nào, nếu dính chắc cũng nằm luôn ở đó cả 2 thằng vì còn sức nữa
đâu, mồm miệng thi nhau thở chân cẳng thì bải hoải bài hoài và thằng bạn thương
binh trên vai mình thì cứ ỳ ra càng ngày càng nặng.
Cái ký ức đó nhớ mãi, nhớ mãi đến
nhiều năm nhớ đến tận bây giờ vẫn còn nhớ, mỗi bước đi như đeo đá dưới cổ chân
và con đường đưa thương binh rút chạy ra khỏi trận địa dài cả gần km, lúc mệt
quá sức rồi thì bắt buộc phải nghỉ để lấy sức mà chạy tiếp, nhè nhẹ đỡ thương
binh nằm xuống vì sợ nó đau , mỗi lúc thấy nét mặt nó nhăn nhó là tự nhiên thấy
lòng mình sót lại 1 chút rồi tự trách mình sao không cố gắng thêm chút nữa để
đồng đội bớt đau đớn .
Con đường "Tử thần" đó
từng đưa tiễn gần 50 tử sỹ và thương binh của C2 đơn vị BY chỉ sau 1 trận đánh
, may mắn sao BY không nằm trong số họ và có thể nói đó là trận đánh đầu đời
của BY khi đối mặt với lính Pốt .
Ai đó từng tác chiến cuối mùa mưa
đầu mùa khô trên tuyến BGTN khu vực Svay Rieng thì ít nhiều có được 1 lần lội
ruộng nước vác thương binh tử sỹ trên vai . Ác liệt và gian khổ ngoài sức tưởng
tượng của BY mặc dù đã được cọ sát súng đạn một thời gian ngắn.
Kiệt sức và ngất đi như bác
tranphu341 thì BY chưa từng nhưng gần ngất vì kiệt sức thì đã từng vài lần và
lúc đó BY cũng chỉ nặng có 47kg cao 1,67m , gày nhẳng gày nhằng mặt vẫn phủ lớp
lông tơ búng ra sữa. Dù chúng ta là những người chiến thắng ở cuộc chiến tranh
đó nhưng tất cả chúng ta vẫn luôn thầm ước "Giá như không có chiến
tranh". Phải không bác tranphu341 ?
-----------------------------
TranPhu341 xin chào các bạn hôm
qua mình vắng nhà nên ko đón tiếp các bạn được.
Mình thấy BY có trận đầu chiến
với Pot mà lại quá ác liệt ,hy sinh ,thương vong nhiều như vậy là bất khuất
lắm, dũng cảm lắm. 1 "cậu" lính "Hà thành" cũng có trọng
lượng và chiều cao lí tưởng như Phú. Chiều cao kém Phú 1 tý hihi!!! Grin (bây
giờ thì chắc cao hơn rồi.) lội ruộng, chiến đấu, mang vác thương binh tử sỹ
suốt ngày mà vẫn chịu được thì phải nói là kiên cường lắm,anh hùng lắm,và đáng
phục lắm.Chúc BY bây h và mãi mãi có cuộc sống gia đình vui hạnh phúc.Bù lại
phần nào những năm tháng chiến binh vất vả của mình.
- haanh là lính tt,mình thấy đ/v
mình lính PRC25 , trong tác chiến mà phải vận động nhiều cũng chẳng sung sướng
gì đâu.Nhất là trong đánh vận động phải lội nước nhiều.Được cái là
"oai"được ăn,ở cùng với xếp.Hơn ae bb súng dài nhiều.
- bs-812 à.mình có biết là mệt
đâu.lúc đó tinh thần thì vẫn đang hăng,lại trong lúc căng thẳng.Mình thấy có
khói,hoa mắt.Chắc do ảo giác, nên mình hô vậy theo bản năng phản ứng thôi.Xin
lỗi vì đã làm 812 ''bói'' nhầm... hi hi..
_Bạn bschung hỏi mình về 2 khẩu
đội cối theo đội hình nằm ngang hay dọc. Mình đã có nói là đội hình chữ I như
vậy là hàng dọc rồi.Còn hầm hào có tốt thì cũng chỉ tốt khi bị tấn công bằng
đạn thẳng thôi. Còn đây là đạn DKZ nó nổ trên cao, mảnh đạn găm xuống hầm hào
ko có nắp nên cũng chẳng có tác dụng
gì.Khẩu đội 2 nhóm của Hoài ko chi viện được gì cũng đúng thôi , vì súng ak thì
ko có.Bắn cối thì ko kịp,mà 1 quả đạn cối bắn đi đến khi rơi xuống đất theo như
mình nhớ là cũng phải tới 7-8 giây.Nên ko thể chi viện kịp.Hơn nữa nhóm của Hoài đang rất chủ quan ,vừa nằm vừa hát,công
sự cũng ko đào. Nên bọn Pot tập kích bất ngờ thì thường là:" chủ quan bao
nhiêu,thì bị động và hoảng hốt bấy nhiêu"lùi về là đúng sách. Nhưng còn
đ/c Dự vẫn cùng mình tác chiến và lấy thương binh đấy thôi.
Bạn Vietpo''lut'' đây mới là mấy
trận đánh đầu tiên của cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam mà mình đã được tham dự hơn
1000 ngày mà. Đây mới chỉ có mấy chục ngày thôi.Chuyện lính chiến còn dài
lắm,mình rất vui nếu được bạn theo dõi.Chúc bạn và gia đình ở phương trời xa có
1 cuộc sống vui,khỏe,thật đầy đủ và an lành.
Thưa các bạn: Nhưng nhiều năm sau
mình vẫn nghĩ:nếu như khẩu đội của Hoài mà cũng đào công sự theo mệnh lệnh .
Thì mình ko phải xuống đào giúp,hoặc khi mình nghe Tấn gọi về ăn cơm mà mình về
ngay , thì thế nào?có thể sẽ ko có còn ai kể cho các bạn nghe chuyện này nữa
.Thôi âu cũng là số trời."Trong cái dủi lại có cái may."
Như vậy là mình và Dự ko phải là
ko bị thương đâu nhé. Mà mỗi người bị hàng ...ngàn vết...thương nhỏ ly ty.Các
b/s đồng đội phải mất 1 ngày dùng kim khâu khêu hàng ngàn cái gai cây xấu hổ ,
nó đâm dày đặc vào 2 bàn tay khi 2 ae bò
lên, phải bò qua chúng .Lúc bấy giờ ko ai nghĩ đến gai nữa. Và nó làm bọn mình
nhức buốt cũng ...rất kinh khủng ....hi hi...
-----------------------------
Bước ngoặt mới :
Trung tuần tháng 11 năm 1977,
chiến sự trên địa bàn do E273 đảm nhiệm vẫn diễn ra. Ngày 17/11 bọn Pốt tung
13d chủ động đánh lấn đất Biên Giới ta từ Nam Phước Trường đến Phước Tân, Năm
Căn , Hòa Hội thuộc huyện Châu Thành. Xã Tân Lập, Tân Phú, Trảng Riệc huyện Tân
Biên. Chúng vẫn nuôi ý định ngông cuồng
vượt sông Vàm Cỏ để đánh chiếm thị xã Tây Ninh
Qua học tập tình hình , được biết
nhiệm vụ của toàn Quân đoàn 4 là phải đánh đuổi và tiêu diệt bọn Pốt . Đẩy
chúng về bên kia Biên Giới . Sư đoàn 341 thiếu được tăng cường trung đoàn 14
của F7 làm nhiệm vụ tiến công địch ở khu vực 2 và 3
- Khu vực 2 là hướng tiến công chủ yếu đánh
vào E21, F290 và d7 quân khu 203 của Pốt trên trục đường 241.
- Khu vực 3 là hướng tiến công quan trọng , đánh
vào E 182,F3 và khoảng 5 tiểu đoàn địa phương QK 203 của Pốt.
Tối ngày 2/12 E trưởng 273 Trần
Măng (quê ở Đông Anh Hà Nội) trực tiếp về Quân đoàn nhận n/v. E273 (thiếu d2)
cùng E266 được tăng cường 4 khẩu pháo 85 ly đảm nhiệm tiến công hướng chủ yếu
là M1, M2 (mật danh của KoKiSaom và Sang Kum miên Chay) E273 đánh từ Tây Bắc
xuống. E266 Vu Hồi phía Nam , Đông Nam . Cách đánh của E273, E266 là bí
mật, luồn sâu, vận động hình thành thế bao vây. Dùng hỏa lực chi viện cho bộ
binh xung phong diệt địch. (Khi luồn
sâu,địa hình phức tạp.Nên có pháo binh sư đoàn bắn cầm canh để chỉ hướng hành
quân luồn sâu vào đất địch).
Hướng quan trọng tiến công theo
trục đường số 1, gồm có E14 của F7 + D2 của E341. Phải đánh cơ động nên được
tăng cường 30 xe ôtô cùng tăng thiết giáp, tăng cường 2d pháo mặt đất 1d pháo
cao xa 37 ly hai nòng. Tiến công, hành tiến bằng sức mạnh hợp đồng binh chủng.
d2 của E273 cùng 2 đại đội thiết giáp M113 từ Tốc Xé , Tiên Thuận đánh qua
PaVét 1 xuyên rừng Sở, đánh vào sườn nam Chi Phu ở thị trấn Pờray, Kôki.
Các đơn vị được học tập, quán
triệt nhiệm vụ chiến đấu, mục tiêu tiến công nghiên cứu tỷ mỷ trên sa bàn, bàn
đồ và khẩn trương làm các công tác chuẩn bị cho chiến dịch.
Một không khí chiến đấu lại bừng
lên, Các hội nghị quân chính các cấp, hội nghi đoàn thanh niên, chi bộ đảng
từng đại đội, từng bộ phận. Tổ chức học tập.quán triệt tình hình và n/v chiến
đấu mới, cách đánh mới. Không thể để cho bọn Pot chủ động chọc phá chiếm đất
của ta. Phát động quyết tâm đánh giặc.Truyền thống của quân đội NDVNAH. Các trợ
lý tác chiến, trợ lý chính trị E,F tăng cường xuống từng c bb để phổ biến tình
hình .Phát động thi đua vv...Và tăng cường trực tiếp đi luồn sâu tác chiến cùng
các đ/v. Ngày giờ tiến công đã được ấn định là N+2 tức ngày 6/12/77. Đây mới
chính thực là trận chiến , mà sức mạnh của hỏa lực , kết hợp với tinh thần dũng
cảm. Chiến thuật tác chiến tài tình của quân đội nhân dân Việt Nam .
Được gởi gắm vào những người lính của quân đoàn 4. Và trực tiếp là sư 341 và
trung đoàn 14 sư đoàn 7.
Từ cán bộ chiến sỹ lại rất khẩn
trương củng cố ý chí ,trang bị vũ khí trước nhiệm vụ nặng nề này. Trong bài
viết có sử dụng 1 số tư liệu về địch của trung đoàn 273.
Sau khi đã bàn giao địa bàn cho
các đơn vị của bộ đội Tây Ninh chốt giữ. Ngày 4/12 các đơn vị chuyển quân đến
vị trí tập kết. E trưởng Trần Măng đi cùng hướng chủ yếu với d1, d3, E Phó
Nguyễn Rấng và tham mưu trưởng e Trần Quy Nhơn đi với hướng quan trọng cùng d2
. (Tham mưu trưởng Trần Quy Nhơn lính 60
quê ở thôn La Uyên, Minh Quang, Vũ Thư- Thái Bình hy sinh ngày 4/2/2978 tại An
Giang)
Các đơn vị được cơ động bằng xe ô
tô từ khu vực Bến Cầu, Gò dầu đi vòng vèo nghi binh. Về Thị xã Tây Ninh rồi tập
kết ở khu rừng Phước Trường Phước Chỉ.Giữa khu vực đường 13 và đường 1.
Tôi nhớ hôm đó là chiều chủ nhật.
A10 được ngồi cùng xe ô tô với BCH đại đội , xe Hồng Hà 3 cầu vừa đi vừa bò
theo đường xe trâu kéo . Đường rừng rất xóc chậm chạp leo qua từng đống đất ,
những gốc cây. Đúng là phải rẽ rừng ra mà
đi . Vết đường xe trâu kéo thì nhỏ, xe tải Hồng Hà 3 cầu thì to. Anh em
cứ tý tý phải cúi rạp xuống để tránh cành cây, hoặc đứng lên bẻ uốn các cành
cây không bị đâm ,gạt vào người. Được cái trời nắng. Nhưng nơi đây rừng thấp ẩm
, thỉnh thoảng xe phải lấy đà mãi mới vượt qua được những đám lầy. Anh Tiễn
cvtr có cái đài 3 băng Nationa bây giờ mới đáng quý. Đài tiếng nói Việt Nam
đang tường thuật trực tiếp trận bóng đá giữa 2 đội CA Hà Nội, thi đấu tranh
giải với đội Tổng cục Đương Sắt. 2 đội bóng thời đó được xếp vào loại nhất nhì
của bóng đá Việt Nam. Tiếng hò reo của khán giả, kèm cả tiếng trống gõ, tiếng
kèn của các cổ động viên sao hào hứng đến vậy. Nơi đó đang yên bình, hàng vạn
người, triệu người đang theo dõi trực tiếp hoặc gián tiếp trận đấu. Và ngay
chúng tôi cũng đang theo dõi trận đấu. Nhưng không phải trên sân Hàng Đẫy.
Không phải bên anh em, bạn bè, vợ con. Có trà, có rượu. Mà chúng tôi theo dõi
trận đấu bên đồng đội, bên súng, bên đạn và trên xe xóc giữa rừng, đường ra
chiến trường. Có ai biết nhiệm vụ vinh quang, nặng nề của chúng tôi. Ở đó, trận
bóng thắng lợi là tính theo tỷ số bàn thăng,thua thủng lưới. Nó đổi bằng kỹ
chiến thuật và mồ hôi. Còn chúng tôi thắng lợi là tính bằng nhiệm vụ có hoàn
thành ? Và phải đổi bằng vất vả gian lao, bằng xương bằng thịt, bằng máu của
tuổi trẻ, bằng danh dự dân tộc.
Bất giác tôi nghĩ: chúng tôi đang
vào trận đấu thế này, mà sao không có bình luận viên tường thuật cho mọi người
cùng nghe, cùng biết. Nhất là gia đình và tất cả những người thân yêu của mình.
Ngày mai sẽ là trận đấu pháo, đấu súng, đấu sức vóc trí tuệ. Với những tiếng nổ
ầm vang, long trời lở đất. Mà sao vẫn im lặng thế này. Vẫn còn rất nhiều người
không biết đến trận đấu đăt biệt này.
Chiều tối ngày 4/13 toàn bộ đội
hình (thiếu) của E273 đã tập kết ở khu rừng Phước Trường, Phước Chỉ. Trạm Phẫu
và Sở Chỉ huy hậu cứ đặt tại đây. Các đơn vị làm công tác chuẩn bị lần cuối .
Nhưng với phương châm là thật bí mật. Anh nuôi cũng lại phải tổ chức đào bếp
Hoàng Cầm nấu ăn để không bị khói. Anh em ở yên tại vị trí không đi lại. Không
cho trinh sát của Pốt biết đội hình 2 trung đoàn đã tập kết ở vùng này.
Ngày 5/12 vẫn trong trạng thái
như vậy, thỉnh thoảng pháo binh của F bắn mấy quả vào sâu nghi binh địch. Để
ngày mai bắn pháo dẫn đường không bị lộ. 17h chiều các đơn vị đã tổ chức cho
chiến sỹ ăn cơm xong và ngoài lương khô , mỗi người còn thêm một phần cơm nắm
muối mè, nước uống cũng đã đầy bi đông. Đại đội nào ở nguyên vị trí ấy đợi
lệnh.
19h ngày 5/12 trong rừng trời tối
đen như mực. Lệnh lên đừờng luồn sâu sang đất địch. Được thông báo từ đây sang
M toàn đầm lầy, cỏ lác và có nhiều chốt của địch. Trinh sát phải dẫn đường luồn
lách tránh né. các chốt của chúng, không được cho địch phát hiện. Gặp địch cũng
phải nằm im không nổ súng, và phải tìm đường tránh.
Ra đến rìa rừng là đồng lầy ngay.
Đến bây giờ tôi vẫn còn cảm giác rợn người. Khi bước đầu tiên lội đầm hôm đó.
Bước ngập giầy rồi cứ từ từ sâu dần, tới gối rồi có chỗ tới bẹn. Đi trong nước,
dầm trong nước không phải một tiếng, 2 tiếng. Mà suốt từ 19h tối cho đến sáng.
Mùi cỏ rác sình lầy hôi hám ùa lên. Chắc nơi này là cánh đồng, là đầm lầy
nguyên sinh mà các người lính F341 đặt chân khám phá đầu tiên. Tôi chợt nghĩ
như vậy. Mọi người được truyền lệnh: bước dưới nước không được để phát ra tiếng
động nước. Tiếng bước chân cộng hưởng của cả đoàn quân hàng ngàn người sẽ là
rất lớn.
Đi, cứ đi, cứ dò dẫm rồi lại
nghỉ, lại đi. Nhưng ở đây là đứng nghỉ chứ làm sao mà ngồi được, giữa đầm nước
này. Mệt và rét vì ngâm nước lâu .Nhưng không một ai kêu ca. Mà kêu ca với ai
được giữa không gian tĩnh lặng thế này. Mà mọi người cùng đi cùng chịu đựng. Từ
ông Trung đoàn trưởng, tới ông bác sỹ, anh nuôi, lính chiến, binh nhất, binh
nhì. Mỗi người mang vũ khí đạn dược khoảng hơn 20kg. Mỗi người đeo 1 cái bồng
tư trang nhỏ sau lưng bằng cái vỏ bao cát của Ngụy thời trước. Khổ nhất là các anh
em hỏa Lực súng 12 ly,7 cối 82 và ĐK75. Họ phải khênh khí tài rất nặng, mà
không được phép để xuống nước. Lúc đi lúc dừng, số vũ khí tài đều ở trên vai
người khênh. Tôi chợt nghĩ tuổi này 18-20, ở nhà bố mẹ còn phải lo cho từng ly
từng tý. Có khi sáng còn phải gọi mãi mới dậy. Còn ở đây lại thế này. Mọi người
hay nói câu cửa miệng là: đi lính là vất vả, hy sinh thật ngắn gọn. Nhưng có ai
biết được trước trận đánh, trước hy sinh người ta phải khổ ải thế này........
Đi .Đoàn quân rồng rắn đi bì bõm
trong nước. Bỗng thấy một tốp mấy người đang đứng. Nổi nhất là E trưởng Măng,
người cao lớn tay cầm nâng dây hữu tuyến để anh em chui qua. (giây hữu tuyến
của Pốt) và nói: “các em cố gắng nhé”. Sao bình thường họp hành, thì nói đồng
chí nọ, đ/c kia. Còn bây giờ các cấp Thủ trưởng lại chỉ gọi lính là em nhỉ?
Đang phân tâm bởi suy nghĩ đó, rồi nghe Pằng Pằng Pằng. Mấy loạt AK bắn về phía
chúng tôi. Đạn chiu chíu,viên thì găm xuống nước viên thì vọt lên trời.
---------------------------------
Loạt đạn của Pốt bắn khá bất ngờ.
Mọi người theo phản xạ ngồi thụp hoặc khom người xuống. Nhưng nước, làm sao mà
ngồi được. Cũng chẳng có chỗ nào nấp, mà tránh đạn. Đành đứng yên chịu trận.
Một đ/c trinh sát bị thương vào vai, may vết thương không nặng lắm. Anh em băng
bó xong lại dìu đi tiếp. Bọn Pốt ở chốt
chắc chắn bắn bú họa thôi. Sau 1 vài loạt AK, rồi đêm tối lại im lìm bao phủ. Đầm
lầy rất rộng mà sao ko có 1 tiêng kêu của ếch nhái ? Như vùng đất chết. Ở quê
mình, cứ có nước là có cá, có ếch nhái, đêm tối thế này là chúng kêu rên dĩ.
Đội hình lặng lẽ hơn, mọi người dò dẫm như đi trong nín thở.
Đi, vẫn đi. Cả trung đoàn vẫn
tiến vòng vèo luồn vào sâu đất địch. Thỉnh thoảng lại có tiếng pháo 85ly của ta
bắn vào các mục tiêu của Pốt. Nhưng mục tiêu bắn pháo, là để dẫn đường cho đơn
vị tiền nhập, vì đầm lầy quá rộng, khó có thể đi theo phương vị. Hướng pháo nổ
là những M cần đến. Lần trước, cũng luồn sâu nhưng chỉ có 1 c3 . Còn hôm nay,
trận này luồn sâu vào đất địch có cả trung đoàn hàng ngàn người nên tư tưởng ae
cũng đỡ nghĩ ngợi hơn. Mặc dù hôm nay luồn sâu khổ hơn lần trước rất nhiều.
3h sáng ngày 6/12, gần đến mục
tiêu, lại gặp e trưởng cùng 2 đồng chí d trưởng d1-d3 đứng động viên anh em
(Đ/c Nguyễn Minh Tân dtr d1 quê Thanh Trì Hà Nội. Đ/c Nguyễn Song Thao dtr
d3 quê ở Long Sơn, Anh Sơn, Nghệ An hy
sinh ngày 18/7/78. Được truy tặng danh hiệu AHLLVT) hướng dẫn các đơn vị chia
làm 3 hướng đánh. Các đơn vị hỏa lực
cũng đã được phân đi với các mũi. Sở chỉ huy E ở ngay vị trí đó, cùng các trinh
sát, vận tải thông tin. D1 và d2 tiền nhập tiếp. Khoảng 1km nữa thì có bờ
mương, là địa điểm tập kết cuối cùng. Bờ mương không cao lắm mà đất còn ướt
nhoét. Chắc bọn này mới đào. Theo quan sát, từ đây vào Phun theo hướng đánh của
C3 còn khoảng 300-400m nữa. Như vậy khi tiến công là phải vận động hơi xa.
Nhưng trinh sát báo: không thể tiến thêm được nữa vì bên kia mương vẫn là đầm
lầy, có cây tràm xâm xấp nước. Ta lợi dụng bờ mương nước nghỉ, đợi lệnh tấn
công. Pháo dẫn đường vẫn bắn cầm canh có vẻ rất thưa thớt, lạc lõng. Trời đã
tang tảng sáng, mọi người tranh thủ nghỉ ngơi và đào công sự. Tôi nói anh em
đào trận địa cối. Lần này 2 khẩu đội răm rắp theo lệnh, mặc dù rất mệt. Đất ở
đây nhão cũng dễ đào, nhưng tôi nghĩ bắn cối sẽ rất khó vì bùn lún, nên tôi
nhắc anh em lấy phần tử bắn + thêm tầm bắn 200m nữa để trừ lún bùn. Bộ đội bám
dầy đặc dọc bờ mương. Bên cạnh tôi là anh em d3, gióng súng 12,7 nghe lách cách
tiếng kim loại va chạm. Dù ai cũng đã thành thục thao tác và quá khẽ khàng.
Tôi nhắc nhở mọi người lấy cơm
nắm ăn. Trời ơi! cơm nắm, nắm cơm chắc
đã bị ngâm nước lâu, lại đeo ở bên người quăng quật nên đã vữa hết. Ngậm ngùi
nhưng đói và mệt. Và vì sự sống nên vốc cơm ăn với muối vừng. ( May gói muối
tôi lại cẩn thận để túi áo ngực, nên không bị ướt mấy).Cũng vẫn thấy ngon.
5h25. Đằng đông trời đã ửng hồng
... Ùng – ùng - ùng, các loại pháo của F đồng loạt bắn. Rồi bắn cấp tập dồn dập
vào các mục tiêu. Dọc tuyến biên giới từ đường 13 đến đường 1. Cuộc tấn công
cấp quân đoàn toàn tuyến từ đường 13 đến đường 1 bắt đầu.
5h45 lệnh xung phong. Các loại
súng DK, B40 , B41 và 12,7ly đồng loạt phát hỏa. Bắn vào hướng tấn công, bộ đội
ào qua mương nước. Nước ngập đến cổ, nhưng mương nước không rộng lắm anh em vọt
qua ngay. Khẩu 12,7 ly của C16 tăng cường cạnh tôi, vẫn nhả đạn thùng- thùng- thùng-
thùng yểm bộ cho bộ binh xông lên. Vẫn tiếng thét xung phong to nhất là của anh
Tiễn cvtr. đã có nhiều tiêng súng bắn trả của bọn Pot. Tôi hô anh em bắn cối
vào làng. Bắn thử quả thứ nhất. Tong, bẹt.... Bùn đất của nơi để cối văng tứ
tung. Không kịp theo dõi đạn rơi. Nhưng thấy đất bùn nhão quá, sợ đạn rơi vào
đội hình ta. Nên tôi không cho bắn nữa. Ra lệnh thu cối tiến theo bb. Vừa dứt
lời, thì một con chim, không phải, mà là một quả đạn lao đến rất nhanh. Trong
tích tắc cúi người xuống theo phản xạ. Bọp- một tiếng thật gọn. Qủa B40 cắm
ngập vào đám bùn đất của anh em đào đắp lên, đuôi cánh rung rung. Ngay sát tôi
và khẩu đội cối. đạn không nổ. Hú hồn vía. Lúc đó không thể giải thích được tại
sao ? Tôi giục anh em thu cối, vọt nhanh đề phòng B40 nổ chậm.
Tụt xuống mương nước, lội mấy
bước là lại leo được sang bên kia. Bọn này đào mương sao lại đắp đất có 1 bên.
Thoáng nghĩ vậy rồi chạy tiến tiếp. Đúng như trinh sát nói: đầm lầy xấp xấp
nước có những bụi cây tràm nhỏ, nhưng chạy chậm được. Tiến tiếp khoảng 4-50m
thấy anh Tiễn mặt đỏ gay. Đang cắn dây hữu tuyến của Pốt. Cắn nhằng nhằng mãi
mà không đứt. Tôi nói anh để tôi .Tôi rút dao găm cắt, nhưng cắt không được.
Nền đất bùn nên không có chỗ kê để chặt. Rất nhanh tôi lấy sợi hữu tuyến (sao
chúng nó chỉ có 1 sợi chứ không hai sợi như mình) để ngang qua miệng khẩu ẠK.
Một tay tôi giữ gần miệng nòng , để cho giây ở giữa ngang nòng súng, tay phải
bóp cò Pằng- Pằng đạn cắm xuống bùn tóe lên. Sợi dây trằn qua không đứt. Tôi
lại nghĩ và lấy dao cạo lớp vỏ nhựa, rồi cắm chỗ đó xuống bùn cho nó chạm mát.
Đến bây giờ, ngồi nghĩ lại, vẫn thấy những hành động đó thật buồn cười và có
phần "ngớ ngẩn" nữa.
Tiếp tục chạy tiến vào Phum. Các
loại súng bộ binh vẫn nổ ròn. Thỉnh thoảng lại có tiếng ầm- đoàng của B40-B41
hoặc ĐKZ vẫn những tiếng hét xung phong của anh Tiễn CVTR. Sao ông này hét khỏe
thế ? bb đã chiếm được các trận địa, rìa làng, tiến vào Phun. Gặp, và cắt ngang
đường bộ 241. Đuổi Pốt chạy ra cánh đồng. Rải rác là xác những thằng Pốt trúng
đạn ở tư thế đối kháng, hay nằm xấp do bị trúng đạn khi chạy. Anh em sau ào
lên gặp những thằng này, còn cẩn thận
bồi thêm mấy phát nữa.
Khẩu đội tôi đã lên đến đường
241, đất cứng quan sát M quá rõ, bắt đầu
phát huy tác dụng. Anh em nhanh chóng lấy phần tử, bắn đuổi địch. Đạn trúng đích, cứ thấy bọn Pốt
biến mất trong ruộng lúa, khói đạn cối nổ bùng lên, rồi lại thấy chúng đứng dậy
chạy, nhưng có vẻ thưa hơn. Cho chúng mày nhớ đời ! Tôi cho anh em bắn thêm mấy
quả nữa rồi thôi. Để tiết kiệm đạn. Vì biết rằng trận chiến hôm nay mới chỉ bắt
đầu.
Toàn đại đội tạm dừng xốc lại đội
hình. Đại đội 3 như vậy sau 30p tiến công đã chiếm gọn khu vực hậu cần e21 của
địch, diệt hơn 30 tên. Số vũ khí thu được rất nhiều. Phía ta bị thương 3 đ/c, hy
sinh 1 là đ/c Tạ Mạnh Hiền Atr. Trong lúc truy kích địch qua đường 241 ra cánh
đồng, bị trúng 1 viên đạn thẳng của Pot đúng giữa trán. (Đ/c Hiền quê ở Thống
Nhất, Hưng Hà, TB. 1 trong 6 đ/c cùng được về phép, cùng lấy vợ, chưa có
con và trong 6 đ/c này h/s 5 đ/c).
Cùng lúc được thông báo, đại đội
1 và 2 đã làm chủ trận địa cối của Pốt diệt 25 tên, thu được 2 khẩu cối 122m và
nhiều súng. Đồng chí Ngô Khắc Quyền lính 75 quê Thanh Hóa, đã bắn liền hơn 10
quả B40 diệt được các mục tiêu. (đồng chí Ngô Khắc Quyền, quê ở Thọ Thành,
Thường Xuân, Thanh Hóa hy sinh ngày 18/7/78 được quốc hội truy tặng danh hiệu
AHLLVT h/s cùng ngày với tiểu đoàn trưởng Nguyễn Sông Thao, L/sỹ AHLLVT h/s
cùng ngày 18/7/78 tại hướng đường 13, Bến Sỏi đi sang). Chỉ huy d3 tiến công
sang Săng Kum- Miên Chey. Gặp khó khăn vì địch chốt trong rừng thưa. Nên phòng
thủ quyết liệt. Tấn công trực diện gặp khó, Dtrưởng Thao và CVPhó Đặng Văn Lưa
hội ý, rồi sử dụng C9 và mũi chọc sâu là B2 do đ/c b Trưởng Nguyễn Cảnh Hồi
vòng phái đánh tạt sườn. Đội hình địch rối loạn, bị chia cắt. Các đại đội 10, 11
ào lên tiêu diệt và chiếm các M. Bọn Pốt vỡ trận tháo chạy về hướng Tây như 1
đàn vịt. D3 thừa thắng xông lên truy kích ra mãi ngoài xa cánh đồng. Mục tiêu
tấn công của d 3 đã hoàn thành.
Trung đoàn thông báo: lúc này
hướng đường 1, d2 của E273 cùng đội hình mạnh của E14, F7 phát triển thuận lợi.
d2 đã tiến đánh qua PaVét 1 về hướng Chi Phu. E14 tiến đánh thẳng về phía cầu
Padasot.
E266 cũng đã hoàn thành các M,
bên trái của e273. Cũng đã tạm dừng truy kích, để xốc lại đội hình .
Đây là những thắng lợi đầu tiên
trong ngày. Nhưng trận chiến tiếp diễn sẽ rất gay go phức tạp. Vì lực lượng của
ta và của Pốt đã lẫn lộn nhau. Bọn chúng rút chạy nhưng lại gặp các lực lượng
của ta. Vì vậy ta và Pốt ở giữa các vòng vây của nhau. Bắt đầu diễn ra các trận
đánh nhỏ cấp trung đội, đại đội. Hỏa lực như pháo cối ko thể hỗ trợ được. Bọn
Pốt bị đánh đuổi rất cay cú. Chúng đã bắt đầu quay lại phản kích. Bọn ở phía
trong cố sống cố chết để mở vòng vây chạy. Nên chung quanh từng đơn vị đều có
địch. Và ngay chúng ta cũng bị lẫn lộn giữa đ/v nọ, với đ/v kia. Có khi cứ
tưởng Pot là đ/v bạn. Đ/v bạn lại tưởng là Pot. Những điều này làm cho trận
chiến căng thẳng, phức tạp lên nhiều. Phía ta h/s và thương vong cũng ko nhỏ.
Khoảng 8h30 địch bắt đầu phản
kích từ hướng Tây Nam ,
Tây Bắc, vào các đơn vị. Hướng Đông Bắc đã có nhiều tốp địch chạy từ phía biên
giới ta về. Chúng đi thành nhiều đoàn, mỗi đoàn khoảng trung đội, đại đội. Đi
theo nhiều đường. Mới đầu anh em tưởng
là đơn vị bạn tiến về. Vì cũng được thông báo có các đơn vị cùng tham chiến.
Hướng Tây Bắc chúng tiến vào rất
hiên ngang, nên anh em lại càng tưởng quân ta. Một số anh em ra bắt liên lạc,
theo quy định thì có 3 cách bắt liên lạc.
- 1 là giơ mũ hoặc khăn tay lên
trời quay 3 vòng, bên kia cũng giơ tay lên trời quay 2 vòng + lại = 5 là đúng mật lệnh.
- 2 là hô to- 75 - đối phương
phải trả lời là: Hồ Chí Minh thì cũng đúng mật khẩu.
- 3 là bắn ba phát AK lên trời,
đầu kia bắn 2 phát cũng là đúng.
Anh em ra bắt liên lạc cách thứ
nhất quay mũ 3 vòng, bên kia chúng cũng giơ tay quay mũ .
Sử dụng cách thứ 2 , hô to là 75
chúng cũng hô lại xa nghe không rõ.
Anh em bán tín bán nghi, vì trông
xa vài trăm mét thì trang phục quần áo rất giống của mình. Quần áo của mình mầu
xanh, bị ngâm nước nhìn xa nó cũng trở thành mầu đen.
Tôi dùng ống nhòm quan sát kỹ,
cũng không thể nhận được ta hay địch. Chúng vẫn dàn hàng ngang tiến vào, khoảng
cách đã không còn xa, anh em bắn súng hiệu, thế là chúng ào vào. Vừa bắn vừa hô
ầm ĩ trô, trô. Xông thẳng vào vị trí của ta.
Bây giờ thì đã rõ, bọn này thật
dũng cảm, nhưng ngông cuồng. Các loại súng của ta bắn trả rất mãnh liệt. Nhưng
2 đồng chí khi chạy ra bắt liên lạc thì 2 đ/c không chạy vào với đồng đội được
nữa.
Tôi nhanh chóng cho 2 khẩu đội
cối nấp sau 1 bức tường, bắn yểm hộ cho đơn vị, đạn rơi rất gần, cự ly khoảng
hơn một trăm mét, và rất có tác dụng. Làm cho đội hình Pốt chùn bước. Nhưng
chúng dùng thủ đoạn, cứ nằm xuống nấp, lắp đạn B40- B41, ĐK82 bò tiến rồi lại
đứng thoắt dậy bắn rồi lại nằm nấp trong ruộng lúa, dù không nhìn thấy Pốt. Nhưng
anh Trụ vẫn cho 2 khẩu đại liên bắn găm xuống ruộng lúa. Chúng bò lùi ra xa,
như vậy đợt phản kích thứ nhất bị bẻ gãy, anh em tiến ra ruộng lúa tìm 2 đồng
đội. Cánh đồng rộng tìm rất khó, gặp rất nhiều xác Pốt, gần 30’ sau mới thấy
được 2 đồng đội mình. 1 đ/c hy sinh, 1 đ/c bị thương nặng.
Sau đợt phản kích của Pốt, thấy
vị trí đặt cối chưa thuận lợi, tôi cho anh em lùi vào trong làng. Gặp anh em
phía sau của d3, cũng đang chạy đến. Ngay phía sau anh em cũng là Pốt. Bọn này
chạy ở biên giới về, rất nguy hiểm vì phía này lực lượng bb không có mà đa số
anh em phục vụ. Anh em vừa chiến đấu, vừa lui về gần đường 241. Gặp tôi, tôi
nói phía trên có Pốt đang đánh nhau. Không đi được nói anh em nhanh chóng chốt
lại. Tôi còn cối chi viện. Và giục anh em gióng cối bắn hỗ trợ. Lúc đó các
hướng đều có những tiếng súng bắn qua lại rất rát, như vậy chung quanh ta đều
có Pốt. Tôi nói ae đi tìm nhặt súng ak để trang bị thêm. Cuộc chiến này mới chỉ
bắt đầu.
Trận chiến gần như là hỗn loạn.
Các đơn vị của ta đều phải tự lực chống trả địch. Lực lượng của ta lúc này
không có điều kiện chi viện cho nhau. Chỉ huy E và F cũng không thể nắm chắc
được khu vực nào có địch. Khu vực nào không. Vì bọn Pốt rút chạy di chuyển lung
tung. Gặp ta chặn đường chúng chiến đấu mở vòng vậy. Nếu thấy ta cứng quá chúng
lại chạy, di chuyển đi hướng khác. Chúng nó như cá đã vào trong lưới tìm đường
thoát. Nhưng ở đây chúng còn vòng ngoài, hướng Tây Bắc, Tây Nam hỗ trợ Lúc 11h, được tin đồng chí Lương Trác Thành
cvtr, C10 hy sinh. Đ/c Thành trước ở c2, d1. Là 1 người rất cẩn trọng, có uy
tín. Hồi tôi còn ở dbộ d1, hay thường xuyên xuống làm việc về tình hình chính
trị đại đội. Đ/c Thành thường rất cẩn thận, tỷ mỷ trong báo cáo. Rất tôn trọng
các trợ lý của d. Lại có năng khiếu văn nghệ. Các cuộc hội họp quân chính d,
thường hay lên hát các bài dân ca quan họ như: mười yêu, mười nhớ, mời trầu
vv... Quê đ/c Thành ở Vạn Sơn, Đồ Sơn, Hải Phòng. Hôm trước khi được điều lên
tuyên huấn E. Gặp nhau anh kể: về phép mọi
người giới thiệu 3 đám mà cô nào cũng chê mình "Dừ quá". Đến chơi
toàn gọi mình là chú mới ác chứ, mong được 1 người gọi mình là
"anh"mà ko đươc. Về phép được 25 ngày thì ở nhà 20 ngày, buồn quá trả
phép sớm 5 ngày. Ko ngờ trong trận chiến này lại sớm hy sinh. (sau trả phép, có
lệnh đi c/đ ở biên giới lại được điều về làm cvtr C10, D3).
Trận đấu liên tục đến quá trưa,
thì tương đối im tiếng súng. Vì chúng chọc lung tung cũng không thoát. Nên cố
thủ giữa cánh đồng, có ý lẩn trốn đợi tối sẽ tính đường chuồn. Phía ngoài chúng
tấn công ta ồ ạt mấy lần đều bị ta đánh lui, bị tiêu hao sinh lưc lớn ko giám
hung hăng như trước nữa. Nên các đơn vị của ta, cũng đã bắt đầu tổ chức truy
quét, trong cánh đồng lúa rộng lớn. Đã có những trận chiến nhỏ, nhưng lại rất
khốc liệt, vì bọn Pốt ngoan cố không chịu hàng, lợi dụng những bờ mương, bờ
ruộng cố thủ đến cùng và bị tiêu diệt hết.
Phản kích mấy lần không được, lực
lượng bị vây cũng còn nhiều. Chúng gọi pháo và các loại cối 82, 60ly bắn vào
khu vực kiểm soát của ta. Làm anh em thương vong 1 số. Trong số hy sinh có đồng
chí Phạm Văn Long. Long trước làm công vụ cho chính uỷ E Vũ Trường Long. Sau
chuyển về thông tin hữu tuyến d1. Quê
Đông Hoà, Đông Hưng, Thái Bình. Gia đình Long đi theo đạo Thiên chúa, trông
Long trắng đẹp như 1 thư sinh. Rất gần gũi với Phú. Cùng sinh năm 1954 ngang
tuổi em gái Phú nên hay trêu nhận là em rể. Thế mà lại ra đi, mất mát hy sinh
toàn những người gần gũi thân thiết,
ngậm ngùi đau thương càng nhiều gấp bội.
Cũng diễn biến trong buổi sáng
ngày 6/12 đó, khi nhận được lệnh đưa dẫn các thương binh nhẹ về phía sau của
D3, đ/c tân binh Trần Thanh Thuỵ trên đường đưa thương binh về, gặp khoảng một
trung đội địch. Rất bất ngờ, nhưng cũng rất dũng cảm, một mình Thụỵ cùng mấy
đ/c thương binh, chống chọi với trung đội của Pốt. Tiêu diệt được 5 tên, bọn
còn lại bỏ chạy nhưng Thuỵ cũng bị thương. Cả nhóm thương binh không về căn cứ
ngay được, có một đ/c chạy mất phương hướng rồi về được tới cứ ở rừng Phước Chỉ.
Hốt hoảng kể rằng Thuỵ và một số anh em thương binh có thể bị Pốt bắt.
Đến 5h chiều tình hình đã tạm
yên, d3 được lệnh trở về Phước Chỉ, còn đại bộ phận chốt lại, d3 rồng rắn trở
về. Ở cứ phát hiện thấy d3 lại tưởng là Pốt, suy luận là Thuỵ dẫn đường cho Pốt
tấn công hậu cứ. Thế là ae hậu cứ chạy tán loạn. (Ở cứ toàn anh nuôi, hậu cần,
quân y và mấy ae trợ lý) chỉ có mấy đ/c trinh sát có bản lĩnh, ở lại bán địch.
Sau khi biết là d3 trở về. Mọi người mới vỡ lẽ, bừng lại vui vẻ. Nhưng ai nấy
đều ngượng ngùng. Và việc này, nó đã trở thành 1 đề tài vui mãi sau này.
Buổi chiều, toàn mặt trận đã lặng
im tiếng súng. Bọn Pốt cũng không thấy pháo, cối gì nữa. Lính ta được lệnh: Các
đơn vị chốt ngay vị trí đang dừng chân. Làm nhiệm vụ để phòng địch mật tập,
phản kích, củng cố trang thiết bị. Nhất là hậu cần tại chỗ để bồi bổ sức khỏe.
Thu gom vũ khí của Pốt, trang bị thêm
cho mình. Tập trung thương binh, tử sỹ đợi lệnh.
Lính ta được dịp xả hơi. Tận dụng
lương thực, thực phẩm của Pốt để lại. Gạo, gà vịt sao nhiều thế. Những cái đầm
nhỏ, mà những con cá lóc, cá rô, cá trê thật lớn. Chỉ không có tý cay, cay. Hết
nấu cơm, lại nấu cháo với những thứ đó, thật lý tưởng. Mọi người ăn no nê, nghỉ
ngơi đợi lệnh. Ai cũng nghĩ chiều tối sẽ có "nước mã hồi ", được trở
về biên giới .
Gần 5h chiều. D3 được lệnh về biên
giới. Khênh cáng thương binh, liệt sỹ về nước. Còn d1, và các đơn vị của E266
chốt chặn lại. Được phép chuẩn bị lương thực tại chỗ 4 ngày. Thật là vô lý. Mọi
người mừng hụt. Nhưng cũng phải chấp hành mệnh lệnh. Và ai cũng nghĩ đến cái đêm đầu tiên chốt ở BaVets1. Rất khốc
liệt. Chiều tối dần. Đội hình tiểu đoàn bám thành hình tam giác ở khu vực đường
241. Chỗ này có một ngã ba (tôi quên tên
đường). Đang buồn lo với bao suy nghĩ thì thấy có khoảng 2 trung đội của
anh em E266, đang lần mò đến và dong 1 thằng Pot bị thương nhẹ. Hỏi ra mới biết
anh em say sưa truy đuổi địch nên lạc mất đ/v. Ngoài đ/c chỉ huy, còn toàn lính
trẻ. Vui quá chúng tôi bèn rủ anh em ở lại chốt luôn với C3. Thêm quân thêm lính giữa đất K này thật ấm lòng. Anh em đồng
ý ở lại. Được dịp, những thực phẩm định để giành ngày mai, bỏ ra khao anh em
266 hết. Đơn vị nọ đơn vị kia kể về trận luồn sâu và đánh Pốt trong ngày thật
sôi nổi.
Trời tối hẳn. Phân công gác xong,
mọi người cũng để nguyên trang bị, nằm ngủ dưới đất. Khoảng 22h thấy đất có vẻ
rung chuyển. Dỏng tai lên có tiếng ì ầm ầm rất nặng. Đúng tiếng xe tăng rồi,
tiếng động này là cả đoàn chứ không phải 1 vài cái. Mọi người chồm cả dậy vồ
lấy súng đạn. Nhưng tiếng ì ầm còn xa lắm. Ai cũng nghĩ và tự hỏi bọn này lại
dùng xe TTG đánh đêm với mình à ?
Cùng lúc đó, liên lạc đại đội chạy
xuống báo giọng hoảng hốt: lệnh của d tất cả súng chống tăng B40 - B41-
DKZ75-82 của các đơn vị tập trung lên gần đường 241. Tực tiếp do tiểu đoàn chỉ
huy. Ta đang phát hiện có đoàn xe tăng rất nhiều, tiến từ hướng Tây Bắc về theo
đường 241. Có cả xe chở lính nữa.
Tình hình gay go phức tạp đây.
Mọi người chẳng ai nói với nhau câu gì, lầm lũi kiểm lại vũ khí súng đạn, chuẩn
bị cho trận chiến khốc liệt sắp xẩy ra.
Tiếng ầm ầm của đoàn xe mỗi lúc
một rõ hơn. Chẳng ai giục, nhưng mọi người đều tự giác củng cố hầm hào, cho sâu
hơn. Còn kiếm thêm những mảnh gỗ làm nắp hầm. Mấy anh em lính trẻ 266 ở cùng
chỗ tôi (lính 77) nói giọng trong trẻo thật ngây thơ: Anh ơi, nếu xe tăng vào
đây, em sẽ nhẩy lên, tương lựu đạn vào trong xe như anh hùng Cù Chính Lan ấy.
Nghe giọng nói, nhìn động tác
biểu cảm của anh em thật se lòng. Tôi nói: “em đã học cách nhảy lên xe tăng, xe
học thép chưa ? Anh em trả lời là chưa. Mới chỉ học có lăn lê, bò toài và bắn
súng AK, đội ngũ..vvv.. Không thể nói gì hơn. Tôi nói đánh xe tăng, không dễ
như các em tưởng và không như trong phim đâu. Các anh tập mãi mới chạy nhẩy
được lên xe đấy. Mọi người phải hết sức cẩn thận.
Rồi tôi chủ động lên gặp BCH đại
đội. Thấy ở vị trí chỉ huy mọi người cũng gấp rút chuẩn bị hầm hào, ụ súng. Anh
Trụ và Anh Tiễn cùng hỏi tôi tình hình dưới đó thế nào ? Tôi cũng báo cáo qua
về tình hình anh em, ý trí và thực lực của đơn vị mình. Và hỏi anh Trụ: súng
chống tăng điều đi hết rồi mình lấy gì phòng vệ. Anh Trụ và anh Tiễn hơi ngẩn
người ra. Tôi nói luôn. Bây giờ anh cho liên lạc đi các B xem số súng M72 còn
bao nhiêu quả. Và nên hội ý chỉ huy để bàn cách đánh, nếu tăng thọc vào được
đây. (anh Trụ cùng nhập ngũ, cùng quê Hải Hưng với C trưởng Hồng lính 71. Ngày
12/4/78 anh Trụ cũng huy sinh khi đánh giải vây Hà Tiên Kiên Giang giữ chức D
phó D1).
Liên lạc C đi báo các B trưởng
lên hội ý. BCH phổ biến tình hình và dự kiến các tình huống xẩy ra. Sau đó anh
Tiễn phát biểu, động viên tinh thần mọi người. Và cũng là lên dây cót cho trận
chiến sắp tới.
Hội ý đại hội xong, mọi người ra
về nhưng nét mặt ai cũng đăm chiêu căng thẳng. Không nói ra nhưng ai cũng nhận
thấy. Cuộc chiến với đoàn tăng kia không đơn giản chút nào. Tôi về tới vị trí
của A10, hội ý sơ bộ với anh em, cả đ/c B trưởng của E266 biết về tình hình
địch và diễn biến hiện trạng. Tiếng xe tăng mỗi lúc 1 to. Ầm ào như sóng biển.
Và hình như nó còn bật đèn nữa. Hướng Tây Bắc, quầng sáng hơn hẳn chỗ khác.
Chợt nghĩ bọn này đang có âm mưu lớn đây. Cũng tất yếu thôi, chúng nó đang chủ
động chọc chiếm đất ta. Bây giờ ta lại đánh, đẩy chúng sang sâu đất nó. Làm gì
mà chúng không cay cú. Như vậy có khả năng chúng không đánh trong đêm mà đang
dàn trận để sớm mai tấn công ta.
Tự nhiên như thức tỉnh, tôi hỏi
anh em: còn gì ăn không ? Câu hỏi cũng làm phá tan không khí nặng nề. Hoài và
Dự đều nói: còn anh Phú ạ. Tôi nói anh em còn gì mang hết ra đánh chém cho khoẻ
quân, rồi muốn chiến gì thì chiến.
2h sáng ngày 7/12, chờ đợi mãi,
trừ người gác còn mọi người cũng tìm chỗ ngả lưng. Tôi vẫn cùng đ/c BT - của
E266 nói chuyện. Đêm tối trời đầy sao, nhưng không có trăng, mọi vật chìm trong
mờ ảo, sương xuống gío mát lại vừa đánh chén xong cảm thấy thật nhẹ người.
Chợt nhìn thấy đ/c Nam và
anh Tiễn CVT xuống, tôi giật mình nghĩ chưa biết thế nào. Thì giọng đ/c Nam hồ
hởi: “anh Phú ơi, đoàn xe tăng là của mình. Ôi thật bất ngờ. Gánh nặng như được
trút bỏ và anh Tiễn kể là D vừa bắt liên lạc được với đoàn xe tăng. Đây là đoàn
TTG cùng bộ binh, tấn công từ hướng đường 13 Bến Sỏi sang tới giao lộ 241 thì
rẽ về đây. Mũi tấn công hoả lực mạnh như D2 và E14 F7. Nhiệm vụ của họ (F339 – hay F309 xin lỗi quên phiên hiệu –
QK7!) là bắt liên lạc và thay vị trí cho E273 để ngày mai E273 và E266 hành
quân đánh địch về hướng đường 1. Thật là 1 sự hợp đồng không rõ, giữa QK và QĐ
gây bao phiền toái lo âu. Mọi người biết tin này, thì ai nấy khí thế lại tưng
bừng hơn trước. Cười nói rôm rả. Đúng là thằng Pốt không là cái đinh rỉ gì cả !
Sáng ngày 7/12/77, sau khi bàn
giao các vị trí đang chốt giữ cho QK7, toàn đội hình E273, E266. Cơ động theo
trục đường 241 về Tà Yên, để chuẩn bị tấn công vào khu vực Parasot cùng với D2
và E14 , F7.
Đường hành quân, lấy trục 241 làm chuẩn và đi thành 3 mũi, vừa đi vừa
truy quét những nhóm địch nhỏ lẻ lẩn trốn trong các phum chưa chạy trốn hết. Trong
ngày hành quân truy quét này. Mũi của D1 là tiến dọc đường 241, mùa khô trời
nóng như rang, nhưng nhiệm vụ phải tiến nhanh về địa điểm mới. Vùng này sao rất
hiếm nước, khát khô cổ, đã tới trưa vừa đói vừa khát. Anh em phải tự túc lương
thực mang theo, đến một phum ven đường, có một cái giếng. Giếng không sâu lắm,
nước trong và ngọt. Ai lấy tha hồ mà tu cho đỡ cơn khát, tới lượt tôi cũng vục
mặt vào cái xô nước đó mà uống như chưa bao giờ được uống, rồi bất ngờ nằm lăn
ra tắt thở. Không biết đã có ai bị thế này chưa, còn tôi hồi đó đúng là như
vậy. Anh em phải làm động tác hô hấp một lúc, mới tỉnh lại đi tiếp, cái đó gọi
là nghẹn nước. Đúng như các cụ nói “Chết vì ăn, vì uống” thật nhớ đời.
Chiều tối toàn đội hình mới tới được địa bàn Tà Yên, làm công tác chuẩn
bị ngày mai tấn công Parasot. Ở khu vực Parasot, sau khi lực lượng D2 và E14,
F7 tấn công từ Mộc Bài sang. Thì làm nhiệm vụ chốt giữ tại khu vực ngã ba
TruonTraPec. Bọn địch co cụm và phòng ngự từ KôngPông Ro tới Parasot. Nhiệm vụ
được giao là D2 và E14 đánh vu hồi phía Tây Nam Parasot, hướng Tây Bắc E273 v à
E266, đánh thắng từ Tà Yên qua. Nếu thuận lợi thì vượt cầu Parasot tới bờ sông
Ba Sa.
Ngày 8/12, chỉ huy F thấy tấn công buổi sáng không đảm bảo, vì các đơn
vị anh em đã rất mệt. Nên quyết định điều nghiên, nắm thêm tình hình địch và
làm công tác chuẩn bị cho tốt hơn, đổi giờ tấn công giờ G là 16h15’.
Đúng giờ D toàn bộ lực lượng E 273 –E266 hướng vu hồi có D2 và E 14 F7
đồng loạt tấn công. Bọn Pốt chống cự yếu ớt rồi rút chạy. Trên đã thắng lợi
chỉều tối toàn bộ đội hình F vượt qua cầu Parasot, tiến quân sát đến bờ sông Ba
Sa. Toàn đội hình chốt chặn và truy diệt bọn Pốt ở khu vực này về tới biên giới
Long An.
Một trận chiến đạt thành tích cao:
Đã bảy ngày, ta làm chủ từ biên
giới tới khu vực sông Ba Sa. Truy quét và tiêu diệt được rất nhiều địch. Một
số dân tiếp tục chạy sang lánh nạn ở bên ta. Như vậy với M đưa chiến trường
sang đất của bọn gây chiến đã thành công. Làm cho bọn Pot và quan thầy của
chúng vô cùng cay cú. Nhưng nếu cứ dừng chân thế này thì chúng ta cũng không
thể tiêu diệt thêm được địch. Mà lại còn bị mang tiếng là “lấn chiếm”. Một số
đài báo và dư luận quốc tế được dịp “tố” vấn đề này.
Quân Pốt cũng đã bắt đầu gượng
dậy, đến ngày 12/12, chúng đã cho lực lượng phản công vào phía tây của Parasốt.
Để tạo điều kiện diệt sinh lực địch. Phải dụ chúng về sát biên giới của ta. Mà
như vậy, ta mới phát huy được mọi hình thức chiến thuật bày binh bố trận v.v …
Sáng ngày 15/12, Sư đoàn ra lệnh cho các đơn vị tổ chức “lui quân”. Khi
chúng phản kích. Sao có vẻ vừa đánh vừa
rút, bí mật, nhưng lại rầm rộ. E266 và E14- F7 về phía biên giới Mộc Bài. Còn
E273 rút ngang về hướng ngã ba Cột Cờ giáp Mộc Hoá tỉnh Long An.
Bọn Pốt dùng 5 tiểu đoàn tấn công ta vào khu vực Bắc đường 1, cầu
PaRaSot. Có cả pháo binh yểm trợ. Thấy
ta tấn công yếu ớt và dần rút lui, bọn chúng vượt cầu PaRaSot bám đuổi quân ta
về sát biên giới. và đã lại dùng pháo 105ly bắn sang đất ta.
Sư đoàn 341 sử dụng D3 và C3, D1
của E273 được tăng cường hoả lực 12L7, ĐK275, bí mật luồn sâu từ hướng Mộc Hoá,
áp sát chốt chặn tại cầu Parasot. Tiểu đoàn 2, có nhiệm vụ tiến công hướng
chính diện từ Mộc Bài sang cùng tăng thiết giáp.
Tiểu đoàn 1 thiếu đại đội 3, nâng
đội hình nên sau d3 làm nhiệm vụ hỗ trợ d3 và “be bờ” hướng Đông Nam
cầu Parasốt. Đúng 1h ngày 16/12, d3 và c3 d1 E273 đươc lệnh xuất phát luồn sâu
theo phương án. Mặc dù trong mấy ngày tác chiến liên tục, truy quét, truy đuổi
địch, cán bộ và từng chiến sĩ vô cùng mệt nhọc, nhưng mọi người khi được giao
và hiểu nhiệm vụ, thì không một ai kêu ca. Nhanh chóng lên đường. Lại một đêm
luồn sâu sang đất địch bắt đầu.
Mệt, có thể nói là vô cùng mệt.
Trong suốt từ đêm ngày 5/12 tới giờ. Hơn chục ngày tác chiến, quần đảo, trời
nắng như rang. Nhìn cánh đồng lúa chín rũ, ban ngày thì như có những thán khí
bốc lên ngùn ngụt. Từ tối đến đêm thì hơi nóng từ đất, từ lúa bốc ra. Cánh đồng
thì rộng ôi sao nó rộng thế ! Không thể ví là: “Thẳng cánh cò bay” như vùng quê mình được nữa, mà
nó là một mầu vàng trải dài bất tận....Thỉnh thoảng lại có vạt lúa cháy. Khói
bay mù mịt đến là ngạt thở. Một vài con chim chao lượn trong khói để bắt những
côn trùng bay lên, và thoảng trong khói, mùi nẻ cốm. Như ngày xưa ta ở nhà nấu
cơm bằng rơm rạ, mà có sót những hạt thóc nổ thành nẻ thơm. Lấy que cời lửa ra
nhặt cho mồm nhai thật ngon. Thật nhớ và
nó đã trở thành kỷ niệm của tuổi thơ ở quê hương. Còn ở đây cả vạt lúa, cả đồng
lúa cháy nên hương cốm lẻ thơm ngào ngạt. Nó còn quyện trong khói, trong lửa
trong khung cảnh của sa trường. Đi qua những vạt lúa đó thật nghẹt thở, thật
khó chịu và chua xót đến nghẹn lòng ..
Cánh đồng thì rộng thế mà bờ ruộng thì rất ít. Anh em từng đơn vị phải
đi xẻ ngang, xẻ dọc để tìm và truy quét những tốp địch lẩn trốn trong những cụm
cây, những căn nhà lẻ loi nên rất mệt. Tối đêm lại nằm ngủ ngay tại cánh đồng.
Cỏ, lúa là giường, là chiếu, trời sao là màn. Muỗi rãn nhiều vô kể. Tối ngủ anh
em để nguyên quần áo, giầy dép. Súng để cạnh, đạn đã lên nòng, nhưng để ở chế
độ khóa an toàn. Mỗi người nằm về mỗi hướng thay nhau trực gác suốt đêm. Khăn
mặt ban ngày trời nắng thì đội đầu, tối ngủ thì đắp mặt. Ăn uống sinh hoạt thì
toàn đồ khô, đồ nguội. Nước uống đâu được đun sôi nấu kỹ. Vũng nước nào gặp,
vục mặt xuống là uống nấy uống để. Sức trai hồi đó ai cũng gầy nhom, đâu được
béo tốt như bây giờ. Làm sao mà không mệt. Nhiều lúc đang đi giữa trời nắng,
gặp những cái giếng hoặc vũng nước tôi và nhiều ae gục đầu xuống gội. Nghĩ rằng
nóng gặp lạnh cho nó cảm, ốm nghỉ mấy ngày chứ không thể chịu nổi rồi. Thế
nhưng nó cũng chẳng ốm, chẳng ai ốm. Nhiệm vụ truy quét địch càng nặng nề hơn.
Có nhiều trường hợp truy quyét gặp những tốp địch ẩn trốn trong những lùm cây,
những căn nhà đơn lẻ giữa cánh đồng. Chúng chủ động bắn rồi chạy. Chính những
loạt đạn bắn chủ động đó lại làm ae mình dính đạn hơn. Thế là lại phải tổ chức
tấn công truy diệt. Và vất vả nhất lúc đó là phải khênh cáng thương binh, liêt
sỹ, đi theo đội hình rất là gian nan.
Bắt đầu lính ta mới có câu ca dao
như các đồng chí đã nói: “Đời thằng mục, ăn cơm cục, uống nước đục, đi thì miên
phục, không đi thì cấp trên giục, về nhà thì nhục...”. Cái vận ục nó cứ kéo dài
mãi theo cách phát triển của từng người từng đơn vị.
Đêm nay lại được lệnh luồn sâu.
Không phải lội nước, nhưng trong trạng thái của bộ đội mình sức vóc gần như cạn
kiệt. Được phổ biến là cố gắng tránh địch. Vì chúng đã tràn sang vùng này 5
tiểu đoàn, và 1 số quân địa phương, Pot còn kéo cả pháo 105ly, đặt ở vùng Rừng
Sở, để tấn công truy kích ta. Nên trên đường luồn sâu vào M là cầu Parasot sẽ
rất nhiều phức tạp. Nhưng bằng mọi giá D3 +C3 d1 phải chốt được ở cầu Parasot
lúc 4h30 sáng. Nếu ko đạt được mốc thời gian đó, ở vị trí đó. Thì trận chiến
ngày mai chẳng còn giá trị gì nhiều. Trong trận này quân số của D3 khoảng 400
người + hỏa lực 12,7 của C16 trực thuộc 2 khẩu và trinh sát E tăng cường nữa.
C3 quân số còn gần 80 người.
Mọi người lên đường. Hướng hành
quân từ khu vực Cột Cờ, Mộc Hóa, Long An về hướng cầu PaRaSốt. Đi theo đường
đất rồi cắt theo các ruộng lúa, để tránh gặp địch. Đây là lần luồn sâu thứ 3,
nên anh em đã tương đối quen thuộc. Cũng đã hiểu được những khó khăn, vất vả.
Mỗi đại đội cách nhau 15 phút xuất phát, để tạo nghi binh như là những đơn vị
nhỏ lẻ. Đại đội 3 đi phối thuộc nhưng đi gần sau cùng. Cả đội hình hành tiến
làm 3 đường chứ không theo đội hình hàng dọc. Tuyệt đối ko được sử dụng máy vô
tuyến. Hữu tuyến thì ko thể có rồi. Ngày hôm qua, để thực hiện viêc nghi binh
bằng cách cho các máy vô tuyến ra lệnh rút quân nửa kín nửa hở, phát sóng nhiều
lần, để lừa đài kỹ thuật của Pot. Vì vậy d3 + c3 phải thực hiện nhiệm vụ luồn
sâu theo kế hoạch độc lập. Cũng ko có pháo binh dẫn đường như trận trước. Đi,
vẫn lại lúc đi, lúc nghỉ vì phải tránh địch và phải đợi trinh sát bám trước rồi
quay về dẫn đội hình đi. Khi nghỉ, hạn chế nghỉ trên đường, phải xuống cách
đường 20-30 m đề phòng gặp những toán lính Pốt hành quân đêm. Có mấy tình huống
xảy ra với C3 và C9. Khi hành quân được hơn 1 giờ có lệnh tạm dừng nghỉ. Anh em
quá mệt, ngồi ngay trên đường và mọi người gục xuống ngủ vùi. Đúng lúc đó có
khoảng 1 trung đội lính Miên đi qua. Thấy anh em ngủ chúng lại tưởng là lính
Pốt lay gọi. Anh em mình choàng tỉnh nhưng ú ớ nói không ra tiếng, nhưng cũng
nhận ra ngay là Pốt, ko kịp xử lý cứ kệ chúng đi qua. Thật hú vía. Tiếp đến một
lần nữa anh em nghỉ cách bờ ruộng khoảng 20m, thì cũng gặp khoảng một đại đội
Pốt đi qua. Ai nấy nín thở chuẩn bị chiến đấu. Nhưng chúng vội hành quân về
hướng ta, nên không phát hiện được C3 đang nấp ở ruộng lúa.
Riêng đội hình đi cuối của C9 thì
bị lộ, 2 bên bắn nhau 1 lúc cứ thế này thì không đến được mục tiêu. C9 xử lý
tình huống là: cử 2 trung đôi ở lại đánh chặn Pốt. Lợi dụng đêm tối vừa chiến đấu vừa rút theo ý
định.
Trời đã tảng sáng, mục tiêu còn
xa, việc hành quân gấp gáp hơn. Mọi người đã rất mệt. Tiểu đoàn trưởng Nguyễn
Song Thao cùng trợ lý tác chiến cứ dừng, rồi lại lùi xuống đội hình, rồi lại đi
lên trước đội hình đi đầu, đôn đốc động viên, hối thúc anh em. Giục anh em vận
động cho kịp thời gian. Nhưng anh em chỉ vận động được ít bước, rồi lại hành
tiến không thể vận động được nữa. Mệt và đói. Có lệnh tranh thủ vừa đi vừa cảnh
giới và phải vừa ăn cơm “cơm nắm”. Ai nấy móc cơm ra gặm. Miếng cơm là lại mút
miếng thịt kho mặn vừa đi vừa nhai để tăng sức quân. Không biết ngày xưa, khi
ông Nguyễn Huệ thần tốc từ Tam Điệp ra đánh Ngọc Hồi, Đống Đa có hành quân kiểu
này không ? Chứ anh em mình không thể nào nhanh hơn được nữa. Lính của vua
Quang Trung xưa, binh khí chỉ có cung tên, với kiếm, giáo mác rất nhẹ. Còn lính
mình bây giờ phải mang trang bị súng ống, đạn dược rất nặng 3 cơ số đạn , có
nhiều anh em mang tời 3-4 khẩu súng các loại. Anh Ngọc BT ngoài súng AK, B40,
M79 còn kèm cả khẩu côn nữa. Nên chắc chắn là trang bị nặng hơn lính của vua
Quang Trung rất nhiều.
Đúng 4h20 sáng, đội hình C10- C11 đã bám được vào khu
vực phía Nam
cầu PaRaSốt đợi C12. Mấy phút sau hỏa lực c12 cũng đã tới. Bọn Pốt ở đây vẫn
chưa biết gì. Chúng cứ tưởng quân ta cũng là những đơn vị của nó. Chúng đứng lố
nhố rất đông ở gần cầu và cạnh lan can giữa cầu. Anh em 12,7ly thao tác rất
nhanh. 2 đại đội bộ binh dàn thế tiến công. Bọn Pốt ở cầu còn giơ tay vẫy, vẫy
như chào hay như ám hiệu bắt liên lạc. Lệnh phát hỏa. Đầu tiên là 2 khẩu 12,7
ly điểm xạ xé tan sự yên tĩnh của buổi sớm. Nhằm bắn thẳng vào số lính Pốt đang
tụm ở đầu cầu và giữa cầu. Rồi hỏa lực b40-b41 ùng oàng, các loại súng thi nhau
nhả đạn. Bọn Pốt hoảng loạn, vài thằng rơi từ giữa cầu xuống sông. Cối 82, cối
60 ly cũng bắn cấp tập vào khu vực quanh đầu cầu. C10 và C11 dũng mãnh xung
phong, đánh chiếm mục tiêu đầu cầu rồi
vượt sang bên kia đường. Bọn Pot hình như bây giờ mới hiểu chuyện gì đã xẩy ra.
Vỡ lẽ và vỡ trận. Mạnh thằng nào thằng ấy chạy, vọt qua cầu và vọt về hướng Tây
Bắc Cầu. Ko thằng nào kịp bắn trả. Sau 20 phút chiến đấu đội hình D3 và C3 đã
chiếm gọn khu vực đầu cầu. D trưởng Thao nhanh chóng tổ chức chốt chặn thành vành đai ở đầu cầu.
C3 và C9 ở hướng Tây Nam .
C10 + C11 hướng Tây Bắc. Hướng bắn chính là trục đường 1 về hướng Việt Nam và 1
khẩu 12,7 quay về hướng bên kia cầu. Vẫn nhả đạn bắn đuổi chúng chạy xa đầu cầu
bên kia. Các loại bộ đàm đươc phép hoạt động. D trưởng Nguyễn Song Thao gọi bộ
đàm trực tiếp cho Sư đoàn trưởng Vũ Cao, b/c nhiệm vụ của D3 luồn sâu vào M đã
hoàn thành.
Nhận được điện b/c của d trưởng
Thao F trưởng Vũ Cao vỗ vai tham mưu phó Thuật một cái thật mạnh và nói “thắng
rồi” cả sở chỉ huy bừng lên. Như chỉ đợi có thế. Vì khi giao nhiệm vụ cho d3 +
c3 luồn sâu vào chốt đón lõng ở cầu PaRaSốt, là nhiệm vụ hết sức nặng nề vì d3
không được phép liên lạc. Phải độc lập tác chiến, độc lập xử lý các tình huống
“Khi xẩy ra”. Nếu d3 thành công thì ý định chiến thuật mới thành công. Và ngược
lại. Nên sự trông ngóng nặng nề của chỉ huy F là không thể tránh được. (theo
lời kể sau này của các chỉ huy).
Lệnh tấn công được phát ra. Pháo
binh khai hỏa bắn về khu vực rừng Sở nơi đặt pháo của Pốt và bên kia cầu
PaRaSốt. Lệnh cho d2 cùng TTG xung phong dọc theo hướng đường 1. Hành tiến
nhanh. Các loại pháo thi nhau bắn vào các M. Dưới sự chỉ huy của d trưởng Võ
Văn Nhung và dv trưởng Đào Viết Tuyển (D
trưởng Nhung sau cũng hy sinh ở trận đánh khác) cùng TTG dũng mãnh xung
phong tiến đánh dọc đường 1 và 2 bên hành lang đường.
Lúc này đội hình d3 đã tổ chức
xong trận địa chốt. Anh em củng cố ngay hầm hào công sự. Bọn Pốt chạy mất hồn,
chưa dám phản kích anh em tranh thủ ăn nốt phần cơm, để lấy sức chiến đấu. Hồi
hộp hướng về phía đường 1 từ hướng Việt Nam sang. Chưa bị phản kích bằng bộ
binh nhưng pháo 105 ly và các loại cối của địch từ trong SvayRiêng bắt đầu bắn
vào đội hình d3. Mật độ rất dầy đặc, nhiều anh em đã bị trúng đạn của chúng.
Lúc đầu anh em còn bị cả pháo 105 của ta nện vào đội hình nữa chứ. Sau ít quả,
được báo về pháo 105 và 122 ly của ta mới chỉnh sang các M bên kia cầu. Nhưng ác cái là không với được
tới vị trí đặt pháo trong SVayRiêng của Pốt. Nên chúng càng tự do bắn, để trả
thù, bắn trong cay cú vì bị ta bất ngờ luồn sâu đánh chiến bờ Đông Bắc Cầu.
Khoảng 6h45 phút tiếng động cơ
ôtô từ hướng Việt Nam chạy trên đường 1 về hướng cầu mỗi lúc một to. Rồi rõ
dần, 2 xe Hồng Hà kéo pháo trên mỗi xe lố nhố mấy chục thằng Pot. Đường xấu lại
kéo pháo nên chúng cố cũng không thể chạy nhanh được. Anh em hồi hộp, cái hồi
hộp như người đi mai phục săn mồi, và khi thấy con mồi đã xuất hiện theo đúng ý
định. 500m rồi 400m rồi 300m bọn trên xe ngó nghiêng chĩa súng AK sang 2 bên
đường. Nhưng chúng vẫn chạy về phía cầu như không biết gì. Lệnh phát hỏa. Các
loại súng đồng loạt nhả đạn. Tiếng B40- B41 ùng oàng, tiếng 12,7ly hai bên bắn
chéo cánh xẻ tập trung vào chiếc đi đầu. Chiết xe khựng lại rồi một viên đạn
vạch đường 12,7ly đã trúng thùng xăng. Lửa bùng òa lên. Bọn Pốt nhẩy hết xuống
xe, vất xe cắm đầu cắm cổ chạy. Chiếc xe sau cũng phanh đứng lại, rồi lính cũng
nhẩy xuống chạy hết. Anh em xuất kích tiêu diệt gần như gọn bọn Pốt trên hai xe
này. Ta thu được 2 khẩu pháo 105 ly. Chiếc đi đầu xe bị cháy, đạn trên xe phát
nổ ầm ầm. Chiếc xe và pháo đi sau thu nguyên vẹn. Chiến công thật rực rỡ. D
trưởng Thao báo về sở chỉ huy F thắng lợi vừa đạt được. Sư đoàn trưởng biểu
dương khen ngợi và lệnh cho d3 bảo vệ 2 khẩu pháo vừa chiếm được. Chốt giữ,
chuẩn bị chiến đấu với lính bộ binh của Pốt rút chạy về đó. Đề phòng bọn bên
kia cầu phản kích sang. Anh em rất vui song cũng thấy ngay những trận chiến ác
liệt sắp diễn ra. Ngay chính tại nơi đây.
Thưa các bạn cùng anh em đang
theo dõi trên quân sử. Được biết là vào thời gian này, mới chỉ là giai đoạn đầu
của cuộc chiến tranh BGTN. Nên kinh nghiệm đánh Pốt của các đơn vị, các cấp chỉ
huy chưa có nhiều. Thường thì ta phòng ngự, chốt và khi tấn công thì đánh vỗ
mặt. Chốt chặn thì ta không thể có hầm hào bong ke công sự chìm nổi như của Mỹ,
Ngụy được. Có những căn cứ có tới 25 hàng rào dây thép gai như Chơn Thành - Bình
Long. Chúng còn chôn cả xe tăng xuống đất nữa thò mỗi tháp pháo và súng 12,8 ly
lên. Đánh vỗ mặt thì chúng bỏ chạy tránh đòn. Ta dừng thì chúng bu bám tập kích
lại ngay.
Nên mọi việc chốt giữ như trong
điều kiện của ta. Nếu bị nó lẫn dũi nhiều cũng rất khó giữ. Chưa nói đến việc
mùa mưa, đất bùn nhão nhoét. Gây cho ta căng thẳng và thương vong cũng nhiều.
Bạn ViệtPo “Lút” có hỏi là khi
chốt nên thưa đội hình ra, hoặc có những râu tôm tiền tiêu. Những cách này cũng
đã áp dụng nhưng hiệu quả không cao. Vì râu tôm chỉ là phát hiện địch. Chứ 1
chốt râu tôm 3 người mà khi đã lộ chúng cứ táng B40- B41- DKZ82 vào thì hầu như
thế nào cũng dính. Chốt mỏng hay dày là phụ thuộc vào quân số và địa hình, địa
bàn được giao được đảm nhiệm. Thực tế là những ngày giữa và cuối năm 78 cả quân
đoàn 4 chỉ chốt giữ được chiều dài đường biên hơn 20km mà cũng đã vất vả như
khu vực Chóp của BY, liền với Seng Ke của đ/v Phú (qua tập huấn được thông
báo). Mình không thể có người để giăng hàng ngang ra được. Thường 2 người lính
bộ binh có một người phục vụ phia sau (anh
nuôi, y tá, quản lý, liên lạc, các đơn vị phục vụ khác như vận tải, quân y
vv........).
Bọn Pốt đánh theo kiểu “nở hoa
trong lòng chúng ta” cũng rất giỏi. Chúng luồn lách qua các chốt rồi đánh vào
trung tâm chỉ huy hay trận địa pháo vv...ở đây anh em thường hay chủ quan và dù
sao cũng không thiện chiến bằng lính súng dài. Thực sự ta thấy giống như vỏ
trứng thì cứng, còn bên trong thì là nước. Ông chỉ huy thì ko tài bắn súng
được. Nhiều đơn vị đã bị trả giá về chuyện này.
Vì vậy việc tiêu diệt được Pốt
thì không thể đánh vỗ mặt hay chốt giữ như vậy được. F341 theo như được biết là
F đầu tiên áp dụng lối đánh luồn sâu vụ hồi đón lõng này ở chiến trường BGTN.
Sau đó là bài học kinh nghiệm trong QĐ- và các đơn vị khác. Đây mới là trận
luồn sâu thứ 2 (trừ c3 của TP thì có trận luồn sâu độc lập vào BaVét nữa). Việc
bắt sống được 2 khẩu pháo 105 ly của Pốt là rất đáng khen. Vì trong lúc các đơn
vị khác đang còn lúng túng, đối sách với Pốt mà F341 lại thu được xe pháo của
Pốt và dạy chúng bài học về chiến thuật, mưu lược dùng binh của QĐ ta.
Thực ra trong chiến tranh CM hay
chống Pháp ta cũng đã thường xuyên áp dụng cách đánh này. Nó vô cùng lợi hại
gây hoang mang cho đối phương. Lập nên chiến thắng lẫy lừng như Phai Khét, Nà
Ngần (thời chống Pháp), Núi Thành thời chống Mỹ vv...
Cha ông ta thời ông Lý Thường
Kiệt cũng đã bí mật luồn theo đường sông vào tận Ung châu, Vân Nam Trung Quốc để “tiên diệt đầu binh” thật tài tình, lập nên
chiến công hiển hách, sử sách còn ghi.

Sau khi vận động truy kích địch
và tiêu diệt gần hết số Pốt ở trên 2 xe kéo pháo. Đội hình của các đơn vị lại
trở về vị trí chốt để chuẩn bị cho đánh địch từ hướng Việt Nam về và có thể
bọn bên kia cầu tập kích theo dọc bờ
sông. Pháo và cối 81 của Pốt bắt đầu bắn vào khu vực này ngày càng nhiều. Đội
hình c3 và c9 lẫn lộn. Vừa bố trí xong vị trí 2 khẩu đội cối. Nghe tiếng rít
của đạn pháo. Tôi cùng anh em vội nằm tránh, đạn nổ ầm. Qúa gần. Mảnh đạn + đất
đá bay rào rào. Nhưng rất may không ai việc gì. Tôi hô mọi người lợi dùng hầm
hào cũ ẩn nấp tránh đạn pháo. Gần tôi có một hầm chiến đấu của Pốt. Chạy mấy
bước xuống được hầm, vị trí thật thuận lợi cho phòng thủ hướng Việt Nam
sang. Lại những tiếng rít của pháo cối. Nhìn lên thấy anh em d3 chạy đến, cứ
nằm rồi lại đứng lên chạy tìm hầm ẩn np. Nhìn thấy một đồng chí trên người đầy
súng đạn, đeo AK, tay phải xách khẩu B40, tay trái cầm khẩu M79. Dây đạn M79
vắt chéo qua vai sáng loáng. Tôi vời lại vị trí, sau mới biết là anh Ngọc BTr
b1 của c9 (sau này là d trưởng d2)
hiện đang sống ở Cẩm Phả- Quảng Ninh. Ngọc khoe với tôi là vừa diệt được mấy
thằng Pot bằng B40. Khi chúng chạy xa thì chỉnh M79 bắn đuổi thật khoái. Dáng
người thấp đậm to vâm như con gấu. Ngọc cười ngoác cái mồm rộng khoe hàm răng
trắng khỏe đều tăm tắp. Tính khí thật thoải mái dễ gần. Nói chuyện đánh nhau mà
cứ như đùa. Tôi nghĩ đồng đội này “bản lĩnh đây” đi chiến, đi gác, hay luồn sâu
có những đồng đội như thế này thì thật vững lòng. Vài ba câu xã giao xong kêu
đói và hỏi: “anh còn gì ăn không”? .Tôi là người gầy, ăn ít nhưng lại hay lo
xa. Ngoài cơ số quy định mang theo, bao giờ cũng phải phòng thủ một phong lương
khô trong bồng. Không mấy khi được phép sử dụng. Lần này thì được dịp bỏ ra
thiết đãi đồng đội cùng phối thuộc. Nhìn Ngọc vừa nhồm nhoàm nhai lương khô,
vừa ngửa cổ tu nước ùng ục trông đến mà thèm. Loáng cái đã hết cả phong. Ăn
xong, Ngọc lại móc thêm khẩu côn ra khoe tay đd dứ làm đông tác bắn trông rất
chuyên nghiệp. Những năm sau này gặp lại nhau ae vẫn ôn lại cái kỷ niệm ban đầu
đó.
Bọn Pốt bắn ngày càng dầy đặc
hơn. Đại đội 12 được lệnh bắn cối 81 phản vào trận địa cối của Pốt bên kia cầu.
Tong -tong -tong. Mới cấp tập có hơn chục quả mà mấy khẩu 81 của Pốt đã im bặt.
Như vậy bon này chúa sợ phản pháo. Đúng là đồ rát chết. Nhưng pháo 105 ly của
chúng vẫn ầm oàng đều đều. Không cấp tập như trước nữa. Nhưng cũng làm ae thật
khó chịu và gây thêm thương vong cho ta.
Đang thắc mắc là tại sao pháo của
mình ko bắn. Thì anh Trụ cùng đ/c Nam liên lạc đến, nói qua về nhiệm
vụ và nói rằng anh Thao đã điện về yêu
cầu pháo binh ta khóa mỗm mấy khẩu pháo của Pốt rồi. Nhưng phải đợi D2 tiến
thêm lên. Xe pháo kéo lên qua rừng Sở mới bắn được. Anh em cứ phải ở hầm chịu
trận. Khoảng 30 phút nữa thì mới thấy tiếng ùng ùng đề ba của pháo 122 ly. Nghe
tiếng đạn vo vo bay qua đầu rồi âm ầm nơi xa. Chắc cũng cách đây hàng chục cây
số. Nhưng rồi pháo của Pốt cũng đã im bặt. Như vậy là hết đời chúng mày. Với vị
trí này, đội hình này, thì đố thằng nào chạy qua được. Chúng mày muốn chết thì
vào đây!!
Mấy khẩu pháo của Pốt đã “tịt
ngòi”. D2 đã tiến tới giần PaRaSat. Bọn Pốt đã biết là ta có lực lượng đón lõng
ở cầu rồi. Nên chúng không tháo chạy theo đường một nữa, mà tản ra chạy theo
hướng Tây Bắc và Đông Nam. Hướng Tây Bắc thì mình không có LL be bờ còn hướng
d1 thì đã thấy súng nổ dồn dập, chắc bọn này chạy gặp “bờ” của ta. Tiếng súng
nổ chỉ 10-15p rồi im. Cả trận tuyến đã
im tiếng súng. Bọn này chưa hết bàng hoàng, chưa hiểu hết ý đồ chiến thuật của
ta. Nên cũng không thằng nào dám tập kích vào khu vực này mà đang tìm cách tháo
thân.
Trung đoàn 4 (E55 )cho anh em lên
nhận và tiếp thu 2 khẩu pháo + một xe Hồng Hà. Chiếc xe cháy không dùng được.
Anh em pháo binh ta phấn khởi thu nhận pháo chiến lợi phẩm. Định quay pháo dùng
luôn đạn của nó táng Pot. Nhưng đồng chí d trưởng pháo không đồng ý, và tổ chức
kéo xe pháo về. Trong niềm hân hoan chiến thắng. Còn lính d3 + c3 ở lại cảm
thấy “tưu nghỉu” như vừa để mất cái gì.
Mọi người về vị trí. Hậu cần lo cơm nước cho anh em thật
chu đáo. Ngoài cơm nóng thịt kho, lại còn có cả thịt hộp của sư đoàn gửi
lên: “thưởng lính” nữa chứ.
Đến chiều tối, cũng không có đợt
tập kích nào của Pốt. Nhưng từ 8h tối bắt đầu Pot tổ chức câu B40- B41 từ bờ
bên kia sang. Mấy lần dùng khoảng trung đội bb đánh vào hướng C10-C11 như thăm
dò LL của ta. C3 + C9 không bị trận tập kích nào. Sáng hôm sau d3- c3 truy quét
địch ở khu vực ngã 3 đường 93 - 94 đến chiều tối lại được lệnh rút về Mộc Hóa-
Long An. D2 về khu vực Mộc Bài. Vì đựợc thông báo trên trường quốc tế đang phải
đối việc mình đánh qua đất K.
Khi các đơn vị của F đã về chốt giữ ở Biên giới. Bọn Pốt lại tiếp
tục xua quân chọc phá ta ở khu vực Mộc Hóa, Long An. Tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 3
lại liên tục xuất kích đánh địch ở khu vực này. Đuổi chúng đến sát bờ sông Ba
Sa. Từ ngã ba đường 93 - 94 về hướng Nam. Nhưng cứ xuất kích là bọn này lại
chạy. Khi mình dừng rút về biên giới thì chúng lại bu bám ngay rất khó chịu.
Trung đoàn lên phương án vượt sông Ba Sa để đón lõng đánh Pốt. Đại đội 6, tiểu
đoàn 2 cùng trinh sát vừa đánh vừa luồn vào khu vực Công Pong Rồ, ý định làm
bến vượt sông ở đây. Để luồn sâu hẳn qua sông Ba Sa. Đại đội 6 gặp địch. Một
trận chiến nảy lửa đã diễn ra ở đây giữa đại đội 6 + một A trinh sát với cả tiểu đoàn địch. Trận
chiến kéo dài từ sáng. Bọn này như đã thấy được lực lượng luồn sâu chỉ có một
đại đội, nên chúng tổ chức vây kín 3 mặt. Còn 1 hướng thì là đầm lầy. C6 chống
trả hàng chục lần tập kích của Pốt ở các hướng. Nhiệm vụ trinh sát nghiên cứu
bến vượt không thực hiện được nhưng C6 cũng không thể rút về được.
Đại đội trưởng Pham Anh Xướng đã
chỉ huy anh em lợi dụng các gò đất, những cây thốt nốt giữa đồng kiên cường
chiến đấu. Nhưng C6 ở tình thế bất lợi về địa hình, nên đến 2h chiều đã hy sinh gần chục ae. Số bị thương cũng gần 2
chục. Đ/c Xướng cũng bị thương. (Đ/c Xướng quê ở Nam Hà. Trong cuộc CTCM cũng
đã là thương binh). Trong số hy sinh có một đ/c cũng tên là Phú, cùng quê TB
trước cũng làm ở Tuyên Huấn trung đoàn, khi đi chiến đấu cũng được tăng cường
xuống đơn vị. (được tin “ hú chính trị” ở Thái Bình hy sinh mọi người mãi sau
này vẫn lầm tưởng là mình).
Trước tình hình đó, trung đoàn
điều d1 tấn công giải vây. Đánh đuổi bọn Pot, đưa được hết liệt sỹ về nước. Đây
cũng là một trận mà quân ta thiệt hại nhiều.
Trận chiến ở hướng này ngày càng
ác liệt . Pot cay cú tăng cường thêm sư đoàn 703 thuộc lực lượng tổng dự bị từ
Công Bong Xom tới khu vực SVayRieng . Chúng liên tục tiến công ta từ phía Bắc
đường 1 đến Nam đường 1 đến Mộc Hóa- Long An .
Các khu vực của F đảm nhiệm ngày
nào cũng phải chiến với Pốt. Nếu cứ như vậy thì rất khó khăn trong việc giữ
chốt Biên giới. Nên các tiểu đoàn phải vận dụng chiến thuật vừa chốt giữ vừa
tấn công. Với chiến thuật này ta đã tiêu diệt được rất nhiều sinh lực của Pốt.
Các đơn vị địa phương của Tây Ninh, Long An cũng đã được tăng cường kết hợp với
F341 tấn công địch. Bảo vệ biên giới. Trong những lần tấn công địch ở đây do
hợp đồng không tốt, nên có trận cũng đã xảy ra việc “ quân ta chiến quân mình”.
Mặc dù đang ở thế tiến công địch.
Nhưng để giải quyết vấn đề biên giới bằng hòa bình nhằm: “tăng cường tính đoàn
kết, quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Campuchia”. Theo nguyên tắc công bằng
hợp lý. Quân ta quyết định lùi về đúng biên giới và củng cố thế trận phòng thủ,
sẵn sàng đánh địch nếu chúng tiếp tục lấn chiếm.
Trái ngược với thiện chí của ta.
Ngay ngày 1/1/78 Pốt cho 1 E tăng cường phản kích ta trên hướng E273. Buộc ta
lại phải tấn công tiêu diệt địch. D3 của E273 lại luồn sâu sang sát bờ sông Ba
Sa. Làm nhiệm vụ vu hồi đón lõng. Tiểu
đoàn 1 và 2 chia làm 2 hướng tấn công địch. Riêng C3 được tăng cường 1 khẩu
12,7 ly 1 ĐK 82 và 1 trung đội của C1,
tiến công từ Biên giới vị trí chốt của d3 sang. Theo hợp đồng thông báo là có
các đơn vị nhỏ của QK9, đánh từ hướng ngã ba Cột Cờ - Long An sang.
5h sáng ngày 3/1/78 toàn tuyến
bắt đầu nổ súng. Đại đội 3 dưới sự yểm hộ của khẩu 12,7 do đ/c Tuyết khẩu đội
trưởng chỉ huy, bắn vào các mục tiêu chốt giữ của Pốt. Ở đây chúng có khoảng
một đại đội. Chúng chống trả rất ngoan cố. Anh em xung phong mấy lần mà không
chiếm được chốt. Vì mục tiêu gần, nên 2 khẩu cối không phát huy được tác dụng.
Tôi nói với anh Trụ, anh Tiễn là để tôi lùi lại khoảng 100m mới bắn, chứ ở vị
trí này không bắn được. Hai anh đồng ý hợp đồng khi nào cối bắn cấp tập, thì
các anh cũng dập các loại hỏa lực vào để đánh chiếm các chốt của Pốt. Tôi khom
người chạy về lệnh cho 2 khẩu đội lùi khoảng 100m. Chỉnh cự ly tầm hướng xong
bắt đầu bắn “ tong..tong..” hai quả đạn bay vút
lên trời rồi rơi xuống nổ phía sau Phum. Tôi hô giảm tầm 100m. Hai phát
bắn tiếp, lại “ tong...tong”. Nhìn đạn bay trong không trung thật hồi hộp. Rồi
oàng- oàng đạn trúng M cần bắn. Hô anh em chỉnh lại tầm rồi cấp tấp thả đạn.
Tiếng Tong- tong thật đều rồi dồn dập.......DKZ82, B40, B41 cũng dồn dập bắn
vào các mục tiêu. Khẩu 12,7 ly điểm xạ thật đều găm vào các bờ bụi chốt của
Pốt. Sau đó bắn lên cao cho bb xung phong. Trước sức tấn công 3 hướng của C3
bọn Pốt bật chốt bỏ chạy, nhưng bọn này cũng bị tiêu diệt gần hết.
C3 phát triển lên qua đường
đất. Ở đây có một trục đường đất từ Việt
Nam qua. Đến 9h các đơn vị đã làm chủ các M. Tham mưu phó Thuật trực tiếp chỉ huy trận đánh. Xông xáo
trên xe La Da trắng chạy từ khu vực d2 đến tận vị trí của C3 để kiểm tra tình
hình. Mọi người đang nghĩ là “ông này” rất liều. Thì ùng , oàng một quả B41 bay xoẹt qua đầu xe. Rồi cứ
thế các loại súng bb thi nhau bắn về khu vực C3 đang chiếm giữ.
Xe của tham mưu phó chạy ngược
trở lại hướng d2. Anh em c3 bắt đầu phản ứng, bắn trả. Nhưng có vẻ bọn này
quyết chiếm vị trí c3 nên bắn rất áp đảo. Tiếng ùng oàng B40-B41 liên tục.
Tiếng AK ròn đều xen lẫn là tiếng nổ đanh gọn của M79 vào đội hình c3.
Tôi hô anh em chuẩn bị bắn, nhưng
rất lưỡng lự vì thấy kiểu tấn công này rất nghi. Rút kinh nghiệm như đại đội 6
mấy ngày trước. Mới đầu cũng cứ nghĩ Pốt là quân ta nên bị mất thế chủ động gây
thiệt hại. Nhưng kiểu tấn công này có vẻ không phải là Pốt.
BCH đại đội lúc đó gần ngay 2
khẩu đội cối. Anh Tiễn chạy sang mặt đỏ gay quát: “sao anh không bắn đi”. Tôi
nói: “có vẻ như là quân mình”. Anh Tiễn nói: “Pốt chứ quân mình cái gì, anh bắn
ngay”. Tôi lại giải thích: “anh cứ bình tĩnh, anh em sẵn sàng rồi, để tôi kiểm
tra thêm”. Đạn thẳng bắn rất rát, cắm phầm phập vào mấy cây quanh khẩu đội. Tôi
lợi dụng một gốc cây to, lấy ống nhòm quan sát. Lúc này đối phương đã tiến gần,
trong khoảng hơn 100m tôi phát hiện cách ăn mặc và khẳng định là bộ đội mình.
Anh Tiễn giật lấy ông nhòm quan sát và cũng công nhận là bộ đội ta. Lệnh cho
liên lạc báo các trung đội là ngừng bắn, làm hiệu bắt liên lạc. Tiếng súng của
mình đã ngớt hẳn. Đối phương càng hăng, càng bắn và tấn công mạnh hơn.
Trung đội 1 của Anh Ngọc phải cử
mấy người cùng giơ khăn vẫy, mãi mới bắt được liên lạc. Khi thật sự nhận ra nhau, niềm vui vỡ òa.
Thật bực mình giờ này mới tấn công. Các anh phải chiến từ sớm rồi. Hóa ra là 2
đại đội CA biên phòng và bộ đội địa phương của Long An tấn công từ hướng Cột Cờ
sang. Mò mẫm suốt từ sáng bây giờ mới tới đây. Thấy xe của tham mưu phó Thuật
lại tưởng xe cấp to Pốt. Quyết tấn công tiêu diệt. Bên mình có 3 đ/c bị thương
còn “đối phương” cũng bị thương mấy người. Rất may là ko ai hy sinh. Lúc đó tôi
mới nói: “các ông phải cảm ơn tôi nhé, chứ mấy chục quả cối này mà được “phát
huy” thì ối ông bỏ mạng rồi.
Cảm ơn bạn đã đọc và khen TP về
việc bình tĩnh . Tranphu trong đời quân ngũ có 3 lần vì bình tĩnh cẩn thận mà
ko bắn phải quân ta . Chuyện vừa kể là lần thứ 2 . Còn lần 1 là hồi CTCM . Khi
đ/v chốt giữ ở đường 13 tỉnh Bình Long .Lúc đó là buổi chiều . Bọn thám báo
thường hay đột nhập vào đơn vị , cứ của tiểu đoàn để nắm tình hình hoăc đợi đêm
làm mấy quả . Đơn vị đã mấy lần bị như vậy.
Lúc đó là buổi chiều, trong rừng
trời tối nhanh hơn. Đang ở bên hầm của tiểu đoàn thì nghe tiếng hô ầm ĩ của đ/c
Bằng (quê Bằng ở Sơn Bằng Hương Sơn Hà
Tĩnh ) liên lạc d là: anh Phú ơi thám báo, thám báo, thám báo vào cứ. Tôi vồ khẩu ak vọt lên
nghe ngóng và hỏi là chúng đang ở đâu ? Đ/C liên lạc nói là thấy 2 đứa vừa chạy
trốn vào hầm chữ a của c4 rồi. Tôi hô mọi người bình tĩnh rồi cùng Bằng tiền
nhập sát vào cửa hầm của c4. Trời nhá nhem tối, ghé mắt nhìn vào hầm, tay lăm
lăm súng chuấn bị bóp cò. Rõ ràng là có người thật. Tôi hô có người. Đ/c Bằng
nói: anh để em tung lựu đạn vào .Tôi không đồng ý nói là để bắt sống. Rồi hô bọn
trong hầm ra hàng ngay. Trong hầm vẫn im lặng, ko có tiềng trả lời. Tôi kiên
trì kêu gọi và gióng súng vào. 1 cái đầu cứ thò lên rồi thấy tôi gióng súng lại
thụt xuống. Bằng thấy tôi gọi hàng mãi mà ko có hiệu quả định rút chốt lựu đạn
tôi vẫn ko cho ném xuống.
Hô mãi rồi có liên lạc c4 đến nói
là anh Phú ơi hình như là Thằng Chinh anh muôi ở chốt về chứ ko phải thám báo.
Lúc đó tôi mới gọi có phải Chinh ko thì ra ngay. Có tiếng tôi, tôi Chinh đây
run rẩy. Đúng là ae mình rồi. Chinh bò ra rồi cứ thế quỳ lạy tôi. Ý cảm ơn tôi.
Chinh là người đi đạo Thiên chúa nhập ngũ 10/74 quê ở kỳ Anh Hà Tĩnh. Lúc ở
chốt về ko kiểu thế nào mà chính Chinh lại kêu có thám báo và chạy vào hầm. Mấy
ae khác lại cứ lầm tưởng theo nên đã xẩy ra tình huống như vậy.
Chinh rất nhút nhát sợ chiến đấu.
Chính vì thế ngày 14/4/75 lúc ở ngã ba Cây Cầy chuẩn bị bước vào chiến dịch HCM
thì tự thương bằng 1 trái lựu đạn. Chinh nằm trên võng quấn chăn vào quả lựu
đạn để dưới chân rồi rút chốt. Không ngờ sức công phá của quả đạn quá mạnh làm
Chinh tử vong. Thật tội nghiệp.
Lần thứ 3 là tránh được ko bắn
ông bác sỹ chủ nhiệm quân y trung đoàn
Ngày 20/6/78 khi toàn E luồn sâu. Xin phép sẽ kể kỹ chuyện này với các
bạn sau.
Như vậy là bạn 4102 quê ở Bến
Cầu. Thật vui khi chúng mình được sống chiến đấu ở biên cương, quê bạn. Tuổi
trẻ của chúng mình, bây giờ và mãi sau này ko thể nào quên được những ngày
tháng cam co, hào hùng đó. Những tình cảm nồng hậu mà những người dân quê bạn,
và có thể chính ngay gia đình bạn, đã giành cho mình. Cho chúng mình. Những
ngày tháng đó, những tình cảm đó như càng ngày càng đậm, càng thắm, càng nhớ
cho đến hết cả cuộc đời.
Hồi đó ngay tại Môc Bài, Có 1 bà
má, rất quý mình. Lúc chiến sự ác liệt gia đình má chuyển về An Thạnh. Mình đến
chơi mấy lần. Lần nào má cũng có món thịt bò xào dứa (thơm) đã mình. Má cứ nói
là;" thằng Phú nó chỉ thích ăn món này". Sau đó đ/v chuyển đi tác
chiến ở An Giang, Đồng Tháp, Hà Tiên. Rồi ở hướng Bến Sỏi và tấn công sang đất
K. Ko có dịp về thăm má nữa.
20 năm sau. Năm 1997 trong 1 lần
vào Sài Gòn mình có mượn xe honda chạy xuống đó tìm má mà ko gặp. Mộc Bài đã
thay đổi nhiều quá. Khu nhà má ở ko còn nữa. Hỏi thăm 1 vài người ko ai biết.
Mình có lỗi là ko nhớ được tên má. Điều này làm mình day dứt đến tận bây giờ.
Chiều biên giới thật sôi động, từng tốp xe hon đa chạy băng băng cánh đồng, từ
nơi rừng thốt nốt về Việt Nam. Nơi đây xưa kia là chiến trận ác liệt. Còn bây
giờ các bạn kia đang chuyển lậu thuốc
lá, hay hàng hóa từ bên kia về.
Nỗi buồn ập đến, tự trách mình và
thầm trách sự vô tâm của người đời. Ngắm nhìn những tia nắng chiều hình dẻ quạt
của miền biên giới. Đúng là "nắng quái " thật khó chịu. Với tâm trạng
nặng nề tôi trở về TP.
Hiện giờ bạn đang làm việc ở đâu
? Còn mình trước khi nhập ngũ là công nhân cơ khí của 1 nhà máy đóng tầu. Chứ
ko phải là sinh viên như bạn nghĩ. Bạn chúc mình thật hay, nhưng mình hiện giờ
cũng chỉ là doanh nghiệp vừa và nhỏ thôi. Nhưng mình cũng rất cảm ơn bạn về lời
chúc tốt đẹp đó.
Một trận tấn công giải cứu ngoài dự kiến:
Ngày 31/12/1977 sau gần một tháng dong duổi liên tục tấn công truy diệt
Pốt ở bên đất K. Các đ/v được lui quân về biên giới củng cố phòng thủ. Thật
thoải mái khi nằm trên đất Mẹ. Cũng nằm võng, nằm đất hoặc nằm ngoài đồng lúa,
nhưng sao đất mẹ vẫn thấy gần gũi ấm áp thế. Ae vẫn phải thay nhau gác. Nhưng
hầu như mọi người có 1 đêm ngủ thật yên lành.
Đại đội 3 và d1 vẫn làm n/v chốt
giữ ở khu vực Mộc Bài. 8h vừa ăn sáng xong chuẩn bị lên đại đội giao ban, thì
đ/c liên lạc chạy gấp xuống giọng thất thanh. Anh Phú đại đội báo chuẩn bị kết
hợp cùng xe bọc thép tấn công ngay. “Mày đùa tao đấy à "? Tôi nói sao vô
lý thế, vừa về sao lại phải đi tác chiến gấp vậy. Đ/c liên lạc nói anh cứ tập
trung ae rồi lên đại đội nghe phổ biến n/v. Tôi gọi anh Dự a phó nói về tình
hình và bán tin bán nghi cái lệnh vừa rồi. Hôm qua được thông báo ta rút quân
về nước là: “vì giữ sự ôn hoà, thiện chí hoà bình” mà sao lại có lệnh tấn công
ngay ?
Tới BCH đại đội. Anh Tiễn, anh
Trụ anh Đạo cv phó, cùng mấy đ/c btr, đang chụm đầu chỉ, chỉ ở bán đồ. Tôi hỏi
ngay: “Có việc gì đấy các anh ? Anh Trụ nói : “ông Phú ngồi xuống đây đợi nốt
đ/c Kỳ A10 lên nữa rồi phổ biến 1 thể”. Quan sát nét mặt mọi người cũng thấy
căng thẳng, có vẻ không bình thường. Tôi nói: “thì anh nói luôn xem có việc gì
? Anh Tiễn nói cách đây 30’ có 1 xe Hồng Hà chở quân nhu của F đoàn. Trên xe có
khoảng chục đ/c, ở dưới cứ mới lên. Cứ tưởng ta còn ở bên kia nên chạy sang.
Anh em chốt ở cửa khẩu bất ngờ quá ngăn ko kịp. Vừa có mấy anh em chạy được về
đây rồi. F đoàn và E chỉ thị cho C3 cùng 6 xe bọc thép M113 tấn công sang giải
nguy cho số ae này và kéo xe về.
Trời ơi, lại còn thế nữa, thảo
nào lúc nãy có nghe thấy tiến súng. Thế có ai việc gì không ? Tôi hỏi nhưng
biết ngay là sự việc nghiêm trọng rồi. Tôi nói tiếp giọng hơi gắt: "Thế
sao các anh không tổ chức ngay đi mà còn ngồi bàn gì nhiều". Bắt đầu tôi
thấy lo, rất lo cho các anh em đó. Anh Tiễn nói thêm. Xe bị nó bắn ở chỗ rừng
Sở, đã có 2 đ/c chạy được về, số còn lại không biết thế nào nữa. Vừa lúc đó xe
M113 của lữ 22 cũng ầm ầm lao đến. Các trung đội nhanh chóng lên xe, tấn công
thẳng đường 1 sang. Xe chạy theo đội hình bậc thang vừa chạy vừa bắn. Súng 12L7 trên các đều bắn điểm xạ, thị uy. Thỉnh
thoảng lại táng một quả ĐKZ cũng đã nhiều lần ngồi trên xe cùng tiền nhập, hoặc
cùng tác chiến với TTG nhưng có lẽ chẳng lần nào như lần này, xe chạy nhanh hết
tốc độ, xóc ơi là xóc.
Qua Ba Vét 1, chạy tiếp tới gần
rừng Sở xa xa đã thấy lố nhố bóng áo đen. Thấy loé lửa phía trước tôi hô nguy
hiểm. Nhưng cũng chẳng ai nghe thấy thì, ùng oàng đạn DKZ vọt xoẹt trên đầu. Kệ. Đoàn xe dũng mãnh lao lên.
Đ/c giữ b41 lựa thế phụt 1 quả hú hoạ về phía Pot. Thêm 200m nữa rồi dừng, cho bb xuống rồi tiếp
tục dàn hàng ngang tấn công. Các trung đội nhanh chóng nhảy xuống chạy theo xe,
vừa chạy vừa bắn. Các loại súng đều nhả đạn về phía Pot. Khói, bui mù mịt khét
lẹt. Tiền hô xung phong vang dền. Các đ/c xạ thủ 12L7 trên xe thật dũng cảm, cứ đều đều thùng-
thùng - thùng điểm xạ 3 viên 1. Mọi người chạy tiến theo xe bọc thép. Tôi hô
anh em gióng cối ngay mặt đường bắn uy
hiếp. Hô ngay: “thước tầm 300m, 4 quả
cấp tập” . Thật hài lòng với ae, đúng là những người lính thiện chiến. Tong -
tong - tong - tong …ko đợi nhìn đạn nổ.
Tôi hô - thu cối vận động theo bộ binh. Vừa chạy vừa pằng păng, pằng pằng lên trời mấy loạt AK, rồi lại tiếp tục chạy.
Có lẽ trong chiến đấu chưa có trận nào tính chất như trận này. Anh em tấn công
thật dũng mãnh. Hầu như ai cũng biết rằng chỉ có tấn công thật mạnh, thật áp
đảo mới làm cho bọn Pốt hoảng sợ. Để cứu ae mình. Tiếng hô xung phong của mọi
người hoà lẫn tiếng súng các loại, tạo lên 1 bản hùng ca thật hoàng tráng. Bất
chợt tôi nghĩ giá như có máy quay phim, có ai quay được trận chiến hào hùng này
thì thậy là giá trị biết bao. Thật tiếc quá ! Vận động được một đoạn tôi lại hô
cối bắn tiếp. Bọn Pốt cũng điên cuồng bắn trả. 1 vài đ/c đã trúng đạn bị thương
rớt lại, tôi nói anh em đi cùng cối, đừng ở lại sau. Rút kinh nghiệm các trận
trước, nhiều anh em rớt lại thì lại gặp Pốt vòng đến. Đã thấy chiếc xe Hồng Hà
cắm đầu xuống bên Bắc đường. Đội hình C3 cùng thiết giáp tấn thêm lên khoảng
500m nữa rồi dừng lại đứng ở thế vòng cung. Chĩa súng hình dẻ quạt bắn điểm về
các hướng uy hiếp Pot. Trên mặt đường xác mấy thằng Pot nằm vắt ngang vắt dọc
trong các tư thế khác nhau. Máu loang thành vũng.
Tôi hô anh em tiếp tục bắn cối
truy đuổi địch. Rồi cùng anh Tiễn và mấy người nữa kiểm tra xe. Thi hài mấy anh
em bị rất nhiều vết đạn. Gạo, rau trên xe tung toé, Ae tìm thấy thêm 2 hy sinh nữa trúng đạn
trong tư thế chạy về hướng Tổ quốc. Xe Hồng Hà hỏng, chúng tôi nhặt mấy khẩu
súng trên xe, rồi nhanh chóng đưa các liệt sỹ lên xe bọc thép, rồi đốt xe Hồng
Hà. Bắn thêm mấy loạt nữa về phía Pốt rồi nhanh chóng quay trở về, vừa đi kiểm
tra xem có anh em nào thất lạc. Đi hơn 1 cây số thì gặp được 1 đ/c bị thương
mặt trắng bệch vẫy xe. Anh Tiễn hỏi còn ai nữa không ? Đ/c này nói là em cũng
không biết nữa. Tôi bàn với anh Tiễn là tranh thủ ít phút tìm kiếm, may ra còn
sót ai. Nhưng rồi cũng không gặp thêm đ/c nào nữa. Mọi người trở về, với chiến
thắng và cùng với tâm trạng buồn-Thật buồn !!!
LẬT CÁNH :
Trung tuần tháng 1/78, trong khi
đồng bào ta ở hậu phương đang chuẩn bị đón tết cổ truyền Kỷ Mùi. Thì tình hình
Biên giới Tây Nam càng trở lên nghiêm trọng. Đi ngược lại với thiện chí của ta,
bọn phản động bọn Pốt, IêngXaRi tiếp tục cho quân đánh sâu vào lãnh thổ Việt
Nam, ở Tây Ninh, Long An, An Giang , Đồng Tháp và Kiên Giang.
Để giáng trả hành động xâm lược
trắng trợn của kẻ thù. Các binh đoàn chủ lực cơ động được lệnh tiến công tiêu
diệt địch. Theo đó sư đoàn 341 được điều tăng cường cho quân khu 9.
Ngày 17/1/78, toàn đội hình F
(trừ E270 đang chốt giữ ở Hà Tiên), lên đường hành quân bằng xe cơ giới. Địa
bàn Tây Ninh bàn giao lại cho sư đoàn 9 đảm nhiệm. Vượt gần 300km tới Châu Đốc-
An Giang. Tiểu đoàn 1 chốt giữ ở khu vực núi Sam, (núi Bà An Giang) . Tiểu đoàn
2 và 3 khẩn trương về chốt giữ ở Phú Cường, Bẩy Núi An Giang .
Ngày 19/1, sư đoàn giao nhiệm vụ
cho d2- d3 kết hợp cùng sư đoàn 330 quân khu 9 phải giải phóng Phú Cường. Nơi
đây đã bị bọn Pốt lấn chiếm mấy ngày trước. BCH Trung đoàn bàn với F330 là “để
d2+ d3 luồn sâu phía sau đội hình địch, rồi đánh chiếm điểm cao 192. Làm bàn
đạp đánh xuống, tạo điều kiện cho F330 đánh chính diện" .
Trận đánh tưởng như khó khăn,
nhưng nhờ d3 + d2 luồn sâu gây bất ngờ, đánh hất trở lại nên bọn Pốt nhanh
chóng vỡ trận. Lực lượng tấn công của F330 cũng rất mạnh mẽ. Trận này chúng ta
nhanh chóng giành thắng lợi, tiêu diệt được rất nhiều địch, thu nhiều vũ khí.
Giành lại địa bàn mà chúng đã lấn chiếm. Vừa kết thúc trận đánh giải phóng Phú
Cường. Ngày 20/1 sư đoàn lại được lệnh đánh địch giải phóng 2 xã Khánh An,
Khánh Bình thuộc huyện Châu Phú- An Giang. Ở đây địa hình vô cùng phức tạp hiểm
trở. Lực lượng Pot rất đông. QK9 cùng F341 + F330 + Hải Quân + Không quân bàn
bạc trận đánh hợp đồng quân binh chủng quy mô lớn để tiêu diệt Pot, giải phóng
địa bàn quan trọng bị lấn chiếm này.
Sau khi đánh xong trận ngày
3/1/78 toàn đội hình trung đoàn lại rút về chốt phòng thủ biên giới. Anh em vẫn
phài nằm bờ nằm bụi. Màn trời chiếu đất. Quân số c/đ của các đơn vị đã vơi đi
nhiều. Trung đoàn đã phải đôn các đ/c ở cứ, tăng gia vv... động viên thu gom
các Đ/c thương binh nhẹ, trở lại đơn vị nhưng quân số cũng chẳng tăng được bao
nhiêu. Địa bàn chốt giữ thì rộng, nên đêm đêm mỗi người phải trực gác nhiều
hơn. Có trung đội thì cứ gác theo phương thức quay vòng, mỗi người 2h nhưng
cũng có tiểu đội áp dụng 2 người 1 vòng gác 6h rồi đổi ca. Bọn Pot chưa giám
đánh lớn, nhưng vẫn dùng những phân đội nhỏ lẻ tập kích chớp nhoáng rồi bỏ
chạy. Nên việc canh gác đên phải hết sức cảnh giác.
Gần 1 tháng tác chiến liên tục
bên đất K, làm mọi người rất mệt. Ai nấy gầy sọp hốc hác hẳn đi. Chính những
ngày tháng vất vả, gối đất nằm sương này, làm cho tôi kiệt sức, nhiễm lạnh viêm
phổi cấp. Đầu tiên là ho, ngấy sốt, rồi ho rất nhiều rũ rượi từng cơn. Khổ nhất
là lúc gác đêm, trời lạnh lại càng ho nhiều. Ho long cả óc, lúc lên cơn ho, tay
thì bịt miệng để tiếng ho không phát ra to, tay thì ép ngực đỡ phổi....Y tá mới
đầu nói anh có khả năng viêm phế quản. Rồi cho mấy viên Tetasilin uống cũng
chẳng có tác dụng. Rồi ho quá khạc ra cả máu nữa. Lúc này đ/c y tá báo với đại
đội là phải cho tôi đi viện điều trị.
Ngày 16/1 tôi bàn giao công việc
tiểu đội cho Dự a phó. Mọi người chia tay thật quyến luyến. Cứ như tôi được ra
quân giải ngũ ko bằng. Hoài nói: anh mà đi lâu là em cũng về Sài Gòn đấy. Tôi
nói: anh em cố gắng, chắc tôi đi viện mấy ngày thôi. Anh Trụ và anh Tiễn cũng
xuống tận tiểu đội để chia tay. Anh Tiễn nói: thôi anh ốm thì cứ đi điều trị,
công việc ở đây có đ/c Dự và anh em tôi, nhưng anh phải chữa nhanh nhanh lên
đấy. Anh Trụ thì tếu táo là: ông cứ về Sài Gòn, em út nó chăm cho mấy ngày là
khỏi chứ chẳng phải đi viện đâu.
Trà ! Một thằng lính A trưởng ốm
đi viện mà làm có vẻ quan trọng thế ! Chẳng thiếu người mà. Tôi nghĩ thế nhưng
lại nói: Các anh ở lại chốt giữ cho kỹ, chắc tôi đi khoảng chục ngày an dưỡng
rồi về thôi.
Thực ra tôi cũng hiểu tình cảm
của anh em, nhất và với BCH đại đội. Tuy rằng cấp bậc, chức vụ khác biệt, nhưng
mọi người vẫn rất tôn trọng tôi. Vì cũng hiểu lẽ ra tôi không bị thiệt thòi do
nhầm lẫn, thì bây giờ cũng là cấp phó đại đội, chứ không phải là a trưởng như
bây giờ. Nên trong sinh hoạt, tác chiến, hoặc những lúc khó khăn, các anh
thường tham khảo ý kiến của tôi. Còn trong tiểu đội, thì ngoài tuổi tôi hơn hẳn
mọi người, mà trong sinh hoạt ae coi tôi là người anh thực sự.
Tạm chia tay đại đội 3, tôi lên
đội điều trị của trung đoàn. Bệnh xá E cũng ngay ở làng Tiên Thuận, cách vị trí
chốt của C3 khoảng 4- 5 km.
Tôi tới đại đội 24 quân y trung
đoàn lúc 9h sáng. Vừa đưa giấy giới thiệu của quân y tiểu đoàn thì gặp ngay anh
Thu y sỹ. Anh Thu trước là y sỹ của d1 cùng d bộ với tôi. (Anh Thu quê ở Ninh Giang- Hải Dương ). Đón tiếp rất vồn vã. Pha
trà và gọi mấy anh em nữa cùng ngồi uống trà. Có anh Quyết y sỹ d2 mới lên (quê An Hải- Hải Phòng ) bác sỹ Nhật đại
đội trưởng 24. Mọi người hỏi thăm tình hình dưới đơn vị rồi xem qua bệnh của
tôi, bác sỹ Nhật nói: Cậu bị viêm phổi cấp thôi, có thể dãn phế quản nữa nên ho
nhiều, vỡ các mao mạch nhỏ. Ko có gì đáng kể, cứ điều trị ở E ít ngày rồi tính.
Anh Thu thông báo, vừa có đ/c Lập
c9d3 cũng nhập viện điều trị, bị thương nhẹ ở kheo chân. Cùng quê Thái Bình hai
ông ở với nhau cho tiện. Anh Quyết gọi luôn anh Lập lên uống nước. Từ hôm đó
tôi có thêm bạn đồng đội, lại đồng hương mới. Thân thiết nhau từ đó cho đến
ngày ra quân. Khi ra quân thì anh Lập là chức Trưởng tiểu ban quân lực E, còn
tôi cũng trung úy trưởng tiểu ban dân địch vận E. Những năm sau này làm kinh
tế, đến tận bây giờ. Hoàng Quốc Lập quê Đông Huy- Đông Hưng- Thái Bình. Xung
phong đi bộ đội khi mới 17 tuổi, nên kém tôi 3 tuổi- một người có ý chí mạnh mẽ
trong sinh hoạt cũng như công việc. Mới nhìn, tính cách thì hơi khó gần. Nhưng
lấp sau cái cứng cáp đó là người sống rất trách nhiệm, ý trí và giàu tình cảm.
Là trung đội trưởng của c9 d3. Từ lúc KCCM nhưng cũng do những nhầm lẫn về đề
bạt của chuyên môn, cũng giống như tôi. Quân hàm sỹ quan không về. Nên cũng rất
bị thiệt thòi. Cùng vì một lẽ đó, nên hai anh em nhanh chóng tâm đầu, ý hợp trong
mọi việc. Hiện nay Anh Lập cũng là giám đốc một công ty TNHH xây dựng thương
binh, nhiều ngành nghề chức năng, rất có uy tín tại thành phố Thái Bình.
Buổi trưa mấy anh em đi ăn cơm
xong lại về nghỉ. Đang vất vả ở chốt, giờ đây được về phía sau nghỉ ngơi thật
là thoải mái. Ko phải lo canh gác và địch địch, ta ta nữa. Giấc ngủ thật sâu,
thật ngon. Từ khi ra biên giới 27/9 đến giờ, hơn 3 tháng. Hôm nay tới được một
giấc ngủ ngon nhất, an lành nhất.
Đại đội 24, hay gọi là bệnh xá
trung đoàn có hơn 20 người. Có
2 bác sỹ, 5 y sỹ. Số còn lại là y tá và phục vụ. Ngoài ra lúc nào cũng được
tăng cường một trung đội vận tải của c25. Làm công tác phục vụ như đào hầm hào,
v/c thương binh hay các nhiệm vụ khác. Thường thì ở đây chỉ sơ cấp cứu những
trường hợp cấp thiết, sau đó lại chuyển lên phẫu cấp trên hay bệnh xá sư đoàn.
Một số anh em bị thương nhẹ
thì cũng chữa trị tại đây. Thành phần “ốm đau” thì cũng có vài người. Vị trí
đóng quân cũng ngay tại khu vực tác chiến của trung đoàn. Cũng trong phạm vi
pháo của Pốt có thể tới và Pốt cũng có thể mò vào tập kích. (Tháng 1/79 đại đội 24 khi ở bên K thuộc
tỉnh Côngpongsubư ban đêm cũng bị Pốt vào tập kích hy sinh va bị thương mấy
đồng chí).
Nhưng với suy nghĩ của chúng
tôi, thì đây cũng là phía sau. Cuộc sống và sinh hoạt yên bình, quán bia, quán
nước mía, cà phê hay giải khát, cả quán nhậu nữa đều có. Loa đài xập xình.
Những cô thôn nữ trong bộ đồ ba ba đủ mầu sắc đong đưa mời chào thật hấp
dẫn. Nếu không có tiếng súng, thì cuộc
sống nơi này là hòa bình, là thời bình đầy đủ với tất cả các hương vị của cuộc
đời. Bỗng nhiên tôi.trạnh nhớ đến anh em đang chốt giữ ngoài biên. Cuộc sống,
hàng ngày phải gối đất nằm sương, thiếu thốn đủ thứ. Nếu dóng theo đường chim
bay thì từ đây ra ngoài chốt chưa đầy 2 km mà cuộc sống khác xa nhau. Đúng là:
“thiên đường và địa ngục ».
« hoangson1960
Những ai ở F5 giai đoạn
10/78 đều biết. Vào tháng 10/78 tại Snoul 2 chiếc tăng T54 đi lạc chạy vượt qua
chốt của ta không có bộ binh đi kèm tiến vào khu vực của Pốt. Một chiếc sa lấy,
một chiếc bị bắn cháy tất cả đều bị giết. Ngày hôm sau còn nặng nề hơn Q16 của
F5 phải đánh lên để kéo Tăng về vì sợ tụi nó quay phim chụp hình đưa lên làm
bằng chứng VN xâm lược <vì lúc này mình vẫn chưa chính thức qua KPC>. Đv
đáng lên vào ngay bãi mìn hi sinh một số, một số tân binh vì chưa có kinh
nghiệm chạy tụ lại bị DKZ, B40, B41 hi sinh thêm một mớ. Cuối cùng cũng không
kéo được Tăng về. Ngày 25/10/78 tôi là tân binh được giao quân cho Q16 đang nằm
gần phẫu trung đoàn chờ các đv lên nhận quân thấy thương binh, tử sĩ được cáng
về phẫu gần cả trăm người. Thấy cảnh đó tân binh thằng nào mặt cũng xanh lè. Sáng
hôm sau đọc danh sách để về đv thiến mấy chục thằng. »
Sau một ngày dừng chân ở
Châu Đốc, tiểu đoàn 2 +3 của E273 đã kết hợp với F330 - QK9 đánh tan bọn Pốt
giải phóng Phú Cường.
Sư đoàn 341 được lệnh tiếp
tục đánh địch giải phóng 2 xã Khánh An, Khánh Bình thuộc huyện Châu Phú, An
Giang. Nơi đây địa hình rất phức tạp, là cù lao được bao bọc bởi sông Hậu, sông
Châu Đốc nên toàn sình lầy, kênh rạch chằng chịt. Rất thuận tiện cho phòng ngự
và ngược lại tấn công thì lại rất khó. Bọn Pốt đã xua quân bất ngờ chiếm giữ
nơi này gần 2 năm. QK9 nhiều lần tấn công mà chưa giải phóng được.
Bọn Pốt chiếm giữ 2 xã này,
ngoài các đơn vị địa phương của chúng, còn chủ yếu là Sư đoàn 2. Sư đoàn được
tôn là “anh cả đỏ” của quân đội Pốt.
Chúng chiếm giữ đã lâu, nên xd phòng thủ hệ thống theo tuyến án ngữ liên hoàn,
ngay từ ngã ba sông Châu Đốc. Có những chỗ lợi thế chúng chốt giữ, hầm hào kiên
cố, kèm thêm cả các bãi mìn. Hòng chống sự tiến công của ta. Với ý đồ lấn chiếm lâu dài. Ngoài ra chúng
được sự chi viện của pháo binh bên trong đất liền cũng rất mạnh.
BCH sư đoàn chấp nhận phương
án tác chiến của ban tác chiến F, do đ/c Lê Hải Anh thiếu tá trưởng ban cùng
anh em soạn thảo. Là: vẫn dùng theo lối đánh sở trường: luồn sâu vào bên sườn
phía sau hướng phòng ngự chính của chúng, tạo thế bao vây chia cắt tiêu diệt
địch.
Trung đoàn 273, Trung đoàn
266 được phân công trên hướng chủ yếu. Dùng d1 + d2 + d3 + d8 là lực lượng luồn
sâu từ Tây ấp KôKi, đi ngược lên hướng Bắc. Đi sâu vào phía sau địch ở phía Tây
Sông Châu Đốc. Kết hợp với tiêu diệt địch từ đồn biên phòng Bắc Đai, đến đồn bp
Vạt Lài và khu vực Tây của 2 xã Khánh An - Khánh Bình.
Đêm ngày 3/2/78 (tức 29 tháng chạp Mậu Ngọ) khi mà cả
nước đang chuẩn bị đón tết Mậu Ngọ, thì các chiến sỹ Trung đoàn 1 - 3 của sư
đoàn 341, Trung đoàn 2 của F330, Trung đoàn 2 của tỉnh đội An Giang, cùng các
lực lượng Hải quân, TTG di chuyển đến các vị trí tập kết. Trung đoàn 273 + 266
ém quân, đợi Lữ đoàn công binh QK bí mật bắc cầu phao vượt sông. Khoảng 1h đêm
ngày 4/2 cầu phao bắc xong. Các Tiểu đoàn được lệnh luồn sâu theo kế hoạch.
Phải đi vòng xa, nhưng đến 5h sáng các đơn vị đã vào chiếm lĩnh các M được phân
công. Trời cuối năm trời se lạnh. Sương xuống dầy, tầm quan sát ko được xa. Nên
bọn Pot ko phát hiện được ta. Càng bất
ngờ hơn khi chúng nghĩ: chuẩn bị mai là ngày tết cổ truyền Việt Nam, nên ta
không động binh. Bọn địch ở đậy mới bị ta
luồn sâu đánh tập hậu 1 trận Phú Cường, nên còn rất “ngây thơ »
chưa bị ngấm đòn. Hơn nữa với địa hình chốt giữ rất hiểm hóc và lại đã chiếm
giữ rất lâu rồi. Nên bọn này rất chủ quan. Chúng không biết rằng, lưỡi gươm của
thần công lý, lưỡi gươm của sức mạnh,
của ý chí QĐVNAH, của dân tộc Việt Nam anh hùng, đã cận kề bên cổ chúng. Đang
đợi giờ hành quyết.
Đúng 6h15’ ngày 4/2, sương
tan dần. Các mục tiêu đã hiện rõ ùng- ùng-
ùng, những tiếng nổ đầu nòng của pháo binh ta bắn vào các M. Oành- oành-
oành, tiếng nổ inh tai gần đội hình ém quân. Rồi như ngưng lại để quan sát
chỉnh tầm, rồi các loại pháo, cối thi nhau nhả đạn. Dàn nhạc, bản hợp xướng của
pháo, cối các loại, của lòng căm thù, sức mạnh của cuộc chiến tranh chính
nghĩa, đồng loạt dập vào các vị trí chốt giữ của Pốt. Pháo 130 ly bắn tầm xa,
chế áp các trận địa pháo bên trong của chúng. Không thể phân biệt nổi tiến nổ
của từng loại pháo. Âm thanh rền vang như sấm. Rồi máy bay của ta xuất hiện,
ném bom vào các mục tiêu, trận địa pháo, khu vực chỉ huy của Pốt. Rồi máy bay
trực thăng quần đảo bắn rốt két và 20L liên tục vào các chốt địch, ở hướng F330
đảm nhiệm. Hoả lực thật mạnh. Đúng là trong chiến tranh chống Mỹ và giai đoạn
đầu của cuộc chiến với Pốt này, chưa lần
nào quân đội ta xuất quân đủ các quân binh chủng như đợt này. Dưới sông Châu
Đốc, 4 tầu “Há mồm” của Hải quân đang tiến về vị trí đổ bộ. Trận địa địch chìm
trong khói lửa. Các đ/c chỉ huy của d3 như Nguễn Song Thao Dtr, Tô quang Phụng
Ctr, Nguyễn văn Ngọc Btr, Hoàng Quốc Lập Btr
và nhiều đ/c nữa, thật sự mưu trí, thật dũng cảm. Khi xung phong đều lao
lên trước thật dũng mãnh. Khi ngớt đợt tập kích hoả lực bằng máy bay và pháo
binh. Cán bộ chiến sỹ d3 tràn lên đánh chiếm địch ở khu vực đồn Bắc Đai. Địch
lợi dụng hầm hào kiên cố, phòng thủ quyết liệt. Nhưng chỉ sau 35 phút chiến
đấu, d3 đã đánh chiếm và tiêu diệt hết bọn địch ở đây. Làm bàn đạp mở thông ngã ba sông Châu Đốc.
Tạo chỗ đứng đầu cầu, bến đổ bộ cho các tầu há mồm, nhả 12 xe bọc thép M113 và
các tiểu đoàn bộ binh F-9, E266 tiến công khu vực Chây Thom.
Cùng lúc d3 đánh chiếm đồn
địch ở đồn biên phòng Bắc Đai, d2 dũng mãnh tấn công tiêu diệt địch ở đồn bp
Vạn Lài. Tiều đoàn 1 phát triển tiến công phía Tây đồn Bắc Đai. Địch co cụm
chống trả. Pháo binh của Pốt cũng đã gượng dậy bắn hỗ trợ cho bọn sống sót.
Chúng bắn theo toạ độ tính sẵn, mật độ thật dầy đặc, làm cho bộ đội ta thương
vong nhiều, nhất là ở khu vực cầu phao vượt sông. Đạn pháo nổ dưới sông làm cá
chết nổi trắng mặt nước. Trong những loạt pháo bắn trả đó, một loạt pháo làm hy
sinh đ/c Trần Quy Nhơn, tham mưu phó trung đoàn và đ/c Thắng trợ lý tác chiến
của trung đoàn 273 cùng một số a e khác.
Pháo binh ta tiếp tục bắn chế áp vào sâu.
Nhưng chắc bọn này có “Mắt pháo” đài quan sát, nên chúng bắn vào quân ta cũng
rất trúng đích. Ta tập trung phản pháo, mà chưa bịt miệng được toàn bộ pháo của
chúng. Máy bay trực thăng HU cũng vẫn liên tục quần đảo hỗ trợ bb tiêu diệt
Pốt.
Đến khoảng 9h30, hầu như các mục tiêu của
F341 tấn công đã hoàn thành. Thì ở hướng quan trọng của trung đoàn 2- F330,
Trung đoàn 2 tỉnh An Giang gặp khó khăn. Vẫn chưa mở được cửa mở, tấn công địch
ở cù lao Khánh An- Khánh Bình.
Nếu cứ để kéo dài thì toàn
cục sẽ bất lợi cho ta. BCH liên quân
quyết định điều lực lượng của F341 gồm D2- E273 và 1 d của E266 chi viện cùng
F330 tiến công địch ở đây.
Lúc này , cầu phao tạm của
F330 cũng đã bắc xong. Các chiến sỹ d2 ào ào vượt sông. Trung đoàn 266 cũng
được cơ động bằng “tầu há mồm” của Hải quân đổ bộ vào tiến công cù lao Khánh
An- Khánh Bình khu vực ngã ba ấp Ba Đình. Khu này là sở chỉ huy và kho hậu cần,
quân y của trung đoàn 11 của Pốt.
D2 đánh tràn lên, cùng với
anh em F330 đánh tràn xuống Bắc làng Xanh. Đánh thẳng vào sau đội hình địch,
đang cố thủ của chúng ở An Thạch. Bọn Pốt không còn đường lùi chống trả thật
quyết liệt. Nhưng chúng đã vỡ trận. Một số tổ chức vượt sông tháo chạy bằng
thuyền. Nhưng bị pháo cối và trực thăng tiêu diệt.
Tiểu đoàn 1, sau khi đánh
chiếm xong phía Tây đồn Bắc Đai. Được lệnh vượt sình lầy khu bưng Bình Thiên
tiến công vào phía Nam làng Xanh.
Chiến sự nhỏ lẻ tiếp diễn
đến 17h chiều ngày 4/2/78. Quân ta làm chủ hoàn toàn cù lao Khánh An- Khánh
Bình. Sau 2 năm, khu vực 2 xã này đã được giải phóng. Sạch bóng quân xâm lược
tàn ác. Đúng chiều ngày 30 tết Nguyên đán Mậu Ngọ. Các đ/v được lệnh tạm chốt
giữ tại các vị trí, địa bàn vừa giải phóng. Sư đoàn 341 nhất là khu vực Châu
Đốc, các xã Khánh An- Khánh Bình vô cùng biết ơn các đơn vị đã chiến đấu đánh
đuổi tiêu diệt bọn Pốt độc ác.
Trong các bài giảng của các
trường sỹ quan, sơ cấp, cao cấp hay tập huấn vv.. của các trường đạo tao Sỹ
quan, Hạ Sỹ quan, đều lấy trận đánh Phú Cường, Khánh An- Khánh Bình, làm bài
học giảng dạy cho các bộ môn quân sự quốc phòng. Qua trận chiến này, uy danh
của sư đoàn 341 ngày càng được tôn vinh, càng được sự yêu mến của nhân dân các
tỉnh dọc miền Biên giới Tây Nam. Thật đáng tự hào !
Bài viết dựa theo lời kể của
Trung tướng Lê Hải Anh, nguyên thiếu tá trưởng ban tác chiến F341, Đ/c Hoàng
Quốc Lập, nguyên trung đội trưởng c9, d3, E 273. Hồ sơ lưu trữ của trung đoàn
273, và lời kể của một số anh em ccb F341, đã trực tiếp tham gia trận chiến
này.
Trong khi toàn E đang làm
công tác chuẩn bị chiến đấu giải phóng 2 xã Khánh An, Khánh Bình. Thì cái nhóm
"ốm yếu" của tôi được chuyển về điều trị ở viện 7 Biên Hòa. Trung
đoàn bộ và đại đội quân y 24 nhích gần lên khu vực tác chiến.
Tôi, anh Lập, và Mến (lính
77), chiều tối cũng chào anh chị chủ nhà, khoác ba lô ra "chốt" ở
phòng đợi bến xe thị xã Châu Đốc, để sáng hôm sau đón xe về Sài Gòn.
Thị xã biên giới thời chiến
ko thật sôi động. Phố phường vắng vẻ. Cũng có hàng quán nhưng ko đông đúc.
Thỉnh thoảng bọn Pot bắn vu vơ sang mấy loạt pháo. Khu vực núi Sam, bên này là
đền "Vía Bà". Nhưng bên kia bọn Pot vẫn còn chiếm giữ. Nếu tính theo
đường "chim bay" thì cũng ko xa. Hôm trước ae tôi có lên thăm đền
thấy vắng tanh. Anh em d bộ, d1 đang chốt giữ ở đó. Các đại đội bb bên kia núi
hàng ngày vẫn chiến đấu chặn địch lấn dũi chiếm đất.
Ba ae trải áo mưa ra nền nhà
đợi nằm nghỉ. Trong lòng mọi người rất vui, háo hức vì được về phía sau. Về Sài
Gòn với bao dự định riêng tư của mỗi người. Nhưng phải nằm đợi đến sáng mai cảm
thấy lâu quá. Đợi chờ trong mong ngóng thật buồn và thấy thời gian đi thật
chậm. Chậm hơn cả 1 mình ngồi gác ở cánh đồng nơi chiến tuyến. Vừa nằm 1 tý các
loại muỗi to, muỗi bé, muỗi mẹ, muỗi con đã tấn công ko chịu nổi. Anh em tìm
cách mắc màn, cảm giác như buồn thiếu cái gì . Riêng tôi thì ho, ko hút thuốc
lá, còn 2 bạn kia thì hết điếu nọ đến điếu kia.
Tự nhiên tôi hỏi anh Lập: có
đi uống cape ko ? Anh Lập nói: tiền đâu mà uống cape ? Đúng là lính chiến, gian
khổ là thế ngoài hành trang đơn giản còn toàn là súng, là Đạn. Còn bây giờ đi
viện, súng , đạn cũng ko còn. Chỉ có cái balo bẹp, vì có cái gì nhiều đâu. Tiền
thanh toán đi viện, có đáng là bao. Trợ cấp của "Trung sỹ nhất" có
mấy đồng. Chợt nghĩ mình đi lính chiến liên tục thế này, nếu là lính Mỹ, hay
lính Ngụy thì chắc nhiều tiền lắm. Vì nghe đâu , thời chế độ cũ 1 người đi lính
, nuôi được cả gia đình. Còn chúng mình , lính của chế độ XHCN VN, của Cụ Hồ
thì "vô tư thật". Tôi nói với Lập. Cứ đi với tôi, ra phố chơi cờ,
uống caphe. A Lập nói :thắng mới được uống, còn thua thì lấy gì ra mà chiêu đãi
họ. Tôi nói với Lập lúc ở Sài Gòn tôi hay chơi cờ với người Hoa ở Chợ Lớn nhiều
rồi cứ yên tâm.
Hai a e đi dọc từ bến xe vào
phố khoảng trăm mét, gặp ngay 1 nhóm khoảng 4-5 người đang chụm đầu chơi cờ
tướng. Thấy a e tôi đến mọi người ngẩng lên như có ý nhường chỗ ngồi. Tôi xin
phép ngồi xem, bà con thấy 2 chú bộ đội có vẻ say cờ thì rất thích. Hết ván cờ
dở tôi xin phép cầm quân chơi 1 ván. Mọi người rối rít nhường chỗ cho kỳ thủ
mới.
Hồi năm 75, khi đi viện 175
lúc rỗi, các thương bệnh binh không có gì vui hơn, giết thời gian hơn là chơi
cờ tướng, và chơi các loại bài. Tôi có học được vài nước đi, cách xuất quân và
thế đánh pháo gọng sỹ, rồi chuyển thế pháo chồng. Công phá đối phương rất lợi
hại. Ai thiếu kinh nghiệm là rất dễ thiệt quân, mất xe và thất bại nhanh chóng.
Kết thúc 3 trận đấu, với 3
người khác nhau tôi đều thắng với thế cờ này. Mọi người rất phục chú bộ đội mà
"cao cờ" kêu cà phê, thuốc lá, bánh kẹo, mời chúng tôi thật trịnh
trọng. Riêng anh Lập thì từ đó cứ phục tôi "sát đất".
Đến bây giờ, tôi với Lập vẫn
thường hay nhắc về buổi tối Châu Đốc,"Đánh cờ uống cà phê đó".
Tôi không gặp được Lập như
đã hẹn. Và cũng lỡ hẹn với Thanh, người bạn gái. Hôm trước đến chơi, tôi có hẹn
là: sẽ cùng Thanh đi chơi chợ hoa Nguyễn Huệ
ngày tết. Do việc được ra Bắc, về quê quá bất ngờ nên ko kịp báo lại.
Việc lỡ hẹn với anh Lập cũng không có gì quan trọng lắm. Còn riêng với Thanh,
việc lỡ hẹn này, là nỗi ân hận của tôi cho đến tận bây giờ. Vì cho đến bây giờ
và chắc là mãi mãi tôi không có cơ hội để sửa chữa, thực hiện lời hứa đó nữa...
Chiều hôm sau tôi và Lộc ra
nơi làm thủ tục để bay ra Bắc. Trời ngày tết mà ở Sài Gòn, nhất là trong khu
vực sân bay nắng nóng như đổ lửa. Tôi nhanh chóng làm những thủ tục an ninh,
rồi vào phòng đợi khoảng 30 phút thì lên máy bay. Hồi đó, hàng không của mình
chủ yếu là dùng máy bay 2 hay 4 cánh quạt (động cơ) của Nga. Trong máy bay
không có hệ thống điều hòa như bây giờ. Trong lúc chờ đợi cất cánh ai nấy mồ
hôi đổ ra như tắm. Trông rất khổ sở. Riêng tôi thì phần vì quen với cái nóng,
cái khổ, phần vì đang phấn khích vì chuyện đi phép thăm nhà bất ngờ này. Mà lại
được đi bằng phương tiện máy bay hiện đại. Nên cũng thấy bình thường. Miên man
nghĩ đến hồi tháng 3/76 khi đang làm quân quản tại Sài Gòn, thì mẹ tôi vào
thăm. Đúng lúc tôi chuẩn bị được đi phép. Thế là tôi “ bỏ” đường bộ ôtô của
binh trạm. Hai mẹ con mua vé tầu “thống nhất” về theo đường biển. Sau 2 ngày
lênh đênh trên biển, thì cập bến Hải Phòng. Lần này được đi “về phép” bằng máy
bay nữa. Như vậy là tôi vào Nam ra Bắc bằng đủ các loại phương tiện. Đi bộ, đi
ôtô, đi tàu biển và lần này là máy bay. Một thằng lính chiến bộ binh mà như vậy
cũng « ai », cũng thật là tự hào.
Thế rồi cũng đến giờ cất cánh.
Khoảng 4h30 chiều thì máy bay hạ cánh xuống sân bay Gia Lâm. Mọi người lên xe
ôtô của hàng không về Hà Nội. Đi từ Sài Gòn ra Bắc khoảng hơn 2h bay. Mà đi từ
Gia Lâm về bờ hồ Hà Nội mất gần 3h, vì tắc đường ở cầu Long
Biên. Ngày tết bà con đi lại quá đông. Với tôi đó là lần chứng kiến cảnh “tắc
đường” đầu tiên trong đời.
Vừa xuống xe ở trạm vé hàng
không “bờ hồ” Hoàn Kiếm, thì đã thấy bố tôi đứng đợi. Ông được ông Tiến hàng
xóm về trước báo giờ bay của tôi, nên lên Hà Nội đón tôi. Hai bố con mừng mừng,
tủi tủi trào nước mắt. Không ngờ cuộc đời lại có những thay đổi nhanh như vậy.
Hà Nội chuẩn bị tết đông đúc nhưng vẫn thấy nghèo nàn, không ầm ĩ, ồn ã như Sài
Gòn. Trời âm u se lạnh. Những lá vàng rơi bay lả tả trong buổi chiều Đông. Dân
chúng còn toàn đi bằng xe đạp, nhìn những người phụ nữ gò rạp người đạp xe
trông thật vất vả. Ở Sài Gòn họ đi xe đạp kiểu dáng khác, trông thanh thản hơn
nhiều. Thi thoảng mới có cái xe máy hoặc xe ôtô con cũ kỹ chạy qua lại.
Hai bố con nhanh chóng đi
xích lô ra bến xe Kim Liên, mua vé ôtô về Thái Bình chuyến cuối. Gần 10h tối
mới về đến nhà. Mọi người, mẹ tôi, anh em họ hàng ùa ra chào đón tôi. Đón người
con từ chiến trường trở về. Thật vui, thật cảm động, cười cười nói nói rất vui.
Nhưng ai mắt cũng “đỏ hoe“. Nhưng giọt nước mắt của niềm vui gặp mặt.
Những hình ảnh đó, đến bây
giờ, mấy chục năm rồi mà như mới hôm qua. Mãi mãi tôi không thể nào quên !
Sau khi ăn cơm xong, lên
giường đi ngủ. Tôi vẫn bàng hoàng, không tin là mình đang được sống, được ăn,
được nằm, tại gia đình mình. Tất cả những tình cảm của mọi người, nhớ nhung,
dồn nén đã lâu nay được bung ra thể hiện. Nên có thể nói: tôi được chăm sóc
thật đặc biệt. Nhà tôi, bố mẹ sinh được 10 anh em tôi. Nhưng một người anh trên
tôi nghe kể lại: khi còn ở trong vùng tự do Thanh Hóa năm 1951 “bố tôi là bộ
đội, công nhân quốc phòng của quân khu 3. Chuyên sản xuất và chế tạo vũ khí cho
quân đội, nên mẹ và gia đình tôi những năm chống Pháp thường “chạy loạn” , định
cư theo nơi công binh xưởng của ông. Cho nên mấy anh chị em đều sinh ra mỗi
người một tỉnh. Chị cả sinh ở Hải Phòng, chị hai sinh ở Nam Định, anh thứ 3
sinh “ra mất ngay” ở Thanh Hóa. Tôi và cô em gái kế, cũng được sinh ra ở vùng
Kim Tân - Thanh Hóa. Tiếp đến, từ em trai Lộc trở xuống sau giải phóng, gia
đình về định cư tại Thái Bình, nên đều được sinh ra ở Thái Bình. Tổng anh chị
em còn sống và trưởng thành là 9 người, 5 trai và 4 gái . Tôi là anh trai lớn,
nên mọi niềm tin yêu, hy vọng của bố mẹ đặt vào tôi rất nhiều. Hồi nhỏ và khi
lớn lên từ học hành, cho đến sau này đi làm đều là một người con ngoan, người
anh gương mẫu trong gia đình.
Đến thời điểm năm 1978, thì
mới có tôi và em trai Lộc vào bộ đội. Chú Lộc khi đi bộ đội 12/74 thì được vào
đơn vị Rada điện tử. Nên là lính “Cậu » không phải đi bộ ngày nào. Có biết
khẩu súng thì biết ở thời kỳ đầu luyện quân. Còn tôi đi bộ đội vào luôn đơn vị
bộ binh ak súng dài. Trung đoàn 8 quân
khu 3. Rồi sang sư đoàn 308B, rồi khi sư đoàn 341 thành lập thì cả trung đoàn
36B của tôi được chuyển qua.
Đời lính bộ binh các bạn đều
biết là thật vất vả. Có lẽ cực khổ nhất trong các sắc lính của mình. Hành quân
thì chỉ cơ động bằng đôi chân là chính, làm gì từ xây nhà, đào hầm, tập luyện
cho đến lấy gạo, lấy củi...đều bằng sức vóc của lính. Mà lúc đó anh em mình có
mấy ai to lớn đâu. Lúc đó tôi nặng được có hơn 40kg thuộc diện B2 lẽ ra không
đủ sức khỏe đi bộ đội. Nhưng vì gia đình đông người, lại chưa có ai tham gia bộ
đội hay phục vụ chiến trường nên vẫn được “ưu tiên » nhập ngũ.
Thế hệ chúng mình, hầu như
đi bộ đội gần hết và hy sinh cũng “không ít”. Dù rằng, bây giờ các cấp chính
quyền, các đoàn thể và anh em chúng mình có nói, có viết, thật nhiều, thật hay
và có thể hiện thế nào đi nữa thì cũng không thể nói hết, viết hết, không thể
tả nổi tâm trạng buồn đau, lo lắng của người cha, người mẹ, người vợ, người
thân. Nhất là người mẹ lo và thương cho con mình, người con yêu dứt ruột sinh
ra, mong ngóng lớn khôn từng giờ từng ngày. Trong khó khăn thiếu cơm, thiếu sữa
để lớn lên, để trưởng thành. Rồi người con lại phải đi lính ra sa trường, cực
khổ ở tuyến đầu, trước mũi tên hòn đạn lúc nào cũng có thể cướp đi mạng sống
của con trai mình.
Cũng chính vì những điều đó
cho nên mẹ tôi, đã dành tình cảm cho tôi thật nhiều, chăm sóc từng ly từng tý
một. Buổi tối đầu đi ngủ Bà còn nằm cạnh tôi, ôm ấp vuốt ve hít hà như hồi tôi
còn bé.
Được nằm trong chăn ấm
giường êm, ánh sáng điện chói lòa, trong vòng tay mẹ. Bất chợt tôi lại nhớ tới
đ/v. Đến Lập. Giờ này chắc Lập cùng ae đang phải chiến đấu, đang phải đối mặt
với kẻ thù. Gian khổ và ác liệt. Tự nhiên tôi thấy mình như có lỗi với ae, với
đồng đội. Và rồi lại muốn thời gian trôi thật nhanh, thật chóng để tiếp tục trở
lại đơn vị. Trong sung sướng mà nước mắt tôi chẩy dài xuống gối, rồi ngủ thiếp
đi thật ngon lành.
Ùng- ùng- ùng- ùng - rẹt - rẹt- rẹt. Rồi đoàng- đoàng- đoàng liên thanh
thật dài. Những tiếng thùng- thùng- thùng- Thùng đều đặn rồi dồn dập các loại
pháo, pháo lớn, pháo nhỏ, pháo tép như tiếng AR15. Xen lẫn là những tiếng nổ
của các loại pháo đùng, pháo cối như những tiếng của B40, B41, ĐKZ. Loại pháo
8, pháo 10 bình đà thì thùng- thùng- thùng như tiếng súng 12,7 ly điểm xạ dài.
Một trận chiến thật khốc liệt, khói thuốc pháo khét lẹt sáng loé, chớp bừng
sáng trong đêm. Những tiếng nổ như một trận đánh lớn Hiệp đồng các quân binh
chủng. Chỉ không có tiếng hô xung trận của anh Tiễn, anh Trụ của anh em trong
lúc xung phong. Mà là tiếng hô reo vui của mọi người òa lên: “Giao thừa rồi”.
Mọi người trong gia đình hơn 10 người ôm lấy nhau, chúc tụng trong niềm hân
hoan của ngày tết, năm mới đã tới. Với tôi cảnh tượng này thật là lạ lẫm. Vì
trước còn bé thì đất nước có chiến tranh, ngày tết không có pháo hoặc rất hạn
chế. Lớn lên đi bộ đội từ năm 1972 đến nay đã là 6 năm tôi mới được đón xuân ăn
tết ở nhà. Năm nay mới được chứng kiến cách đón giao thừa, mừng năm mới của dân
mình trong thời bình. Nên tôi cũng chưa thể hòa nhập cái không khí đón giao
thừa này. Nhìn khói, lửa chớp lòa và tiếng nổ của các loại pháo, bản hợp xướng
của đủ các loại tiếng nổ. Bất giác tôi nói với Mẹ: “Mẹ ơi ! Đánh nhau, súng 2
bến bắn nhau, tiếng nổ đúng như thế này Mẹ ạ”. Mẹ tôi ôm tôi rồi nói: vậy biết
đường nào mà tránh đạn hả con. Tôi nói là: Trong chiến đấu “nó” bắn mình, mình bắn "nó". 2 bên đều muốn giết nhau.
Không mấy khi tránh được, sống được do may mắn là nhiều thôi mẹ ạ. Con của mẹ
cũng chết hụt nhiều lần rồi. Mẹ tôi không nói gì chỉ lau nước mắt, ngửa mặt lên
nhìn trời đêm như cầu khấn điều gì, rồi ôm tôi chặt hơn.........
Thế rồi mấy ngày tết ở gia
đình cũng trôi đi thật nhanh. Lẽ ra ngày mồng 7 tết tôi lên Hà Nội để mồng 8
tết bay nhưng vì kiêng ngày 7 nên tôi đi chiều ngày mồng 6 tết. Chia tay bố mẹ,
anh em và mọi người thân tại bến xe Thái Bình để lên Hà Nội. Trong lần chia tay
tiễn chân này, còn có một người con gái hàng xóm tên Hương. Mà tôi mới có dịp
quen trong mấy ngày tết.
Chiều tối tôi tới Hà Nội,
tìm vào nơi ở của Việt bạn học hồi nhỏ. Việt đi bộ đội trước tôi, bị thương năm
74 rồi về đi học tiếp văn hóa. Hiện đang học năm cuối đại học Nội Thương nên ở
ký túc xá của bộ Nội Thương phố Hai Bà Trưng, Hà Nội. Chơi 1 ngày ngủ lại 2
đêm. 3h sáng ngày mồng 8 tết tôi dậy, một mình đi bộ. Theo hướng dẫn là đi
thẳng rồi rẽ trái là ra Bờ Hồ, sẽ tới trạm vé trung chuyển khách hàng không.
Trời đông thật rét ! Đường
Hà Nội thật vắng. Không một bóng người. Gió Bấc thổi hun hút. Lá vàng của các
loại cây rơi, bay đầy đường. Những cây bàng, cây phượng trụi lá trông khô cứng
khẳng khưu. Đứng run rẩy vật vã trong gió rét. Đã 6 năm rồi tôi ko được sống
trong cảnh mùa Đông thế này. Rét quá. Mồm thở khò khè ra “cả khói “ Tôi vừa đi vừa chạy cho ấm. Thầm
nghĩ: Hà Nội ơi ! Mọi người đang say sưa ngủ trong chăn ấm nệm êm. Trong hạnh
phúc lứa đôi, gia đình chồng vợ. Có biết Tôi, một người lính đang một mình giữa
phố vắng giá rét để đi vào Nam, ra Biên giới. Chiến đấu gian khổ hy sinh, để
cho các người yên giấc ngủ ngon ko ? Thật bất công và phũ phàng. Cuộc đời và
đời lính sao vô lý đến vậy ? Triền miên với những suy nghĩ mông lung, lại cũng
không rành đường phố Hà Nội nên tôi đi qua trạm Hàng không mà không biết. Quá
nửa bờ hồ mới gặp được một bác xích lô đi làm sớm. Nhìn dáng người gầy gò. Đạp
cái xích lô cũ rích. Chợt nghĩ ông này chắc cũng nghèo khổ lắm đây. Hòa bình rồi mà sao dân
mình còn khổ thế ? Tôi hỏi thăm đường mới biết là mình bị đi quá xa. Theo hướng
dẫn, thì quay lại và đi vòng tiếp cũng bằng nhau . Đã gần đến giờ , tôi vội
chạy nốt nửa hồ còn lại. Như vậy là kỷ niệm của Hà Nội được khắc ghi thành
tích là: Tôi đã một mình chạy hơn một
vòng Hồ Hoàn Kiếm trong buổi sáng mùa Đông. Không biết là mấy km nữa . Thật nhớ
đời.
Tới nơi vừa kịp lên xe để
sang sân bay Gia Lâm. Đến khi làm xong thủ tục, lên máy bay. Tôi mới biết là
mình vẫn đang mặc cái áo khoát “Măng tô” của bạn. Không biết gởi ai và làm thế
nào trả Việt. Tôi phải cầm vào Sài Gòn tìm cách gửi ra sau. Nhưng rất áy náy thương bạn, trời
giá lạnh thế này, quần áo lúc đó đâu có nhiều như bây giờ.
Cũng có thể cái mong, cái nhớ của đơn vị của tôi. Nên cảm
thấy máy bay, bay cũng thật chậm. Rồi lại ghé xuống đưa đón khách ở Đà Nẵng
nữa. Thấy nói, ở nước ngoài giờ tàu, giờ xe, nhất là giờ máy bay cất cánh, hạ
cánh là nghiêm chỉnh và chính xác lắm. Còn ở ta thì máy bay cũng chưa phải là phương tiện phổ thông, nên
còn nhiều bất cập. Đến gần trưa máy bay mới tới được sân bay Tân Sơn Nhất Sài
Gòn. Bước ra cầu thang. Nắng chói lòa, những cái áo khoác hay những bộ com lê
của mọi người đang mặc không hợp nữa. Ai lấy mồ hôi nhễ nhại trong phòng làm
thủ tục an ninh. Không có hành lý, tôi nhanh chóng ra trước về ngay chỗ đơn vị
chú Lộc. Chia quà Bắc, thuốc lá, trà, mấy gói
kẹọ Hải Châu cho anh em. Kể cho anh em về chuyến đi, về chuyện Tết Miền
Bắc thật vui vẻ.
Cơm trưa xong 2h chiều. Tôi chào mọi người đón xe về căn
cứ Long Bình ở Biên Hòa. Rất may là gặp ngay chú em kết nghĩa, Hồ Gia Hiền.
Lính 74 quê Hương Sơn, Hà Tĩnh. Thay tôi làm trợ lý chính trị d1. (Hồ Gia Hiền
bây giờ là Đại tá chính uỷ 1 Lữ đoàn tại Bình Dương. Mới ra thăm tôi tháng
trước). Tôi nhanh chóng hỏi thăm ngay tình hình đơn vị. Hiền nói: Dịp anh đi
viện, Trung đoàn đánh trận lớn lắm ở Khánh An- Khánh Bình. Đánh hợp đồng đủ các
Quân, Binh, chủng. Hải - Lục – Không quân – Tăng thiết giáp. Cùng các Sư đoàn
bb, công binh của QK9. Trong trận này ta thắng lớn, nhưng thương vong cũng
nhiều. Nhân dân ở đây cảm động và sót thương ae mình lắm. Ông Trần Quy Nhơn
Tham mưu phó và đ/c Thắng Trợ lý tác chiến cũng hy sinh. Hiền kể tên những ai
hy sinh, ai bị thương nặng, nhẹ v v ... Rất nhiều ae quen thuộc. Chợt nghĩ đến
Lập, tôi hỏi có ai tên Lập của d3 ko ? Hiền nói là ko rõ và kể tiếp: Đau nhất
là sáng mùng 1 Tết đại đội 14 bắn 1 quả cối 120 ly đón xuân “ mừng năm mới “.
Không may đạn dò rỉ, nổ ngay tại nòng, làm cụt nòng pháo, hy sinh và bị thương
gần hết khẩu đội. Hiện giờ toàn trung đoàn đã di chuyển chiến đấu ở địa bàn
Hồng Ngự tỉnh Đồng Tháp.
Tôi lặng người đi, không nghe thêm được gì nữa. Vừa mới
hôm qua, hôm kia, ở nhà còn vui không khí ngày tết. Vào đến đơn vị thì lại toàn
chuyện chiến đấu, hy sinh thế này. Đầu năm mà đã xui xẻo thế, báo hiệu những
điều ko tốt lành lắm đây. Trầm ngâm một lúc rồi bừng tỉnh lại, tôi hỏi: Thế bao
giờ thì Hiền về đơn vị ? Hiền nói: Chiều nay em về Sài Gòn vào viện 175 thăm
anh em, cấp bổ xung một số giấy tờ của thương binh. Rồi mai xuống Đồng Tháp
luôn. Anh mới đi viện về thì cứ nghỉ ở cứ mấy ngày đi đã, rồi xuống sau. Tôi
trả lời ngay: anh đi cùng Hiền về Sài Gòn thăm anh em và mai cho anh đi cùng về
đ/v. Ko hiểu sao anh cảm thấy sốt ruột, nhớ đ/v lắm.
Sau khi bàn giao các địa bàn mới giải phóng cho sư đoàn
330 QK9 đảm nhiệm. Toàn bộ Sư đoàn hành quân gấp về Hồng Ngự , Đồng Tháp. Vì Trinh sát phát hiện Pốt tập
trung 2 Trung đoàn, đã đánh chiếm khu vực đồn biên phòng Mỹ Cân, Hồng Ngự.
Chúng ý đồ làm bàn đạp để đánh, “chọc” vào thị trấn Hồng Ngự, Đồng Tháp.
Các đ/v rời khỏi trận địa, trong niềm vui hân hoan của bà
con nhân dân Châu Đốc, An Giang. Nhất là 2 xã mới được giải phóng. Chiến đấu
dọc biên giới Tây Nam đã gần nửa năm. Nhưng chưa khi nào Trung đoàn gặp được sự
chào đón vồn vã, nhiệt tình nồng hậu như ở đây. Tất cả các đoàn thể từ tỉnh,
thị xã, dân chúng đều ùa ra 2 bên đường, vẫy chào và cũng là tiễn chân bộ đội
Sư đoàn 341 Anh hùng. Nào bánh tét, bánh ú, bánh lá gói các loại, kẹo, thuốc
lá, xôi gà v.v … Thật nhiều, thật nhiều, được giao cho các đ/v, tung lên xe,
nhét vào ba lô v.v … Anh em mấy ngày qua, phải chiến đấu liên tục, mệt và đói.
Ngày hôm qua có đại đội, có bộ phận còn phải ăn trái cây vú sữa thay cơm. Vì
anh nuôi không tiếp tế được. Anh em vừa đi vừa ăn nhồm nhoàm, ngấu nghiến những
sản vật của bà con, nặng tình quân dân cá nước. Các bà, các má thì ôm chặt anh
em khóc, nước mắt lã chã, xót thương trong cảm mến. Các thiếu nữ duyên dáng,
tươi đẹp cũng không giấu được những tình cảm của mình. Nắm chặt tay lính, mắt
long lanh cười vui hân hoan, có vài cô gái bạo dạn, nắm tay ae rồi bất nhờ ôm
chặt, hôn vào má ae thật to rồi kêu lên thật to: “Em thương anh” Rồi chạy nấp
vào đám đông ! Làm mấy chiến binh được hôn, ngượng ngùng đỏ hết cả mặt. Trong
tiếng cười vui của mọi người. Các em nhỏ thì khỏi phải nói nữa, cứ tung tăng
chạy theo các anh bộ đội, chạy theo đoàn quân reo hò ầm ĩ. Ai đã từng được
sống, được chứng kiến trong giờ phút vui sướng tột cùng lịch sử này, mới thấy
hết được ý nghĩa của chiến thắng. Ý nghĩa của tình cảm quân dân. Và thấy được
những đói rét, gian khổ hy sinh phần nào được đền bù. Được tôn vinh, vô cùng tự
hào. Nhất là trong không khí của ngày xuân, ngày Tết tràn ngập nắng Phương Nam,
có hoa mai vàng hoà quyện trong nắng, trong tình người, tình quân dân. Cờ hoa
rực rỡ Không thể có giấy bút nào tả hết,
kể hết được cái đẹp, cái tình và niềm vui cao quý đó ...
Nhiệm vụ của Sư đoàn phải cơ động gấp về Hồng Ngự. Phương
tiện hành quân bằng cả đường bộ và đường sông. Các cấp chỉ huy đã huy động tàu
thuyền, để chở bộ đội trên sông Hậu. Các loại ôtô khách của dân cũng đươc trưng
dụng, chở bộ đội hành quân theo đường bộ số 4. Rồi rẽ vào các đường liên huyện
, liên xã ra dọc vùng biên của huyện Hồng Ngự, Đồng Tháp. Tới nơi toàn Trung
đoàn gấp rút tổ chức phòng ngự, và điều nghiên chuẩn bị tấn công địch ở khu vực
đồn biên phòng Mỹ Cân, cùng các nơi địch lấn chiếm.
Bộ đội tràn về. Lực lượng thật hùng hậu, lúc này ae đã
được trang bị mũ sắt của pháo binh. Để tránh và giảm thiểu các vết thương ở đầu.
Như lính ta nói là: bảo vệ “cái gáo” . Nhìn những người lính trẻ, khoẻ trong
sắc lính trận, súng đạn đầy mình. Lại có mũ sắt đội đầu thật lạ lẫm, thật uy
nghi, mạnh mẽ. Dân chúng ở những khu vực này, rất có truyền thống cách mạng.
Trong thời kỳ KCCM như xã Thường Thới Tiền, Thường Thới Hậu v.v … đều là các xã
được Đảng và Nhà Nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT trong KCCM.
Được bộ đội về, đánh địch, trấn thủ cứu giúp nhân dân,
nhất là trong những ngày Tết thế này. Không còn gì quý bằng. Nên các đơn vị lại
được bà con nơi đây, thể hiện tình cảm và vật chất. Chăm lo cho ae, cho từng
người trong đ/v, như chính những người con yêu của Mẹ, những người ruột thịt
của gia đình. Đã đi, đã ở với dân từ Bắc vào Nam. Nhưng không ở đâu có được,
những tình cảm của dân, của các Ba các Má, các chị các em như ở đây. Ôi ! Thật
tuyệt vời những con người, những tình cảm của người dân miền Nam. Vùng sông
nước Đồng Bằng sông Cửu Long này ! Và đây cũng là những câu chuyện, những đề
tài vui của lính ta sau này.
Với tôi nơi đây là nơi để lại những dấu ấn, những tình
cảm ko thể nào quên. Giữ mãi và theo suốt đời quân ngũ đến tận bây giờ ..
Sáng hôm sau, tôi và Hiền ra bến xe Miền Tây về Châu Đốc.
Tôi hỏi Hiền sao không đi thẳng Đồng Tháp, mà lại về Châu Đốc. Hiền giải thích:
“Từ Châu Đốc đi qua phà rồi đi xe lôi chưa đầy 20km đến Tân Châu. Qua phà Tân
Châu bên kia đã là xã Thường Thới Tiền, của huyện Hồng Ngự, Tiểu đoàn mình đang
đóng quân ở đó. Nếu đi về Đồng Tháp rồi lại về Hồng Ngự thì xa hơn. Tôi nói như
thế càng hay, vì cho anh về thăm nhà anh chị Thành hôm trước anh ở đó.
Lần trước về miền Tây theo xe quân đội, của Bệnh xá. Còn
lần này 2 anh em được đi xe khách, nên thong thả nhàn nhã hơn. Được ngắm nhìn
cảnh vật nhà cửa, vườn cây hoa trái của Miền Tây. Qua những cánh đồng lúa chín
thẳng cánh có bay. Hoặc những đầm sen phả hương thơm mát nhẹ. Trong lòng thật
thư thái vì đã gặp được Hiền. Thăm một số anh em thương binh trong viện. Hiểu
được tình hình chiến đấu, và những thay đổi của đơn vị. Như C3 anh Tiễn CVT đã
lên làm d phó chính trị. Thay anh Tiễn là anh Nông quê Thanh Hóa, ở bên d2 điều
sang. Anh Trụ vẫn còn nhưng cấp phó thì là anh Tiến, B trưởng mới lên v.v...
Trên xe bà con nói chuyện râm ran. Nào là chuyện lúa má,
cây trái, chuyện gia đình, xã hội, những bức xúc trong cuộc sống. Trước thì thế
này, bấy giờ chính quyền mới lại thế kia v.v...Khen chê đủ điều. Rồi câu chuyện
trên xe cũng đã chuyển sang về tình hình chiến sự Biên giới. Người này, người
kia tranh nhau nói, tranh nhau kể về sự tàn ác dã man của bọn lính Pốt. Như
chuyện chúng bất ngờ sang tàn sát cả xã Ba Trúc, giết hàng ngàn người. Chặt đầu
xếp từng hàng. Máu chảy ngập làng. Dã man hơn nữa chúng còn lấy cây tầm vông, (cây
tre) chọc vào cửa mình lên đến tận cổ đàn bà, con gái. Không hiểu sao bọn này
lại tàn ác đến thế ? Rồi chuyện chúng chiếm vùng Phú Cường, Khánh An, Khánh
Bình đã lâu. Mấy ngày tết được bộ đội, đơn vì gì ấy ở Tây Ninh xuống toàn lính
Bắc. Bộ đội trẻ lắm, giỏi lắm và khổ lắm. Những ngày tết mà vẫn đánh nhau, diệt
hết bọn giặc ở đây giải phóng cho các xã, các chú bộ đội hiền khô à ! Bị hy
sinh cũng nhiều rất là thương xót ...
Hai anh em cứ ngồi im nghe chuyện. Rồi một bà má quay
lại, thấy chúng tôi như bất ngờ bà má hỏi 2 chú về đâu ? Có phải về đơn vị bộ
đội Miền Bắc đấy không ? Hiền nói thưa má, đấy là đơn vị con, con về Sài Gòn
chuyển giấy tờ cho một số anh em bị thương. Hôm nay mới quay lại. Chúng con là
bộ đội thuộc Sư đoàn Sông Lam 341, Quân đoàn 4. Mọi người ồ lên. Cả xe hướng về
phía chúng tôi cảm kích. Bà má vừa hỏi thăm thì đi hẳn xuống ôm lấy Hiền mà
khóc, nói rằng: Má thương các con, quý các con và biết ơn các con lắm. Rồi mọi
người lấy đủ thứ quà bánh, trái cây bắt chúng tôi ăn. Nhìn ngắm chúng tôi như
là những người hùng, người thân, người con vừa ở chiến trận trở về.
Thật bất ngờ và cảm động trước những tình cảm đó. Rồi tôi
tự thấy mình như có lỗi, vì những tình cảm này, lẽ ra phải giành cho những anh
em đã tham gia chiến đấu ở đây. Còn tôi ốm đau đi viện, về nhà, đâu có xứng
đáng được nhận phần thưởng tình cảm cao quý đó.
Hai anh em vào tới nhà anh chị Thành lúc 2h chiều. Chị
Lan vợ anh Thành và 2 cháu Trịnh- Hoài chạy ra đón mừng vui ríu rít. Tính ra
tôi mới xa đây khoảng 20 ngày mà mọi người cứ như là đã lâu lắm. Chị Lan kể đủ
thứ chuyện về những ngày tôi đi vắng. Chị nói là đi đâu chị cũng khoe về người
em “ngang hông” Miền Bắc. Và lại còn có ý tìm vợ cho tôi nữa chứ. Tôi nhớ lại,
lúc ở đây tâm sự chị em, tôi có nói là tôi cũng đã muốn lấy vợ, và khen con gái
ở đây rất ngoan, rất đẹp.
Tối ăn cơm xong chị Lan cứ bắt tôi và Hiền đi “xem mặt” 1
người em của bạn chị, làm thợ may nhà gần đây. Chị nói, chị đã ngỏ lời với họ
rồi chỉ đợi em quay lại thôi. Chết không cho chuyện đùa. Thật khó xử. Anh chị
thật quý tôi và cũng thật là thật thà cả tin. Không biết là chuyện nói đùa của
lính. Cứ tưởng tôi nói muốn lấy vợ là thật. Thế rồi tôi và Hiền cùng chị đến
thăm gia đình chị bạn. Gia đình làm may cũng ngay trước dòng sông Hậu. Cách nhà
chị Lan khoảng 5- 600m. Trông gia đình thật nền nếp, gọn gàng, sạch sẽ rất có
cảm tình. Người em gái chị bạn khoảng 20 tuổi, xinh sắn, đầy đặn trông cũng “ưa
nhìn”. Trong bộ bà ba hoa mầu xanh ngọc thật hấp dẫn. Ra chào chúng tôi bẽn lẽn
và lễ phép. Mấy chị em nói chuyện, hỏi thăm về quê hương tôi và gia đình tôi
v.v…. Tôi kể chuyện gia đình cho mọi người nghe và nói: Em là con trưởng trong
gia đình, nên phải về lấy vợ ở quê. Và nhất là bây giờ, đời lính không biết đi
đến bao giờ về. Cho nên không giám nói gì đến yêu đương hay vợ con v.v … Và nói
: chúng em đi chiến trận gặp được các chị quý mến chúng em thế này, là cảm động
và quý hoá lắm. Em xin phép được làm quen với chị. Khi nào có điều kiện thì sẽ
trở lại thăm chị, thăm em. Vì mai chúng em phải sang Hồng Ngự rồi. Đ/v em đang
chiến đấu bên đó. Chị Lan và chị bạn nhìn anh em tôi thở dài, xót xa và có ý gì
đó cảm thông tiếc nuối. Còn người em gái, sau khi ra chào mời nước chúng tôi đã
vào trong nhà nghe chuyện. Nhưng thỉnh
thoảng lại bắt gặp ánh mắt long lanh nhìn chúng tôi.
Tối ngủ ở nhà anh chị Lan. Cả nhà chuyện trò tới khuya,
mọi người đã ngủ. Còn tôi thao thức không ngủ được. Nghĩ ngợi đủ chuyện. Tôi
nghĩ mình là thằng con trai “thật hèn” thật nhát. Chưa gì đã sợ. Sao không liều
như những người khác, cứ hẹn hò, hò hẹn đi có hơn không ? Rồi muốn đến đâu thì
đến. (Sau này tôi mới biết trong đ/v có đồng chí đại đội phó đại đội 3 của tôi.
Và lẻ tẻ trong trung đoàn đào ngũ và lấy vợ ở đấy).
Sáng hôm sau, anh Thành lấy xe Honđa chở tôi và Hiền lên
thăm miếu Bà. Rồi chở luôn 2 anh em ra bến phà Châu Đốc để sang Hồng Ngự. Chia
tay anh Thành, chia tay bà con Châu Đốc, trong lòng tôi nặng trĩu những buồn
vui bâng khuâng khó tả.
Sang bên kia phà, 2 anh em đi xe lôi. Ở vùng này nhân dân
có loại phương tiện là “xe lôi” rất hữu dụng. Một cái xe thường là xe Honđa 67.
Kéo theo sau 1 cái rơmóc 2 bánh. Có cái thùng nhỏ, mà có khi chở được tới 10
người. Trông rất vui, rất tiện. Được cái là ở đây là đồng bằng, không phải dốc
đèo nên có “chớn” là chạy băng băng. (Nghe đâu bây giờ đã cấm loại xe này vì sợ
ko an toàn giao thông).
Hơn tiếng sau, chúng tôi đã tới thị trấn Tân Châu. Một
thị trấn hẻo lánh của vùng sông nước, mà sầm uất giống như 1 góc nhỏ ở Sài Gòn.
Cũng nhà gạch, nhà xây 2- 3 tầng. Hàng quán đông vui đủ các loại hàng hóa. Các
dàn ăng-ten tivi tua tủa trên các nóc nhà. Uống xong 2 cốc nước mía, tôi mua
mấy gói trà, thuốc lá, kẹo để làm quà. Rồi 2 anh em đi bộ ra bến phà.
Đi ở trong thị trấn Tân Châu, không thể nhìn thấy được
bến phà và sông nước nơi đây. Nên 2 anh em vừa qua khỏi dẫy nhà sát mép sông
thì thật bất ngờ. Bến sông thật lớn, thật rộng, mênh mông như biển. Đây là ngã
ba sông, nên khoảng cách từ đây sang bờ bên kia thật xa. Chưa bao giờ được nhìn
thấy cảnh sông nước thế này. Tôi ước tính từ đây sang bờ bên kia chắc phải hơn
1 km. Vì mắt thường nhìn không rõ người bên bờ bên kia. Xa xa phía bên phải ,
là một cù lao rộng lớn (hình như là xã Long khánh, quê hương Bác Tôn Đức
Thắng). Trời không có gió, nhưng sóng vẫn vỗ bờ đều đặn như ngoài biển. Sông
nước Cửu Long thật hùng vĩ. Hùng vĩ đến choáng ngợp. Con phà, con thuyền, con
người trước sông nước nơi đây thật bé. Tôi nghĩ ngay đến việc nguy hiểm, khi
phải đi tàu bè nơi đây. Vì bộ đội có mấy ai giỏi bơi. Hồi tập bơi vũ trang, tôi
bơi được khoảng trăm mét, đã kiệt sức rồi. Tôi cảm thấy rợn rợn người, khi nghĩ có gì không hay xẩy ra. (Đúng
như nỗi lo khoảng gần 1 tháng sau, trên đường đi giải vây Hà Tiên - Kiên Giang
tôi đã ôm một can mỡ lợn, định nhẩy xuống giữa sông lúc 3h đêm. Khi 2 tầu đụng
nhau, 1 tầu bị vỡ chìm ngay).
Phà cập bến. Hai anh em xuống phà, gần 30 phút sau mới
tới bờ bên kia. Lên phà, Hiền nói anh em mình đi bộ khoảng hơn km nữa thôi.
Tiểu đoàn mình, 1 số chốt, còn lại đang ở cùng với dân, dọc theo bờ sông này.
Dân ở đây chủ yếu là nhà sàn, như ở bên K.
Bây giờ là mùa nước cạn, còn khi mùa lũ về, thì nước dâng lên tận sàn
nhà. Nên nhà sàn là nơi ở phù hợp nhất ở vùng này. Dân cư ở đây thưa thớt, hai
anh em đi trên con lộ nhỏ. Hiền nói “Bên phải thì là sông rồi, còn bên trái sau
mấy ngôi nhà kia là cánh đồng thẳng cánh cò bay, tới tận Biên giới. Đồn biên
phòng Mỹ Cân cách đây khoảng 3km. Bọn Pốt đang còn chiếm, Sư đoàn, Trung đoàn
đã có kế hoạch đánh địch giải phóng Mỹ Cân rồi”.
Đã thấy và gặp anh em bộ đội của d1. Tôi nói: Hiền dẫn
anh về luôn đại đội chứ không rẽ vào d bộ nữa. Về đến vị trí của đại đội. Tôi
gặp và báo cáo ban chỉ huy là tôi đi viện về. Rồi bỏ trả thuốc, kẹo mời mọi
người. Anh Trụ c.trưởng, anh Tiến c.phó rất vui, bắt tay tôi, cười nói ầm ĩ,
hỏi thăm về tình hình Sài Gòn v.v...và giới thiệu đây là anh Nông CVTr. Thay
anh Tiễn, và giới thiệu về tôi với anh Nông.
Anh Nông cũng ko hỏi tôi về tình hình đi viện, ra viện và sức khỏe thế
nào mà nói ngay: “Anh em tôi đã bàn là “ông” đi viện về thì sẽ điều lên làm
quản lý đại đội. Lo cơm áo, gạo tiền, cho đại đội. Thay ông Bình đi học, ông
uống nước về thăm tiểu đội rồi mai lên đây nhận bàn giao luôn”.
Như vậy tôi lại có nhiệm vụ mới, là quản lý đại đội. Tôi
chưa làm việc này bao giờ, nhưng nghĩ cũng không có gì khó, nhất là so với lính
chiến đấu gian khổ. Thì làm quản lý tiền bạc, quản lý anh nuôi, nấu ăn lo viêc
hậu cần cho ae, còn nhàn nhã hơn nhiều.
Tôi về tiểu đội 10. Gặp gỡ anh em, trong niềm vui ồn ã
của mọi người. Có trà, có thuốc, có bánh kẹo. Buổi chiều ae lại còn tổ chức
giết hẳn 2 con gà liên hoan cho tôi nữa. Gia đình chủ nhà thì cho anh em rượu,
và nấu xôi cùng 2 kg thit lợn đãi mọi người.
Sau 20 ngày đi xa, trở lại đơn vị mà biết bao thay đổi.
Anh em tranh nhau kể về những trận đánh mà tôi đi vắng. Ở núi Sam, đặc biệt là
Khánh An, Khánh Bình. Rồi những ai bị thương, ai hy sinh, ai đảo ngũ
v.v.....Rồi anh em lại tập trung kể về tình cảm, lòng tốt của bà con nơi đây
đối với bộ đội. Nào là thấy gạo của bộ đội không ngon, các má lấy gạo ngon đổi
cho. Còn gạo bộ đội thì cho heo cho cá ăn. Nào là các má không có bộ đội đến ở
thì thắc mắc, nhiều má còn làm cả bánh cuốn, bánh xèo, bánh ít gói, xôi chè
v.v... bánh tét thì khỏi phải nói, các má gánh đến cả gánh, chiêu đãi bộ đội.
Nhưng rồi được chiều chuộng quá, bộ đội cũng nghĩ ra đủ trò láu lỉnh để tán ăn
như: anh em mắc võng dưới nhà sàn tối ngủ, cứ nói chuyện với nhau là thèm ăn
cái nọ, cái kia như bò xào, bò nướng , thịt chó v.v... nói to cho các ba má
trên nhà nghe thấy. Thế là hôm sau ba má chiêu đãi luôn các thứ lính ta thèm.
Cả những thứ như là thịt chó nữa. đến mức các đơn vị phải họp, cấm anh em lợi
dụng, vòi vĩnh sách nhiễu dân.
Sáng hôm sau , tôi lên BCH đại đội . Chính thức đại đội
giao cho tôi làm quản lý , thay anh Bình đi học . Việc bàn giao cũng chẳng có
gì nhiều . Có 2 quyển sổ ghi chép theo
sổ kế toán của tiểu đoàn phát gồm : 1 quyển sổ theo dõi chi tiêu tiền mặt , 1
quyển ghi chép cập nhật kế toán , và mấy chục đồng , tiền đi chợ mua thực phẩm
. Chủ yếu là rau hoặc thức ăn mặn , còn gạo , mỡ mì chính v.v... và các nhu yếu
phẩm khác , thì có quân khu tiểu đoàn cấp xuống theo tiêu chuẩn chế độ v.v..
Anh Bình giao nốt cho tôi 2 gói bột ngọt. Hướng dẫn qua
cách ghi chép sổ sách, nào là “có” nào là “nợ” phải cân đối. Đôi khi một có
bằng nhiều “nợ” , và một “nợ” bằng nhiều
“có” cũng có vẻ “rối rắm”. Nhưng với tôi
thì cũng không có vấn đề gì.
Xong việc sổ sách bàn giao, tôi nói với anh Nông, anh Trụ
và anh Tiến c.phó là: các anh cứ yên tâm mọi việc tiếp phẩm, cơm nước tôi sẽ
lo, sẽ tổ chức thật chu đáo. Rồi tôi cùng anh Tiến c.phó về tiểu đội anh nuôi gặp anh em.
Tiểu đội nuôi quân ở nhà má Mỹ, cạnh ngay dòng sông Tiền.
Mọi sinh hoạt tắm giặt hay nước nấu ăn lấy ngay tại bến sông. Má Mỹ có căn nhà
sàn tương đối lớn, so với các nhà chung quanh. Ba má có 10 người con. 6 trai 4
gái. Người con trai đầu kém tôi 1 tuổi, tên Hiếu. Có 1 anh thứ 4 đang còn là bộ
đội địa phương của tỉnh. Có 2 con út một là con trai thứ 9. Út Hết là tên con gái thứ 10 mới khoảng 2
tuổi. Trong gia đình mọi việc hình như là do Má sắp đặt hết. Ba rất hiền và yếu
không hay tham gia vào việc gì.
Tôi đến chào Ba, Má, rồi tổ chức họp anh em, củng cố nội
vụ, giao nhiệm vụ cho từng người. Sắp đặt đâu ra đấy. Phát động anh em sáng hôm
sau làm vệ sinh hết tổng thể từ đường đi, đến vườn tược chung quanh nhà. Và yêu
cầu anh em phải gánh nước về, đổ đầy các chum cho thật trong mới nấu cơm
v.v..Còn rau ở đây rất nhiều, tôi cho ae đi hái lượm và chế biến như nộm hoa
chuối, nộm đu đủ vv..Tập trung tiền vào thức ăn mặn.
Qua mấy ngày theo dõi cách sinh hoạt của tiểu đội anh nuôi,
và tính cách chuyện trò dân vận của tôi. Đã gây được tình cảm với gia đình. Mọi
người rất quý tôi. Anh Hai thì cứ tối tối, là chèo kéo bằng được tôi uống rượu
cùng. Mà dân ở đây thì ngày nào cũng uống rượu. Khi thì mực khô, cá lóc khô.
Khi thì chim nướng chim quay. Ở vùng này chim nhiều vô kể. Bà con đi bẫy chim
cũng rất đơn giản. Họ có loại thuốc gì đó trộn với gạo, mang ra rắc ở các bờ
lúa. Cả đàn chim hàng ngàn con xuống ăn bị say, nằm ngay ở đấy cứ việc ra nhặt
về. Có lần thấy anh Hiếu mang về cả thúng. Anh Hai Hiếu cứ nói dân miền Tây lúa
gạo nhiều lắm. Rồi chỉ ra đống lúa ở sân nói: kia là 10 tấn lúa mà ở chợ giá rẻ
lắm không biết làm gì chỉ nhậu chơi thôi...
Tôi thoáng nghĩ ở đây thóc lúa nhiều như vậy, mà sao
không cho mang về TP. Trên đó hồi này lương thực, thực phẩm hiếm lắm, đắt lắm.
Má đông con, nhưng cũng như ở vùng này là có truyền thống
CM, truyền thống đánh Mỹ. Chứ không phải là truyền thống học. Nên có lần Má
nói: tao chỉ ước ao các con Má sau này được như con. Tôi nói với Má: con cũng chỉ
là lính chiến đấu thôi, chứ có phải là quan, là cán bộ gì đâu mà Má mong các em
giống con ? Lính như chúng con khổ lắm Má ơi ! Má cười và nói: Má thấy con có
lẽ phải học cao lắm, mới làm được những việc này. Mà Má muốn nhận con là con
“ngang hông” (con nuôi) sau này có đi đâu, thì ráng quay trở lại thăm Má. Tôi
nói: con vẫn coi Má là Má của chúng con mà. Chúng con nay đây mai đó, nhưng con
hứa khi nào bé Út Hết lấy chồng. Con sẽ về dự cưới và thăm Ba Má. (thế rồi như
các bạn đã biết 22 năm sau, được tin Út Hết lấy chồng. Dù đang rất bận mải, và
khó khăn. Tôi trở lại đó để thực hiện lời hứa vui năm nào)...
Mấy ngày sau, giao ban đại đội. BCH nhất là đ/c Nông, các
B.trưởng đều biểu dương tiểu đội nuôi quân, đã có nhiều cố gắng. Cơm dẻo, canh
ngọt và đời sống của đơn vị được nâng lên rõ rệt.
Ý đồ điên rồ và tuyên bố láo xược của bọn chỉ huy của Pốt
ở QK Tây Nam là: “Cho dân Hồng Ngự Đồng Tháp ăn tết, đón xuân bằng bánh tét
chấm máu”. Đã không thực hiện được, vì chúng đã biết lực lượng chủ lực đã về
Đồng Tháp kết hợp với QK9 đánh tan bọn Pôt ở Phú Cường, Khánh An, Khánh Bình.
Nơi mà chúng hý hửng cho là Việt Nam không thể đánh chiếm lại được. Cũng vì LL
QK9 cũng đã nhiều lần tiến công, mà chưa giải phóng được vùng này. Nay, mới có
chưa đầy 2 ngày với LL quân sự hùng hậu của Hải - Lục - Không quân + TTG chúng
ta đã đánh cho chúng tan nát.
Nên khi thấy đội quân "mũ sắt", cơ động gấp từ
An Giang về Hồng Ngự, Đồng Tháp. Bọn địch ở đây gồm 2 Trung đoàn, đã đã không
dám thực hiện ý đồ tấn công Hồng Ngự nữa. Mà vẫn giữ một số chốt tại khu vực
đến Biên phòng Mỹ Cân và dọc tuyến Biên giới giáp gianh.
LL của ta khi cơ động về Đồng Tháp, thì chỉ dùng d2 dâng
lên chốt đối mặt với Pốt. Còn đại bộ phận “nghỉ ngơi” chốt giữ phía sau. Chứ
chưa chủ động tiến công chúng ngay. Mà tổ chức cho anh em học tập, rút kinh
nghiệm các trận đánh, chỉnh huấn chỉnh quân, tăng cường sức khỏe v.v... điều
nghiên tình hình địch bổ xung quân số, bổ xung trang thiết bị, quân trang quân
dụng, vũ khí đạn dược thật đầy đủ.
Bọn Pốt ở đây, thấy quân chủ lực “mũ sắt” hùng hậu tràn
về. Thì bỏ ý đồ tấn công, lui về phòng ngự, đợi ta tấn công. Đợi mãi và chúng
vẫn chưa thấy chúng ta tấn công, thì nóng lòng sốt ruột, bắt đầu dùng lực lượng
tập kích ta ở khu vực tiểu đoàn 2 chốt giữ. Và dùng lực lượng nhỏ trong đêm
luồn vào sát thị trấn Hồng Ngự, tập kích rồi tháo chạy. Như là muốn thăm dò lực
lượng, và thái độ của ta. Trong những ngày này tiểu đoàn 2 vừa chốt giữ, vừa
đánh địch loại khỏi vòng chiến đấu hơn 70 tên.
Với chiến thuật: “mèo vờn chuột” , đã làm cho bọn Pốt ở
đây mệt mỏi. Lúc thì co về phòng ngự, lúc thì tập trung quân tấn công ta ở diện
lẻ. Mãi mà chưa thấy quân ta tổ chức đánh. Chúng lại bắt đầu dồn 2 tiểu đoàn
quân ra biên giới, chuẩn bị chọc phá ta. Bất ngờ đêm ngày 28/2 trung đoàn 266
và 273 xuất kích, luồn sâu vào đất địch rồi đánh ngược trở lại khu vực Bầu Gốc,
Mỹ Cân, Tân Dân tiêu diệt gọn 2 tiểu đoàn này.
Lực lượng d2, cũng xuất kích khỏi chốt. Đánh thẳng vào
khu vực đồn Mỹ Cân. Nhưng địa hình ở đây phức tạp. Chúng cố thủ trong những lũy
tre quanh đồn. Ta từ ngoài đánh vào, nên gặp rất nhiều khó khăn. Qua buổi trưa
d2 vẫn không giải quyết dứt điểm được bọn địch ở đây. BCH điều d1 quay lại đánh
hỗ trợ cho d2. Bọn Pốt trong công sự, trong các khóm tre, chống cự rất quyết
liệt làm ae d1 nhất là C3 hy sinh hơn chục ae.
Nhân dân ở vùng này vô cùng căm ghét, vô cùng căm hận bọn
Pốt. Nên khi thấy anh em mình đi chiến đấu. Một số người cứ nằng nặc đòi theo,
giúp đỡ bộ đội như mang đạn, tải thương v.v… Khi tôi, cùng anh em tiếp tế cơm
cho anh em đi qua các thửa ruộng. Rải rác các xác lính Pốt. Nhưng kỳ lạ là: gặp
thằng nào cũng thấy bị rạch bụng, trông rất là ghê. Không lẽ bọn này lại chết
“yên hùng” như bọn: “ Nhật hoàng ? ” Nhìn kĩ vẫn có những vết đạn hiểm giết
chết bọn Pốt. Vậy tại sao chúng lại bị rạch bụng, phơi thây ra đây.?
Hỏi kỹ anh em bộ binh mới biết được là: “số dân công tự
nguyện” đi giúp tải đạn, cáng thương, bà con, anh em rất căm hận bọn này. Từ
chỗ căm thù quá, nên gặp thằng nào chết, là cũng mổ bụng, xem gan, xem mật
chúng to bằng nào ? Mà lại độc ác, man rợ đến vậy ?
Trở lại tiếp chuyện chiến đấu của d1. Khi được BCH trung
đoàn điều quay về hỗ trợ cho d2, đánh địch ở trong đồn Mỹ Cân. Đội hình d3 kết
hợp với d2, chia làm 3 hướng đánh. Đang phát triển thuận lợi, vượt qua cả một
số khóm tre. Phía sau của đại đội 3 và khi d.bộ d1, tràn lên thì bất ngờ những
loạt súng của bọn Pốt điên cuồng quạt vào đội hình. Qúa bất ngờ trước tình
huống đó. Lại ở giữa đồng trống, chưa kịp phản ứng được ngay. Những loạt đạn
độc ác vẫn điên cuồng găm vào đội hình ta. Làm cho một vài anh em c3, trong đó
có một số anh em thông tin tiểu đoàn
trúng đạn. (Mấy đ/c thông tin này là cùng trung đội với đ/c Hồng, hiện là
thương binh, đang sống ở Thiệu Hoá - Thanh Hoá. Có con trai cũng là thành viên
quân sử mình).
Đại đội 3 Đang tấn công địch. Dừng phát triển. Quan sát
một lúc, phát hiện số địch không nhiều. Đ/C Trụ lệnh cho B1 vòng phải, B2 vòng
trái, dùng khẩu 12ly 7 bắn chế áp. Đánh
thẳng vào khu vực cố thủ bí mật nhưng đã bị lộ của Pốt . Chỉ sau 15phút tấn
công. Mấy hoả điểm này bị tiêu diệt. Nhìn những thằng Pốt chết gục bên súng,
hơi khó hiểu. Kiểm tra kỹ lại, hoá ra thằng nào cũng bị xích chân vào một cái
cọc, hay gốc cây. Để “cảm tử bắt buộc”. Nên chúng có những hành động điên
cuồng, liều chết như vậy. Thật là lũ dã man. Chúng dã man ngay cả với chính
những “đồng đội” của chúng.
Như vậy sau 1 ngày tổ chức tấn công. Sư đoàn đã lại tiêu
diệt gọn 2 tiểu đoàn của Pot. Giải phóng được khu vực đồn Mỹ Cân. Tiểu đoàn 2
chốt giữ lại khu vưc này. Bị thua đau nhưng bọn Pốt rất cay cú. Thấy còn mình
d2 chốt lại đó, mấy ngày sau chúng đã lại tổ chức tập kích vây hãm d2. Ngày
10/3 Trung đoàn lại tổ chức cho d1- d3 tấn công tiêu diệt địch ở vòng ngoài hỗ
trợ cho d2 giữ chốt.
Có một việc mà cho đến hôm nay, khi nói chuyện về việc đồng
chí San hy sinh. Anh em chúng tôi thấy có việc hơi khó hiểu là thế này. Tối
ngày 9/3, hôm đi luồn đánh Pốt. Đ/c San tập trung đại đội, hô rất là to, cho
đại đội xếp hàng ngang hàng dọc, (đ/c San được giữ chức đại đội phó sau trận
28/2). Phổ biến nhiệm vụ đánh địch, đúng bài bản như là hồi huấn luyện, hay
diễn tập đánh địch. Anh em tôi thấy vậy nói với nhau: ông này gở kiểu gì thế
này ? Chưa bao giờ đi đánh trận, mà tập hợp lính kiểu này. Khéo lại có vấn đề
phức tạp ngày mai đây ?
Và rồi sự việc chiến đấu ngày hôm sau, diễn ra với đại
đội 3 cũng thật bất ngờ. Đại đội 3 hy sinh và bị thương nhiều. Và đây cũng là
lần tập hợp quân cuối cùng trong đời. Của một đồng chí chỉ huy đại đội, chưa
được nhận quân hàm sỹ quan. Đ/c Nguyễn Văn San nhập ngũ 5/72. Quê ở xã An Đồng,
Hưng Hà, Thái Bình. Ở đại đội 3 với TP từ ngay đầu nhập ngũ.
Đội hình của sư đoàn 341 gồm có 4 trung đoàn và 8 tiểu
đoàn trực thuộc:
- Trung đoàn 273 thường gọi là E1. bộ binh
- Trung đoàn 270 thường gọi là E2. bộ binh
- Trung đoàn 266 thường gọi là E3. bộ binh
- Trung đoàn 255 thường gọi là E4. pháo binh
Khi tình hình Biên giới Tây Nam có nhiều phức tạp. Lúc Sư
đoàn 341 nhận nhiệm vụ đi làm kinh tế mới ở Sông Ray. Bọn Pốt xua quân sang lấn
chiếm Hà Tiên - Kiên Giang. Bộ đã điều Trung đoàn bộ binh 270 (E2) xuống đánh
địch và trấn thủ . Bảo về thị xã Hà Tiên từ tháng 7/1977.
Thị xã Hà Tiên là mảnh đất tận cùng của Tây Nam Việt Nam.
Ở đây cảnh trí tuyệt đẹp. Ba mặt là biển và sông. Còn đất liền thì lại nối sang đất K, qua cửa khẩu Xà Xía. Từ thị xã
Kiên Giang đi về Hà Tiên chỉ có một trục lộ duy nhất. Một bên là biển, một bên
là đầm lầy, rừng tràm mênh mông sang tận đất K. Núi, đồi hòa quyện với biển
trời bao la, tạo lên một vẻ đẹp như thơ, như mộng. Sang thị xã Hà Tiên, phải qua một con phà, (hoặc cầu phao). Dòng sông
nhỏ, nối thông từ đất liền ra biển. Nên về địa lý Hà Tiên rất “độc lập” đẹp như
mơ, như thơ, như nhạc. Xuống đây tôi được nghe một bài ca, của nhạc sỹ (?) chế
độ trước. Ngợi ca cảnh đẹp Hà Tiên, mà không hiểu sao, bây giờ mọi người ít
hát, ít nhắc tới (mong BSchung hay các bạn cho mình nghe lại bài hát này ?).
Trong đó có các câu như : “Hà Tiên mến yêu đẹp như xứ thơ xa cách tôi còn
nhớ.... xanh xanh mầu ánh mắt, em gái chiều năm xưa.”...) có thể có nhiều bài
hát ca ngợi mảnh đất này. Nhưng theo tôi thì đây là bài ca hay nhất. Trong cuộc
sống hiện tại, những lúc vui vui, tôi thường cao hứng thổi sáo mồm hay hát cho mình nghe vài câu ca đó. Mà
thấy lòng thư thái, như được đứng trước biển Hà Tiên. Với bãi tắm Mũi Nai tuyệt
đẹp. Có những cây dừa lâu đời cao vút. Nhìn xa ra các đảo nhỏ ngoài khơi, hay
kỳ thú khi leo lên thăm hang Thạch Động, núi Bài Thơ v.v...
Cảnh đẹp mê hồn. Nhưng về mặt quân sự thì thật bất lợi
cho ta. Vì nơi đây như là một hòn đảo độc lập. (bây giờ đã có cầu cứng đi qua).
Bên K sang thì lại rất thuận tiện vì thị xã liền với đất K. Chính vì thế nên
khoảng tháng 7/77 bọn Pot lẻn sang, tàn sát toàn bộ ấp Việt Nam. Với thủ đoạn
tàn ác, dã man cũng giống như là chúng đã gây ra với dân mình. Ở Xa Mát, Thiện
Ngôn, Tây Ninh, Ba Chúc- An Giang.
Trung đoàn 270 được cơ động gấp xuống để tiêu diệt địch
và trấn ải ở đây. Nhưng khi chốt giữ lâu. Trong tổ chức phòng ngự chiến đấu có
những chủ quan. Nên ngày 14/3/78 bọn Pốt đã đưa 2 Trung đoàn sang mật tập tấn
công ta chiếm thị xã. BCH Trung đoàn phải “cố thủ” trong hang Thạch Động. Anh
em 270 rất dũng cảm chiến đấu. Nhưng do địch đông, do yếu tố chủ quan bị bất
ngờ, nên cầm cự rất khó khăn, nguy kịch.
Trước tình hình đó QK9 và các cấp chỉ huy lệnh cho Sư
đoàn 341. Bằng mọi giá phải cơ động nhanh xuống giải vây cho Hà Tiên.
Lệnh hành quân thật đột ngột. Tất cả các đơn vị đều bất
ngờ khi có lệnh bàn giao chốt gấp. Trong
2h phải làm xong tất cả thủ tục chuyển quân. Các trận địa chốt, theo hợp
đồng , bàn giao chốt cho Sư đoàn 330. QK9 đảm nhiệm. Ngay tối ngày 15/3 tiểu
đoàn 3, E1 xuống tàu đi trước. D1- D2 chốt, đợi F330 đến thay địa bàn. Nhưng
đợi mãi đến 21h, rồi 22h đêm F330 cũng chưa có lực lượng vào thay. Đồn biên
phòng Mỹ Cân và một số trận địa chốt
đươc bí mật bàn giao cho bộ đội biên phòng, và tỉnh đội Đồng Tháp. Toàn bộ 2
trung đoàn bb của sư đoàn khẩn trương cơ động.
Trên nét mặt của các đ/c chỉ huy đại đội, Tiểu đoàn và
đ/c Nguyễn Dấng, Trung đoàn phó, xuống đốc chiến tiểu đoàn 1 và 2 cơ động. Nét
mặt đăm chiêu căng thẳng. Những mệnh lệnh đanh gọn hổi hả thúc giục, nhắc nhở
ae. Khẩn trương, khẩn trương. Anh em chiến sỹ thì không hiểu hết được những gì
diễn biến, đang xẩy ra ở chiến trường. Chỉ nhận được thông báo rút khỏi chốt,
nếu không có đơn vị bạn ra thay cũng bỏ. Bí mật rời khỏi trận địa.
Tất cả các tầu của nhân dân được huy động chở bộ đội,
hành quân theo đường sông. D3 được tầu
Hải quân “há mồm” cơ động trước.
Việc Sư đoàn bộ đội chủ lực, bất ngờ di chuyển. Làm cho
nhân dân ở đây cũng bất ngờ. Bất ngờ không phải là lo sợ Pốt tràn sang, mà bất
ngờ khi phải chia tay bộ đội, với tình cảm mấy chục ngày, tình quân dân gắn
kết. Những mất mát, hy sinh của anh em, sự dũng cảm, ý chí chiến đấu và chiến
thắng ở đây, đã được nhân dân ghi nhận và cảm phục yêu mến. Những gia đình mà
có anh em ở trong nhà, chiến đấu bị hy sinh. Bà con cảm thấy đau xót, như chính
còn em của họ hy sinh mất mát. Nhiều má còn bắt các con, các cháu, mang tang và
lập bàn thờ “cúng” anh em rất cảm động. Các Ba, các Má, các chị, các em, khóc
dòng nước mắt. Bà con kéo ra hết bến tầu dọc nơi đóng quân, chia tay bộ đội và
tặng, cho anh em những lương thực, thực phẩm thật nhiều. Chia tay bịn rịn nghẹn
ngào không nói lên được lời.
Tôi xuống tầu lúc 11h đêm. Đây là chuyến tầu cuối cùng,
chở vét một số anh em hậu cần của tiểu đoàn. Đêm, tối đen như mực. Sóng vỗ ào
ào, trời lộng gió, tầu chòng trành. Tôi ôm má, ôm các em, chia tay bước xuống
tầu. Không nói thêm được lời nào. Nhưng trong lòng thầm nghĩ: Cảm ơn các má ! Cảm ơn các anh em và bà
con nơi đây, trong những ngày tháng qua, đã chăm sóc, đã giúp đỡ động viên
chúng con rất nhiều. Những tình cảm này, chúng con khắc ghi mãi mãi. Chúng con
là lính chiến phải đi đánh giặc. Phía xa, nhân dân, đang chờ, chiến trường chờ,
đang mong chúng con. Chúng con phải lên đường. Nếu có dịp chúng có sẽ quay lại,
thăm Má, thăm Ba và bà con nơi đây....
Tầu tăng ga nổ máy, Trung đoàn phó Nguyễn Dấng lệnh xuất
phát. Tầu chồm lên rồi lao đi trong màn đêm, giữa sông nước mênh mông như biển.
Không một bóng đèn, không một ánh sáng. Vì phải giữ bí mật việc chuyển quân.
Lúc này đúng 11h30 đêm ngày 15/3/1978.
----------------------------
Dathao
Như vậy thì cho đến trứơc chiến dịch tổng tấn công K,
quân chủ lực của ta ở biên giới Tây Nam từ Tây Ninh cho đến Hà Tiên chỉ có các
sư của Quân đoàn 4 như sư 341- sư 7- sư 9 ,sau đó có bổ xung thêm sư 2 của quân
khu 5 vào giai đoạn gần mở màn chiến dịch tổng tấn công giải phóng K (khỏang
giửa năm 78).Trong thời gian đó có sự phối hợp của các đv quân địa phương như ở
hướng Tây Ninh có Quân khu 7- Tỉnh đội Tây Ninh- Tỉnh đội Long An. Ở Châu
Đốc-Hà Tiên-Hồng Ngự (Đồng Tháp) có Quân khu 9.
Lực lượng phía Pot thì hầu như là tổng lực,tất cả những
đv thiện chiến của nó đều được đưa ra biên giới với ta với mong muốn chiến
thắng QĐNDVN.
Trong thời kỳ nầy thấy rỏ ràng nhà nước ta chưa có chủ ý
tấn công qua K mà chỉ làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới khỏi sự xâm chiếm của Pot
nên chỉ điều quân vừa đủ để tự vệ.Đôi khi nống qua để đưa vùng chiến sự ra khỏi
lảnh thổ của mình rồi lại rút về.
Chính vì lẻ đó mà hướng Tây Ninh (là hướng chủ yếu của
Pot muốn đánh vào tận Sài Gòn) các sư 7 -9 của quân đoàn 4 mới phải chịu sức ép
khá mạnh của Pot, tương đối lép hơn nó trong giai đoạn nầy và chịu nhiều tổn
thất trong chiến dịch giải phóng K.Vì là mũi chính diện của Pot để đánh vào tận
Sài Gòn và cũng là mũi chính diện để ta đánh vào tận Pnompenh.
Cánh của sư 341 cũng không có vẻ gì sung sướng hơn cánh
của sư 7 và sư 9 vì phải cơ động hầu như suốt tuyến miền Tây Nam Bộ.Hết Châu
Đốc tới Hồng Ngự rồi lại đến Hà Tiên mà lại là đv quân chủ lực đầu tiên tham
chiến ở biên giới Tây Nam.
Nếu tính như vậy thì phải nói công sức (chỉ tính riêng
lính quân đoàn) của quân đoàn 4 trong chiến tranh biên giới Tây Nam là lớn
nhất!Vì các quân đoàn khác như quân đoàn 2 và quân đoàn 3 chỉ tham chiến khi
bắt đầu chiến dịch tổng tấn công giải phóng K.Quân đoàn 4 tham gia đầu tiên và
cũng là đv rút về nước cuối cùng sau khi hoàn thành công cuộc giải phóng và
bình định K.
Xin cám ơn Binhyen đã nói rỏ thêm về tình hình ở hướng
Tây Ninh.
Xin cám ơn bác TP đã có những giải thích thật rỏ về những
diển tiến của các trận đánh và phải công nhận bác là lính thời đó nhưng lại có
đầu óc cũng khá lảng mạn .Sau bao nhiêu năm mà bác vẫn còn được những ký ức đẹp
đẻ về phong cảnh ở những nơi bác đi qua.
Những tình cảm của bác và ae trong đv với người dân miền
Tây Nam Bộ cũng thật là sâu đậm!
--------------------------------
Qua trinh sát nắm tình hình địch, và các thông tin của
ban 2. Thì lực lượng chính của Pot đã lùi sâu vào bên trong ngoài “tầm với” của
ta. Tại biên giới, chúng chỉ để lại 1 lực lượng nhỏ chốt giữ các vị trí quan
trọng. Ý đồ của ta là: đánh tiêu diệt địch, chứ ko phải là đánh đuổi chúng.
Nên chúng ta chưa thể xuống tay khi thấy “ruồi” đã bay gần hết.
Địa hình bên K thật hiểm trở. Từ bên mình sang là đồng
bằng ko rộng lắm khoản 1 km thì bắt đầu có những quả núi lớn. Ko kết liền thành
dẫy, mà cách xa nhau rất vừa tầm hỗ trợ cho nhau về hỏa lực. Như núi Lục Sơn,
Cúp Pô, Thị Vạng, núi Địa Tạng vv...dọc mép sông (có cầu phao) giáp ranh giữa
ta và địch là phá Đông Hồ, Sông nơi đây rộng, và đầm lầy rất lớn. Ko thể tiền
nhập vu hồi từ hướng này. Mà chỉ co thể luồn sâu sát mép sông bên đất Hà Tiên.
Có rừng tràm nối dài sang đất K. về mùa này khô, nước cạn nên rừng tràm phía
giáp vào đất K có thể luồn được. Rừng đang mùa khô có thể rất dễ cháy. Nhưng ae
trinh sát báo, đây lại là bãi mìn của cả ta và Pót gài. Nên việc luồn sâu vào
đây cũng rất nguy hiểm. Khi hết rừng tràm, thì lại có trảng trống khoảng hơn 1
km và tiếp đến là chân núi đất xen lẫn đá. Lực lượng Pot chốt giữ ở đây lâu.
Nên hầm hào của chúng rất kiên cố. Có hệ thống phòng thủ 1, phòng thủ 2 liên hoàn. Nếu đánh từ hướng này lên mà địch
phát hiện sớm thì cũng rất bất lợi. Còn hướng bên trái đường lộ 80 ra tận ấp
ViệtNam, thì có thể chỉ dùng được lực lượng nhỏ, luồn sâu nhưng cũng thật khó
vì địa bàn nơi đây sát biển. Địch phòng ngự rất chặt chẽ ...
BCH liên quân chọn phương án: Đầu tiên vẫn là các loại
pháo binh bắn phá hoại các chốt, khống chế trận địa pháo của địch. Máy bay A37
+ Trực thăng sẽ ném bom và bắn rotket tiêu diệt các mục tiêu như trận địa pháo,
hoặc các ụ phòng thủ chiến đấu của Pot. Hỗ trợ cho bb.
Trung đoàn 266, tấn công vỗ mặt theo trục đường 80 sang.
Và đánh chiếm các cứ điểm núi Lục Sơn, Cúp Pô.
Trung đoàn 273, luồn sâu theo rừng tràm. Vu hồi đánh
chiếm địch ỏ 2 ngọn núi Thị Vạng và núi Địa Tạng. Mục tiêu tổng thể của trận
đánh là phải chiếm được 4 quả núi trên rồi chốt chặn tại đó. Chiếm được 4 ngọn
núi này, thì chúng ta khống chế được địa bàn rộng lớn của K. Địa bàn tỉnh Tà
Keo của Pot. Lực lượng dân công phía sau, sẽ tổ chức đào đắp đê biên giới vv...
Nhưng đợi mãi mà chúng vẫn ko đưa lực lượng ra như trước.
Mà vẫn chỉ có 1 số ít lính Pot chốt các mục tiêu trên. Như là cố ý nhử, cô ý
trêu tức quân ta.
Việc điều nghiên tình hình, địa bàn đã tương đối kỹ.
Nhưng giờ G vẫn chưa được chọn. Các cấp chỉ huy đã nóng lòng, sốt ruột. Anh em
cán bộ chiến sỹ cấp dưới thì lại ko ngờ mình được nghỉ ngơi lâu thế. Nghỉ ngơi
+ với ăn uống + khí hậu tươi mát trong lành của biển cả, làm cho sức khỏe ae
tăng hẳn lên.
BCH Sư đoàn bèn tìm cách đánh lừa địch. Lệnh di chuyển về
Tây Ninh được phát ra. Trung đoàn 2 vẫn chốt ở các vị trí cũ. Mỗi Tiểu đoàn để
lại 1 lực lượng nhỏ, còn tất cả từ các cấp chỉ huy, sở chỉ huy E, F cùng các
loại xe, pháo, hỏa lực lên đường hành quân.
Cuộc hành quân chuyển hướng của đội quân “mũ sắt” cùng với tất cả xe
pháo + TTG vào lúc 7h tối. Các loại xe ôtô ko tắt hết đèn, mà sử dụng đèn gầm
hạn chế ánh sáng. Coi như là 1 cuộc hành quân di chuyển lật cánh thật sự.
Nhưng cả đoàn quân ko phải về Tây Ninh. Mà chỉ hành quân
cách Hà Tiên khoảng 70 km. Về dấu quân tại khu vực núi Đất, huyện Hòn Đất, Kiên
Giang. Đất rừng, đồi núi, nơi đây là điểm dấu quân tuyệt vời.
Địa danh nơi này, được nổi tiếng từ những năm KCCM. Giai
đoạn đầu của chính quyền Ngô Đình Diệm. Khi có tác phẩm nổi tiếng Hòn Đất của
nhà văn (Anh Đức). Tác phẩm văn học nói về cuộc chiến nơi này, giữa những
người du kích cách mạng. Mà đại diện là chị Xứ, người phụ nữ xinh đẹp cùng bà
con nhân dân, lực lượng du kích. Phía “bên kia” là bọn Ngụy quân, Ngụy quyền
tay sai Mỹ. Nổi lên là sự tàn ác của tên Trung úy Xăm, gốc dân tộc Khơ Me. Đã bắt được chị Xứ, tra tấn chị rất
dã man, rồi chặt đầu, uống máu chị Xứ ... Và rồi chính nó đã bị bà Cả Sợi, Mẹ
của nó, bà vô cùng căm gận sự tàn ác của Xăm con trai bà. Bà đã báo du kích đến
tiêu diệt. Chính đứa con trai mà thời nhỏ bà vô cùng yêu quý.
Tôi nhận được bức thư của Hương– “Cô hàng xóm” mà tôi
gặp, quen dịp Tết ở quê. Thật bất ngờ. Có lẽ từ ngày đi bộ đội, ngoài thư từ,
giao lưu với bố mẹ, anh em, họ hàng. Thì đây là lần đầu tiên, tôi nhận được một
bức thư của người con gái không phải trong tình cảm gia đình.
Nội dung bức thư, ngoài việc hỏi thăm tình hình hoạt
động, công tác của tôi. Hương còn có ý trách, là sao từ hôm đi vào Sài Gòn đến
bây giờ mà không có thư về. Làm cho gia đình, mọi người phải lo, phải trông
đợi. Rồi là nói về chiến tranh đã hết. Đất nước đã hòa bình, khuyên tôi nên
chuyển ngành về quê làm việc và lấy vợ v.v... Rồi từ hôm anh đi, ở nhà xóm phố
mình họ cưới nhau nhiều. Mỗi lần đi dự cưới lại nghĩ và nhớ tới tôi. Mong tôi
cũng sẽ được hạnh phúc ở quê v.v...
Ôi ! đúng là cuộc chiến tranh khốc liệt thế này, mà ở nhà, ở quê, nhất là lớp trẻ vẫn không
biết gì ? Lúc chuyện trò ở nhà, tôi cũng
đã nói cho mọi người nghe, kể cả “cô hàng xóm” nghe về cuộc chiến tranh BGTN
đang diễn ra khốc liệt. Mà tôi, chính tôi cùng các đồng đội tôi trong cuộc.
Hàng ngày đều phải trực tiếp ở chiến trận. Hôm nay, mọi người đang vui, đang
sống nhưng có thể một tý nữa, một chốc, một lát nữa, là lại có tin đồng đội này
bị thương, đồng đội kia hy sinh v.v...
Cuộc chiến ngày càng phức tạp. Giờ đây nói về việc ra
quân, phục viên hay giải ngũ của tôi thật xa vời. Chứ đừng nghĩ đến yêu đương,
hay vợ con. Đã 2 lần tôi chia tay người yêu để ra trận. Vậy thì lần này cô hàng
xóm này, có vẻ có ý tứ “xa xăm” đây. Nhưng tốt nhất là không nên “dính” vào yêu
đương, đàn bà con gái mà thêm vướng bận.
Thoáng nghĩ như vậy và tôi viết thư hồi âm cho Hương. Nhớ
lại hồi làm quân quản ở Sài Gòn. Tôi có đọc một quyển truyện gì đó, cũng có nói
về tình cảm của người lính chiến, trăn trở chuyện yêu đương rất hay, có vẻ “văn
học, lãng mạn”. Tôi viết theo giọng văn ấy...
Hương ! Anh nhận được thư Hương nơi biển trời lộng
gió. Mảnh đất tận cùng của Tổ quốc với vẻ đẹp mê hồn, làm cho anh, các anh
những người lính thực thụ chỉ quen súng đạn, cũng phải ngẩn ngơ. Nhưng những
tiếng súng của quân thù, tiếng thét kêu gào của nhân dân nơi đây, vẫn vang vọng
trong anh. Kêu gọi sự trả thù. Làm cho
những cảnh đẹp như thơ, như nhạc này không còn ý nghĩa nữa. Vì tiếng súng, vì
tiếng thét gào kêu cứu đó.
Hương ! Cảm ơn em
đã góp ý, gợi ý cho anh trở về để xây dựng cuộc sống, lứa đôi, gia đình. Nhưng
em ơi ! Hiện tại anh vẫn đang là người trong cuộc. Hàng đêm, vẫn thường thao
thức hay mơ. Mơ thấy súng đạn về cười ngạo nghễ. Nên hôm nay anh ra đi, để cho
ngày mai, không còn những thằng con trai, phải bỏ mình vì chiến tranh. Không
còn những mẹ già, tóc đã điểm sương, đêm đêm khóc con, trong nỗi đau nhung nhớ.
Không còn những người vợ trẻ, đầu quấn khăn tang, chiều, chiều, dắt dìu đứa con
thơ. Vào nghĩa trang có lá vàng rơi rụng. Để cho ngày mai, không còn những
thiếu nữ, phải buồn đau trong thương nhớ, sáng , sáng, mở ra những trang giấy
đẫm nước mắt học trò ...
Hương ! Cảm ơn em.
Anh cảm ơn em nhiều, vì đã viết thư thăm anh. Đây là lần đầu trong đời anh được
nhận và được viết thư cho người bạn gái.
Hiện tại cuộc sống
của anh, của đồng đội anh là như vậy. Đây sẽ là lá thư đầu và là cuối anh gửi
tới em. Với tất cả những chân thành của người lính trận. Anh chúc em sớm có
được niềm vui trong tiệc cưới của mình.
Nhớ em và cảm ơn em
thật nhiều !
Từ đêm ngày 5 và 6/8 các đơn vị được bí mật về vị trí cũ tại Hà Tiên.
Nhưng vẫn trong tư thế giấu quân. Bộ đội đều phải ở trong nhà, trong lán hay
các lùm cây. Không đi lại nhiều, tránh sự quan sát dòm ngó của Pốt. Các loại
pháo binh của Quân khu, Sư đoàn cũng bí mật vào các vị trí trong đêm. Được ngụy
trang kín đáo. Các phần tử bắn đều được chấm tọa độ, phương vị hiệu chỉnh chính
xác sẵn sàng đợi giờ nổ súng.
Vì quãng đường luồn sâu, tiền nhập không xa. Nên 22h đêm
ngày 7/4 Trung đoàn 1 tổ chức cho bộ đội luồn sâu theo rừng tràm, dọc sát mép
sông. Đi theo đường mà công binh và trinh sát đã tháo gỡ mìn.
Trung đoàn 3 cũng bắt đầu dịch đội hình tiến công làm 3
mũi. Lấy trục đường 80 làm tâm. Một mũi cũng luồn sâu sát gần biển theo hướng
ấp Việt Nam sang. Các loại xe tăng, xe bọc thép cũng làm công tác tiền nhập
xung phong cùng trung đoàn 266. Đợi khi pháo bắn thì cơ động ra cửa mở.
Giờ G đang tới dần. Theo thông báo, dự kiến giờ G lùi lại
30 phút tức là 5h 30, thì pháo binh sẽ bắn phá hoại vào các mục tiêu. Đến 5h45
thì chuyển làn vào trong cho bộ binh xung phong. Trước khi xung phong thì có
pháo bắn đạn khói để che mắt bọn Pốt, cho bộ binh tiến công được bí mật
hơn.(việc có pháo khói sau này chúng tôi mới biết, chứ trong hợp đồng tác chiến
không có phổ biến).
Giờ tiền nhập và luồn sâu của các đơn vị đã đến. Lúc này
là 22h đêm. Trời tối hơn so với thường ngày. Mũi của trung đoàn 273 đã dịch
lên, ém sát vào khu vực rừng tràm. Theo dẫn đường của trinh sát. Trong rừng
thưa cảm giác càng tối hơn. Qua vòm lá, trời vẫn nhiều sao, những vì sao nhấp
nháy như đang theo dõi, như chỉ hướng cho ae bộ đội hành quân. Gió biển hiền
hòa, mang theo hơi nước làm anh em khoan khoái, dễ chịu hơn.
Trinh sát dẫn anh em tiến sát theo mép nước rừng chàm.
Bắt đầu quặt sang trái vào đất K. Tiểu đoàn 3 vẫn là đội hình đi đầu. Sau lực
lượng trinh sát. Đại đội hỏa lực của Tiểu đoàn súng 12ly7 và DKZ đã được phân
đi tăng cường theo đơn vị, cùng luồn sâu với đội hình đại đội BB.
Còn lại BCH đại đội và 2 khẩu cối 82. Hành quân sau Tiểu
đoàn bộ. Vừa qua ranh giới khoảng hơn 100m. Oành... ! Một tiếng nổ thật lớn,
vang vọng trong trời đêm. Chớp sáng chói lòa rồi phụt tắt. Mọi người nằm rạp
xuống . Có tiếng kêu: “Bị mìn rồi”. Vài tiếng kêu của anh em bị thương. Bụp !
bụp ! bụp ! Có 3 phát pháo hiệu đỏ bay
lên hướng núi Thị Vạng.
Một lúc sau đã thấy vận tải của d3. Cáng số thương binh
và tử sỹ về phía sau. 6 cáng + với 2 ae
được dìu. Như vậy vừa sang đất K số anh em khênh cối của d3 không bám sát được
nhau. Đi lạc ra ngoài, hay do mìn còn sót lại ? Mà làm cả khẩu đội cối 82 và
mấy anh em ở gần bị thương. Không biết
là loại mìn gì, mà sát thương khủng khiếp thế. Thật không may mắn chút nào.
Linh cảm thấy trận chiến sẽ gay go ác liệt. Qua sự việc càng cảm giác gay go ác
liệt tăng lên.
Giải quyết xong được số thương binh tử sỹ. Đội hình lại
tiếp tục luồn sâu, hành tiến. Mò mẫm trong đêm. Nhưng trong mỗi người, mỗi bước
đi, phải dè dặt hơn. Anh em căng mắt ra mà nhìn, mà bước theo dấu chân người đi
trước. Nên tốc độ di chuyển không được nhanh và bạo dạn như trước nữa.
Lớp khói thật dày, phải sau 10 phút thì khói với dần tràn
qua. Anh em phía trên chưa kịp định thần, nhìn phương hướng mục tiêu, thì ầm- ầm- ầm. Các loại súng của Pốt phát hỏa,
bắn vào đội hình bộ đội. Các ổ 12,7, đại tiên, bắn găm rào rào vào đội hình
xung phong. Lác đác ae trúng đạn ngã xuống. ĐKZ và B40- b41 chúng cũng bắn tới tấp, nổ dồn dập. Rồi cả pháo,
từ xa cối 82, cối 60 của chúng cũng đã bắn cấp tập vào đội hình.
Trận chiến thật nguy kịch. Những vị trí bãi bằng trống
trải này, rừng chàm này, là những mục tiêu không thay đổi. Nên có thể nói là:
nếu chốt ở đây lâu, thì nhắm mắt chúng cũng có thể bắn trúng vào khu vực cần
bắn. Và lúc này, khu vực này, đâu đâu cũng có bộ đội mình. Khói bụi mù mịt, bao
trùm đội hình tấn công. Sau các tiếng nổ là ầm, là mảnh đạn, cùng đất đá, cát
bụi bay rào rào.
Đúng là mưa của các loại đạn. Pháo của ta bắn phá hoại
nhiều như thế, mà sao hỏa lực chúng vẫn còn rất mạnh, rất nhiều. Như là lực
lượng còn nguyên. Quan sát kỹ mới thấy phía trên cao, không có hỏa lực bắn ra.
Mà như vậy bọn này tránh đòn pháo, là bỏ công sự phòng ngự tuyến 2 và tuyến 3.
Xuống hẳn phía dưới với những công sự sẵn có đợi bb ta đến. Nên pháo binh của
ta bắn phá hoại nhiều, trúng các mục tiêu, công sự nhưng ko có Pot ở đó. Bọn
chúng như là đã có kịch bản sẵn. Giờ đây chúng đang thực hiện theo kịch bản đó,
1 cách thuần thục và hiệu quả. Gây cho ta những khó khăn và tổn thất lớn.
Thông tin trận đánh, khó khăn hướng các Tiểu đoàn của
Trung đoàn 273, được báo về BCH liên
quân. Nhưng ngay ở đài chỉ huy, trên hang Thạch Động cũng đã phát hiện ra điều
này. Nhìn ae ta đang hứng chịu “mưa đạn” của Pot mà ai nấy lòng như lửa đốt. Mà
không phải chỉ có hướng Trung đoàn 273. Hướng Trung đoàn 266 cũng gặp khó khăn.
Đội hình bb + TTG phải khựng lại khi 2 xe đã bị trúng đạn, trong khi đó, các
loại đạn chống tăng vẫn xoẹt, xoẹt rồi nổ ầm ầm chung quanh các xe. Làm cho hỏa
lực của xe cũng ko phát huy được sức mạnh.
Chỉ huy lệnh cho bộ đội nằm tránh đạn, tranh thủ đào hầm
ẩn nấp. Pháo binh lại chính tầm, bắn vào vào các mục tiêu đã bị lộ của Pót.
Phản pháo vào các trận địa pháo phía trong sâu. Đạn pháo của ta đã nổ rầm, rầm
dưới chân núi. Súng của Pót im bặt. Bọn này chắc chuí hết vào hầm tránh đạn
pháo.
Máy bay L19 của ta bay vè vè trinh sát trên đầu. Lác đác
thấy pháo cao xạ của Pốt bắn đuổi máy bay, Những tiếng nổ lục bục, tạo thành
những đốm mây trắng nhỏ trên trời.
Hướng Trung đoàn 273 được điều động 8 xe TTG. Kết hợp tấn
công cùng bb. Pháo binh cấp tập khoảng 20 phút vào trong sâu đất Pốt. Cũng
không thấy pháo Pot bắn nữa. Nhưng cối 82 của Pốt, và DKZ bắn cầu vồng từ bên
kia núi vẫn cấp tập đều nổ rầm rầm vào đội hình bb ta. Bọn này hiểm độc. Chúng
đặt trận địa cối và dkz sau núi, quả là lợi hại. Chúng tạo được góc chết. Nên
pháo của mình gần như không có tác dụng.
Trận địa cối 120ly của Trung đoàn, cũng bắn phản vào phía
sau núi, tìm diệt trận địa cối của Pốt. Nhưng hiệu quả cũng ko cao.
Theo hợp đồng, là có máy bay tham chiến hỗ trợ bb. Mà cho
đến giờ này ko hiểu sao chỉ thấy máy bay trinh sát. Còn chưa thấy máy bay chiến
đấu vào trận. (Cho đến bây giờ, ae ccb, cũng vẫn thắc mắc. Việc máy bay ko tham
chiến này. Mà cũng vẫn ko được nghe lời giải thích thấu đáo từ cấp trên ).
Lúc này đã gần 8h sáng. TTG cũng đã cơ động đến khu vực
tấn công của Tiểu đoàn. Đ/c Trụ, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 1 cùng với một liên
lạc cùng đ/c trợ lý tác chiến Tiểu đoàn, rời vị trí của Tiểu đoàn lên đốc chiến
cùng đại đội 3.
Trong lúc địch đã dừng bắn, tránh đạn pháo. Các lực lượng
cứu thương, đã nhanh chóng chuyển anh em thương binh, tử sỹ về phía sau. Nhưng
mới chưa đến 8h mà số thương vong quá
nhiều. Vận tải ưu tiên đưa số anh em bị thương ra trước. Số ae bị thương nhẹ thì
được băng bó. Số ae còn đi được thì tự lui về hay 1 đ/c vận tải dìu 2 - 3 đ/c
về phẫu.
Lệnh xung phong. Tiếng thét xung trận lại vang trời. Các
loại hỏa lực của TTG cùng hỏa lực của bb đồng loạt phụt đạn vào các mục tiêu.
Anh em bb ào ào xông lên thật dũng mãnh. Mũi đại đội 3, là mũi đột kích của của
Tiểu đoàn 1. Đ/c Trụ lại vẫn như là người đại đội trưởng đương nhiệm, hò hét,
đôn đốc ae tiến công. Đội hình tiến công được khoảng hơn trăm m. Thì bon Pot
lại phản ứng điên cuồng. Đang lao lên, đ/c Trụ khựng lại rồi ngã về phía trước.
Khẩu K54 tuột khỏi tay. 1 viên đạn thẳng của Pot đã xuyên từ phía ngực trái ra
sau lưng. Đ/c yta chạy lại, vội băng vết thương. Nhưng viên đạn thù trúng chỗ
hiểm. Tiểu đoàn phó Trụ, người chỉ huy dũng cảm, đã anh dũng hy sinh.
Tiểu đoàn 3 cũng báo về sở chỉ huy đ/c Tô quang Phụng
Tiểu đoàn phó bị thương nặng. Bọn Pót vẫn điên cuồng chống trả, xả đạn vào đội
hình tiến công của ta. 1 xe tăng, 1 xe M113 trúng đạn. Đội hình tiến công của
ta lại khựng lại.
Đúng 4h45’ ngày 12/4 tất cả các trận địa pháo của Sư
đoàn, của QK9 lại dồn dập trút đạn xuống các trận địa của Pot . Đã rút kinh
nghiệm trận đánh trước. Nên lần này pháo binh, chỉnh điểm bắn “trần” từ dưới
chân núi của các cao điểm lên trên. Trong lúc pháo chuyển làn , thì bộ binh cùng
TTG dũng mãnh lao lên, tiến công địch.
Mỗi Trung đoàn, sử dụng 2 Tiểu đoàn làm 2 mũi đột kích.
Còn một Tiểu đoàn, làm lực lượng dự bị. Trung đoàn 273 sử dụng Tiểu đoàn 1-3 là
2 mũi tiến công. Tiểu đoàn 2 làm Tiểu đoàn dự bị.
Trước sự tiến công dũng mãnh của bộ đội. Mũi của tiểu
đoàn 3, đến 6h30 đã chiếm được tuyến phòng thủ số 1 của Pốt. Đại đội 3 tiểu
đoàn 1 dưới sự chỉ huy của đ/c Nguyễn Văn Phô, là mũi nhọn dũng mạnh tiến công.
Cũng đã nhanh chóng chiếm được tuyến phòng thủ ngoài. Mọi người nhanh chóng
củng cố hầm hào, chốt lại luôn vị trí. Làm bàn đạp cho các Đại đội đánh phát
triển mở rộng.
Rút kinh nghiệm trận trước. Trận này, TTG chỉ tấn công
theo bộ binh 1 đoạn. Rồi dừng lại, dùng hỏa lực chỉnh bắn các mục tiêu, các ổ
đề kháng của Pốt . Hỗ trợ cho bộ binh rất hiệu quả. Như vậy, TTG cũng tránh né
được vũ khí chống tăng b40, b41của Pốt. Với cách đánh này, TTG phát huy được
hỏa lực mạnh của mình.
Đến 8h sáng, các mục tiêu của kế hoạch được hoàn thành.
Xác địch chết nằm ngổn ngang, dọc các bờ công sự chiến đấu, trên các thông hào
lên tuyến phòng thủ trên cao.
Bàng hoàng trước sự tấn công của ta. Bọn Pốt từ tuyến một
rút lên tuyến phòng thủ 2, bắt đầu chống trả quyết liệt. Các loại pháo của
chúng ờ phía sau, bắt đầu đã “mở mồm”, chi viện hỗ trợ cho bọn chốt phía trước.
Chúng cũng sử dụng các điểm đặt pháo khác nhau, nhưng cũng bắn tập trung vào
các mục tiêu, và trận địa ta vừa chiếm được. Nhưng điểm nổ vượt tầm vào khu vực
bãi trống cũng nhiều. Nghe đạn nổ đầu nòng ở các phía, thấy thằng này cũng giỏi
phân tán hỏa khí. Theo cách dùng binh rất bài bản là: “hỏa khí phân tán- hỏa
lực tập trung”. Anh em lợi dụng được hầm hào của bọn Pốt. Nhưng điều phải đào
đắp, chỉnh sửa để quay lại hướng xạ kích.
Một số anh em bị thương, hay hy sinh khi xung phong. Được
nhanh chóng chuyển về phía sau. Một số anh em mới bị thương do pháo cối, thì
được tạm thời băng bó sơ cứu tại chỗ. Chưa đưa về sau ngay được , vì bọn Pốt
đang “mưa đạn” khắp các nơi. Chúng đang nghĩ là có bộ đội mình ở khu vực bãi
trống và rừng tràm như lần trước. Làm cản trở đường chuyển thương của anh em về
phẫu.
9h30 lệnh tiến công đánh chiếm tuyến phòng thủ 2 của Pốt.
Từ những vị trí của tuyến phòng thủ 1. Các chiến sỹ lại bật lên khỏi công sự
tiến công . Tiến hô xung phong vang trời. Nhưng địa hình hiểm trở, độ dốc cao,
không phù hợp với tiến công ồ ạt. Bọn Pốt ở trên cao, chúng có địa thế, vị trí
phòng thủ vô cùng thuận lợi, điên cuồng chống trả. Xả đạn vào đội hình tiến
công của ta. Bọn pháo cối phía sau, cũng đã hiệu chỉnh tầm bắn. Nên chúng đã
chặn được đợt tiến công của các đơn vị. Các mũi tiến công khựng lại. Anh em lợi
dụng thông hào và hầm hố ẩn lấp tránh đạn rồi rút về tuyến phòng thủ 1 của Pốt.
Pháo binh của Sư đoàn, tìm bắn “phản pháo” vào các trận
địa pháo cối của Pốt, ở phía sau. Trong lúc các trận địa pháo của chúng bị
khống chế. Các đơn vị nhanh chóng đưa anh em thương binh tử sỹ về sau. Và tổ
chức rút dần lực lượng về chốt tại biên giới.
Đúng 15 h pháo binh, cả pháo cao xạ 37ly 2 nòng, đồng
loạt bắn phá vào các tuyến phòng thủ 2- 3 của Pốt. Gìm đầu chúng xuống, để cho
các mũi tiến công ta nhanh chóng rời khỏi trận địa. Kết thúc trận tiến công
chớp nhoáng , gây cho Pốt nhiều tổn thất và bất ngờ. Bất ngờ khi bị tiến công.
Bất ngờ khi bộ đội ta rời khỏi trận địa. Trận đánh này, trận thắng này của ta
làm cho bọn Pot vô cùng cay cú. Chúng dùng pháo, cối và cả DKZ bắn “cầu vồng”
sang Hà Tiên liên tục. Chúng ta cũng dùng phảo, cối đáp trả rất áp đảo, làm cho
bọn Pot càng cay cú hơn .
Mấy ngày tiếp theo, ngoài lực lượng chốt. Đại quân của Sư
đoàn rút sang bên kia sông. Sẵn sàng nhận nhiệm vụ mới.
Trong mấy ngày tiếp theo, chiến sự 2 bên vẫn ở thế đấu
pháo cối qua lại. Trong một lần "đấu cối" 82 ly với K. Khẩu đội cối
của Tiểu đoàn 3 bị trường hợp không phóng được đạn. Anh em làm các động tác xử
lý đạn ko phóng . Vẫn ko có hiệu quả. Trung đội trưởng, chuẩn úy Bùi Minh
Giảng, sốt ruột, ghé mắt vào nòng súng nhìn quả đạn. Đúng lúc đó thì oàng
...quả đạn phóng lên. Khuôn mặt đ/c Giảng không còn nguyên vẹn. Trái đạn đã
mang theo máu và thịt da anh bay lên trời cao rồi nổ nơi trận địa quân thù. Đ/c
Giảng đã hy sinh trong tiếc thương. Anh ngã xuống trong vòng tay của đồng đội.
Lúc này, tuyến Biên giới Tây Nam, khu vực Tây Ninh lại vô
cùng ác liệt. Bọn Pốt đã đưa nhiều Sư đoàn dự bị, ra áp sát Biên giới Tây Ninh.
Khu vực đường 1 huyện Bến Cầu, đến đường 24 từ bến Sỏi sang. Các Sư đoàn 7- 9
cùng các đơn vị của tỉnh đội Tây Ninh chống đỡ rất khó khăn. Chúng vẫn với suy
nghĩ ngông cuồng là sẽ chiếm 2 huyện Bến Cầu, Châu Thành. Làm bàn đạp tấn công
thị xã Tây Ninh.
Sư đoàn được lệnh lật cánh, quay lại Biên giới Tây Nam
hướng Tây Ninh. Trung đoàn 266 ở lại bảo vệ Hà Tiên, thay cho trung đoàn 270.
Đúng ngày 17/4 Trung đoàn 273 - 270 cùng các Tiểu đoàn trực thuộc lên xe cơ
động về Tây Ninh.
Hà Tiên mảnh đất, địa danh đẹp tuyệt vời. Núi non, sông
nước, biển xanh, hòa quyện cùng đất trời bao la tạo lên vẻ đẹp mê hồn đắm say
lòng người. Ngồi trên xe, qua những vùng đất, những nghĩa trang liệt sỹ. Những
nấm mồ đất mới cỏ xanh chưa nhú.
Trong tôi như vang lên câu hát: "Hà Tiên mến yêu đẹp
như xứ thơ- xa cách tôi còn nhớ … " Vâng chúng tôi nhớ, rất nhớ vẻ đẹp mê
hồn của Hà Tiên. Nhớ hang Thạch Động, nhớ bãi biển Mũi Nai. Nhớ lăng Mạc Cửu.
Nhớ những trận đánh hào hùng và bi tráng. Nhớ, rất nhớ tội ác của bọn diệt
chủng Pôn Pốt Ieengxaarri, đã tàn sát dân lành ở ấp Việt Nam. Và nhớ, nhớ các
anh em , đồng đội tôi nằm đây. 260 nấm
mồ cỏ non chưa nhú. Các anh sinh ra và lớn lên ở khắp miền đất nước. Đã về đây
diệt quân thù. Đã anh dũng hy sinh tuổi trẻ để bảo vệ non sông đất nước. Nơi
cực Tây của tổ quốc. Các anh nằm đây, trong vòng tay của đất Mẹ kính yêu. Có
trời cao trong xanh. Có sóng biển , ngày đêm vỗ về ôm ấp như lời ru của Mẹ. Ru
những đứa con hiếu thảo, anh hùng liệt sỹ của Tổ quốc vào giấc ngủ ngàn thu .
Các anh yên nghỉ. Xin gởi
tới các anh bông hoa tươi thắm. Nén hương trầm, để tưởng nhớ và chia xa các
anh. Chúng tôi lại đi, lại đi tiếp chặng đường binh nghiệp đang còn dang dở. Đi
đến nhưng nơi còn bóng quân thù.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét