KHÔNG QUÂN VIỆT NAM
TRÊN CHIẾN TRƯỜNG CAMPUCHIA
Trích từ LS dẫn đường KQ:
Cuối tháng 5 năm 1975, lợi dụng tình hình chưa hoàn toàn ổn định ở một
số vùng mới giải phóng của ta, bọn phản động Khơ-me đỏ đã cho quân xâm lấn một
số điểm ở Hà Tiên, Tịnh Biên, Châu đốc... trên biên giới Tây Nam và cố tình chiếm
giữ trái phép một số đảo như Hòn Ông, Hòn Bà (đảo Vay ở tây-tây nam Phú Quốc
120 km)... trên vùng biển Tây Nam. Bộ Tổng Tham mưu quyết định sử dụng một phần
lực lượng của Quân khu 9, Vùng 5 Quân chủng Hải quân và một phần lực lượng
không quân ở phía nam của Quân chủng Phòng không-Không quân, mở chiến dịch tiến
công địch, bảo vệ đường biên giới quốc gia và thu hồi đảo. Tư lệnh Không quân
chiến đấu Trần Hanh được cử làm Phó Tư lệnh chiến dịch, trực tiếp chỉ huy lực
lượng không quân, trợ lý dẫn đường Hoàng Cần được phân công giúp Bộ Chỉ huy chiến
dịch thực hiện công tác dẫn đường không quân. Lực lượng không quân tham gia chiến
dịch chủ yếu là của Trung đoàn không quân 937, bao gồm 21 chiếc máy bay và trực
thăng các loại (10 A-37, 5 UH-1, 1 L-19, 1 U-17, 2 CH-47 và 2 DC-3), tương
đương gần một trung đoàn không quân hỗn hợp. Sân bay Cần Thơ được tổ chức thành
căn cứ xuất phát của không quân ta. Trung đoàn không quân 917 sẵn sang tham gia
chiến đấu khi có lệnh.
Từ ngày 30 tháng 5 đến 4 tháng 6 năm 1975, Trung đoàn 937 lần lượt cho
xuất kích 21 lần chiếc các loại, lấy A-37 làm lực lượng chủ công trong chi viện
hỏa lực cho các đơn vị bộ binh Quân khu 9 và Quân đoàn 4 phòng ngự, phản kích
đánh địch lấn chiếm biên giới ở Hà Tiên và Tịnh Biên, Châu đốc. Tiểu ban Dẫn đường
luôn bám sát ý định sử dụng lực lượng của Trung đoàn trưởng Nguyễn Văn Bảy, thực
hiện hiệp đồng chặt chẽ với phi công và các cơ quan, bảo đảm cho A-37 đánh
trúng mục tiêu, tạo thuận lợi cho các đơn vị bộ binh đẩy lùi quân địch về phía
bên kia biên giới. Trung đoàn ra quân trận đầu, đợt đầu thành công đã cổ vũ mạnh
mẽ tinh thần vươn lên cho toàn thể đơn vị quyết tâm xây dựng truyền thống vẻ
vang đánh thắng ngay từ trận đầu. Tiểu ban Dẫn đường Trung đoàn 937 tự hào vì
đã được đóng góp công sức của mình cho trung đoàn lần đầu tiên thực hiện thành
công cách đánh chi viện hỏa lực cho các đơn vị bộ binh của ta phòng ngự, phản
kích đánh địch.
Tại hai đảo Hòn Ông và Hòn Bà, quân Khơ-me đỏ lợi dụng địa hình hiểm
trở, rừng già và các bãi đá, đã cho hai tiểu đoàn tổ chức phòng thủ nhiều lớp với
công sự vững chắc và hỏa lực mạnh quyết không rời đảo. Chúng còn cho các tàu tuần
tiễu vũ trang thường xuyên hoạt động ở ngoài khơi xung quanh 2 hòn đảo trên.
Căn cứ vào ý định tổ chức đánh địch của Trung đoàn trưởng, tiểu ban Dẫn
đường đã nhanh chóng xây dựng ngay phương án dẫn đường. Trong đó, tập trung làm
nổi bật cách dẫn chi viện hỏa lực cho bộ đội ta tiến công tiêu diệt địch thu hồi
đảo; lấy đường bay của A-37 làm trục dẫn chính: Cần Thơ-Phú Quốc-Cô Tang-mục
tiêu (đảo Hòn Ông và Hòn Bà) - Phú Quốc-Cần Thơ với tổng cự ly bay là 660km; trọng
tâm bảo đảm dẫn đường là: Các đoạn bay trên biển từ núi Hòn Đất ra Phú Quốc, Cô
Tang, đến mục tiêu, rồi quay về Phú Quốc, Hòn Đất vì cự ly bay trên biển là
460km, chiếm tới 70% tổng cự ly đường bay; tất cả các phi công và tổ bay phải tự
dẫn bay là chính, khi bay trên biển phải giữ nghiêm các số liệu dẫn đường và
tăng cường quan sát, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau. Công tác hiệp đồng dẫn đường được
thực hiện rất chặt chẽ và tỉ mỉ, đặc biệt là giữa trên không và trên không vì
khu chiến cách rất xa căn cứ Cần Thơ và lực lượng UH-1, U-17 và CH-47 còn phải
cơ động chuyển sân ra các sân bay trên đảo Phú Quốc và xuống sân bay Kiên Lương
(sân bay Hòn Chông, đông nam Hà Tiên 20km).
20 giờ 30 phút ngày 4 tháng 6 năm 1975, tàu hải quân của ta đưa các
đơn vị đổ bộ lên đảo. Chiến sự diễn ra rất ác liệt tới 5 giờ sáng ngày hôm sau,
quân ta mới chỉ chiếm được một phần của đảo Hòn ông và một phần ba đảo Hòn Bà.
Trung đoàn 937 cho UH-1 vũ trang có U-17 chỉ thị mục tiêu, đánh trúng sở chỉ
huy và các ổ đề kháng của địch trên đảo Hòn Ông, một số khu nhà ở và bến cảng của
đảo Hòn Bà. Đến hết ngày 9 tháng 6 năm 1975, bộ đội ta đã chiếm được một phần
tư đảo Hòn Ông và hai phần ba đảo Hòn Bà.
Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định sử dụng A-37 chi viện hỏa lực cho các
đơn vị đổ bộ đường biển của ta. 10 giờ 10 phút ngày 10 tháng 6 năm 1975, đôi
bay A-37 đầu tiên cất cánh. Các phi công Nguyễn Văn Lục và Hán Văn Quảng dẫn
bay chính xác theo đường bay đã được chuẩn bị và được U-17 hỗ trợ, nên nhanh
chóng phát hiện mục tiêu. A-37 của ta triển khai đội hình chiến đấu và tiến
hành ném bom, bắn súng trúng khu tập kết các phương tiện chiến đấu quan trọng của
địch trên đảo Hòn Ông. Tính đến 15 giờ cùng ngày, ta đã xuất kích 20 lần/chiếc
A-37 và 8 lần/chiếc UH-1 đánh trúng các mục tiêu trên đảo được giao, đồng thời
còn đánh chìm 3 tàu địch, tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng đổ bộ đường biển
thu hồi hoàn toàn đảo Hòn Bà. Ngay sau đó, CH-47 đã cẩu 2 khẩu pháo 105 mm và vận
chuyển 3.000 viên đạn xuống Hòn Bà.
Ngày 13 tháng 6 năm 1975, 9 lần/chiếc A-37 tiến hành đánh dồn dập vào
tuyến phòng thủ kiên cố của địch trên Hòn Ông. Các đơn vị hải quân, đặc công và
bộ binh tiến công áp đảo, đập tan các ổ đề kháng cuối cùng của chúng. 6 giờ 30
phút sáng 14 tháng 6 năm 1975, quân ta làm chủ toàn bộ cả hai đảo Hòn Ông và
Hòn Bà, diệt gọn 2 tiểu đoàn, đánh chìm 4 tàu, bắn bị thương 2 chiếc khác, thu
toàn bộ vũ khí và phương tiện chiến đấu của địch ở trên đảo.
Trong chiến dịch này, Trung đoàn 937 đã thực hiện: 46 lần/chiếc A-37,
30 lần/chiếc UH-1, 16 lần/chiếc U-17, L-19 và 3 lần/chiếc CH-47, tương đương gần
5 lần xuất kích trung đoàn (95 lần/21chiếc). Tất cả các chuyến bay đều được dẫn
bay chính xác và an toàn, hoàn thành nhiệm vụ chi viện hỏa lực, vận chuyển súng
đạn, chở cán bộ và đón thương binh cho các đơn vị hải quân, đặc công, bộ binh
chiến đấu đạt hiệu suất cao, thu hồi toàn vẹn 2 đảo Hòn Ông và Hòn Bà.
Do quán triệt tốt ý định tổ chức đánh địch của người chỉ huy, nắm chắc
trình độ dẫn bay cường kích, chỉ thị mục tiêu từ trên không và vận chuyển đường
không của các phi công và tổ bay, chuẩn bị dẫn đường chu đáo cho từng chuyến
bay, hiệp đồng dẫn đường chặt chẽ giữa trên không và mặt đất, giữa trên không
và trên không, nên tiểu ban Dẫn đường Trung đoàn 937 đã hoàn thiện một bước rất
quan trọng trong cách dẫn chi viện hỏa lực cho các đơn vị bộ đội của ta tiến
công tiêu diệt địch thu hồi đảo.
Ngày 21 tháng 5 năm 1975, Bộ Quốc phòng ký quyết định thành lập 4
trung đoàn không quân 917, 918, 935 và 937, sử dụng các loại máy bay và trực
thăng hệ 2 làm nhiệm vụ bảo vệ vùng trời phía Nam của Tổ quốc. Trung đoàn 917
trực thuộc Lữ đoàn không quân 919, đóng quân tại sân bay Tân Sơn Nhất và được
trang bị hơn 100 chiếc trực thăng và máy bay các loại UH-1, CH-47, U-17 và
L-19: trong đó có 57 chiếc tốt đưa vào huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu. Với
trang bị trực thăng hệ 2 là chủ yếu, nên Trung đoàn 917 trở thành trung đoàn
không quân trực thăng đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam. Đại úy Lê Đình
Ký được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng, đại úy Trần Tấn Sơn, Chính ủy và thượng
úy Nguyễn Huy Tứ, Tham mưu trưởng trung đoàn. Đồng chí Nguyễn Viết Quyền giữ chức
Chủ nhiệm Dẫn đường trung đoàn. Trong Đại đội bay 1 (sử dụng UH-1) và Đại đội
bay 2 (sử dụng cả CH-47 và UH-1) đều có Chủ nhiệm Dẫn đường của từng loại trực
thăng.
Ngay sau khi được thành lập, một số tổ bay trực thăng Mi-4, Mi-6 thuộc
Lữ đoàn 919, được biên chế về đơn vì đã nhanh chóng làm chủ kỹ thuật lái-dẫn đường
UH-1 và CH-47. Các phi công Nguyễn Xuân Trường, Nguyễn Đình Khoa trở thành giáo
viên bay UH-1 đầu tiên. Một số phi công Mi-8 vừa tốt nghiệp ở Liên Xô về, đã
bay chuyển loại thành công trên CH-47 như các đồng chí Trần Đăng Nguyên, Nguyễn
Thanh Mua và trên UH-1 như Nguyễn Lương Bằng, Đinh Gia Dục, Nguyễn Duy Núi. Các
bài bay cơ bản luôn được coi trọng, các khoa mục bay ứng dụng chiến đấu thường
xuyên đạt chất lượng cao là cơ sở để trung đoàn vững bước vào tham gia chiến đấu.
Có trực thăng vũ trang và vận trịi trong tay, cách đánh trực tiếp tiêu
diệt địch, chi viện hỏa lực cho bộ đội ta, cách đổ bộ đường không chiến thuật
và cả cách trinh sát chỉ thị mục tiêu từ trên không luôn được Trung đoàn 917 rất
quan tâm và tổ chức nghiên cứu thấu đáo. Các phương án dẫn bay cho các bài bay
từ cơ bản đến ứng đụng chiến đấu và cho các phương pháp hoạt động chiến đấu đều
được Chủ nhiệm Dẫn đường trung đoàn cùng với Chủ nhiệm Dẫn đường UH-1, CH-47 và
các phi công U-17, L-19 tính toán kỹ càng và chuẩn bị chu đáo. Sau tháng 8 năm
1976, trung đoàn tiếp nhận toàn bộ UH-1, U-17... của Trung đoàn 937, đội ngũ dẫn
đường trên không càng có điều kiện góp sức hoàn thành tốt các nhiệm vụ bay của
trung đoàn.
Trung đoàn 918 cũng trực thuộc Lữ đoàn 919 và đóng quân tại sân bay
Tân Sơn Nhất, nhưng được trang bị cho các loại máy bay vận trịi C-130, C-119,
C-47, C-7A, DC-4... Chỉ riêng tại khu vực Tân Sơn Nhất trung đoàn đã thu hồi được
76 chiếc các loại, số lượng được đưa vào khai thác khá lớn. Thiếu tá Hoàng Ngọc
Trung được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng, thiếu tá Lê Văn Lạo, Chính ủy và đại
úy Phan Phi Phụng, Tham mưu trưởng trung đoàn. Đồng chí Nguyễn Văn Kính giữ chức
Chủ nhiệm Dẫn đường trung đoàn. Trong Đội bay 1 (sử dụng C-119 và C-7A) và Đội
bay 2 (sử dụng C-130, C-47 và DC-4) đều có Chủ nhiệm Dẫn đường.
Một trong những khó khăn lớn nhất trong công tác huấn luyện chuyển loại
đã được trung đoàn tháo gỡ thành công, đó là đánh giá chính xác và sử dụng đúng
các nhân viên bay tạm tuyển (đã phục vụ cho không quân địch trước đây) để làm
giáo viên chuyển loại cho đội ngũ lái chính, lái phụ, dẫn đường trên không và
cơ giới của ta. Chủ nhiệm Dẫn đường trung đoàn cùng đội ngũ dẫn đường trên
không đã phát huy truyền thống một người dẫn bay thành thạo trên nhiều loại máy
bay khác nhau, nhanh chóng làm chủ công tác dẫn bay trên các loại máy bay hệ 2,
kịp thời phục vụ dẫn bay vận chuyển đường dài ra Bắc, vào Nam, cũng như chuyên
chở bộ đội, vận chuyển súng đạn thuốc men, đưa đón thương binh... theo yêu cầu
của các nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên giới, thu hồi đảo, truy quét địch...
Trung đoàn 935 trực thuộc Bộ Tư lệnh Không quân chiến đấu, lấy một phần
lực lượng của Trung đoàn 927 làm nòng cốt, đóng quân tại sân bay Biên Hòa và được
trang bị cả MiG-21 và F-5 (chức năng chủ yếu là tiêm kích). Sau khi tổ chức kiểm
tra kỹ thuật rất chặt chẽ, 17 chiếc F-5 đã được đưa vào khai thác, gồm: 10
F-5A, 5 F-5E (một chỗ ngồi) và 2 F-5B (hai chỗ ngồi). Thiếu tá Nguyễn Nhật
Chiêu được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng, đại úy Nguyễn Trọng, Chính ủy và đại
úy Vũ Đức Bình Tham mưu trưởng trung đoàn.
Tiểu ban Dẫn đường Trung đoàn 935 do thiếu úy Nguyễn Hữu Văn giữ chức
Trưởng Tiểu ban Dẫn đường, có 5 trợ lý là các đồng chí Lê Quốc Báo, Nguyễn Việt
Cường, Hoàng Ngọc Hớn, Nguyễn Văn Sửu và Phạm Tường Thuật. Tất cả đều từ hai tiểu
ban Dẫn đường Trung đoàn 927 và 923 vào. Tiểu ban vừa phải bảo đảm dẫn đường
cho MiG-21 hoạt động trên địa bàn mới vừa phải học tập chuyển loại dẫn F-5. Khi
số phi công MiG-21 vào bay chuyển loại F- 5 đợt đầu đạt kết quả cao cũng là lúc
tiểu ban nắm vững được cách dẫn F-5 trong các bài bay ứng dụng chiến đấu. Đến
giữa năm 1976, khi MiG-21 được chuyển hết ra Bắc và trung đoàn có tới 22 chiếc
F-5, gồm: 7 F-5A, 11 F-5E, 2 F-5B và 2 RF-5, tiểu ban Dẫn đường Trung đoàn
không quân 935 mới có điều kiện tập trung nghiên cứu sâu thêm cách tổ chức bảo
đảm dẫn đường cho F-5. Trong năm 1976, trung đoàn còn được trang bị thêm máy
bay cường kích cánh quạt AD-6, tiểu ban đã nhanh chóng tham gia học tập chuyển
loại.
Trung đoàn 937 trực thuộc Bộ Tư lệnh Không quân chiến đấu, lấy Phi đội
Quyết thắng làm nòng cốt, được trang bị hơn 200 chiếc máy bay và trực thăng các
loại của sư đoàn 4 không quân ngụy trước đây. Trong đó, có khoảng 60 máy bay cường
kích A-37 và 140 trực thăng vận tải, vũ trang UH-1, CH-47, máy bay trinh sát
U-17, L-19. Sân bay Bình Thuỷ (Cần Thơ) là căn cứ đóng quân chính và trung đoàn
còn quản lý các sân bay Lộ Tẻ (gần Cần Thơ), Phú Quốc và Côn Sơn. Thiếu tá Nguyễn
Văn Bảy được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng, đại úy Lê Tùng, Chính ủy và thượng
úy Phạm Từ Tịnh, Tham mưu trưởng trung đoàn.
Chuyển loại, khai thác các trang bị hệ 2 là một trong những nhiệm vụ rất
cấp bách và quan trọng hàng đầu của đơn vị. Được sử dụng máy bay cường kích
A-37, Trung đoàn 937 trở thành trung đoàn không quân cường kích đầu tiên của
Không quân nhân dân Việt Nam, đồng thời còn là trung đoàn không quân đầu tiên
áp dụng cách đánh chi viện hỏa lực cho bộ đội ta trong phòng ngự, phản công và
tiến công địch.
Tiểu ban Dẫn đường Trung đoàn 937 do thiếu úy Nguyễn Đình Bắc giữ chức
Trưởng Tiểu ban, có 4 trợ lý là Vũ Ba, Võ Xuân Cự, Vũ Chí Khai và Đỗ Văn Tường.
Tất cả đều được điều động từ hai tiểu ban Dẫn đường các trung đoàn 923 và 925 về.
Ngay trong thời gian đầu, tiểu ban đã phải bảo đảm dẫn đường cho rất nhiều loại
máy bay và trực thăng cùng hoạt động như: A-37, UH-1, U-17, L-19 và CH-47. Sau
tháng 8 năm 1976, Quân chủng điều toàn bộ UH-1, U-17... về Trung đoàn 917. Từ
đó, tiểu ban chỉ tập trung bảo đảm dẫn đường cho một loại máy bay là A-37.
Ngày 30 tháng 10 năm 1975, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập cùng một
lúc hai Sư đoàn Không quân 370 và 372 (Quyết định số 157/QĐ-QP, ngày 30 tháng
10 năm 1975 do Thượng tướng Hoàng Văn Thái, Thứ trưởng Quốc phòng ký).
...
Sư đoàn 372 đóng quân tại Biên Hòa, làm nhiệm vụ bảo vệ vùng trời miền
Nam, gồm bốn trung đoàn không quân 917, 918, 935 và 937. Trung tá Nguyễn Hồng
Nhị được bổ nhiệm làm Tư lệnh sư đoàn, trung tá Chu Mạo, Chính ủy và trung tá
Hà Văn Chấp, Phó Tư lệnh - tham mưu trưởng sư đoàn. Ban Dẫn đường sư đoàn do đại
úy Hoàng Cần giữ chức Trưởng ban và có 9 trợ lý: Đặng Dũng, Hoàng Đức Hạnh, Lê
Thiết Hùng, Nguyễn Văn Hưng, Vương Kính, Đào Văn Phao, Trần Hữu Thăng, Lường Tú
Thông và Lương Văn Vóc. Đây là ban Dẫn đường thường xuyên có khối lượng công việc
lớn và cường độ làm việc cao, vừa phục vụ bay huấn luyện chuyển loại vừa tham
gia bảo đảm chiến đấu.
...
Trung tuần tháng 4 năm 1977, căn cứ vào tình hình, nhiệm vụ và khả
năng phát triển của Không quân ta trong giai đoạn cách mạng mới, chủ trương tổ
chức lại lực lượng Quân chủng Phòng không-Không quân theo hướng tách ra thành
Quân chủng Phòng không và Quân chủng Không quân đang được Bộ Chính trị và Quân ủy
Trung ương nghiên cứu và cân nhắc rất thận trọng. Tại phía nam Bộ Tổng Tham mưu
đang tổ chức cuộc diễn tập tác chiến hiệp đồng bảo vệ đảo, có một phần thực
binh giữa ba lực lượng hải quân, không quân và phòng không với quy mô lớn. Sư
đoàn Không quân 372 sử dụng một phần lực lượng của bốn trung đoàn không quân
917, 918, 935 và 937 tham gia diễn tập. Cũng vào thời gian này, tình hình biên
giới Việt Nam - Cam-pu-chia có nhiều diễn biến ngày càng phức tạp. Tập đoàn phản
động Khơ-me đỏ vừa xúc tiến tuyên truyền chống lại Việt Nam vừa bí mật điều 5
sư đoàn chủ lực áp sát biên giới ở nhiều khu vực khác nhau, nhưng tập trung hơn
cả là đối diện với các tỉnh Tây Ninh, An Giang, Kiên Giang...
Sáng 30 tháng 4 năm 1977, trong lúc quân và dân cả nước ta đang hào hứng,
phấn khởi kỷ niệm 2 năm ngày giải phóng miền Nam thì quân Khơ-me đỏ cho 2 sư
đoàn tiến công 13 trên tổng số 14 đồn biên phòng của ta trên biên giới thuộc An
Giang, đánh vào 3 xã Khánh An (bắc Châu Đốc 25,5km), Khánh Bình (tây-tây nam An
Khánh 3,5km) và Vĩnh Tế (tây nam Châu Đốc 5km), chiếm giữ thượng nguồn sông
Châu Đốc. Đêm 30 tháng 4 năm 1977, chúng cho quân chủ lực tiếp tục tiến công
nhiều khu vực khác nhau trên toàn tuyến biên giới Tây Nam, dùng pháo lớn bắn
vào các khu dân cư đọc đường biên của ta gây nhiều tội ác dã man như tại Phú Hội
(bắc-tây bắc Châu Đốc 18,5km), Tịnh Biên (trên bờ phía đông kênh Vĩnh) và thậm
chí tại cả thị xã Châu Đốc... Nghiêm trọng hơn, chúng tiến sâu vào lãnh thổ nước
ta, chiếm giữ một số khu vực từ Tây Ninh đến Hà Tiên.
Ngày 6 tháng 5 năm 1977, Bộ Chính trị Trung ương Đảng phê chuẩn Nghị
quyết của Thường vụ Quân ủy Trung ương và đề nghị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về
việc tổ chức lực lượng Phòng không và Không quân thành hai quân chủng: Quân chủng
Phòng không và Quân chủng Không quân.
Đúng vào lúc này, căn cứ vào ý định tác chiến của Bộ Tổng Tham mưu,
sáng 6 tháng 5 năm 1977, đồng chí Lê Ngọc Hiền, Phó Tổng tham mưu trưởng, giao
nhiệm vụ cho Quân khu 9 hiệp đồng với Sư đoàn Không quân 372 tổ chức các trận
đánh phản công, đuổi ịch ra khỏi lãnh thổ nước ta. Toàn bộ lực lượng không quân
đang tham gia diễn tập được lệnh cấp tốc trở về căn cứ. Các lực lượng đang có mặt
tại trại gấp rút xây dựng các phương án tác chiến hiệp đồng. Nhờ có những bài học
và kinh nghiệm về dẫn đường trong chiến đấu đã được rút ra từ năm 1975, các
phương án dẫn đường rất nhanh chóng được hoàn thành, đáp ứng yêu cầu của người
chỉ huy các cấp và kịp thời triển khai đến từng phân đội trực chiến. Ngay chiều
6 tháng 5 năm 1977, 2 UH-1 và 1 U-17 của Trung đoàn 917 từ Tân Sơn Nhất cơ động
chuyển sân xuống Cần Thơ cùng với A-37 của Trung đoàn 937 tiến hành công tác
chuẩn bị chiến đấu.
5 giờ 15 phút sáng 7 tháng 5 năm 1977, phi công U-17 Mai Chí Lưu cất
cánh trinh sát, phát hiện khu vực đóng quân của địch và báo cáo về sở chỉ huy
tiền phương Quân khu 9. 5 giờ 50 phút, 4 A-37 xuất kích chi viện hỏa lực cho bộ
binh và 5 phút sau, 1 UH-1 cất cánh làm nhiệm vụ sẵn sàng cấp cứu. Tất cả lấy
hướng bay về phía khu chiến (Vĩnh Tế). Khi khu chiến đã nằm trong tầm quan sát
của A-37 thì U-17 phóng rốc-két khói vào các mục tiêu cần phải chỉ thị. 4 A-37
lập tức lao vào công kích trúng sở chỉ huy dã chiến, doanh trại và một số trận
địa pháo của địch. Sở chỉ huy Cần Thơ vừa điều hành các chuyến bay chiến đấu vừa
tổ chức tiếp thu các chuyến bay cơ động chuyển sân tiếp theo của Trung đoàn
917, trong đó có thêm 6 chiếc UH-1 từ Cam Ranh xuống Cần Thơ. Ngay trong trận
đánh hiệp đồng đầu tiên với các đơn vị bộ binh Sư đoàn 330 (Quân khu 9), kíp trực
ban dẫn đường Trung đoàn 937 cùng với đội ngũ dẫn đường trên không Trung đoàn
917 đã dẫn 5 đợt xuất kích chi viện hỏa lực có chỉ thị mục tiêu từ trên không đạt
hiệu quả cao.
Ngày 8 tháng 5 năm 1977, không quân ta tập trung đánh vào tuyến giao
thông phía sau của địch và ngày 9 tháng 5, cả A-37 và UH-1 vũ trang đã phối hợp
đánh tàu thuyền của địch trên phía thượng nguồn sông Châu Đốc.
Trong ba ngày tham gia đánh địch, hai trung đoàn 937 và 917 đã xuất
kích 25 lần/chiếc A-37, 13 lần/chiếc UH-1 và U-17, ném 28 quả bom, phóng 581 quả
rốc-két và bắn 23 ngàn viên đạn 7,62mm, tiêu diệt 2 trận địa pháo 105mm, phá huỷ
1 kho đạn, 10 khẩu súng 12,7mm, bắn cháy nhiều tàu thuyền trên sông của địch...
Các đơn vị bộ binh ta nhanh chóng phản kích, làm chủ thế trận, giành lại các
khu vực đã bị địch lấn chiếm. Nhiệm vụ chi viện hỏa lực của không quân cho bộ
binh đánh địch bảo vệ biên giới Tây Nam đã trở nên rất cấp bách.
Ngày 16 tháng 5 năm 1977, cùng với Quân chủng Phòng không, Quân chủng
Không quân được thành lập. Từ 0 giờ ngày 31 tháng 5 năm 1977, Bộ Tư lệnh Quân
chủng Không quân sẽ bắt đầu chỉ huy, điều hành và quản lý các cơ quan và đơn vị
thuộc quyền.
Trước tình hình biên giới Tây Nam diễn biến ngày càng xấu, chấp hành mệnh
lệnh tác chiến của Quân chủng và chỉ thị của Sư đoàn Không quân 371, ngày 21
tháng 5 năm 1977, Trung đoàn 921 thực hiện cơ động chuyển sân một phi đội
MiG-21 vào Biên Hòa để tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc.
Căn cứ vào ý định đánh địch của Trung đoàn không quân 935, tiểu ban Dẫn đường
đã xây dựng phương án dẫn đường chiến đấu hiệp đồng giữa F-5 và MiG-21. Đến
ngày 30 tháng 6 năm 1977, trung đoàn thực hiện diễn tập thực binh. Qua kiểm
nghiệm thực tế, trình độ dẫn đường chiến đấu hiệp đồng của Tiểu ban Dẫn đường
Trung đoàn 935 đã cơ bản đáp ứng yêu cầu đề ra và các phương án dẫn đường tiếp
tục được củng cố, hoàn thiện. Cũng trong thời gian MiG-21 vào Biên Hòa, chấp
hành chỉ thị của Sư đoàn 371, một phần lực lượng Mi- 8 của Trung đoàn 916 cũng
lên đường vào tham gia phục vụ chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam. Đội ngũ dẫn
đường trên không hai trung đoàn 917 và 916 sát cánh cùng nhau chuẩn bị các
phương án dẫn bay theo từng nhiệm vụ được giao. Phòng Dẫn đường Quân chủng
Không quân, ngay sau ổn định tổ chức đã cử 3 trợ lý Đặng Dũng, Phạm Văn Quí và
Lương Văn Vóc vào tăng cường cho Ban Dẫn đường Sư đoàn 372.
Đầu tháng 7 năm 1977, tập đoàn phản động Khơ-me đỏ huy động lực lượng
lớn đánh sang đất ta ở nhiều khu vực thuộc tỉnh An Giang và Kiên Giang. Rạng
sáng 12 tháng 7 năm 1977, Trung tá Nguyễn Văn Bảy - Phó Tư lệnh Sư đoàn 372
giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 937 và Trung đoàn 917 tổ chức chiến đấu hiệp đồng
với các đơn vị thuộc Sư đoàn 9 (Quân khu 9) tại các khu vực Bảy Núi (các ngọn
núi ở phía bắc và phía nam Tri Tôn), Giang Thành (đông bắc Hà Tiên 21km) và Đầm
Chít (đông Giang Thành 5km). 6 giờ 30 phút, Trung đoàn 917 triển khai phương án
tổ chức hiệp đồng đánh địch, đúng 9 giờ, cơ động chuyển sân 10 UH-1, 2 U-17 và
1 CH-47 từ Tân Sơn Nhất xuống Cần Thơ và sau đó thực hiện hiệp đồng chiến đấu
ngay với Trung đoàn không quân 937. 13 giờ 10 phút, Trung đoàn trưởng Lê Đình
Ký trực tiếp gần 10 HU-1 bay cực thấp, bí mật cơ động từ Cần Thơ lên sân bay
phía trước Thất Sơn (đông nam Tịnh Biên 11km). Tại đây, trung đoàn tiến hành hiệp
đồng chiến đấu cụ thể với các đơn vị thuộc Sư đoàn 9 và chuẩn bị bổ sung cho
các phương án dẫn bay đánh địch.
Ngày 13 tháng 7 năm 1977, theo lệnh của sở chỉ huy, kíp trực ban dẫn
đường Trung đoàn 937 dẫn các biên đội A-37 cất cánh từ Cần Thơ, lên chi viện hỏa
lực đúng kế hoạch chiến đấu hiệp đồng với các đơn vị bộ binh thuộc Sư đoàn 9 phản
công ở khu vực Bảy Núi, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 600 tên, phá huỷ 1 kho đạn,
thu 100 súng các loại, đuổi địch về phía bên kia biên giới.
Ngày 14 tháng 7 năm 1977, lúc 4 giờ 50 phút, 2 phi công U-17: Mai Chí
Lưu và Đoàn Hồng Quân cất cánh từ Cần Thơ, lên trinh sát khu vực Giang Thành -
Đầm Chít và chỉ thị mục tiêu cho pháo binh của ta. Trong khi đang đảm nhiệm vụ,
máy bay đã bị thương, do hỏa lực phòng không 12,7mm của địch bắn nên phải quay
về Thất Sơn hạ cánh. Sở chỉ huy Sư đoàn 372 quyết định cho phi công U-17 Trần
Văn Lại lên tiếp tục thực hiện nhiệm vụ chỉ thị mục tiêu. Đúng 5 giờ, pháo binh
của ta bắn dồn dập vào các trận địa tuyến trước của địch. 5 giờ 30 phút, đội
ngũ dẫn đường trên không Trung đoàn 917 dẫn 3 đôi bay UH-1: Lê Đình Ký-Nguyễn
Đình Khoa, Hồ Duy Hùng- Nghiêm Xuân Tích và Nguyễn Văn Nhậm-Đào Mạnh Sơn bay ở
độ cao từ 10 đến 15m vào đánh trúng các cụm hỏa lực mạnh của địch. Hỏa lực
phòng không 12, 7mm của chúng bắn theo đội hình trực thăng của ta. Chiếc UH-1 của
lái chính Hồ Duy Hùng bị trúng đạn, lái phụ Nguyền Trọng Hùng bị thương nhẹ.
Ngay sau đó, 6 A-37 của Trung đoàn 937 cất cánh từ Cần Thơ theo lệnh gọi của
thiếu tá Nguyễn Văn Thọ tại Thất Sơn và được dẫn chính xác vào khu chiến, U-17
tiếp tục chỉ thị mục tiêu. A-37 đánh trúng 2 trận địa pháo và 1 trận địa cối. 3
đôi bay UH-1 vòng lại, bắn mãnh liệt vào đội hình bộ binh địch, đồng thời yểm hộ
cho xe tăng của ta, tạo điều kiện cho bộ đội Sư đoàn 9 nhanh chóng vượt kênh
Vĩnh Tế, đánh vào tuyến sau của địch, buộc chúng phải rút lui. Đây là một trong
những trận đánh hiệp đồng tuyệt đẹp, không chỉ giữa không quân và bộ binh, pháo
binh, xe tăng mà còn cả giữa UH-1, U-17 và A-37. Cũng trong thời gian diễn ra
trận đánh trên, tổ bay CH-47: Trần Đăng Nguyên-Đàm Ngọc Bến đã bay 2 lần/chuyến
vận chuyển súng đạn tăng cường cho tuyến trước của ta, đồng thời đón thương
binh về tuyến sau.
Theo yêu cầu của Quân khu 9, ngày 18 tháng 7 năm 1977, Trung đoàn 937
tiếp tục thực hiện chi viện hỏa lực 8 lần/chiếc A-37 ném 30 quả bom trúng 1 sở
chỉ huy tiểu đoàn và 2 trận địa pháo 105mm trong hậu cứ của địch ở phía tây bắc
Châu Đốc.
Như vậy, trong tháng 7 năm 1977, từ thực tiễn chi viện hỏa lực trên
chiến trường của Trung đoàn 937 và Trung đoàn 917, ngành Dẫn đường Quân chủng
Không quân đã tích lũy được những kinh nghiệm mới về xây dựng các phương án dẫn
bay A-37 từ sân bay Cần Thơ và UH-1 từ sân bay phía trước Thất Sơn lên đánh địch
tại hai khu vực Bảy Núi và Giang Thành cách nhau 36km, thực hiện hiệp đồng dẫn
đường chặt chẽ giữa Cần Thơ với Thất Sơn, làm tốt cách dẫn bay U-17 chỉ thị mục
tiêu cho pháo binh và UH-1 yểm hộ cho xe tăng phát triển tiến công. Riêng qua
trận đánh ngày 14 tháng 7 năm 1977, đội ngũ dẫn đường đã rút ra được bài học về
các biện pháp bảo đảm cho phi công và tổ bay khắc phục hiệu quả hỏa lực phòng
không của địch.
Để bảo vệ, giữ yên biên giới Tây Nam và chuẩn bị cho bước đi tiếp theo
trong tổ chức các hoạt động quân sự, Bộ Tổng Tham mưu quyết định điều lực lượng
của Binh đoàn Tây Nguyên (Quân đoàn 3) xuống địa bàn Quân khu 7 tham gia tác
chiến chiến dịch. Việc cơ động lực lượng được tiến hành rất khẩn trương bằng cả
đường bộ và đường không. Bộ Tư lệnh Quân chủng Không quân giao cho Sư đoàn 372
tổ chức vận chuyển đường không một phần lực lượng rất quan trọng của Quân đoàn
3. Với 6 máy bay vận tải quân sự, bao gồm: 2 C-130, 2 C-119 và 2 C-47, Trung
đoàn 918 đã thực hiện hơn 100 chuyến bay liên tục trong vòng 24 ngày, từ 19 tháng
9 đến 12 tháng 10 năm 1977, chở 7.000 cán bộ và chiến sĩ, vận chuyển 20 xe chỉ
huy và hàng chục tấn hàng cho Quân đoàn 3 từ 3 sân bay nhận quân: Nha Trang,
Liên Khương và Hòa Bình (sân bay ngoài thị xã Buôn Ma Thuột) vào sân bay đổ
quân Biên Hòa an toàn. Đợt ra quân hoạt động vận chuyển đường không tập trung đầu
tiên của Trung đoàn 918 giành thắng lợi, trong đó đội ngũ dẫn đường trên không
đã lựa chọn đường bay, phương án nạp dầu, chở quân, chuyển hàng hợp lý và thực
hiện dẫn bay chính xác. Có thể nói cách dẫn bay đổ bộ đường không từ sân bay đến
sân bay đã được thực hiện rất thành công.
Cuối tháng 9 năm 1977, tập đoàn phản động Khơ-me đỏ đẩy mạnh hoạt động
lấn chiếm biên giới tại nhiều khu vực thuộc tỉnh Tây Ninh. Trong lúc đó, sau
khi chuyển quân từ Tây Nguyên vào, một phần lực lượng của Quân đoàn 3 đang phối
hợp với Quân khu 7 tổ chức củng cố toàn bộ hệ thống phòng ngự trên tuyến biên
giới được giao. Ngày 25 tháng 9 năm 1977, địch dùng sư đoàn bộ binh 4 đánh chiếm
khu vực Xa Mát (bắc-tây bắc Tây Ninh 41km), đồng thời cho sư đoàn bộ binh 3 và
một trung đoàn quân địa phương đánh vào khu vực Cây Me (nam Tây Ninh 25km), Bến
Sỏi (tây-tây nam Tây Ninh 10km) và Đường 13. Ngày 26 tháng 9 năm 1977, Bộ Tổng
Tham mưu quyết định sử dụng lực lượng của Quân khu 7, Quân đoàn 3, Quân đoàn 4
và lực lượng của Sư đoàn Không quân 372 tổ chức tác chiến hiệp đồng, không cho
địch tiến sâu vào địa phận của ta.
Để thực hiện nhiệm vụ tác chiến hiệp đồng được giao, ngay trong ngày
26 tháng 9, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 372 quyết định tổ chức trinh sát trước 2 lần/chiếc
U-17 theo đường bay: Tân Sơn Nhất-Bến Cầu (nam-đông nam Tây Ninh 21km)-Tà Nốt
(tây-tây nam Xa Mát 12km)-Tân Sơn Nhất. Các phi công Mai Chí Lưu, Nguyễn Duy Lê
và Nguyễn Khắc Tuấn đã mang về những thông tin quý báu cho UH-1 và A-37.
Ngày 27 tháng 9 năm 1977, theo đúng kế hoạch chiến đấu hiệp đồng và
phương án dẫn bay đã được chuẩn bị, Trung đoàn 917 cho 4 tổ bay UH-1 vũ trang
do các lái chính: Nguyễn Đình Khoa, Vi Quốc Ân, Nghiêm Xuân Tích và Nguyễn
Lương Bằng điều khiển, bay theo đường bay Tân Sơn Nhất-Tây Ninh-khu chiến Xa
Mát) thực hiện chi viện hỏa lực cho các đơn vị bộ binh Quân khu 7 và Quân đoàn
3; Các phi công U-17: Nguyễn Duy Lê, Nguyễn Hữu Thọ, Lê Văn Do, Nguyễn Văn Sửu
(B) và Mai Chí Lưu liên tiếp thay nhau lên chỉ thị mục tiêu.
Trong ngày, không quân ta đã hoàn thành tốt 2 đợt đánh với 8 lần/chiếc
UH-1, bắn 24.000 viên đạn và 3 lần/chiếc -17 chỉ thị mục tiêu. Ngày 28 tháng 9
năm 1977, có 4 lần/chiếc UH-1 vũ trang, vẫn do các lái chính đã tham gia đánh
ngày hôm trước, tiếp tục thực hiện chi viện hỏa lực. Quân địch vẫn ngoan cố chống
trả, không chịu lui. Ngày 29 tháng 9 năm 1977, 8 lần/chiếc A-37 tiến hành chi
viện hỏa lực, có 2 lần/chiếc U-17 chỉ thị mục tiêu cũng ở Xa Mát. Hỏa lực của
A-37 đã làm cho Sở chỉ huy Sư đoàn bộ binh 4 của quân Khơ-me đỏ ở làng Ph.Lông
(bắc-tây bắc Xa Mát 4km) bị tê liệt. Ngày 1 tháng 10 năm 1977, không quân ta lại
cho UH-1 vũ trang thực hiện chi viện hỏa lực 2 đợt, mỗi đợt 4 lần/chiếc, đánh
mãnh liệt vào quân Khơ-me đỏ và U-17 chỉ thị mục tiêu 2 lần/chiếc.
Như vậy, tại khu vực Xa Mát, hỏa lực của cả UH-1 và -37 đều được phát
huy hiệu quả, tạo điều kiện cho bộ binh Quân khu 7 và Quân đoàn 3 tiến công, buộc
địch hải rút khỏi các vùng đất đã lấn chiếm. Trước tình hình chiến sự diễn ra
ác liệt, với tinh thần trách nhiệm cao, các tổ bay UH-1 vận tải đã nhanh chóng
hoàn thành 19 chuyến bay "con thoi" vận chuyển súng đạn, thuốc men
lên tuyến trước và đón thương binh về tuyến sau.
Ở khu vực Cây Me, ngày 27 tháng 9 năm 1977, lực lượng UH-1, U-17 do đại
úy Trịnh Minh Đức chỉ huy, từ Tân Sơn Nhất lên chi viên hỏa lực cho bộ đội Quân
đoàn 4 phản kích địch. Các trận đánh diễn ra rất quyết liệt. Trong 2 ngày 27 và
29, UH- 1 vận tải tiên tục thực hiện 13 lần/chiếc lên Tây Ninh tiếp tế và chở
thương binh.
13 giờ 02 phút ngày 1 tháng 10 năm 1977, 2 phi công U-17: Mai Chí
Lưu-Nguyễn Khắc Tuấn cất cánh chỉ thị mục tiêu cho A-37 tham gia chuẩn bị hỏa lực
cho bộ binh Quân đoàn 4 ở khu vực Cây Me-Bến Sỏi. 13 giờ 25 phút, biên đội A-37
thứ nhất: Hán Văn Quảng-số 1, Nguyễn Thế Hùng-số 2, Nguyễn Hùng Vân-số 3 và
Nguyễn Năng Nghĩa-số 4 rời đường băng Cần Thơ, 13 giờ 56 phút, đến Trảng Bàng
và vòng trái về phía Gò Dầu Hạ (Gò Dầu). 13 giờ 57 phút, số 3 báo cáo hỏng động
cơ. Sở chỉ huy Sư đoàn ra lệnh vứt bom ở chế độ không nổ và về Tân Sơn Nhất hạ
cánh. Phi công Hán Văn Quảng tiếp tục dẫn các số còn lại trong biên đội thực hiện
nhiệm vụ được giao. 14 giờ 06 phút, U-17 phóng rốc-két khói và chỉ thị mục tiêu
1. 3 phút sau, 3 A-37 của biên đội thứ nhất bắt đầu vào công kích, rồi thoát ly
bên trái về Cần Thơ và hạ cánh lúc 15 giờ 13 giờ 50 phút, biên đội A-37 thứ
hai: Tạ Đông Trung- Nguyễn Văn Sinh-Cao Văn Phúc-Nguyễn Văn Quang cất cánh và
bay đúng đường bay dự tính. 14 giờ 23 phút, U-17 chỉ thị mục tiêu 2 và chỉ 2
phút sau biên đội A-37 thứ hai tiến vào ném bom, rồi trở về Cần Thơ an toàn.
Sau đợt tham gia chuẩn bị hỏa lực, vào lúc 15 giờ 30 phút, 2 phi công
U-17: Mai Chí Lưu-Nguyễn Văn Sửu (A) lên chỉ thị mục tiêu cho A-37 đánh đợt 2.
15 giờ 44 phút, 3 chiếc A-37 cất cánh. Trên chiếc A-37 bay số 1 có 2 phi công:
Tạ Đông Trung và Nguyễn Thế Hùng, số 2: Trần Cao Thăng và Nguyễn Nẵng Nghĩa, số
3: Cao Văn Phúc và Nguyễn Văn Sinh. 16 giờ 02 phút, U-17 phóng rốc-két khói vào
mục tiêu lần thứ nhất và sau đó chỉ thị tiếp lần thứ hai. Tốp A-37 lao xuống
công kích. Chiếc A-37 bay số 1 bị trúng đạn pháo phòng không của địch, 2 phi
công nhảy dù và rơi vào giữa khu vực bốn bề đều có quân Khơ-me đỏ. 16 giờ 10
phút, U-17 xin Sở chỉ huy Sư đoàn 372 cho trực thăng vào cấp cứu. 16 giờ 24
phút, U-17 chỉ thị vị trí phi công của ta cho tổ bay UH-1. 16 giờ 26 phút, lái
chính UH-1 Đinh Gia Dục thấy rõ phi công ta, nhưng không thể xuống hạ cánh
trong làn đạn dày đặc của địch. Cả 2 phi công Tạ Đông Trung và Nguyễn Thế Hùng
đã dùng súng ngắn chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và anh dũng hy sinh. Đây là
tổn thất lớn đầu tiên của Trung đoàn 937. Đến 16 giờ 30 phút, A-37, U-17 và
UH-1 được lệnh rút khỏi khu chiến. Cũng trong ngày 1 tháng 10, Trung đoàn 917
cho 8 lần/chiếc UH-1 vũ trang chi viện hỏa lực cho Quân đoàn 3 ở khu vực Xa
Mát.
Ngày 2 tháng 10 năm 1977, không quân ta tiếp tục cho 3 lần/chiếc U-17
do các phi công: Nguyễn Văn Sửu (A), Nguyễn Văn Sửu (B), Nguyễn Duy Lê, Nguyên
Hữu Thọ, Mai Chí Lưu và Nguyễn Khắc Tuấn bay chỉ thị mục tiêu cho UH-1 vũ trang
và A-37. Nhưng khi UH-1 chuẩn bị vào công kích, do chưa phân định rõ bộ binh địch-ta,
nên buộc phải vòng ra. Sau đó, A-37 với 20 lần/chiếc đã ném bom trúng vào các vị
trí cố thủ cuối cùng của quân Khơ-me đỏ ở khu vực Cây Me-bến Sỏi. Đến 10 giờ, bộ
đội Quân đoàn 4 hoàn toàn làm chủ trận địa. Trước tấm gương của đồng đội, dù phải
chịu hy sinh và tổn thất, nhiều phi công của Trung đoàn không quân 937 đã thể
hiện bản lĩnh và trình độ của mình, phát huy cao độ sức mạnh hỏa lực của A-37
tiếp tục chiến đấu như các đồng chí: Phùng Công Định, Âu Văn Hùng, Vũ Khởi
Nghĩa, Nguyễn Nẵng Nghĩa, Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Văn Sinh...
Như vậy, từ cuối tháng 9 đến đầu tháng 10 năm 1977, để đáp ứng yêu cầu
của các đơn vị bộ binh trong các trận đánh phản công, trong mỗi ngày lực lượng
A-37 và UH-1 phải xuất kích nhiều đợt và tổ chức hoạt động trên cả 2 khu vực Xa
Mát, Bến Sỏi cách xa nhau khoảng 40km. Các phương án dẫn bay chi viện hỏa lực
và trinh sát, chỉ thị mục tiêu của cả hai trung đoàn 937 và 917 đã tập trung giải
quyết tốt việc tính toán đường đi, đường về, độ cao chênh lệch và thời cơ cất
cánh giữa các tốp. Kíp trực ban dẫn đường tại sở chỉ huy Trung đoàn 937 đã bảo
đảm tốt cho A-37 tham gia chuẩn bị hỏa lực đúng thời gian, đúng mục tiêu và phi
công U-17 đã dẫn bay chỉ thị chính xác mục tiêu cho pháo binh ta.
Đây chính là sự khởi đầu nhằm chuẩn bị cho việc sử dụng không quân chi
viện hỏa lực trong các trận đánh có quy mô lớn hơn. Đội ngũ dẫn đường trên
không của Trung đoàn 917 đã thực hiện dẫn bay yểm hộ cho đội hình UH-1 làm nhiệm
vụ chi viện hỏa lực đúng yêu cầu chiến thuật, sẵn sàng đối phó khi phát hiện có
hoả phòng không của địch bắn lên. Tuy nhiên, đối với A-37 cách xử lý còn chưa đạt
yêu cầu Cuối tháng 11 năm 1977, Trung đoàn 918 sử dụng các máy bay C-130, C-119
và C-47 tiến hành vận chuyển 1 trung đoàn đặc công và chở 20 tấn hàng quân sự từ
Hà Nội vào Biên Hòa để tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam. Một lần nữa,
cách dẫn bay đổ bộ đường không từ sân bay đến sân bay đã được đội ngũ dẫn đường
trên không thực hiện rất hoàn hảo.
Đầu tháng 12 năm 1977, bọn phản động Khơ-me đỏ dùng 2 sư đoàn bộ binh
đánh chiếm tây Bến Sỏi, án ngữ Đường 13 huyết mạch của ta, hằng ngày chúng dùng
pháo 130mm bắn vào thị xã Tây Ninh, và các khu vực khác, gây nhiều tội ác cho đồng
bào ta. Chấp hành mệnh lệnh tác chiến của Bộ Tổng Tham mưu, Sư đoàn Không quân
372 quyết định sử dụng lực lượng của Trung đoàn 917 và Trung đoàn 937 vào làm
nhiệm vụ chi viện hỏa lực cho các đơn vị của Quân khu 7 và Quân đoàn 4, đồng thời
yêu cầu C-130 và EC-47 của Trung đoàn 918 tiến hành trinh sát đường không toàn
tuyến biên giới Tây Nam. Trung đoàn 917 sử dụng 10 UH-1, 2 CH-47 và 2 U-17 trực
tại Tân Sơn Nhất, chuẩn bị sẵn phương án cơ động lên sân bay Trảng Lớn (sân bay
Tây Ninh West, tây-tây bắc Tây Ninh 3,5km), do thiếu tá Nguyễn Xuân Trường chỉ
huy. Lực lượng A-37 của Trung đoàn 937 vẫn ở Cần Thơ.
6 giờ 10 phút sáng 6 tháng 12 năm 1977, 4 phi công U-17: Mai Chí
Lưu-Nguyễn Khắc Tuấn và Đoàn Hồng Quân-Nguyễn Hữu Thọ lần lượt cất cánh trinh
sát khu vực tây Bến Sỏi và chỉ thị mục tiêu cho pháo binh của ta. Sau khi đã nắm
chắc tình hình, 3 tổ bay UH-1 vũ trang: Nguyễn Xuân Trường-Nguyễn Anh Dũng,
Nguyễn Đình Khoa-Nguyễn Trọng Hùng và Vi Quốc Ân-Trần Đình cất cánh từ Tân Sơn
Nhất, vào chi viện hỏa lực 9 lần/chiếc, đồng thời cho 2 tổ bay UH-1 vũ trang: Hồ
Duy Hùng-Đào Mạnh Sơn và Nguyễn Lương Bằng-Nguyễn Văn Tiến làm nhiệm vụ yểm hộ
và cấp cứu 8 lần/chiếc. Đến 6 giờ 55 phút, 5 UH-1 từ Tân Sơn Nhất đánh tiếp đợt
2. Sau mỗi đợt đánh ta đều về Trảng Lớn hạ cánh để chuẩn bị cho các đợt đánh tiếp
theo. Cùng tham gia chi viện hỏa lực, Trung đoàn 937 sử dụng 16 lần/chiếc A-37
từ Cần Thơ, có U-17 chỉ thị mục tiêu, đánh phá dữ dội vào các phòng tuyến của địch
ở tây Bến Sỏi và cơ sở hậu cần của chúng ở ngã tư Nhà Thương. Được không quân
chi viện hỏa lực đúng kế hoạch hiệp đồng, các đơn vị của Quân khu 7 và Quân
đoàn 4 phát huy sức mạnh của bộ binh, pháo binh và xe tăng thực hiện phản công
giành thắng lợi. Trong trận đánh trên, các tổ bay CH-47 đã làm tốt nhiệm vụ vận
chuyển súng đạn lên tuyến trước và đón thương binh về tuyến sau.
Đến đầu tháng 1 năm 1978, tình hình trên biên giới, Tây Nam ngày càng
càng thẳng, Quân chủng Không quân quyết định cơ động chiến đấu 1 phi đội MIG-17
của Trung đoàn 923 vào Biên Hòa. 2 trợ lý dẫn đường; Vũ Văn Thuyết và Nguyễn
Văn Đờn được bổ sung cho Tiểu ban Dẫn đường Trung đoàn 935. Ngay lập tức 2
phương án dẫn đường chiến đấu hiệp đồng giữa 2 loại máy bay F-5, MIG-17 và giữa
3 loại náy bay F-5, MIG-21, MIG-17 với các đơn vị phòng không của Quân chủng Phòng
không đánh máy bay tốc độ nhỏ và tốc độ lớn của địch đã được Tiểu ban Dẫn đường
Trung đoàn 935 đồng thời chuẩn bị.
Ngày 25 tháng 1 năm 1978, Thiếu tá Đồng Văn Song, Trung đoàn trưởng đã
ký phê chuẩn cả 2 phương án trên (Phương án số 001 và 002/TM-DĐ. Hồ sơ số 73,
phông 16, lưu trữ Quân chủng Phòng không-không quân). Từ ngày 16 đến ngày 19
tháng 1 năm 1978, 6 tiểu đoàn Khơ-me đỏ đánh vào khu vực Phú Cường (An Giang).
Tiếp đó ngày 22 tháng 1, địch dùng 3 trung đoàn quân địa phương đánh sâu vào đất
ta khoảng 10 km ở khu vực Giang Thành-Đầm Chít (Kiên Giang).
Ngày 28 tháng 1 năm 1978, U-17 cất cánh từ Cần Thơ vào khu chiến trinh
sát và chỉ thị mục tiêu cho UH-1, pháo binh và xe tăng của ta. Ngay sau đó, 4
UH-1 vũ trang cất cánh từ Kiên Lương đánh vào sở chỉ huy và đội hình của địch,
chi viện hiệu quả cho bộ binh, pháo binh và xe tăng của ta tiêu diệt 1 tiểu
đoàn địch, đẩy toàn bộ lực lượng tuyến trước của chúng lùi về phía sau. Ngày 29
tháng 1 năm 1978, UH-1 đánh tiếp trận thứ hai vào hệ thống lô cốt, hầm ngầm của
địch. Bộ binh ta tiến công, buộc chúng phải tháo chạy về bên kia biên giới. Tuy
bị thất bại, nhưng chúng điều trung đoàn 11 thuộc sư đoàn bộ binh 2 lên chiếm
khu vực cồn cát ở Bắc Đay, Phước An (Kiên Giang), xây dựng trận địa phòng ngự
kiên cố và gài mìn dày đặc xung quanh các khu vực đóng quân.
18 giờ ngày 2 tháng 2 năm 1978, ba trung đoàn không quân 917, 937 và
935 nhận nhiệm vụ chiến đấu chi viện hỏa lực cho Sư đoàn 330 (Quân khu 9), Sư
đoàn 341 (Quân đoàn 4) và một trung đoàn bộ đội địa phương An Giang đánh tại
khu vực Bắc Đay- Phước An. Mọi công tác chuẩn bị phải xong trước 16 giờ ngày 3
tháng 2 năm 1978 (tức chiều 26 Tết âm lịch). 15 giờ ngày 3 tháng 2 năm 1978,
Trung đoàn 917 thực hiện cơ động chuyển sân 5 UH-1, 2 U-17 và 1 CH-47 xuống Cần
Thơ.
Ngày 4 tháng 2 năm 1978, ngay từ sáng sớm, 5 UH-1 và 1 CH-47 đã bí mật
cơ động chuyển sân lên sân bay Long Xuyên (đông nam thị xã Long Xuyên 6km) và sẵn
sàng chờ lệnh cất cánh. Riêng tổ bay UH-1: Đào Mạnh Sơn-Vũ Xuân Cán tiếp tục chở
cán bộ, vận chuyển súng đạn, thuốc men và đón thương binh. Còn lực lượng U-17 ở
lại Cần Thơ làm nhiệm vụ trinh sát và chỉ thị mục tiêu theo lệnh gọi từ sở chỉ
huy tiền phương của Sư đoàn 372 đóng tại Long Xuyên. 6 giờ 20 phút, 2 phi công
U-17: Mai Chí Lưu-Trần Tấn Bửu lên trinh sát các mục tiêu M1, 3, 5 và 6 trong
khu chiến. Sau khi nắm chắc tình hình trên không và thời điểm cần phải chi viện
hỏa lực, sở chỉ huy Long Xuyên yêu cầu sở chỉ huy Cần Thơ cho U-17 và A-37 cất
cánh đúng thời gian quy định. 8 giờ 05 phút, 2 phi công U-17: Đoàn Hồng Quân- Nguyễn
Văn Sửu rời Cần Thơ lên chỉ thị mục tiêu cho UH-1. 8 giờ 25 phút, phi công Mai
Chí Lưu báo cáo M1 đã bị các đơn vị của Sư đoàn 330 tiêu diệt và quay về Cần
Thơ. Đúng lúc đó, sở chỉ huy Long Xuyên ra lệnh cho 3 tổ bay UH-1 vũ trang:
Nguyễn Đình Khoa-Bùi Văn Thuấn, Hồ Duy Hùng- Lê Phúc Cường và Vi Quốc Ân- Đinh
Gia Dục cất cánh chi viện hỏa lực và tổ bay UH-1: Nguyễn Lương Bằng- Nguyễn
Xuân Anh lên yểm hộ và sẵn sàng cấp cứu. Được phi công Đoàn Hồng Quân chỉ thị mục
tiêu chính xác, 3 tổ bay UH-1 vũ trang liên tiếp vào công kích 3 mục tiêu M3, 5
và 6. Các đơn vị của Sư đoàn 330 ào lên tiến công. Do trên hướng đánh của Sư
đoàn 341 gặp nhiều khó khăn hơn, 11 giờ 50 phút, 2 phi công U-17: Mai Chí Lưu- Trần
Tấn Bửu cất cánh lần thứ hai để chỉ thị mục tiêu cho A-37. Trong quá trình cất
cánh tại Cần Thơ, chiếc A-37 của phi công Vũ Khởi Nghĩa đột nhiên phát sinh hỏng
hóc, phải dừng lại. Chỉ huy bay cho phi công Nguyễn Năng Nghĩa tiếp tục cất
cánh. Với quyết tâm cao, phi công Nguyễn Năng Nghĩa vào công kích 2 lần đều
trúng M6. Đến chiều, từ sau 13 giờ, A-37, UH-1 và U-17 tiếp tục đánh nhiều đợt
theo yêu cầu của Tư lệnh Quân khu 9. Sở chỉ huy trung đoàn 11, cụm pháo binh và
hệ thống công sự kiên cố của địch đều bị trúng bom và đạn của không quân ta.
Các đơn vị của hai sư đoàn 341 và 330 phát triển tiến công rất nhanh. Hơn 600
tên địch bị tiêu diệt và nhiều tên khác bị bắt sống, trung đoàn bộ binh 11
"anh hùng" của quân Khơ-me đỏ bị xoá sổ.
Đây là một trong những trận phản công lớn của bộ đội ta trên biên giới
Tây Nam, trong đó các lực lượng không quân đã phát huy sức mạnh của hỏa lực chi
viện, đánh đúng các mục tiêu quan trọng được giao, đáp ứng yêu cầu của Tư lệnh
Quân khu 9. Đội ngũ dẫn đường đã thực hiện tính toán chính xác đường bay cơ động
chuyển sân, thời cơ cất cánh và tham gia điều chỉnh thứ tự đánh các mục tiêu khớp
với thực trạng nhịp độ tiến công của Sư đoàn 330 và Sư đoàn 341.
6 giờ 10 phút sáng 26 tháng 2 năm 1978, Trung đoàn 917 cho 2 phi công
U-17: Mai Chí Lưu- Nguyễn Khắc Tuấn cất cánh từ Tân Sơn Nhất lên trinh sát khu
vực tây bắc Bến Sỏi Sau khi nắm chắc tình hình, U-17 chỉ thị cho pháo binh của
ta bắn dồn dập vào các vị trí tập kết quân của địch. 6 giờ 55 phút, từ Tân Sơn
Nhất 3 tổ bay UH-1 vũ trang: Nguyễn Xuân Trường- Nguyễn Anh Dũng, Nguyễn Đình
Khoa- Nguyễn Trọng Hùng và Nguyễn Xuân Anh- Trần Đình cất cánh lên chi viện hỏa
lực cho bộ đội Quân đoàn 4 ở Tây- Bắc Bến Sỏi và 7 giờ 05 phút, 3 tổ bay UH-1:
Hồ Duy Hùng- Đào Mạnh Sơn, Nguyễn Lương Bằng- Nguyễn Văn Tiến và Đinh Gia Dục- Nguyễn
Sĩ Chuyên cất cánh yểm hộ khu vực và sẵn sàng cấp cứu. Trong đợt này ta đã bắn
17.000 viên đạn 7,62mm vào các mục tiêu. Sau đợt hoạt động thứ nhất, tất cả về
Trảng Lớn hạ cánh và chuẩn bị cho đợt chiến đấu tiếp theo. 7 giờ 40 phút, 2 phi
công U-17: Đoàn Hồng Quân-Nguyễn Hữu Thọ cất cánh từ Tân Sơn Nhất nhằm liên tục
bảo đảm cho các sở chỉ huy nắm chắc tình hình địch. Thấy bộ binh phát triển tiến
công chậm so với dự tính, Tư lệnh Quân đoàn 4 yêu cầu không quân chi viện hỏa lực
vào ngã tư Nhà Thương. Lực lượng không quân ở Trảng Lớn tiếp tục xuất kích: 9
giờ 20 phút, U-17 và 9 giờ 40 phút, 3 tổ bay UH-1 vũ trang cất cánh. Tất cả hướng
vào khu chiến, thực hiện chỉ thị mục tiêu và chi viện hỏa lực để bộ binh đẩy
nhanh tốc độ tiến công. UH-1 đánh trong vòng 15 phút, phóng hơn 100 quả rốc-két,
bắn 23.000 viên đạn 7,62mm vào đội hình địch. Ngay sau đợt chi viện hỏa lực thứ
hai của UH-1, bộ đội Quân đoàn 4 tràn lên tiến công làm chủ trận địa, bắt tù
binh và thu nhiều vũ khí. CH-47 cũng kịp thời lên tiếp tế và chở thương binh về
tuyến sau.
Trong trận này, dẫn đường đã tính toán chính xác đường bay, thời gian
cất cánh và độ cao hoạt động, nên sở chỉ huy đã điều hành rất nhanh chóng tất cả
các chuyến bay ở Tân Sơn Nhất và Trảng Lớn đáp ứng đúng yêu cầu của Tư lệnh
Quân đoàn 4.
Đầu tháng 3 năm 1978, 1 trung đoàn Khơ-me đỏ đánh sâu vào đất ta ở Phước
Lộc, Phước Lợi (bắc Bến Sỏi) sát hại đồng bào ta rất dã man. Pháo 130mm của địch
bắn phá thị xã Tây Ninh và các vùng lân cận, đồng thời cho lực lượng chốt giữ
nhiều vị trí quan trọng ở thượng nguồn sông Vàm Cỏ Đông, làm bàn đạp hòng tiến
sâu vào đất ta.
Ngày 8 tháng 3 năm 1978, Sư đoàn 372 giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 937
chuẩn bị 8 A-37 với 4 cơ số bom, đạn và rốc-két tại Cần Thơ; Trung đoàn 917, do
đại úy Trịnh Minh Đức chỉ huy, sẵn sàng cơ động chuyển sân 5 UH-1, 2 U-17 và 1
CH-47 đến sân bay Dương Minh Châu (đông núi Bà Đen 5-6km). Các lực lượng trên tập
trung chi viện hỏa lực cho Sư đoàn 9 (Quân đoàn 4) đánh địch ở khu vực Phước Lộc,
Phước Lợi. Ngày 9 tháng 3 năm 1978, Trung đoàn 937 chuẩn bị xong, các lực lượng
cơ động của Trung đoàn 917 vào đúng vị trí tập kết.
Ngày 11 tháng 3 năm 1978, đúng 6 giờ, 2 phi công U-17: Mai Chí Lưu-Trần
Tấn Bửu cất cánh từ Tân Sơn Nhất, bay lên Gò Dầu, rồi ngược theo sông Vàm Cỏ
Đông vào trinh sát khu chiến (Phước Lộc, Phước Lợi). Vị trí các mục tiêu được
báo cáo ngay về Sở chỉ huy Sư đoàn 372. 6 giờ 35 phút, 2 UH-1 vũ trang cất
cánh, bay theo đường bay: Dương Minh Châu- Bến Cầu-Bến Sỏi-khu chiến và đánh thẳng
vào các chốt của địch ở hai bờ rạch Năng Dinh (tây bắc Bến Sỏi 11km). Tiếp theo
2 A-37 ném bom vào các trận địa của địch ở Xóm Mới và Gò Chùa, trong đó trúng 1
sở chỉ huy. Trong ngày, lực lượng A-37 và UH-1 cùng nhau phối hợp đánh 3 đợt,
gây thiệt hại đáng kể về sinh lực và hỏa lực của địch. Hôm sau, ngày 12 tháng
3, 6 lần/chiếc A-37 và 12 lần/chiếc UH-1, được 6 lần/chiếc U-17 chỉ thị mục
tiêu, đánh mãnh liệt vào các khu vực tập kết quân và các tuyến phòng ngự vững
chắc của địch. Ba trung đoàn của Sư đoàn 9 bao vây, chia cắt và tiêu diệt toàn
bộ quân địch ở khu vực Phước Lộc, Phước Lợi.
Trong trận này, các đường bay của U-17, UH-1, A-37 và thứ tự vào đánh
đều được dẫn đường lựa chọn và tính toán chu đáo, phi công giữ nghiêm số liệu
đã góp phần quan trọng giữ được yếu tố bí mật, bất ngờ và nâng cao hiệu quả
đánh địch.
Ở khu vực biên giới Hà Tiên, rạng sáng 14 tháng 3 năm 1978, quân
Khơ-me đỏ cho 3 tiểu đoàn tập kích vào thị xã Hà Tiên, 2 tàu 100 tấn tiến vào
theo đường biển, đồng thời dùng thuyền nhỏ đưa thám báo, biệt kích đột nhập vào
đất liền, tàn sát dã man hơn 1.000 đồng bào ta. Bộ Tổng Tham mưu sử dụng lực lượng
của Quân khu 9, Sư đoàn Không quân 372 và lực lượng hải quân đánh bộ, hiệp đồng
chiến đấu chặt chẽ, phản công đánh địch tại khu vực Hà Tiên.
Được sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Tư lệnh Không quân, Sư đoàn 372 nhanh
chóng hoàn tất công tác chuẩn bị và triển khai cơ động lực lượng. Ngày 14 tháng
3 năm 1978, các tổ bay C-130, C-119, C-47 của Trung đoàn 918 chở 1 000 cán bộ
và chiến sĩ hải quân đánh bộ từ Cam Ranh xuống Cần Thơ và Kiên Lương; 4 UH-1 vũ
trang, 2 UH-1 vận tải, 2 U-17 và 1 CH-47 của Trung đoàn không quân 917 cơ động
chuyển sân xuống Cần Thơ và ngay sau đó U-17 cơ động tiếp xuống sân bay Rạch Sỏi
(đông nam Rạch Giá 7km). 1 Mi-6 của Trung đoàn 916 được huy động phối thuộc với
Trung đoàn 917. Trung đoàn 937 chuẩn bị xong 12 A-37 và các mặt bảo đảm cho các
đơn vị không quân bạn có thể hoạt động dài ngày tại 3 sân bay Cần Thơ, Kiên
Lương và Long Xuyên.
14 giờ 05 phút ngày 15 tháng 3 năm 1978, 2 phi công U-17: Mai Chí Lưu-
Trần Tấn Bửu cất cánh từ Rạch Sỏi lên quan sát phía tây núi Xa Kỳ (Hà Tiên),
phát hiện các cụm hỏa lực và tuyến phòng ngự của địch, lập tức báo cáo sở chỉ
huy tiền phương Quân khu 9. 15 giờ 50 phút, U-17 chỉ thị mục tiêu cho đôi A-37
thứ nhất vào ném bom trúng một số cụm hỏa lực và đôi A-37 thứ hai tiếp tục vào
đánh các trận địa phòng ngư của địch. Sau khi A-37 thoát ly, lực lượng UH-1 vũ
trang liên tục bắn phá các điểm chốt chủ yếu. Không quân ta chi viện hỏa lực rất
hiệu quả cho bộ binh.
Sáng 16 tháng 3 năm 1978, lực lượng UH-1 vũ trang tiếp tục đánh ở Xa Kỳ.
Các đơn vị Quân khu 9 phản công, buộc địch phải lui về bên kia biên giới. Tổ
bay UH-1: Nguyễn Duy Núi- Đinh Gia Dục đưa đoàn cán bộ Bộ Tổng Tham mưu ra Phú
Quốc kiểm tra công tác sẵn sàng chiến đấu của bộ đội hải quân.
Đúng vào thời điểm bộ đội Quân khu 9 tiến hành phản công địch ở Xa Kỳ
thì quân Khơ-me đỏ cho 1 sư đoàn tiến công vào tuyến phòng ngự của Quân khu 7.
Ngày 14 và 15 tháng 3 năm 1978, chúng cho xe tăng và xe bọc thép đánh
vào các chốt của quân ta ở các khu vực Xa Mát, Tà Nốt (tây Xa Mát 14km) và Lò
Gò (tây nam Xa Mát 18km). Sau đó địch mưu đồ sẽ tiếp tục điều thêm khoảng 12 sư
đoàn từ phía sau lên áp sát tuyến biên giới thuộc tỉnh Tây Ninh, đánh chiếm tuyến
phòng ngư của Quân đoàn 3, hòng vượt qua Xa Mát, rồi tiến sâu vào đất ta theo
Đường 22.
Để đáp ứng yêu cầu các nhiệm vụ được giao, ngày 24 tháng 3 năm 1978,
Sư đoàn 372 thực hiện cơ động lực lượng: Trung đoàn 937 cơ động chuyển sân 10
A-37 từ Cần Thơ lên Biên Hòa và Trung đoàn 917 cho 3 UH-1 vũ trang từ Tân Sơn
Nhất lên Dương Minh Châu do đồng chí Nguyễn Lương Bằng chỉ huy, còn U-17 trinh
sát, chỉ thị mục tiêu và CH-47 vận chuyển tiếp tế và chở thương binh trực tại
Tân Sơn Nhất. Đến 16 giờ cùng ngày, toàn bộ lực lượng không quân đã sẵn sàng
vào trận.
6 giờ sáng ngày 25 tháng 3 năm 1978. 2 phi công U-17: Nguyễn Văn Sửu-Nguyễn
Văn Khải cất cánh, bay theo đường bay Tân Sơn Nhất- Trảng Bàng- Tây Ninh- ấp Trại
Bí (bắc-tây bắc Tây Ninh 23km) trinh sát dọc tuyến biên giới và khu chiến (Xa
Mát- Tà Nốt- Lò Gò). Những vị trí khả nghi có trận địa pháo, bãi tập kết xe
tăng và khu tập trung quân trong khu chiến đều được báo cáo rất rõ ràng về Sở
chỉ huy Sư đoàn 372. 6 giờ 30 phút, theo lệnh của Sở chỉ huy Sư đoàn, 4 A-37 cất
cánh từ Biên Hòa vào khu chiến, đánh trong 10 phút vào các mục tiêu do U-17 chỉ
thị ở Xa Mát. Cùng thời gian đó, 3 tổ bay UH-1 vũ trang: Nguyễn Lương Bằng- Nguyễn
Văn Tiến, Nguyễn Xuân Anh- Lê Việt Bắc và Mai Trung Cam- Vũ Xuân Cán từ Dương
Minh Châu bay lên Trại Bí và vào đánh các mục tiêu ở Lò Gò và Tà Nốt. Ngày 26
tháng 3 năm 1978, A-37 và UH-1 tập trung hỏa lực vào các khu tập trung quân của
địch ở Lò Gò và Tà Nốt. Trong 2 ngày 25 và 26, không quân ta đánh 22 lần/chuyến
đạt hiệu quả cao. Bị đòn giáng trả mãnh liệt của các đơn vị Quân khu 7, Quân
đoàn 3 và không quân, sư đoàn địch buộc phải lùi rất sâu về phía sau và chúng
không thực hiện được âm mưu tiến sâu vào đất ta.
Trung đoàn 11 Khơ-me đỏ, sau khi bị xoá sổ trong trận đánh ngày 4
tháng 2 năm 1978, đã được gây dựng lại với biên chế 9 tiểu đoàn. Đầu tháng 4
năm 1978, với lực lượng trên, trung đoàn 11 và lữ đoàn 10 của địch đã đánh sâu
vào đất ta hơn 10km từ Phú Hội (bắc-tây bắc Châu Đốc 14km) đến Tân Châu (Phú
Châu). Chúng đốt phá hơn 4.000 nóc nhà, sát hại dã man hàng trăm dân thường. Chiều 14 tháng 4 năm 1978, Trung đoàn 917 cho
5 UH-1 vũ trang, 2 UH-1 vận tải xuống trực chiến tại sân bay Long Xuyên, còn
U-17 và CH-47 tại Cần Thơ. Trung đoàn 7 được sử dụng 12 chiếc A-37 ở Cần Thơ
tham gia đánh địch. Các phương án dẫn A-37 và UH-1 chi viện hỏa lực cho các đơn
vị bộ binh của Sư đoàn 330 rất nhanh chóng được hoàn thành.
Ngày 15 tháng 4, vào lúc 6 giờ sáng, 2 phi công U-17: Mai Chí Lưu- Trần
Tấn Bửu lên trinh sát tìm kiếm vị trí khu tập trung quân, cụm hỏa lực mạnh và
trận địa pháo của địch trong khu chiến (Tân Châu). Sở chỉ huy Cần Thơ quyết định
cho 4 chiếc A-37 cất cánh và sau đó ra lệnh cho 5 UH-1 vũ trang lên đánh vào
các cụm hỏa lực mạnh và hệ thống hầm hào tuyến trước của địch, đồng thời cho 1
UH-1 vận tải cất cánh sẵn sàng cấp cứu. U-17 tiếp tục chỉ thị mục tiêu, A-37 và
UH-1 liên tục vào công địch. Các đơn vị bộ binh của Sư đoàn 330 tiến lên chiếm
được nhiều vị trí quan trọng. 13 giờ 30 phút, A-37 và UH-1 theo yêu cầu chi viện,
đánh đợt thứ hai với cường độ hoạt động như đợt thứ nhất, nhưng tập trung đánh
vào các trận địa pháo và lực lượng tuyến sau của địch. Sức đề kháng của địch bị
giảm xuống rõ rệt, các đơn vị bộ binh của Sư đoàn 330 đẩy nhanh tốc độ phản
công.
Ngày hôm sau, 16 tháng 4 năm 1978, 4 A-37 phối hợp chặt chẽ với 4 UH-1
vũ trang đánh tiếp hai đợt nữa. Sở chỉ huy trung đoàn 11 của địch bị bom của ta
san phẳng, 9 tiểu đoàn của trung đoàn này và lữ đoàn 10 bị các đơn vị bộ binh
Sư đoàn 330 đánh tan. Trung đoàn 11 Khơ-me đỏ bị xoá sổ lần thứ hai.
Tại Trung đoàn 935, không khí chuẩn bị cho trận đầu ra quân rất khẩn
trương. Được sự quan tâm của trung đoàn, tiểu ban Dẫn đường tiến hành rà soát lại
các phương án dẫn F-5 nhằm đáp ứng đúng yêu cầu cách đánh của tiêm kích mang
bom; kiểm tra, đối chiếu tỉ mỉ các số liệu vào công kích các mục tiêu khác nhau
trên mặt đất và thoát ly nhằm bảo đảm độ chính xác cao và an toàn tuyệt đối; hiệp
đồng chặt chẽ với các thành phần trực ban trong sở chỉ huy và với các phân đội
trực chiến... Kíp trực ban dẫn đường trong ngày được tiểu ban bố trí gồm: Trung
úy Nguyễn Văn Nhâm, trợ lý, dẫn trên bàn dẫn đường tại sở chỉ huy và Trung úy
Đào Văn Phao, Trưởng Tiểu ban, dẫn trên hiện sóng tại C-51 ở Biên Hòa.
6 giờ 30 phút sáng 6 tháng 5 năm 1978, 2 phi công U-17: Nguyễn Văn Sửu
(A)-Nguyễn Văn Khải cất cánh từ Tân Sơn Nhất bay qua Tây Ninh vào trinh sát khu
vực từ Đập Đá đến Bầu Dung Lớn, báo cáo đầy đủ vị trí các trận địa pháo và cụm
hỏa lực của địch, trong đó có cả pháo phòng không 37mm 2 nòng. 7 giờ, thủ trưởng
trực chỉ huy Trung đoàn 935, Phó Trung đoàn trưởng Vũ Đức Bình, sau khi cho sở
chỉ huy vào cấp 1 xong, ra lệnh cho đôi bay F-5: Lê Khương và Phạm Hy vào cấp
1. 7 giờ 19 phút 30 giây, đôi Khương-Hy cất cánh từ Biên Hòa, bay theo đường
bay: Phú Cường-núi Bà Đen-sân bay Thiện Ngôn (nam Xa Mát 7km)-Xa Mát-mục tiêu.
Kíp trực ban dẫn đường Nhâm- Phao tập trung theo dõi chặt chẽ đường bay và độ
cao bay của F-5, thông báo chính xác cự ly còn lại đến mục tiêu cho phi công. 7
giờ 29 phút 30 giây, đôi Khương-Hy đến Thiện Ngôn, vòng phải lên hướng bắc, sau
khi cải bằng, phát hiện mục tiêu bên trái 5km và xin vào công kích. 7 giờ 30
phút 50 giây, bom của F-5 rơi trúng mục tiêu. Ta thoát ly khỏi khu chiến và về
Biên Hòa hạ cánh lúc 7 giờ 57 phút.
7 giờ 31 phút 30 giây, sở chỉ huy Trung đoàn 935 cho đôi bay F-5 thứ
hai: Nguyễn Thanh Xuân và Nguyễn Văn Kháng cất cánh, giữ nguyên đường bay, tiếp
tục đánh vào các mục tiêu theo kế hoạch. Bom của F-5 lại trút xuống mục tiêu. Đến
8 giờ 07 phút, đôi Xuân-Kháng hạ cánh an toàn tại Biên Hòa. Cũng trong thời
gian trên, 4 A-37 của Trung đoàn không quân 937 được Sở chỉ huy Sư đoàn dẫn vào
khu chiến đánh trúng các mục tiêu do U-17 chỉ thị. Từ 9 giờ 34 phút đến 10 giờ
37 phút, kíp trực ban dẫn đường Nhâm-Phao dẫn 2 đôi bay F-5: Dương Đình Nghi và
Nguyên Văn Kháng, Nguyễn Thanh Xuân và Hoàng Hữu Hiền đánh tiếp đợt 2 . Bom của
4 chiếc F-5 đã rơi trúng vào các mục tiên quan trọng của địch ở bờ bắc suối Đà
Ha (tây bắc Xa Mát 1,5km, cắt qua Đường 22).
Không quân nhân dân Việt Nam lại có thêm một loại máy bay nữa lập chiến
công. F-5 tiêm kích thu được của địch, nhưng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
mang bom đánh mục tiêu trên mặt đất bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc. Ngày
6 tháng 5 năm 1978 được ghi nhận là ngày đánh thắng trận đầu của Trung đoàn
không quân 935.
Trong trận đánh này, với bản lĩnh và trình độ của mình, các phi công:
Lê Khương, Phạm Hy, Nguyễn Thanh Xuân, Nguyễn Văn Kháng, Dương Đình Nghi và
Hoàng Hữu Hiền đã làm chủ được cách đánh, các sĩ quan dẫn đường sở chỉ huy:
Nguyễn Văn Nhâm và Đào Văn Phao đã làm chủ được cách dẫn F-5. Đó là sự đóng góp
rất thiết thực vào chiến công chung của đơn vị. Chiến công đầu của Trung đoàn
935 còn là một trong những mốc lịch sử rất quan trọng của ngành Dẫn đường Không
quân vì ngày 19 tháng 4 năm 1972, ta đã dẫn thành công máy bay tiêm kích MIG-17
mang bom ném trúng tàu khu trục của Mỹ và đến ngày 6 tháng 5 năm 1978, ta lại dẫn
thành công máy bay tiêm kích F-5 mang bom ném trúng các trận địa của quân
Khơ-me đỏ. Trong ngày, không quân ta đã sử dụng 8 lần/chiếc F-5E, 4 lần/chiếc
A-37 và 2 lần chiếc U-17 ném 16 quả bom và 6 thùng rốc-két chi viện hiệu quả
cho các đơn vị của Quân khu 7 và Quân đoàn 3 đuổi địch về phía bên kia biên giới.
Ngày 7 tháng 5 năm 1978, A-37 cơ động chuyển sân về Cần Thơ và cả ba
trung đoàn 935, 937 và 917 bắt tay ngay vào chuẩn bị cho nhiệm vụ chiến đấu mới.
Từ đầu tháng 12 năm 1977 đến cuối tháng 5 năm 1978, trên biên giới Tây
Nam, bộ đội ta đã tiến hành đánh nhiều trận phản công lớn, làm cho địch bị tổn
thất nặng nề cả về sinh lực, súng đạn và cơ sở vật chất bảo đảm chiến đấu,
nhưng chúng vẫn không chịu từ bỏ dã tâm lấn chiếm biên giới và tiến sâu vào đất
ta. Đầu tháng 6 năm 1978, bọn phản động Khơ-me đỏ lại tiến hành bước phiêu lưu
mới, cho 12 sư đoàn bộ binh áp sát toàn tuyến biên giới giữa Việt Nam và
Cam-pu-chia. Trên tuyến biên giới do Quân đoàn 3, Quân khu 7 và Quân đoàn 4 đảm
nhiệm, thường xuyên có 9 sư đoàn địch hoạt động. Tuy bị ta chặn đánh quyết liệt,
nhưng chúng tiếp tục tổ chức lấn chiếm với quy mô ngày càng lớn và ở nhiều khu
vực khác nhau, trong đó tập trung nhất là từ Lò Gò tới Xa Mát. Ở địa bàn Quân
khu 9, địch lấn chiếm đường biên và đánh sang đất ta suốt từ Hà Tiên tới Tịnh
Biên.
Trước tình hình đó, Bộ Tổng Tham mưu quyết định sử dụng lực lượng của
Quân khu 7, Quân khu 9, Quân đoàn 3 và Quân đoàn 4; một phần lực lượng của Quân
chủng Hải quân và Quân chủng Không quân tiến hành chiến dịch phản công, giáng
cho quân Khơ-me đỏ một đòn mạnh, gây cho chúng tổn thất tối đa, đẩy địch ra xa
biên giới Việt Nam-cam-pu-chia, đồng thời hỗ trợ lực lượng cách mạng Cam-pu-chia
nổi dậy. Chiến dịch sẽ được bắt đầu vào ngày 14 tháng 6 năm 1978.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Tư lệnh Quân chủng Không quân, công
tác chuẩn bị chiến đấu trong tất cả các lực lượng không quân phía nam tham gia
chiến dịch được tiến hành rất hiệu quả. Ý định phân chia sử dụng lực lượng
không quân trong tác chiến hiệp đồng là một trong những điểm mấu chốt được Bộ
Tư lệnh tập trung nghiên cứu kỹ và quyết định rất sớm đã tạo điều kiện thuận lợi
cho cấp dưới nhanh chóng hoàn thành các phương án đánh địch và kịp thời cơ động
chiến đấu. Ban Dẫn đường Sư đoàn 372, các tiểu ban Dẫn đường hai trung đoàn
935, 937 và hệ thống Chủ nhiệm Dẫn đường hai trung đoàn 917, 918 đều chuẩn bị
chu đáo các phương án dẫn bay, trước hết là các phương án phục vụ cho các hướng
đánh trọng điểm trong giai đoạn đầu của chiến dịch. Ngày 12 tháng 6 năm 1978,
không quân ta cơ động tập kết lực lượng xong, sẵn sàng chờ lệnh, trong đó có 8
A-37 lên trực chiến tại Biên Hòa.
Tại khu vực tác chiến Xa Mát, trong 2 ngày 23 và 28 tháng 6 năm 1978,
Trung đoàn 935 sử dụng 5 đôi bay F-5 mang bom CBU-58/B, xuất kích từ Biên Hòa,
qua Xa Mát, lần lượt đánh vào các mục tiêu ở khu vực Ph.Lông, trúng tiểu đoàn
154 và trận địa pháo 105mm của địch, tạo thuận lợi cho các đơn vị của Quân đoàn
3 phát triển tiến công lên phía bắc, chiếm được điểm cao 62 (bắc-đông bắc Xa
Mát 15km) án ngữ đường 7. Ngày 30 tháng 6 năm 1978, kíp trực ban dẫn đường
Trung đoàn 935: Nguyễn Văn Nhâm-Nguyễn Văn Hưng dẫn liên tiếp đôi bay F-5:
Dương Bá Kháng-Nguyễn Văn Nuôi và biên đội F-5: Lê Khương-Nguyễn Hữu Lâm-Dương
Đình Nghi-Hoàng Hữu Hiền, mỗi máy bay mang 4 bom MK-82, ngòi nổ phát quang,
đánh vào khu đóng quân của địch ở Ph.Sa Âm (bắc- đông bắc Xa Mát 13,5km), sát
tuyến tiến công của ta. Ngày 2 tháng 7 năm 1978, sau khi củng cố lại lực lượng,
địch cho 1 trung đoàn chiếm lại điểm cao 62. Ngày 3 tháng 7, Trung đoàn 917 cho
2 phi công U-17: Phạm Văn Luỹ-Nguyễn Khắc Tuấn cất cánh từ Trảng Lớn lên trinh
sát và chỉ thị mục tiêu cho 4 A-37 cất cánh từ Biên Hòa vào tiêu diệt cụm quân
của địch ở điểm cao 62, phá huỷ 5 súng 12,7mm, 4 khẩu ĐKZ, cháy 5 xe đạn và diệt
nhiều sinh lực địch, tạo điều kiện cho Quân đoàn 3 tiến công chiếm giữ điểm cao
62. Cùng ngày, tại sở chỉ huy Trung đoàn 935 các thủ trưởng trực chỉ huy: Đinh
Văn Bồng và Nguyễn Trọng tổ chức cho F-5 đánh theo kế hoạch. Kíp trực ban dẫn
đường: Đào Văn Phao tại sở chỉ huy và Nguyễn Văn Hưng trên hiện sóng. Đường
bay: Biên Hòa-Phú Cường-núi Bà Đen-kh.Đar (đông bắc Xa Mát 18km, trên đường 7).
Mỗi F-5E đều mang 4 MK-82- 500 và nạp đầy dầu. 10 giờ 28 phút, đôi bay F-5E thứ
nhất: Lê Khương-Ngô Duy Tuân và 10 giờ 36 phút, đôi bay F-5E thứ hai: Dương
Đình Nghi-Hoàng Hữu Hiền cất cánh. Đến Kh.Đar, phát hiện mục tiêu bên trái 60 độ,
8km, từng đôi một vòng trái vào công kích Ph.Sa Âm và cầu Ph.Sa Âm (đông Ph.Sa
Âm 1km, trên đường 7) 2 lần, theo hướng từ bắc xuống nam, rồi thoát ly về Biên
Hòa. 11 giờ 16 phút, đôi thứ hai hạ cánh. Đợt đánh thứ hai bắt đầu từ 14 giờ 16
phút đến 15 giờ 11 phút, 2 đôi F-5E: Khương-Tuân và Nghi-Hiền tiếp tục xuất kích.
Khi đến gần mục tiêu, do ảnh hưởng của mây, cả 2 đôi đều phải vòng cơ động, đổi
hướng công kích từ nam lên bắc và đều đánh trúng mục tiêu, giúp bộ binh của ta
làm chủ hướng phản công. Trong 2 ngày tiếp theo, 4 và 6 tháng 7 năm 1978, Trung
đoàn 935 tổ chức đánh 3 đợt 14 lần/chiếc F-5 theo lệnh, gây cho địch nhiều thiệt
hại, buộc chúng phải co cụm cố thủ và lùi sâu về bên kia biên giới.
Đầu tháng 7 năm 1978, tại khu vực biên giới thuộc tỉnh Long An, sau
khi đánh sang đất ta, quân Khơ-me đỏ cho 2 tiểu đoàn thuộc trung đoàn 513 của
sư đoàn bộ binh 5 nhanh chóng xây dựng hệ thống trận địa phòng ngự kiên cố ở Lò
Gạch, Vĩnh Trị (tây bắc Mộc Hóa 25km). Căn cứ vào ý định tác chiến của Bộ Tổng
Tham mưu, Quân chủng Không quân giao nhiệm vụ cho Sư đoàn Không quân 372 hiệp đồng
với các lực lượng của Quân đoàn 4 (trong đó có pháo binh) và bộ đội tỉnh Long
An đánh địch tại khu vực Mộc Hóa nhằm lấy lại các vị trí bị chiếm và đẩy lùi địch
sâu về phía bên kia biên giới. Lực lượng không quân tham gia chiến đấu gồm: 2
U-17, 2 UH-1 vũ trang, 2 UH-1 vận tải của Trung đoàn 917, 4 A-37 của Trung đoàn
937 và 6 F-5 của Trung đoàn 935. Công tác chuẩn bị được hoàn tất vào ngày 10
tháng 7 năm 1978.
6 giờ sáng ngày 11 tháng 7 năm 1978, Sở chỉ huy Sư đoàn 372 cho U-17 cất
cánh từ Tân Sơn Nhất, tiến hành trinh sát khu vực Mộc Hóa-Lò Gạch-Vĩnh Trị và
chỉ thị mục tiêu cho pháo binh Quân đoàn 4. Thời tiết tốt, quan sát địa hình và
mục tiêu rất thuận lợi. 6 giờ 40 phút, 2 tổ bay UH-1 vũ trang: Nguyễn Đình
Khoa-Vũ Xuân Cán và Đinh Gia Dục-Lê Phúc Cường cất cánh từ Tân Sơn Nhất, đánh địch
ở Tây Long Khốt 5km (Long Khốt ở bắc-tây bắc Mộc Hóa 22km) và 7 giờ 02 phút, 4
A-37 cất cánh từ Cần Thơ ném bom các mục tiêu ở Lò Gạch. Còn từ Biên Hòa từng
đôi F-5 lần lượt cất cánh, 7 giờ 29 phút, đôi bay thứ nhất: Dương Đình
Nghi-Nguyễn Văn Kháng, 7 giờ 37 phút, đôi bay thứ hai: Lê Khương-Ngô Duy Tuân
và 7 giờ 47 phút, đôi bay thứ ba: Nguyễn Hữu Lâm-Hoàng Hữu Hiền vào đánh các mục
tiêu ở Lò Gạch và Vĩnh Trị sau khi A-37 đã thoát ly. Mỗi chiếc F-5 mang 5 quả bom
Mk-82-500 (1 phá và 4 phát quang), riêng máy bay của phi công Lê Khương chỉ
mang 5 MK-81 và đôi Lâm-Hiền, mỗi máy bay ngoài 5 MK-82, còn mang thêm 2 quả
tên lửa không đối không. Kíp trực ban dẫn đường: Nguyễn Văn Nhâm tại sở chỉ huy
và Đào Văn Phao tại C-51 bám sát từng tốp F-5 bay theo đường bay: Biên Hòa-Phú
Cường- Mộc Hóa-điểm cuối (tây bắc Long Khốt 9km), độ cao 10.000 feet (1 foot
tương đương 0,3048m), tốc độ 350 knot (1 knot tương đương 1,852kmlh). Khi F-5 gần
đến điểm cuối dẫn đường liên tiếp thông báo vị trí mục tiêu. Phi công nhanh
chóng phát hiện từ xa từng mục tiêu được giao. Tại điểm cuối, từng đôi F-5 tiến
hành vòng trái, giảm tốc độ xuống 300 knot, vào đúng hướng công kích 180 độ với
góc bổ nhào 30 độ, giữ điểm ngắm 173 ly giác và thực hiện ném bom ở độ cao
5.500 feet, tốc độ 440 knot. Sau đó kéo lên, từng đôi F-5 vòng trái quay lại
vào ném bom lần thứ hai, rồi thoát ly về Biên Hòa. Đôi Lâm-Hiền ném bom xong,
làm tiếp nhiệm vụ yểm hộ khu vực cho UH-1 đánh và về hạ cánh lúc 8 giờ 30 phút.
Trong đợt 2 từ 10 giờ 30 đến 11 giờ 20 phút, ta chỉ sử dụng F-5. Các
thủ trưởng trực chỉ huy Trung đoàn 935: Đồng Văn Song và Nguyễn Trọng cho 3 đôi
bay: Nghi-Kháng, Khương-Tuân và Lâm-Hiền tiếp tục làm nhiệm vụ giữ nguyên thứ tự
cất cánh, đường bay, độ cao và tốc độ bay, phương pháp vào ném bom và thoát ly
cũng như số lượng bom và tên lửa trên từng máy bay, nhưng chỉ thay đổi: tăng
bom phá lên 3 quả và giảm bom phát quang xuống còn 2 quả. Kíp trực ban dẫn đường
vẫn là Nhâm-Phao.
Đây là trận đánh đạt hiệu quả cao, không quân ta tổ chức thực hiện
đúng kế hoạch hiệp đồng với các đơn vị của Sư đoàn 9, pháo binh Quân đoàn 4 và
bộ đội tỉnh Long An. Dẫn đường lựa chọn các đường bay và hướng công kích cho
UH-1, A-37 và F-5 đều đáp ứng yêu cầu chiến thuật, tính toán các số liệu chính
xác, tiến hành hiệp đồng chặt chẽ với các đầu mối, cho thời gian cất cánh, cơ bản
đúng ý định của thủ trưởng trực chỉ huy. Phi công giữ nghiêm số liệu và đánh
trúng các mục tiêu được giao. Chỉ riêng F-5 đã thực hiện ném 10 quả MK-81 và 50
quả MK-82 vào 5 mục tiêu số 1, 2, 6, 7 và ấp Lò Gạch.
Ngày 12 tháng 7 năm 1978, với đà tiến công mãnh liệt, các lực lượng của
Quân đoàn 4 và bộ đội tỉnh Long An tiếp tục đẩy lùi địch sâu về phía bên kia
biên giới. Chúng điều 2 trung đoàn thuộc sư đoàn bộ binh 2 co cụm lại ở khu vực
tây bắc Khum Chak (bắc-đông bắc Svay Riêng 9km) hòng ngăn chặn hướng phản công
của Sư đoàn 7. Sư đoàn Không quân 372 sử dụng 4 A-37 và 6 F-5 đánh vào các mục
tiêu A2 ở phía tây Ph.Prey Keas 500m (Ph.Prey Keas ở bắc-tây bắc Kh.Chak 2,5km)
và A3 ở Ph.Xvay Chek (tây bắc Kh.Chak 4km).
Trong trận này, hiệu quả hoạt động của F-5 không cao. Đôi thứ nhất ném
bom vào A2 xong, khi thoát ly số 2 để mất đội, kíp trực ban dẫn đường Trung
đoàn 935: Nguyễn Văn Nhâm và Đào Văn Phao phải dẫn về. Còn đôi thứ ba, lúc vào
công kích lần thứ nhất, do nhận dạng nhầm mục tiêu (cách A3 tới 18km về phía
đông nam), nên ném 2 quả bom xuống Ph.Pra sot (đông-đông nam Svay riêng
10,5km), chỉ cách phía trước tuyến tiến công của bộ binh ta có 100m. Sở chỉ
huy, sau khi phát hiện, đã cho đôi thứ ba vòng trái, lấy hướng 300 độ để vào
công kích lần thứ hai đúng mục tiêu quy định.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các sai sót này là do phi công bay số 2 của
đôi thứ nhất phân phối sức chú ý quan sát số 1 khi cơ động chưa tốt và phi công
bay số 1 của đôi thứ ba không giữ đúng số liệu khi bay đến điểm cuối (Kh.
Chak), đồng thời không báo cáo sở chỉ huy trước khi vào công kích. Đối với dẫn
đường, do quá tập trung vào dẫn tốp bị mất đội mà không kịp thời đề nghị Sở chỉ
huy Sư đoàn giúp đỡ xử lý khi tốp thứ ba còn cách Gò Dầu 10km thì trên hiện
sóng bị mất tín hiệu máy bay ta trong 4 phút và không kiểm tra vị trí của tốp
này lúc gần đến mục tiêu. Ngoài ra, việc lựa chọn đoạn đường bay từ Gò Dầu Hạ đến
điểm cuối, chưa thật hợp lý vì mục tiêu nằm bên phải với giãn cách chỉ có 2,5km
mà bay ở độ cao 10.000 feet thì phi công rất khó quan sát.
Được Trung đoàn 935 tổ chức rút kinh nghiệm kịp thời, nên kết quả đánh
địch trong 2 ngày 13 và 15 tháng 7 năm 1978 của F-5 có chuyển biến rõ rệt, góp
phần nâng cao hiệu quả chi viện hỏa lực của không quân ta cho Sư đoàn 7 và Sư
đoàn 9 tiếp tục phản công theo hướng bắc và tây bắc Svay Riêng.
Bộ Tổng Tham mưu đã khen ngợi không quân ta đánh tốt đập tan mưu đồ mở
đợt phản công quy mô lớn của quân Khơ-me đỏ. Đây là trận tiêu diệt nhiều sinh lực
địch nhất kể từ đầu chiến dịch này.
Bị thiệt hại nặng tại khu vực Svay Riêng, địch điều chỉnh lại lực lượng,
sử dụng 5 sư đoàn bộ binh, trong đó có các sư đoàn 2, 2 30, 290...; thành lập
các kho hậu cần, trung tâm thông tin, sở chỉ huy và tập kết pháo binh, xe tăng,
thiết giáp ở khu vực cách Svay Riêng từ 20 đến 26km về phía bắc-tây bắc. Chúng
quyết chặn bằng được các mũi tiến công của Quân đoàn 4. Căn cứ vào mệnh lệnh
tác chiến của Bộ Tư lệnh chiến dịch, Sư đoàn Không quân 372 sử dụng 1 U-17, 4
UH-1 và 1 CH-47 của Trung đoàn 917, 4 A-37 của Trung đoàn 937 và 6 F-5 của
Trung đoàn 935 tập trung hỏa lực đánh vào các mục tiêu được giao ở khu vực
Ph.Chan Trey (tây bắc Kh.Chak 18km).
Sáng 24 tháng 7 năm 1978, Sở chỉ huy Sư đoàn 372 do 2 phi công U-17:
Phạm Văn Luỹ-Phan Huy Tứu cất cánh từ Trảng Lớn. Tình hình thời tiết có xu hướng
phức tạp: 4-7 Cu 400- 700, 4-7 Sc 1.000-1.500, tầm nhìn trên 10km. Tại khu vực
mục tiêu, không quân ta vẫn có thể hoạt động được. U-17 bắn rốc-két khói chỉ thị
cho 4 A-37 đánh trúng trung tâm thông tin và sở chỉ huy của địch. Từ 7 giờ 45 đến
8 giờ 49 phút, 3 đôi F-5 lần lượt vào đánh các vị trí tập kết pháo binh, xe
tăng và thiết giáp. Từ 10 giờ 30 phút đến 11 giờ 47 phút, 4 A-37 và 5 F-5 đánh
tiếp đợt 2. Khi A-37 và F-5 đánh địch, từng đôi UH-1 cất cánh từ Trảng Lớn, rồi
bay chờ ở khu vực phía đông khu chiến từ 8 đến 10km, sẵn sàng vào cấp cứu.
Trong quá trình F-5 làm nhiệm vụ, dẫn đường đã xử lý tốt 2 tình huống: dẫn phi
công vòng lại, vào ném bom lần thứ ba, do quên bật công tắc khi đánh đợt 1 và dẫn
phi công vòng tránh mây kịp thời, đến đúng mục tiêu lúc đánh đợt 2. Không quân
ta đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của Bộ Tư lệnh chiến dịch giao cho, làm tê liệt một
phần lực lượng dự bị rất quan trọng của địch. Đây là một trong những đòn tập
kích rất hiệu quả vào khu vực hậu cứ chiến dịch của đối phương.
Trên vùng biên giới thuộc tỉnh Tây Ninh, ngày 16 tháng 7 năm 1978, tại
khu vực Ph.Sa Âm-điểm cao 62 địch cho 2 tiểu đoàn thuộc sư đoàn 310 dự tính tổ
chức phản kích lại các đơn vị thuộc Quân đoàn 3 đang bố trí ở phía nam đường 7,
quyết giành lại các vị trí đã mất. Để chi viện hỏa lực, không quân ta sử dụng 8
lần/chiếc F-5, chia làm 2 đợt, nhưng tập trung hỏa lực vào 2 mục tiêu chính là
A7 (tây Ph.Sa Âm 500m) và A8 (tây Ph.Sa Âm 1.000m) nằm trên trục đường 7. Ngày
19 tháng 7 năm 1978, tại khu vực phía tây Ph.Sa Âm, địch tập trung lực lượng chủ
yếu của sư đoàn bộ binh 290, có tăng cường thêm xe tăng, chuẩn bị phản công lại
các đơn vị thuộc Quân đoàn 3 đang củng cố trận địa ở Ph.Sa Âm và điểm cao 62.
Sư đoàn 372 tiếp tục cho 8 lần/chiếc F-5 đánh vào 2 mục tiêu tại Ph.Chi Peang
và Ph.Am Puk (tây Ph.Sa Âm 4,5km). Đây là 2 trận đánh chi viện hỏa lực của
không quân cho bộ binh, nhưng mang tính tập kích nhiều hơn vì đều được thực hiện
vào thời điểm địch đang co cụm lực lượng, chuẩn bị đánh lại ta.
Trong tháng 7 năm 1978, ngoài nhiệm vụ bảo đảm cho F-5 và A-37 đánh địch,
Trung đoàn 917 còn hoàn thành tốt hàng trăm chuyến bay đưa cán bộ các cấp ôi nắm
tình hình địch, tổ chức chuẩn bị chiến đấu, tiếp tế súng đạn, thuốc men và chở
thương binh. Đặc biệt, trong những ngày cao điểm các tổ bay UH-1 và CH-47 vận tải
luôn tận tâm làm việc, đáp ứng mọi yêu cầu của người chỉ huy. Tại khu vực Mộc
Hóa-Svay Riêng, từ ngày 10 đến ngày 13 và từ ngày 26 đến ngày 27, đội ngũ dẫn
đường trên không đã trực tiếp thực hiện dẫn bay 132 lần/chiếc, chuyên chở 394
cán bộ, vận chuyển 27,3 tấn hàng và đưa đón 291 thương binh. Tại các khu vực Xa
Mát và Bến Sỏi, trong 2 ngày 17 và 18, dẫn bay 18 lần/chiếc, chở 28 cán bộ,
chuyển 10,1 tấn đạn và đón 38 thương binh... Chuyến bay nào cũng được chuẩn bị
dẫn bay chu đáo, tỉ mỉ, thực hiện dẫn bay đến đúng vị trí, đúng thời gian và bảo
đảm an toàn tuyệt đối.
Sau những thất bại nặng nề trong tháng 7 năm 1978 ở khu vực biên giới
thuộc 2 tỉnh Long An và Tây Ninh, đến tháng 8, bọn phản động Khơ-me đỏ buộc phải
tạm thời giảm bớt các hoạt động lấn chiếm, tìm cách củng cố lại lực lượng, bổ
sung súng đạn, phương tiện bảo đảm và lương thực thực phẩm... Chúng theo đuổi ý
đồ đầy nham hiểm, đẩy cuộc chiến trên biên giới lên quy mô lớn hơn, với mức độ
ác liệt hơn, hòng chiếm giữ lâu dài nhiều vùng đất thuộc lãnh thổ của ta. Từ đầu
tháng 9 năm 1978, các hoạt động lấn chiếm biên giới Việt Nam của quân Khơ-me đỏ
lại tiếp tục tái diễn.
Trước tình hình đó, Bộ Tổng Tham mưu giao nhiệm. cho Quân chủng Không
quân hiệp đồng chặt chẽ với lực lượng của các quân khu, quân đoàn trên tuyến
biên giới Tây Nam, tổ chức đánh địch, chi viện hỏa lực trên hướng chủ yếu: cho
Quân đoàn 4 và trên hướng quan trọng: cho Quân đoàn 3.
Ngày 10 tháng 9 năm 1978, hai trung đoàn bộ binh địch tiến công vào
các vị trí của Quân đoàn 3 đang chốt giữ, bảo vệ đường biên thuộc tỉnh Tây
Ninh. Trung đoàn 935 sử dụng 8 lần/chiếc F-5 chi viện hỏa lực, đánh vào các mục
tiêu theo đúng kế hoạch chiến đấu hiệp đồng.
Ngày 13 tháng 9 năm 1978, quân Khơ-me đỏ điều sư đoàn bộ binh 1 và sư
đoàn bộ binh 5 từ Kompong (Kp) Trabek (tây-tây bắc Svay Riêng 36km) về Svay
Riêng và tổ chức phòng thủ, cố giữ bằng được vị trí trọng yếu này. Chiều 17
tháng 9 năm 1978, chúng chiếm được Prasot và đẩy lui quân ta theo Đường 1 về
phía đông Prasot từ 4 đến 7 km. Ngày 18 tháng 9 năm 1978, để chi viện hỏa lực
cho các đơn vị của Sư đoàn 9 (Quân đoàn 4) đang tổ chức phòng ngự tại khu vực
Prasot, F-5 đánh 2 đợt, mỗi đợt 4 lần/chiếc vào 3 mục tiêu trên vòng cung phía
tây, cách Prasot 1km. Ngày 19 tháng 9 năm 1978, 8 lần/chiếc F-5 đánh tiếp 4 mục
tiêu trên vòng cung phía đông, cách Prasot 5km.
Như vậy, trong đợt hoạt động mở màn này, tuy không quân ta hoạt động tại
các khu vực quen thuộc và số lần xuất kích không nhiều, nhưng các kíp trực ban
dẫn đường: Hoàng Ngọc Hớn-Dương Ngoạn, Đỗ Duy Đản-Nguyễn Văn Nhâm tại sở chỉ
huy và Đào Văn Phao-Dư Văn Thắng trên hiện sóng đều cùng nhau nỗ lực chuẩn bì
chu đáo từng phương án dẫn đường, tính toán số liệu chính xác, hiệp đồng dẫn đường
tỉ mỉ và khi thực hành cả dẫn đường và phi công đều không để xảy ra bất kỳ một
sai sót nào.
Ngày 25 tháng 9 năm 1978, địch tăng cường thêm lực lượng cho hai sư
đoàn bộ binh 1 và 5, trong đó có các loại pháo phòng không 12,7, 14,5 và 37mm.
Chúng tổ chức kìm chân Quân đoàn 4 không cho vào Prasot, đồng thời mở hướng tiến
công xuống phía Mộc Hóa và dự tính trước ngày 1 tháng 10 năm 1978 sẽ đẩy lùi
quân ta ra khỏi các vị trí mà chúng đã chiếm được từ đầu tháng 7 năm 1978. Sư
đoàn 372 tiếp tục đưa F-5 vào đánh và có sử dụng thêm RF-5 để trinh sát đường
không. Căn cứ vào ý định chiến đấu của sư đoàn bạn, các thủ trưởng trực chỉ huy
Trung đoàn 935: Nguyễn Văn Nghĩa và Phan Minh Thành tổ chức đánh hai đợt, mỗi đợt
cách nhau 3 giờ. Kíp trực ban dẫn đường: Hoàng Ngọc Hớn và Đỗ Duy Đản tại sở chỉ
huy, Đào Văn Phao và Dư Văn Thắng trên hiện sóng tại C-51 phối hợp cùng nhau dẫn
F-5 đánh theo kế hoạch.
Đợt 1 ta hoạt động từ 12 giờ 40 đến 15 giờ 03 phút, 5 đôi F-5 đánh 3 mục
tiêu: E6 (đông-đông nam Prasot 4,5km, dọc theo Đường 1), E1 (Prasot) và E3 (bắc-tây
bắc Prasot 6km), đường bay: Biên Hòa-Phú Cường-Gò Dầu Hạ-mục tiêu-Biên Hòa, hướng
công kích 160 độ. 3 đôi bay: Lê Khương-Nguyễn Văn Nhượng, Ngô Duy Tuân-Nguyễn
văn Ớt và Dương Đình Nghi-Nguyễn Văn Kháng tập trung đánh vào E6, đôi bay: Nguyễn
Thanh Xuân-Nguyễn Văn Nuôi đánh E1 và đôi bay: Phạm Hy - Phạm Văn Đức đánh E3.
Cùng hoạt động trong đợt này, từ 14 giờ 14 đến 14 giờ 54 phút, phi công RF-5:
Hoàng Hữu Hiền bay trinh sát theo đường bay: Biên Hòa-Phú Cường-Tây Ninh-E1-
E3-Biên Hòa. Khi đến đến mục tiêu, phi công thực hiện chụp ảnh từ độ cao 3.000
feet với tốc độ 420 knot, rồi về hạ cánh. Đợt 2 được tiến hành từ 15 giờ 20 đến
15 giờ 59 phút, 2 đôi F-5 đánh 2 mục tiêu: V6 (đông-đông bắc Lò Gạch 12,5km) và
V2 (đông bắc Lò Gạch 11km), đường bay: Biên Hòa-Phú Cường-Mộc Hóa-mục tiêu-Biên
Hòa, hướng công kích 190 độ. Các đôi bay Khương-Nhượng đánh V6 và Xuân-Nuôi
đánh V2.
Trong trận này, hai đường bay chi viện hỏa lực và một đường bay trinh
sát do dẫn đường đề xuất đều đáp ứng yêu cầu chiến thuật, phát huy được yếu tố
bất ngờ. Tại E6, địch bị thiệt hại nặng cả về sinh lực và vũ khí, trang bị; tại
E1, 1 sở chỉ huy tiểu đoàn bị phá huỷ và tại V6, 2 đại đội bộ binh bị tiêu diệt.
Tuy nhiên, khi vào công kích E3, do phi công nhận dạng nhầm mục tiêu, nên bom
đã rơi xuống vị trí cách E3 khoảng 4km về phía đông bắc, nơi có lực lượng bộ
binh của ta. Đây là một sai lầm rất nghiêm trọng trong chi viện hỏa lực. Ngoài
ra, lần đầu tiên dung RF-5 trinh sát chụp ảnh, nên kết quả còn thấp, nhưng
nguyên nhân chính là do chuẩn bị không kỹ cả về cách bay và cách dẫn.
Ngày 26 tháng 9 năm 1978, F-5 được giao đánh 3 mục tiêu V3 (đông bắc
Lò Gạch 18,5km), E9 (bắc-tây bắc Svay Riêng 8km) và E10 (bắc-tây bắc Svay Riêng
4,5km). Căn cứ vào yêu cầu của nhiệm vụ và tính chất của mục tiêu, trung đoàn
đã phân chia sử dụng F-5 như sau: Đợt 1, cho 2 đôi đánh V3, 3 đôi đánh E9 và đợt
2, cho 2 đôi đánh E10. Dẫn đường đề nghị chỉ dùng đường bay xuống phía Mộc Hóa
như hôm trước, nhưng từ Mộc Hóa đến mục tiêu ta không bay ở độ cao 10.000 feet
mà giữ 15.000 feet để đề phòng hỏa lực phòng không 37mm của địch, sau khi thấy
tốt mục tiêu sẽ giảm ngay độ cao và tốc độ, rồi vòng phải vào bổ nhào xuống mục
tiêu. 7 giờ 50 phút, sở chỉ huy Trung đoàn 935 vào cấp 1 và cho mở ra-đa. Kíp
trực ban dẫn đường: Nguyễn Văn Nhâm- Dương Ngoạn tại sở chỉ huy, Đào Văn Phao-
Dư Văn Thắng trên hiện sóng vào vị trí công tác. Thứ tự cất cánh đánh V3: 8 giờ
39 phút, đôi bay: Ngô Duy Tuân- Mai Văn Sách và 5 phút sau, đôi bay: Nguyễn
Thanh Xuân-Nguyễn Văn Ớt; đánh E9: 9 giờ 07 phút, đôi bay: Nguyễn Văn Nhượng- Nguyễn
Văn Kháng, 9 giờ 13 phút, đôi bay: Nguyễn Hữu Lâm- Đỗ Viết Nhã và 9 giờ 17
phút, đôi bay: Phạm Hy- Phạm Văn Đức. Đợt 2, đánh E10: Đôi bay: Dương Đình
Nghi- Nguyễn Văn Nuôi cất cánh lúc 13 giờ 05 phút và đôi cuối cùng: Ngô Duy
Tuân- Nguyễn Văn Kháng, 13 giờ 10 phút, rời đường băng Biên Hòa. Những sai lầm
và thiếu sót của hôm trước đã cơ bản được khắc phục, F-5 hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao.
Tháng 9 năm 1978, căn cứ vào mệnh lệnh tác chiến của Quân chủng Không
quân, để tăng cường lực lượng chiến đấu bảo vệ và giữ yên biên giới Tây Nam của
Tổ quốc Trung đoàn 925 nhận nhiệm vụ cơ động chuyển sân Mig-19 từ Phù Cát vào
Biên Hòa. Kế hoạch bảo đảm dẫn đường kịp thời được triển khai ngay ở tất các
đơn vị có liên quan trên toàn tuyến cơ động chuyển sân. Đội ngũ dẫn đường sở chỉ
huy nhanh chóng lên đường: 2 trợ lý dẫn đường của Sư đoàn 370 là Đỗ Long và Phạm
Tân Thuần được bổ sung cho ban Dẫn đường Sư đoàn 372 và 2 trợ lý dẫn đường của
Trung đoàn 925 là Hà Văn Bền và Trần Văn Quang vào Biên Hòa phối hợp với Tiểu
ban Dẫn đường Trung đoàn 935 để cùng thực hiện dẫn MIG-19 làm nhiệm vụ. Như vậy,
công tác bảo đảm dẫn đường ở Biên Hòa ngày càng trở nên phức tạp và nặng nề hơn
vì tại đây ngoài F-5 còn có cả MiG-21, MiG-17 và MiG-19. Đây chính là một trong
những mốc lịch sử rất quan trọng của Tiểu ban Dẫn đường Trung đoàn 935: Một tiểu
ban được đảm nhiệm dẫn tất cả các kiểu loại máy bay tiêm kích có trong trang bị
của Không quân nhân dân Việt Nam tham gia chiến đấu trên chiến trường Tây Nam,
trong đó dẫn đánh mục tiêu trên mặt đất là nhiệm vụ trung tâm, dẫn yểm hộ, sẵn
sàng đánh mục tiêu trên không là nhiệm vụ quan trọng.
Trong khoảng thời gian tháng 10 và 11 năm 1978, tình hình chiến sự
trên biên giới Tây Nam tạm lắng. Đây là dấu hiệu rất bất thường. Đến đầu tháng
12, một số đơn vì tinh nhuệ của địch bắt đầu đánh vào nhiều vị trí trọng yếu của
ta. Tiếp sau đó, bọn phản động Khơ-me đỏ liều lĩnh điều động 19 sư đoàn trong tổng
số 24 sư đoàn của chúng áp sát biên giới Việt Nam, bộc lộ rõ ý đồ dùng sức mạnh
quân sự, tiến công quy mô lớn, đánh chiếm một số tỉnh biên giới, làm bàn đạp tiến
công sâu vào nội địa nước ta. Tình hình biên giới Tây Nam trở nên cực kỳ căng
thẳng. Toàn bộ mọi động thái của địch đều được ta theo dõi, phân tích và đánh
giá rất nghiêm túc và toàn diện.
Để thực hiện quyết tâm tác chiến bảo vệ vững chắc biên giới Tây Nam,
toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế và khôi phục
tình đoàn kết hữu nghị truyền thống giữa hai nước Việt Nam - Cam- pu-chia, đồng
chí Lê Trọng Tấn - Tư lệnh Mặt trận Tây Nam trực tiếp giao nhiệm vụ cho Quân chủng
Không Quân. Ta sử dụng lực lượng của 3 quân khu, 3 quân đoàn và một phần lực lượng
của Quân chủng Không quân và Hải quân phối hợp hiệp đồng với lực lượng cách mạng
của bạn, mở chiến dịch đánh trả mạnh mẽ, tranh thủ thời cơ thuận lợi tiến hành
phản công quyết liệt, tạo mọi điều kiện chuyển sang tiến công chiến lược, tiêu
diệt lực lượng vũ trang, đánh đổ tập đoàn phản động Khơ-me đỏ Pôn-pốt
Iêng-xa-ry, giúp nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi thảm họa diệt chủng. Mọi công
tác chuẩn bị phải được tiến hành thật chu đáo, đầy đủ, hết sức bí mật và nhanh
chóng để chiến dịch Tây Nam có thể bắt đầu vào ngày 23 tháng 12 năm 1978.
Công tác chuẩn bị cho chiến dịch được Quân chủng tổ chức triển khai đồng
bộ và nhịp nhàng từ trên xuống dưới, từ cơ quan đến đơn vị. Ngoài các tin tức về
địch do cấp trên thường xuyên thông báo xuống, kết quả trinh sát điện tử và chụp
ảnh của các chuyến bay do các tổ bay EC-47 và C-130 trong ngày 6 tháng 12 năm
1978 đã trực tiếp làm rõ thêm thực trạng một số mục tiêu quan trọng trên chiến
trường.
Quân chủng lấy Sư đoàn 372 làm lực lượng nòng cốt trong chiến dịch này,
đồng thời điều thêm lực lượng của các đơn vị khác vào phối thuộc chiến đấu và bảo
đảm chiến đấu cho Sư đoàn 372. Ta vừa xây dựng quyết tâm và làm kế hoạch chiến
đấu, vừa tổ chức cơ động chuyển sân và củng cố các sân bay. Ngày 18 tháng 12
năm 1978, 1 phi đội MiG-21 có đủ trình độ đánh địch cả ban ngày và ban đêm của
Trung đoàn 921 từ Nội Bài vào Biên Hòa để ngày 25 tháng 12 sẽ bắt đầu trực chiến.
4 Mi-6 của Trung đoàn 916 và một số C-130, C-119k và EC-47 của Trung đoàn 918
(từ giữa năm 1978, Trung đoàn 918 trực thuộc Quân chủng) cũng được tăng cường
cho Sư đoàn 372. Công tác bảo đảm dẫn đường trên toàn tuyến Bắc Nam của ngành Dẫn
đường đã kịp thời đáp ứng ngay các yêu cầu cơ động chuyển sân của Quân chủng và
của các đơn vị. Đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy ở phía bắc tiếp tục vào tăng cường
cho Tiểu ban Dẫn đường Trung đoàn 935, bao gồm 3 trợ lý dẫn đường Trung đoàn
921 là Khổng Vũ Bằng, Đoàn Văn Bình, Trương Thanh Lương và 2 trợ lý dẫn đường
Sư đoàn 371 là Dương Minh Phương và Trần Hồng Thái.
Căn cứ vào ý định của Quân chủng, Sư đoàn 372 thành lập 2 sở chỉ huy
phía trước là F-1 đặt tại Bến Cầu, F-2 tại Châu Đốc và 5 Tổ tham mưu chiến dịch
(tham mưu không quân) theo hướng tác chiến của các quân khu, quân đoàn và Quân
chủng Hải quân. Các Tổ tham mưu chiến dịch đều được biên chế gọn mạnh về quân số
và có đủ thiết bị thông tin liên lạc theo đúng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Tổ
tham mưu chiến dịch theo hướng tác chiến của Quân đoàn 4 do đồng chí Trần Văn Lại
phụ trách, đồng chí Phạm Tường Thuật trợ lý dẫn đường Trung đoàn 935 được cử đi
hướng này; theo hướng tác chiến của Quân khu 5, Quân đoàn 2 và Quân chủng Hải
quân do đồng chí Lê Hải, Tham mưu trưởng sư đoàn phụ trách, trung úy Hoàng Đức
Hạnh, trợ lý dẫn đường sư đoàn được phân công đi cùng; theo hướng tác chiến của
Quân khu 7 do đồng chí Thái Công Thuấn, Trưởng ban Tác chiến sư đoàn phụ trách,
có thiếu úy Lưu Thế Nghiệp trợ lý dẫn đường Trung đoàn 937; theo hướng tác chiến
của hướng Quân đoàn 3 do đồng chí Lê Minh Đức phụ trách, có thiếu úy Hồ Hạnh,
trợ lý dẫn đường Trung đoàn 935 và theo hướng tác chiến của hướng Quân khu 9 do
Phó Tham mưu trưởng sư đoàn Tưởng Phi Đằng phụ trách, có thiếu úy Hà Khắc Hồng
trợ lý dẫn đường Trung đoàn 937 tham gia.
Về hệ thống sân bay: Sân bay Biên Hòa được chọn làm căn cứ trung tâm,
2 sân bay trọng điểm là Cần Thơ và Tân Sơn Nhất, các sân bay phía trước là
Dương Minh Châu, Trảng Lớn, Thất Sơn, Phú Quốc, Plei Ku... Tất cả đều được
nhanh chóng củng cố nhằm bảo đảm cho tất cả các loại máy bay và trực thăng của
không quân ta hoạt động thật hiệu quả, đáp ứng mọi yêu cầu của các nhiệm vụ
trên giao trong chiến dịch này.
Ngày 23 tháng 12 năm 1978, Quân đoàn 4 nổ súng mở màn chiến dịch Tây
Nam, tiến hành bao vây, chia cắt đội hình 3 sư đoàn 271, 703 và 340 của địch ở
khu vực rừng Hòa Hội (tây-tây bắc Tây Ninh 23km). Trung đoàn 935 được giao nhiệm
vụ chi viện hỏa lực cho các đơn vị đánh trên hướng chủ yếu của Quân đoàn 4. Thủ
trưởng trực chỉ huy quân sự và chính trị Nguyễn Văn Nghĩa và Phan Sinh Thành
yêu cầu kíp trực ban dẫn đường tập trung kiểm tra kỹ các phương án dẫn đường,
hiệp đồng chặt chẽ với các đầu mối, phân chia công việc rõ ràng, bình tĩnh phối
hợp cùng nhau xử lý mọi tình huống, nhất là khi có không quân địch xuất hiện. Tại
Biên Hòa, lực lượng làm nhiệm vụ trực chi viện hỏa lực gồm 2 biên đội và 1 đôi
F-5. Các máy bay này, ngoài mang bom, đều mang 2 tên lửa không đối không. Trực
tiêm kích yểm hộ cho F-5 có 2 đôi MiG-21, 2 đôi MiG-19 và 1 đôi MiG-17. Trên
sân bay Dương Minh Châu có 1 U-17, 2 đôi UH-1 vũ trang và 1 UH-1 vận tải sẵn
sàng cất cánh theo lệnh.
Kíp trực ban dẫn đường Sư đoàn 372 chịu trách nhiệm dẫn chính MiG-21,
19, 17 và theo dõi các chuyến bay của Trung đoàn 917. Kíp trực ban dẫn đường
Trung đoàn 935: Nguyễn Văn Nhâm-dương Ngoạn tại sở chỉ huy và Nguyễn Văn Hưng
và Phí Đình Khang trên hiện sóng tại C-51 tập trung dẫn F-5. Các kíp trực ban dẫn
đường đều hiệp đồng chặt chẽ với đồng chí Phạm Tường Thuật trợ lý dẫn đường
theo hướng tác chiến của Quân đoàn 4. Đúng 15 giờ, không quân ta bắt đầu hoạt động.
2 phi công U-17: Phan Huy Tứu-nguyễn Văn Sửu lên trinh sát. Từ 15 giờ 15 đến 16
giờ 0 5 phút, 3 tốp F-5 lần lượt cất cánh và bay theo đường bay: Biên Hòa-Phú
Cường-núi Bà Đen, rồi vòng trái về phía mục tiêu. Tốp thứ nhất, biên đội: Dương
Đình Nghi-Hoàng Thành-Nguyễn Văn Kháng-Nguyễn Thăng Thắng. Tốp thứ hai, 3 phi
công: Nguyễn Hữu Lâm-Nguyễn Văn Nuôi-Nguyễn Văn Ớt. Tốp thứ ba, đôi bay: Nguyễn
Thanh Xuân-Mai Văn Sách. Với 9 lần/chiếc chi viện hỏa lực, F-5 đánh trúng Sở chỉ
huy Sư đoàn 703 và các trận địa pháo của địch ở khu vực Hòa Thanh (nam Hòa Hội
7km). Trong khi F-5 đánh, kíp trực ban dẫn đường sư đoàn dẫn MiG-21 và MiG-17
lên yểm hộ tại khu vực Svay Riêng và điều hành UH-1 cất cánh đúng ý định của thủ
trưởng trực chỉ huy. Ngày hôm sau, 24 tháng 12, Quân đoàn 4 đẩy nhanh tốc độ
truy kích địch trên hướng chủ yếu, không quân ta cho tiếp 4 lần/chiếc F-5 lên
chi viện hỏa lực, đánh trúng 1 trong 2 mục tiêu được giao ở Kp. Trach (tây-tây
bắc Hòa Hội 13km).
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời gian Quân đoàn 4 đánh mạnh, tiến
xa trên hướng chủ yếu của chiến dịch Tây Nam và các quân khu, quân đoàn khác tiến
hành các đòn phản công trên các hướng quan trọng, từ cuối tháng 12 năm 1978, lực
lượng trực chiến của Quân chủng Không quân trên các sân bay ngày càng tăng,
không những đối với lực lượng chi viện hỏa lực mà cả đối với các lực lượng yểm
hộ và phục vụ, bảo đảm khác. Khi tiến hành chi viện hỏa lực, ngoài F-5, A-37 và
UH-1 vũ trang, sẽ có thêm C-130, C-119K với tầm hoạt động xa hơn và lượng mang
bom đạn lớn hơn. Điều kiện thời tiết đánh các mục tiêu trên mặt đất không chỉ
ban ngày mà cả ban đêm. Lực lượng MiG-21, MiG-19 và MiG-17 đều đã sẵn sàng cất
cánh chặn đánh không quân địch, nếu chúng liều lĩnh xuất hiện.
Để chuẩn bị chi viện hỏa lực cho Quân khu 5, không quân ta khẩn trương
tiến hành cơ động chuyển sân. Ngày 23
tháng 12 năm 1978, Trung đoàn 917 đưa lên Plei Ku: 6 UH-1, 2 U-17 và 1 CH-47 do
đồng chí Nguyễn Xuân Trường chỉ huy. Ngày 25 tháng 12, Trung đoàn 918 cho 2
C-119K từ Tân Sơn Nhất lên Plei Ku do đồng chí Lê Năng đảm nhiệm và chở Tổ tham
mưu chiến dịch của đồng chí Lê Hải. Ngày 27, 2 C-130 cơ động lên Biên Hòa. Một
phần lực lượng F-5, MiG-19 tại Biên Hòa và MiG-19 tại phù Cát cũng đã được Quân
chủng Không quân đưa vào kế hoạch tác chiến trên hướng này.
Sau khi được quán triệt ý định tác chiến của Quân khu 5 là sử dụng hai
sư đoàn bộ binh 307 và 309, Trung đoàn thiết giáp 574 và Trung đoàn pháo binh
572, chia làm hai hướng, bao vây tiêu diệt sư đoàn 801 và trung đoàn 15 của địch,
phát triển thọc sâu vào hậu cứ quân khu Đông Bắc của Khơ-me đỏ nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho phong trào nổi dậy của nhân dân Cam-pu-chia tại vùng này và nắm
chắc các mục tiêu quan trọng cần phải đánh; đội ngũ dẫn đường trên không trong
các tổ bay nhanh chóng hoàn thành các phương án dẫn bay theo từng nhiệm vụ cụ
thể của mình, đặc biệt là dẫn C-130, C119k tập kích vào các mục tiêu nằm trong
hậu phương của địch và trực ban dẫn đường tại các sở chỉ huy kịp thời hiệp đồng,
thông báo các phương án dẫn bay đã được phê chuẩn đến các đầu mối.
Sáng 28 tháng 12 năm 1978, lực lượng kỹ thuật của Trung đoàn 918 tập
trung lắp bom MK-81 lên C-130 và lắp đạn cối lên C-119K, đội ngũ dẫn đường trên
không của các tổ bay tiến hành rà soát lại các số liệu đường bay, kiểm tra các
thiết bị dẫn bay và hệ thống máy ngắm, kíp trực ban dẫn đường tại các sở chỉ
huy hiệu chỉnh lại thứ tự thời gian cất cánh của tất cả các tốp trinh sát, tập
kích, yểm hộ và bảo đảm. Mọi mặt công tác chuẩn bị trực tiếp cho nhiệm vụ chiến
đấu đều được hoàn thành xong trước thời hạn quy định của Quân chủng. Tất cả tập
trung chờ lệnh xuất kích.
Tại sở chỉ huy Plei Ku đồng chí Lê Hải cho 2 U-17 lần lượt lên trinh
sát khu vực phía tây Đường 19 và đường 94. Ngay lập tức các thông tin về thời
tiết và các vị trí khả nghi có địch đã được đồng chí Hoàng Đức Hạnh, trợ lý dẫn
đường hướng Quân khu 5, ghi chép đầy đủ và đánh dấu lên bản đồ công tác của Tổ
tham mưu chiến dịch.
11 giờ 20 phút, theo lệnh của Sở chỉ huy Sư đoàn 372, tổ bay C-130 thứ
nhất do lái chính Tiêu Khánh Nha chỉ huy, trong đó có dẫn đường trên không Đặng
Văn Lự và tiếp theo là tổ bay C-130 thứ hai do lái chính Phan Hữu Hùng, dẫn đường
trên không Đỗ Tuấn rời đường băng Biên Hòa. 11 giờ 49 phút, đôi bay F-5: Nguyễn
Văn Nuôi- Mai Văn Sách cất cánh yểm hộ cho C-130 và kíp trực ban dẫn đường sư
đoàn dẫn vào bay tại khu vực Lộc Ninh- Ph. Cha Nêng (đông bắc Lộc Ninh 39km)-Đồng
Xoài. C-130 lấy độ cao, vào W1 và bay lên Plei Ku. Vào lúc này, theo kế hoạch
tác chiến của Quân chủng Không quân, Sở chỉ huy Sư đoàn 370 lệnh cho 4 MiG-19 tại
Phù Cát cất cánh. Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 925 dẫn MiG-19 vào khu vực
cách Plei Ku 40km về phía tây bắc bay yểm hộ cho C-130. Còn Trung đoàn 917 cho
2 UH-1 từ Plei Ku, bay theo hướng tây vào khu vực trực cấp cứu. C-130 đến Plei
Ku, vòng trái, rồi bay qua điểm cuối K1 (Ph.Kampadou ở ngã ba sông, tây-tây nam
Plei Ku 65km). Tổ bay thứ nhất vào đánh mục tiêu K4 (Virâcheăy-vi Ra Chây), tổ
bay thứ hai đánh K3 (Bung Lung). Mỗi tổ ném 2 loạt mỗi loạt ném một nửa số lượng
bom mang theo. Loạt bom đầu tiên của tổ bay thứ nhất rơi vào mép bên trái khu
A, còn loạt bom sau trúng vào khu B của K4. Tổ bay thứ hai ném loạt đầu, điểm nổ
so với tâm mục tiêu K3 lệch trái 500m và loạt cuối cùng lệch phải 300m. C-130
thoát ly khỏi khu vực chiến đấu về Biên Hòa hạ cánh. 12 giờ 40 phút, đôi bay
MIG-19: Vũ Công Thuyết-Phạm Văn Đích cất cánh từ Biên Hòa, bay yểm hộ tại khu vực
Bến Cầu- Kh Đar và đến 13 giờ 45 phút, đôi bay F-5: Dương Đình Nghi-Nguyễn Khắc
Chiến tiếp tục lên yểm hộ tại khu vực Phước Hòa (Bù Gia Mập)-Tuy Đức (đông bắc
Phước Hòa 35km)-Phước Tâm (Bù Đăng).
Từ Plei Ku, C-119K cất cánh đánh vào K2 (Bâ Kêv), nhưng rất tiếc, do sự
cố kỹ thuật đột xuất, nên chỉ có 1 chiếc tham gia. Sau khi phát hiện mục tiêu,
lái chính Trần Văn Tuyên đưa máy bay vào đúng hướng tiếp cận mục tiêu, giữ ổn định
trạng thái bay bằng, độ cao và tốc độ bay. Dẫn đường trên không Nguyễn Khắc Thọ
lấy phần tử ngắm. Loạt thứ nhất, 60 quả đạn cối 82mm rơi đúng vào sở chỉ huy của
Sư đoàn 801 Khơ-me đỏ. C-119K vòng lại, ném tiếp loạt thứ hai, 72 quả đạn cối
còn lại đều rơi vào khu vực K2. Đúng lúc này, lái chính Trần Văn Tuyên cảm thấy
trạng thái máy bay có biểu hiện bất thường. Anh bình tĩnh giữ chắc tay lái và
điều khiển máy bay bay về Plei Ku hạ cánh an toàn. Ngay sau đó, nguyên nhân đã
được tổ kỹ thuật làm rõ: cánh thăng bằng ngang của C-119K bị biến dạng do thùng
chứa các quả đạn cối va phải khi rời khỏi máy bay. C 130 và C-119K của Trung
đoàn 918 lập công đánh thắng trận đầu trong chiến dịch Tây Nam. Các đồng chí dẫn
đường trên không Đặng Văn Lự, Đỗ Tuấn và Nguyên Khắc Thọ đã dẫn thành công máy
bay vận tải C-130 và C-119K, được cải tiến mang bom đạn, tập kích vào các mục
tiêu nằm trong hậu phương của địch, đồng thời ghi thêm một chiến công vẻ vang cho
ngành Dẫn đường Không quân.
Sau khi C-119k đánh mục tiêu K2, 4 UH-1 từ Plei Ku cơ động đến sân bay
phía trước Đức Cơ (tây-tây nam Plei Ku 44km) và cất cánh theo lệnh gọi đánh vào
tuyến phòng thủ của địch. Đến chiều, UH-1 vũ trang tiếp tục thực hiện chi viện
hỏa lực cho các đơn vị của Quân khu 5.
Sáng 29 tháng 12 năm 1978, 2 C-130 đánh theo kế hoạch vào mục tiêu K3
lần thứ hai và 3 UH-1 vũ trang, được 2 U-17 chỉ thị mục tiêu, đánh theo lệnh gọi
vào K2. Bộ đội Quân khu 5 phản công và làm chủ chiến trường. Ngay chiều 29,
toàn bộ lực lượng của không quân ta tại Plei Ku cơ động chuyển sân về Tân Sơn
Nhất để chuẩn bị cho nhiệm vụ chiến đấu mới.
Trong lúc Quân khu 5 phản công giành thắng lợi trên trục Đường 19, 94
và tiến thẳng vào hậu cứ quân khu Đông Bắc của quân Khơ- me đỏ thì bộ đội Quân
khu 7 đánh rất thuận lợi, phản công nhanh theo trục Đường 13 lên phía bắc. Địch
rút chạy, nhưng mưu đồ của chúng là sẽ cùng với các lực lượng phía sau tạo ra một
tuyến phòng thủ mới tại khu vực Kra Chie (Cro Chê). Trước tình hình đó, để thực
hiện đứng ý định tác chiến của Bộ Tư lệnh chiến dịch, ngày 30 tháng 12 năm
1978, Trung đoàn 935 được giao nhiệm vụ tập kích vào các mục tiêu Ki (bến phà
Kra Chie) và K2 (khu tập trung quân phía tây bến phà Kra Chie) trước khi quân
ta tiến sát đến phía đông sông Mê Công.
15 giờ 20 phút, đôi bay F-5: Ngô Duy Tuân-Nguyễn Thăng Thắng và 5 phút
sau, đôi bay MiG-21: Hoàng Quốc Dũng-Nguyễn Văn Toàn cất cánh. Kíp trực ban dẫn
đường Trung đoàn 935 dẫn F-5 và MiG-21 vào bay yểm hộ khu vực sau đó cho các
đôi F-5 làm nhiệm vụ tập kích vào K1 và K2 lần lượt mở máy theo kế hoạch. 15 giờ
58 phút, đôi bay F-5 thứ nhất: Dương Đình Nghi-số 1 và Bùi Văn Ký- số 2 cất
cánh. Số 1, do không nâng được bánh trước, đã chủ động dừng lại. Còn số 2, theo
lệnh của chỉ huy bay, tiếp tục lên. Khi đôi F-5 thứ hai mở máy thì máy bay của
phi công Lê Kim Toán bị hỏng, nên đến 16 giờ 09 phút, đội trưởng Nguyễn Thanh
Xuân mới rời đường băng. 16 giờ 19 phút, đôi bay F-5 thứ ba: Phạm Hy-Nguyễn Văn
Ớt cất cánh và không gặp sự cố kỹ thuật nào. Ngay lập tức, thủ trưởng trực chỉ
huy trung đoàn Nguyễn Văn Nghĩa ra lệnh cho 3 tốp F-5 chỉ tập trung đánh K1 và
giữ đúng cách bay đã được chuẩn bị. Từ Phú Cường, qua Snoul (bắc-tây bắc Lộc
Ninh 31km) và đến gần mục tiêu F-5 bay ở độ cao từ 1 000 feet đến 2.000 feet,
sau đó kéo cao lên 10.000 feet, rồi vòng lại vào bổ nhào theo hướng 170- 180 độ.
Bom của F-5 đánh trúng đầu đông của bến phà Kra Chie, Sở chỉ huy Sư đoàn 260 và
1 trận địa pháo của địch. Khi F-5 còn đang đánh, sở chỉ huy Trung đoàn 935,
phát hiện trên không có địch và dẫn ngay đôi MiG-21 Dũng-Toàn vào, nhưng sau đó
lại mất mục tiêu.
Đây là một trong những ngày không quân ta hoạt động đạt hiệu quả thấp.
Ngoài nguyên nhân về kỹ thuật hàng không, phi công số 2 của đôi F-5 thứ nhất đã
bay lệch khá xa mục tiêu do chuẩn bị dẫn đường không kỹ cả về số liệu bay và
cách nhận dạng địa tiêu. Còn dẫn đường tại sở chỉ huy đã không kịp thời nhắc nhở
phi công F-5 khi thấy vết bay thực tế sai lệch quá lớn.
Trong thời gian Quân khu 7 đánh địch trên Đường 13 thì Quân đoàn 3 tiến
hành phản công mãnh liệt dọc theo trục đường 7: từ khu vực Mi mốt (bắc núi Bà
Đen 50km), qua Ph.Kreh (tây-tây nam Mi mốt 28km) và lên phía Kông Pông Chàm.
Ngày 31 tháng 12 năm 1978, Trung đoàn 935 tổ chức đánh hai đợt vào 2 mục tiêu
T1 ở Kh.Suông (đông nam Kông Pông Chàm 22km) và T5 tại Phumi Kândan Chrum (đông
nam Kông Pông Chàm 38km) nhằm chi viện cho các đơn vị của Quân đoàn 3 tiến
nhanh hơn. Kíp trực ban dẫn đường trung đoàn: Đào Văn Phao-Đỗ Duy Đản tại sở chỉ
huy và Nguyễn Văn Hưng trên hiện sóng chịu trách nhiệm dẫn chính.
Đợt 1 F-5 bắt đầu hoạt động từ 7 giờ 50 phút đến 9 giờ 56 phút 30
giây. Biên đội thứ nhất: Lê Khương-Nguyễn Văn Ớt-Phạm Hy-Nguyễn Văn Nuôi bay
theo đường bay: Biên Hòa-phú Cường-núi Bà Đen-Mimốt vào đánh T1. Biên đội thứ
hai: Dương Đình Nghi-Hoàng Thành-Nguyễn Văn Kháng-Nguyễn Thăng Thắng cũng bay đến
Mi mốt, nhưng vào đánh T5. Đợt 2 từ 14 giờ 24 phút 45 giây đến 15 giờ 29 phút
30 giây. 3 đôi bay: Nguyễn Thanh Xuân- Mai Văn Sách, Dương Bá Kháng-Hoàng Hữu
Hiền và Nguyễn Văn Kháng-Phí Đức Quỳ tiếp tục tập trung đánh T1. Nhưng sau khi
bay qua núi Bà Đen, F-5 không lên Mi mốt mà vòng sang Thiện Ngôn rồi mới vào
T1.
Trong trận đánh này kíp trực ban dẫn đường trung đoàn đã phát huy cách
dẫn bay thấp, lựa chọn chính xác vị trí kéo cao và điểm bắt đầu vòng vào bổ
nhào, tạo thuận lợi cho phi công sau khi cải hướng chiến đấu, thực hiện công
kích mục tiêu được ngay, đồng thời xử lý nhanh chóng hai trường hợp khi phi
công phát hiện nhầm mục tiêu trước lúc vào công kích. Kíp trực ban dẫn đường Sư
đoàn 372 luôn theo dõi chặt chẽ 3 UH-1 bay sẵn sàng cấp cứu và 3 đôi MiG-19,
MiG-21 và MIG-17 bay yểm hộ khu vực. Dẫn đường đã thực hiện dẫn đánh đúng ý định
của người chỉ huy là vừa tiêu diệt địch vừa gây ùn tắc trước khi chúng rút chạy
về Kông Pông Chàm. Hiệu quả đánh địch đã được nâng lên rõ rệt.
Trước khả năng phát triển rất thuận lợi trên toàn chiến trường, Quân
chủng Không quân đã chỉ đạo cho Sư đoàn 372 chuẩn bị thật chu đáo về mọi mặt để
sẵn sang đưa các lực lượng của ta vào chi viện cho bộ đội các quân khu, quân
đoàn, quân chủng trên nhiều hướng của chiến dịch, nhưng trong cùng một thời
gian.
Ngày 1 tháng 1 năm 1979, quân Khơ-me đỏ tiếp tục rút lui theo Đường 13
về Kra Chie và theo đường 7 về Kông Pông Chàm. Theo phương án dẫn đường đã được
trực chỉ huy đồng ý, kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 935 dẫn hai tốp (7 lần/chiếc
F-5) từ 8 giờ 35 phút đến 9 giờ 41 phút, đánh vào hai mục tiêu K3 và K4 (nam
Kra Chie 13 và 17km), chìm 1 phà và trúng nhiều tàu chở quân đang chuẩn bị rời
bến sang bờ tây sông Mê Công. Sau đó, theo lệnh của thủ trưởng trực chỉ huy
trung đoàn, kíp trực ban dẫn đường dẫn đánh tiếp hai đợt nữa, mỗi đợt hai tốp
(5 lần/chiếc F-5) từ 11 giờ 40 phút 30 giây đến 12 giờ 50 phút và từ 15 giờ 10
phút 30 giây đến 16 giờ 14 phút, đều vào mục tiêu T7 (đầu đông của bến phà Kông
Pông Chàm). Kết quả là địch bị chìm 1 phà và bị cháy 4 tàu sông.
Cũng trong ngày 1 tháng 1 năm 1979, theo kế hoạch tác chiến của Bộ Tư
lệnh chiến dịch, Quân khu 9 và Quân đoàn 2 tiến hành phản công địch tại khu vực
núi Xôm (tây Tịnh Biên 13km). Trung đoàn không quân 937 sử dụng 12 A-37 đánh
tiêu diệt 2 sở chỉ huy của trung đoàn 15, trung đoàn 17 và đánh trúng một số chốt
phòng thủ quan trọng của địch nằm ở phía nam và đông nam núi Xôm. Các đơn vị bộ
binh của ta nhanh chóng vượt qua cửa mở và tiến sâu vào tung thâm.
Đây là các trận đánh mở màn cho năm 1979 của không quân ta. Đội ngũ dẫn
đường sở chỉ huy đã hiệp đồng chặt chẽ với đội ngũ phi công và các thành phần
khác, dẫn thành công F-5 đánh địch tại hai khu vực cách xa nhau 76km, chi viện
hiệu quả cho các đơn vị của Quân khu 7 và Quân đoàn 3, đồng thời dẫn A-37 đánh
địch cách khu vực của F-5 hoạt động từ 165 đến 245km, chi viện kịp thời cho các
đơn vị của Quân khu 9 và Quân đoàn 2 trong cùng một ngày.
Ngày 2 tháng 1 năm 1979, tại Biên Hòa, ngoài F-5 trực chi viện hỏa lực,
trực tiêm kích phòng không gồm 3 đôi MiG-21, 3 đôi MIG-19, 1 đôi MIG-17 và 1
đôi F-5. Còn ở sân bay Dương Minh Châu: 2 U-17, 3 UH-1 và 1 CH-47. Khi Quân
đoàn 4 đánh trên hướng quan trọng của mình về phía Svay Riêng vào sư đoàn 1 và
460 của địch, kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 935: Lê Quốc Bảo-Hoàng Ngọc Hớn
tại sở chỉ huy và Nguyễn Văn Hưng-Phí Đình Khang trên hiện sóng thực hiện dẫn 8
lần/chiếc F-5 đánh vào 2 mục tiêu V5 ở Moeuchey (bắc-tây bắc Svay Riêng 16km)
và V6 tại Chantrey (bắc-tây bắc Svay Riêng 24km), làm tê liệt hệ thống chỉ huy
của sư đoàn 1. Kíp trực ban dẫn đường Sư đoàn 372: Đặng Văn Dũng-Nguyễn Việt Cường-Lê
Huy Tương-Vương Kính đã lần lượt dẫn 1 đôi F-5 và 1 đôi MIG-17 bay yểm hộ khu vực
cho F-5 tại tây bắc Kông Pông Trach 10km, quản lý chặt chẽ 1 U-17 và 1 UH-1 vận
tải của Trung đoàn 917 hoạt động ở Tây Bến Sỏi 12km và dẫn các đôi trực tiêm
kích phòng không khác lên làm nhiệm vụ vì trong ngày Quân khu 7, Quân đoàn 3,
Quân khu 9 và Quân đoàn 2 đang cơ động, bố trí đội hình để chuẩn bị đánh lớn.
Quân Khơ-me đỏ không thể chống đỡ nổi thế và lực phản công rất mạnh của
Quân đoàn 4, chúng buộc phải rút chạy về phía Ph.Niếc Lương (tây-tây bắc Svay
Riêng 60km). Qua đánh giá tình hình, Bộ Tư lệnh Quân chủng Không quân nhận đỉnh:
Chúng nhất thiết sẽ bám theo hệ thống đường bộ, sau đó qua phà Niếc Lương, sang
bờ tây sông Mê Công để củng cố lực lượng và xây dựng tuyến phòng thủ mới. Đây
là điểm nút giao thông cực kỳ quan trọng đối với địch, nhưng lại là mục tiêu
đánh rất thuận lợi của không quân ta. Do đó, khi được Bộ Tư lệnh chiến dịch
giao nhiệm vụ, Quân chủng Không quân đã xây dựng ngay kế hoạch đánh địch bằng
đòn tiến công tập kích đường không vào khu vực Niếc Lương. Sư đoàn 372 nhanh
chóng phân chia mục tiêu cho các đơn vị. Các tiểu ban Dẫn đường hai trung đoàn
935, 937 và đội ngũ dẫn đường trên không trong các tổ bay của Trung đoàn 918 tập
trung hoàn thành ngay các phương án dẫn máy bay của đơn vị mình đánh vào các mục
tiêu được giao; còn Trung đoàn 917 lại tập trung làm các phương án dẫn bay
trinh sát, cấp cứu, vận chuyển súng đạn và thuốc men, chở cán bộ và đón thương
binh theo yêu cầu của Quân đoàn 4.
Ngày 3 tháng 1 năm 1979, theo lệnh của thủ trưởng trực chỉ huy Trung
đoàn 935 Nguyễn Văn Nghĩa, kíp trực ban dẫn đường: Hoàng Ngọc Hớn-Đào Văn
Phao-Dương Ngoạn-Đỗ Duy Đản tại sở chỉ huy và Nguyễn Văn Đờn- Đình Khang trên
hiện sóng tại C-51 dẫn lần lượt từng 1 F-5 lên đánh theo kế hoạch. 6 giờ, sở chỉ
huy vào cấp 1 và cho mở ra-đa dẫn đường. 6 giờ 35 phút, đôi bay F-5 thứ nhất:
Nguyễn Thanh Xuân-Nguyễn Văn Trọng cất cánh từ Biên Hòa, qua Gò Dầu Hạ, vào
đánh các mục tiêu cố định ở hai bên Đường 1 phía tây bắc Svay Riêng. 7 giờ 15
phút 30 giây, đôi bay F-5 thứ hai: Nguyễn Văn Kháng- Nguyễn Thăng Thắng cất
cánh và tiếp sau đó là 4 đôi bay F-5 nữa: Nguyễn Hữu Lâm-Hoàng Thành, Dương
Đình Nghi-Bùi Văn Ký, Nguyễn Văn Nuôi-Nguyễn Văn Ớt và Hoàng Hữu Hiền-Đỗ Viết
Nhã lên đánh các đoàn xe, pháo của địch đang rút chạy trên Đường 1 từ Ph. Svay
Chrum (tây bắc Svay Riêng 5km) đến Ph. Ampil (tây bắc Svay Riêng 25km). 9 giờ
30 phút, đôi bay cuối cùng tham gia đánh đợt 1 hạ cánh.
Sau khi đôi bay F-5 thứ nhất cất cánh, A-37 của Trung đoàn 937 được lệnh
xuất kích đánh vào các mục tiêu tại núi Xôm lần thứ hai. 3 biên đội: Âu Văn
Hùng-Trần Ngọc Tôn-Đoàn Hữu Cầu-Ngô Văn Phúc, Huỳnh Hiền-Trần Xuân Lai-Nguyễn
Văn Sinh-Nguyễn Văn Quang và Nguyễn Hùng Vân-Thái Quang Hợi-Phùng Công Định-
Đào Văn Sơn nối nhau rời đường băng Biên Hòa, bay thấp ở độ cao 1.500 feet, hạn
chế liên lạc đối không và khi còn cách mục tiêu 3 phút 30 giây mới kéo cao lên
10.000 feet, vào công kích với góc bổ nhào 35 độ, ném bom từ độ cao 7.000 feet,
rồi thoát ly. Sở chỉ huy của 2 Sư đoàn 210, 250 và 1 trận địa pháo 105mm của
quân Khơ-me đỏ tại khu vực núi Xôm bị tiêu diệt, buộc địch phải rút lui về Ta
Keo.
Chấp hành lệnh của sư đoàn, Trung đoàn 935 khẩn trương tổ chức chuẩn bị
cất cánh đánh tiếp vào các đoàn xe, pháo của địch đang kéo nhau chạy về Niếc
Lương. 11 giờ 43 phút, bắt đầu đánh đợt hai, 4 đôi bay F-5: Nguyễn Văn
Kháng-Mai Văn Sách, Hoàng Hữu Hiền - Đỗ Viết Nhã, Ngô Duy Tuân-Phí Đức Quỳ
(riêng phi công Phí Đức Quỳ không cất được do máy bay bị hỏng bánh trước) và Lê
Khương-Phạm Trọng Chinh tiến hành đánh địch dọc theo Đường 1 từ Ph.Pray Nhây
(tây-tây bắc Svay Riêng 20km) đến Ph.Lôvia (đông nam Niếc Lương 14km). Đợt 2 kết
thúc vào lúc 12 giờ 50 phút.
Trong quá trình F-5 đánh địch, kíp trực ban dẫn đường sư đoàn đã phân
công nhau dẫn từng đôi MiG-21 bay yểm hộ khu vực cho F-5 và A-37 ở tây nam Mộc
Hóa 15km, theo dõi các chuyến bay của Trung đoàn 917 phục vụ theo yêu cầu của
Quân khu 7, Quân đoàn 3, Quân đoàn 4, Quân khu 9, Quân đoàn 2 và tính toán thời
gian cất cánh cho Trung đoàn 937 đánh tiếp vào các mục tiêu tại khu vực Niếc
Lương. 14 giờ 55 phút, từ Biên Hòa A-37 bắt đầu cất cánh, biên đội thứ nhất:
Nguyễn Văn Tài-Nguyễn Văn Vịnh-Cao Văn Phúc-Trần Trọng Vượng, tiếp sau đó là
biên đội thứ hai: Âu Văn Hùng-Trần Ngọc Tôn-Đoàn Hữu Cầu-Ngô Văn Phúc và biên đội
thứ ba: Huỳnh Hiền-Trần Xuân Lai-Nguyễn Văn Sinh-Nguyễn Văn Quang. Trên đường
bay A-37 giữ độ cao thấp, gần đến mục tiêu kéo cao, rồi vào ném bom bổ nhào
theo hướng chiến đấu từ 160 đến 180 độ. Ngay từ những loạt bom đầu, nhiều trận
địa pháo phòng không của địch bảo vệ bến phà Niếc Lương đã bị chế áp trong đó
có 1 trận địa cao xạ 37mm bị tiêu diệt. Những loạt bom tiếp theo của A-37 rơi
trúng vào 2 đầu bến, 1 chiếc phà lớn bị cháy và 2 tàu chở quân bị chìm. Đến 15
giờ 54 phút, A-37 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Đợt 3 của Trung đoàn 935 được thực hiện từ 15 giờ 24 Phút đến 17 giờ
23 phút. Có 5 đôi bay F-5: Lê Khương-Phí Đức Quỳ, Phạm Hy-Lê Kim Toán, Dương
Đình Nghi-Bùi Văn Ký, Nguyễn Hữu Lâm-Phạm Trọng Chinh và Nguyễn Văn Kháng-Nguyễn
Thăng Thắng tham gia đánh vào các đoàn xe, pháo của địch dọc theo Đường 1 từ
Kp.Tra Bek (đông nam Niếc Lương 25km) đến Kp. Xưng (đông nam Niếc Lương 5km),
các cụm quân đang bị ùn tắc ở phía đông bến phà Niếc Lương và cả tàu thuyền
đang cố chạy sang bờ tây sông Mê Công.
Tuy ban ngày, quân địch bị F-5 và A-37 đánh cả trên Đường 1 và tại bến
phà Niếc Lương, nhưng lực lượng của chúng vẫn phải tiếp tục dồn về đây. Tối 3
tháng 1 năm 1979, Bộ chỉ huy chiến dịch yêu cầu không quân giáng một đòn nữa
vào bến phà Niếc Lương. Nhiệm vụ này được giao cho Trung đoàn 918. Vào lúc 22
giờ, tổ bay C-130 do lái chính Tiêu Khánh Nha chỉ huy, 2 dẫn đường trên không
là Đặng Văn Lự (dẫn chính) và Vũ Mạnh (dẫn phụ)... xuất kích từ Biên Hòa. Trên
đường bay đến bến phà, do trời xấu, nhiều mây, nên kíp trực ban dẫn đường Sư
đoàn 372 đã kịp thời phối hợp cùng với dẫn đường trên không đưa máy bay ta vào
đúng đường bay dự tính. Khi tới gần mục tiêu, lái chính Tiêu Khánh Nha giữ máy
bay bay bằng ổn định đúng độ cao, tốc độ và hướng bay chiến đấu; dẫn đường trên
không Đặng Văn Lự tập trung tinh lực điều chỉnh ra-đa trên C-130, thấy rõ bến
phà Niếc Lương, lấy phần tử ngắm và đề nghị lái chính cho phép ném loạt, toàn bộ
40 quả MK-81-250 trong một lần. Sau khi bay qua mục tiêu, C-130 vòng lại, ở
phía dưới có nhiều đám cháy bùng lên dữ dội.
Như vậy, trong ngày 3 tháng 1 năm 1979, chỉ riêng tại khu vực từ Svay
Riêng đến Niếc Lương và tại núi Xôm không quân ta đã sử dụng 29 lần/chiếc F-5,
24 lần/chiếc A-37 và 1 lần/chiếc C-130. Riêng F-5, trong 19 phi công tham gia
xuất kích, có 8 phi công bay 2 chuyến và 1 phi công bay 3 chuyến là Nguyễn Văn
Kháng. Còn đối với A-37, trong 16 phi công tham gia xuất kích, có tới 50% bay 2
chuyến. Tất cả các chuyến bay trên đều được bản chính xác đánh trúng mục tiêu
được giao, vào đúng thời gian quy định, gây thiệt hại nặng nề cho quân Khơ-me đỏ.
Đây là một trong những ngày đội ngũ dẫn đường Quân chủng Không quân dẫn đánh đạt
hiệu quả chiến đấu cao nhất trong chiến dịch Tây Nam. Đặc biệt, 6 đồng chí trực
ban dẫn đường F-5: Hoàng Ngọc Hớn, Đào Văn Phao, Dương Ngoạn, Đỗ Duy Đản, Nguyễn
Văn Đờn và Phí Đình Khang đã liên tục làm việc từ 6 giờ đến 17 giờ 23 phút,
nhưng không để xảy ra sai sót lớn nào và 2 đồng chí dẫn đường trên không Đặng
Văn Lự và Vũ Mạnh đã dẫn thành công lao đánh đêm trận đầu tiên, làm cho bến phà
của địch bị tắc hẳn.
Những đòn chủ động, đón trước của không quân ta đánh vào các lực lượng
rút lui của địch đã góp phần quan trọng làm mất đi khả năng dồn quân về phòng
thủ cho Phnôm Pênh, đồng thời tạo điều kiện rất thuận lợi cho các đơn vị của
Quân đoàn 4 phát triển phản công nhanh.
Trên hướng chủ yếu của chiến dịch Tây Nam, sau khi quân đoàn 4 làm chủ
toàn bộ khu vực Ph. Niếc Lương và trên các hướng khác quân ta đều giành thắng lợi
giòn giã, Bộ Tổng Tham mưu quyết định sẽ triển khai lực lượng đánh thẳng vào
Phnôm Pênh. Để thực hiện quyết định trên, cần tổ chức một số trận đánh hết sức
quan trọng ở nhiều khu vực khác nhau.
Căn cứ vào ý định tác chiến của Quân chủng Không quân, Bộ Tư lệnh Sư
đoàn 372 nhanh chóng triển khai ngay kế hoạch đánh địch cho từng đơn vị. 21 giờ
18 phút đêm 5 tháng 1 năm 1979, Sở chỉ huy Sư đoàn cho 1 chiếc C-130 của Trung
đoàn 918 cất cánh từ Biên Hòa, bay theo đường bay: Biên Hòa-Phú Cường-Hòn
Chông-Phú Quốc- đảo Cô Tang, rồi bất ngờ vòng phải vào mục tiêu (cảng Ream, tây
bắc Phú Quốc 52km). 22 giờ 36 phút, máy bay ta tiếp cận mục tiêu, dẫn đường
trên không Đặng Văn Lự ngắm chính xác và ném toàn bộ số lượng bom mang theo
trong 1 lần, rồi thoát ly về Tân Sơn Nhất. Khu vực cảng bốc cháy dữ dội. Đến 2
giờ 27 phút rạng sáng 6 tháng 1 năm 1979, chiếc C-130 thứ hai cất cánh và tiếp
tục đánh trúng mục tiêu vào lúc 3 giờ 33 phút khi các đám cháy do bom của chiếc
C-130 thứ nhất vẫn chưa kịp tắt hẳn và cũng trở về Tân Sơn Nhất hạ cánh an
toàn. Dẫn đường trên không của 2 tổ bay C-130 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
trong trận đánh đêm lần thứ hai của Trung đoàn 918.
Trong ngày 6 tháng 1 năm 1979, nhịp độ xuất kích của không quân ta
tăng lên rất nhanh. Từ 7 giờ 50 phút đến 11 giờ 45 phút, kíp trực ban dẫn đường
Trung đoàn 935: Nguyễn Hồng Thái-Đỗ Duy Đản tại sở chỉ huy và Nguyễn Văn Hưng
trên hiện sóng lần lượt dẫn 3 đôi bay F.5: Nguyễn Văn Kháng-Hoàng Thành, Ngô
Duy Tuân-Phí Đức Quỳ và Nguyễn Thăng Thắng-Nguyễn Khắc Chiến theo đường bay từ
Biên Hòa, qua Hồng Ngư, rồi ngược dòng Mê Công lên phía Niếc Lương. Hỏa lực của
F-5 đã đánh cháy 5 tàu quân sự, ngăn chặn quân địch rút lui theo đường sông về
Phnôm Pênh. Trong thời gian F-5 đánh, kíp trực ban dẫn đường Sư đoàn 372: Lê
Thành Chơn và Nguyễn Văn Nhâm dẫn từng đôi MiG-21 lên yểm hộ khu vực cho các
máy bay làm nhiệm vụ cường kích tại phía bắc Hồng Ngự.
9 giờ, đôi bay F-5: Đỗ Viết Nhã-Mai Văn Sách lên trinh sát khu vực
phía bắc Phnôm Pênh từ Cra Chơ Ma (đông bắc Kông Pông Chàm 37km) đến Kông Pông
Chnăng, 9 giờ 22 phút, đôi bay MiG-21: Trịnh Bá Tư-Nguyễn Văn Toàn cất cánh vào
khu vực Kông Pông Chàm bay yểm hộ và 12 giờ 05 phút, đôi bay F-5. Hoàng Hữu Hiền-Nguyễn
Văn Nuôi tiến hành trinh sát khu vực Phnôm Pênh. Tại 2 sân bay Kông Pông
Chnăng, Pô Chen Tông và trong các khu vực lân cận đều không có biểu hiện gì về
sự hoạt động của không quân địch.
Từ 15 giờ 59 phút đến 16 giờ 53 phút, 2 đôi bay F-5: Ngô Duy Tuân-Phí
Đức Quỳ và Nguyễn Thăng Thắng - Nguyễn Khắc Chiến được sở chỉ huy dẫn theo đường
bay Biên Hòa-Phú Cường-Mộc Hóa-Thất Sơn, vào đánh mục tiêu ở nam Ta Keo 8km.
Ngay sau đó các biên đội A-37 cũng được dẫn vào đánh mục tiêu trên. Sở chỉ huy
của hai sư đoàn 210 và 250 lại bị tiêu diệt, nhiều cụm pháo binh, xe tăng và xe
cơ giới của địch bị trúng bom. Hỏa lực của F-5 và A-37 đã chi viện rất hiệu quả
cho các đơn vị bộ binh cơ giới của Quân khu 9 và Quân đoàn 2. Khi bộ đội ta
đánh qua thị xã Ta Keo, địch tổ chức phản kích hòng chiếm lại. 4 tổ bay Mi-6 và
Mi-8 đã nhanh chóng chở lực lượng tăng cường của Quân đoàn 2 đến đúng vị trí đổ
bộ và kết hợp chở ngay thương binh về tuyến sau. Lực lượng phòng thủ của địch ở
phía nam Phnôm Pênh đã bị ta đánh thiệt hại nặng. Đội ngũ dẫn đường trên không
Mi-6 và Mi-8 đã ra quân thắng lợi trên chiến trường Tây Nam trong nhiệm vụ đổ bộ
đường không.
Cũng trong ngày 6 tháng 1 năm 1979, 15 giờ 03 phút, tổ bay C-119K do
lái chính Trần Văn Tuyên chỉ huy, trong đó có dẫn đường trên không Nguyễn Khắc
Thọ cất cánh từ Biên Hòa lên đánh bến phà Kông Pông Chàm. Loạt đạn cối thứ nhất
trúng đội hình xe cơ giới của địch nằm trên đường 7, sát đầu đông của bến và loạt
thứ hai rơi vào khu tập trung quân chốt giữ ở phía đông của bến phà Kông Pông
Chàm.
Trên tất cả các hướng của chiến trường Tây Nam quân ta đều thực hiện
đúng ý định tác chiến của Bộ, nhanh chóng chuyển từ những đòn phản công quyết định
sang tiến công chiến lược, tập trung đánh vào Phnôm Pênh, sào huyệt của quân
Khơ-me đỏ.
Sáng sớm ngày 7 tháng 1 năm 1979, các đơn vị đầu tiên của Quân đoàn 4
đã lặng lẽ vượt qua sông Mê Công, rồi chia làm nhiều mũi tiến quân lên phía bắc.
Không quân ta cho U-17, F-5 và A-37 tiến hành ngay một số chuyến bay trinh sát
đường không ở 3 khu vực phía đông, bắc và nam Phnôm Pênh, thu nhận nhanh các
thông tin mới nhất về tình hình địch, phục vụ kịp thời cho các đòn đánh tiến công
đầu tiên của bộ đội ta.
Tại Sở chỉ huy Sư đoàn 372, sau khi được quán triệt kỹ ý định đánh địch
của thủ trưởng trực chỉ huy Nguyễn Ngọc Độ, kíp trực ban dẫn đường: Lê Thành
Chơn - Đặng Văn Dũng-Đặng Văn Hảo - Đinh Khởi Nghĩa - Vương Kính kiểm tra lại lần
cuối tất cả các phương án dẫn đường đã được thông qua. Từng người đều được phân
công nhiệm vụ rõ ràng. Trong lúc đó kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 935: Đào
Văn Phao-Dương Ngoạn (đảm nhiệm dẫn F-5) Hà Văn Bền (Mig-19 -Trương Thanh Lương
(MiG-21) tại sở chỉ huy và Nguyễn Văn Hưng-Phí Đình Khang trên hiện sóng tại
C-51 sẵn sàng nhận lệnh của thủ trưởng trực chỉ huy Nguyễn Văn Nghĩa.
9 giờ 30 phút, sở chỉ huy vào cấp 1 và cho mở ra-đa dẫn đường. 9 giờ
45 phút, đôi bay F-5: Dương Bá Kháng-số 1 và Nguyễn Văn Trọng-số 2 nhận lệnh mở
máy. Do máy bay của số 2 gặp trục trặc kỹ thuật, nên số 1 phải chờ và đến 10 giờ
mới được lệnh cất cánh. Tiếp sau đó các đôi bay F-5: Nguyễn Văn Nuôi-Nguyễn Văn
Ớt, Nguyễn Thanh Xuân-Mai Văn Sách, Phạm Hy-Lê Kim Toán rời đường băng Biên Hòa
lên đánh các mục tiêu tại nút giao thông ngã ba giữa đường 7 và đường 6 ở Skun
(bắc-đông bắc Phnôm Pênh 58km). Đợt 1 kết thúc vào lúc 11 giờ 55 phút, Vào các
thời điểm 13 giờ 44, 13 giờ 57, 14 giờ 13 và 14 giờ 38 phút, các đôi bay F-5:
Hoàng Hữu Hiền-Đỗ Viết Nhã, Nguyễn Hữu Lâm-Bùi Văn Ký, Nguyễn Thanh Xuân-Mai
Văn Sách và Phạm Hy-Lê Kim Toán lần lượt cất cánh đánh đợt 2 vào các mục tiêu
di động trên các đoạn đường bộ và đường sông cách Phnôm Pênh từ 25km đến 15km về
phía bắc. Ngay sau đối F-5 Hiền-Nhã cất cánh, vào lúc 13 giờ 46 phút, đôi bay
MiG-19: Phạm Cao Hà - Nguyễn Mạnh Tùng rời đường băng Biên Hòa. Trực ban dẫn đường
Hà Văn Bền dẫn MIG-19 vào khu vực Svay Antor (đông Phnôm Pênh 55km) - Skun bay
yểm hộ cho F-5. 14 giờ 42 phút, khi đôi: Lâm-Ký về đến đỉnh sân thì biên đội
F-5: Lê Khương-Nguyễn Thăng Thắng-Dương Đình Nghi-Nguyễn Văn Kháng nhận lệnh cất
cánh, nhưng không bay lên phía núi Bà Đen mà bay qua Svay Riêng, rồi lấy hướng
vào sát phía nam Phnôm Pênh. 14 giờ 57 phút, đôi bay MiG-21: Hoàng Quốc Dũng-Trịnh
Bá Tư lên tiếp và được trực ban dẫn đường Trương Thanh Lương dẫn yểm hộ ở phía
sau biên đội F-5 vì biên đội này có nhiệm vụ đặc biệt là tập kích vào sân bay
Pô Chen Tông. Lệnh ném bom của đội trưởng Lê Khương được phát ra vào lúc 15 giờ
03 phút 10 giây. Bom của F-5 rơi trúng vào 2 đầu đường băng, làm cho máy bay của
địch không còn đủ cự ly để cất cánh.
Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 935 Đào Văn Phao, Dương Ngoạn, Hà
Văn Bền, Trương Thanh Lương, Nguyễn Văn Hưng và Phí Đình Khang đã lựa chọn đường
bay phù hợp, tính toán thời gian cất cánh chính xác và phối hợp dẫn F-5, MiG-19
và MiG-21 rất nhịp nhàng, góp phần quan trọng tạo nên trận tập kích đầy bất ngờ.
Quân Khơ-me đỏ đã buộc phải tháo chạy trước sức tiến công mãnh liệt của các
quân khu, quân đoàn, lại rơi vào tình cảnh vô cùng hoảng loạn bởi đòn đánh hiểm
hóc của không quân ta. Cách dẫn tập kích của Không quân nhân dân Việt Nam vào
Pô Chen Tông hôm nay, không những thừa kế mà còn phát triển cách dẫn tập kích
vào Tân Sơn Nhất ngày 28 tháng 4 năm 1975 lên một tầm cao mới.
15 giờ 45 phút, theo lệnh của thủ trưởng trực chỉ huy, kíp trực ban dẫn
đường cho 2 đôi F-5: Dương Bá Kháng - Nguyễn Văn Trọng và Nguyễn Văn Nuôi -
Nguyễn Văn Ớt cất cánh đánh tiếp đợt ba vào các đoàn tàu của địch đang rút chạy
trên đoạn sông Tông Lê Xáp từ Kp.Luông (bắc- tây bắc Phnôm Pênh 32km) về Phnôm
Pênh. Trong ngày 7 tháng 1, tại khu vực Ta Keo, chấp hành lệnh của thủ trưởng
trực chỉ huy Trung đoàn 937, kíp trực ban dẫn đường thực hiện dẫn 1 biên đội
A-37 vào chi viện hỏa lực cho các đơn vị Quân khu 9 phá vỡ tuyến phòng thủ của
hai sư đoàn 210, 250. Bộ đội ta nhanh chóng vượt qua thị xã Ta Keo. Ngay sau
đó, Trung đoàn 917 cho U-17 liên tục chỉ thị mục tiêu cho 2 biên đội A-37 khác
chi viện hỏa lực cho đội hình bộ binh cơ giới của Quân khu 9 tăng tốc độ tiến
công địch theo trục Đường 2 về phía Phnôm Pênh và chỉ thị cho UH-1 vũ trang vừa
chi viện hỏa lực vừa yểm hộ cho tàu hải quân ta tiến theo sông Mê Công lên Niếc
Lương.
Sau khi Quân đoàn 2 đã chuyển hướng tiến công sang phía tây để cùng với
bộ đội hải quân của ta đánh địch, sáng ngày 7 tháng 1, lực lượng hành quân bằng
xe cơ giới của Sư đoàn 325 đã bất ngờ gặp phải các bãi lầy, nên vào chiếm lĩnh
trận địa muộn hơn so với giờ nổ súng quy định. Lữ đoàn hải quân 126 đổ bộ vào cảng
Kông Pông Xom (Xi Ha Núc Vin) đúng lúc thuỷ triều xuống, xe tăng, xe lội nước
và lính thuỷ đánh bộ không phối hợp được với nhau. Còn trên bến, địch sử dụng hỏa
lực mạnh, chống trả rất quyết liệt. Tốc độ tiến công Kông Pông Xom bị giảm hẳn
so với dự tính. Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định đưa không
quân vào chi viện. Sư đoàn Không quân 372 cho 3 biên đội A-37 xuất kích kịp thời,
đánh trúng các cụm hỏa lực quan trọng của địch, tạo thuận lợi cho quân ta vượt
lên đẩy nhanh tốc độ tiến công vào Kông Pông Xom.
Chiều 7 tháng 1 năm 1979, trước sức tiến công rất mạnh của Quân khu 7 và Quân đoàn 3, nhiều đơn
vị của quân Khơ-me đỏ đã rút chạy theo trục đường 6 về phía Xiêm Riệp. Phát huy
khả năng đánh nhanh, vươn xa với lượng bom đạn lớn, Trung đoàn 918 tiến hành
đòn tập thích bất ngờ vào sân bay Xiêm Riệp, thực hiện đúng ý định tác chiến của
cấp trên. Tổ bay C-130 do lái chính Tiêu Khánh Nha chỉ huy, cất cánh từ Biên
Hòa, được dẫn đường trên không Đỗ Tuấn dẫn chính xác, đã trút bom đúng mục tiêu
vào lúc 17 giờ 50 phút. Đoàn quân thất trận của Khơ-me đỏ càng trở nên hoang
mang ngay cả trên đường rút.
Đến cuối ngày 7 tháng 1 năm 1979, quân ta hoàn toàn làm chủ thế trận
trên chiến trường Tây Nam. Quân Khơ-me đỏ, kẻ gây tội ác diệt chủng, đã trở
thành tàn quân và phải rút khỏi Phnôm Pênh. Với thế đánh áp đảo và cường độ xuất
kích lớn, không quân ta làm chủ toàn bộ vùng trời được giao. Đội ngũ dẫn đường
phía nam ghi thêm chiến công mới cho ngành Dẫn đường Không quân.
Sau khi thất thủ ở Phnôm Pênh, ngày 8 tháng 1 năm 1979, tàn quân
Khơ-me đỏ kéo nhau chạy theo hai hướng chủ yếu là tiếp tục ngược đường 6 lên
Xiêm Riệp và ngược cả đường 5 lên Bát Tam Băng. Quân chủng Không quân đã sử dụng
C-130 và F-5 tập kích liên tiếp vào 2 sân bay Xiêm Riệp và Bát Tam Băng, đồng
thời cho MiG-21 và F-5 yểm hộ và chuyển tiếp chỉ huy chặt chẽ, quyết không để
cho địch có cơ hội rút chạy bằng đường không.
Vào lúc 5 giờ 20 và 5 giờ 29 phút, 2 tổ bay C-130 do các lái chính Trần
Văn Quang và Phan Hữu Hùng chỉ huy, cất cánh từ Biên Hòa, bay qua Kông Pông
Thom, vào đánh Xiêm Riệp. 5 giờ 52 phút, 1 chiếc MiG-21 lên yểm hộ ở phía sau,
đồng thời làm nhiệm vụ chuyển tiếp chỉ huy. Đây là lần xuất kích đầu tiên của
không quân ta vào lúc bình minh trên chiến trường Tây Nam. Trong trận đánh này
có sự đóng góp rất lớn của các đồng chí dẫn đường trên không C-130 Vũ Mạnh, Trần
Đình Lợi và kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 935.
9 giờ 47 phút 30 giây, đôi bay F-5: Dương Đình Nghi - Nguyễn Khắc Chiến
nhận lệnh xuất kích đánh Xiêm Riệp. 9 giờ 48 phút, đôi bay F-5: Ngô Duy Tuân-Phạm
Trọng Chinh cất cánh, lên độ cao 20.000 feet, được dẫn vào khu vực phía bắc
Phnôm Pênh để yểm hộ và chuyển tiếp chỉ huy. 9 giờ 51 phút 30 giây, đôi bay
F-5: Nguyễn Văn Kháng - Nguyễn Thăng Thắng rời đường băng Biên Hòa, bay qua
Kông Pông Chnăng, vào đánh Bát Tam Băng. 10 giờ 06, tổ bay C-130 do lái chính
Tiêu Khánh Nha chỉ huy cất cánh đánh tiếp vào Bát Tam Băng và 10 giờ 16 phút, tổ
bay C-130 do lái chính Trần Văn Quang cất cánh đánh Xiêm Riệp. Tại khu vực Bát
Tam Băng trời xấu, tổ bay của lái chính Tiêu Khánh Nha không thấy rõ mục tiêu,
đã báo cáo ngay về sở chỉ huy và được phép chuyển sang đánh Xiêm Riệp.
Đến chiều, tổ bay C-130 do lái chính Phan Hữu Hùng cất cánh vào lúc 15
giờ 08 và đánh bồi thêm một trận bom xuống Bát Tam Băng và 15 giờ 48 phút, đôi
bay MiG-21: Nguyễn Văn Phú-Nguyễn Văn Toàn lên yểm hộ và chuyển tiếp chỉ huy.
Đây là trận đánh đầu tiên của không quân ta mà khi về hạ cánh vào lúc hoàng
hôn. Trận tập kích lớn bằng nhiều đòn đánh liên tiếp của C-130 và F-5 vào 2 mục
tiêu Xiêm Riệp và Bát Tam Băng kết thúc thắng lợi.
Công tác bảo đảm dẫn đường trong trận tập kích này đạt hiệu quả rất
cao. Chỉ trong một đêm mọi công việc chuẩn bị như tính toán số liệu, xây dựng
phương án dẫn bay và thông qua người chỉ huy, tiến hành hiệp đồng dẫn đường và
thông báo đến các đầu mối... đều được hoàn tất rất chu đáo, tỉ mỉ ở cả hai cấp
sư đoàn và trung đoàn cũng như trong tất cả các kíp trực ban dẫn đường, phi
công và tổ bay. Giải pháp dẫn bay yểm hộ kết hợp với chuyển tiếp chỉ huy và xác
định gián cách thời gian bay giữa các tốp đã giúp cho người chỉ huy liên tục nắm
bắt được tình hình máy bay ta khi hoạt động ngoài tầm của ra-đa dẫn đường và đối
không vì cự ly đường bay từ Biên Hòa đến Xiêm Riệp khoảng 425km, còn đến Bát
Tam Băng khoảng 455km.
Trên cơ sở nắm chắc ý định tổ chức đánh địch của thủ trưởng trực chỉ
huy, kíp trực ban dẫn đường Sư đoàn 372: Lê Thành Chơn-Đặng Văn Dũng-Nguyễn Văn
Nhâm- Nguyễn Việt Cường-Vương Kính đã liên tục tính toán thời cơ cất cánh hợp
lý cho tất cả các tốp, kết hợp chặt chẽ giữa "tính mò" và các khẩu lệnh
chuyển tiếp chỉ huy để đánh dấu đúng vị trí máy bay ta, luôn bám sát kết quả dẫn
bay thực tế của kíp trực ban dẫn đường trung đoàn và dẫn đường trên không trong
các tổ bay, kịp thời đề xuất cho thủ trưởng trực chỉ huy phương án chuyển sang
đánh ngay mục tiêu thứ hai khi có đủ điều kiện…Đây là bài học vô cùng quý giá
cho ngành Dẫn đường Không quân về phương pháp công tác cả trong giai đoạn chuẩn
bị và thực hành dẫn bay tập kích đường không vào các mục tiêu cách xa căn cứ xuất
phát trên 400km.
Cũng trong ngày 8 tháng 1 năm 1979, đội ngũ dẫn đường trên không UH-1
và CH-47 của Trung đoàn 917 đã kịp thời dẫn 9 chuyến bay chở các đoàn cán bộ
vào Phnôm Pênh và tiếp quản sân bay Pô Chen Tông, liên tiếp dẫn các chuyến bay
đón thương binh từ nhiều vị trí khác nhau trên các hướng tác chiến về tuyến sau
an toàn.
Phát huy thành quả đã đạt được, ngày 9 tháng 1 năm 1979, Sư đoàn 372
tiếp tục thực hiện kế hoạch tập kích sâu vào các mục tiêu của địch cách xa căn
cứ xuất phát của ta. 10 giờ 35 phút, tổ bay C-130 do lái chính Trần Văn Quang
chỉ huy, cất cánh từ Biên Hòa, bay qua Mộc Hóa, xuống Phú Quốc đánh cảng Ream.
10 giờ 46 phút, tổ bay C-47 do lái chính Nguyễn Chí Cự chỉ huy, lên chuyển tiếp
chỉ huy cho C-130 tại khu vực Rạch Giá. Ngay sau đó, 10 giờ 48 phút, tổ bay
C-130 nữa do lái chính Phan Hữu Hùng chỉ huy, cũng rời đường băng Biên Hòa đánh
cảng Ream. 11 giờ 05 phút, đôi bay F-5: Nguyễn Hữu Lâm-Nguyễn Thăng Thắng xuất
kích, bay qua Niếc Lương và Kông Pông Spư (tây tây nam Phnôm Pênh 45km), rồi dọc
theo Đường 4 xuống đánh cảng Kông Pông Xom và 1 chiếc F-5 được dẫn vào khu vực
Hồng Ngự bay chuyển tiếp chỉ huy.
Đến buổi chiều, cường độ đánh địch của không quân ta không giảm. Hai
biên đội A-37 lần lượt cất cánh vào lúc 14 giờ 15 và 14 giờ 31 phút, lên đánh cảng
Ream. Sau đó 2 C-130 nhận lệnh cất cánh đánh Bát Tam Băng với gián cách thời
gian giữa 2 chiếc là 25 phút. 15 giờ 15 phút, đôi bay F-5: Phạm Hy-Nguyễn Văn Ớt
cất cánh, bay qua Kông Pông Chàm, dọc theo bờ tây nam của Biển Hồ cũng lên đánh
Bát Tam Băng. 15 giờ 45 phút, bom của 2 chiếc F-5 rơi vào mục tiêu, 15 giờ 55
phút, bom của chiếc C-130 thứ nhất cũng rơi vào mục tiêu và 16 giờ 18 phút, bom
của chiếc C-130 thứ hai tiếp tục rơi vào mục tiêu. Hỏa lực tập trung của F-5 và
C-130 trúng vào các kho bom, đạn, nhiên liệu của địch, gây cháy dữ dội kéo dài
nhiều giờ. 15 giờ 20 phút, đôi bay F-5: Ngô Duy Tuân-Nguyễn Khắc Chiến cất
cánh, cũng bay qua Kông Pông Chàm, rồi qua tiếp Bát Tam Băng lên đánh nút giao
thông Xi Xô Phôn, cách biên giới Thái Lan 32km. Nhưng rất tiếc trên đoạn bay cuối
cùng phi công đã giữ số liệu dẫn bay không thật chính xác và nhận dạng nhầm địa
tiêu, nên kết quả ném bom chưa đạt yêu cầu. Mặc dù vậy, đây vẫn là chuyến bay tập
kích đường không do F-5 đảm nhiệm, đánh vào mục tiêu cách căn cứ Biên Hòa xa tới
610km, rất đáng được ghi nhớ.
15 giờ 22 và 15 giờ 35 phút, 2 bay đôi F-5: Nguyễn Hữu Lâm-Nguyễn
Thăng Thắng và Dương Đình Nghi- Mai Văn Sách tiếp tục cất cánh, nhưng bay xuống
Phú Quốc rồi vòng lên đánh cảng Kông Pông Xom lần thứ hai trong ngày.
Kíp trực ban dẫn đường Trung đoàn 935 vừa bám sát các tốp tập kích vừa
lần lượt dẫn từng chiếc F-5 vào các khu vực ở phía bắc và phía đông Phnôm Pênh
làm nhiệm vụ chuyển tiếp chỉ huy, đồng thời phối hợp chặt chẽ với dẫn đường
trên không trong các tổ bay UH-1 nhanh chóng dẫn bay đến các khu vực quy định sẵn
sàng làm nhiệm vụ cấp cứu.
14 giờ 30 phút ngày 9 tháng 1 năm 1979, lực lượng sở chỉ huy F-1 bao gồm
đầy đủ các thành phần, do đồng chí đại úy Vũ Đức Bình, Phó Trung đoàn trưởng
Trung đoàn 935 phụ trách, trong đó có hai sĩ quan dẫn đường là trung úy Nguyễn
Văn Nhâm và thiếu úy Dư Văn Thắng, được tổ bay Mi-6 chở sang Pô Chen Tông để tiếp
tục tổ chức chỉ huy và điều hành các hoạt động của không quân ta trong giai đoạn
đánh địch tiếp theo.
Ngày 15, 16 và 17 tháng 1 năm 1979, lực lượng A-37, F-5 và C-130 tiến
hành tập kích mãnh liệt vào các mục tiêu tại khu vực Cô Công (Kaoh Kong). Đội
ngũ dẫn đường không quân phía nam đã thực hiện dẫn liên tục trong 3 ngày, mỗi
ngày 2 đợt với tổng số lên tới 52 lần/chiếc A-37 (trong đó có 6 lần/chiếc bay
chuyển tiếp chỉ huy), 51 lần/chiếc F-5 (có 11 lần/chiếc bay chuyển tiếp chỉ
huy), 10 lần/chiếc C-130 và hơn 10 lần/chiếc U-17, UH-1 bay chỉ thị mục tiêu và
sẵn sàng cấp cứu. Hỏa lực của Không quân đã chi viện kịp thời và hiệu quả cho
các đơn vị của Quân đoàn 2 và Quân chủng Hải quân nhanh chóng đánh bại hai sư
đoàn 164 và 101 của địch tại khu vực Cô Công. Cuộc chiến đấu ác liệt trên hướng
biển vô cùng khó khăn đã kết thúc thắng lợi.
Ngày 17 tháng 1 năm 1979, bằng các đòn phản công quyết định trên toàn
tuyến biên giới và tiến công chiến lược trên Mặt trận Tây Nam, quân ta và lực
lượng vũ trang cách mạng của bạn đã giành toàn thắng ở tất cả các hướng, đánh
thiệt hại nặng và làm tan rã đội quân phản động Khơ-me đỏ.
Trong chiến dịch này, đội ngũ dẫn đường phía nam đã tham gia dẫn chiến
đấu liên tục nhiều ngày cho các loại máy bay và trực thăng của Quân chủng Không
quân hoạt động 54 đợt, đánh 99 trận với 627 lần chiếc, trong đó có 352 lần chiếc
trực tiếp đánh, 147 lần chiếc MiG-17, MiG-19, MiG-21 và F-5 làm nhiệm vụ tiêm
kích phòng không, yểm hộ khu vực và trong đội hình, 67 lần chiếc trinh sát,
quan sát chỉ thị mục tiêu, chuyển tiếp liên lạc, 4 lần chiếc C- 130 chụp ảnh và
57 lần chiếc trực thăng bay sẵn sàng cấp cứu Ngoài ra đội ngũ dẫn đường phía
nam còn dẫn 210 lần chiếc chở cán bộ, 80 lần chiếc đón thương binh, 79 lần chiếc
tiếp tế súng đạn, khí tài, thuốc men...
Mặc dù bị đánh bại trên toàn lãnh thổ Cam-pu-chia, nhưng tàn quân
Khơ-me đỏ không cam chịu thất bại, chúng ngoan cố chống lại chính quyền mới.
Trong lúc đó, sau khi thoát khỏi thảm họa diệt chủng, nhân dân Cam-pu-chia bắt
tay ngay vào công cuộc tái thiết đất nước. Nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ
trang, bảo vệ thành quả cách mạng được đặt lên vai Quân đội cách mạng
Cam-pu-chia. Quân tình nguyện Việt Nam tiếp tục sát cánh cùng với các đơn vị vũ
trang của nước bạn tham gia thực hiện nhiệm vụ trọng đại này.
Từ ngày 18 tháng 1 năm 1979, tại sân bay Pô Chen Tông, sở chỉ huy (F1)
của Sư đoàn 372 liên tục điều hành các hoạt động của không quân ta và tổ chức
trực chiến cho 3 UH-1 và 2 U-17. Trong 5 ngày cuối tháng 1 năm 1979, không quân
ta được giao nhiệm vụ tổ chức đánh địch theo các nguồn tin tình báo từ các Quân
khu 7, Quân đoàn 3 và Quân đoàn 4 tại các khu vực phía bắc Phnôm Pênh. Các kíp
trực ban dẫn đường ở Pô Chen Tông và Biên Hòa đã thực hiện dẫn 4 lần/chiếc U-17
lên chỉ thị mục tiêu chính xác và 3 lần/chiếc F-5 bay chuyển tiếp chỉ huy kịp
thời cho 30 lần/chiếc F-5 đánh vào các vị trí của tàn quân Khơ-me đỏ đang tiến
hành tụ tập lực lượng, phá rối chính quyền địa phương tại các khu vực ở bắc-tây
bắc Phnôm Pênh 40km, ở Kông Pông Chàm, Kông Pông Chnăng...
Ngày 31 tháng 1 năm 1979, không quân ta tập trung chi viện hỏa lực cho
các đơn vị bộ binh và hải quân đánh tàu và khu tập trung quân ở hai cửa sông chảy
xuống phía bắc vịnh Kông Pông Xom. Các kíp trực ban dẫn đường và dẫn đường trên
không đã phối hợp chặt chẽ với nhau, dẫn bay chính xác cho F-5, A-37, C-119K và
C-130 đánh đúng mục tiêu trong cả 2 đợt hoạt động: Buổi sáng dẫn 4 đôi F-5, 1
biên đội A-37 và 1 C-119K; buổi chiều dẫn 3 đôi F-5, 4 đội A-37 và 1 C-130.
Riêng máy bay C-119K, do hệ thống thả cối bị kẹt nhiều lần, nên không thả hết
được số lượng đạn mang theo.
Từ giữa tháng 1 năm 1979, tàn quân Khơ-me đỏ đã tiến hành co cụm, tập
hợp lực lượng tại các khu vực giữa đường 3 và đường 4 thuộc địa bàn vùng tây
nam Cam-pu- chia. Chúng dựa vào địa hình rừng núi hiểm trở để giấu quân, thường
xuyên tổ chức phục kích các đoàn xe của ta trên hai trục đường chính nối cảng
Kông Pông Xom với thủ đô Phnôm Pênh, tập kích vào các đơn vị quân tình nguyện
Việt Nam và đánh phá chính quyền địa phương của bạn ở nhiều nơi trong vùng.
Đầu tháng 2 năm 1979, địch âm mưu tập trung các đơn vị bộ binh, có xe
tăng yểm hộ, tổ chức đánh lại ta, hòng chiếm thị xã Ta Keo và Cam Pốt. Lực lượng
A-37 ở Cần Thơ được giao nhiệm vụ hiệp đồng chặt chẽ với các đơn vị Quân đoàn 4
và Quân khu 9, tổ chức các đòn đánh vừa và nhỏ, nhưng liên tục vào các mục tiêu
trọng yếu của địch. Trong suốt thời gian từ ngày 1 đến 16 tháng 2 năm 1979, hầu
như ngày nào A-37 cũng xuất kích.
Ngày 1 tháng 2, 4 lần/chiếc A-37 đánh ở bắc Cam Pốt 15km, có 2 lần/chiếc
A-37 bay chuyển tiếp chỉ huy. Ngày 3 tháng 2, 1 A-37 trinh sát thời tiết, 1
A-37 chuyển tiếp chỉ huy và 8 lần/chiếc A-37 đánh tại bắc Cam Pốt 25km. Ngày 4
tháng 2 năm 1979, ta chuyển sang đánh 2 đợt liên tiếp vào trung đoàn 11 của địch
đang tập trung ở đông Ta Keo 35km. Phi công U-17 Mai Chí Lưu bay chỉ thị mục tiêu.
Các đôi bay A-37: Vũ Khởi Nghĩa-Nguyễn Năng Nghĩa, Âu Văn Hùng-Huỳnh Hiền, Nguyễn
Văn Ngợi-Thái Quang Hợi, Nguyễn Hùng Vân-Phùng Công Định phối hợp chặt chẽ cùng
với 2 đôi UH-1 vũ trang đánh địch đạt hiệu quả cao. Để bảo đảm cho A-37 đánh
còn có 3 UH-1 bay sẵn sàng cấp cứu và 2 đôi F-5 bay chuyển tiếp chỉ huy.
Ngày 5 tháng 2, 2 đôi A-37 đánh hai đợt ở nam Ta Keo 5km đều có U-17
chỉ thị mục tiêu. Ngày 6 tháng 2, 2 biên đội A-37 đánh hai đợt ở tây bắc Ta Keo
31km. Ngày 7 tháng 2, 2 đôi A-37 chi viện hỏa lực cho các đơn vị Quân khu 9
đánh địch tại Ang Ta Som (tây-tây bắc Ta Keo 13km). Ngày 8 tháng 2, 1 U-17 từ
Pô Chen Tông xuống chỉ thị mục tiêu cho 2 đôi A-37 đánh tại tây bắc Ta Keo
33km. Ngày 9 tháng 2, 1 U-17 từ Cần Thơ lên chỉ thị mục tiêu cho 2 đôi bay A-37
từ Cần Thơ cùng với 2 đôi F-5 từ Biên Hòa vào đánh lại các mục tiêu ở tây bắc
Ta Keo 33km. Ngày 10 tháng 2, sau khi nhận được thông báo của quân ta phát hiện
địch đang đóng một số chốt bộ binh và tập trung xe tăng, xe tải trong một khu vực
hẹp ở bắc-tây bắc Ta Keo 35km, 2 đôi bay A-37 và 2 đôi bay F-5 kịp thời cất cánh từ Cần Thơ và Biên
Hòa. Bom rơi trúng đích. Quân địch bị tiêu diệt gọn.
Trong 3 ngày 14, 15 và 16 tháng 2 năm 1979, A-37 cùng với F-5 tập
trung đánh các mục tiêu ở khu vực Chhuk (đông bắc Cam Pốt 38km). Tại đây, địch
lợi dụng địa hình rừng núi sát đường 3, đường 34 và 35, đã thu gom được khá nhiều
lực lượng, chuẩn bị chuyển quân để đánh xuống Cam Pốt và đánh lên Ta Keo. Ta sử
dụng 2 lần/chiếc A-37 chuyển tiếp chỉ huy, 10 lần/chiếc A-37 và 4 lần/chiếc F-5
đánh trúng các điểm đóng quân quan trọng của địch. Kíp trực ban dẫn đường ở Cần
Thơ đã xử lý hiệu quả 2 tình huống: dẫn 1 biên đội A-37 vào ném bom bay bằng
khi phi công báo cáo trên mục tiêu mây 10 phần và dẫn 1 đôi F-5 không phát hiện
mục tiêu, làm vòng chờ ở phía trên để quan sát điểm nổ của đôi F-5 bay sau, rồi
mới cho vào công kích.
Cũng trong thời gian trên, ngày 11 tháng 2 năm 1979, 3 đôi bay F-5:
Dương Bá Kháng-Nguyễn Văn Trọng, Phạm Hy-Mai Văn Sách và Nguyễn Văn Kháng-Nguyễn
Thăng Thắng đánh trúng 3 mục tiêu được giao ở Pva Sát (Pô Xát) tây bắc Kông
Pông Chnăng 85km và ngày 14 tháng 2 năm 1979, tổ bay C-130 do tái chính Tiêu
Khánh Nha chỉ huy, trong đó có dẫn đường trên không Vũ Mạnh cất cánh từ Biên
Hòa đánh địch tập trung ở ngã ba sông Cô Công. Tại khu vực mục tiêu thời tiết xấu,
trong lần tính toán ném bom thứ nhất, dẫn đường trên không Vũ Mạnh cảm thấy
chưa đạt yêu cầu đã chủ động đề nghị xin vòng lại và quyết tâm tính toán bảo đảm
thật chính xác mới thực hiện ném bom.
Trong đợt hoạt động dài ngày nói trên, các kíp trực ban dẫn đường tại
Cần Thơ thường xuyên chuẩn bị tốt các phương án dẫn bay và liên tục thực hiện dẫn
máy bay của đơn vị mình và đơn vị bạn đánh địch đúng ý định của người chỉ huy.
Ngay sau khi đất nước Cam-pu-chia thoát khỏi thảm họa diệt chủng, Sư
đoàn 370 đã được Tư lệnh Quân chủng không quân giao nhiệm vụ đưa một phần lực
lượng của Trung đoàn 925 sang giúp bạn. Đây là một trong những đơn vị quân tình
nguyện đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam chịu trách nhiệm giúp bạn khai
thác số máy bay MIG-19 thu được từ quân Khơ-me đỏ và khôi phục lại hệ thống bảo
đảm trên các sân bay thuộc 2 vùng Đông Bắc và Tây Bắc của bạn, đồng thời sẵn
sàng đánh địch cả trên không và mặt đất.
Tháng 2 năm 1979, 8 chiếc MiG-19 của Trung đoàn 925 được dẫn bay chuyến
sân từ Biên Hòa sang Pô Chen Tông tham gia trực chiến. Trong năm 1979, MiG-19
tham gia xuất kích 94 lần/chiếc với 71 giờ bay, trong đó có 4 trận chi viện hỏa
lực cho các đơn vị của Quân đoàn 3 truy quét tàn quân Khơ-me đỏ tại Pai Lin
(cách biên giới Thái Lan 9km), Lếch (tây nam Bát Tam Băng 35km). Được các đồng
chí Phạm Ngọc Lan và Lưu Huy Chao trực tiếp chỉ huy và kíp trực ban dẫn đường ở
Pô Chen Tông dẫn, các phi công Hoàng Cao Bổng, Phạm Cao Hà, Vũ Hiệu, Nguyễn Thế
Ngữ, Vũ Công Thuyết... đều đánh trúng các mục tiêu được giao. Đội ngũ dẫn đường
sở chỉ huy trước đây đã dẫn MiG-19 bắn rơi máy bay Mỹ trên chiến trường miền Bắc,
nay lại dẫn thành công máy bay tiêm kích MIG-19 mang bom chi viện hỏa lực cho bộ
đội tình nguyện Việt Nam trên chiến trường Cam-pu-chia. MiG-19 đã nối tiếp được
các chiến công do máy bay tiêm kích MIG-17 mang bom đã lập nên vào ngày 19
tháng 4 năm 1972 và do máy bay tiêm kích F-5 cũng mang bom đã lập nên vào ngày
6 tháng 5 năm 1978.
Sau hơn một năm công tác, Trung đoàn 925 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
trên giao. Ngày 6 tháng 4 năm 1980, toàn bộ số máy bay MIG-19 của trung đoàn từ
Pô Chen Tông chuyển sân về nước.
Đầu tháng 3 năm 1979, tàn quân Khơ-me đỏ tiếp tục thu gom lực lượng và
tổ chức thành các đơn vị nhỏ, tiến hành phá hoại và gây mất ổn định ở nhiều khu
vực dọc theo đường 3 và đường 4 thuộc địa bàn vùng tây nam Cam-pu-chia. Quân
tình nguyện Việt Nam sử dụng 4 sư đoàn bộ binh, có không quân chi viện hỏa lực,
mở đợt truy quét vào sâu căn cứ của địch tại khu vực tây-tây bắc Ta Keo 45km.
Trong 3 ngày 18, 22 và 23 tháng 3 năm 1979, không quân ta đã sử dụng 2 lần/chiếc
U-17 chỉ thị mục tiêu, 7 lần/chiếc A-37 và 6 lần/chiếc F-5 đánh vào mục tiêu được
giao, chi viện hỏa lực hiệu quả cho các đơn vị bộ binh đánh địch. Trong hai
ngày 4 và 5 tháng 4 năm 1979, U-17 chỉ thị mục tiêu chính xác cho A-37 đánh
trúng khu tập trung quân của địch, gây thương vong lớn về người, phá huỷ một
bãi xe cơ giới và 1 kho xăng bốc cháy trong 7 giờ liền.
Ngoài nhiệm vụ tham gia chiến đấu, từ tháng 1 năm 1979, một trong những
nhiệm vụ rất quan trọng đã được đội ngũ dẫn đường trên không của Trung đoàn
không quân 917 hoàn thành xuất sắc, đó là thực hiện dẫn bay chuyên chở hơn
10.000 lượt cán bộ, chiến sĩ đi công tác, vận chuyển gần 400 tấn hàng hóa quân
sự, đón nhận hàng ngàn thương binh... góp phần nhanh chóng đáp ứng các nhu cầu
của bộ đội tình nguyện Việt Nam tại Cam- pu chia và một số đơn vị trọng điểm của
bạn. Nhiệm vụ này còn thường xuyên được thực hiện tốt trong nhiều năm tiếp
theo.
Sau khi đối phương buộc phải rút quân, chấm dứt hành động xâm lược
trên toàn tuyến biên giới phía bắc, để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ của quân
tình nguyện Việt Nam ở Cam-pu-chia, ngày 20 tháng 4 năm 1979, Bộ Quốc phòng ra
quyết định thành lập Sư đoàn Không quân 376 để thay thế Sư đoàn Không quân 372
chuyển ra Bắc nhận nhiệm vụ mới. Các trung đoàn không quân 935 (sử dụng cả F- 5
và A-37), 917 và 918 (đã rút gọn do máy bay bị thiếu khí tài thay thế) trực thuộc
Sư đoàn Không quân 376. Tất cả các đơn vị trong sư đoàn đều nhanh chóng củng cố
tổ chức, tập trung giải quyết tình trạng xuống cấp của các trang bị hệ 2, tăng
cường huấn luyện bay và bổ sung hoàn thiện thêm các phương án đánh địch.
Căn cứ vào nhiệm vụ được giao, trong thời gian từ cuối tháng 4 đến đầu
tháng 5 năm 1979, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 372 tiếp tục cùng với Bộ Tư lệnh Sư đoàn
376 tổ chức bay chi viện hỏa lực cho các đơn vị của Quân đoàn 3 truy quét tàn
quân Khơ-me đỏ trên hướng Bát Tam Băng, Quân đoàn 4 trên hướng Kông Pông Chnăng
và Quân khu 9 trên hướng đường 4. Từ tháng 8 năm 1979, Sư đoàn 376 thực hiện chỉ
huy toàn bộ các lực lượng thuộc quyền.
Trong chiến dịch mùa khô năm 1979-1980, tuy số lượng máy bay và trực
thăng đưa vào chiến đấu vẫn gặp nhiều khó khăn do khan hiếm khí tài hệ 2, nhưng
Sư đoàn 376 đã kịp thời động viên đội ngũ phi công và tổ bay thực hiện bay tăng
chuyến trên các máy bay và trực thăng tốt với cường độ cao, bảo đảm đúng yêu cầu
chi viện hỏa lực cho các đơn vị bộ binh của cả ta và bạn hoạt động trên địa bàn
vùng Tây Bắc và Tây Nam Cam-pu-chia.
Năm 1980, đội ngũ dẫn đường trên không của Trung đoàn 917 thực hiện dẫn
5.892 chuyến bay nhiệm vụ, chuyên chở 16.000 lượt cán bộ, chiến sĩ, vận chuyển
452 tấn vũ khí, lương thực, thuốc men, đón nhận hơn 3.000 thương binh. Trong
đó, đội ngũ dẫn đường trên không Mi-8 dẫn gần 500 chuyến bay, chuyên chở 3.400
lượt cán bộ, chiến sĩ, 23 tấn vũ khí, lương thực và 200 thương binh. Riêng đại
úy Vũ Xuân Cán, Chủ nhiệm Dẫn đường Trung đoàn không quân 917, chỉ trong hai
tháng 3 và 4 năm 1980, đã đóng góp sức mình dẫn 446 chuyến bay, đạt 115 giờ
bay.
Cuối mùa khô 1980-1981, để đáp ứng yêu cầu của các đợt truy quét tàn
quân Khơ-me đỏ trên diện rộng với quy mô lớn, nhiều đồng chí dẫn đường trên
không liên tục tham gia dẫn bay, nhất là khi trung đoàn có ngày đã sử dụng cả
UH-1 và Mi- 8 tiến hành tới 101 chuyến bay nhiệm vụ. Đội ngữ dẫn đường trên
không luôn có mặt khi đội ngũ lái chính, có đồng chí bay từ 4 đến 5 chuyến/ngày,
có đồng chí bay gần 60 giờ/tháng như các lái chính Vũ Xuân Minh, Nguyễn Minh Tuấn...
Trong 3 tháng cuối mùa mưa năm 1981, đội ngũ dẫn đường trên không đã đóng góp sức
mình để Trung đoàn không quân 917 hoàn thành hơn 2.000 chuyến bay nhiệm vụ,
chuyên chở gần 10.000 lượt cán bộ, chiến sĩ, vận chuyển 350 tấn hàng quân sự,
đón nhận gần 2.000 thương binh. Năm 1981, Trung đoàn không quân 918 bắt đầu sử
dụng An-26 thực hiện chuyên chở quân tình nguyện và đón nhận thương binh của Mặt
trận 479.
Mùa xuân năm 1982, tàn quân Khơ-me đỏ âm mưu mở các đợt hoạt động phá
hoại, quấy rối gây mất ổn định chính trị, xã hội và hòng làm suy yếu chính quyền
cách mạng của bạn. Quân tình nguyện Việt Nam tiếp tục cùng với bạn tiến hành
truy quét địch. Trong hai tháng đầu năm, Trung đoàn 917 thực hiện 400 chuyến
bay, chuyên chở 1.649 lượt cán bộ, chiến sĩ, vận chuyển 36 tấn vũ khí, lương thực,
thuốc men và đón nhận hơn 400 thương binh.
Từ tháng 4 năm 1982, Sư đoàn 376 thực hiện giải thể theo quyết định của
Bộ Quốc phòng, Trung đoàn 917 và 935 thuộc quyền chỉ huy của Sư đoàn 370, còn
Trung đoàn 918 trực thuộc Quân chủng. Tháng 6 năm 1982, Trung tâm chỉ huy và điều
hành bay Khu vực 3 (gọi tắt là Trung tâm 3) được thành lập tại Tân Sơn Nhất.
Trung tâm 3 chịu trách nhiệm chỉ huy và điều hành các hoạt động bay của Quân chủng
Không quân ở phía Nam.
Trong hai năm 1982 và 1983, Trung đoàn 935 tập trung vào nhiệm vụ chuyển
loại MiG-21, sau đó đưa một phần lực lượng vào trực chiến và nhận thêm nhiệm vụ
đào tạo phi công MiG-21. Trung đoàn 918 tiếp tục đẩy mạnh chuyển loại An-26,
tăng cường tổ chức huấn luyện bay đội hình lớn. Hoạt động của không quân ta
trên đất bạn trong thời gian này chủ yếu do Trung đoàn 917 thực hiện dưới sự chỉ
huy và điều hành của Trung tâm 3. Năm 1982, đội ngũ dẫn đường trên không UH-1
thực hiện dẫn 1.200 chuyến bay, chuyên chở 4.400 lượt cán bộ, chiến sĩ, vận
chuyển 114 tấn hàng quân sự, đón nhận hơn 2.000 thương binh; đội ngũ dẫn đường
trên không Mi-8 dẫn bay 30 chuyến chuyên cơ, chở 176 lượt cán bộ cao cấp của Đảng
và Nhà nước đi kiểm tra các địa phương. Năm 1983, Trung đoàn 917, sau khi nhận
quyết định về trực thuộc Quân chủng, vừa huấn luyện chuyển loại Mi-8 vừa làm
nhiệm vụ ở Cam-pu-chia. Với số lượng trực thăng không nhiều, nhưng đội ngũ dẫn
đường trên không của trung đoàn đã thực hiện dẫn bay an toàn cho 140 chuyến
chuyên cơ gần 1.500 chuyến bay vận chuyển, chuyên chở 9.000 cán bộ, chiến sĩ.
Cuối năm 1983, với kết quả huấn luyện chuyển loại rất tốt của các
trung đoàn 917, 918 và 935, sau khi được quán triệt nhiệm vụ chiến đấu của Quân
chủng Không quân giao cho, toàn thể đội ngũ dẫn đường phía nam đã tập trung chuẩn
bị chu đáo, tỉ mỉ từng phương án dẫn các loại máy bay và trực thăng mới theo
cách đánh mới với đội hình chiến đấu mới.
Đầu tháng 2 năm 1984, tàn quân Khơ-me đỏ đã gây dựng và tái lập được một
số đơn vị đến cấp sư đoàn và các căn cứ hậu cần mới tại nhiều khu vực xung
quanh Biển Hồ với ý định sẽ đứng chân lâu dài và mở rộng hoạt động lấn chiếm
các thị xã Bát Tam Băng, Xiêm Riệp, Kông Pông Thom, đánh vào các vị trí đóng
quân của lực lượng vũ trang cách mạng Cam-pu-chia. Quân tình nguyện Việt Nam mở
chiến dịch mang tên BH-1-84, cùng với bạn bao vây tiêu diệt tàn quân địch và
giúp bạn củng cố chính quyền ở vùng tây bắc Cam-pu-chia. Đội ngũ dẫn đường trực
thăng vũ trang Mi-8T lần đầu tiên được tham gia dẫn bay chi viện hỏa lực cho
các đơn vị bộ binh của bạn, bắn hơn 600 quả rốc-két và 15.000 viên đạn, đánh
trúng các mục tiêu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Tại khu vực tây bắc Biển Hồ, giữa Bát Tam Băng và Xiêm Riệp, địch lập
một căn cứ lớn có khoảng 1.500 tên. Các lán trại của chúng được bố trí dọc theo
các triền sông cả trong rừng rậm và trên đất sình lầy. Ngày 3 tháng 3 năm 1984,
Trung đoàn trưởng Trung đoàn không quân 917 Trịnh Minh Đức trực tiếp chỉ huy lực
lượng Mi-8T và U-17 của trung đoàn cơ động chuyển sân đến Xiêm Riệp tổ chức chuẩn
bị chiến đấu, trong đó có cả trực thăng đã được Nhà máy A-41 lắp thêm súng
M-60. Ngày 4 tháng 3 năm 1984, đúng 7 giờ 30 phút, các phi công U-17 cất cánh
bay quan sát chỉ thị mục tiêu cho cả pháo binh và trực thăng. 9 giờ 27 phút,
đôi bay Mi-8: Trung đoàn trưởng Trịnh Minh Đức-lái chính Lê Quang Vinh lên đánh
vào mục tiêu thứ nhất. 9 giờ 37 phút, chiếc Mi-8 của lái chính Trần Quang Vinh
cất cánh, vừa yểm hộ khu vực vừa sẵn sàng cấp cứu. 9 giờ 55 phút, đôi bay Mi-8:
Nguyễn Văn Thiệp-Phạm Văn Dũng lên đánh mục tiêu thứ hai. Khi đôi Thiệp-Dũng
thoát ly thì lái chính Trần Quang Vinh được lệnh vào đánh tiếp mục tiêu thứ hai
với một nửa cơ số đạn của mình và giữ lại một nửa cơ số để sẵn sàng xử lý tình
huống trong quá trình trở về hạ cánh. Buổi chiều, các phi công U-17: Nguyễn
Thanh Bình-Nguyễn Trọng Hốt lên chỉ thị cho Mi-8 đánh vào vị trí đóng quân của
trung đoàn Khơ-me đỏ tại một ngã ba sông ở tây bắc Biển Hồ 20km. 2 đôi Mi-8 lần
lượt cất cánh đánh đợt 2 vào lúc 13 giờ 55 phút và về hạ cánh lúc 15 giờ 15
phút. Được U-17 chỉ thị mục .tiêu chính xác, hỏa lực mạnh của Mi-8 đã tạo điều
kiện rất thuận lợi cho các đơn vị bộ binh của ta đánh tiêu diệt sinh lực địch,
buộc chúng phải tháo chạy ra khỏi căn cứ.
Đội ngũ dẫn đường trên không Mi-8 đã dẫn bay đáp ứng yêu cầu cách đánh
của trung đoàn. Có được chiến công trên, một trong những nguyên nhân rất quan
trọng là đội ngũ dẫn đường trên không Mi-8 đã tham gia huấn luyện bay nghiêm
túc, luyện tập dẫn bay công phu, chuẩn bị các phương án dẫn bay rất chu đáo, tính
toán thời cơ cất cánh giữa các tốp và thực hành dẫn bay chính xác.
Trong khi đưa Mi-8 vào tham gia chiến đấu, Quân chủng Không quân đã chỉ
đạo rất chặt chẽ cho Trung đoàn 918 chuẩn bị chu đáo về mọi mặt để bước vào
đánh địch bằng loại máy bay mới với cách đánh mới.
Ngày 8 tháng 3 năm 1984, Trung đoàn 918 đưa 8 An- 26 vào chuẩn bị chiến
đấu tại Biên Hòa. Trung đoàn trưởng Nguyễn Xuân Hiển và Chủ nhiệm Kỹ thuật Đặng
Thí trực tiếp kiểm tra lần cuối cùng tất cả các mặt bảo đảm. 7 máy bay được lắp
bom, mỗi chiếc mang 27 quả MK-81 và 1 máy bay làm nhiệm vụ chuyển tiếp chỉ huy.
6 giờ sáng ngày 9 tháng 3, tổ bay An-26 của Trung đoàn trưởng chở Tham mưu trưởng
Quân chủng Nguyễn Ngọc Độ bay trinh sát thời tiết khu vực chiến đấu. 10 giờ,
An-26 nhận lệnh xuất kích, từng chiếc một nối nhau cất cánh. Tổ bay dẫn đầu đội
hình do Trung đoàn trưởng chỉ huy, trong đó có dẫn đường trên không Đặng Văn Lự,
lập vòng chờ để tập hợp đội hình, sau đó bay lên Buôn Ma Thuột, qua Kamăng
Chông (tây bắc Buôn Ma Thuột 85km) và Kaoh Nhek (Kô Nhiếch, tây Kamăng Chông
40km). 6 chiếc bay sau gồm các lái chính: Nguyễn Thành Trung, Trần Văn Quang,
Nguyễn Như Nghi, Nguyễn Hồng Sơn, Phan Hữu Hùng và Mai Chí Lưu phụ trách. 1 chiếc
bay cuối cùng đội hình để chuyển tiếp chỉ huy do lái chính Trần Tấn Bửu đảm nhiệm.
11 giờ 34 phút, tổ bay dẫn đầu đội hình giữ hướng bay 265 độ, qua Kaoh Nhek, tiếp
cận mục tiêu ở phía trước 29km, dẫn đường trên không Đặng Văn Lự ngắm chính
xác, Trung đoàn trưởng ra lệnh ném bom. Sau khi bom đã ra hết, Trung đoàn trưởng
điều khiển máy bay vòng trở lại quan sát và chỉ huy các máy bay trong đội hình
của mình thực hiện hết kế hoạch ném bom đã được Tư lệnh Quân chủng phê duyệt. Đội
hình An-26 thoát ly khỏi khu vực chiến đấu, lấy hướng về Tân Sơn Nhất và lần lượt
vào hạ cánh an toàn. Cấp trên thông báo bom của An-26 rơi trúng căn cứ của tàn
quân Khơ-me đỏ và FULRO.
Tin chiến thắng lan nhanh, ngày 9 tháng 3 năm 1984, được ghi nhận là
ngày An-26 của Không quân nhân dân Việt Nam đánh thắng trận đầu. Đội ngũ dẫn đường
trên không An-26 đã lập thành tích xuất sắc, ghi thêm chiến công mới cho ngành
Dẫn đường Quân chủng Không quân: dẫn thành công máy bay vận tải do bạn sản xuất,
được ta cải tiến mang bom hệ 2, ném trúng mục tiêu được giao với đội hình chiến
đấu mới.
Phát huy các thành tích vừa đạt được, ngày 10 tháng 3 năm 1984, hai
trung đoàn 918 và 917 đã tổ chức thực hiện đánh phối hợp, hiệp đồng đạt hiệu suất
chiến đấu rất cao vào khu căn cứ quan trọng của tàn quân Khơ-me đỏ và FULRO nằm
trên địa bàn vùng đông bắc Cam-pu-chia.
Sáng sớm 10 tháng 3, tổ bay của Trung đoàn trưởng Trung đoàn 918 chở
Tham mưu trưởng Quân chủng và Tổ tham mưu chiến dịch lên Buôn Ma Thuột nhận nhiệm
vụ chiến đấu, sau đó bay trinh sát khu vực mục tiêu và thời tiết Phương án đánh
địch của An-26 rất nhanh chóng được thông qua: 7 An-26 chia làm hai tốp, tốp thứ
nhất 4 chiếc do Trung đoàn trưởng chỉ huy đánh vào sườn phía đông và tốp thứ
hai 3 chiếc do lái chính Nguyễn Hồng Sơn chỉ huy đánh vào cao điểm 208 (tây-tây
nam Kaoh Nhek 36km). Đội hình chiến đấu và đường bay đánh địch, cơ bản được giữ
nguyên như hôm trước.
Chiều 10 tháng 3, theo lệnh từ Buôn Ma Thuột, lực lượng An-26 cất cánh
đúng kế hoạch tác chiến. Khi còn cách mục tiêu vài phút bay, Trung đoàn trưởng
ra lệnh tách tốp, đánh đúng phương án. Dẫn đường trên không Đặng Văn Lự dẫn
chính tốp thứ nhất và dẫn đường trên không Đỗ Tuấn dẫn chính tốp thứ hai. Cả
hai tốp đồng loạt ném bom trúng mục tiêu vào lúc 14 giờ 07 phút. Cách dẫn
An-26, lại một lần nữa phục vụ đắc lực cho cách đánh mới đã được nghiên cứu kỹ.
Sau khi đã thực hiện cơ động chuyển sân và chuẩn bị thêm các mặt bảo đảm,
sáng 10 tháng 3 năm 1984, Trung đoàn 917, cùng Trung đoàn 918 nhận nhiệm vụ chiến
đấu tại Buôn Ma Thuột. Phương án đổ bộ đường không của Mi-8 cũng rất nhanh
chóng được thông qua. Công tác hiệp đồng dẫn bay được kịp thời hoàn tất ngay
trước khi tổ bay An-26 quay lại Biên Hòa.
Chiều 10 tháng 3, phi công U-17 Nguyễn Văn Khải, từ Buôn Ma Thuột lên
trinh sát khu vực đổ bộ. 13 giờ 32 phút, tốp Mi-8 do các lái chính: Nguyễn
Thanh Mua, Đỗ Văn Thân, Lưu Yến Nguộc và An Thế Quang chở đơn vị quân tình nguyện
Việt Nam và lái chính Nguyễn Minh Tuấn làm nhiệm vụ quan sát, hướng dẫn đổ quân
nhận lệnh cất cánh, rồi bay lên Kamăng Chông, qua Kaoh Nhek, sau đó hướng vào
khu vực đổ bộ ở phía tây Kaoh Nhek hơn 40km. 14 giờ 40 phút, từng chiếc Mi-8 lần
lượt tiến hành hạ cánh xuống các bãi đổ quân theo sự hướng dẫn từ trên không. Đến
15 giờ 21 phút, nhiệm vụ đổ bộ đường không kết thúc. Quân ta nhanh chóng bao
vây, áp sát vừa tiêu diệt địch vừa vây bắt bọn đầu sỏ Khơ-me đỏ và FULRO của
căn cứ địch tại đây. U-17 và Mi-8 về tới Buôn Ma Thuột lúc 16 giờ 10 phút.
Đội ngũ dẫn đường trên không Mi-8 đã căn cứ vào thời gian ném bom của
An-26, tính toán thời gian cất cánh và thực hiện dẫn bay chính xác đáp ứng yêu
cầu chiến thuật đổ bộ đường không cho đơn vị mình.
Trong thời gian tiếp theo của năm 1984, đội ngũ dẫn đường trên không
An-26 và Mi-8 luôn phát huy truyền thống tốt đẹp, thực hiện dẫn bay thành công
nhiều trận đánh quan trọng, góp phần cho hai trung đoàn không quân 918 và 917
thường xuyên hoàn thành tốt các nhiệm vụ
chiến đấu được giao.
Cuối tháng 10 năm 1984, 7 tổ bay trực thăng vũ trang Mi-24A của Trung
đoàn 916 cơ động chuyển sân từ Hòa Lạc vào Tân Sơn Nhất để phối hợp với các lực
lượng của Trung đoàn không quân 917 cùng làm nhiệm vụ giúp nhân dân Cam-pu-chia
bảo vệ thành quả cách mạng. Công tác nghiên cứu địa hình, nắm bắt tình hình địch,
xây dựng cách đánh và làm các phương án dẫn bay được hoàn thành rất nhanh
chóng. Lực lượng Mi-24 bước vào trực chiến ngay.
Ngày 28 tháng 11 năm 1984, 6 tổ bay Mi-24 nhận lệnh phối hợp chặt chẽ
với Mi-8 và U-17 đánh địch ngay từ lúc sáng sớm. 5 giờ 47 phút, U-17 cất cánh,
bay vào khu chiến trinh sát và chỉ thị mục tiêu. 5 giờ 55 phút, Mi-8 lên yểm hộ
khu vực và sẵn sàng làm nhiệm vụ cấp cứu. 6 giờ 10 phút, tốp 3 chiếc Mi-24 thứ
nhất, gồm các lái chính: Nguyễn Đình Khoa, Đinh Phương Tâm và Lê Thế Lộc cất
cánh. 10 phút sau, tốp 3 chiếc Mi-24 thứ hai cũng cất cánh, bao gồm: Đào Mạnh
Sơn, Lê Văn Phổ và Trương Hùng Dũng. Cả 2 tốp Mi-24, sau khi được dẫn chính xác
tới khu chiến và được U-17 chỉ thị rõ từng mục tiêu, lập tức vào bổ nhào. Mỗi
máy bay thực hiện công kích hai lần. Hỏa lực rất mạnh của Mi-24 trùm lên các trận
địa của địch. Đợt 1 kết thúc rất nhanh gọn. Lúc 9 giờ 29 phút và 9 giờ 55 phút,
2 tốp Mi-24 lần lượt cất cánh đánh đợt 2. Sư đoàn 980 của tàn quân Khơ-me đỏ bị
thiệt hại nặng, hai nhà nổi bị thiêu trụi, 4 tàu lớn và 2 tàu nhỏ bị chìm. Đó
là kết quả của trận ra quân đầu tiên.
Lực lượng trực thăng vũ trang Mi-24 đã lập chiến công mới, tô thắm
truyền thống đánh thắng trận đầu của Quân chủng Không quân. Đội ngũ dẫn đường
trên không của Trung đoàn 916 rất vinh dự được đóng góp sức mình trong chiến
công đó.
Ngày 5 tháng 12 năm 1984, lực lượng Mi-24 tham gia đánh 2 trận đều đạt
hiệu suất cao và bảo đảm an toàn. Ngày 4 tháng 1 năm 1985, 6 chiếc Mi-24 được dẫn
bay chính xác, đánh 2 đợt, chi viện hỏa lực rất hiệu quả cho các đơn vị bộ binh
của ta truy quét tàn quân Khơ-me đỏ ở vùng biên giới tây bắc Cam-pu-chia. Từ trung
tuần tháng 5 đến cuối tháng 9 năm 1985, lực lượng Mi-24 đưa 3 chiếc vào tham
gia chiến đấu trong đội hình của Trung đoàn 917, thực hiện đánh trên 15 trận phối
hợp hiệp đồng với Mi-8 và U-17, hoàn thành tốt nhiệm vụ chi viện hỏa lực cho bộ
binh.
Với sự nỗ lực rất lớn từ tháng 2 đến tháng 11 năm 1984, đội ngũ dẫn đường
trên không đã dẫn thành công Mi-8, An-26 và Mi-24 đánh thắng địch ngay từ trận
đấu. Đây là sự kiện nổi bật của ngành Dẫn đường Không quân trong năm 1984, góp
phần tô thắm truyền thống của Quân chủng: Loại máy bay và trực thăng nào được
trang bị, khi đưa vào chiến đấu cũng lập công đánh thắng trận đầu.
Trong năm 1985, điểm nổi bật trong cách đánh của Trung đoàn 918 là thường
xuyên thay đổi đội hình chiến thuật. Ngày 31 tháng 3 năm 1985, trung đoàn sử dụng
đội hình 1+2+2, trong đó, 1 chiếc bay trinh sát thời tiết và khu vực mục tiêu
trước trận đánh, đôi thứ nhất mang MK-81 và đôi thứ hai mang CBU-49 đánh phá
căn cứ của tàn quân Khơ-me đỏ ở đông bắc Bát Tam Băng 24km, làm cho chúng bị
thiệt hại nặng cả về người và vũ khí. Ngày 26 tháng 4 năm 1985, trung đoàn áp dụng
đội hình 1+1+3 đánh vào vị trí co cụm lực lượng của địch tại khu vực rừng núi ở
đông-đông bắc Kra Chie 77km: 1 chiếc làm nhiệm vụ sinh sát thời tiết, 1 chiếc
chụp ảnh khu vực mục tiêu, 3 chiếc còn lại đều mang bom MK-81. Ngày 22 tháng 9
năm 1985, trung đoàn lại vận dụng đội hình và phương án mang bom như ngày 31
tháng 3 để đánh 2 mục tiêu tại khu vực núi Chi (bắc-tây bắc Kra Chie 62km). Đến
đầu tháng 12 năm 1985, Trung đoàn không quân 918 liên tiếp sử dụng 7 máy bay
A-26 đánh nhiều trận với đội hình chiến thuật 1+3+3 hoặc 1+2+2+2, trong đó dùng
1 chiếc vừa trinh sát thời tiết vừa chụp ảnh khu vực mục tiêu cả trước và sau
trận đánh.
Đội ngũ dẫn đường trên không An-26 luôn nắm chắc ý định tổ chức đánh địch
của Trung đoàn trưởng, tính toán và dẫn bay chính xác, kịp thời đáp ứng yêu cầu
thay đổi đội hình chiến thuật đã trực tiếp góp phần nâng cao hiệu suất chiến đấu
trong từng trận đánh của trung đoàn.
Năm 1986, đội ngũ dẫn đường trên không Trung đoàn 917 tập trung dẫn
bay cho nhiệm vụ chiến đấu là chủ yếu, còn đối với đội ngũ dẫn đường trên không
Trung đoàn 918, ngoài dẫn bay chiến đấu còn phải tham gia thực hiện dẫn bay
chuyên chở cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện luân chuyển công tác và đón nhận
thương binh về hậu phương.
Mùa khô năm 1986-1987, các đợt truy quét tàn quân Khơ me đỏ bước vào
thời kỳ cao điểm. Tháng 1 năm 1987, đội ngũ dẫn đường trên không Trung đoàn 917
dẫn đánh 4 trận với 25 lần/chiếc, 12 lần/chiếc trinh sát, chỉ thị mục tiêu 3 lần/chiếc
yểm hộ khu vực và sẵn sàng cấp cứu, gần 200 chuyến bay chuyên chở gần 800 lượt
cán bộ, chiến sĩ đi công tác, đón hơn 300 thương binh và nhận 60 hài cốt liệt
sĩ về tuyến sau, vận chuyển 10 tấn hàng quân sự. Tháng 2 năm 1987, đội ngũ dẫn
đường trên không Trung đoàn 918 dẫn đánh 3 trận: Trận ngày 16, 3 An-26 đánh vào
mục tiêu nằm ở bình độ 1.000m cạnh điểm cao 1.771 giáp ranh 3 tỉnh Cô Công, Pô
Xát và Kông Pông Chnăng. Trận ngày 21, hai đôi An-26 đánh 2 mục tiêu ở tây bắc
Biển Hồ 30km trong điều kiện trời mù, tầm nhìn rất hạn chế. Trận ngày 22, hai
đôi An-26 đánh tiếp 2 mục tiêu còn lại cũng nằm tại khu vực trên, nhưng trong
điều kiện thời tiết tốt hơn. Tất cả các trận của An-26 đều đánh trúng mục tiêu.
Ngày 7 tháng 5 năm 1987, tổ bay Mi-8: Lái chính Đào Công Tuấn-dẫn đường
trên không Nguyễn Danh Đoan-cơ giới trên không Đặng Xuân Niệm-nguyễn Xuân Toàn
chở Thiếu tướng Khiếu Anh Lân, Tư lệnh Mặt trận 479 đi kiểm tra vị trí đóng
quân của một số đơn vị quân tình nguyện theo đường bay Xiêm Riệp-Chông Can (bắc-tây
bắc Xiêm Riêu 63km)-Xam Rông (bắc-tây bắc Xiêm Riệp 87km) - Xiêm Riệp. Trong
khi giảm độ cao vào hạ cánh ở bãi Chông Can, đến 150m thì bị đạn AK của địch bắn
trúng thùng dầu tiêu thụ và giảm tốc chính. Lái chính bình tĩnh đưa ngay trực
thăng vào trạng thái thật ổn định, vừa vòng cơ động vừa chỉ huy toàn tổ bay xử
lý tình huống. Cơ giới trên không lập tức dùng khăn sạch nút đáy thùng tiêu thụ,
đồng thời dùng xô hứng được 84 lít dầu. Dẫn đường trên không vừa tham gia giữ
trạng thái trực thăng vừa nhanh chóng quan sát phía dưới và tính toán chính xác
số liệu để dẫn bay quay lại Xiêm Riệp với thời gian ngắn nhất. Tổ bay đã cùng
nhau bảo đảm an toàn cho cả người và trực thăng về đến căn cứ.
Theo yêu cầu nhiệm vụ giúp nhân dân Cam-pu-chia bảo vệ thành quả cách
mạng, từ ngày 24 đến 30 tháng 9 năm 1987, lực lượng An-2 của Trung đoàn 918 được
dẫn bay cơ động chuyển sân từ Tân Sơn Nhất sang Pô Chen Tông. Ngày 1 tháng 10
năm 1987, tổ bay An-2 do Phi đội trưởng Nguyễn Văn Canh chỉ huy, từ Pô Chen
Tông lên Xiêm Riệp. Ngày 2 tháng 10, trực thăng Mi-8 của Trung đoàn 917 đưa tổ
chỉ huy bay và tổ bay An-2 đi quan sát khu vực mục tiêu ở phía tây Xiêm Riệp. Tại
đây tàn quân Khơ-me đỏ lập căn cứ gồm 210 nóc nhà cả trong rừng rậm và ở ven hồ.
Các đơn vị bộ binh của ta đã bí mật bao vây cách căn cứ khoảng 5km và sẵn sàng
chờ lệnh tiến công.
5 giờ sáng ngày 4 tháng 10 năm 1987, Tiểu đoàn giang thuyền của ta tiến
vào mục tiêu ở cự ly 10 km. 6 giờ, tổ bay An-2 cất cánh và được dẫn chính xác
theo đường bay: Xiêm Riệp-bát Tam Băng-mục tiêu. Từ độ cao 800 đến 1 000m, Phi
đội trưởng Nguyễn Văn Canh cho An-2 vào bổ nhào và ném hai loạt đạn cối, mỗi loạt
16 quả đều trúng mục tiêu. Sau đó anh vòng ra để nạp thêm 32 quả nữa lên giá cối
và vòng trở lại ném tiếp loạt vào mục tiêu, rồi thoát ly về hạ cánh. Tại căn cứ
Xiêm Riệp lực lượng quân giới đã chờ sẵn và lắp tiếp 64 quả cối lên máy bay. 7
giờ 30 phút, An-2 cất cánh đánh đợt hai theo đường Xiêm Riệp-Cro Lanh (tây bắc
Xiêm Riệp 43km)-mục tiêu. Ngay sau loạt đạn cối cuối cùng của An-2, các đơn vị
bộ binh và Tiểu đoàn giang thuyền nhanh chóng tiến công, tiêu diệt địch và làm
chủ căn cứ.
Đây là trận đầu ra quân của lực lượng An-2 trong nhiệm vụ mới, trên
chiến trường mới, giành thắng lợi giòn giã và lập công xuất sắc. An-2 đã giữ vững
truyền thống đánh thắng địch và phát huy truyền thống đó trong chi viện hỏa lực
rất hiệu quả cho bộ binh. Đội ngũ dẫn đường trên không đã nắm chắc cách đánh của
An-2, thực hiện dẫn bay chính xác, góp phần nâng cao sức mạnh hiệp đồng chiến đấu
giữa không quân và bộ binh.
Tính đến cuối năm 1987, đội ngũ dẫn đường trên không An-2 tham gia dẫn
đánh 16 trận, ném 1.460 quả đạn cối. Ngoài ra, làm nhiệm vụ rải truyền đơn và gọi
loa địch vận cũng đã được dẫn đường trên không An-2 thực hiện rất hiệu quả.
Năm 1984, kế hoạch tổng thể của Quân chủng Không quân về việc thực hiện
nhiệm vụ giúp Quân đội cách mạng Cam-pu-chia xây dựng lực lượng không quân do Bộ
Quốc phòng giao bắt đầu được tổ chức triển khai.
Ngày 16 tháng 8 năm 1984, Quân chủng ra quyết định thành lập Phi đội 2
trực thuộc Trung đoàn không quân 935. Thiếu tá Trần Đình Quang giữ chức Phi đội
trưởng, đại úy Trần Tấn Lực, Phó Phi đội trưởng về chính trị, đại úy Trần Văn Tứ,
Phó Phi đội trưởng huấn luyện và đại úy Đinh Văn Tỉnh, Phó Phi đội trưởng kỹ
thuật. Phi đội có nhiệm vụ trực tiếp giúp bạn xây dựng cơ sở ban đầu cho trung
đoàn không quân tiêm kích. Thành phần của phi đội bao gồm cả phi công, thợ máy
của ta và phi công, thợ máy của bạn. Cuối tháng 9 năm 1984, phi đội tổ chức tiếp
nhận đội ngũ cán bộ, phi công và nhân viên kỹ thuật của bạn đã tốt nghiệp ở các
Trường Hàng không của Liên Xô về. Sau đó Trung đoàn 935 cùng với bạn tổ chức tiếp
nhận máy bay và các phương tiện kỹ thuật bảo đảm do Liên Xô viện trợ cho bạn
chuyển từ Đà Nẵng về Biên Hòa. Phi đội được biên chế 21 chiếc máy bay MiG-21 cả
huấn luyện và chiến đấu. Công tác huấn luyện bay và huấn luyện các mặt bảo đảm
kỹ thuật cho bạn được nhanh chóng triển khai. Tiểu ban Dẫn đường Trung đoàn 935
trực tiếp giúp đội ngũ phi công của bạn chuẩn bị dẫn đường cho các bài bay huấn
luyện và thực hiện dẫn toàn bộ các chuyến bay huấn luyện trong suốt thời gian bạn
chưa có đủ đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy .
Với sự nỗ lực rất lớn của Trung đoàn 935, nhiệm vụ giúp bạn xây dựng
cơ sở ban đầu cho trung đoàn không quân tiêm kích luôn được hoàn thành tốt, đáp
ứng mọi yêu cầu của Quân chủng Không quân và của Sư đoàn 370 đề ra, nhất là về
tiến độ theo thời gian. Sau khỉ có quyết định của nước bạn về việc thành lập
Trung đoàn không quân tiêm kích 701, ngày 8 tháng 4 năm 1988, lễ công bố đã được
tổ chức trọng thể tại khu huấn luyện bay ở Biên Hòa trước sự chứng kiến của
đoàn cán bộ cấp cao hai nước.
Ngày 23 tháng 4 năm 1988, căn cứ vào quyết định của Quân chủng Không
quân, Sư đoàn 370 tổ chức Đoàn chuyên gia không quân do Trung tá Trần Anh Mỹ
làm Đoàn trưởng và nhiều chuyên gia các ngành khác, trong đó có đại úy Đặng Văn
Sinh và đại úy Nguyễn Xuân Khoát là hai chuyên gia dẫn đường không quân. Đoàn
chuyên gia cùng với Trung đoàn 935 tiếp tục giúp. Trung đoàn 701 độc lập công
tác trong tổ chức bay huấn luyện, đào tạo đầy đủ cán bộ chỉ huy bay và phi công
bay trinh sát thời tiết. Gần 20 phi công của trung đoàn bạn đều đạt trình độ
đôi bay đánh mục tiêu trên không và mặt đất trong điều kiện thời tiết giản đơn
ban ngày. Đến tháng 6 năm 1989, Đoàn chuyên gia không quân của ta giúp bạn chuyển
toàn bộ Trung đoàn 701 từ Biên Hòa về Pô Chen Tông. Sau khi hoàn thành tốt nhiệm
vụ được giao, đoàn đã trở về Việt Nam vào tháng 9 năm 1989.
Sau hơn một năm kể từ khi quân tình nguyện Việt Nam ở Cam-pu-chia đã
thực hiện rút toàn bộ lực lượng về trước đến tháng 10 năm 1990, theo yêu cầu của
Bộ Quốc phòng Cam-pu-chia, Bộ Quốc phòng nước ta cử Đoàn chuyên gia không quân
thứ hai sang giúp không quân Cam-pu-chia. Trung tá Nguyễn Khắc Thanh, Phó Tham
mưu trưởng Sư đoàn Không quân 371 được cử làm Đoàn trưởng. Trong Đoàn chuyên
gia không quân lần này có thiếu tá Hoàng Đức Hạnh, phụ trách ban Dẫn đường Sư
đoàn 370 và thượng úy Đinh Khánh Tiến, trợ lý Dẫn đường Trung đoàn 935. Các
chuyên gia dẫn đường của ta vừa giúp bạn bảo đảm bay vừa huấn luyện nâng cao
trình độ cho đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy của bạn.
Cũng nằm trong kế hoạch của Quân chủng giúp bạn xây dựng lực lượng
không quân, năm 1985, Trung đoàn 917 cử hai tổ bay Mi-8 đầu tiên là: lái chính
Vũ Bình Dương-dẫn đường trên không Dương Văn Yên-cơ giới trên không Nguyễn Văn
Tính và lái chính Lê Quang Vinh-dẫn đường trên không Nguyễn Xuân Thuỷ-cơ giới
trên không Nguyễn Anh Tuấn sang Cam-pu-chia làm chuyên gia bay trực thăng cho bạn.
Các thành viên trong hai tổ bay đã thực hiện 26 lượt người trực tiếp hướng dẫn
phương pháp tổ chức huấn luyện bay trực thăng và lên lớp về công tác dẫn bay
Mi-8.
Năm 1987, Trung đoàn 916 cử hai tổ bay Mi-8: lái chính Trần Đình
Long-dẫn đường trên không Phạm Văn Bất-cơ giới trên không Nguyễn Du Lịch và lái
chính Trần Quang Tuấn-dẫn đường trên không Văn Đức Huyên-cơ giới trên không
Nguyễn Quang Minh sang thay hai tổ bay của Trung đoàn 917. Để đáp ứng yêu cầu của
bạn, tháng 4 năm 1988, Trung đoàn 916 cử thêm tổ bay Mi-8 thứ ba: lái chính Trần
Văn Thiếu-dẫn đường trên không Bùi Văn Vanh-cơ giới trên không Nguyễn Văn Soạn
sang tiếp. Từ tháng 1 năm 1990, để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ làm chuyên gia
bay trực thăng, hai tổ bay Mi-8: lái chính Nguyễn Huy Cương-dẫn đường trên
không Phạm Văn Thường-cơ giới trên không Nguyễn Đức Thảo của Trung đoàn 916 và
lái chính Nguyễn Quang Vinh-dẫn đường trên không Nguyễn Thanh Long-cơ giới trên
không Trịnh Năm của trung đoàn 917 được cử sang công tác với thời gian hai năm.
Các chuyên gia dẫn đường trên không: Phạm Văn Bất, Văn Đức Huyên, Bùi Văn Vanh,
Phạm Văn Thường và Nguyễn Thanh Long đã trực tiếp thực hiện huấn luyện dẫn bay
cho các học viên của bạn đã tốt nghiệp Mi-8 ở Liên Xô về Cam-pu-chia năm 1989
và kèm cho bốn tổ bay của bạn chuyển loại từ Mi-8 sang Mi-17 làm được nhiệm vụ
chiến đấu.
Để góp phần xây dựng hoàn chỉnh Trung đoàn không quân 701 của bạn, từ
năm 1986 đến năm 1991, Trường Sĩ quan Chỉ huy-kỹ thuật không quân tiến hành đào
tạo cho bạn 4 khóa sĩ quan dẫn đường sở chỉ huy với tổng số là 18 học viên. Như
vậy, sau khi Trung đoàn 701 trở về Cam- pu-chia, đội ngũ dẫn đường sở chỉ huy của
bạn từng bước thực hiện.độc lập công tác.
Vào thời điểm năm 1988, lực lượng cách mạng Cam-pu chia đã trưởng
thành và đủ mạnh để đảm đương nhiệm vụ bảo vệ đất nước mình. Đảng và Nhà nước
ta chủ trương rút dần đến rút toàn bộ quân tình nguyện Việt Nam về nước.
Tháng 7 năm 1988, Trung đoàn 917 sử dụng 3 Mi-8 và Trung đoàn 918 sử dụng
6 An-26 tổ chức bay vận chuyển Bộ Tư lệnh và một số đơn vị trọng điểm của Mặt
trận 719 từ Phnôm Pênh về thành phố Hồ Chí Minh đúng kế hoạch. Từ ngày 13 đến
ngày 17 tháng 9 năm 1989, lực lượng An-26 và Mi-8 được huy động tham gia nhiệm
vụ rút toàn bộ quân tình nguyện Việt Nam từ Cam-pu-chia về nước, sớm hơn một
năm so với tuyên bố trước đây của Đảng và Nhà nước ta. Trung đoàn 917 và 918 tổ
chức liên tục các chuyến bay để chở quân của Mặt trận 479, Quân khu 5, Quân khu
9, vùng 5 Hải quân và cơ quan Bộ Tổng Tham mưu về nước. Ngày 23 tháng 9 năm
1989, Trung đoàn 917 đưa 6 Mi-8 sang Phnôm Pênh phục vụ cơ quan Bộ Quốc phòng.
Đây là những chuyến bay cuối cùng của không quân ta tham gia nhiệm vụ rút toàn
bộ quân tình nguyện Việt Nam từ Cam-pu-chia về nước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét